Tàu cá Quảng Ngãi ‘bị tàu TQ tấn công’

Tàu cá Quảng Ngãi ‘bị tàu TQ tấn công’

Khu vực quần đảo Hoàng Sa thường xuyên xảy ra các vụ tấn công nhằm vào tàu cá Việt Nam

Một tàu cá Quảng Ngãi mắc cạn ở khu vực quần đảo Hoàng Sa đã bị tàu Trung Quốc “cướp và đập phá”, theo truyền thông trong nước.

Báo điện tử của đài VTC dẫn thông tin từ Trung tâm Tìm kiếm cứu nạn hàng hải khu vực 2 (Dânng MRCC) cho biết hôm 19/3, một tàu cá từ Quảng Ngãi đã bị hỏng máy và mắc cạn khi đang đánh bắt ở khu vực quần đảo Hoàng Sa.

Tin trên báo Dân Trí cho biết vị trí mắc cạn là tại khu vực rạn san hô đảo Duy Mộng, cách TP Đà Nẵng khoảng 210 hải lý về phía Đông.

Tàu cá QNg95431 vào thời điểm đó đang mang theo 10 thuyền viên, Dân Trí cho biết.

Theo tường thuật của báo Dân Trí, trong chiều cùng ngày, khi tàu QNg95431 đang chờ được lai kéo ra khỏi vị trí mắc cạn thì “xuất hiện một tàu nước ngoài đến chặt dây, cướp và phá tài sản”.

Trong khi đó, VTC nêu rõ đây là “tàu Trung Quốc”.

“Một nhóm người đã nhảy lên tàu cắt lưới cụ, cướp đi máy Icom”, VTC cho biết thêm.

Trung tâm Danang MRCC và Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng Quảng Ngãi đã được thông báo về vụ việc và tàu QNg 95431 đã được 2 tàu cá của ngư dân lai dắt khỏi rạn san hô, hai báo trên cho biết.

‘Đập phá, lấy tài sản’

Không có thiệt hại nào về nhân mạng, nhưng các tàu đều bị đập phá, lấy tài sảnÔng Trần Bút, Chủ tịch UBND xã An Vĩnh

Khu vực quần đảo Hoàng Sa là nơi thường xuyên xảy ra các vụ tấn công nhằm vào tàu cá Việt Nam, phần lớn là tàu từ tỉnh Quảng Ngãi.

Hồi tháng Một, Chủ tịch UBND xã An Vĩnh, ông Trần Bút, cho biết ba tàu cá Việt Nam từ huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi đã bị tàu hải giám Trung Quốc tấn công khi đang đánh bắt gần quần đảo Hoàng Sa.

“Không có thiệt hại nào về nhân mạng, nhưng các tàu đều bị đập phá, lấy tài sản”, ông Bút nói.

Nhiều vụ tấn công nhằm vào tàu cá Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa cũng đã xảy ra hồi năm ngoái.

Hồi cuối năm 2014, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi, ông Lê Viết Chữ, được báo trong nước dẫn lời nói “bảy tàu cá, với 72 ngư dân địa phương bị nước ngoài bắt giữ” trong 11 tháng đầu năm.

“Ít nhất 34 tàu và 422 ngư dân bị nước ngoài, chủ yếu là Trung Quốc, ngăn cản, đập phá, tịch thu tài sản trong lúc hành nghề trên biển”, ông nói thêm.

Trong một cuộc phỏng vấn từ trước với BBC, ông Nguyễn Việt Thắng, chủ tịch Hội nghề cá Việt Nam, cho biết các vụ tấn công nhằm vào tàu cá Việt Nam đang có xu hướng “xảy ra ngày càng nhiều trong thời gian gần đây, không chỉ ở Hoàng Sa mà còn gần các khu vực ở Trường Sa đang bị Trung Quốc chiếm”.

xem thêm:

Mắc cạn ở Hoàng Sa, tàu Việt Nam bị Trung Quốc cướp phá (Nguoi-viet.com)

Hé lộ chi tiêu VP Trung ương Đảng

Hé lộ chi tiêu VP Trung ương Đảng

Văn phòng Trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam chi tiêu một năm gần 100 triệu USD, theo một văn bản về công khai ngân sách của Bộ Tài Chính nước này ( xem đường dẫn)

Văn phòng Trung ương Đảng chi tiêu cao hơn hẳn trong bốn Văn phòng gồm cả Văn phòng Chính phủ, Chủ tịch Nước, Quốc hội.

Trong năm 2014, Văn phòng Trung ương Đảng có dự toán 1973 tỷ VND, tương đương 98,6 triệu USD, gấp 10 lần VP Chủ tịch Nước (195.9 tỷ).

Văn phòng Chính phủ có dự toán chi tiêu 1290 tỷ VND.

Tại Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản, số biên chế có mặt năm 2014 là 2895 người và ngoài khoản tiền lương, tiền thưởng, thông tin tuyên truyền, hội nghị, chi đoàn ra, đoàn vào, mua và đầu tư tài sản vô hình còn có nhiều khoản chi khác.

Vẫn văn bản trên của Bộ Tài Chính Việt Nam cho hay Văn phòng Trung ương Đảng năm 2014 đã “chi viện trợ Đảng Nhân dân Cách mạng Lào 14,300 triệu VND”.

Ngoài ra, bốn cơ quan đại diện ở nước ngoài của Văn phòng có dự toán 6,260 triệu đồng.

Nhiều hơn hai Đại học Quốc gia

Tác giả Nguyễn Văn Tuấn có bình luận trên một trang mạng xã hội rằng:

“Trong các ban trực thuộc trung ương đảng, có 3 ban ngốn nhiều tiền nhất: Cục quản trị A (186.9 tỉ đồng), Cục QTTV (112 tỉ đồng), và Ban Tuyên giáo (109.4 tỉ đồng).

“Ngạc nhiên là nhật báo Nhân Dân thậm chí có ngân sách còn cao hơn cả Ban Nội chính. Hội đồng Lý luận cũng ngốn tiền ngân sách gần 31 tỉ đồng năm 2014.”

Vẫn theo bình luận này, Văn phòng TW Đảng chi tiêu cao hơn hai Đại học Quốc gia cộng lại.

“Theo báo cáo 2014, Đại học Quốc gia TP HCM có dự toán là 833 tỉ đồng, cao hơn chút so với Đại học Quốc gia Hà Nội (709 tỉ đồng).

“Nhưng đó là tổng chi, trong đó chi thường xuyên thì ĐHQGHN (548 tỉ đồng) cao hơn ĐHQGHCM (400 tỉ đồng).

“Trong khi đó chỉ riêng Viện KHCN mà ngốn 877 tỉ đồng, cao hơn Viện KHXH (397.6 tỉ đồng).

“Như vậy, dự toán cho VP trung ương đảng cao hơn cả hai đại học quốc gia cộng lại”

Mario Joseph-Một giáo sĩ Hồi giáo cải đạo sang Công giáo

Mario Joseph-Một giáo sĩ Hồi giáo cải đạo sang Công giáo

dongten.net

Là một giáo sĩ Hồi giáo, Mario Joseph thành thạo kinh Koran và trong giáo lý của đạo Hồi. Thực tế, chính kinh Koran đã đưa anh đến một cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu Kitô và với chân lý của đức tin Công giáo. Nhưng cuộc cải đạo của anh không phải dễ dàng, và vì nó mà anh đã trải qua những cuộc bách hại khắc nghiệt Làm thế nào anh đạt được tình yêu mãnh liệt với Thiên Chúa, Giáo Hội, Thập Giá và Thiên đàng?

httpv://www.youtube.com/watch?v=N-78Nwboka0

Mario Joseph

https://www.facebook.com/pages/Mario-Joseph/1524660227763417

SÓNG VÀ BỜ….

SÓNG VÀ BỜ….

Thầy kính mến!

Con đang sống trong tâm tình của mùa chay.  Con đang suy niệm về tình yêu cao cả mà Thầy đã và còn đang ban tặng cho con.  Tình yêu của Thập Tự đã chưa một lần kết thúc, bởi vì tình yêu ấy vẫn còn dở dang.  Tại sao tình yêu ấy vẫn còn dang dở ư?  Cũng bởi vì mối duyên tình sâu thẳm ấy vẫn đang được trao ban từng giây, từng phút trong cuộc sống của con đây.  Một mình lang thang dọc bên bờ biển dài, tâm tư con ngẫm suy về mối tình thiêng liêng cao quý ấy.  Con thấy mình bỗng dưng hạnh phúc dâng trào.

Con ngắm nhìn kỳ công của Đấng Tạo Hoá, con xin thú nhận rằng con chẳng có thể tìm nổi từ ngữ nào để diễn tả hết sự thán phục của con về vẻ đẹp của tạo hóa.  Còn đẹp hơn biết bao nhiêu Người đã tạo ra chúng.  Chưa bao giờ con thấy vốn từ của con lại nghèo nàn như bây giờ.  Nhưng con biết chắc một điều, Chúa tạo nên tất cả  vạn vật cho chúng con được làm chủ.  Một tình yêu cho đi một cách nhưng không.

Con viết vài chữ trên mặt cát trắng.  Có con sóng kia sô bờ, xoá sạch mọi tì vết.  Rồi sóng ra xa, chỉ còn lại một bãi cát trắng tinh tuyền không để lại bất kỳ một dấu tích nào của những gì con vừa viết lên cát.  Con chợt ngộ ra, mối tình giữa Thầy và con cũng như sóng và bờ cát trắng vậy.

Con – Chúa tạo nên con tinh tuyền như bờ cát trắng.  Năm tháng dài, con quên mất mối tình xưa.  Con đeo bám theo những đam mê của xác thịt con.  Con làm cho bờ cát tinh tuyền ấy trở nên ố mờ.  Bờ cát trắng nay đã vẩn đục.

Thầy – như là những ngọn sóng yêu thương vẫn ngày đêm chung thuỷ vỗ về, mời gọi con gội sạch tội đời.  Rồi ngày kia khi con đến bên toà giải tội.  Thầy, như một con sóng lớn ôm trọn lấy, không phải để huỷ diệt nhưng là để thanh tẩy, để ôm lấy con – bờ cát trắng đã uế màu vì tội lỗi.

Thầy yêu mến!  Dù bờ cát trắng như con có bị hoen úa vì tội lỗi, mặc dầu con đã viết lên bờ cát trắng ấy đủ các thứ tội, nhưng tình yêu của Thầy cao cả và bao dung như đại dương đã hoá thân thành những ngọn sóng để ôm lấy, để thanh tẩy, để xoá đi mọi ngăn cách, để mặc lại cho con chiếc áo tình tuyền của thuở ban đầu.  Con xin cảm tạ mối tình sâu thẳm từ muôn thuở ấy.  Xin cho con trong mùa chay này nhận ra rằng tình yêu không bờ bến của Chúa như là những con sóng lớn đang dang rộng để ôm lấy con, để yêu con, để tha thứ tội lỗi con.   Xin ban cho con luôn dìm mình trong bể lớn tình yêu của Thầy.

Gửi Thầy Giêsu yêu mến của lòng con,

Con Dom Stone

Lý Quang Diệu: Nửa thế kỷ gắn bó với vận mạng Singapore

Lý Quang Diệu: Nửa thế kỷ gắn bó với vận mạng Singapore

Nguoi-viet.com

HÀ TƯỜNG CÁT/Người Việt


Lý Quang Diệu, tên đọc theo âm Hán-Việt của Lee Kuan Yew, là chính trị gia có vai trò đưa Singapore từ một tiền đồn chiến lược thuộc Anh ở Viễn Đông trong gần 200 năm, một xứ sở trong hàng các nước thế giới thứ ba, trở thành trung tâm tài chính thương mại quan trọng bậc nhất Á Châu và trên thế giới.


Ông Lý Quang Diệu

Trong hơn nửa thế kỷ từ khi Anh trao trả chủ quyền để Singapore trở nên nước cộng hòa độc lập, Lý Quang Diệu trực tiếp hay gián tiếp nắm giữ quyền lực trong suốt 55 năm. Lý Hiển Long, con trai lớn trong ba người con của ông, là cựu chuẩn tướng quân đội Singapore, bộ trưởng tài chính từ 2004 và Thủ Tướng từ 2011 cho đến nay. Mới đây, ở tuổi 92, với sức khỏe đã suy kém, ông Lý Quang Diệu lâm bệnh nặng và chưa biết còn sống được bao lâu nữa.

Thuộc thế hệ thế tư trong một gia đình di dân, ông cố nội từ tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, đến Singapore năm 1862, Lý Quang Diệu sinh tại Singapore ngày 16 tháng 9 năm 1923, ngôn ngữ chính từ nhỏ là tiếng Anh và hoàn toàn chịu ảnh hưởng văn hóa Anh. Tới năm 20 tuổi ông mới bắt đầu học tiếng Hoa và cùng lúc là tiếng Nhật khi thuộc địa Singapore của Anh bị Nhật chiếm đóng trong Thế Chiến II từ 1942 đến 1945.

Sau chiến tranh, Lý Quang Diệu qua Anh tiếp tục con đường học vấn, với một thời gian ngắn theo học trường Kinh Tế London rồi chuyển sang học luật tại Fitzwilliam College, đại học Cambridge. Năm 1949, ông trở về hành nghề luật sư trong một tổ hợp pháp lý ở Singapore cho tới 1954 cùng một nhóm bạn hữu có giáo dục Anh thành lập Đảng Hành Động Nhân Dân (People’s Action Party – PAP).

PAP là đảng của giai cấp tư sản với những đảng viên thuộc tầng lớp trung lưu, có khuynh hướng xã hội và liên minh với các công đoàn thiên cộng. Liên minh này, theo mô tả của ông Lý, là một cuộc hôn nhân vì lợi. Vào thời kỳ ấy, PAP là đảng của thiểu số 20% dân nói tiếng Anh, trong khi 70% dân chúng Singapore dùng tiếng Hoa và những thổ ngữ khác. PAP cần sự ủng hộ của đại chúng do những người cộng sản chiếm ưu thế và ngược lại đảng cộng sản cần có ban lãnh đạo PAP làm “màn khói” che chở hoạt động vì  Đảng Cộng Sản Mã Lai là đảng bất hợp pháp.

Lúc đó Singapore và Malaya vẫn còn là thuộc địa Anh với một số quyền tự trị. Năm 1955, Lý Quang Diệu đắc cử đại biểu đơn vị Tangjong Pagar, và trở thành nhà lãnh đạo phe đối lập với chính phủ liên hiệp thân Anh của Mặt Trận Lao Động. Tanjong Pagar nằm giữa bến cảng và trung tâm thương mại Singapore là khu có nhiều di dân gốc Hoa hoạt động thương mại hay làm công nhân lao động. Qua thời gian biến đổi, ngày nay Tanjong Pagar trở nên khu du lịch quen biết với Koreatown và Little Korea ở Singapore.

Thời gian này, Lý Quang Diệu gặp nhiều khó khăn với các đối thủ bên ngoài và trong. Năm 1957, những phần tử thân cộng giành được các chức vụ lãnh đạo PAP và vị trí của Lý Quang Diệu bị đe dọa nặng nề. Nhưng may mắn cho ông và những phần tử trung dung, chính phủ Singapore do Lim Hew Hock lãnh đạo, cho lệnh bắt giữ tất cả các thành phần cộng sản và Lý Quang Diệu trở lại làm Tổng Thư Ký PAP.

Trong cuộc bầu cử tháng 5 năm 1959, PAP thắng 43 trong 51 ghế hội đồng đại biểu, một hình thức quốc hội của Singapore tự trị trong Liên Hiệp Anh. Lý Quang Diệu trở thành Thủ Tướng Singapore thay thế Lim Hew Hock.

Sau cuộc trưng cầu dân ý tháng 9 năm 1962 dân chúng Singapore và Malaya muốn chọn độc lập hoàn toàn, Anh Quốc trao trả chủ quyền cho hai lãnh thổ tự trị và Singapore gia nhập Liên Bang Malaysia từ 16 tháng 9 năm 1963.

Sự kết hợp này không lâu dài. Dân chúng Singapore, đa số gốc Hoa chống đối ảnh hưởng văn hóa và tôn giáo Malaya. Những vụ xung đột chủng tộc / tôn giáo bùng nổ và bạo loạn xảy ra trong năm 1964 ở Singapore. Ngược lại chính quyền liên bang ở Kuala Lumpur lo ngại với thành phần đa số người Hoa ở Singapore cũng như những thách thức chính trị của PAP trong Malaya. Không tìm được phương cách giải quyết cuộc khủng hoảng, Thủ Tướng Tunku Abdul Rahman quyết định trục xuất Singapore khỏi Liên Bang Malaysia.

Ngày 7 tháng 8 năm 1965, Lý Quang Diệu ký thỏa ước ly khai trong đó có phác họa mối quan hệ sau này với Malaysia để duy trì sự hợp tác trong những lãnh vực như thương mại và quốc phòng. Singapore trở thành nước cộng hòa độc lập, một đảo quốc nhỏ bé diện tích 700 km2 và dân số chưa tới 4 triệu khi ấy.

Lý Quang Diệu là người đã nỗ lực vận động gia nhập liên bang, viết trong bản thông báo gởi tới dân chúng: “Suốt cuộc đời tôi từ khi trưởng thành, tôi luôn luôn tin tưởng vào sự kết hợp và thống nhất hai vùng lãnh thổ.” Ông tuyên bố: “Kể từ nay Singapore sẽ vĩnh viễn là một quốc gia độc lập, dân chủ với đầy đủ chủ quyền, đặt trên nền tảng những nguyên lý của quyền tự do và công bằng, hầu mưu tìm phúc lợi và hạnh phúc cho nhân dân đang sinh sống trong một xã hội tối hảo, công bằng và bình đẳng.”

Thực tế sau này cho thấy ông không thực hiện đúng những cam kết và hứa hẹn ấy. Ông đã đưa nước Cộng Hòa nhỏ bé Singapore, thực tế chỉ là một thành phố, mau chóng trở nên “Con Hổ Châu Á, một trong những trung tâm thương mại lớn nhất, một trong 5 cảng bận rộn nhất và trung tâm tài chính quan trong hàng thứ tư trên thế giới. Singapore có thu nhập bình quân đầu người cao thứ ba thế giới, hệ thống giáo dục, y tế công cộng, tính minh bạch của chính quyền và khả năng cạnh tranh kinh tế đều đứng vào hạng cao quốc tế.

Nhưng bản thân Thủ Tướng Lý Quang Diệu, chính thức cầm quyền đến năm 1990, bị chỉ trích là một nhà lãnh đạo độc đoán, khống chế đối lập và không tôn trọng những nguyên tắc dân chủ, hạn chế nhân quyền và tự do ngôn luận. Nói cách khác, có thể coi ông thuộc loại “độc tài sáng suốt,” đem lại kết quả tốt đẹp cho người dân, nhưng không thể gọi là nhà lãnh đạo tiêu biểu trong một chế độ dân chủ tự do.

Quan niệm từ trước của ông Lý Quang Diệu, cho đến khi gia nhập Liên Bang Malaya, vẫn tin rằng Singapore không thể đứng đơn độc và kết hợp là yếu tố căn bản cho sư tồn vong. Singapore không có tài nguyên thiên nhiên, không có nguồn nước, thiếu khả năng phòng thủ và tài nguyên duy nhất là con người cùng nỗ lực cần cù làm việc của dân chúng. Có thể ông đã bị đẩy tới hoàn cảnh ngoài ý muốn, nhưng ông đã dần dần tìm được giải pháp và biết khai thác đúng chỗ đúng lúc những điều kiện trong tầm tay để đi đến kết quả tốt đẹp.

Lý Quang Diệu đã ý thức đúng những nhu cầu của Singapore trong thời kỳ độc lập là an ninh quốc gia, phát triển kinh tế và các vấn đề xã hội.

Ngay sau khi Singapore được làm hội viên Liên Hiệp Quốc, Lý Quang Diệu tìm cách mở rộng sự công nhận của quốc tế. Ông tuyên bố chính sách trung lập và đường lối không liên kết. Lực lượng vũ trang Singapore được tổ chức trong chừng mực tối thiểu cần thiết với sự vận động các quốc gia khác trợ giúp trong các lãnh vực trang bị, huấn luyện và tư vấn.

Singapore gia nhập Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN) năm 1967 và tìm cách phát triển quan hệ hữu nghị trước hết với Indonesia từng có những đối đầu trước kia, rồi tới các nước trong khu vực từ Malaysia, Việt Nam tới Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Hàn, Nhật Bản…

Tách rời khỏi Liên Bang Malaysia có nghĩa là Singapore mất thị trường chung và thị trường nội địa, đồng thời các căn cứ quân sự của Anh sẽ  triệt thoái hoàn toàn và phá hủy năm 1975. Lý Quang Diệu đã vận động Anh để chuyển đổi các căn cứ và công xưởng quân sự dùng vào mục đích dân sự. Việc này giúp Singapore có điều kiện tiến dần vào con đường công nghiệp hóa. Chính phủ lập kế hoạch thu hút đầu tư nước ngoài, huấn luyện cho một lực lượng lao động lương thấp nhưng kỷ luật và tay nghề cao. Hệ thống hạ tầng cơ sở, phi trường, hải cảng, đường lộ, mạng lưới thông tin được phát triển cùng với nhiều kế hoạch kinh tế khác đã làm thay đổi hoàn toàn tình trạng Singapore. Thủ Tướng Lý Quang Diệu cũng có được nhiều phụ tá giỏi và những bộ trưởng tài năng như Goh Keng Swe và Hon Sui Sen, những người giúp nhiều cho việc hạ thấp tỷ lệ thất nghiệp và những chương trình xã hội khác.

Qua 25 năm lãnh đạo một nước cộng hòa độc lập, ở chức vụ Thủ Tướng, và sau đó 14 năm ở cương vị Bộ Trưởng Cao Cấp, Lý Quang Diệu kiến tạo Singapore thành một đất nước hoàn toàn mới, một xã hội đứng ngang hàng các quốc gia văn minh tiên tiến trên thế giới. Singapore nổi tiếng là thành phố đẹp, sạch, đầy đủ tiện nghi sinh hoạt, hệ thống giao thông hiện đại.

Nhưng vị trí địa dư của Singapore vừa là thuận lợi cho sự phát triển vừa là điều kiện đưa tới nhiều khó khăn phức tạp như buôn lậu, ma túy, hải tặc. Thủ Tướng Lý Quang Diệu cũng nổi tiếng về việc cho áp dụng luật pháp khắt khe và đôi khi vượt nguyên tắc của các chế độ dân chủ như bãi bỏ bồi thẩm đoàn ở tòa án trong một số trường hợp xét xử.

Một số những chỉ trích cho rằng Lý Quang Diệu là người dành đặc quyền lãnh đạo đất nước cho giới thượng lưu ưu tú. Ông cũng bị chỉ trích về thủ đoạn đàn áp đối lập và ngăn chặn tự do ngôn luận theo đó ông dùng con đường khởi kiện đưa đối thủ hay người chống đối ra tòa cho đến khi họ phá sản hay tiêu tan sự nghiệp và như thế chẳng khác gì thủ tiêu các quyền con người được Liên Hiệp Quốc quy định.

Ông cũng bị tố cáo là có chủ trương gia đình trị. Đây là chuyện có thể tranh cãi lâu dài không dứt vì như ông giải thích, những người trong gia đình ông nếu có đạt tới chức vụ cao là do khả năng cá nhân và nỗ lực bản thân. Những tố cáo này căn cứ trên thực tế, con trai trưởng của ông làm Thủ Tướng từ 2011, và từng là Phó chủ tịch ủy ban quản trị đầu tư Singapore (ông là chủ tịch). Người con trái thứ cũng là một cựu chuẩn tướng, hiện làm chủ tịch – tổng giám đốc tập đoàn truyền thông xuyên Á Sing Tel., công ty được liệt kê là lớn nhất trên thị trường chứng khoán Singapore. Bà vợ của ông cũng có liên hệ đến những công ty tài chính quốc doanh nắm quyền kiểm soát nhiều công ty quan trọng như Singapore Airlines và Ngân Hàng DBS.

Dù có những tranh luận như thế, không ai có thể phủ nhận ông Lý Quang Diệu có vai trò của người lập quốc Singapore, đã có công đưa nước cộng hòa nhỏ bé này lên vị trí thượng đẳng  trên thế giới, và toàn thể câu chuyện ấy là bài học đáng suy ngẫm cho nhiều nước khác ở Á Châu. (HC)

Phim Công Giáo: Ông Thánh bất đắc dĩ – The Reluctant Saint

Phim Công Giáo: Ông Thánh bất đắc dĩ – The Reluctant Saint

httpv://www.youtube.com/watch?v=lofs3VVXN2o&feature=youtu.be

Phim Ông Thánh bất đắc dĩ, là câu chuyện kể về một nhân vật khả năng bình thường, nếu không nói là tầm thường, nhưng được Chúa can thiệp cách kỳ diệu, đó là thánh Giuse Cupertino.

Ngay từ lúc nhỏ, Giuse đã ưa thích cầu nguyện. Sau một thời gian sống với các tu sĩ dòng Capuchin, ngài gia nhập dòng Phanxicô, ngành Conventual.

Sau một thời gian ngắn trông coi lừa cho nhà dòng, Giuse được đi học để làm linh mục. Mặc dù việc học đối với ngài thật khó khăn, nhưng Giuse đã hiểu biết nhiều qua sự cầu nguyện. Ngài được thụ phong linh mục năm 1628.

Thánh Giuse Cupertino nổi tiếng với ơn bay bổng khi cầu nguyện. Trong cuộc điều tra để lập hồ sơ suy tôn hiển thánh năm 1767, người ta ghi nhận có đến 70 lần ngài bay bổng

ĐỪNG QUÊN CÁM ƠN !

ĐỪNG QUÊN CÁM ƠN !

Trích EPHATA 643

1. Một vị tổng thống hỏi bà cụ sống 104 tuổi về bí quyết sống lâu. Bà trả lời: một là dí dỏm, hai là học biết cám ơn. Lấy chồng từ năm 25 tuổi, ngày nào bà cũng nói nhiều nhất là hai chữ “cám ơn”. Bà cám ơn chồng, cám ơn bố mẹ, cám ơn con cái, cám ơn hàng xóm láng giềng, cám ơn mọi sự quan tâm săn sóc dành cho bà, cám ơn từng ngày sống yên lành, ấm cúng và vui vẻ.

Mọi lời nói thân thiết của người khác đối với bà, mọi việc làm bình thường nhỏ nhoi dành cho bà, mọi nét mặt tươi cười hỏi thăm bà, bà đều không quên nói hai tiếng “cám ơn”. Mọi người không những không ngán đối với vô số lần cám ơn hàng ngày của bà, trái lại càng gần gũi thương yêu bà, thường cảm thấy nếu mình không thương yêu bà hơn nữa, sẽ có lỗi với từng lời “cám ơn” của bà…

80 năm đã trôi qua, hai tiếng “cám ơn” khiến bà vui vẻ lâu dài, hạnh phúc lâu dài, mạng sống lâu dài, “cám ơn” có bao nhiêu, tình yêu có bấy nhiêu. Tình yêu có ngần nào, “cám ơn” có ngần nấy.

2. Một lần đi xe buýt về nhà, trước mắt tôi có một cô bé 7,8 tuổi, lưng đeo cặp sách, hình như vừa tan học. Khi lên xe em bước không vững suýt nữa ngã. Tôi vội vàng đỡ em một tay. Vừa đứng vững em giơ tay ra hiệu, không biết em định nói gì với mình. Thấy tôi không hiểu em rất bối rối.

Ngồi được một bến, tôi sắp sửa xuống xe, cô bé vội vàng chạy đến nhét vào tay tôi một mẩu giấy. Tôi cứ tưởng có chuyện gì, ai ngờ xuống xe nhìn mẩu giấy, chỉ thấy một dòng chữ xiêu vẹo “cám ơn, cám ơn chú !” Thì ra em bị câm điếc. Không hiểu sao trái tim tôi bỗng trào lên một tình cảm nóng bỏng không sao miêu tả nổi.

3. Ở một thành phố nọ, có cậu bé 14, 15 tuổi, vì lấy cắp một quyển sách của một hiệu sách, bị bảo vệ bắt quả tang. Bảo vệ quát mắng khiến cậu vô vùng xấu hổ. Những người khác cũng nhìn cậu với ánh mắt khinh bỉ. Bảo vệ cứ đòi cậu gọi bố mẹ hay thầy giáo nhà trường đến nhận người. Cậu bé sợ co dúm người, nét mặt xám ngoét. Lúc này có một phụ nữ đứng tuổi rẽ đám đông vây xem, xông vào bênh vực cậu bé đang hoảng sợ: “Đừng đối xử với trẻ em như thế. Tôi là mẹ của cháu !”

Dưới con mắt khác thường của đám đông, người phụ nữ nộp tiền phạt cho cậu và dắt cậu ra khỏi hiệu sách, khe khẽ giục: “Mau về nhà đi con, từ nay trở đi đừng bao giờ lấy trộm sách nữa !”

Mấy năm đã trôi qua. Cậu bé luôn luôn nhớ ơn người phụ nữ đứng tuổi không quen biết, luôn luôn hối hận đã không nói trước mặt bà hai tiếng cám ơn. Nếu không có bà, đường đời cậu có thể sẽ rẽ sang một lối khác. Sau khi thi đậu Đại Học, cậu sinh viên đã thề nhất định tìm ra bà. Nhưng biển người mênh mông biết tìm bà ở đâu ?

Thế là hàng năm, lợi dụng kỳ nghỉ hè nghỉ đông, ngày nào cậu cũng đến gần hiệu sách chờ nửa tiếng đồng hồ, hy vọng tìm được người phụ nữ đứng tuổi. Việc làm này hết sức mong manh, nhưng mưa gió không cản trở được cậu, cậu vẫn luôn không nao núng. Bởi vì cậu không bao giờ quên khuôn mặt hiền từ của bà.

Cứ thế, cậu sinh viên đứng chờ trong hai năm, cuối cùng đã tìm được bà, nói hai tiếng “cám ơn” ôm ấp trong lòng bấy lâu nay…

4. Có một truyền thuyết kể rằng: Có hai người cùng đi gặp Thượng Đế hỏi lối đi lên Thiên Đường. Thấy hai người đói lả, Thượng Đế cho mỗi người một suất cơm. Một người nhận suất cơm, cảm động lắm, cứ cám ơn, cám ơn rối rít. Còn người kia nhận suất ăn, không hề động lòng, cứ làm như cho anh ta mới phải. Về sau, Thượng Đế chỉ cho người nói “cám ơn” lên Thiên Đường. Còn người kia bị từ chối, đứng ngoài cổng.

Kẻ bị từ chối đứng ngoài cổng không phục: “Chẳng lẽ chỉ vì tôi quên nói cám ơn ?” Thượng Đế trả lời: “Không phải quên. Không có lòng cám ơn, không nói ra được lời cám ơn. Người không biết cám ơn, không biết yêu người khác, cũng không được người khác yêu.

Anh chàng kia vẫn không phục: “Vậy nói thiếu mất hai chữ cám ơn cũng không thể chênh lệch đến thế ? Thượng Đế đáp: “Biết làm thế nào được, bởi vì lối lên Thiên Đường rải bằng lòng cám ơn. Cửa lên Thiên Đường chỉ có dùng lòng cám ơn mới mở được. Còn địa ngục thì khỏi cần !”

KHUYẾT DANH

ÔNG BỐ QUYẾT KHÔNG TỪ BỎ CON TRAI BỆNH DOWN MẶC CHO VỢ LY HÔN

ÔNG BỐ QUYẾT KHÔNG TỪ BỎ
CON TRAI BỆNH DOWN MẶC CHO VỢ LY HÔN

Trích EPHATA 643

Ngày 21.1.2015, tại một bệnh viện ở Armenia, con trai đầu lòng Leo của ông bố người New Zealand chào đời. Niềm hạnh phúc làm cha chưa được trọn vẹn, Samuel sửng sốt nhận tối hậu thư của vợ là Ruzan Badalyan bắt buộc anh phải chọn lựa hoặc con trai hoặc vợ.

Người phụ nữ sống cùng anh hơn một năm qua đã thẳng thừng đòi bỏ rơi Leo ngay sau khi bé ra đời. Đứa trẻ mắc hội chứng Down. Theo tờ Newstral, người mẹ này từ chối nhìn hay thậm chí chạm vào đứa trẻ mình mang nặng đẻ đau, bởi trong văn hóa Armenia, đứa trẻ như Leo là sự hổ thẹn cho cả gia đình.

Trái ngược với thái độ kỳ thị ấy, ông bố Samuel quyết định bằng mọi giá phải nuôi nấng con trai mình. Điều ấy đồng nghĩa với lá đơn ly hôn của người vợ và rất nhiều khó khăn phải đối diện khi làm bố đơn thân nuôi con khuyết tật.

Samuel vẫn nhớ như in buổi tối bé trai Leo ra đời. Các bác sĩ không cho phép anh được gặp vợ hay con trai mình ngay lập tức. “Các bác sĩ bước ra khỏi phòng hộ sinh với một cái bọc nhỏ trên tay. Trong đó gương mặt thằng bé bị che lại và các nhân viên không cho tôi gặp vợ hay con trai”, Samuel kể lại. Lời nói của bác sĩ khi ấy rằng “con trai anh thật sự có vấn đề” là điều khiến ông bố trẻ lo sợ.

Sự thật cuối cùng cũng sáng tỏ, Samuel biết con trai mắc phải hội chứng Down. Anh sốc và đau đớn khi nhận tin xấu từ bác sĩ nhưng ý nghĩ từ bỏ con tuyệt nhiên chưa một lần hiện lên trong tâm trí anh. “Cuối cùng, họ cũng cho tôi vào thăm thằng bé. Tôi nhìn chàng trai nhỏ, nói rằng nó thật đáng yêu và hoàn hảo. Tôi chắc chắn sẽ nuôi bé”, Samuel nhớ lại giây phút gặp con trai lần đầu tiên trong đời.

Samuel hoàn toàn không hay biết thiên thần nhỏ của anh đã bị chính mẹ đẻ lạnh lùng chối bỏ và mọi việc diễn ra âm thầm sau lưng anh. Khi Samuel bế con trai tới thăm vợ, cô dọa sẽ ly hôn nếu anh giữ lại đứa bé. Bất ngờ trước phản ứng của vợ, Samuel vẫn đi theo lời mách bảo của tình phụ tử thiêng liêng. Cô vợ đệ đơn ly hôn một tuần sau đó.

Đối diện với nhiều khó khăn tài chính của một người hành nghề tự do trong ngành kinh doanh, Samuel đang nỗ lực tìm kiếm sự giúp đỡ để rời Armenia và trở về quê hương New Zealand nuôi nấng con trai khuyết tật. Cảm động trước tình cảm anh dành cho con trai nhỏ bất hạnh, nhiều nhà hảo tâm đã quyên góp giúp đỡ hai cha con trong hành trình về nhà xây cuộc sống mới.

Trang gây quỹ mang tên “Mang Leo về nhà” do Samuel lập ra đã nhận được hơn 100.000 USD trong 24 giờ. Ông bố hoàn toàn bất ngờ trước sự giúp đỡ nhiệt tình từ nhiều người xa lạ.

“Leo và tôi thấy mình đã vượt mục tiêu nhanh chóng. Bé thật may mắn khi nhận được sự quan tâm của hàng nghìn bạn bè trên toàn thế giới”, ông bố bày tỏ sự cảm ơn tới những người ủng hộ mình từ khắp mọi nơi.

Số tiền quyên góp sẽ được sử dụng để tìm một ngôi nhà ở Auckland và cho Leo cơ hội đến trường. Samuel cũng dự định sử dụng một phần trong quỹ để ủng hộ cho trẻ em khuyết tật ở Armenia.

Theo dailymail.co.uk

EM NGƯƠI ĐÂU ?

EM NGƯƠI ĐÂU ?

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

Trích EPHATA 643

Trong những ngày qua, tình hình xã hội chúng ta càng thêm u ám bởi nhiều vụ đánh nhau giữa các học sinh các lớp trung học, các vụ đánh nhau này nhanh chóng được đưa lên mạng xã hội gây ra nhiều băn khoăn chua xót trong dân chúng.

Có một clip nữ sinh dùng ghế đánh bạn được đăng tải trên mạng xã hội vào tháng 4 năm 2013. Vụ việc xảy ra vào đầu giờ học ở một trường Trung Học Phổ Thông thuộc huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Họ đánh nhau trước sự chứng kiến của bạn bè, chỉ có tiếng reo hò cổ vũ chứ tuyệt nhiên không có một ai can ngăn.

Ngày 1.4.2014, clip ghi lại cảnh hai nhóm học sinh đánh nhau giữa đường, thậm chí nữ sinh còn quá quyắt đến mức lột nội y của nhau.

Một nhóm nữ sinh đánh nhau trong lớp tại một trường Trung Học Cơ Sở huyện Cẩm Mỹ, tỉnh Đồng Nai, tất cả được đăng tải trên mạng xã hội vào tối 21.4.2014. Cảnh đánh nhau diễn ra trong tiếng hò reo, vỗ tay lẫn chửi thề của các bạn. Có tiếng la lớn đòi hai bạn nữ phải xé áo cô gái nạn nhân.

Clip đăng trên mạng xã hội ngày 6.10.2014 ghi lại cảnh một nữ sinh trường Trung Học Cơ Sở Bình Tấn, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp, đánh bạn dã man chỉ vì “thích thì đánh, nhìn mặt thấy ghét”.

Hai nữ sinh trường Trung Học Phổ Thông Bãi Cháy và Trung Học Phổ Thông Nguyễn Bỉnh Khiêm tỉnh Quảng Ninh, gặp nhau để giải quyết mâu thuẫn. Sau cãi vã trước cổng trường Bãi Cháy, nhóm này kéo đến một khu vực khác để đánh nhau, lột nội y của nhau.

Clip “Học sinh lớp 7 đánh nhau” đăng tải mới đây nhất ngày 10.3.2015. Nữ sinh nạn nhân tên P., trường Trung Học Cơ Sở Lý Tự Trọng, thành phố Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh. Đánh em là nhóm bạn cùng lớp, cầm đầu là lớp trưởng. Trong clip, nạn nhân khóc nức nở khi bị nhóm bạn đánh tới tấp, cầm ghế nhựa đập vào đầu. Đoạn cuối ghi lại cảnh một nam sinh cầm chồng ghế nhựa ném luôn vào người nạn nhân. Không một ai ngăn cản. Xung quanh chỉ có tiếng la hét, cổ vũ. Cô bé này bị đánh đơn giản chỉ vì không nghe lời lớp trưởng ra lệnh phải đánh một bạn khác…

Trên đây là một số ghi nhận qua báo chí hoặc mạng xã hội, hẳn rằng còn nhiều vụ việc khác đã không được ghi lại hoặc không tung lên mạng.

Bài Tin Mừng ngày thứ ba tuần thứ 4 Mùa Chay theo Thánh Gioan ( Ga 5, 1 tt ) kể lại việc Chúa Giêsu lên Giêrusalem, Ngài đến Cửa Chiên, vào khu vực có cái hồ chung quanh là 5 hành lang rộng, Tin Mừng diễn tả người què quặt, đui mù, ốm đau, nằm la liệt ở các hành lang bên bờ hồ. Chúa Giêsu tiến vào giữa một nhân loại khổ đau quằn quại, Ngài không trốn chạy, không bưng tai bịt mắt, không phớt lờ vô cảm, không dửng dưng lãnh đạm, không tìm đường khác mà lánh đi. Ngài cúi xuống trên kẻ liệt lào, nói lời an ủi, tuyên bố chữa lành, phục hồi sự sống.

Chắc chắn rằng chúng ta đã được sai đến một thứ Cửa Chiên như vậy. Sứ mạng của chúng ta là phải tiếp nối điều Chúa đã thực hiện bằng chính Lời của Chúa. “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” ( Ga 10, 10 ). Chúa cần chúng ta công bố Lời của Người để chữa lành chính xã hội của chúng ta hôm nay. Chúng ta không được phép tránh né, phớt lờ, dửng dưng hoặc vô cảm.

Mỗi người chúng ta, mỗi gia đình chúng ta, mỗi cộng đoàn của chúng ta có nhận ra ơn gọi của mình hay không ? Chỉ kêu ca hay chỉ phản kháng thì không giải quyết được vấn đề, tò mò và loan truyền thông tin chỉ làm tăng thêm kích động xã hội. Hãy dội nước Lời Chúa ngay trên căn nhà của mình khi đám cháy đã bùng lên ở nhà bên cạnh để ngăn cơn “cháy nhà” lan đến gia đình chúng ta, rồi từ nhà mình, chúng ta giúp sức cứu các nhà khác tránh khỏi đám cháy hung bạo.

Qua các thông tin hang ngày, xã hội của chúng ta đang rất nguy cấp, hơn lúc nào hết, sứ mạng người Kitô hữu thúc giục chúng ta thi hành sứ mạng chữa lành mà Chúa đã ủy thác. Đừng để câu hỏi “Em ngươi đâu ?” trở nên án phạt cho chúng ta. ( “Em người đâu ?” là một câu Kinh Thánh trong sách Sáng Thế được triển khai trong Sứ Điệp Mùa Chay của Đức Thánh Cha Phanxicô ).

Lm. VĨNH SANG, DCCT,

17.3.2015

Cảm nếm huyền nhiệm

Cảm nếm huyền nhiệm

Scott Peck

Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

Chuacuuthe.com

– Tin nổi bật, Chuyên Đề

VRNs (21.03.2015) – Sài Gòn – Tôi có một vị thầy rất đắc lực trong nhiều năm nay. Tôi chưa bao giờ gặp ông, vì ông đến với tôi trong … một câu chuyện rất dễ thương. Ông là một rabbi sống tại một thị trấn nhỏ ở Nga hồi đầu thế kỷ trước. Và sau hai mươi năm trầm tư suy nghĩ về những vấn nạn tôn giáo sâu xa nhất, những vấn đề thuộc chiều kích tâm linh trong cuộc sống, ông cuối cùng đi đến kết luận rằng ông thực sự chẳng biết gì.

150314009

Lần nọ, ít lâu sau khi đạt tới kết luận ấy, ông rảo bước qua quảng trường thị trấn để đi đến hội đường cho buổi cầu nguyện thường lệ. Trên đường đi, ông gặp anh chàng công an khu vực. Anh công an này hôm ấy hình như có chuyện bực mình, muốn ‘xả xú bắp’ cho ông: “Ê, rabbi! Đi đâu vậy?”

“Tôi không biết.” Rabbi trả lời.

“Ông không biết ông đang đi đâu! Thế nghĩa là thế nào?” – Người công an cáu lên. Hắn tiếp tục hò hét: “Ngày nào ông cũng đi ngang qua đây lúc 11 giờ để đến hội đường cầu nguyện; bây giờ là 11 giờ, và ông vẫn đang đi ngang qua đây như mọi bữa! Thế mà ông nói với tôi rằng ông không biết ông đang đi đâu! Ông dám xem thường tôi và giỡn mặt tôi? Được, tôi sẽ dạy cho ông biết lễ độ.”

Thế là người công an tóm lấy rabbi, lôi rabbi đến trại giam địa phương. Đến cửa xà lim, rabbi quay lại nhìn anh công an và điềm nhiên nói: “Anh thấy đó, chính anh cũng không biết; chẳng riêng gì tôi!”

Thế đấy, tôi không biết. Không ai biết. Chúng ta đang sống trong một vũ trụ vô cùng huyền nhiệm. Nói theo cách nói của Thomas Edison: “Chúng ta thậm chí không hiểu một phần trăm về chín mươi chín phần trăm của bất cứ sự việc gì” (We don’t even begin to understand 1 percent about ninety-nine percent of anything).

Thật không may, rất ít người nhận ra điều đó. Đa số trong chúng ta đều nghĩ rằng mình biết nhiều thứ. Chúng ta biết địa chỉ của mình, số điện thoại của mình, số căn cước của mình. Chúng ta biết đường để lái xe đến sở, chúng ta biết đường về nhà sau khi tan sở. Chúng ta biết rằng trong xe của chúng ta có một cái gì đó gọi là máy nổ – làm cho chiếc xe vận hành. Và chúng ta biết rằng khi mình mở khóa khởi động thì cái máy ấy sẽ bắt đầu làm việc. Chúng ta biết mặt trời đã mọc lên hồi sáng nay và sẽ lặn xuống chiều nay – và nó sẽ mọc lại vào sáng ngày mai. Vậy thì, có chi là quá huyền nhiệm đâu?

Tôi cũng vốn thường cảm thấy như thế. Hồi tôi còn học ở trường y, tôi thường tiếc rẻ rằng chẳng còn có biên giới nào nữa trong y học. Tất cả các bệnh lớn đều đã được khám phá và được nắm rõ; dường như rõ ràng là tôi sẽ chẳng bao giờ trở thành một Jonas Salk để miệt mài làm việc đến quên ăn quên ngủ nhằm thực hiện những khám phá vĩ đại phục vụ cho nhân loại.

Ơ kìa, có vài chuyện mà chúng tôi nhận thấy rằng mình không biết đấy chứ! Vào học năm thứ nhất được vài tháng, bọn sinh viên chúng tôi tham dự một buổi thực hành do vị chủ tịch khoa thần kinh phụ trách. Sử dụng một người đàn ông gần như trần truồng làm vật mẫu trong giảng đường chen chúc sinh viên, vị chủ tịch khoa giới thiệu rành mạch cho chúng tôi thấy người đàn ông ấy đã chịu đựng một thương tổn trong tiểu não, một thương tổn khác ở mút trên cột sống, và một thương tổn khác nữa ở mút dưới. Thật hết sức ấn tượng! Nhưng khi kết thúc buổi học, một trong các bạn tôi đã giơ tay xin phát biểu và nói: “Thưa thầy, tại sao người đàn ông này phải bị những thương tổn như vậy? Có gì không ổn ở ông ta?” Vị chủ tịch khoa thần kinh khẽ nhíu trán, tuyên bố: “Bệnh nhân này bị idiopathic neuropathy.” Tất cả chúng tôi trở về phòng, lật sách giáo khoa để tra lại thuật ngữ ấy và thấy rằng idiopathic có nghĩa: “có nguyên nhân không được rõ”. Vậy, idiopathic neuropathy không có nghĩa gì hơn là một căn bệnh thuộc hệ thần kinh mà nguyên nhân của nó chưa được khám phá!

Vì thế, chúng tôi bắt đầu nhìn nhận rằng vẫn còn có những bệnh thần kinh và nhiều bệnh khác có tính idiopathic – chúng ta chưa nắm rõ – đấy chứ! Nhưng tất cả những vấn đề lớn thì đều đã được biết! Suốt những năm ở trường y, tôi thường có những thắc mắc, nhưng các giáo sư của tôi đã giải đáp tuốt tuồn tuột! Tôi không bao giờ nghe một vị giáo sư nào trong trường y nói “Tôi không biết!” Không phải lúc nào tôi cũng hiểu các câu trả lời của họ, nhưng tôi cho rằng đấy là do lỗi của mình – và một điều chắc chắn rằng với đầu óc bé nhỏ của mình, tôi sẽ chẳng bao giờ thực hiện được một khám phá y học nào đáng kể.

Nhưng khoảng 10 năm sau khi rời trường y, tôi đã có một khám phá y học đáng kể. Tôi khám phá ra rằng: Chúng ta xem ra chẳng biết gì mấy về y khoa. Tôi khám phá điều đó bởi vì tôi không còn hỏi “chúng ta biết gì?”; thay vào đó, tôi hỏi “chúng ta không biết gì?” Vừa khi đặt câu hỏi “chúng ta không biết gì?”, tôi chợt thấy tất cả những biên giới mà mình vốn tưởng đã đóng kín lại mở ra. Và tôi nhận ra rằng chúng ta đang sống trong một thế giới của những biên giới.

Tôi xin dẫn ra đây một ví dụ. Một trong những chứng bệnh được ‘nắm’ rất rõ là bệnh viêm màng não (meningococcal meningitis), một thứ bệnh không phổ biến lắm song rất hay được nhắc đến. Mỗi mùa đông, cứ 50 ngàn người thì có một người nhiễm chứng bệnh này. Nếu bạn hỏi bất cứ y sĩ nào về nguyên nhân của chứng bệnh này, y sĩ sẽ trả lời bạn: “Nguyên nhân hả? Dĩ nhiên do khuẩn màng não.” Xét trên một bình diện nào đó thì câu trả lời ấy hoàn toàn đúng, vì nếu bạn khám nghiệm tử thi những người chết do căn bệnh ghê gớm này – (số tử vong là 50%, trong khi 25% bị thương tật vĩnh viễn!) – và mở hộp sọ của họ ra, bạn sẽ thấy các màng nhầy bao bọc não bị phủ đầy những mủ. Rồi, nếu bạn xem xét những mủ ấy qua ống kính hiển vi, bạn sẽ nhìn thấy hàng tỉ tỉ con giòi đang bơi lội dày đặc. Bây giờ nếu bạn trích chúng ra, bạn sẽ thấy gì? Khuẩn màng não, dĩ nhiên!

Chỉ có một điều lấn cấn. Nếu mùa đông rồi tôi xét nghiệm cuống họng các cư dân tại thị trấn New Preston nhỏ bé của tôi ở Connecticut – hay cư dân của bất cứ một thành phố nào đó phía bắc – tôi sẽ khám phá thấy những con giòi này nơi khoảng 85% số các cuống họng mà tôi khảo sát. Tuy nhiên, không ai ở Preston đã nhiễm bệnh, càng không ai đã chết do bệnh viêm màng hồi mùa đông rồi. Bao thế hệ trước đây cũng vậy, và những thế hệ sau này chắc hẳn cũng vậy!

Bằng cách nào và tại sao loại vi trùng này – hầu như có mặt khắp mọi nơi chốn – có thể tồn tại nơi 49.999 người mà không gây sự cố gì, mà chỉ có thể đi vào trong não của một người (thường là trẻ khỏe trước đó) để gây tử vong cho người đó?

Câu trả lời là: Chúng ta không biết!

Điều tương tự cũng đúng với hầu như mọi thứ bệnh khác trên đời này. Chúng ta hãy lấy ví dụ về một căn bệnh nổi tiếng khác phổ biến hơn nhiều so với bệnh viêm màng não nói trên, đó là bệnh ung thư phổi. Tất cả chúng ta đều biết rằng việc hút thuốc lá gây ra bệnh ung thư phổi. Tuy nhiên có một số người không bao giờ đụng đến một điếu thuốc nhưng vẫn bị ung thư phổi và chết vì căn bệnh này. Và có một số người – như ông nội tôi – đã hút thuốc rất nhiều và hút gần như suốt cả cuộc đời 92 tuổi của cụ, nhưng cụ đã không bao giờ bị ung thư phổi. Thật rõ ràng, có một cái gì đó nữa ngoài việc hút thuốc lá có liên quan đến nguyên nhân của căn bệnh ung thư phổi. Và đó là cái gì? Một lần nữa, câu trả lời là: Chúng ta thường không biết!

Điều này xảy ra không chỉ cho hầu như mọi chứng bệnh mà còn cho cả việc điều trị các chứng bệnh nữa. Thỉnh thoảng các thân chủ mà tôi đã kê toa trị liệu hỏi tôi: “Thưa Bác Sĩ Peck, những thuốc ấy sẽ tác dụng như thế nào?” Tôi sẽ bảo họ rằng nó điều hợp sự quân bìnhcatecholamine trong hệ limbic của não họ. Và câu trả lời ấy sẽ làm cho họ ngẩn tò te, ngậm tăm luôn! Nhưng, một cách chính xác, bằng cách nào một hóa chất nào đó có thể thay thế cho sự cân bằng catecholaminetrong hệ limbic của não để làm cho một người bị suy sụp cảm thấy hưng phấn hơn, hay làm cho một người bị tâm thần phân liệt có thể suy nghĩ cách mạch lạc rõ ràng hơn? Câu trả lời là: Chúng ta không biết!

Bạn có thể ghi nhận rằng đã có thời các bác sĩ không biết gì nhiều lắm. Nhưng những người khác thì biết nhiều, phải không? Tôi có ý nói rằng y khoa có thể là một cái gì đó thuộc nghệ thuật, nhưng các khoa học chặt chẽ – chẳng hạn vật lý học – đã có tất cả các qui luật nghiêm ngặt của nó.

Vật lý học hiện đại có thể nói đã bắt đầu với Isaac Newton; và khi quả táo ấy rơi trên đầu ông, ông không chỉ khám phá trọng lực mà thực tế ông còn phát triển một công thức toán học cho nó. Vì thế, bây giờ mọi người đều biết rằng hai vật thể hút nhau với một lực tỉ lệ thuận với khối lượng của chúng và tỉ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng. Qui luật ấy xem ra thật hiển nhiên.

Nhưng tại sao? Tại sao hai vật thể hút nhau? Tại sao lại có cái lực đó? Lực đó bao gồm những gì? Và câu trả lời là: Chúng ta không biết. Công thức toán học của Newton chỉ mô tả hiện tượng, nhưng tại sao lại có hiện tượng ấy và hiện tượng ấy vận hành như thế nào? Chúng ta không biết. Trong thời đại kỹ thuật tân kỳ của chúng ta, chúng ta vẫn thậm chí không hiểu cái gì đang giữ đôi bàn chân chúng ta trên mặt đất. Vì thế, cả đối với các khoa học chặt chẽ, chúng ta cũng chưa nắm biết gì nhiều lắm.

Nhưng chắc chắn một ai đó phải biết một cái gì đó. Tôi đã nói rằng toán học rất có tính chắc chắn hiển nhiên. Các nhà toán học phải biết được sự thật. Hồi ở trường, tất cả chúng ta đều học chân lý vĩ đại rằng hai đường thẳng song song không bao giờ gặp nhau. Nhưng rồi, đến khi tôi học năm thứ tư đại học, ngày nọ đang rảo bước xuống sân, tôi chợt nghe một ai đó đề cập một cái gì đó về hình học Riemann. Sau đó tôi tra cứu và phát hiện ra rằng Bernhard là một nhà toán học người Đức, hồi giữa thế kỷ 19 ông đã tự hỏi: “Nhưng nếu hai đường thẳng song song gặp nhau thì sao?” Dựa theo giả thiết rằng hai đường thẳng song song gặp nhau, và một số giả định khác mà ông tạo ra trong các định đề Euclid, ông đã phát triển một khoa hình học hoàn toàn mới. Điều đó có thể chỉ là một hoạt động thuần túy tri thức hay một hình thức chơi đùa, một loại tính toán kiểu như tính thử có thể có bao nhiêu thiên thần nhảy múa trên đầu một cây kim, nếu như nó không phục vụ cho thực tế như nhiều tính toán của Albert Einstein (chẳng hạn sự tính toán đã dẫn đến việc chế tạo ra bom nguyên tử). Tất cả chúng ta đều biết rằng bom nguyên tử đặt cơ sở không phải trên hình học Euclid nhưng là trên hình học Riemann.

Các bạn hữu nghiên cứu về toán học đã cho tôi biết rằng con số khoa hình học có khả năng phát triển được là vô hạn. Kể từ thời Riemann, chúng ta đã phát triển thêm 6 khoa hình học ứng dụng, như vậy chúng ta hiện nay có tất cả 8 khoa hình học ứng dụng khác nhau. Đâu là khoa hình học đích thực? Chúng ta không biết.

TÂM LÝ HỌC NHƯ THUẬT GIẢ KIM

Không đi quá xa với các khoa học tự nhiên chặt chẽ, tôi xin trở lại với khoa tâm lý học của mình, một khoa học mềm dẻo hơn. Một số người đã so sánh tâm lý học với thuật giả kim. Ngược về thời của thuật giả kim, thời mà các nhà khoa học cố gắng biến các kim loại thành vàng, tất cả những gì được biết về thế giới chung qui là rằng thế giới gồm bốn yếu tố: đất, khí, lửa và nước. Kể từ đó chúng ta đã khám phá ra bảng tuần hoàn của các nguyên tố (Hydro, Oxy, Carbon, vv…) Nhưng tâm lý học thì dường như vẫn còn ở trong thời tăm tối của thuật giả kim!

Chẳng hạn, phong trào giải phóng phụ nữ dựa nền tảng trên một số giả định về những dị biệt hay những tương đồng phi thể lý giữa phụ nữ và nam giới. Những dị biệt hay những tương đồng phi thể lý đó là gì? Bao nhiêu trong số chúng thuộc lãnh vực văn hóa hay xã hội? Bao nhiêu thuộc lãnh vực sinh học? Chúng ta không biết. Giờ đây ở cuối thế kỷ 20, chúng ta biết cách đưa mình bay lên khỏi mặt đất, nhưng chúng ta không nắm rõ mấy về tính dục.

Hay thử xét đến khuynh hướng tò mò của con người, có liên hệ rất nhiều đến chủ đề về huyền nhiệm. Phải chăng tất cả mọi người đều được sinh ra với bản tính tò mò như nhau? Hay người ta sinh ra với những mức độ tò mò khác nhau? Phải chăng tò mò là một cái gì đó đến với chúng ta theo đường di truyền? Hay nó là cái mà chúng ta đã tập làm quen khi lớn lên trong nền văn hóa của chúng ta? Nó là một cái gì đó được tọng vào cho chúng ta hay được moi ra từ chúng ta? Chúng ta không biết. Một lần nữa, ánh sáng tri thức của một ngành khoa học về khuynh hướng quan trọng bậc nhất này của con người vẫn chưa ló dạng cho chúng ta.

Hiểu biết ít ỏi như thế, vậy thì tại sao con người chúng ta vẫn nghĩ rằng mình đã biết rất nhiều? Có hai lý do: Vì chúng ta hoảng sợ và vì chúng ta lười biếng.

Chúng ta hoảng sợ không dám nghĩ rằng thật sự mình không biết mình đang làm gì hay đang đi đâu, rằng chúng ta là những đứa trẻ có lý trí đang dò dẫm trong bóng tối. Do đó, thật là thoải mái hơn khi sống trong một ảo tưởng rằng mình hiểu biết nhiều hơn những gì mình thực tế hiểu biết.

Chúng ta cũng sống trong ảo tưởng bởi vì chúng ta lười biếng. Nếu chúng ta ý thức về sự ngu dốt của mình, chúng ta sẽ hoặc phải nghĩ rằng mình vô cùng ngu ngốc hoặc phải dấn mình vào cuộc học tập không ngừng suốt cả đời. Vì đa số chúng ta không thích nghĩ mình ngu ngốc, cũng không thích dấn mình vào cuộc học tập suốt cả đời, nên để được thoải mái hơn, chúng ta sống trong ảo tưởng thú vị rằng mình hiểu biết nhiều hơn những gì mình thực tế hiểu biết.

Khổ nỗi, đấy chỉ là ảo tưởng. Nó không thực. Bạn có thể nhớ lại trong Con Đường Chẳng Mấy Ai Đi, tôi đã định nghĩa sự lành mạnh tâm thần là một tiến trình không ngừng dấn thân cho thực tại bằng mọi giá. Và “bằng mọi giá” nghĩa là dù thực tại có làm ta khó chịu đến mấy đi nữa.

Hiện nay, trong nền văn hóa tránh né đau khổ của chúng ta, sự lành mạnh tâm thần không luôn luôn được khuyến khích. Khi một người nào đó bị một hụt hẫng về tâm cảm, chúng ta nói: “Ồ, anh chàng Joe tội nghiệp. Anh ta bị vỡ mộng rồi!” Đáng lẽ ra chúng ta nên nói: “Ồ, anh chàng Joe may mắn. Anh ta được vỡ mộng rồi.” Vỡ mộng là nhìn thấy mọi sự như thực tế của nó, vậy mà đáng tiếc ư? Té ra ý thức được thực tại là một điều tệ hại? Cũng thế, trong tâm lý trị liệu, khi người ta mổ xẻ sự kiện họ bị quấy rối tình dục hay bị bỏ bê hồi nhỏ, chúng ta không thể nói: “Ồ, đáng thương quá!” – bởi vì nỗi đau mà họ từng trải ấy cuối cùng đang đem lại sự lành mạnh tâm thần cho họ.

Dĩ nhiên qui luật nào cũng có những ngoại lệ. Và tôi là một nhà vô địch vĩ đại về cái mà các nhà tâm lý gọi là những “ảo tưởng lành mạnh”. Chẳng hạn, một y sĩ bị một chứng đau tim, được đưa vào khoa săn sóc đặc biệt, có lẽ có nguy cơ chết gấp hai lần so với một người không phải là y sĩ. Lý do là vì ông ấy biết tất cả những gì có thể trục trặc, trong khi một người khác sẽ nói đơn giản: “Ồ, tôi chỉ bị đau tim.” Vì thế, đôi khi ảo tưởng lại giúp cho người ta lành mạnh.

Tuy nhiên, nói chung, tôi cho rằng thật tốt cho chúng ta nếu chúng ta được xóa tan ảo tưởng. Chúng ta càng thích nghi với thực tại thì cuộc sống của chúng ta càng vận hành tốt hơn. Nhưng chúng ta chỉ có thể sống trong một thế giới thực tại khi biết cảm nếm huyền nhiệm. Vì thực tại lồ lộ nhất là: kiến thức của ta chỉ như một giọt nước giữa biển cả vô minh mênh mông, giữa đại dương của huyền nhiệm. Và sẽ rất không may khi ta sống giữa ‘biển’ mà không thích ‘nước’! Cách duy nhất để có cơ may là phải yêu mến ‘nước’, yêu mến huyền nhiệm, phải thích ngụp lặn trong nóù và bơi lội trong nó, uống nó và cảm nếm nó …

TÒ MÒ VÀ LÃNH ĐẠM

Một trong những dấu chỉ đặc trưng cho những người kém sức khỏe tâm thần nhất, những người ít trưởng thành nhất giữa chúng ta – đó là họ thiếu một cảm thức về huyền nhiệm, hay họ không có đủ tính tò mò. Điều quấy rầy tôi nhất khi tôi ghé vào một bệnh viện tâm thần không phải là sự điên khùng của các bệnh nhân, cũng không phải là sự hung dữ hay sự sợ hãi của họ, nhưng là sự lãnh đạm. Đôi khi lãnh đạm có nguyên nhân từ ma túy, nhưng một tính cách lãnh đạm khủng khiếp thường là đặc điểm cho thấy một người bị rối loạn tâm thần.

Điều gì xảy ra với những người lành mạnh khi trời bắt đầu đổ tuyết? Họ bước lại chỗ cửa sổ, nhìn ra bên ngoài và trầm trồ: “Tuyết rơi nhiều thật!”, hay: “Ồ, trời đang bão tuyết!” Nhưng trong một bệnh viện tâm thần, khi ai đó trầm trồ “Chà, tuyết bắt đầu rơi!”, thì các bệnh nhân sẽ: “Ê, đừng làm cản trở cuộc chơi bài của chúng tôi.” Thế đấy, hoàn toàn lãnh đạm!

Một hình thức khác của bệnh tâm thần là khi người ta không thể chịu đựng được huyền nhiệm thì họ tạo ra những giải thích cho những gì vốn không giải thích được. Chẳng hạn, cách đây ít năm, tôi nhận được một bức thư 8 trang rất buồn, trang đầu được viết rất rõ ràng mạch lạc, nhưng nội dung đề cập rằng người viết có một đứa con trai bị chứng ung thư lá lách. Vì vậy khi bức thư tiếp tục, chữ viết và câu cú của anh ta trở nên rối rắm hơn rất nhiều. Anh ta viết: “Bác sĩ Peck, chắc hẳn bác sĩ biết điều mà ông bà chúng ta ngày xưa đã từng biết – đó là tất cả chúng ta đều có một hồn ma đi theo không rời chúng ta, và có một yếu tố ion hóa tồn tại giữa thể xác chúng ta và hồn ma ấy – và bệnh của chúng ta là kết quả của yếu tố ion hóa này…”

Tôi không hề biết chuyện đó. Đó là một giả thuyết ly kỳ thỉnh thoảng có người nêu lên. Nhưng một giả thuyết như thế chẳng có được tí cơ sở nào. Vì thế, theo một nghĩa nào đó, người đàn ông kia đã tìm thấy một sự giải thích cho chứng ung thư lá lách của con trai mình. Có lẽ điều đó đem lại cho ông một sự dễ chịu, tháo gỡ ông ra khỏi huyền nhiệm của sự việc. Nhưng sự chắc chắn ấy của ông là một ảo tưởng không hơn không kém.

Trái lại, một trong những đặc điểm của người lành mạnh tâm thần là cảm thức bén nhạy về huyền nhiệm và sự tò mò sâu sắc. Họ ngạc nhiên về mọi sự: về các thiên hà xa xôi, về tia laser, về những con bọ ngựa, vv… Điều gì cũng khích động suy nghĩ của họ. Tuy nhiên đa số trong chúng ta rơi vào giữa hai tình trạng trên: tình trạng lành mạnh tâm thần và tình trạng điên rồ. Đối với phần đông trong chúng ta, cảm thức huyền nhiệm vẫn còn ngủ vùi.

Trong khi hành nghề của mình, tôi vốn thường nói với các thân chủ tôi rằng họ đang thuê tôi làm một hướng dẫn viên dẫn họ đi qua sa mạc vô thức. Họ đang thuê tôi không phải vì tôi đã đi qua vô thức của họ trước đây, nhưng chỉ vì tôi biết một cái gì đó về qui luật để khám phá vô thức. Trong thực hành tâm lý trị liệu, vô thức của mỗi người mỗi khác nhau. Và mỗi lúc, cuộc hành trình trở nên mỗi khác. Đó là điều thú vị cho tôi.

Để thám hiểm vô thức, người ta phải là một nhà thám hiểm. Và để trở thành một nhà thám hiểm, người ta phải có một cảm thức huyền nhiệm. Đối với Lewis và Clark, đó là huyền nhiệm của những gì nằm ở phía bên kia Appalachians. Đối với các nhà du hành vũ trụ thì đó là huyền nhiệm của không gian bên ngoài trái đất. Đối với các bệnh nhân trong tâm lý trị liệu thì đó chủ yếu là huyền nhiệm bên trong chính con người họ. Nếu trong quá trình trị liệu, tính hiếu kỳ của bệnh nhân về huyền nhiệm từ thuở bé được đánh thức dậy, và nếu bệnh nhân bắt đầu khám phá ra những ký ức bị lãng quên và khám phá ra ảnh hưởng của một số kinh nghiệm và biến cố trên cuộc đời họ, khám phá ra huyền nhiệm của các gien di truyền và tính tình của mình, di sản của mình, văn hóa của mình, các giấc mơ của mình và những ý nghĩa có thể tiềm ẩn trong các giấc mơ ấy … thì cuộc trị liệu sẽ có khả năng tiến xa. Đàng khác, nếu trong tiến trình trị liệu, những cảm thức huyền nhiệm ấy không được đánh thức, thì hành trình thám hiểm của đương sự không có cách nào tiến xa được.

Tôi sử dụng từ ‘đánh thức’ cảm thức huyền nhiệm của bệnh nhân bởi vì tôi tin – dù chúng ta chưa có ngành khoa học nào làm cơ sở cho điều này – rằng cảm thức huyền nhiệm là một cái gì đó có thể được phát triển, ít nhất nơi một số người. Có thể ví như người ta phát triển khiếu thưởng thức whiskey vậy. Đây là một cảm thức có thể được phát triển vô hạn, bởi vì bạn càng lặn ngụp trong huyền nhiệm thì huyền nhiệm càng mở ra thênh thang hơn. Bạn muốn uống huyền nhiệm bao nhiêu tùy thích. Nó hoàn toàn không gây chán ngán và hoàn toàn miễn phí, không có thuế sản xuất cũng không có thuế tiêu thụ. ‘Nghiện’ huyền nhiệm là sự nghiện ngập duy nhất mà tôi có thể nồng nhiệt khuyến khích bạn.

HUYỀN NHIỆM VÀ HÀNH TRÌNH TÂM LINH

Sống trong thế giới thực tại – đó không chỉ là mục tiêu của sự lành mạnh tâm thần. Đó cũng là mục tiêu của hành trình tâm linh nữa. Nhưng nói cho cùng, hành trình tâm linh cũng chính là hành trình tìm kiếm ý nghĩa thực của đời sống! Một hành trình tìm kiếm Thiên Chúa đích thực!

Một trong những điều nhập nhằng về tôn giáo, đó là người ta bước vào tôn giáo vì những lý do khác nhau. Một số người được lôi cuốn vào tôn giáo để tiếp cận huyền nhiệm, trong khi cũng có những người bước vào tôn giáo để trốn thoát khỏi huyền nhiệm. Ở đây, tôi không có ý ‘gõ’ vào những người dùng tôn giáo để tránh né huyền nhiệm. Vì có những người – ở vào một điểm quặt trong cuộc phát triển tâm lý và tinh thần của mình (chẳng hạn, những người nghiện rượu bắt đầu bỏ ruợu, những người gây tội ác bắt đầu một cuộc sống lương thiện) – họ cần những niềm tin rõ ràng, họ cần những nguyên tắc để sống … Tuy nhiên, tôi muốn nhắc bạn rằng con người trưởng thành tinh thần đầy đủ thì không quá níu bám vào giáo thuyết như kiểu các nhà khoa học níu bám vào các nguyên tắc khoa học, và rằng không có cái gọi là đức tin trọn vẹn. Thực tại, giống như Thiên Chúa, là một cái gì đó chúng ta chỉ có thể tiến gần tới mà thôi (chứ không đạt tới được).

Trong khát vọng muốn hiểu thực tại, chúng ta – một cách nào đó – cũng giống như một người cố nắm hiểu cơ chế vận hành của một chiếc đồng hồ. Người ấy nhìn thấy mặt đồng hồ, thấy các kim đồng hồ đang chuyển động, thậm chí nghe cả tiếng tích tắc, nhưng người ấy không biết cách mở chiếc đồng hồ ra. Nếu anh ta có trí óc sắc sảo, anh ta có thể hình dung một hình ảnh nào đó về bộ máy vận hành để đưa tới những gì mà anh nhìn thấy được, nhưng anh ta không bao giờ dám chắc chắn rằng sự hình dung của mình là khả năng duy nhất giải thích tất cả. Anh ta sẽ không bao giờ có thể so sánh hình ảnh do mình tưởng tượng với bộ máy thực của đồng hồ – và anh ta thậm chí không thể tưởng tượng được ý nghĩa của một sự so sánh như thế.

Tác giả của những lời ấy là Albert Einstein, một người mà đa số trong chúng ta đều không ngần ngại nhìn nhận là người hiểu biết nhiều hơn bất cứ ai khác trên trái đất này – thật vậy, tên của ông đã trở thành từ đồng nghĩa với hai tiếng “thiên tài”! Thế nhưng ông đã viết rằng chúng ta có thể quan sát và nêu giả thuyết, nhưng chúng ta không bao giờ có thể biết. Thực tại là một cái gì đó chúng ta có thể tiếp cận mà không thực sự đạt đến được.

Một trong những xì căng đan mà một số người mộ đạo vướng vào, đó là họ nghĩ rằng họ có Thiên Chúa trong túi họ. Nhưng những người trưởng thành đầy đủ sẽ không nghĩ thế. Thực tại, cũng như Thiên Chúa, không phải là một cái gì chúng ta có thể sở hữu dứt khoát. Thực tại không thuộc về ta để ta chiếm hữu; trái lại, nó chiếm hữu chúng ta.

Cuộc hành trình tâm linh là một cuộc hành trình tìm kiếm sự thật – không khác chi khoa học cũng là một cuộc hành trình tìm kiếm sự thật. Con người trưởng thành đầy đủ phải là một con người kiếm tìm chân lý không thua kém một nhà khoa học kiếm tìm chân lý, thậm chí còn hơn thế nữa. Và cũng như có một số người đi vào tôn giáo để trốn tránh huyền nhiệm, cũng có một số người đi vào khoa học nhằm để chạy trốn khỏi huyền nhiệm.

Tất cả chúng ta đều biết hay đều nghe về những nhà khoa học bỏ ra cả đời để nghiên cứu về sự ô-xy hóa tế bào trong mô tuyến tiền liệt của bồ câu ở pH 3,7 đến pH 3,9 – và đó là lãnh vực quan tâm của họ trong vũ trụ. Họ đã khoanh một phạm vi nhỏ cho chính mình, và đã đọc nhiều tư liệu về chủ đề ấy hơn bất cứ ai khác, vì thế kiến thức của họ về lãnh vực mà họ quan tâm thật rất đáng tin cậy, và họ cảm thấy an tâm. Nhưng để thực sự tìm kiếm sự thật, người ta không thể moi một cái hang an toàn và nấp vào trong đó. Người ta phải dò dẫm bước ra, đi vào những lãnh giới mình không biết, đi vào huyền nhiệm.

Trong nghề nghiệp của tôi, đôi khi tôi nghe các bệnh nhân nói: “Này Bác Sĩ Peck, tôi rất lúng túng.” Và tôi đáp: “Thế là tuyệt đấy.” Họ sẽ nói: “Tuyệt cái nỗi gì? Thật là tệ hại!” Tôi trả lời: “Không, không! Không tệ hại đâu. Bạn có phúc đấy.” Họ cãi: “Gì, ông nói gì hử? Thật khủng khiếp như vậy mà ông bảo là có phúc?”

Tôi sẽ giải thích: “Bạn biết đó, khi Đức Giêsu giảng bài giảng ‘để đời’ của Ngài, những tiếng đầu tiên Ngài đã thốt lên là: ‘Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó!’” Có nhiều cách để diễn dịch cụm từ ‘tinh thần nghèo khó’, nhưng trên bình diện tri thức, bản dịch tốt nhất là: “lúng túng”! Vâng, phúc cho ai bị lúng túng. Nếu bạn hỏi tại sao Đức Giêsu có thể đã có ý nói như thế, tôi sẽ chỉ ra cho bạn rằng sự lúng túng thúc đẩy người ta tìm kiếm điều sáng tỏ, và cuộc tìm kiếm ấy sẽ giúp người ta học hỏi nhiều.

Chẳng hạn, những người của thế kỷ 15 đã đi ngủ vào một buổi tối nọ năm 1492, nghĩ rằng trái đất dẹt, để rồi sáng hôm sau thức dậy họ nhận ra nó tròn. Để cho một ý tưởng chết đi và một ý tưởng mới, tốt hơn, thay chỗ, chúng ta cũng phải đi qua những giai đoạn lúng túng như thế.

Thật là không dễ chịu, đôi khi rất khổ sở khi phải ở trong những giai đoạn đó. Tuy nhiên, đó là tình trạng có phúc bởi vì khi chúng ta ở trong đó, chúng ta đang kiếm tìm những cách thế mới và tốt hơn. Chúng ta cởi mở đón nhận điều mới mẻ, chúng ta kiếm tìm, chúng ta lớn lên. Vì thế, Đức Giêsu nói: “Phúc cho những ai lúng túng.” Hầu như tất cả mọi sự dữ trên thế giới này đều được gây ra do bởi những người chắc chắn tuyệt đối rằng họ biết điều mình đang làm. Sự dữ không được gây ra do bởi những người biết mình lúng túng, những người nghèo khó trong tinh thần.

Trong Con Đường Chẳng Mấy Ai Đi, tôi đã nói rằng con đường nên thánh nằm ở việc chất vấn mọi sự. Hãy tìm kiếm, và bạn sẽ tìm thấy đủ sự thật để có thể bắt đầu điều hợp chúng với nhau. Bạn sẽ không bao giờ kết thúc được câu đố. Nhưng bạn sẽ có thể kết hợp lại đủ các yếu tố để bắt đầu có được cái nhìn thoáng toàn bộ bức tranh lớn và nhận ra rằng quả thực bức tranh ấy rất xinh đẹp.

Nếu tất cả cuộc sống chúng ta được bao trùm trong huyền nhiệm và chúng ta thực sự không biết mình đang đi về đâu – nếu chúng ta là những đứa trẻ có lý trí đang đi vật vờ trong bóng tối – thì bằng cách nào chúng ta sống còn? Tôi thấy chỉ có hai cách để trả lời câu hỏi ấy. Một là kết luận rằng Scott Peck và Albert Einstein sai lầm, và rằng chúng ta hiểu biết nhiều hơn ta tưởng. Còn cách thứ hai là kết luận rằng chúng ta được bảo vệ một cách nào đó. Và đó chính là điều mà tôi muốn kết luận ở đây. Vậy, nhân danh Chúa, sự bảo vệ ấy làm việc như thế nào? Tôi không biết. Tôi chỉ biết rằng sự bảo vệ ấy vận hành nhân danh Chúa.

Trong văn phòng của tôi, tôi có hình ảnh của bảy thiên thần khác nhau, trong đủ mọi tư thế. Tôi treo ảnh các thiên thần không phải bởi vì tôi đã từng thấy một ‘người’ có cánh. Nhưng khi tôi suy ngẫm về cơ chế của sự bảo vệ này, cơ chế của ân sủng – (bằng cách nào Thiên Chúa có thể dường như đếm từng sợi tóc trên đầu chúng ta?) – tôi chỉ có thể hình dung Ngài có những đạo binh thiên thần đông đúc phục vụ theo mệnh lệnh Ngài.

Tôi tin rằng một số trong những thiên thần này thực sự xuất hiện trong hình dạng con người. Phyllis Theroux đã viết một tuyển tập rất hay, mang tựa đề: “Đèn Ngủ: Những Câu Chuyện Kể Đêm Khuya Cho Các Phụ Huynh”. Một trong những bài ấy, nữ tác giả kể lại chuyện lần kia chị tham gia một cuộc thi công chức. Có bốn hay năm câu hỏi rõ ràng được soạn ra để loại trừ những kẻ điên khùng hay hoang tưởng, trong đó chị chỉ nhớ được một câu, đó là: “Bạn có nghĩ bạn là một nhân viên đặc biệt của Thiên Chúa không?”

“Tôi chợt cảm thấy lính quýnh trước câu hỏi ấy” – chị kể – “nhưng rồi tôi nghĩ đến mục đích thực tiễn của mình là nhắm đậu kỳ thi này, nghĩa là tôi phải trả lời sao để được chấm ‘đậu’, dù câu trả lời có trái với ý nghĩ của mình, thế nên cuối cùng tôi chụp lấy bút chì, và viết: ‘Không!’”

Kỳ thực, tôi cũng chia sẻ với Phyllis Theroux trong niềm tin rằng có một số nhân viên đặc biệt ở đó ở đây, bảo vệ chúng ta khi chúng ta dò dẫm bước đi trong cuộc hành trình đầy bóng tối và đầy huyền nhiệm của mình. Cách riêng, tôi thích nghĩ về điều này vào thời gian xung quanh Lễ Halloween, một lễ có tính huyền nhiệm bậc nhất trong những cử hành của Kitô giáo và tiền Kitô giáo.

Scott Peck

Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

Bước tiếp (3): Sự chết

Bước tiếp (3): Sự chết

Scott Peck

Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

Chuacuuthe.com

, Chuyên Đề

VRNs (20.03.2015) – Sài Gòn – Tôi đang đi chuyến tàu nhanh, một chuyến tàu loại ‘xịn’.

Mười lăm toa tàu mang cả ngàn hành khách,

xình xịch lao qua thảo nguyên, lướt vào sương mù, băng ngang bóng tối….

(Rồi đây, những toa tàu này sẽ rệu rã.

Và những hành khách này sẽ tiêu ma.)

Tôi hỏi anh chàng ngồi bên: “Bạn đi về đâu?”

Anh ta trả lời: “Omaha.”

150314009

Carl Sandburg đã viết những giòng như thế trong bài thơ mang tên “Hữu Hạn” (Limited). Rõ ràng ông đang nói rất cô đọng về sự chết, một đề tài mà người ta thường hay lãng tránh. Nhưng riêng phần mình, tôi đã say mê sự chết từ rất lâu rồi. Có thể nói rằng tôi bị ám ảnh bởi sự chết ngay từ khi còn là một thiếu niên, nhưng dĩ nhiên tôi không phải là một kẻ có khuynh hướng tự tử đâu! Đúng hơn, sự trằn trọc này nơi tôi là một phản ứng lại đối với môi trường mà tôi đã lớn lên. Ngôi nhà tôi trải qua thời niên thiếu là một nơi mà những cái nông cạn, hời hợt bên ngoài – chẳng hạn, ăn món này bằng cái nĩa nào – lại được xem là chuyện rất quan trọng!

Cách đây ít năm, có xuất hiện một ‘mốt’: người ta tặng quà ngồ ngộ cho nhau nhân dịp Lễ Giáng Sinh. Tôi đã mua tặng nhà tôi một chiếc tạp dề có hình con vịt trời to tướng, phía trên in giòng chữ lớn: BEFORE TRUTH THE RIGHT FORK (6). Tuổi thơ của tôi cũng y như thế. “Áo quần làm ra con người”, bố mẹ tôi thường xuyên nhắc nhở tôi điều đó. Nhưng ảo tưởng ấy làm sao bền được? Vì chẳng chóng thì chầy, tôi cũng sẽ gặp một tay nào đó vừa rất đần độn vừa ăn mặc rất ‘kẻng’!

Vì thế, ngay từ thuở nhỏ, có lẽ xuất phát từ tinh thần phản loạn, tôi đã tự nhủ mình: “Hãy dẹp phứt những thứ rác rưởi ấy đi. Có gì thật sự quan trọng trong đó đâu!” Tôi bắt đầu phát triển một thói quen nhìn xuyên qua bề mặt của sự vật, nhìn thấu vào bên trong mọi sự. Thói quen này đã trở nên rất hữu ích cho tôi từ đó. Và khi tôi tự hỏi điều gì là quan trọng nhất liên quan đến cuộc hiện sinh con người, câu trả lời đầu tiên đến với đầu óc tôi là: Cuộc sống con người là một cái gì rất hữu hạn, tất cả chúng ta đều đang đi đến cái chết. Thế là tôi ‘bén duyên’ với sự chết kể từ đó.

Lớn lên, tôi mới sực hiểu ra rằng sự chết không phải là điều quan trọng nhất trong cuộc sống con người – mà có lẽ nó là điều quan trọng thứ hai. Và một phần của tiến trình lớn lên là nhìn nhận rằng tất cả chúng ta đều sẽ chết, tất cả chúng ta đều “sẽ rệu rã”, đều “sẽ tiêu ma”!

Nhận ra tính hữu hạn của đời sống, nhiều người trong chúng ta hóa nên trăn trở với một cảm thức về sự vô nghĩa. Tất cả chúng ta đều sẽ đến lúc bị luỡi hái định mệnh cắt phăng đi không thương tiếc. Vậy liệu cuộc sống ngắn ngủi này có ý nghĩa gì? Cứ cho là trong vài thế hệ tới, ít là một số con cháu cũng còn chút ký ức nào đó về chúng ta; nhưng liệu một trăm năm, hai trăm năm nữa, có còn ai nhớ đến chúng ta không?

Bạn có biết bài thơ nổi tiếng mang tựa đề Ozymandias của Shelley không? Trong bài thơ này, ông mô tả vết tích còn lại của một pho tượng trong sa mạc. Trên mặt đế tượng, người ta đọc thấy giòng chữ: Tôi là Ozymandias, Vua của các vua. Hỡi Đấng Toàn Năng, hãy chiêm ngắm các công trình của tôi, và hãy ghen tị!

Thế nhưng, tất cả những gì còn sót lại của pho tượng ấy chỉ là … cái đế tượng: Hai khúc chân cụt to đùng bằng đá, đứng trơ vơ; còn cái đầu thì đã vỡ tan tành tự đời nào, chỉ còn một mảnh lấp vùi trong cát. Chẳng ai biết Ozymandias là ai!

Vậy đó, ngay cả dù bạn thuộc số ít vĩ nhân để lại dấu ấn của mình trong lịch sử nhân loại, thì khi các thế kỷ qua đi, những dấu ấn ấy cũng sẽ nhạt nhòa, tan biến mất.

Cuộc đời là một bóng tối đang lê bước. Nó là một câu chuyện được kể lại bởi một gã khù khờ, đầy âm thanh và cuồng nộ, chẳng có ý nghĩa gì.” Nhân vật Macbeth của Shakespeare đã chua xót thốt lên như thế.

NỖI SỢ CHẾT

Cuộc đời chẳng có ý nghĩa gì – và cho dù nó có ý nghĩa gì, thì chính cái chết sẽ quét sạch mọi ý nghĩa của nó! Thật vậy chăng? Có thật cuộc đời hoàn toàn vô nghĩa?

Tôi không tin như thế. Sự chết không phải là cái gì bi thảm như ta nghĩ. Sự chết không tước đoạt ý nghĩa mà trái lại còn trao ban ý nghĩa.

Hơn bất cứ gì khác, ‘duyên nợ’ của tôi với sự chết đã giúp tôi có một cảm thức về ý nghĩa của cuộc sống này. Sự chết là một người tình kiều diễm. Nếu bạn bị giày vò bởi một cảm thức vô nghĩa hay chán chường thì tôi không thể khuyên bạn điều gì tốt hơn là hãy bắt đầu đi vào trong một cảm thức nghiêm túc với hồi kết thúc cuộc hiện sinh này của bạn. Như bất cứ cuộc tình tuyệt diệu nào, sự chết mang đầy huyền nhiệm và đó là nơi bắt nguồn rất nhiều niềm nôn nao rạo rực của chúng ta. Vì khi bạn vật lộn với mầu nhiệm sự chết của mình, bạn sẽ khám phá ra ý nghĩa của cuộc sống mà mình đang sống.

Dĩ nhiên phần đông người ta không mặn mấy với chuyện thao thức về sự chết của mình. Thậm chí họ không muốn nghĩ về điều đó. Họ muốn đào thải nó ra khỏi ý thức của họ. Vì vậy, tựa đề “Hữu Hạn” của Sandburg không chỉ nói về chuyến tàu kia mà còn mang ý nghĩa rộng hơn nhiều. Cuộc đời người ta bị giới hạn; và kẻ nói rằng mình sắp đi Omaha cũng bị giới hạn trong nhận thức về bến đỗ thực sự của anh ta là sự chết.

Một số người không bị giới hạn đến như vậy – như rất nhiều nhà văn và nhà tư tưởng lớn – chẳng bao lâu sẽ trở thành thích thú với sự chết. Albert Schweitzer viết:

Tất cả chúng ta, nếu muốn trở nên những con người tốt đích thực, đều phải làm quen với ý tưởng về sự chết. Đành rằng chúng ta không cần trăn trở về nó hằng ngày hay hằng giờ. Nhưng khi cuộc sống đưa bạn tới một cơ hội thích hợp nào đó – lúc mà khung cảnh chung quanh bạn nhạt nhòa đi và bạn chiêm nghiệm chính viễn ảnh cuối cùng, thì bạn đừng nhắm mắt vô tình bỏ qua. Bạn hãy dừng lại chốc lát, nhìn viễn ảnh ấy, rồi tiếp tục sống. Nghĩ về sự chết theo cách này sẽ đem lại cho chúng ta tình yêu đối với sự sống. Khi chúng ta quen thuộc với sự chết, chúng ta sẽ đón nhận mỗi tuần, mỗi ngày của cuộc sống mình như một hồng ân. Chỉ khi nào chúng ta có khả năng đón nhận đời sống như vậy, thì đời sống mới trở thành một cái gì quí giá đối với mình.”

Thông thường, người ta không ‘quen’ được với sự chết như vậy. Trong nghề nghiệp trị liệu tâm lý của tôi, tôi đã phải đẩy ít nhất một nửa số thân chủ của mình tới đối diện với thực tại sự chết của họ. Thực vậy, chính sự ngần ngại của người ta trong việc này xem ra là một phần của bệnh trạng nơi họ. Họ cảm thấy đời sống mình thật chán chường và khủng khiếp. Họ lảng tránh không thăm viếng bạn bè trong bệnh viện, họ lật nhanh qua các trang cáo phó trong tờ báo, họ ‘quên’ viết thư phân ưu … Và ban đêm, họ thường bất chợt thức dậy, mồ hôi ướt đẫm, mơ thấy mình chới với chết đuối …

Nếu tôi không giúp họ phá vỡ những giới hạn mà mà họ tự áp đặt cho ý thức mình như vậy, thì không thể có sự chữa lành hoàn toàn. Chúng ta không thể sống với đầy can đảm và tự tin trừ phi chúng ta có một mối quan hệ với sự chết của chính mình. Thật vậy, chúng ta không thể sống trọn vẹn nếu không có một cái gì đó để chúng ta sẵn sàng chết cho nó.

Những giới hạn này trong ý thức con người đôi khi có thể làm cho con người trở nên rất khiếp nhược. Hồi tôi mới hành nghề trị liệu, một thân chủ đến gặp tôi trong trạng thái hốt hoảng cao độ – số là trước đó ba ngày, người anh vợ của anh ta đã tự sát bằng một phát súng bắn vào đầu. Anh ta kinh hãi đến độ không thể đi đến văn phòng tôi một mình. Vợ anh phải cầm tay anh dẫn đi. Anh ngồi xuống và bắt đầu nói trong hơi thở hổn hển: “Thưa bác sĩ… Anh vợ tôi… Anh ấy bắn vào đầu… Anh ấy có khẩu súng ngắn… Ôi, ghê quá! Chỉ một phát đạn thôi… Anh ấy đã chết. Ôi, nếu tôi có một khẩu súng… Ồ không, tôi không có… Nhưng nếu tôi có súng và muốn tự sát, thì cũng chỉ đơn giản vậy thôi… Chỉ cần đặt ngón tay, nhấn cò … và gục xuống …!”

Tôi lắng nghe anh ta, và nhận ra rằng cái đã làm anh ta hốt hoảng không phải là nỗi thương tiếc về cái chết của người anh vợ, mà đúng hơn bởi vì biến cố này đã đẩy anh tới đối mặt với chính sự chết của mình. Và tôi đã giải thích cho anh ta điều đó.

Ngay lập tức, thân chủ của tôi phản đối: “Không. Tôi không sợ chết!”

Chính lúc ấy, vợ anh xen vào. Chị nói: “Này, anh yêu! Có lẽ anh nên kể cho bác sĩ nghe về chuyện anh ngại gặp các xe tang và các nhà táng đi.”

Thế là anh ta bắt đầu giải thích cho tôi rằng anh có một nỗi ám ảnh về các xe tang, nhà táng và tất cả những gì liên quan đến chết chóc. Thực vậy, được biết nỗi ám ảnh ấy lớn đến nỗi mỗi buổi sáng khi đi bộ đến chỗ làm và mỗi chiều khi trở về nhà từ sở, anh phải đi vòng một lối khác xa hơn ba khối phố – nghĩa là anh phải đi thêm sáu khối phố mỗi ngày – chỉ để tránh đi qua một cơ sở dịch vụ mai táng. Cũng vậy, bất cứ khi nào trông thấy một xe tang từ đằng xa, anh liền tức khắc tránh đi, chẳng hạn, anh lủi nhanh vào một nhà hay một cửa hiệu nào đó!

“Bạn thực sự có một nỗi sợ chết”, tôi nói với anh ta. Nhưng anh ta tiếp tục chối bai bải: “Không, không, không. Tôi không sợ chết. Đấy chỉ vì những xe tang và những nhà táng ấy tởm gớm làm tôi khó chịu.”

Xét về khía cạnh động lực tâm lý, các nỗi ám ảnh thường bắt nguồn từ một cơ chế gọi là chuyển đổi (displacement). Người đàn ông này sợ chết đến nỗi anh ta thậm chí không thể đối mặt với chính nỗi sợ ấy của mình – và do đó anh ta chuyển đổi nỗi sợ ấy thành những chiếc xe tang và những cơ sở nhà táng.

Việc tôi thường dùng các bệnh nhân tâm thần của tôi làm ví dụ dễ khiến bạn tưởng rằng họ nhút nhát và khiếp sợ hơn đa số chúng ta. Nhưng không phải vậy đâu. Những người đến với tâm lý trị liệu là những người khôn ngoan và can đảm nhất trong tất cả chúng ta đó. Mọi người chúng ta đều có vấn đề, nhưng chúng ta thường cố giả vờ như các vấn đề đó không tồn tại, hoặc cách này hay cách khác chúng ta quay lưng lại và phớt lơ các vấn đề ấy. Chỉ những người có đủ khôn ngoan và dũng cảm mới sẵn lòng dấn mình vào trong tiến trình khó khăn của việc khảo sát chính mình – loại tiến trình diễn ra trong văn phòng của các bác sĩ tâm thần.

Vấn đề nằm ở chỗ chúng ta sống trong một nền văn hóa nhút nhát, phủ nhận sự chết. Một nữ đồng nghiệp tôi đã nói với tôi rằng lần nọ trong thị trấn của chị, sau khi một học sinh trung học chết vì bệnh bạch cầu và một học sinh khác chết vì tai nạn xe hơi, thì người ta ở đó – cả trẻ lẫn già – đã kiến nghị vị hiệu trưởng đưa vào chương trình giảng dạy một khóa học đặc biệt, không có tín chỉ, nói về sự chết và tình trạng hấp hối. Một mục sư thậm chí xung phong bảo trợ khóa ấy và tìm giáo viên giảng dạy miễn phí; như vậy, khóa học sẽ không đòi bất cứ ai trả bất cứ đồng nào.

Nhưng mọi khóa mới trong trường đều phải được phê duyệt bởi hội đồng nhà trường. Hội đồng này đã biểu quyết 9/10 chống lại việc mở khóa học này, giải thích rằng nó có vẻ không lành mạnh. Khoảng ba mươi hay bốn mươi người đã viết thư gửi cho báo chí để phản kháng sự phủ quyết của hội đồng trường, và một biên tập viên của một tờ báo đã viết bài xã luận về vấn đề này. Đã có đủ cơ sở và áp lực dư luận để yêu cầu nhà trường xem xét lại quyết định của họ. Hội đồng nhà trường lại nhóm họp và – một lần nữa – đi đến biểu quyết 9/10 phiếu chống lại việc mở khóa học.

Theo tôi, không phải là chuyện trùng hợp ngẫu nhiên – như đồng nghiệp tôi ghi nhận – rằng những người viết thư cho tờ báo, người biên tập viên viết bài xã luận kia và người thành viên duy nhất trong hội đồng trường ủng hộ khóa học đều là những người hoặc đang hay đã từng nhận sự trị liệu tâm lý. Như tôi xác nhận trên kia, các bệnh nhân tâm thần không hề nhút nhát hơn số đông người còn lại. Trái lại, có thể nói họ can đảm hơn rất nhiều người khác.

CHỌN KHI NÀO ĐỂ CHẾT

Trong nền văn hóa phi bác sự chết của chúng ta, sự chết được xem như một tai nạn, như một cái gì  ập tới húc vào chúng ta mà không hề có một lý do gì, cũng không hề chịu sự kiểm soát nào của chúng ta. Sự chết là một cái gì thê thảm, nó như một cái vòng luẩn quẩn tóm lấy chúng ta. Cũng vì quá sợ chết, chúng ta không dám đến gần sát nó để nhận ra rằng nó chẳng đáng sợ đến mức như mình tưởng.

Nền văn hóa của chúng ta nhìn cái chết như một tai nạn phi lý. Và đây là cái nhìn hoàn toàn sai lầm. Thực vậy, đa số trong chúng ta đều muốn chọn thời điểm, chọn nơi chốn và chọn cách thế để chết. Điều đó thoạt nghe có vẻ ‘sốc’, nhưng thực sự là thế. Phần đông chúng ta – mức nào đó – đều muốn thực hiện sự chọn lựa này. Ở đây tôi không có ý nói về những vụ tự tử. Tôi không có ý nói đến những tay nghiện ngập tiếp tục nghiện ngập cho đến chết. Tôi cũng không có ý nói đến tất cả những tình trạng thần kinh loạn thông thường mà mọi người đều biết. Ở đây tôi nhằm nói đến những rối loạn y học như các chứng bệnh về tim và ung thư, và có chứng cứ khoa học hậu thuẫn cho quan điểm của tôi.

Cách đây khoảng ba chục năm, mỗi khi có ca phẫu thuật tim mở ngỏ (7) – dĩ nhiên hồi đó nguy hiểm hơn bây giờ nhiều – mọi người đều hồi hộp và xôn xao bàn tán không biết bệnh nhân sẽ sống hay chết. Và đây là thực tế được ghi nhận: Những người tiên đoán giỏi nhất về kết quả của các ca mổ tim mở ngỏ không phải là chính các bác sĩ phẫu thuật, cũng không phải là các chuyên gia tim mạch, mà lại là các bác sĩ tâm thần! Đã xảy ra một cuộc nghiên cứu – trong đó các bác sĩ tâm thần phỏng vấn các bệnh nhân sắp sửa được mổ tim. Dựa vào các câu trả lời của họ, các bác sĩ tâm thần phân họ thành ba nhóm khác nhau: nhóm nguy hiểm cao, nhóm nguy hiểm vừa, và nhóm nguy hiểm thấp. Nhóm nguy hiểm thấp bao gồm những người khi được yêu cầu nói về cuộc giải phẫu của mình, đã trả lời đại loại như: “À, ông biết đó, ca mổ được dự kiến sẽ diễn ra vào thứ sáu tới, và tôi thực sự lo sợ. Nhưng, đã tám năm rồi, bệnh trạng của tôi không cho phép tôi làm được việc gì cả. Chơi đánh gôn cũng chẳng được! Lại thường xuyên khó thở! Bác sĩ của tôi cho tôi biết rằng nếu sống được qua ca mổ và qua được giai đoạn hậu phẫu, thì chỉ cần sáu tuần là tôi có thể trở lại sân gôn! Chà, như vậy đó sẽ là ngày 1 tháng 9 tới! Tôi đã lên chương trình cho mình rồi đấy. Nào, tôi sẽ có mặt ở sân vào đúng tám giờ sáng, lúc ấy cỏ vẫn còn đẫm hơi sương. Tôi sẽ …., tôi sẽ …”

Còn nhóm nguy hiểm cao sẽ trả lời tương tự như câu trả lời sau đây của một phụ nữ: “Hở, cuộc phẫu thuật thì sao hở?” Vị bác sĩ tâm thần nhắc lại câu hỏi, rõ ràng hơn: “Xin cho biết tại sao chị nhận phẫu thuật? Tại sao chị cần điều đó?” Người phụ nữ đáp: “Bác sĩ của tôi bảo với tôi như vậy.”

“Chị có kỳ vọng sẽ làm được gì sau khi được giải phẫu không?”

“Tôi chưa tính đến chuyện đó.”

“Chị rất khó thở và chị đã không thể đi mua sắm trong tám năm nay. Chị có mong mình sẽ có thể đi mua sắm trở lại không?

“Ồ, tôi không hề mong điều đó. Tôi rất khiếp sợ việc lái xe từ nhiều năm nay rồi.”

Nếu tôi nhớ không lầm thì cuộc nghiên cứu trên cho thấy rằng 40% số bệnh nhân thuộc nhóm nguy hiểm cao đã chết, con số tương ứng phía nhóm nguy hiểm thấp là 2%. Cùng một chứng bệnh tim, cùng những nhà phẫu thuật tim, cùng những ca mổ như nhau, nhưng tỉ lệ tử vong thì chênh lệch nhau đến hai mươi lần – và sự chênh lệch này, có thể nói, đã được dự báo ngay trước khi tiến hành phẫu thuật!

Một nghiên cứu với những kết quả gây sửng sốt đã được tiến hành bởi David Siegel, một bác sĩ tâm thần tại Standford University. Siegel đã nghiên cứu hai nhóm phụ nữ bị ung thư di căn. Nhóm thứ nhất được cung ứng sự săn sóc y khoa đúng qui cách; nhóm thứ hai cũng được săn sóc đúng qui cách, song thêm vào đó còn được yêu cầu trải qua tâm lý trị liệu. Không mấy ngạc nhiên khi kết quả là nhóm thứ hai ít phàn nàn hơn, ít trầm uất hơn và ít đau đớn hơn – nhưng điều lạ lùng là chỉ có ba trong số các phụ nữ này đã chết. Và Siegel nhận ra rằng những người nhận trị liệu tâm lý đã sống lâu gấp đôi so với những người thuộc nhóm kia.

NHỮNG SỰ CHỮA TRỊ “THẦN DIỆU”

Đã hàng bao thế kỷ nay, các bác sĩ biết rằng rất họa hiếm chuyện hồi phục đột xuất từ bệnh ung thư. Song bạn vẫn có thể nghe nói đến những trường hợp trong đó các bác sĩ mổ một bệnh nhân và nói: “Chúng tôi đã mổ anh ta, và chúng tôi … bó tay! Chẳng còn có thể cứu vãn gì được nữa. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm là khâu vết mổ lại. Anh ta may lắm thì sống được sáu tháng nữa.” Nhưng rồi, năm, mười năm sau, bệnh nhân ấy vẫn còn sống phây phây mà không hề có dấu vết gì của ung thư cả.

Bạn có thể nghĩ rằng các y sĩ sẽ hết sức ngạc nhiên với những trường hợp hi hữu này, và chắc hẳn đã tiến hành điều tra nghiên cứu tường tận sự việc. Không có như vậy đâu. Trong rất nhiều năm, các bác sĩ vẫn khư khư rằng một điều như thế không thể xảy ra được. Chỉ mới mười lăm năm trở lại đây, các nghiên cứu mới được chính thức tiến hành. Còn quá sớm để có được toàn bộ con số thống kê – nghĩa là, những con số hoàn toàn dựa theo các tiêu chuẩn khoa học – nhưng có những bằng chứng cho thấy một trong những điểm chung của các trường hợp hiếm hoi ấy là các bệnh nhân đều tỏ ra có những thay đổi rất sâu xa trong cuộc sống của họ. Một khi được báo cho biết họ chỉ còn sống được một năm nữa, họ tự nhủ: “Chà, chỉ còn có một năm nữa! Vậy tội gì mà mình phải tiếp tục ngày hai buổi đến làm cho công ty IBM ấy. Tốt hơn là mình nên sửa chữa và sắp xếp lại đồ đạc trong nhà – đó là điều bấy lâu nay mình vẫn muốn làm mà rồi cứ khất lần khất lữa mãi.” Hoặc: “Ồ, nếu mình chỉ còn có một năm để sống, thật là điên khùng nếu mình cứ tiếp tục sống với anh chồng vũ phu ấy của mình.” Rồi, sau khi họ quyết định thực hiện những thay đổi như vậy, căn bệnh ung thư của họ biến đi mất!

Hiện tượng này gây ngạc nhiên cho một số nhà nghiên cứu ở UCLA. Người ta quyết định điều tra phải chăng một cuộc đổi đời có thể là một liệu pháp. Nhưng vấn đề khó khăn là phải tìm được những bệnh nhân sẵn lòng thử cách này. Thường thì một bác sĩ tâm thần sẽ đến gặp một ai đó được chẩn đoán mắc căn bệnh ung thư không thể chữa, và nói: “Chúng tôi có lý do để tin rằng nếu bạn sẵn sàng nhận tâm lý trị liệu và khảo sát lại đời sống của bạn để làm một số thay đổi căn bản, thì bạn sẽ có thể kéo dài đời sống của bạn lâu hơn.”

Ngay lập tức, bệnh nhân sẽ nhảy cẫng lên: “Ồ, thưa bác sĩ, ngài là người đầu tiên đem lại cho tôi chút hy vọng.”

Vị bác sĩ tâm thần đề nghị: “Một số bệnh nhân giống như bạn sẽ làm việc với chúng tôi tại phòng 4, sáng ngày mai vào lúc 10 giờ. Bạn có muốn đến và trao đổi về điều này không?”

“Ồ,vâng. Thưa bác sĩ, chắc chắn tôi sẽ đến.”

Nhưng sáng hôm sau, lúc 10 giờ, chẳng thấy anh bệnh nhân ấy đến. Vị bác sĩ trở lại gặp anh ta để tìm hiểu lý do; anh ta nói:

“Ồ, xin lỗi, tôi quên mất tiêu.”

“Bạn vẫn còn muốn điều đó chứ?”

“Thưa còn ạ.”

“Chúng tôi sắp có một cuộc làm việc nữa cũng tại phòng 4, lúc 3 giờ chiều mai. Bạn không vướng bận gì lúc đó chứ?”

“Ồ, nhất định tôi sẽ đến ạ.”

Nhưng rồi, anh ta lại không đến. Vị bác sĩ tâm thần thử lại một lần nữa, và cuối cùng đành chào thua: “Có lẽ anh không nồng nhiệt lắm với loại trị liệu này.”

Rốt cục, anh bệnh nhân thú nhận: “Thưa bác sĩ, tôi có nghĩ đến chuyện đó. Và tôi nhận thấy mình đã đến tuổi chẳng còn thay đổi gì được nữa!”

Điều này không phải luôn luôn đáng trách. Chúng ta thường thấy mình đã đến tuổi quá già chẳng còn thay đổi gì được. Các bác sĩ cũng thường nghĩ như thế thôi. Tôi đã gặp rất nhiều y sĩ đầy tài năng song lại tin rằng bệnh nào cũng chỉ có một nguyên nhân: hoặc thể lý hoặc tâm lý. Họ không thể hình dung một bệnh – cũng tựa như một thân cây – có hai gốc rễ đồng thời, hay thậm chí có nhiều hơn hai gốc rễ.

Sự thực thì hầu như mọi bệnh đều một trật có liên quan đến tâm lý, thể lý, tinh thần và xã hội. Dĩ nhiên, cũng có những ngoại lệ, như những rối loạn bẩm sinh hay những chứng liệt não chẳng hạn. Nhưng ngay cả trong những trường hợp ấy, ý chí muốn sống của người ta vẫn có thể kéo dài đáng kể và cải thiện rất nhiều cuộc sống của họ.

Đáng tiếc là điều ngược lại cũng đúng. Khi tôi phục vụ ở Okinawa, trong quân đội, tôi được yêu cầu chữa trị một thiếu phụ 19 tuổi mắc chứng hyperemesis gravidarum (8). Tôi tìm hiểu và biết rằng người phụ nữ Mỹ này đã lớn lên ở miền duyên hải phía Đông, và cô có một mối quyến luyến có tính bệnh lý với mẹ mình. Năm mười bảy tuổi, cô đã được gửi sang miền Tây để sống với một ông cậu, và lúc ấy cô bắt đầu bị chứng nôn mửa. Hồi ấy cô không mang thai. Cô nôn mửa quá nhiều đến nỗi phải được gửi trả lại miền Đông, nơi cô sống vui vẻ mạnh khỏe bình thường cho đến khi kết hôn với một quân nhân, mang thai và theo chồng sang Okinawa. Vừa khi bước chân xuống khỏi máy bay, cô bắt đầu nôn thốc tháo, và sau vài ngày cô phải được đưa vào bệnh viện.

Nếu bệnh trạng của bệnh nhân ở mức đủ nghiêm trọng, tôi có quyền gửi họ về điều trị ở Mỹ. Và tôi biết rằng nếu tôi cho chuyển người phụ nữ này về Mỹ, chứng nôn mửa của cô sẽ ngừng ngay lập tức. Tôi cũng biết rằng có lẽ khó hy vọng đề phòng chứng nôn mửa này nơi cô ta mỗi khi tách cô ta xa khỏi mẹ mình.

Trong quyền hạn của tôi lúc đó, tôi đã quyết định không gửi cô ta về nhà ở Mỹ. Tôi bảo cô: “Bạn phải lớn lên và phải học cách sống tách biệt khỏi mẹ mình.” Và cô đã thuyên giảm đủ để xuất viện. Nhưng rồi bệnh lại tái phát và cô phải trở vào bệnh viện. Cô lại nôn mửa, và tôi lại nói với cô rằng tôi sẽ không gửi cô về Mỹ. Và một lần nữa, cô thuyên giảm và được xuất viện. Tuy nhiên, hai ngày sau, trong căn hộ của cô, cô bất thần ngã xuống và chết. Cô đang ở tuổi 19 và đang mang thai 4 tháng. Người ta tiến hành khám nghiệm tử thi và đã không phát hiện được vì sao cô chết. Dĩ nhiên, tôi vô cùng ân hận về quyết định của mình. Nhưng tôi tin rằng vì một lý do nào đó đã có một lúc trong đời mình, cô đã quyết định làm một em bé. Tôi không cho phép cô làm một em bé. Tôi muốn cô biết nhận trách nhiệm, và cô đã chết!

CÁC RỐI LOẠN THỂ LÝ VÀ TÂM THỂ

Hồi tôi còn theo học trường y, chúng tôi xếp chung vào một loại rối loạn ‘chức năng’ những tình trạng như tâm thần phân liệt, chứng hưng trầm cảm, và chứng nghiện rượu. Với từ “chức năng”, chúng tôi có ý đi nước đôi và cho rằng có lẽ một ngày kia các nhà nghiên cứu sẽ khám phá ra một khiếm khuyết rất tế nhị nào đó trong cơ cấu thần kinh hoặc một loại vấn đề sinh học nào đó. Nhưng chúng tôi thực sự tin rằng những rối loạn này đều thuộc lãnh vực tâm lý. Và trong tư cách là một bác sĩ tâm thần, chúng tôi đã vạch ra mọi cơ chế tâm lý của chúng.

Tuy nhiên, trong ba mươi năm trở lại đây, chúng ta đã biết rằng có những gốc rễ rất sâu thuộc lãnh vực sinh học đối với mọi rối loạn tâm thần này, và chúng ta còn biết nhiều hơn thế nữa. Thật vậy, một trong những vấn đề mà chúng ta đương đầu ngày nay đó là các bác sĩ tâm thần đã trở nên quá si mê sinh hóa học đến nỗi họ có nguy cơ quên hết tất cả những sự khôn ngoan của tâm lý học cũ, một số những sự khôn ngoan ấy vẫn còn đúng đắn hôm nay. Những tình trạng như tâm thần phân liệt không chỉ đơn thuần là các rối loạn thể lý. Chúng cũng là những rối loạn tâm lý, tinh thần và xã hội nữa. Và điều tương tự cũng đúng đối với các căn bệnh như ung thư. Tất cả đều có những nguyên nhân đa diện – vừa thể lý vừa tâm thể.

Thành tố tâm thể lý trong nỗi khổ của con người đã được nhận ra trong ngôn ngữ của chúng ta từ bao thế kỷ nay. Kho thành ngữ của chúng ta chứa đầy những kiểu nói như tê tái lòng; thúi ruột; sốt ruột; tím gan; đắng họng; lạnh gáy, vv… để mô tả những cảm xúc tâm lý, song không phải là không có liên quan đến thể lý – vì thế các bác sĩ tâm thần gọi đó là loại ‘ngôn ngữ bộ phận’ (vì có liên quan đến bộ phận nào đó nơi thân thể chúng ta). Biết bao người đến phòng cấp cứu vào ban đêm với cơn đau nơi ngực – dù có hay không có bệnh tim – ngay sau khi họ trải qua một cuộc tình tan vỡ! (9)

Những rối loạn cột sống là những rối loạn về sự can đảm. Và một lần nữa, điều này được phản ảnh trong ngôn ngữ của chúng ta. Chúng ta nói: “Anh chàng ấy đúng là không có xương sống”, hay “Cô ta quả thực có một xương sống vững vàng”. Bản thân tôi đã chịu đựng nhiều chứng đau lưng trong phần lớn cuộc đời tôi, nhất là một tình trạng gọi là spondylosis (có đốt sống) đặc biệt nghiêm trọng trong cổ tôi. Nhìn một phim X-quang chụp phần cổ tôi, bạn sẽ nghĩ rằng tôi đã già 200 tuổi! Khi tôi lần đầu tiên được chẩn đoán mắc chứng này, tôi hỏi các bác sĩ phẫu thuật thần kinh và các bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình: “Điều gì làm cho cổ tôi trông già đến thế?” Và họ trả lời: “À, có lẽ hồi còn bé, anh đã có lần bị gãy cổ”.

Tôi chưa bao giờ bị gãy cổ. Nhưng khi tôi cho họ biết điều đó, họ chỉ nói: “Nếu vậy, chúng tôi thực sự không biết cái gì đã gây ra tình trạng có đốt sống của anh.” Tôi rất mừng nhận được một câu trả lời như thế, bởi vì rất ít bác sĩ sẵn sàng nhìn nhận đơn giản rằng ‘tôi không biết’.

Thực ra, tôi biết rất rõ về nguyên nhân gây ra tình trạng có đốt sống của tôi. Tôi phát hiện ra cách đây khoảng 13 năm khi cơn đau ấy hành hạ tôi cực độ, đồng thời làm tê bại một cánh tay tôi. Tôi nhận một cuộc phẫu thuật thần kinh kéo dài và căng thẳng. Lúc ấy, tôi tự nhủ mình: “Này Scotty, mày biết đó, quả là phiền phức việc trải qua cuộc phẫu thuật đắt tiền và đầy nguy hiểm này cứ vài năm một lần. Nhưng mày thử xét xem mày có vai trò nào trong chứng rối loạn này không?”

Vừa khi tôi sẵn sàng đặt ra câu hỏi ấy, tôi lập tức nhận thấy là có. Trong phần lớn cuộc đời nghề nghiệp của mình, tôi đã luôn luôn có được tên tuổi và uy tín hơn các đồng nghiệp mình, và tôi vẫn thường xuyên lo ngại việc sinh ra đụng chạm. Thực tế tôi có gặp một số đụng chạm, dù không nhiều như tôi dự đoán, song như vậy cũng cho thấy nỗi sợ của tôi có cơ sở. Nói gì thì nói, tôi đã đi qua cuộc đời mình với cái đầu và cái cổ cúi gằm về phía trước, như một cầu thủ bóng đá sắp sửa lao tới đánh đầu quả bóng tầm thấp vào khung thành đối phương. Bạn hãy thử giữ đầu và cổ bạn kiểu đó trong ba mươi năm, và bạn sẽ biết thế nào là chứng có đốt sống (spondylosis)!

Dĩ nhiên, mọi chuyện không đơn giản ở đây. Có vô số nguyên nhân đối với hầu hết các chứng bệnh. Mặc dù không đến mức độ như trường hợp của tôi, song cha tôi, mẹ tôi, anh trai tôi đều đã phải chịu đựng chứng có đốt sống trong cổ một cách khác thường, ngay cả dù họ không bao giờ nổi tiếng là những người chuyên ‘nhướn cổ ra’! Vì thế, có một nhân tố sinh học – có tính di truyền – trong tình trạng của tôi. Bạn đừng quên, tôi quả quyết rằng hầu như mọi sự rối loạn đều không chỉ có liên quan đến tâm thể mà còn có liên quan đến tinh thần và xã hội nữa.

Ở đây tôi không đang xướng xuất một điều chi mới mẻ đâu. Rất nhiều người đã viết về mối quan hệ giữa thân thể và tâm trí. Một số người ngày nay cảm thấy có tội khi họ bị bệnh; nhân tố tâm thể của tình trạng này đã được rất nhiều người nhận ra. Dĩ nhiên, không cần thiết phải tự dằn vặt mỗi khi bạn bị cảm lạnh hay cảm cúm. Nhưng nếu bạn bị một chứng bệnh nghiêm trọng hay một chứng bệnh kinh niên, thì quả bạn có bổn phận phải kiểm tra chính mình và tự hỏi phải chăng mình đang đóng một vai trò trong chứng bệnh ấy của mình.

Nhưng nếu bạn làm thế, vì Chúa, thì bạn cũng phải biết ‘nương tay’ với chính mình. Một cách nào đó, có thể nói rằng đời sống vốn gây ra căng thẳng, và nó làm cho chúng ta mệt nhoài. Xin đừng quên sớm hay muộn tất cả chúng ta đều phải chết bởi một chứng rối loạn tâm thể nào đó.

Một lần nữa, tôi không có ý nói rằng mọi chứng ung thư giai đoạn cuối đều có tính tâm thể. Tôi không có ý nói rằng một phòng điều trị ung thư trẻ em – trong đó một bé bốn tuổi đang hấp hối với chứng adrenal carcinoma (ung thư thượng thận), một em khác sáu tuổi đang hấp hối do một chứng medulloblastoma, và một bé khác nữa đang hấp hối do một bướu Wilms – thì phòng điều trị đó chỉ là một chỗ tự sát của trẻ em không hơn không kém. Tôi cũng không có ý nói rằng các nạn nhân của một vụ rơi máy bay đã cố ý tập trung lại tại phi trường để thực hiện một cuộc tự sát tập thể – hay sáu triệu người Do Thái kia tự nguyện bước tới cái chết hồi thời Hitler. Nhưng khi chúng ta xem xét cái chết đơn thuần như một tai nạn, thì chúng ta cũng đang phớt lờ rất nhiều trường hợp chết thực tế khác và phớt lờ cả huyền nhiệm của sự chết nữa.

NHẬN HIỂU SỰ CHẾT

Một bước đột phá trong nhận thức của chúng ta về bản chất đích thực của sự chết là sự kiện xuất bản quyển Chết Và Hấp Hối (On Death and Dying) của Elisabeth Kubler-Ross, M.D. Cho tới lúc bấy giờ, sự chết vẫn là lĩnh vực độc quyền của các linh mục. Các bác sĩ thì quan tâm đến sự sống, và sự sống nhằm phục vụ cho người sống. Còn sự chết được bỏ lại cho mấy cơ sở mai táng. Nhưng Kubler-Ross đã dám chuyện trò với những người đang hấp hối và dám hỏi xem họ đang nghĩ gì, đang cảm nhận gì về cái chết cập kề họ. Bà đã tạo ra một cuộc cách mạng thực sự. Chỉ một thập niên sau đó, đã có những khóa học về cái chết và về tình trạng hấp hối trên khắp nước Mỹ. Và nhà ‘vĩnh biệt’, một nơi mà người ta có thể đến để chết, đã được phát minh hoặc được tái lập. Dường như nữ tác giả này đã gây ra một cuộc cách mạng.

Tác phẩm của bà đã mở đường cho những quyển sách về cùng chủ đề, trong số đó có quyển Đời Này Sang Đời Khác (Life after Life) của Raymond Moody và Phút Lâm Chung (At the Hour of Death) của Karlis Osis và Erlendur Haraldsson, người đã viết về chính khoảnh khắc chết và những kinh nghiệm của người đang tiến gần sát cái chết. Có một sự giống nhau lạ kỳ giữa những gì họ khám phá ra. Raymond Moody, một nhà khoa học và đồng thời là bác sĩ tâm thần, đã cho biết rằng phần đông những ai nhớ lại kinh nghiệm gần chết của họ đều liên hệ đến một sự biến đổi luân chuyển. Trước hết, có vẻ như từ trần nhà, họ nhìn thấy chính thân xác họ đang nằm trên giường, và họ thấy rất chính xác tất cả những gì các y tá và bác sĩ đang làm cho họ. Điều xảy ra kế tiếp – phần đáng kinh sợ duy nhất của kinh nghiệm này – là họ như đi xuyên qua một con đường hầm tối mịt. Họ vụt qua đó một cách nhanh chóng, rồi họ đối diện với ánh sáng, ánh sáng này được hiểu là Thiên Chúa hay đôi khi được hiểu là Chúa Giêsu. Và trong ánh sáng này, họ được yêu cầu nhìn lại đời sống của họ. Nhìn lại, họ thấy đời sống mình thật lộn xộn, nhưng thực thể ánh sáng ấy thì vô cùng yêu thương và tha thứ. Rồi ánh sáng ấy dẫn họ quay trở lại. Họ quay trở về một cách miễn cưỡng, nhưng trong tinh thần vâng phục ánh sáng ấy.

Thường những người có kinh nghiệm như thế, theo Moody, không có nhiều khuynh hướng tâm linh trước đó, nhưng trở thành rất có khuynh hướng tâm linh sau đó. Và nói chung, họ trở nên tin tưởng vào sự sống sau khi chết – và nỗi sợ chết nơi họ giảm đi rất nhiều.

Khi chúng ta tiến tới đủ gần sát cái chết, chúng ta thấy rằng cái chết không đáng sợ đến mức như mình vẫn nghĩ – điều đó thật là thú vị! Song nó không đem lại cho bạn sự thoải mái đâu. Bạn đứng trước những dấu hỏi như: “Nó có liên quan gì với cuộc sống này không? Cuộc hiện sinh tạm bợ này của chúng ta có thể có ý nghĩa gì?”

Nếu bạn tự hỏi như thế, tôi tưởng rằng đấy chính vì bạn đã nhận thức được rằng cuộc sống của mình thật hữu hạn, và bạn đang kiếm tìm ý nghĩa của nó. Nhưng hãy giả sử tự thân việc kiếm tìm ý nghĩa này đã là một việc đầy ý nghĩa. Hãy giả sử đó là một phần của cuộc chơi, một phần của lý do hiện hữu của chúng ta. Rất có thể chúng ta đang có mặt đây để kiếm tìm một cái gì đó chứ, phải không? Nếu câu trả lời là “Vâng!”, thì sự chết sẽ thúc bách việc kiếm tìm ấy.

Khi tôi trằn trọc với huyền nhiệm sự chết của mình, khi tôi kiếm tìm ý nghĩa của cuộc sống này, tôi đã gặp thấy điều mình tìm kiếm. Điều ấy thật đơn giản: Chúng ta đang có mặt trong cuộc đời này để học. Mọi sự xảy đến với chúng ta để giúp chúng ta học. Và không có gì giúp chúng ta học tốt hơn là cái chết.

Tôi đã đi tới kết luận rằng chúng ta được trao ban một môi trường học tập lý tưởng. Tôi dám thách bạn, trong khả năng tưởng tượng của bạn, hãy nghĩ ra một môi trường lý tưởng hơn cuộc sống này để phục vụ cho việc học hỏi của con người. Trong những khoảnh khắc ảm đạm của mình, dường như tôi thấy nó là một loại trại huấn luyện cho người ta vào thiên đàng, đầy những bài tập vượt chướng ngại được phác họa cho việc học của chúng ta. Và tôi nghĩ chướng ngại được phác họa ‘ác’ nhất là giới tính. Trong thực tế, sự chết là một hệ quả của tính dục chúng ta.

Các sinh vật hữu cơ ở đáy bậc thang tiến hóa không truyền sinh qua con đường tính dục. Chúng sinh sản một cách hoàn toàn vô tính. Chúng tự nhân giống (chẳng hạn nảy chồi), và chất liệu di truyền của chúng tiếp tục và tiếp tục mãi. Rõ ràng chúng không bao giờ chết, trừ phi có ai đó đến và tiêu diệt chúng. Chúng không kinh nghiệm sự già lão hay sự chết tự nhiên. Chỉ ở bậc cao nào đó trên thang tiến hóa, sinh vật mới truyền sinh qua con đường tính dục, và cũng chỉ ở đây mới bắt đầu có hiện tượng già nua và sự chết tự nhiên. Cái gì cũng có giá của nó!

Chúng ta học tốt nhất khi chúng ta có một hạn mức. Từ ‘deadline’trong Anh Ngữ là một từ ngữ tuyệt vời! (10) Trong nghề trị liệu tâm lý của tôi, tôi thường sử dụng một kỹ thuật rất có tiềm năng, nhất là khi làm việc với các nhóm. Khi các thành viên của một nhóm hành động như thể họ sẽ ‘còn sống muôn đời muôn kiếp trên trần đời này’, tôi sẽ đến với họ một lúc nào đó và nói: “Này, nhóm của các bạn chỉ còn làm việc sáu tháng nữa thôi. Tôi sẽ giải thể nhóm này trong sáu tháng nữa.” Thật là thú vị! Những người vốn rề rà uể oải nhất nay bỗng dưng linh hoạt hẳn lên, khi mà họ được trao cho một hạn mức!

Trong trị liệu cá nhân cũng thế. Một hạn mức thường có tiềm năng tác động rất lớn. Việc chấm dứt một mối quan hệ thân tình giữa một bệnh nhân và một nhà trị liệu đôi khi có thể được sử dụng để tượng trưng cho toàn thể vấn đề sự chết, đồng thời để trao cho bệnh nhân một cơ hội nhận hiểu sự chết.

NHỮNG BƯỚC CHẾT VÀ NHỮNG BƯỚC TRƯỞNG THÀNH

Elizabeth Kubler nhận thấy rằng những người hấp hối đi qua một tiến trình theo thứ tự sau đây:

– phủ nhận

– giận dữ

– mặc cả

– suy sụp

– chấp nhận

Giai đoạn thứ nhất là phủ nhận. Họ từ chối sự chết. Họ nói: “Phòng xét nghiệm chắc hẳn lẫn lộn kết quả xét nghiệm của tôi với một ai đó khác. Đó không phải là tình trạng của tôi. Tôi không thể chết.” Nhưng sự phủ nhận này không thể kéo dài.

Thế là họ giận dữ. Họ giận các bác sĩ, họ oán các y tá, họ trách bệnh viện, họ phàn nàn những người thân của họ, và họ giận cả Thiên Chúa.

Khi cơn giận cũng chẳng đem lại gì tốt hơn cho họ, họ bắt đầu mặc cả. Họ nói: “Có lẽ nếu tôi trở lại với nhà thờ và bắt đầu cầu nguyện trở lại, căn bệnh ung thư của tôi sẽ biến mất”, hoặc: “Có lẽ nếu tôi vui vẻ hơn với con cái để thay đổi bầu khí trong nhà, thì hai quả thận của tôi sẽ khá hơn.”

Nhưng khi điều này cũng không đem lại kết quả gì, họ bắt đầu nhận ra rằng thế là xong, vô phương! Họ trở nên suy sụp.

Nếu họ có thể cầm cự ở giai đoạn này và làm điều mà các nhà trị liệu chúng tôi gọi là ‘vượt qua suy sụp’ thì

họ có thể sống còn qua cơn suy sụp để bước vào giai đoạn thứ năm: chấp nhận! Đây là giai đoạn an tĩnh tâm hồn và thanh thản, thậm chí là một giai đoạn của ánh sáng. Những người đã chấp nhận sự chết sẽ có được ánh sáng trong mình. Như thể họ đã chết rồi và đã được phục sinh trong một cảm thức tâm linh nào đó. Đây là một sự việc rất kỳ diệu.

Tuy nhiên, điều nói trên không xảy ra thông thường lắm. Phần đông người ta không chết trong giai đoạn thứ năm tuyệt vời này. Người ta thường chết khi vẫn còn phủ nhận, vẫn còn giận dữ, vẫn còn mặc cả, hay vẫn còn suy sụp. Lý do là vì công việc ‘vượt qua suy sụp’ đớn đau và khó khăn đến nỗi khi họ chạm vào nó, họ thường thối lui lại tình trạng phủ nhận hay giận dữ hay mặc cả. Có một điều rất thú vị mà Kubler-Ross đã không nhận ra – đó là chúng ta cũng đi qua đúng những giai đoạn đó và trong cùng một thứ tự đó bất cứ khi nào chúng ta thực hiện được một bước có ý nghĩa trong hành trình phát triển tâm lý và tâm linh của chúng ta. Bất cứ khi nào chúng ta sải một bước dài tiến lên phía trước trong hành trình sa mạc cuộc đời, bất cứ khi nào chúng ta có một sự cải thiện đầy ý nghĩa nơi chính mình, thì chúng ta đều đi qua tiến trình phủ nhận, giận dữ, mặc cả, suy sụp và chấp nhận.

Chẳng hạn, thử hình dung có một khiếm khuyết nghiêm trọng trong nhân cách của tôi – và các bạn tôi bắt đầu phê phán tôi về những biểu hiện của khiếm khuyết ấy. Phản ứng đầu tiên của tôi sẽ là gì? Tôi nói: “Cô ấy chắc hẳn nhìn gà hóa cút!”, hoặc: “Anh ta chắc hẳn bị vợ cằn nhằn sáng nay. Tôi không dính dáng gì!” Thế đấy, tôi phủ nhận.

Nếu họ tiếp tục chỉ trích tôi, tôi sẽ nói: “Ai cho các anh cái quyền chỏ mũi vào chuyện của tôi? Các anh không hiểu gì cả về hoàn cảnh của tôi. Tại sao các anh không lo lấy chuyện riêng của các anh?” Nghĩa là, tôi giận dữ.

Song nếu người ta vẫn còn thương tôi đủ để tiếp tục chỉ trích tôi, tôi sẽ bắt đầu nghĩ: “Chà, gần đây mình đã không có lời nào khen tặng anh ta về những gì anh ta đã làm.” Thế là tôi tìm cách ‘nịnh’ anh ta, mỉm cười với anh ta, hy vọng như vậy sẽ khóa được cái mồm lộn xộn của anh ta. Mặc cả!

Thế nhưng nếu bạn tôi vẫn không chịu ngừng chỉ trích tôi, tôi sẽ bắt đầu tự nhủ: “Có thể anh ta đúng? Có thể có một cái gì đó không ổn với Scott Peck vĩ đại này?” Và nếu câu trả lời là “Vâng”, thì tôi bắt đầu chán nản, suy sụp. Trong trường hợp tôi có thể cầm cự với sự suy sụp này và bắt đầu tự hỏi cái trục trặc nơi mình là cái gì, rồi suy ngẫm kỹ về nó và phân tích nó, tách bạch nó, nhận diện nó, thì tôi có thể bước vào tiến trình tiêu trừ nó và giải phóng chính mình khỏi nó. Một khi hoàn tất việc ‘vượt qua suy sụp’ này, tôi sẽ nhận ra mình biến đổi trở thành một con người mới, một con người được phục sinh, một con người tốt hơn con người cũ của mình.

HỌC CHẾT

Những điều tôi vừa đề cập thực sự không có gì mới mẻ. Trong Con Đường Chẳng Mấy Ai Đi, tôi đã trích dẫn câu nói của Seneca – xấp xỉ 200 năm rồi: “Trong suốt cuộc sống, người ta phải không ngừng học sống. Và một điều sẽ làm bạn ngạc nhiên đây, trong suốt cuộc sống, người ta phải không ngừng học chết nữa.” Học sống và học chết là hai việc không rời nhau. Để học sống, chúng ta phải quan tâm và giải quyết vấn đề sự chết của chúng ta – vì sự chết nhắc cho chúng ta nhớ giới hạn của cuộc hiện sinh này. Chúng ta cần ý thức về sự ngắn ngủi của cuộc sống này, nhờ đó ta có thể tận dụng triệt để thời gian của mình.

Don Juan, vị guru già của thổ dân ở Mexico trong các tác phẩm của Carlos Castaneda, đã xem sự chết như một đồng minh. Trong lối nói của Don Juan, các đồng minh là những quyền lực đáng sợ mà người ta phải chiến đấu với chúng trước khi chúng được thuần hóa. Sự chết cũng y như thế. Chúng ta phải vật lộn với sự chết, chiến đấu với huyền nhiệm sự chết trước khi chúng ta có thể nắm được nó và vác nó lên vai, như Don Juan đã làm. Và bấy giờ, ngày này qua ngày khác, chúng ta có thể không ngừng thu nhận bao ích lợi từ những nhắc nhở đầy khôn ngoan mà sự chết trao ban cho mình.

Đồng minh” trước hết có nghĩa là một người bạn. Nhưng ít nhất trong văn hóa tây phương, chúng ta không quen nhìn sự chết như một người bạn. Trong các nền văn hóa đông phương, trong các tôn giáo như Phật giáo và Ấn giáo, sự chết được người ta niềm nở đón nhận hơn so với chúng ta. Thực vậy, trong thuyết hóa kiếp luân hồi – là thuyết có mặt trong cả hai tôn giáo nói trên – thì phần thưởng trọn vẹn, điểm nhắm cuối cùng là sự chết. Theo quan niệm này, chúng ta tiếp tục được tái sinh – hết kiếp này đến kiếp khác – cho tới khi chúng ta đã học hết tất cả những gì cần phải học trên dương thế này. Khi ấy và chỉ khi ấy, chúng ta mới có thể thoát ra khỏi bánh xe luân hồi và cuối cùng đạt giác ngộ.

Dù bạn có nhìn nhận lý thuyết ấy hay không, bạn cũng có thể nhận thấy rằng trong thuyết luân hồi, mục đích của cuộc sống cũng là để học. Thực ra, không có chứng cứ nào cho thấy các tín đồ Ấn giáo và Phật giáo ít sợ chết hơn số còn lại trong chúng ta. Sợ chết, đó là chuyện bình thường thôi. Chết là đi tới chỗ vô minh, mù mịt – và xét một mức nào đó, nỗi sợ đối với việc bước vào chỗ vô minh là điều hoàn toàn lành mạnh thôi. Chỉ không lành mạnh khi chúng ta cố phớt lờ nó.

Một trong những phê phán thường xuyên mà tôi nghe từ các bạn vô thần, đó là tôn giáo là một cây nạng để giúp chống đỡ người già khi họ đối mặt với huyền nhiệm sự chết, với nỗi sợ chết. Tôi nghĩ họ đúng khi cho rằng một tôn giáo trưởng thành bắt đầu từ một cuộc chiến đấu với huyền nhiệm sự chết. Nhưng có lẽ họ sai khi bảo tôn giáo là một cây nạng, làm như thể người ta sẽ dũng cảm hơn khi đối mặt với cuộc sống này nếu cuộc sống này không có ý nghĩa gì và nếu không hề có đời sau. Tôi nghĩ như thế bởi vì những con người tín ngưỡng – một khi nhận ra và đối mặt với tầm quan trọng của sự chết – thường chứng tỏ rằng họ là những con người can đảm hơn. Người vô thần, theo tôi, có khuynh hướng phủ nhận tầm quan trọng của sự chết; họ tuyên bố rằng sự chết chẳng có ý nghĩa gì hơn việc ngừng đập của một trái tim, rồi họ lập tức chuyển sang nói chuyện khác. Đó là một loại tránh né. Họ không muốn tiến tới đủ gần sự chết để nhận hiểu nó còn hàm chứa những gì.

Bạn cần lưu ý rằng so với những người vô thần, đa số những người chuyên chăm đi nhà thờ cũng không nồng nhiệt đối với việc chiến đấu với huyền nhiệm sự chết của mình hơn bao nhiêu. Phần đông các tín đồ siêng năng đi nhà thờ cũng chỉ bộc lộ một lòng sùng ngưỡng mê tín, gia truyền – như những bộ y phục được truyền từ đời cha sang đời con – những bộ y phục có thể vẫn giữ cho họ được ấm, song vẫn chỉ là những cái bẫy. Đó là lý do tại sao có câu nói: “Thiên Chúa không có cháu!” (God has no grandchildren). Chúng ta không thể liên hệ với Thiên Chúa xuyên qua cha mẹ chúng ta . Chúng ta phải thiết lập một mối tương quan trực tiếp với Thiên Chúa. Chúng ta không thể nhờ một ai đó khác – linh mục, cha mẹ, vv… – chiến đấu với huyền nhiệm sự chết của chính chúng ta. Trong cuộc hành trình tâm linh đi qua cuộc sống, có những việc chúng ta phải tự làm lấy một mình, và một trong những việc đó là chiến đấu với huyền nhiệm sự chết. Bạn không thể đùn đẩy cho bất cứ ai đảm nhận thay bạn cuộc chiến đấu này.

Thế nhưng, có nhiều tín hữu siêng năng đi nhà thờ nhưng lại tránh né vấn đề sự chết như tránh dịch tả. Đa số người mang danh nghĩa là Kitô hữu thậm chí đã gỡ Đức Giêsu ra khỏi thập giá. Nếu bạn hỏi tại sao, họ sẽ trả lời rằng họ muốn nhấn mạnh sự Phục Sinh của Chúa hơn là cuộc khổ nạn thập giá. Nhưng đôi khi tôi không thể không tự hỏi phải chăng chỉ vì họ không muốn nhìn tất cả những máu me, thương tích và thực tại chết ấy ngay trước mắt họ để nhắc nhớ họ về sự chết của chính bản thân mình.

NỖI SỢ CHẾT VÀ CHỨNG TỰ YÊU

Nhưng tại sao chúng ta thường sợ chết quá mức như thế?

Đấy chủ yếu bởi vì chứng tự yêu (narcissism) của chúng ta. Tự yêu là một hiện tượng không bình thường và rất phức tạp. Xét một mức nào đó, tự yêu là điều cần thiết trên phương diện tâm lý đối với bản năng sinh tồn của chúng ta, nhưng phần lớn thì chứng tự yêu còn tồn đọng từ tuổi ấu thời và có tính tự hủy diệt. Khi chứng này bị thả lỏng, thì đó là sự mở đường cho những tình trạng bệnh hoạn về tâm lý và tinh thần. Cuộc sống tinh thần lành mạnh hệ tại ở cuộc vượt thoát không ngừng ra khỏi tính tự yêu. Nhưng thực tế thường người ta không thoát ra được khỏi nó, và đây là điều vô cùng tai hại.

Khi các bác sĩ tâm thần nói về các thương tổn để tự hào, thì đó là các thương tổn của chứng tự yêu. Trên bậc thang các thương tổn tự yêu của tôi, tôi xếp sự chết ở chóp đỉnh. Chúng ta luôn luôn ở trong tình trạng bị thương tổn do chứng tự yêu, dù với mức độ rất nhỏ: một người bạn cùng lớp gọi tôi là điên khùng, chẳng hạn; hoặc vì tôi là người cuối cùng được chọn vào đội bóng chuyền của trường; hoặc các đồng nghiệp chế giễu tôi; hoặc tôi bị sa thải; hoặc con cái tôi phản kháng tôi, vv… Khi những thương tổn ấy của chứng tự yêu xảy ra, hoặc là tôi trở thành bực dọc cay đắng, hoặc là tôi lớn lên. Nhưng cái chết thì có tầm mức rộng hơn nhiều. Không có gì đe dọa mối ràng buộc giữa tính tự phụ của chúng ta và chứng tự yêu nơi chúng ta hơn là cái chết đang treo lơ lửng trên đầu mình. Vì thế, sự kiện chúng ta sợ chết là điều vô cùng tự nhiên.

Có hai cách để xử lý nỗi sợ ấy: cách thông thường và cách khôn ngoan. Cách thông thường là xua đuổi nỗi sợ ấy ra khỏi tâm trí mình, hạn định ý thức của mình về nó, cố gắng không nghĩ về nó. Cách này xem ra hữu hiệu khi chúng ta còn trẻ. Nhưng chúng ta càng xua đuổi nó, nó càng sấn tới sát gần chúng ta hơn. Và đến một lúc nào đó, mọi sự dường như đều bắt ta nghĩ đến cái chết: đứa con mình tốt nghiệp, bạn mình bị bệnh, cái khớp xương mình kêu răng rắc … Nói chung, cách thông thường xem ra không khôn ngoan lắm. Thật vậy, chúng ta càng quay mặt lẩn tránh sự chết của mình thì tuổi già của chúng ta càng trở nên đầy đe dọa hơn cho mình.

Cách khôn ngoan hơn là đối diện với sự chết càng sớm càng tốt. Và khi làm thế, chúng ta có thể nhận ra một cái gì đó thực sự rất đơn giản. Nghĩa là, ngần nào chúng ta có thể vượt qua chứng tự yêu của mình thì ngần ấy chúng ta có thể vượt qua được nỗi sợ chết.

Đối với những người thành công trong việc này, thì viễn ảnh sự chết sẽ trở thành một động lực thúc đẩy sự trưởng thành tâm lý và tâm linh của họ. Họ nghĩ: “Dù sao tôi cũng sẽ chết, nên chẳng nghĩa lý gì việc cố bám víu vào cái tôi ngốc nghếch của mình.” Bấy giờ, họ tiến lên trong một cuộc hành trình giũ bỏ sự vị kỷ.

Đó không phải là một cuộc hành trình dễ dàng và dễ chịu. Những ‘cái vòi’của chứng tự yêu nơi chúng ta rất nhạy cảm và sắc bén; chúng phải được chặt đứt từ ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, thập kỷ này qua thập kỷ khác. Bốn mươi năm sau khi tôi lần đầu tiên nhìn nhận chứng tự yêu nơi mình, tôi vẫn còn phải tiếp tục làm công việc chặt đứt những ‘cái vòi’ của nó!

Hành trình này quả là không dễ, nhưng rõ ràng nó thật đáng giá. Bởi vì khi chúng ta tiến xa hơn trong việc loại trừ chứng tự yêu nơi mình, loại trừ xu hướng qui ngã của mình, thì chúng ta càng nhận ra rằng mình không chỉ ít sợ chết hơn mà còn trở nên ít sợ sống hơn nữa! Tấm lòng chúng ta sẽ rộng mở hơn. Chúng ta không còn bị áp lực phải bảo vệ chính mình nữa. Chúng ta có thể ngước mắt lên, thôi nhìn mình, để thật sự nhận ra người khác. Và chúng ta bắt đầu cảm nghiệm một niềm hạnh phúc sâu xa mà trước kia mình chưa bao giờ cảm nghiệm được. Vì bấy giờ chúng ta ngày càng quên mình hơn nên chúng ta có khả năng nhớ đến Thiên Chúa hơn.

Đây là sứ điệp cốt lõi trong mọi tôn giáo lớn: Hãy học chết! Các tôn giáo nhắc đi nhắc lại với chúng ta rằng con đường ra khỏi chứng tự yêu chính là con đường tiến đến ý nghĩa. Các tín đồ Phật giáo và Ấn giáo nói về điều này trong hai tiếng ‘vô ngã’; đối với họ, ngay cả ý niệm về bản ngã cũng là một ảo tuởng. Đức Giêsu cũng nói tương tự: “Ai muốn cứu mạng sống mình (nghĩa là ai cố bám lấy chứng tự yêu nơi mình) thì sẽ mất nó. Và ai dám liều mạng sống mình vì Ta, thì sẽ tìm được nó.”

Scott Peck

Lm. Lê Công Đức chuyển ngữ

—————-

(6) Tạm dịch: ĐIỀU QUAN TRỌNG NHẤT LÀ CHỌN CHO ĐÚNG CÁI NĨA.

(7) open-heart = mổ tim trong khi máu được tuần hoàn.

(8) chứng nôn mửa quá nhiều khi mang thai

(9) heartbreak trong Anh ngữ, có gốc ở heart (= trái tim)

(10) vì deadline có nghĩa là hạn mức, và bản thân từ này có gốc dead = chết.

Hà Nội ‘dừng chặt cây do áp lực dư luận’

Hà Nội ‘dừng chặt cây do áp lực dư luận’

UBND TP Hà Nội phải yêu cầu dừng việc chặt hạ thay thế cây xanh do áp lực từ người dân lẫn truyền thông trong nước, theo một nhà quan sát.

Trong cuộc họp sáng 20/3, Chủ tịch UBND Nguyễn Thế Thảo đã yêu cầu Sở Xây dựng TP Hà Nội và các đơn vị liên quan tạm dừng việc thay thế hàng loạt cây xanh trên đường phố để phục vụ việc “rà soát, phân loại” lại, báo điện tử VnExpress đưa tin.

“Chỉ hạ chuyển những cây phải giải phóng mặt bằng xây dựng hạ tầng theo quy hoạch, thay thế những cây mục ruỗng có nguy cơ đổ gãy, cây nghiêng ảnh hưởng đến an toàn giao thông, tính mạng, tài sản của nhân dân,” ông được dẫn lời nói.

“Với những cây cong nghiêng ảnh hưởng đến mỹ quan đô thị và cây không đúng chủng l oại đô thị thì thực hiện chỉnh trang thay thế từng bước. Chỉ thay thế những cây không thể chỉnh trang và duy trì được.”

Ông Thảo cũng ‘hoan nghênh’ báo chí đã phản ánh kịp thời ý kiến dư luận, VnExpress cho biết thêm.

Đề án cải tạo và thay thế 6.700 cây xanh do Sở Xây dựng Hà Nội đề ra đã gây nhiều sự phản đối trong nước.

Trang ‘6.700 người vì 6.700 cây xanh’ đã thu hút gần 40.000 thành viên chỉ trong vài ngày.

Nhiều trí thức trong và ngoài nước cũng đã đặt câu hỏi về tính hợp lý của đề án trên, trong đó có Giáo sư Ngô Bảo Châu, Giáo sư Nguyễn Lân Dũng.

‘Sức ép từ dư luận’

” Vụ này phải truy đến cùng. Nếu không thì cần gì luật thủ đô? Các ông nói cần luật riêng để chúng tôi hành động và khi được cho rồi thì chính các ông phá

Luật sư Trần Vũ Hải”

Trả lời BBC ngày 20/3 Luật sư Trần Vũ Hải, từ Hà Nội, cho biết chính quyền địa phương Hà Nội đang “chịu sức ép rất lớn từ dư luận”.

“Sáng nay theo tôi được biết đã có nhiều phụ nữ, sinh viên giơ các khẩu hiệu phản đối trước cửa phòng tiếp dân của UBND TP Hà Nội”, ông nói.

“Trước đây phản ứng trên báo chí nhà nước còn phải mất nhiều ngày qua biên tập”.

“Hiện nay có mạng xã hội thì họ có thể biểu đạt sự phản đối một cách thoải mái và phản ứng đó sẽ có tác động ngay tức thì.”

“Cho dù thế nào thì các nhà cầm quyền từ trung ương đến địa phương cần biết rằng họ không thể tự tung tự tác được.”

Tuy nhiên ông cũng cho rằng “để nói là sức ép của người dân lên chính sách đã đủ lớn thì cũng không hẳn”.

“Sức ép phải được gây từ khi ban hành chính sách,” ông nói.

“Hiện nay người dân chỉ có thể gây sức ép khi chính sách đã bắt đầu gây hậu quả.”

Luật sư Trần Vũ Hải nói việc chặt cây đi ngược lại với chính luật lệ mà chính quyền TP Hà Nội đã đề ra

Sai pháp luật

Trước đó, UBND TP Hà Nội trong công văn hôm 18/3 nói việc thay thế cây được “hầu hết nhân dân khu vực” ủng hộ.

Bình luận về việc này, Luật sư Hải cho rằng “không phải là có hỏi ý kiến dân mà là việc hỏi ý kiến như thế nào, có đúng hình thức hay không”.

“Chính quyền thì phải làm đúng thẩm quyền và đúng pháp luật.”

“Ở đây việc chặt cây tôi khẳng định là trái pháp luật, cụ thể là Nghị định 64 về quản lý cây xanh đô thị.”

“Theo Nghị định 64 thì cây bị bão đổ, già mục yếu thì có thể chặt, nhưng có rất nhiều cây trong này không thuộc đối tượng bị chặt.”

“Cái thứ hai là phải hợp lý và được dân chấp nhận, ở đây không chỉ là người dân trong địa bàn nào đó mà là người dân toàn thành phố, vì là cây xanh trên đường chung. Và cho tới giờ thì tôi chưa thấy ai hỏi người dân thành phố cả.”

“Theo luật về quy hoạch đô thị năm 2009 thì việc thay đổi cây xanh phải có sự bàn bạc của dân cư tại khu vực bị ảnh hưởng.”

“Luật thủ đô cũng ghi rõ là “nghiêm cấm chặt phá rừng, cây xanh”. Cây trong khu vực dự án cũng không được chặt mà là chuyển đi khu vực khác.”

“Họ không những chưa tôn trọng người dân mà còn chưa tôn trọng chính luật lệ đã ban hành.”

Ông Hải cũng cho rằng cần phải có người chịu trách nhiệm trước những hậu quả đã gây ra.

“Hiện đã có 500 cây bị chặt rồi, đường Nguyễn Chí Thanh từng được xem là một trong các đường đẹp nhất Việt Nam, thì đã đốn sạch”, ông nói.

“Việc đốn như thế tôi khẳng định là không đúng luật, mà đã làm không đúng luật là phải có người chịu trách nhiệm.”

“Vụ này phải truy đến cùng. Nếu không thì cần gì luật thủ đô? Các ông nói cần luật riêng để chúng tôi hành động và khi được cho rồi thì chính các ông phá.”

“Chính quyền Hà Nội đang vi phạm luật mà chính họ yêu cầu. Điều này là trách nhiệm rất lớn của lãnh đạo Hà Nội.”