Một Việt Kiều Từ Pháp Về VN Thê Thảm Vì: Gửi 1 Ngân Hàng SG 423,000 Đô Biến Mất

Một Việt Kiều Từ Pháp Về VN Thê Thảm Vì: Gửi 1 Ngân Hàng SG 423,000 Đô Biến Mất

Vietbao.com

Share on facebook

SAIGON — Con số 400 ngàn Euro là tương đương 423 ngàn đôla Mỹ… sau khi gửi vào một ngân hàng ở Sài Gòn đã biến vào hư vô.

Ông Nghị là người gửi tiền. Đại diện cho ngân hàng là ông Quang nhận tiền, và rồi ông Quang cũng biến vào hư vô cùng với khôi tiền.

Báo Dân Việt có bản tin “Việt kiều tố gửi ngân hàng 400 ngàn euro nhưng… không rút được” cho biết công an đang điều tra về trường hợp 1 Việt kiều Pháp có đơn tố cáo gửi 400 ngàn euro tại Phòng giao dịch Hòa Hưng thuộc Ngân hàng Agribank chi nhánh Mạc Thị Bưởi (TP.SG), nhưng… không rút được.

Bản tin cũng nói, phía Ngân hàng Agribank cũng có văn bản nói rõ một số thông tin cơ bản về vụ việc.

Theo đơn gửi cơ quan công an của ông Dương Thanh Nghị (SN 1975, quốc tịch Pháp): Thời gian làm việc tại Pháp ông có dành dụm, sau đó gửi tiết kiệm nhiều lần tại Phòng giao dịch Hòa Hưng (đường Cách Mạng Tháng Tám, quận 10, TP.SG). Ông Nguyễn Lê Kiều Quang (SN 1978, ngụ quận Bình Thạnh, TP.SG; Giám đốc Phòng giao dịch Hòa Hưng) là người trực tiếp liên hệ, thuyết phục ông gửi tiền tại đây.

Báo Dân Việt cho biết, ông Nguyễn Lê Kiều Quang là người “biến mất” với số tiền 17 tỷ đồng khi đi lấy tiền tiếp quỹ cho phòng giao dịch, xảy ra cuối tháng 1.2015, gây xôn xao dư luận. Sau đó ông Quang bỏ trốn và bị Công an TP.SG phát lệnh truy nã về hành vi “tham ô tài sản”.

Cuối tháng 12.2014, ông Nghị đến Phòng giao dịch Hòa Hưng rút hết các khoản gửi tiết kiệm trước đó, cộng dồn và gửi tiết kiệm với tổng số tiền 400 ngàn euro. Theo ông Nghị, lúc này ông Quang có đưa nhiều giấy tờ, trong đó có những giấy tờ còn để trắng, đề nghị ông ký vào. Ông Nghị thực hiện theo yêu cầu.

Ngoài ra theo ông Nghị, ông Quang có mở máy tính cho ông thấy số tiền 400 ngàn euro ông gửi đã có trên hệ thống quản lý của ngân hàng.

Ông Nghị cho biết, đến ngày 2.2 vừa qua, ông Nghị đến rút toàn bộ số tiền tiết kiệm nói trên thì được nhân viên ngân hàng hẹn 2 ngày sau. Đúng hẹn ông Nghị lại đến, nhưng lần này ông tá hỏa khi nghe thông tin từ cán bộ ngân hàng và 1 cán bộ công an mặc thường phục tên là Hải cho biết, số tiền tiết kiệm 400 ngàn euro có trong tài khoản của ông nhưng có 2 sổ tiết kiệm khác nhau: 1 sổ đã được thế chấp vay tại Ngân hàng Agribank số tiền 10,4 tỷ đồng, còn sổ ông cầm trong tay là không có tiền, không có thể hiện trên hệ thống quản lý dữ liệu của ngân hàng.

Bản tin ghi rằng:

“Trước việc xảy ra, ông Nghị nghi ngờ tiền của mình bị chiếm đoạt, nên đã cùng luật sư tố cáo vụ việc tới cơ quan công an. Ông Nghị hiện đã ủy quyền cho ông Dương Thanh Tịnh để giải quyết các vấn đề với ngân hàng và phía công an.”

Chuyện THỜI CƠ

Chuyện THỜI CƠ

Phạm Đình Hưng

Author: muoisau || Tags: Biên Khảo |

Bằng chứng bán biển cho Tàu của việt cộng, còn gọi là công hàm Phạm Văn Đồng 1958.

Bài đọc suy gẫm: Chuyện THỜI CƠ – tác giả Phạm Đình Hưng. Hình ảnh chỉ có tính minh họa.

Lưu Bang và Chu Nguyên Chương (phải) trong sử Tàu

Người xưa đã dạy: Sự thành công của các vấn đề quốc gia đại sự tùy thuộc vào ba yếu tố thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Trong bài viết nầy, tôi chỉ nêu lên yếu tố thiên thời tác động đến nền chánh trị Việt Nam trong thế kỷ 20.

Thiên thời là thời cơ do Thượng đế tạo ra với bàn tay của con người hành động theo sự sai khiến của Đấng Tạo hóa. Trong lịch sử của Trung Hoa cổ thời, thiên thời đã giúp cho Lưu Bang, một đình trưởng thích cờ bạc rượu chè, trở thành người khai lập nhà Hán, một triều đại lâu dài nhứt của nước Tàu và là niềm hãnh diện của người Hán; thiên thời cũng đã giúp cho một con người du thủ du thực như Chu Nguyên Chương trở thành Minh Thái tổ. Lịch sử Việt Nam hiện đại cũng cho thấy thời cơ đã đưa đẩy một số người không có văn hóa cao lên địa vi lãnh đạo và quyền uy của nước Việt Nam trong thời dân chủ đúng theo chủ trương và đường lối của đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn đặt nặng hồng hơn chuyên và xem trí thức không có giá trị bằng một cục phân :
– Một cán bộ Đệ tam quốc tế cộng sản cấp thừa hành và đảng viên đảng Cộng sản Trung quốc chỉ có trình độ tiểu học đã leo lên ngồi trên ghế Chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa kiêm Chủ tịch đảng Cộng sản Việt Nam cho đến mãn đời: Nguyễn Tất Thành tức Hồ Chí Minh;
– Một công nhân đường sắt học lực tiểu học có quyền lực tột đỉnh của Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Việt Nam ngự trị như một ông vua tại Bắc bộ phủ từ năm 1969 đến khi qua đời năm 1986: Lê Duẫn
– Một cai đồn điền cao su ở Thủ Dầu Một (Bình Dương) có trình độ tiểu học đã ngự trên ngai vàng An Nam Quốc Vương: Lê Đức Anh;
– Một thợ thiến heo đã trở thành Tể tướng nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Việt Nam : Đỗ Mười;
– Một người đi bộ đội từ lúc 18 tuổi đã leo lên ngôi vị Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Việt Nam (đại nhân số 1 của đất nước có 4,000 năm văn hiến) : Lê Khả Phiêu;
– Một người dân tộc Choang của Trung Quốc trong tỉnh Quảng Tây đã chiếm ghế Chủ tịch Quốc Hội trong 5 năm và Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Việt Nam trong 10 năm : Nông Đức Mạnh;
– Một tên vô lại phá xóm phá làng đã được làm Bộ trưởng bộ Công An của Nội các Phạm văn Đồng trong nhiều thập niên: Trần Quốc Hoàn;
– Một người trẻ ít học đi làm lao động chân tay ở nước ngoài khi trở về nước được bầu cử làm Bí thơ Tỉnh ủy Bắc Giang kiêm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Việt Nam: Nông Quốc Tuấn (con Nông Đức Mạnh, cháu nội Hồ Chí Minh).

Tại Việt Nam, trong cuộc tranh chấp về ý thức hệ giữa hai khuynh hướng Cộng sản quốc tế theo Nga-Hoa và khuynh hướng tự do dân chủ theo Tây phương, đảng Cộng sản Việt Nam đã lợi dụng các thời cơ thuận lợi kể sau để cướp chánh quyền năm 1945, chiếm miền Bắc Việt Nam từ năm 1954 và thống trị cả nước Việt Nam từ năm 1975 đến nay:
1- Thời cơ thứ nhứt: Hội kiến giữa Hồ Chí Minh và Archimedes Patti

Hồ Chí Minh và nhóm OSS Hoa Kỳ tại chiến khu Cao Bắc Lạng và Thiếu tá Archimedes Patti hồi thế chiến thứ 2 (dưới, phải).

Trong thời gian công tác tại Hoa Nam (1940-1943) với tư cách đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc, Hồ Quang (Hồ Chí Minh) đã có cơ hội gặp Thiếu tá Archimedes Patti, Trưởng Phái bộ OSS (Office of Strategic Services), tiền thân của Central Intelligence Agency, tại Vân Nam. Lúc đó, Hồ Chí Minh là điệp viên Lucius cộng tác với Hoa Kỳ tại Hoa Nam. Trong dịp gặp mặt Hồ Chí Minh, Thiếu tá Patti đề nghị huấn luyện và trang bị võ khí cho đội Võ Trang Tuyên Truyền của Võ Nguyên Giáp để Hồ Chí Minh có một lực lượng võ trang trong chiến khu Cao Bắc Lạng giúp Hoa Kỳ chống Nhựt. Ngoài sự giúp đỡ của OSS, Hồ Chí Minh còn được Trung tướng Không quân hồi hưu Claire Lee Chennault (1893-1958), Chỉ huy trưởng Phi đội Flying Tigers (Cọp Bay) tặng cho một số súng lục khi ông ta đem giao trả một phi công Mỹ nhảy dù xuống chiến khu Cao Bắc Lạng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã sử dụng đội Võ Trang Tuyên Truyền và võ khí do Hoa Kỳ cung cấp để cướp chánh quyền năm 1945. Vào mùa thu năm ấy, đội Võ Trang Tuyên Truyền của Võ Nguyên Giáp là một lực lượng võ trang có nhiều võ khí hơn các chánh đảng và tổ chức chánh trị khác.

2- Thời cơ thứ hai: Nhựt bổn đầu hàng Hoa Kỳ
Sau ngày quân đội chiếm đóng Nhựt đảo chánh nhà cầm quyền Pháp (9-3-1945) và Hoàng đế Bảo Đại tuyên cáo nước Việt Nam độc lập (11-3-1945), Nội các Trần Trọng Kim đã được thành lập lần đầu tiên tại Việt Nam với các nhân vật có trình độ văn hóa cao. Trong khi Nội các Trần Trọng Kim đang tiến hành các chương trình xây dựng đất nước vừa mới thu hồi độc lập, ngày 15-8-1945, Nhựt hoàng Hirohito tuyên bố đầu hàng vô điều kiện vài ngày sau khi Hoa Kỳ tàn phá hai thành phố Hiroshima và Nagasaki với hai trái bom nguyên tử cở nhỏ. Tại Hà Nội, ngày 19-8-1945, đảng Cộng sản Việt Nam đã chớp thời cơ sử dụng bạo lực cướp chánh quyền từ trong tay Nội các Trần Trọng Kim và vua Bảo Đại. Tại Sài Gòn, một nhóm nhỏ đảng viên cộng sản Đệ tam quốc tế gồm có Trần văn Giàu, Nguyễn văn Trấn, Phạm Ngọc Thạch, Dương Bạch Mai, Nguyễn văn Nguyễn, Cao Đăng Chiếm v.v…đã sử dụng đoàn Thanh Niên Tiền Phong, một tổ chức ngoại vi cuả đảng Cộng sản Việt Nam, để cướp chánh quyền vài ngày sau Hà Nội. Vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn đã bị buộc phải thoái vị để tránh khỏi nội chiến giữa người Việt Nam theo đuổi hai khuynh hướng chánh trị khác nhau.
Mặc dầu đã cướp được chánh quyền nhưng vì thiếu chánh nghĩa và bất hợp pháp, ngụy quyền Hồ Chí Minh từ năm 1945 đến năm 1949 đã không được bất cứ một quốc gia nào trên thế giới công nhận, kể cả Liên Xô.

Lợi dụng tư thế và phương tiện của nhà cầm quyền, cán bộ cộng sản Đệ tam quốc tế ở khắp nơi trong nước nhận được chỉ thị của Hồ Chí Minh ra tay tiêu diệt ngay tất cả đảng viên Đệ tứ quốc tế cộng sản, các trí thức yêu nước nổi tiếng, các nhà hành chánh lỗi lạc và nhiều nhân tài tinh hoa của dân tộc cũng như lãnh tụ các đảng phái quốc gia giữa lúc quân đội viễn chinh Pháp trở lại tái chiếm Việt Nam: Thượng thơ Phạm Quỳnh, Tổng đốc Ngô Đình Khôi, Bùi Quang Chiêu, Tạ Thu Thâu, Phan văn Hùm, Trần văn Thạch, Huỳnh văn Phương, Dương văn Giáo, vợ chồng Hồ Vĩnh Ký, Lê Bá Cang, Lê văn Tình, Đào Sanh Long, Trương Tử Anh, Lý Đông A, Khái Hưng Trần Khánh Giư, Nhượng Tống v.v…

Hình ảnh một số những nhân tài của Việt Nam bị việt cộng sát hại

Mặc dầu đã bị quân Pháp rượt chạy ra khỏi Sài Gòn từ tháng 9 năm 1945, bọn Cộng sản Đệ tam quốc tế dưới mặt nạ Việt Minh, một tổ chức ngoại vi của đảng Cộng sản Việt Nam thành lập tại Quảng Tây năm 1941, tiếp tục giết chết một cách dã man nhiều nhân vật tôn giáo, chánh trị và quân sự có uy tín: Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ, Khâm sai Đại thần Nguyễn văn Sâm, Giáo sư Hồ văn Ngà, Tiểu đoàn trưởng Hoàng Thọ, một số đông chức sắc và đạo hữu Cao Đài Tây Ninh, viên chức xã ấp (Ban Hội tề) và rất nhiều thường dân bị chụp mũ oan ức là Việt gian, gián điệp của Pháp. Thân hào, nhân sĩ, trí thức là mục tiêu chém giết của bọn bần cố nông bị đảng Cộng sản tuyên truyền xúi dục.
Tại Hà Nội, Bộ trưởng bộ Quốc Phòng Võ Nguyên Giáp đã mời Thứ trưởng bộ Quốc Phòng Vũ Hồng Khanh cùng ký kết với Jean Sainteny, Đại diện Cao Ủy Pháp Leon Pignon, Tạm Ước ngày 6-3-1946 để thực hiện sách lược “rước Pháp, đuổi Tàu” nhằm mục đích tận diệt lực lượng võ trang của Việt Cách và Việt Quốc sau khi quân đội của Lư Hán rút về Tàu.

Phan Văn Hùm bút danh Phù Dao (phải), là một nhà báo, nhà văn, nhà cách mạng, và là lãnh tụ phong trào Cộng sản Đệ Tứ tại Việt Nam.

Nói tóm lại, người cộng sản Việt Nam đã gọi hành động cướp chánh quyền năm 1945 là cuộc Cách mạng mùa Thu. Đúng là một cuộc Cách mạng mùa Thu chết vì đảng Cộng sản Việt Nam đã giết chết quá nhiều đồng bào ngay trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp để tóm đoạt quyền lãnh đạo kháng chiến và cướp công đấu tranh của quần chúng yêu nước tham gia kháng chiến giành độc lập cho dân tộc Việt Nam.

Đức Huỳnh Phú Sổ, giáo chủ Phật Giáo Hòa Hảo và Nhượng Tống (phải), nhà văn, nhà báo, dịch giả và là nhà cách mạng Việt Nam.

3- Thời cơ thứ ba: Trung Cộng toàn thắng tại Trung Hoa
Sau khi đánh bại Tưởng Giới Thạch, Mao Trạch Đông đã thành lập nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa ngày 1-10-1949 và công nhận ngụy quyền Hồ Chí Minh vào tháng 1 năm 1950. Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là quốc gia đầu tiên thiết lập bang giao với nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vì Hồ Chí Minh là cán bộ của đảng Cộng sản Trung Quốc. La Quy Ba, cán bộ chánh trị của đảng Cộng sản Trung quốc, đã được Bắc kinh gởi sang miền thượng du Bắc Việt để làm Cố vấn cho ngụy quyền Hồ Chí Minh. Trong hai năm 1950 và 1951, người đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc mang bí danh Hồ Quang nay trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã trở về Tàu cầu xin viện trợ quân sự để đánh Pháp vì “bộ đội Việt Minh đã chiến đấu trong vòng vây của quân Pháp” (theo lời các cố vấn quân sự Tàu) và chính bản thân Hồ Chí Minh cũng suýt bị quân Pháp bắt sống.
Vì quyền lợi lâu dài của Đại Hán, Bắc kinh đã tích cực giúp đỡ đảng Cộng sản Việt Nam, một chi bộ của đảng Cộng sản Trung Quốc, về cả hai mặt quân sự và chánh trị. Đoàn Cố vấn quân sự Tàu do Đại tướng Trần Canh chỉ huy đã được cấp tốc gởi sang Việt Nam. Nếu không có sự trực tiếp tham chiến của Đại tướng Trần Canh và chí nguyện quân Tàu áp dụng chiến thuật biển người thì Việt Minh làm sao có thể bắt sống được hai Đại tá Pháp Le Page và Charton trong chiến dịch biên giới năm 1950? Nếu không có sự tham chiến của Pháo binh Trung Quốc dưới quyền chỉ huy của tướng Tàu Vi Quốc Thanh thì Võ Nguyên Giáp làm sao có thể chiến thắng Thiếu tướng Pháp De Castries tại Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954? Nếu không có ý kiến của Thủ tướng Anh Winston Churchill chống lại sự can thiệp của Hoa Kỳ vào trận đánh Điện Biên Phủ thì các ổ trọng pháo của Vi Quốc Thanh và các sư đoàn bộ đội của Việt Minh còn nguyên vẹn hay không trong mưa bom của các phóng pháo cơ B29 Hoa Kỳ?

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đưa Hồ Chí Minh về Bắc bộ phủ ngự trị miền Bắc Việt Nam. Cái giá phải trả lần đầu cho viện trợ quân sự của Trung Quốc là công hàm ngày 14-9-1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Phạm văn Đồng công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hồ Chí Minh và Phạm văn Đồng đã qua đời từ lâu nhưng công hàm bán nước nầy vẫn để lại những di hại nghiêm trọng cho đất nước và dân tộc Việt Nam: mất chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và không khai thác được những tài nguyên phong phú của biển cả (hải sản, dầu khí và các khoáng sản dưới đáy biển Đông).

Dưới quyền chỉ đạo của Thái thú Trung Quốc La Quý Ba, Bắc Việt đã chánh thức tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trước khi ban hành Hiến pháp 1959. Tuân hành chỉ thị của Trung Quốc, Bắc Việt đã tiến hành Cải Cách Ruộng Đất từ năm 1951 đến năm 1956 dưới sự chỉ đạo của các cố vấn Tàu để giết hại vô số địa chủ, phú nông và thân hào nhân sĩ ở nông thôn miền Bắc, Hợp Tác Hóa Nông Nghiệp để cướp ruộng đất và tài sản của nông dân, đàn áp, trừng phạt và tù đày các trí thức, nhà báo và văn nghệ sĩ, tập trung cải tạo các quân nhân, công chức của chế độ Quốc Gia Việt Nam không di tản vào Nam và lùa gia đình của họ về các vùng thâm sơn cùng cốc để khai hoang sinh sống lây lất cho đến hết kiếp người.

Về mặt kinh tế, Bắc Việt cộng sản đã áp dụng chế độ mậu dịch quốc doanh và chế độ tem phiếu, đánh tư sản mại bàn và cải tạo công thương nghiệp để dẹp bỏ tư doanh.
Về mặt an ninh nội chính, Bắc Việt cộng sản triệt để thực hiện chế độ công an trị và vay mượn chế độ hộ khẩu của Vệ Ưởng (còn gọi là Thương Ưởng) bên Tàu từ thời Chiến Quốc.

Sau khi nhưộm đỏ miền Bắc, đảng Cộng sản Việt Nam âm mưu thôn tính miền Nam, ngụy tạo ra lý do thống nhứt đất nước để thành lập Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam năm 1960 và một số tổ chức chánh trị của các trí thức thiên tả có nhiệm vụ đánh phá, khuấy rối an ninh trật tự của Việt Nam Cộng Hòa theo khuynh hướng tự do dân chủ của Tây phương. Nịnh bợ hai quan thầy Nga-Hoa để nhận viện trợ đánh miền Nam, Bắc Việt cộng sản luôn luôn gọi Trung quốc là Trung quốc vĩ đại, Liên Xô là Liên Xô vĩ đại. Trong các đại hội của đảng Cộng sản, Bắc Việt không bao giờ quên treo trên cao hình ảnh của Josef Stalin và Mao Trach Đông bên cạnh hình của Karl Marx và Vladimir Lenin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân chiêm ngưỡng, thờ phượng. Tuy nhiên, kể từ thập niên 1950, Bắc Việt đã chịu ảnh hưởng của Trung quốc nhiều hơn Liên Xô vì Stalin đã giải tán Đệ tam quốc tế cộng sản từ năm 1943, không công nhận ngụy quyền Hồ Chí Minh trước năm 1950 và cũng không viện trợ quân sự cho đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt cuộc Chiến tranh Đông Dương (1945-1954). Tình đồng chí Việt-Xô càng thêm suy giảm sau khi Stalin qua đời, nhứt là từ khi Nikita Khrushev (1953-1964) kế vị Stalin nêu cao chủ trương xét lại chủ nghĩa cộng sản để sống chung hòa bình với chế độ tư bản. Dưới sự trị vì của Hồ Chí Minh, đảng Cộng sản Việt Nam rất dị ứng với Nikita Khrushev vì vị Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Liên xô đã công khai chỉ trích nhà độc tài khát máu Josef Stalin, thần tượng của Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam.

Nói tóm lại, sau khi toàn dân Việt yêu nước đã đứng dậy đánh đuổi thực dân Pháp, Bắc Việt đã mất độc lập đối với Trung Cộng, nhân dân miền Bắc Việt Nam mất tự do và không có hạnh phúc trong kiếp sống lầm than đói khổ và bị Công An kềm kẹp ngày đêm. Ngay cả các đảng viên cộng sản cao cấp như Bí thơ Vũ Đình Huỳnh, Thiếu tướng Lê Liêm, Thiếu tướng Đặng Kim Giang, Viện trưởng Hoàng Minh Chính, Thứ trưởng bộ Công An Lê Hồng Hà v.v…cũng bị trù dập, tù đày khi hưởng ứng chánh sách Đổi Mới của Tổng Bí thơ đảng Cộng sản Liên Xô Nikita Khrushev.

Hình ảnh tội ác cộng sản giết hại dân trong những đợt cải cách ruộng đất tại miền bắc.

4- Thời cơ thứ tư: Đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Ngày 23-8-1963, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gởi một công điện qua Sài Gòn ra lịnh Đại sứ Cabot Lodge đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, vị Tổng Thống dân cử đầu tiên của miền Nam Việt Nam. Công điện nầy đã không trình Tổng Thống John F. Kennedy xét duyệt. Người quyết định đảo chánh Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm là Thứ trưởng bộ Ngoại Giao Averell Harriman vì hai lý do:
– Đại nhân đảng Dân Chủ Hoa Kỳ Harriman không ưa Tổng Thống Ngô Đình Diệm;

– Tổng Thống Ngô Đình Diệm không đồng ý cho Hoa Kỳ đem quân chiến đấu sang Nam Việt Nam, lo ngại mất chánh nghĩa của cuộc chiến đấu bảo vệ tự do của nhân dân miền Nam.

Ngày 1-11-1963, cuộc đảo chánh Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã tiến hành thuận lợi dưới sự chỉ huy của Trung tá CIA Lucien Conein. Ngày 2-11-1963, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ là Cố vấn Chánh trị Ngô Đình Nhu đã bị thảm sát trên đường tướng Mai Hữu Xuân áp giải hai đại nhân vật nầy từ nhà thờ Cha Tam ở Chợ Lớn về bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Sau khi lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng gồm một số tướng lãnh và Đại tá đã hủy bỏ Hiến pháp ngày 26-10-1955 và giựt sập nền Đệ nhứt Cộng Hòa.

Khi nghe tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một đối thủ chánh trị lợi hại, đã bị giết chết, Hồ Chí Minh cười to và nói đại ý như sau: Trời đã giúp ta, khiến cho Hoa Kỳ khờ dại giết chết Ngô Đình Diệm.
Lời phê phán của Hồ Chí Minh rất đúng. Thật vậy, sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị sát hại, không có một lãnh tụ nào của các chế độ chuyển tiếp có đủ bản lãnh và uy tín để đối phó với Hồ Chí Minh. Mặt khác, quyết định của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng hủy bỏ quốc sách Ấp Chiến Lược của ông Cố vấn Chánh trị Ngô Đình Nhu đã giúp cho cán binh cộng sản ung thối nông thôn miền Nam. Cộng sản Bắc Việt đã lợi dụng sự suy yếu rõ rệt của Việt Nam Cộng Hòa sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông Cố vấn Ngô Đình Nhu qua đời để tăng cường xâm nhập miền Nam, sử dụng con đường mòn Hồ Chí Minh trên đất Lào. Để cứu nguy Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ đã lập tức đổ quân vào miền Nam Việt Nam, kể từ tháng 2 năm 1965. Đúng như lời cảnh giác của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, sự can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ vào cuộc nội chiến giữa miền Nam và miền Bắc Việt Nam đã gây ra một công luận bất lợi cho Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa trên chánh trường thế giới. Phong trào phản chiến đã phát triển ngày càng mạnh mẽ tại Hoa Kỳ, đòi hỏi Hoa Kỳ rút quân khỏi miền Nam Việt Nam. Báo chí và hệ thống truyền thông Mỹ không ngớt chỉ trích gay gắt Việt Nam Cộng Hòa một cách bất công.

5-Thời cơ thứ năm: Hoa Kỳ quan hệ ngoại giao với Trung quốc.
Tháng 2 năm 1972, Tổng Thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã đến Thượng Hải hội kiến với Mao Trạch Đông, Chủ tịch đảng Cộng sản Trung Quốc. Một thông cáo chung đã được công bố tại Thượng Hải để chánh thức thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Trung quốc và Hoa Kỳ. Trước khi hội kiến với Mao Trạch Đông, Tổng Thống Nixon đã ghi trong sổ tay hai nhượng bộ đối với Trung quốc: Đài Loan và Nam Việt Nam. Đổi lại, Trung quốc sẽ cho giới tư bản Mỹ đầu tư tại nước rộng lớn nầy và buôn bán sản phẩm giữa hai nước. Ngoài thông cáo chung Thượng Hải, Tiến sĩ Henry Kisssinger, Cố vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ, còn nói thẳng với Chu Ân Lai, Thủ tướng Quốc Vụ Viện Trung quốc: Hoa Kỳ đã bang giao với Trung quốc thì cũng có thể quan hệ bình thường với Bắc Việt. Để thực hiện sự nhượng bộ đối với Trung quốc tại Nam Việt Nam, Tiến sĩ Kissinger đã đi đêm với Lê Đức Thọ, Cố vấn Phái đoàn hòa đàm của Bắc Việt, và chấp nhận hầu hết các điều khoản của bản dự thảo hiệp định Paris do Lê Đức Thọ soạn thảo. Hoa Kỳ đã cưỡng bách Việt Nam Cộng Hòa phải chấp thuận bản dự thảo hiệp định nầy. Để dẹp bỏ sự chống đối của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn văn Thiệu, Đại tướng Alexander Haig, Phụ tá của Cố vấn Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Kissinger và Tổng Thống Richard Nixon đã không ngần ngại đe dọa mạng sống của Tổng Thống một nước đồng minh. Hiệp định Paris ký kết ngày 27-1-1973 là một bản án khai tử Việt Nam Cộng Hòa, một hiệp định quốc tế được long trọng ký kết trước sự hiện diện của Tổng Thơ Ký Liên Hiệp Quốc bởi 12 quốc gia trong đó có 5 nước thành viên thường trực của Hội Đồng Bảo An để rồi bị xé bỏ ngay sau đó không một ai thương tiếc. Tiếp theo việc ký kết hiệp định Paris, Hoa Kỳ đã chấm dứt viện trợ quân sự và tất cả các khoản viện trợ khác cho Việt Nam Cộng Hòa, cưỡng bách sự từ chức của Tổng Thống dân cử Nguyễn văn Thiệu để thúc đẩy nhanh chóng sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa.
Sự thay đồi chiến lược toàn cầu của Hoa Kỳ đã giúp cho Hải quân Trung quốc tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa ngày 19-1-1974 trước sự bàng quang vô cảm của Đệ thất hạm đội Hoa Kỳ và ngầm cho phép cộng sản Bắc Việt xua 13 sư đoàn công khai vượt vĩ tuyến 17 bất chấp hiệp định quốc tế Geneve ký kết ngày 20-7-1954 để tràn ngập miền Nam. Bắc Việt cộng sản đã chiến thắng trong cuộc Chiến tranh Việt Nam nhưng đã vi phạm trắng trợn hai hiệp định Geneve và Paris. Tuy nhiên, Liên hiệp quốc, Hoa Kỳ và các nước đã ký kết hai hiệp định quốc tế nầy đều đồng tình làm ngơ trước sự vi phạm luật pháp quốc tế nầy. Nếu Hoa Kỳ không chuyển giao miền Nam Việt Nam cho đế quốc cộng sản phương Đông và không chấm dứt mọi viện trợ thì làm sao Bắc Việt cộng sản có thể thôn tính Việt Nam Cộng Hòa?
Sau ngày 30 tháng tư năm 1975, kẻ chiến thắng đã thiết lập một chế độ cộng sản độc tài độc đảng ngự trị toàn cõi Việt Nam cho đến ngày nay. Dưới quyền lãnh đạo chuyên chế của Lê Duẫn, Việt Nam đã “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội” để đem lại nghèo đói cho quảng đại quần chúng, đưa vô số người dân vào ngục tù và triệt tiêu tất cả quyền tự do căn bản của dân tộc Việt. Mô hình cai trị của miền Bắc xã hội chủ nghĩa lập tức áp đặt trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam.
Cái giá phải trả cho sự thôn tính miền Nam là 10 tỷ Mỹ kim mua các võ khí nặng của Liên Xô và 300 tỷ Mỹ kim mua các phương tiện chiến tranh khác của Trung Cộng. Riêng đối với Trung Cộng, đảng Cộng sản Việt Nam đã phải trả nợ chiến tranh bằng lãnh thổ, quần đảo và biển Đông.
Tự hào đã chiến thắng đế quốc Mỹ năm 1975 sau khi đánh đuổi phát xít Nhựt năm 1945 và thực dân Pháp năm 1954, đảng Cộng sản Việt Nam đã công khai phơi bày lý lịch cộng sản của mình và tự nguyện làm tiền đồn tại Đông Nam Á của chủ nghĩa cộng sản quốc tế với tên nước rất hách dịch: Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Nhưng sau khi đế quốc cộng sản Liên Xô sụp đổ năm 1991, Cộng sản Việt Nam đã khấu đầu thần phục đế quốc cộng sản Đại Hán, đồng thời khúm núm ngữa tay cầu xin viện trợ của các cựu thù Hoa Kỳ, Nhựt bổn, Pháp, các nước Tây Âu và các định chế tài chánh quốc tế. Vì mưu cầu quyền lực và tích lủy tài sản riêng tư khổng lồ của họ cho các đời con cháu, các lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đã tình nguyện làm Thái thú cho Trung quốc và âm thầm sáp nhập dần dần toàn bộ lãnh thổ và biển Đông của Việt Nam vào Trung quốc để biến thành một quận huyện của Hán tộc theo yêu sách của Giang Trạch Dân tại hội nghị Thành Đô năm 1990.

Bản đồ đế quốc Mông Cổ trải dài từ Á sang Âu Châu từ 1206 -1294 suy tàn.

KẾT LUẬN
Trong 5 thời cơ kể trên, Hoa Kỳ đã tạo ra 3 thời cơ thuận lợi cho đảng Cộng sản Việt Nam khai thác để làm chủ đất nước Việt Nam và thiết lập tại Hà Nội một triều đình phong kiến có toàn quyền ban bố chức vị, vàng bạc và đất đai cho một thiểu số cán bộ, đảng viên cộng sản (3 triệu người) trong tổng số 90 triệu đồng bào trong nước. Trong cuộc nội chiến giữa người Việt Nam kéo dài 30 năm (1945-1975), đảng Cộng sản đã đạt thắng lợi cuối cùng nhờ bất chấp luật pháp quốc tế và có viện trợ hùng hậu của Trung quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, các lãnh tụ cộng sản cũng biết lợi dụng các thời cơ thuận lợi để cướp được chánh quyền trong cả nước.

Về mặt tâm linh, chính Thượng đế đã thiết lập mọi chánh quyền trên quả đất nầy để giúp dân lành và diệt trừ hung bạo. (Roma 13:1-4). Nếu không giúp dân lành mà lại sử dụng bọn xã hội đen gian ác, bất lương để cướp của, giết người, đánh đập hà hiếp lương dân, chánh quyền đó chắc chắn sẽ bị diệt vong vì không làm đúng nhiệm vụ do Thượng đế giao phó. Ngoài ra, Thượng đế cũng đã phán rằng không có đế quốc nào không suy tàn (Daniel 2:24-49). Tự cổ chí kim, các đế quốc hùng mạnh như đế quốc Assyria (Assyrian Empire), Babylon (Babylonian Empire), Ba Tư (Persian Empire), La Mã (Roman Empire), Mông Cổ (Mongolian Empire) , Thổ Nhĩ Kỳ (Ottoman Empire), Liên Xô (Soviet Empire) đã lần lượt sụp đổ. Ngày tiêu vong của đế quốc cộng sản Hán tộc (Han Empire) phương Bắc không còn xa. Chế độ cộng sản Việt Nam cũng sẽ cùng chung số phận của quan thầy Bắc kinh.

Phạm Đình Hưng

SỰ VIỆC ĐỐN CÂY TẠI THỦ ĐÔ CHỈ LÀ CHUYỆN NHỎ

SỰ VIỆC ĐỐN CÂY TẠI THỦ ĐÔ CHỈ LÀ CHUYỆN NHỎ

Trần Quí Cao

Sự Việc Đã Xảy Ra

Những ngày giữa tháng 3/2015, người dân Hà Nội bỗng thấy cây xanh các tuyến phố bị đốn hạ tràn lan và không thương tiếc. Tìm hiểu người ta mới biết:

Sở Xây dựng Thành phố Hà Nội đề xuất thành phố cho thay thế 6.700 cây, thời gian thực hiện trong 3 năm (2015 – 2017), dự tính kinh phí khoảng 60 tỷ đồng. Chấp nhận đề xuất, sau đó chính quyền Hà Nội tiến hành đốn cây, bất chấp những lời kêu gọi dừng lại của nhiều thành phần dân chúng thủ đô. Trong vòng 3 ngày, theo báo PetroTimes, có khoảng 2.000 cây bị đốn. Dọc con phố Nguyễn Chí Thanh, hơn 400 gốc cây, xác cây nằm la liệt. Trong số các cây bị đốn hạ, có rất nhiều cây đang mạnh khỏe, to đẹp.

Do sự phản đối dữ dội của dư luận, Hà Nội phải dừng việc đốn cây.

Thái Độ Không Thèm Nghe Ý Dân của Chính Quyền Hà Nội

Trước khi có lệnh tạm dừng việc đốn cây và điều tra, giới cầm quyền Hà Nội tỏ thái độ không bận tâm với những ý kiến phản đối. Đáp lại phản ứng của các tầng lới dân chúng thủ đô, ông Phó trưởng ban tuyên giáo Hà Nội Phan Đăng Long tuyên bố việc chặt cây không cần phải hỏi dân. Thái độ nhà cầm quyền rõ ràng là không nghe ý dân. Không thèm nghe.

Thực ra việc không thèm nghe ý kiến của đám dân đen đã là thói quen của nhà cầm quyền độc tài độc đảng. Khi ý đảng và lòng dân khác nhau, nhà cầm quyền bất chấp lòng dân. Do đó, chính quyền đã tiến hành biết bao nhiêu việc gây tổn thất về tiền của, tính mạng và đau thương cho dân chúng!

Một Số Chính Sách Tàn Hại Vì Không Nghe Theo Ý Dân

Từ sau 1975, từ khi đảng Cộng Sản cai trị toàn thể đất nước theo chế độ độc đảng và toàn trị, nhà cầm quyền đã thi hành bao nhiêu chính sách tàn hại ghê gớm cho đất nước, bất chấp lòng dân? Hãy cùng xem lại:

1) Chính sách bắt “Ngụy Quân Ngụy Quyền” vào trại Học Tập Cải Tạo. Thực chất của chính sách này là bỏ tù không xét xử các viên chức chính quyền và quân đội chế độ Sài Gòn. Sau khi Việt Nam thống nhất, lẽ ra chính quyền cần thi hành chính sách thu phục lòng dân, kéo hai miền tổ quốc xích lại gần nhau, thì chính sách này lại đẩy hận thù của hai miền lên cao ngất. Hậu quả tai hại của hận thù và chia cắt lòng người vẫn còn tồn tại rất lớn sau 40 năm!

2) Chính sách Cải Tạo Tư Sản Mại Bản, Tư Sản Công Thương Nghiệp. Thực chất của chính sách này là tịch thu tài sản do người dân miền Nam gầy dựng để ban phát cho viên chức của đội quân chiến thắng. Chính sách này tiêu diệt nền tảng sản xuất, kinh doanh của miền Nam, cả cơ sở vật chất lẫn tầng lớp con người có khả năng, kéo theo cả nước đói nghèo 15 năm sau đó.

3) Chính sách Xóa Bỏ Văn Hóa Phẩm Phản Động Đồi Trụy. Thực chất của chính sách này là xóa bỏ tất cả kiến thức, tư tưởng, triết thuyết chính trị không thuộc hệ thống tri thức ủng hộ chủ nghĩa Cộng Sản; các thông tin về thế giới các nước Tự Do, về chính quyền miền Nam trước ngày thua trận. Thậm chí nó còn xóa bỏ cả các kiến thức thuộc lãnh vực kỹ thuật không do hệ thống các nước chủ nghĩa cộng sản sản xuất ra!

Sự nghèo nàn tri thức và suy thoái về đạo đức, văn hóa, giáo dục, học thuật… hiện nay có phần đóng góp nào của chính sách này?

4) Chính sách “Ngăn Sông Cấm Chợ”. Thực chất của chính sách này là ngăn cấm người dân mang từng lạng (1 lạng = 100 gam) gạo hay thịt từ tỉnh này sang tỉnh khác. Các bạn trẻ hiện nay khó có thể tưởng tượng một việc vô lí tới như vậy có thể xảy ra trên toàn quốc. Chính sách này đã biến vùng đất trù phú của tổ quốc – đồng bằng sông Cửu Long, từ vựa lúa gạo của thế giới thành nơi đói kém, thiếu gạo, dân chúng phải ăn độn khoai, bo bo… trong nhiều năm.

5) Chính sách phân biệt các thành phần thí sinh trong tuyển sinh đại học. Thực chất của chính sách này là tận diệt nhân tài của chế độ miền Nam thua trận.

6) Và bao nhiêu chính sách khác nữa…

Mỗi chính sách ban ra, đất nước bị kéo ngược chiều tiến văn minh của nhân loại, và tiếng oán than của dân chúng cao ngất trời. Nhưng các chính sách ấy vẫn được thi hành và kéo dài rất nhiều năm mặc cho lòng dân uất ức và căm phẫn.

Nếu ý kiến của dân chúng được lắng nghe, bao thảm họa do chính sách đã được ngăn chận.

Làm sao nhà cầm quyền lắng nghe ý dân? Và hơn nữa, làm theo ý dân?

Không thể trông chờ vào một nhà lãnh đạo cao cấp riêng lẻ nào đó. Chú ý rằng vấn đề không nằm ở cá thể, mà ở quần thể, xã hội. Kinh nghiệm nhân loại về chính trị xã hội dạy rằng: cần phải tổ chức xã hội sao cho nhà cầm quyền phải nghe và làm theo ý dân. Nếu nhà cầm quyền không nghe và không làm theo ý dân, dân chúng sẽ có quyền phế truất họ, đưa nhà cầm quyền khác thay thế.

Muốn vậy đất nước phải được tổ chức sao cho:

1) Có nhiều hơn một đảng. Các đảng thay nhau trong vai trò cầm quyền và đối lập để kiểm soát và hợp tác lẫn nhau, và dân kiểm soát chính quyền

2) Người dân thực sự kiểm soát việc trao quyền cho đảng biết làm theo, và làm một cách hữu hiệu, ý dân, lòng dân.

Muốn vậy, dân chúng nhất thiết phải có các quyền tự do căn bản dưới đây:

1) Quyền Tự Do ứng cử và bầu cử

2) Quyền Tự Do lập hội, lập đảng

3) Quyền Tự Do ngôn luận, Tự Do báo chí

Khi người dân giành được các quyền Tự Do đó, hệ quả tất yếu sẽ là:

1) Không còn độc đảng.

2) Tam quyền phân lập.

3) Xã hội được quản lí trong tinh thần pháp trị.

3) Lực lượng vũ trang không còn trung thành, bảo vệ bất kì một đảng nào mà chỉ trung thành, bảo vệ tổ quốc.

Nếu người dân không có các quyền Tự Do kể trên thì các lời nói như “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra” hay “quyền lực thuộc về nhân dân”, chính quyền “của dân, do dân, vì dân”… chỉ là những lời trống rỗng và/hay dối trá.

Nếu người dân không có các quyền Tự Do kể trên thì sự việc chặt cây tại Hà Nội chỉ là chuyện nhỏ, thậm chí rất nhỏ.

Các dự án hàng chục tỉ đô la đã, đang và sẽ được vẽ ra, thông qua một cách khuất tất để lấy tiền dân chia nhau.

Những món nợ hàng chục tỉ đô la đã, đang và sẽ được vay để lại núi nợ cho con cháu, ngăn cản đường tiến lên của chúng.

Phong hóa dân tộc suy đồi, đạo đức dân tộc xuống cấp, truyền thống tốt đẹp của dân tộc mất đi.

Việt Nam ngày càng lạc hậu so với lân bang như Thái Lan, Mã Lai…

Từng phần lãnh thổ đất liền và biển đảo dần dần rơi vào tay Trung Cộng. Đất nước ngày càng lệ thuộc toàn diện vào nước Trung Quốc bạo ngược…

So với viễn cảnh khủng khiếp trên, việc “đốn cây giữa lòng thủ đô” chẳng là chuyện hết sức nhỏ hay sao?

T.Q.C.

ĐỒNG CẢM VỚI CHÚA

ĐỒNG CẢM VỚI CHÚA

Chuyện kể rằng khi quân Mông Cổ mở mang bờ cõi đến vùng Ba Tư, họ bắt được một tu sĩ công giáo.  Quân Mông Cổ giải vị tu sĩ đến gặp Thành Cát Tư Hãn.  Thấy người tù binh đeo một cây thánh giá trước ngực, vị đại hãn hỏi về ý nghĩa của dấu hiệu này. Thế là vị tu sĩ nhân cơ hội ngàn vàng kể lại cuộc đời của Chúa Giêsu cho cả triều đình Mông Cổ nghe.  Vị đại hãn tỏ ra thích thú, cho đến khi nghe đoạn thương khó.

Khi nghe đến chuyện Chúa Giêsu bị phản bội, bị bắt, bị đánh đòn, rồi bị đóng đinh, càng lúc khuôn mặt của đại hãn càng lộ vẻ tức giận.  Đến lúc vị tu sĩ nói: “Chúa Giêsu kêu lớn: Elôi, Elôi lamma sabác thani” (Mc 15:34), Thành Cát Tư Hãn gầm lên: “Rồi sao nữa?”  Sau khi nghe chuyện Chúa Giêsu gục đầu tắt thở, màn đền thờ xé làm đôi, rồi viên đại đội trưởng tuyên bố “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa” (Mc 15:38), đại hãn trầm ngâm một lúc rồi hỏi: “Thế Thượng đế của các ngươi đã làm gì?”  “Ngài có sai quân binh trên trời xuống tàn sát những kẻ giết con của Ngài không?”

Khi thấy vị tu sĩ lắc đầu, Thành Cát Tư Hãn khoát tay đuổi ông ra và không muốn nghe thêm nữa.  Đại hãn bình luận: “Một chủ tể mà không bảo vệ được con của ngài, một quân vương mà không trả thù cho con của ngài, thì có gì mà đáng kính phục.” Và dĩ nhiên là Thành Cát Tư Hãn không theo đạo.

****************************

Tội nghiệp vị đại hãn chưa có dịp nghe đoạn kết câu chuyện, vì nếu đã được nghe, có lẽ ông đã có một kết luận khác. Còn chúng ta, dĩ nhiên là chúng ta biết hết câu chuyện thương khó của Chúa Giêsu. Chúa chết trên thập giá để chuộc tội cho nhân loại và ba ngày sau Ngài sẽ sống lại.  Nhưng chúng ta có thật sự hiểu câu chuyện này không? Chúng ta có thực sự hồi hộp theo dõi từng tình tiết một, như vị đại hãn đã làm không?

Có lẽ vì chúng ta nghe quá nhiều lần nên có khi đã không còn tâm tình cùng đi với Chúa Giêsu trên con đường tử nạn.  Có lẽ vì chúng ta biết Chúa sẽ sống lại nên khó cảm nghiệm được cảm giác của người nghe câu chuyện lần đầu. Bi thương, hùng tráng, giận dữ, chua xót, mất mát, đau buồn, v.v…  Những cảm giác đó mới chính là những gì chúng ta cần được cảm nghiệm trong Tuần Thánh này.  Kể từ hôm nay, chúng ta được mời cùng đi với Chúa Giêsu, với Mẹ của Ngài, từng ngày một, từng bước một, vào trong câu chuyện Thương Khó.

Cuộc Thương Khó giúp tôi ý thức sự giới hạn của lý trí khi tôi không có câu trả lời cho những vấn nạn của cuộc đời:  Tại sao tôi mất việc?  Tại sao gia đình tôi đổ vỡ?  Tại sao con cái tôi hư hỏng?  Tại sao em tôi bị bạo bệnh?  Tại sao bạn tôi chết khi còn quá trẻ?  Tại sao và tại sao?  Đó là những vấn nạn, đôi khi không có câu trả lời.  Nhìn lên Chúa, Chúa im lặng.  Nhìn sang Phật, Phật nhắm mắt.  Hỏi những người thông thái, họ lắc đầu: Không biết!  Phải chăng lúc đó tôi cũng kêu lên rằng: Lạy Chúa sao Chúa bỏ con?

*********************************

Bạn thân mến,

Đau khổ là một thực tế không thể chạy trốn trong kiếp người. Tôi chỉ có thể trực diện với nó khi tôi biết Con Thiên Chúa cũng đã đi qua cái chung cuộc tồi tàn nhất của kiếp người. Bị bạn bè bán đứng, bị người thân chối bỏ.  Thân phận Ngài còn thua xa tên tội phạm Barabba.  Con Thiên Chúa đã chết một cách thầm lặng trần truồng trên thập giá.  Đứng dưới chân thập giá, có mấy người nhỏ lệ?  có bao nhiêu người hả hê?  Nếu Con Thiên Chúa, Đấng vô tội mà còn bị người đời đối xử thế đó, thì làm sao tôi là môn đệ Ngài có quyền đòi hỏi cái gì khác hơn.  Nếu Thiên Chúa đã im lặng khi Con của Ngài bị giết, thì làm sao tôi có quyền đòi hỏi Thiên Chúa phải lên tiếng khi tôi gặp đau khổ.

Chúa Giêsu đã mang lấy một số phận nghiệt ngã hơn chúng ta nhiều lắm.  Thế nên khi gặp đau khổ hoạn nạn, tôi đừng vội trách Chúa sao lại gửi cho con thập giá quá nặng nề.  Không, Thiên Chúa không phải là tác giả của hình phạt dã man độc ác đó.  Chính con người chúng ta nghĩ ra những trò độc ác, những hình phạt dã man để hại nhau, giết nhau. Và rồi chính con ngưòi đóng đinh cả Con Thiên Chúa trên đó nữa.

Nhưng phần Ngài, sao Ngài lại chấp nhận như thế?  Phải chăng khi chọn chén đắng của cuộc đời, Chúa Giêsu muốn tỏ cho chúng ta thấy đau khổ và sự chết không phải là tiếng nói sau cùng?  Phải chăng Ngài muốn chia sẻ thân phận mỏng dòn yếu hèn của chúng ta?  Đúng như lời thánh Phaolô tuyên bố: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa… nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8).  Quả thế, Con Thiên Chúa đã cúi mình xuống để nâng chúng ta lên với Ngài.  Dù chúng ta phải đi qua con đường khổ giá, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đi một mình.  Qua những người chung quanh, Chúa Kitô ghé vai cùng vác thập giá cùng chia sẻ cuộc đời với chúng ta.

Chủ Nhật Lễ Lá hôm nay cũng còn gọi là Chủ Nhật Thương Khó.  Đây là chủ nhật đặc biệt nhất trong năm vì có đến hai bài Phúc âm được đọc.  Một bài Phúc âm về reo hò mừng vui của việc đón rước Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem… và sau đó là bài Phúc âm về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, bắt đầu từ âm muu nộp Chúa của Giuđa cho đến lúc táng xác Chúa.

Hai bài Phúc âm với hai tâm tình trái ngược.  Dân chúng hôm trước thì tung hô, mấy hôm sau thì đả đảo. Các môn đệ hôm trước thì hãnh diện đi với Thầy, vài hôm sau trốn chui trốn nhủi.  Các kinh sư và Biệt phái hôm trước thì e dè, vài bữa sau thì hả hê.  Tâm tình của con người là thế đó.  Và Chúa Giêsu biết điều đó.  Ngài chấp nhận tất cả, chịu đựng tất cả, tha thứ tất cả.

Thật dễ dàng để suy tư về ý nghĩa của Tuần Thương Khó, nhưng không thật dễ dàng để cảm nghiệm được những đau đớn của Tuần Thương Khó.  Mời bạn cùng với tôi, chúng ta hãy để những cảm giác đau đớn, giận dữ, khó chịu, kinh sợ, v.v… nổi lên trong lòng chúng ta.  Những cảm xúc này thật cần thiết để mỗi khi bị phản bội, bị bỏ rơi, bị lăng mạ hay bị kết án, bị trù dập hay bị sỉ nhục, bị chế diễu, bị lột trần hay bị đóng đinh, chúng ta có thể nhìn lên thập giá với một niềm an ủi.

Ước gì mỗi người chúng ta bước vào Tuần Thương Khó với tâm tình cuả Chúa Giêsu, để rồi khi chúng ta cùng chết đi với Ngài, chúng ta cũng cùng sống lại với Ngài.

Xin cầu chúc bạn một Tuần Thánh được cử hành trong niềm tin và ân sủng của Đấng đã chịu chết vì chúng ta. Amen.

Antôn-Phaolô

Anh chị Thụ Mai gởi

Lời trối trăng lạ lùng trong di chúc của Cụ Lý Quang Diệu :

DI CHÚC CỦA CỰU THỦ TƯỚNG LÝ QUANG DIỆU VIẾT ĐIỀU GÌ?

Lời trối trăng lạ lùng trong di chúc của Cụ Lý Quang Diệu :

“XIN PHÁ BỎ NGÔI NHÀ TÔI SAU KHI TÔI CHẾT”

Thơ Trần Mạnh Hảo

Ghi chú : Vì an ninh, Singapore có luật các nhà xung quang ngôi biệt thự của cụ Lý Quang Diệu không được phép xây cao hơn ngôi nhà của người cha đẻ ra đất nước Singapore .

Không được dùng nhà này làm nhà tưởng niệm tôi sau khi tôi mất
Hãy đập ngôi nhà tôi cho hàng xóm được cao tầng
Rồi trồng cỏ cây thành công viên xanh mát
Còn chút lòng này xin được hiến dâng

Không còn lời nào ca ngợi Lý tiên sinh được nữa
Cụ khiêm nhường giống hệt một thường dân
Cụ đã biến Singapore thành thiên đường dưới thế
Bằng tất cả thiên tài và một tấm lòng nhân…

Sài Gòn 22 h 10’ ngày 23-3-2015
T.M.H.

Chú thích ảnh : 1- Lý tiên sinh sinh thời . 2- Ngôi nhà của cụ Lý Quang Diệu trong di chúc chúc cụ để lại : xin đập ngôi nhà này cho các nhà xung quanh được xây cao tầng và biến nó thành công viên cây xanh công cộng.

Lý Quang Diệu, người biến hòn đảo muỗi mòng thành quốc gia giàu có (Phần I)

Lý Quang Diệu, người biến hòn đảo muỗi mòng thành quốc gia giàu có (Phần I)

Việt-Long – RFA
2015-03-23

LeeKuanYew

Cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu, nhà lãnh đạo đưa Singapore đến thịnh vượng và tiến bộ.

AFP file

Nhả lập quốc của Singapore, ông Lý Quang Diệu, vừa thất lộc vào sáng thứ hai, thọ 91 tuổi. Thông cáo đăng trên website chính thức của ông cho biết ông qua đời một cách yên bình vào 3 giờ 18 phút, giờ địa phương.

Ông Lý Quang Diệu được thế giới coi là người “cha già lập quốc” của Singapore, nhà kiến trúc tạo dựng tiểu đảo Singapore có vị trí chiến lược nhưng không nguồn tài nguyên, không cả nguồn nước đủ dùng, chỉ có muỗi mòng gây sốt rét là “tài sản”, thành một quốc gia tiên tiến, giàu có nhất và trong sạch nhất ở châu Á, người dân có mức sống cao vào nhóm chiếm hàng đầu trên thế giới, được giới lãnh đạo châu Á ngưỡng mộ và thường xuyên tham vấn.

Gia tộc di dân

Ông sinh ngày 16 tháng 9, 1923, thuộc thế hệ thứ tư người Quảng Đông di cư sang Singapore thời còn là thuộc địa của Anh quốc. Thế hệ thứ nhất, ông cố Lý Mộc Văn, sinh năm 1846, sinh sống ở huyện Đại Phố, tỉnh Quảng Đông, từ nơi đó di cư sang Singapore vào năm 1863, trở thành đại phú gia, trở về Trung Quốc năm 1882, để lại vợ và ba người con. Thế hệ thứ hai là ông nội Lý Vân Long (1871), công dân Anh quốc tại Singapore, theo học chương trình trung học Anh ngữ, làm tài phú cho một thương thuyền, và trở thành quản trị viên công ty tàu thủy đó.

Thời thanh niên

Thân phụ của ông Lý Quang Diệu là Lý Tiến Khôn, cũng là công dân Anh, hấp thụ văn hóa Anh, lấy vợ là Thái Nhận Nương, sinh ra Lý Quang Diệu vào năm 1923, sau đó là ba em trai, và một em gái. Tài sản của nhà Lý Vân Long bị suy kiệt trong vụ đại suy thoái kinh tế toàn cầu trong thập niên 1930, nên cha của họ Lý chỉ là một chủ tiệm bình thường. Tuy nhiên bốn anh em Lý Quang Diệu đều được theo học đại học Cambridge ở Anh Quốc. Người cô của Lý Quang Diệu trở thành nữ bác sĩ người Singapore mang quốc tịch Anh đầu tiên hành nghề tại Singapore. Ba em trai của ông trở thành luật gia, nhà tài chính và bác sĩ.

Lý Quang Diệu tốt nghiệp trường Fitzwiliams thuộc đại học Cambridge, với bằng danh dự rất hiếm hoi Double Starred-First-Class Honours về luật học vào năm 1950. Học trình đại học của ông bị gián đoạn khi Nhật chiếm đóng Singapore trong thời gian 1942-1945. Ông đi làm, công việc đầu tiên là làm thư ký cho công ty nhập cảng vải vóc Shimola của người bạn của ông nội Lý Vân Long. Sau đó ông học tiếng Nhật, làm công việc dịch thuật tin tức phát thanh từ radio của phe đồng minh cho người Nhật.

Suýt bị Nhật bắn

Gần kết thúc thế chiến II, ông biết Nhật sắp thua trận, sợ đồng minh phản công tràn tới Singapore, ông chuẩn bị mua trang trại ở Cao nguyên Cameron, Malaysia để dọn sang, nhưng một nhân viên giao chuyển văn thư cho ông biết đơn xin đã bị an ninh Nhật lấy ra khỏi hồ sơ, và ông đang bị theo dõi. Ông phải bỏ ý định đi Malaysia. Lính Nhật bảo ông gia nhập nhóm người Hoa ly khai, ông xin về lấy quần áo và trốn luôn. Nhóm người Hoa này bị dẫn ra bờ biển và bắn chết hết.

young-lee-family

Lý Quang Diệu, đứng giữa, cùng ba em trai một em gái đứng sau cha mẹ là ông bà Lý Tiến Khôn

Lý Quang Diệu sang Anh tiếp tục con đường học vấn. Thất vọng vì người Anh không bảo vệ được Singapore trước quân đội Thiên Hoàng, ông trở về Singapore năm 1949 với quyết tâm phải giành độc lập cho xứ sở này.

Sự nghiệp chính trị

Tháng 11 năm 1954, Lý Quang Diệu cùng một nhóm bạn từng học tại Anh thành lập đảng xã hội Nhân dân Hành động, (People’s Action Party, PAP) . Đảng này liên minh với các công đoàn thân Cộng, mà ông Lý nhắm mục đích lôi kéo sự ủng hộ của đông đảo công nhân và người dân nói tiếng Hoa chiếm hơn 70% dân số, trong khi phe Cộng Sản tại Singapore cần khả năng lãnh đạo và quản lý của nhóm người không Cộng Sản, có học vấn Anh quốc, làm bình phong cho phe Cộng sản, vì luật cấm đảng Cộng sản Mã Lai hoạt động. Mục đích chung của hai phe là quyền tự trị của Singapore tách khỏi Anh quốc. Lý Quang Diệu trở thành Tổng bí thư đầu tiên của đảng PAP, và giữ chức vụ này đến tận 1992.

Ông đắc cử ghế dân biểu khu vực Đan Nhung Bá Cát Tập ở trung bộ Singapore năm 1955, trở thành lãnh tụ cánh tả đối lập với chính phủ liên minh Mặt trận Lao Động thuộc cánh hữu. Ông cũng là đại diện của đảng PAP tại hai hội nghị hiến pháp ở London, thảo luận với người Anh về tương lai của Singapore. Năm 1957 phe Cộng Sản chiếm quyền lãnh đạo đảng PAP bằng cách gài đảng viên giả hiệu vào đại hội đảng, nhưng chính phủ cánh hữu lập tức ra lệnh bắt giam hết phe Cộng Sản Singapore, tái lập quyền lãnh đạo cho Lý Quang Diệu, sau đó ông lại tái đắc cử dân biểu khu vực Đan Nhung.

Singapore tự trị

Cuối tháng 5- 1959 đảng PAP chiếm 43 trong tổng số 51 vị trí của Hội đồng lập pháp. Singapore giành được quyền tự trị trong mọi lãnh vực ngoại trừ quốc phòng và ngoại giao vẫn thuộc Anh quốc, và họ Lý trở thành Thủ tướng đầu tiên của Singapore vào ngày 3 tháng 6.

Năm 1961, Thủ tướng Malaysia Tunku Abdul Raman đề nghị thành lập Liên Bang Mã Lai Á bao gồm Malaysia, Singapore, Sabah và Sarawak. Lý Quang Diệu khởi động chiến dịch sáp nhập Singapore với Malaysia để chấm dứt chế độ thuộc địa Anh quốc. 70% cử tri ủng hộ ý kiến của ông trong cuộc trưng cầu dân ý 1 tháng 9 năm 1962, phần còn lại hầu hết bỏ phiếu trắng, vì Lý Quang Diệu không chấp nhận phiếu phủ định. Singapore trở thành bang thuộc Malaysia từ tháng 9, 1963. Tuy nhiên sự kết hợp không kéo dài, vì đảng UMNO giữ chính quyền Malaysia lo ngại trước sự hội nhập  của cộng đồng người Hoa chiếm đa số ở Singapore đi cùng với thách đố chính trị do đảng PAP đem vào Malaysia.

Năm 1964, tháng 7, xảy ra bạo loạn sắc tộc khi hai cộng đồng người Hoa và người Mã lai ở Singapore tấn công nhau, khiến 23 người chết. Không biết ai gây bạo loạn, nhưng xáo trộn sắc tộc tiếp diễn, bùng nổ vào tháng 9, dân làm loạn cướp phá xe cộ, cửa hàng, khiến hai Thủ tướng Malaysia và Singapore phải ra trước đám động để xoa dịu tình hình.

Tống xuất khỏi liên bang

Không giải quyết được bất ổn, Thủ tướng Tunku quyết định tống xuất Singapore ra khỏi liên bang. Lý Quang Diệu cố gắng hòa giải nhưng không thành công. Tháng 8 năm 1965 sau khi thấy không thể tránh khỏi chia cách, ông ký thỏa ước ly khai vào tháng 8, 1965, trong đó bàn thảo mối quan hệ với Malaysia sau cuộc ly khai để tiếp tục hợp tác thương mại và quốc phòng.

Cuộc chia cách là một đòn nặng với chính phủ Lý Quang Diệu vì ông vẫn tin rằng Singapore khó sống còn nếu tách khỏi Malaysia. Singapore không có một nguồn tài nguyên nào, ngay cả nguồn nước chính cũng phải lấy từ Malaysia, trong khi khả năng quốc phòng gần con số không mới là thách đố chính yếu đối với ông và chính phủ Singapore.

Ông cố dấu nước mắt và nghẹn ngào loan báo tin này cho quốc dân Singapore trên truyền hình vào ngày 9 tháng 8, bày tỏ lòng nuối tiếc cho hai dân tộc nối liền với nhau về địa lý, kinh tế và chủng tộc.

Quốc hội Singapore thông qua nghị quyết chia cách, và thành lập nước Cộng Hòa Singapore.  Ông Lý ngã bệnh, tự cách ly 6 tuần liền sau đó. Thủ tướng Anh bày tỏ quan ngại, Thủ tướng họ Lý hồi đáp rằng đừng lo âu, ông và đồng sự đều tỉnh táo và sáng suốt, sẽ lượng định mọi hậu quả trước khi tiến bước trên bàn cờ chính trị.

Thủ tướng họ Lý bắt đầu tìm sự nhìn nhận và hậu thuẫn quốc tế cho nền độc lập của Singapore. Singapore gia nhập Liên Hiệp Quốc tháng 9 năm đó. Singapore thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN vào tháng 8-1967 cùng với Malaysia, Indonesia, Philippines và Thái Lan. Lý Thủ tướng thăm Indonesia vào tháng 5 năm 1973; quan hệ song phương tăng tiến mạnh từ đó.

Tạo dựng bản sắc văn hóa riêng

Singapore chưa hề có một bản sắc văn hóa chính thống cho riêng mình để người nhập cư có thể hội nhập, dù ngôn ngữ chính là tiếng Mã Lai. Ông cùng chính phủ và đảng PAP nỗ lực tạo dựng một căn cước văn hóa cho xứ mình trong suốt hai thập niên 1970 và 1980, một nền văn hóa minh định hòa đồng chủng tộc theo chủ trương đa văn hóa. Chính phủ hết sức nỗ lực thực hiện và buộc người dân phải theo chính sách khoan dung tôn giáo, hòa đồng chủng tộc, dùng luật pháp cứng rắn trừng trị những hành vi hay mưu đồ kích động bạo lực vì tôn giáo hay chủng tộc. Một ví dụ là chính phủ Singapore từng cảnh cáo việc truyền bá phúc âm một cách vô ý thức do người Thiên Chúa Giáo thực hiện nhắm vào xứ Hồi giáo Malaysia; năm 1974 Singapore đã chấm dứt hoạt động của Hội Kinh Thánh Singapore nhằm xuất bản ấn phẩm tôn giáo bằng tiếng Mã Lai.

Quốc phòng, bài toán khó

Singapore dễ bị xâm hại về an ninh. Nhiều mối đe dọa đến từ các nước Cộng Sản trên thế giới và phe nhóm Cộng Sản trong nước, từ xứ Indonesia với chính sách đối đầu. Sau khi gia nhập LHQ, Thủ tướng  họ Lý đã chỉ thị phó Thủ tướng Ngô Khánh Thụy xây dựng quân lực Singapore, nhờ nhiều nước giúp đỡ, nhất là Israel, trong các lãnh vực cố vấn huấn luyện và tạo dựng cơ sở, căn cứ quốc phòng, ban hành chính sách động viên theo đó tất cả nam công dân từ 18 tuổi đều phải phục vụ Lực lượng quốc gia, ở một trong những lực lượng quân sự gồm Quân lực Singapore, Lực lượng Cảnh sát, hay Lực lượng phòng vệ dân sự.

Bài toán khó nhất: tham nhũng

lee-deng-1978-305

Chủ tịch Trung Quốc Đặng Tiểu Bình (phải) tiếp đón Thủ tướng Lý Quang Diệu (trái) tại Bắc Kinh, tháng 11-1978

Singapore cũng bị nạn tham nhũng như nhiều nước khác. Lý Thủ tướng đề nghị dự luật cho Phòng điều tra hảnh vi tham nhũng quyền hạn lớn hơn để bắt giữ, lục soát, triệu tập nhân chứng, thanh tra tài khoản ngân hàng, trương mục thuế của những đối tượng bị nghi ngờ và gia đình họ.  Ông Lý chủ trương cấp Bộ trưởng phải được trả lương cao để duy trì được một chính phủ trong sạch và chân thật. Năm 1994 ông đề nghị tăng lương các Bộ trưởng, thẩm phán và công chức cao cấp lên bằng mức lương của các chuyên viên, viên chức cao cấp nhất trong lãnh vực tư, nói rằng như vậy mới giúp tuyển mộ và giữ được những tài năng để phục vụ trong lãnh vực công.

Ông Lý Quang Diệu nắm giữ chức vụ lãnh đạo đảo quốc Sư tử trong ba mươi năm đến khi từ chức vào năm 1990 để trở thành Bộ trưởng cao cấp trong nội các của Thủ tướng Ngô Tác Đống. Đến tháng 8, 2004 khi con trai ông, Lý Hiển Long, trở thành Thủ tướng thứ ba của Singapore, ông được bổ nhiệm làm Nội các Tư Chính, giữ nhiệm vụ tư vấn cho toàn thể nội các. Giữ những chức vụ Thủ tướng và bộ trưởng cao cấp trong suốt hơn 50 năm liền, ông Lý cũng là một trong những bộ trưởng phục vụ lâu năm nhất lịch sử.

Tuy nhiên trong cuộc đời sóng gió và thành công vĩ đại ấy, tư duy chiến lược phát triển của ông Lý Quang Diệu mới là phần được lịch sử ghi lại đậm nét, và cả thế giới đông tây đều ngưỡng mộ.

VƯỜN CÂY DẦU

VƯỜN CÂY DẦU

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Cách đây vài năm, diễn viên Mel Gibson đạo diễn và sản xuất một bộ phim được công chúng đặc biệt hưởng ứng.  Với tựa đề, Cuộc Thương khó của Chúa Kitô, bộ phim khắc họa lại cuộc vượt qua của Chúa Giêsu, từ vườn Cây Dầu cho đến cái chết trên Núi Sọ, tác giả nhấn mạnh đến các đau đớn thể xác của Ngài.  Bộ phim thể hiện sống động từng chi tiết các đau đớn mà một người bị đóng đinh thập giá phải chịu, khi bị đánh, bị tra tấn, và bị sỉ nhục.

Trong khi hầu hết các phái trong Giáo hội tán thưởng bộ phim, cho rằng cuối cùng thì cũng có người làm một bộ phim khắc họa thật về những đau đớn của Chúa Giêsu, thì nhiều học giả Kinh thánh và nhiều ngòi bút thiêng liêng khác lại lên tiếng chỉ trích.  Tại sao lại thế?  Có gì sai khi chiếu một bộ phim dài với chi tiết sống động, những máu me của việc đóng đinh thập giá, vốn thực sự rất hãi hùng?

Có gì sai (hay nhẹ hơn là không hợp) khi đây chính là những gì mà Kinh thánh đã không ghi lại về cái chết của Chúa Giêsu.  Tất cả bốn Tin mừng đều cố gắng không tập trung vào đau đớn thể xác của Chúa Giêsu.  Các mô tả trong Tin Mừng về những đau đớn thể xác của Ngài đều hết sức ngắn gọn: “Họ treo ngài giữa hai phạm nhân.”  Philatô cho “đánh đòn Đức Giêsu rồi giao ngài cho người ta đem đi đóng đinh.”  Tại sao lại rút gọn như thế?  Tại sao không mô tả chi tiết?

Lý do mà các tác giả tin mừng không tập trung vào những đau đớn thể xác của Chúa Giêsu là họ muốn chúng ta tập trung vào một điều khác, cụ thể là những đau đớn trong cảm xúc và tinh thần của Ngài.  Cuộc thương khó của Chúa Giêsu, xét theo chiều sâu thực sự, là một tấn kịch tinh thần, chứ không phải tấn kịch thể lý, là đau khổ của một người đang yêu, chứ không phải đau đớn của một vận động viên.

Do đó, chúng ta thấy khi Chúa Giêsu tiên liệu cuộc khổ nạn của mình, những gì Ngài lo lắng không phải là đòn roi hay mũi đinh đóng vào tay mình.  Mà Ngài đau đớn và lo lắng cho sự cô độc mình sẽ phải đối diện, cho kết cuộc bị những người đã nói yêu mến Ngài phản bội và bỏ rơi, và cho tình cảnh, theo cách diễn đạt của Gil Bailie là, “bị tất cả loại bỏ.”

Như thế cuộc thương khó của Chúa Giêsu rõ ràng là một tấn kịch tình yêu.  Nó bắt đầu với mồ hôi máu đổ ra trong vườn Cây Dầu, và kết thúc với việc mai táng Ngài trong vườn.  Chúa Giêsu đang đổ mồ hôi máu trong vườn, chứ không phải trên đấu trường.  Vậy, việc ở trong vườn, có gì đặc biệt?

Về mặt tượng hình, vườn không phải là nơi trồng rau và dĩ nhiên cũng không phải là nơi trồng hoa.  Vườn là nơi của những người yêu nhau, là nơi cảm nhận hạnh phúc, nơi uống rượu, nơi Adong và Evà đã trần truồng mà chẳng biết, nơi người ta yêu nhau.

Và các tác giả Phúc Âm đặt khởi đầu và kết thúc cuộc thương khó của Chúa Giêsu trong vườn để nhấn mạnh rằng, Chúa Giêsu, một người đang yêu (chứ không phải Chúa Giêsu Vua, Pháp sư, hay Ngôn sứ), đang trải qua tấn kịch này.  Và chính xác tấn kịch này là gì?  Khi Chúa Giêsu đổ mồ hôi máu trong vườn và van xin Chúa Cha đừng bắt Ngài “uống chén này,” thì lựa chọn thực sự của Ngài không phải là: Ta sẽ để mình phải chết hay sẽ dùng đến sức mạnh thần thiêng để cứu mạng mình? Nhưng đúng hơn, lựa chọn của Ngài là: “Ta sẽ chết cách nào?  Ta sẽ chết trong giận dữ, cay đắng, và không tha thứ, hay Ta sẽ chết với một tấm lòng nồng ấm thứ tha?”

Tất nhiên, chúng ta biết Chúa Giêsu đã đi qua tấn kịch này như thế nào, Ngài đã chọn lấy lòng bao dung và tha thứ cho những người hành hình mình, và trong toàn bộ những u ám đó, Ngài vẫn giữ vững những gì Ngài đã giảng dạy trong suốt đời rao giảng, chính là tình yêu, tình thương, và tha thứ sẽ tuyệt đối chiến thắng.

Hơn nữa, những gì Chúa Giêsu đã làm trong tấn kịch tâm hồn này là những gì chúng ta phải noi theo hơn là đơn thuần ngưỡng mộ, vì tấn kịch này cũng hoàn toàn là tấn kịch tình thương trong đời chúng ta với vô vàn cách thể hiện khác nhau.  Cụ thể là:

Đến cuối đời, chúng ta sẽ chết thế nào đây?  Lòng chúng ta sẽ giận dữ, bám víu, bất dung, và cay đắng vì sự bất công của cuộc đời?  Hay, lòng chúng ta sẽ khoan dung, biết ơn, cảm thông, nồng ấm, như tấm lòng Chúa Giêsu khi Ngài thưa với Chúa Cha là xin theo ý Cha đừng theo ý Con?

Hơn nữa, đây không phải là chọn lựa cốt yếu và duy nhất mà chúng ta phải đối diện trong giờ chết, nhưng là chọn lựa chúng ta phải đối diện hằng ngày, nhiều lần mỗi ngày.  Biết bao lần khi va chạm hàng ngày với người khác, với gia đình, đồng nghiệp, bạn bè, và cả xã hội nói chung, chúng ta đã phải chịu những lạnh lùng, hiểu lầm, bất công, và cả bạo hành chủ ý nữa.  Từ sự lãnh đạm của một thành viên trong gia đình trước lòng tốt của chúng ta, cho đến một lời bình luận ác ý chủ tâm làm tổn thương chúng ta, đến một sự bất công hết sức ở nơi làm việc, đến việc bị thành kiến và xúc phạm, và bàn ăn, nơi làm việc, phòng họp, và cả trên đường, tất cả đều là những nơi chúng ta cảm nghiệm hàng ngày, ít hay nhiều, những gì Chúa Giêsu đã trải qua trong vườn Cây Dầu, cảm giác, bị tất cả loại trừ.  Trong bóng đêm đó chúng ta có đi theo ánh sáng của mình?  Đối diện với những thù ghét đó, chúng ta có theo tiếng gọi của tình yêu hay không?

Đó đích thực là tấn kịch trong Cuộc Thương khó của Chúa Kitô, và ở đó những đòn roi, đinh nhọn không phải là tâm điểm.

Rev. Ron Rolheiser, OMI

KHOẢNG CÁCH THẾ HỆ

KHOẢNG CÁCH THẾ HỆ

Tác giả: Bác Sĩ Nguyễn Ý-Đức, MD.

Chuyên viên kinh tế Văn Khánh tâm sự với bạn bè: “Năm nay mình hơn bốn chục tuổi rồi mà ông bố vẫn coi mình như còn con nít. Có chuyện vui chia sẻ với cụ thì cụ sẵn sàng dồn cho mấy lời khuyên bảo, mà chẳng bao giờ để ý tới cách thức mình đã giải quyết khó khăn”…

Bà mẹ của cô con gái 29 tuổi tới thăm cháu ngoại. Bà tự động dọn dẹp phòng của cháu, thay đổi hướng giường, nói là nằm thế này để tránh gió độc. Trước khi ra về, bà còn dặn con gái là phải ăn uống thế này thế kia cho có nhiều sữa. Và chớ có cho cháu ngoại của bà ăn nhiều rau cải kẻo nó đi tướt…

Thực là lòng cha mẹ thương con cháu như trời như biển. Chăm lo cho con từ lúc nằm ngửa, phơi chim, cho tới khi trưởng thành, nên ông nên bà.

Vậy mà cũng có con than phiền, bảo rằng chẳng để chúng yên, xía vào đời tư của chúng, coi chúng như còn thơ dại.

Các cụ coi có tức hay không cơ chứ!!!

Vâng, đó là những cảnh ngộ thường thấy trong mọi xã hội. Người ta nói tới khoảng cách giữa người già và người trẻ ngoài xã hội, giữa cha mẹ và con cái trong gia đình.

Sử gia kiêm chính khách Pháp Alexis de Tocqueville (1805-1859) có nói: “Trong các quốc gia dân chủ, mỗi thế hệ là một bộ lạc mới (people)”.

Tại các quốc gia Âu Mỹ, có 4 lớp thế hệ được nêu ra:

-Thế hệ cựu chiến binh sinh ra từ 1922-1943,  tôn trọng truyền thống và sống thích hợp với hậu quả của Thế chiến I.

-Thế hệ trẻ em bùng phát, (babyboomers), nhiều lý tưởng sanh từ 1946-1964

-Thế hệ X, tự lập, thành thạo kỹ thuật mới, rất linh động  sinh từ 1965-1979,

-Thế hệ Y, millennis ra đời trong thời gian 1980-1994 có thái độ lạc quan, tự tin, thực tế, đa dạng và nghĩ tới cá nhân nhiều hơn.

Danh từ Generation Gap, Khoảng Cách Thế Hệ được dùng tại các xã hội Âu Mỹ vào thập niên 1960. Mỗi thế hệ cách nhau từ 20-30 năm là thời gian trung bình để trẻ em lớn lên và thành người lớn thực thụ.

Tự điển Oxford định nghĩa generation gap là sự khác biệt về “thái độ” (Attitude) giữa những người ở thế hệ khác nhau. Thái độ bao gồm sự suy nghĩ và thấy thế nào về một sự việc hoặc một người nào đó. Như là:

-Sự khác nhau trong quan điểm về nếp sống hoặc thiếu sự hiểu biết lẫn nhau giữa lớp thanh niên và lớp người già.

– Khác biệt tuổi tác, giữa những người ở giai đoạn khác nhau của cuộc đời.

-Khác biệt thế hệ, giữa những người sinh trưởng trong  thời gian khác nhau, hình thành trong điều kiện xã hội khác nhau.

Khoảng cách tạo ra những khác biệt về tâm lý, hành động, và đối xử.Vì họ không hiểu nhau, có những không giống nhau về chính kiến, kinh nghiệm và bản chất.

Thực ra, chuyện này cũng chẳng có gì mới lạ. Nó đã hiện diện trong nếp sống con người từ lâu, nhưng rõ ràng hơn kể từ khi có những tiến bộ về khoa học, kỹ thuât.

Thái độ người già

Thuở xưa, khi nhu cầu đời sống được đáp ứng bằng sức lực và sự khôn ngoan của con người, thì người già, nói chung, được trọng nể vì kinh nghiệm của họ.

Với tuổi đời, họ tích lũy được những hiểu biết về canh tác săn bắn, về cách sống, về sự đối phó với khắc nghiệt của thiên nhiên, về quan hệ xã hội cũng như về văn hóa, nghệ thuật. Các kinh nghiệm này rất cần thiết cho con cháu, mới vào đời, cho nên vai trò của họ được coi như kim chỉ nam cho giới trẻ trong việc mưu sinh, lập nghiệp.

Ngoài ra, họ cũng là người nắm giữ tài sản gia đình giòng họ, có quyền sắp đặt, phân phát cho nên sự nhờ vả, tôn trọng của giới trẻ đối với họ là điều dễ hiểu.

Trong xã hội, có những tôn-ti-trật-tự, kính-trên-nhường-dưới, nuôi già, dạy trẻ, kính già, già để tuổi cho. Cha mẹ nào cũng muốn con cái theo gương cha mẹ, để “chẳng giống lông cũng giống cánh” và để giữ sự kế tục, danh dự dòng họ. Mà nói đến kế tục thì nhiều cụ thấm nhuần Nho học đều muốn ‘hãy nối tiếp, làm theo và không được thay đổi” những gì tiền nhân để lại.

Do đó, cha mẹ nào cũng thích khuyên nhủ, dậy dỗ con cái. Có nhiều lý do được nại ra để trao cho con những kinh nghiệm từ bản thân của họ. Vì đã biết rõ con từ tấm bé khi con chưa biết gì, nên cứ giữ ý kiến là con bây giờ cũng còn non dại.

Vì lo lắng cho con, sợ con phạm lầm lỗi.

Vì muốn cho là mình còn cần thiết cho con cái.

Vì nghĩ rằng khuyên con vẫn còn là trách nhiệm và quyền hạn của cha mẹ.

Và cũng vì vẫn muốn kiểm soát con cái.

Tuy nhiên, phải vô tư mà thấy rằng, kinh nghiệm của người già có thể có tính cách chủ quan, cá nhân về một lãnh vực nào đó. Vậy mà nhiều cụ cứ cho là có thể áp dụng trong mọi trường hợp, vào mọi thời điểm với hoàn cảnh khác nhau.Do đó họ khư khư bảo vệ ý kiến mình, không chịu chấp nhận ý kiến của  trẻ, có thể hợp thời đại hơn.

Ngày nay, khoa học kỹ thuật quá tiến bộ, bất cứ kiến thức mới nào cũng dễ dàng tìm kiếm qua báo chí, internet, do đó giới trẻ cũng bớt lệ thuộc vào giới già ở học hỏi kinh nghiệm. Khi đưa ra ý kiến, nhiều khi các cụ có thái độ gia trưởng, truyền lệnh. Thay vì “nên thế này thế kia” thì họ lại “bố mẹ muốn như vậy”.

Họ cũng đa nghi, cho là ý tưởng của giới trẻ không có căn bản nên không chịu bàn giao công việc, trách nghiệm…

Họ cũng không muốn thay đổi, đảo lộn những sinh hoạt mà họ đã quen thuộc từ nhiều năm. Thực ra có thể là họ không thích ứng được với hoàn cảnh mới, kỹ thuật mới và không theo kịp với mức độ nhậm lẹ của sự việc. Từ đó, hành động của các cụ quá đắn đo, dè dặt.

Không ít cụ rất dễ xúc động, có mặc cảm tự ty, cho rằng mình bây giờ đã về hưu, bớt lợi tức, đâu còn quyền uy đối với con cái. Ngày xưa thì cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó. Giờ đây đổi đòi, con cái đặt đâu, cha mẹ ngồi đó. Chúng tự do lựa chọn phối ngẫu tương lai rồi thông báo mẹ cha. Đám cưới chúng giới hạn số bạn bè mình được mời. Muốn tới thăm cháu, phải hẹn trước. Rồi các cụ hờn dỗi, tủi thân vì nhiều  chuyện vẩn vơ, không đâu.

Thái độ giới trẻ

Bản chất giới trẻ cũng có một số điều cần lưu ý, như là:

-Có thể nông cạn về lẽ sống

-Nhẹ tình cảm gia đình, quê hương, cội nguồn dân tộc.

-Nhiều hoài bão, không thỏa mãn với cái đã có.

Trước hết, phải thừa nhận là con cái bây giờ có nhiều điểm thuận lợi hơn cha mẹ già. Các con có kiến thức cao, suy luận thực tế, khoa học hơn, tính tình cởi mở, dám nghĩ dám làm việc khó, việc lớn

Các con khỏe mạnh hơn, nhiều nhiệt huyết hơn, có thể làm  nhiều việc trong một thời gian định sẵn. Tầm nhìn của con cái thoáng rộng và thực tế hơn. Họ có nhiều dự tính cho tương lai và luôn luôn nghĩ tới sự tranh đua, phấn đấu.

Đối với cha mẹ, các con cũng có một cái nhìn hơi e ngại dè dặt, ít thổ lộ, ít tiếp xúc. Lý do là văn hóa giáo dục khác biệt. Một bên nghiêm khắc, kín đáo, một bên ồn ào cởi mở. Một bên dùng những ngôn từ “thời đại” mà phía kia, mù tịt, chẳng hiểu ất giáp gì. Như là “phần mềm, ổ cứng”…trong máy computer.

Tuy nhiên, con người dù tài ba đến mấy chăng nữa cũng phải có nguồn gốc, có cha mẹ:

Con người có bố, có ông

Như cây có cội, như sông có nguồn”

Vì thế cũng nên luôn luôn nhớ câu “uống nước, nhớ nguồn”, dù cha mẹ có không hoàn hảo, vẹn toàn.

Vả lại:

“Tuổi già hiu hắt ngọn đèn

Trước cơn gió lớn, sức bền còn không”.

Và:

“Sống thì con chẳng cho ăn

Chết thì xôi thịt, làm văn tế ruồi”.

Nhiều cháu có thể có cả một kho tàng kiến thức nhưng nếu được kết hợp với sự thấu đáo, kinh nghiệm, với sự khôn ngoan của mẹ cha thì kiến thức của mình sẽ đạt được nhiều thành công hơn.

Các cháu nhiều sức lực, trí óc tươi trẻ nên hành động nhanh nhẹn hơn. Nhưng “đi đâu mà vội mà vàng, mà vấp phải đá, mà quàng phải dây”. Cha mẹ chậm chạp, nhưng đôi khi chậm mà chắc.

Một số cháu cứ nghĩ rằng cha mẹ già yếu, trở thành vô dụng.

Thực ra già vẫn còn sức mạnh của sự già: sức mạnh của kiên nhẫn, tôi luyện từ nhiều chục năm lăn lội trường đời. Họ vẫn còn khả năng làm việc, nhưng để hoàn tất, họ cần thời gian lâu hơn. “Có còn hơn không”, phải không các cháu?.

Nhìn chung

Nói ra thì nhiều, nhưng đi vào thực tế, phải công nhận là có một khoảng cách dài ngắn, những khác biệt nào đó giữa các thế hệ khác nhau trong cộng đồng, giữa cha mẹ, con cái. Khác biệt về suy nghĩ, hành động, về quan niệm sống, về cách diễn tả tình cảm, tâm trạng.

Sông có khúc, người có lúc thì mỗi lứa tuổi cũng có đặc điểm, cá tính của mỗi thế hệ, mỗi lớp tuổi.

Không nên coi khác biệt đó là mâu thuẫn gây trở ngại cho hài hòa gia đình, xã hội mà là một lẽ đương nhiến trong đời sống, có già có trẻ. Tre già sát cánh măng non. Cũng như có âm thì có dương, có sáng thì có tối, có tốt phải có xấu.

Chẳng nên tìm cách xóa bỏ cách biệt mà nên “biết người biết mình”, để hòa hợp chung sống.

Thích nghi, chấp thuận với khác biệt của nhau, miễn là những khác biệt này không mang tính cách hủy hoại lẫn nhau.

Giúp nhau gọt rũa khác biệt cho dần dần ăn khớp với nhau.

Sẵn sàng lắng nghe nhau, phân tích dị biệt, bàn cãi thẳng thắn rồi chấp nhận nhau.

Tổng kết các điểm đã thông cảm, thỏa thuận thành đường lối chung cho đại gia đình.

Mọi người nên nghĩ đời sống  là một cái vòng luẩn quẩn, như diễn tả của bác sĩ  Milton Greenblatt (1914-1994), nhà tiền phong Hoa Kỳ vể chăm sóc sức khỏe tâm bệnh:

“Trước hết, chúng ta là con của cha mẹ

Rồi là cha mẹ của bầy con

Sau đó sẽ  trở lại làm cha mẹ của cha mẹ

Cuối cùng là con của bầy con »

Để mà thông cảm, chung sống với nhau.

Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức

www.bsnguyenyduc.com

http://www.youtube.com/user/Drnguyenyduc/video

Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa được trao giải Tự Do Ngôn Luận 2014

Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa được trao giải Tự Do Ngôn Luận 2014

Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, một cựu tù nhân lương tâm đã bị giam cầm 6 năm và hiện vẫn trong tình trạng bị quản chế.

Nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, một cựu tù nhân lương tâm đã bị giam cầm 6 năm và hiện vẫn trong tình trạng bị quản chế.

23.03.2015

Hội Nhà Văn Na Uy lần đầu tiên trao tặng giải Tự Do Ngôn Luận cho một nhà văn Việt Nam, vinh dự đó đã về tay nhà văn Nguyễn Xuân Nghĩa, một cựu tù nhân lương tâm đã bị giam cầm 6 năm và hiện vẫn trong tình trạng bị quản chế.

Ông Nghĩa năm nay 64 tuổi, là nhà thơ, nhà văn, ký giả và nhà bình luận. Ông từng là hội viên Hội Nhà Văn Hải Phòng và là một trong những sáng lập viên của Khối 8406, một phong trào dân chủ bị cấm hoạt động.

Đây là giải thưởng quốc tế thứ Tư mà ông Nguyễn Xuân Nghĩa đã nhận được. Năm 2013, ông được trao giải Lưu Hiểu Ba dành cho một nhà văn can trường do Hội Văn Bút Độc lập của Trung Quốc trao tặng.

Năm 2003 ông bị bắt cùng với nhiều nhà hoạt động khác, trong đó có nhiều nhà văn, ký giả và blogger trong một chiến dịch đàn áp giới bất đồng chính kiến có quan điểm đối lập với nhà nước Việt Nam.

Lễ trao giải diễn ra tại hội nghị thường niên của Hội Nhà Văn Na Uy trong hai ngày 21 và 22 tháng 3 năm 2015 tại Khách sạn Bristol ở Oslo.

Giải Tự Do Ngôn Luận 2014 của Hội Nhà Văn Na Uy được thành lập năm 1893. Năm 1993, nhân kỷ niệm 100 năm thành lập, Bộ Văn Hóa Na Uy đã quyết định tặng một số tiền hàng năm để làm giải thưởng trao cho các nhà văn Na Uy hoặc nước ngoài từng có những thành tích đấu tranh cho tự do ngôn luận.

Du lịch Việt Nam hết hấp dẫn du khách ngoại quốc

Du lịch Việt Nam hết hấp dẫn du khách ngoại quốc

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Việt Nam đã không còn sức hấp dẫn du khách ngoại quốc, mặc dù đây là mùa mà các năm trước du khách kéo đến rất đông và nhộn nhịp.

Du khách nước ngoài cầm tổ ong mật tại một điểm du lịch ở cồn Thới Sơn, tỉnh Tiền Giang. (Hình: Tuổi Trẻ)

Tờ Tuổi Trẻ trích dẫn phúc trình của Tổng Cục Du Lịch Việt Nam, cho hay số du khách ngoại quốc đến Việt Nam trong hai tháng đầu của năm 2015 đã giảm 10.6% so với cùng kỳ của năm 2014.

Dư luận chung tại Việt Nam trong nhiều năm qua cho rằng, du lịch Việt Nam không còn hấp dẫn du khách ngoại quốc vì dịch vụ tại nhiều điểm du lịch ở các tỉnh miền Tây gần như không có gì thay đổi, trong khi đó tại nhiều nơi khác, du khách than phiền tình trạng ô nhiễm, thiếu thông tin…

Bà Ngô Nguyễn Thúy Oanh, hướng dẫn viên công ty du lịch sinh thái Tiền Giang than thở với báo Tuổi Trẻ rằng, “Khách vắng lắm, khách Nhật chẳng thấy mà khách Tây còn thưa thớt hơn trong khi giờ này năm ngoái tụi tui bận rộn dữ lắm.”

Bà Oanh giải thích vì sao khách ngoại quốc đến ít dần: “Dịch vụ mình kém quá, hơn 20 năm làm hướng dẫn viên qua lại cồn Thới Sơn ở, đây tôi không thấy có sản phẩm du lịch gì mới cho du khách, quanh đi quẩn lại cũng chỉ có uống trà mật ong, ăn trái cây, nghe ca vọng cổ, chèo xuồng… trong khi du lịch theo tôi hiểu đa dạng dịch vụ lắm.”

Ông Carlo Campisrn, một du khách người Ý, được báo tuổi trẻ dẫn lời cho biết là ông cùng bạn gái có 4 tuần đi dọc Việt Nam từ Sa Pa, Hà Nội, vịnh Hạ Long, Huế, Hội An và ông nhận thấy các di tích tại Việt Nam có nhiều nhưng chưa hấp dẫn nên chỉ xem qua một lần là đủ.

Khi được hỏi là liệu có quay lại Việt Nam không, ông Carlo cho hay, hiện chưa hề nghĩ đến dù phong cảnh Việt Nam đẹp nhưng luôn bị những người bán hàng rong chèo kéo, mời chào. Di chuyển từ nơi này đến nơi khác bằng tàu, xe công cộng chưa thật sự thuận tiện vì thiếu thông tin.

“ Du lịch Việt Nam đã quá lạc hậu vì thái độ làm du lịch không nghiêm túc và dịch vụ không được cải thiện, điểm đến ô nhiễm,” đó là nhận xét của ông

Phạm Hà, giám đốc công ty Luxury Travel, Hà Nội, khi giải thích vì sao du khách ngoại quốc ít chọn Việt Nam.

Vẫn theo báo Tuổi Trẻ, “Thống kê của Tổng Cục Du Lịch Việt Nam cho thấy, riêng thị trường khách Nga hai tháng đầu năm 2015 chỉ có hơn 68,000 lượt đến Việt Nam, giảm 25.7% so với hai tháng cùng kỳ năm ngoái.”

“Một số quốc gia và vùng lãnh thổ có khách đến Việt Nam cũng giảm nhiều. Cụ thể, Trung Quốc giảm 40.3%; Đài Loan giảm 27.4%; Hồng Kông giảm 51%, Campuchia giảm 13.1%; Thái Lan giảm 11.1%; Malaysia giảm 14.8%…” (Tr.N)

Thủ tướng Lý Quang Diệu và các đề nghị của ông cho Việt Nam

Thủ tướng Lý Quang Diệu và các đề nghị của ông cho Việt Nam

Mặc Lâm, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-03-23

03232015-pm-l-k-yew-n-sug-for-vn.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Người dân Singapore cầu nguyện trước hình ảnh của cố cựu thủ tướng Lý quang Diệu (Lee Kuan Yew) được dựng lên nhiều nơi ở trung tâm cộng đồng Tanjong Pagar sau khi ông mất tại Singapore vào ngày 23 tháng 3 năm 2015.

Người dân Singapore cầu nguyện trước hình ảnh của cố cựu thủ tướng Lý quang Diệu (Lee Kuan Yew) được dựng lên nhiều nơi ở trung tâm cộng đồng Tanjong Pagar sau khi ông mất tại Singapore vào ngày 23 tháng 3 năm 2015.

AFP

Your browser does not support the audio element.

Theo thông báo của văn phòng Thủ tướng Singapore thì ông Lý Quang Diệu người được hầu hết dân chúng đảo quốc ngưỡng mộ như một vị lập quốc, đã qua đời vào lúc 3 giờ 18 phút sáng ngày 23 tháng 3 năm 2015. Mặc Lâm ghi nhận ý kiến của các chuyên gia thông qua những đề nghị của ông đối với Việt Nam.

Nói đến Singapore, không thể không nhắc đến tên tuổi của ông Lý Quang Diệu người đã biến khu vực đất đai không một chút giá trị trồng trọt, không có nước ngọt để uống và mọi sự bắt đầu gần như một con số không, chỉ sau vài thập niên đã vươn mình đứng dậy thành một đất nước phú cường về kinh tế, hùng mạnh về quốc phòng, ổn định về chính trị và tiếp tục là mô hình cho các nước đang phát triển noi theo.

Triết lý trọng dụng người tài

Những thành công vượt mức ấy có được từ sự dẫn dắt của ông Lý Quang Diệu, người mang kiến thức từ Anh quốc trở về áp dụng linh động trên phần đất hoang sơ được trao trả từ Anh. Ông đã áp dụng chính sách tận dụng nguồn nhân lực trí thức cao của nhân tài người Hoa khắp nơi quay về đảo quốc cũng như kêu gọi sự đóng góp của chuyên gia thuộc mọi quốc tịch trên thế giới để biến nền kinh tế tài chính nơi đây thành vị trí hàng đầu, cùng với kỹ nghệ sản xuất vật liệu cao cấp trong ngành y khoa và đào tạo nhân lực với nền giáo dục tiên tiến bậc nhất trong khu vực.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương cho biết sự lớn mạnh của Singapore là kết quả từ tận tậm tận lực và nhất là tầm nhìn của ông Lý Quang Diệu:

” Ông Lý Quang Diệu đã có tầm nhìn đúng đắn và cái điểm nổi bật của ông là dựa trên triết lý trọng dụng và tận dụng người tài. Ông luôn luôn lắng nghe ý kiến của người khác, thu hút người tài về Singapore.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh”

-Điều đó cho thấy là ông Lý Quang Diệu đã có tầm nhìn đúng đắn và cái điểm nổi bật của ông là dựa trên triết lý trọng dụng và tận dụng người tài. Ông luôn luôn lắng nghe ý kiến của người khác, thu hút người tài về Singapore. Ông đã lắng nghe khi Singapore có những biểu hiện tiến chậm hơn, ông đã mời các chuyên gia hàng đầu trên thế giới đến để góp ý. Điểm thứ hai ông rất thực dụng, rất tỉnh táo điều gì cản trở bước tiến của Singapore vì không thích hợp thì ông sẽ tìm cách sửa đổi, tìm cách thay thế. Điều thứ ba là ông hết sức trung thực. Ông coi trọng một bộ máy trung thực, ông trung thực đối với ông và ông trung thực đối với những người khác.

Ông Lý Quang Diệu là một chính khách trong thế giới tư bản có quan hệ rất mật thiết với Việt Nam. Ông được mời tư vấn kế hoạch phát triển kinh tế trong thời của chính phủ Võ Văn Kiệt. T.S Lê Đăng Doanh kể lại:

-Tôi có dịp được tiếp xúc với ông khi ông Lý Quang Diệu được Thủ tướng Võ Văn Kiệt mời sang để góp ý kiến cho Việt Nam thì ông Lý Quang Diệu đã có yêu cầu một cơ quan Việt Nam cung cấp số liệu về kinh tế đã nhờ Đại sứ Singapore tại Hà Nội và ông này đã đến gặp tôi lúc bấy giờ tôi là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, tôi đã soạn thảo một bộ tài liệu và viết ra thành tiếng Anh và sau đó khi sang Việt Nam ông Lý Quang Diệu đã rất cám ơn và sử dụng số liệu đó để góp ý kiến.

Tôi cũng có dịp hội họp với ông Lý Quang Diệu, trao đổi trực tiếp với ông trong những lần ông Lý Quang Diệu sang Việt Nam thì tôi đều được tiếp xúc và trao đổi trực tiếp với ông. Ông mơ ước được một đất nước như là Việt Nam, có tiềm năng, có dân số, có vị thế chiến lược, có những con người thông minh luôn luôn học giỏi hàng đầu ở Singapore và các nơi trên thế giới. Họ chịu khó làm việc và ông nghĩ rằng đất nước Việt Nam phải là một trong đất nước hàng đầu ở châu Á này.

” Ông Lý Quang Diệu từng cho rằng “Tự do báo chí, tự do truyền thông tin tức đều phải lệ thuộc vào nhu cầu bảo vệ sự toàn vẹn của Singapore”. Đây là cách mà Việt Nam đang áp dụng với câu chữ là định hướng báo chí “

Ông cũng mong muốn Việt Nam phồn vinh và cường thịnh vì một Việt Nam phồn vinh và cường thịnh sẽ có lợi cho Đông Nam á, có lợi cho hòa bình và ổn định của khu vực và cũng có lợi cho Singapore. Vì vậy cho nên ông nhiệt thành cố vấn, ủng hộ sự cải cách cho Việt Nam, ủng hộ phát triển kinh tế tư nhân, ủng hộ hội nhập.

Ông Lý Quang Diệu là một trong những người có công đóng góp cho sự thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) Với vận động của ông, các nước thành viên đã đồng thuận cho Việt Nam tham gia vào tổ chức này vào tháng 7 năm 1995. TS Lê Đăng Doanh nhận xét những đặc tính mà ông Lý được mến mộ khi đóng góp cho Việt Nam:

-Cá nhân ông đã dùng các uy tín và khả năng thuyết phục để thuyết phục các nước ASEAN chấp nhận Việt Nam tham gia vào tổ chức ASEAN. Ông cũng rất thẳng thắn, khi ông thấy những tiến bộ của Việt Nam chậm hơn ông mong muốn. Ông cũng rất thẳng thắn khi thấy rằng những cải cách của Việt Nam không được như ông kỳ vọng và trong hồi ký và các ý kiến lúc cuối đời ông cũng thẳng thắn nói lên những điều đó. Tôi nghĩ đó là một người bạn chân thành, một người bạn trung thực của Việt Nam và tôi tưởng nhớ ông, kính trọng ông và cám ơn ông về những gì ông đóng góp cho Việt Nam.

Quan niệm định hướng báo chí

Mặc dù là một nước thành công vượt bậc trên nhiều lĩnh vực từ kinh tế tới quân sự, từ xây dựng một nền văn hóa nhân bản tới phát triển du lịch trong khuôn khổ của sự tôn trọng, cũng như phát triển các loại hình nghệ thuật căn cứ trên tính phổ quát nhân văn, nhưng một lĩnh vực rất quan trọng thuộc về quyền tối thượng của người dân thì Singapore lại tỏ ra yếu kém nhất, đó là quyền tự do báo chí.

Ông Lý Quang Diệu từng cho rằng “Tự do báo chí, tự do truyền thông tin tức đều phải lệ thuộc vào nhu cầu bảo vệ sự toàn vẹn của Singapore”. Đây là cách mà Việt Nam đang áp dụng với câu chữ là định hướng báo chí. Cũng không khác mấy với Việt Nam khi bị chỉ trích, ông Lý đã cho rằng các tờ báo chống ông được tài trợ bởi các thế lực thù nghịch ở nước ngoài.

Quan điểm cho rằng một số quyền tự do cần phải bị hy sinh để phát triển quốc gia của ông Lý Quang Diệu cũng từng gây tranh cãi nhất là quan điểm mô hình phương Tây về tự do dân chủ là không thể áp dụng được.

” Kiến nghị của ông Lý Quang Diệu cho đến nay chưa được thực hiện một cách có hiêu quả. Thí dụ như chuyện bộ máy nhà nước trọng dụng người tài. Thí dụ như xây dựng bộ máy công khai minh bạch. Thí dụ như xây dựng bộ máy không có tham nhũng, không dám tham nhũng, không cần tham nhũng và không thể tham nhũng

TS Lê Đăng Doanh”

Luật sư Nguyễn Trần Bạt, tác giả của nhiều cuốn sách bàn luận chính trị cho biết nhận xét của ông về sự thiếu vắng tự do báo chí của Singapore, ông nói:

-Tôi cho rằng báo chí có hoạt động tự do hay không thì cuối cùng những thành tựu quan trọng nhất trong tất cả các hoạt động xã hội chính là cái xã hội ấy nó phát triển và no ấm. Có một câu nói rất hay mà tôi nghĩ rằng có thể áp dụng được: ở chỗ nào ngay sự ngốc nghếch đã được hạnh phúc rồi thì khôn ngoan là thừa! Tôi nghĩ rằng người Singapore đang no ấm chúng ta còn hồi hộp xem sự no ấm của họ có bền vững không? Và nếu sự no ấm này có dấu hiệu nào đó không bền vững thì chúng ta buộc phải nghiên cứu các nguyên nhân của nó trong đó có thể không có tự do báo chí hay tự do chưa thỏa đáng có thể là một nguyên nhân để chúng ta nghiên cứu.

Những điều chưa thực hiện được

Trong một bài trả lời phỏng vấn đăng trên Straits Times dưới tiểu tựa: “Việt Nam: mắc kẹt trong tư duy xã hội chủ nghĩa”, ông Lý Quang Diệu đã nói: về cải cách của Việt Nam đã thay đổi đáng kể từ chỗ khá lạc quan khi ông có các chuyến thăm đầu tiên vào những năm 1990. Giờ ông tin rằng thế hệ các nhà lãnh đạo cộng sản lớn tuổi của Việt Nam không có khả năng phá vỡ tư duy xã hội chủ nghĩa một cách cơ bản. Lúc đầu họ đồng ý bắt tay vào chặng đường cải cách bởi vì họ thấy rằng đất nước đang chẳng đi đến đâu. Nhưng từ đó đến giờ họ vẫn chưa thể hiện được quyết tâm thật sự trong việc đại tu hệ thống, điều mà người ta đã chứng kiến ở Trung Quốc.

Nhận xét về phát biểu này, Giáo sư TS Nguyễn Đình Cống, từng giảng dạy tại Đại học Xây dựng, có những bài viết nhận định về lý thuyết Mác Lê nin cũng như con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội chỉ là không tưởng, cho biết:

-Quá đúng! cái đất nước này muốn phát triển lên được thì phải từ bỏ chủ nghĩa Mác Lê nin có nghĩa là từ bỏ những lý thuyết của cộng sản. Phải từ bỏ việc xây dựng chủ nghĩa xã hội vì những thứ ấy là không tưởng. Không những là không tưởng mà nó còn có nhiều độc hại. Cái Đại hội 12 này nếu như người ta hiểu ra được như thế, nếu người ta bỏ những thứ ấy thì không còn đảng cộng sản nữa thì mới có thể đưa dân tộc phát triển đúng hướng chứ còn cứ bám lấy những thứ ấy thì chỉ có đưa cả dân tộc này vào một hệ thống lệ thuộc vào Tàu thôi.

Mặc dù tiếp thu ý kiến của ông Lý Quang Diệu trên vấn đề hội nhập và phát triển cũng như chuyển đổi kinh tế, nhưng công cụ quản lý thành công của một nhà nước pháp quyền qua đóng góp của ông vẫn không được Việt Nam áp dụng, TS Lê Đăng Doanh chia sẻ:

-Kiến nghị của ông Lý Quang Diệu cho đến nay chưa được thực hiện một cách có hiêu quả. Thí dụ như chuyện bộ máy nhà nước trọng dụng người tài. Thí dụ như xây dựng bộ máy công khai minh bạch. Thí dụ như xây dựng bộ máy không có tham nhũng, không dám tham nhũng, không cần tham nhũng và không thể tham nhũng! Tất cả những điều đó chúng ta chưa làm được và tôi nghĩ đấy là điều mà ông Lý Quang Diệu cũng tiếc và cá nhân tôi cũng rất tiếc cho đất nước của mình.

Ông Lý Quang Diệu được cộng đồng thế giới ngưỡng mộ, người dân Singapore tiếc thương có lẽ từ tư cách, tài năng và lòng yêu thương mảnh đất mà ông góp công đầu tạo dựng. Ông mất đi nhưng vẫn còn để lại những bài học mà nhiều nước đang học dở dang nhất là Việt Nam nơi từng được ông trực tiếp chia sẻ kinh nghiệm thành công của mình.

Widodo: ‘Đường chín đoạn không có căn cứ’

Widodo: ‘Đường chín đoạn không có căn cứ’

Đây là lần đầu ông Joko Widodo thăm Nhật Bản theo tư cách tổng thống

Tổng thống Indonesia Joko Widodo được dẫn lời nói đòi hỏi Biển Đông của Trung Quốc không có căn cứ luật pháp quốc tế.

Ông Widodo hôm 23/3 rời Jakarta đi Nhật Bản, sau đó sẽ thăm Trung Quốc và Malaysia.

Trả lời phỏng vấn báo Nhật Yomiuri bản tiếng Anh, ông nói: “Chúng ta cần hòa bình và ổn định ở châu Á- Thái Bình Dương.”

“Cần có ổn định chính trị và an ninh để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì thế chúng tôi ủng hộ Bộ quy tắc ứng xử và đối thoại giữa Trung Quốc và Nhật, Trung Quốc và Asean.”

Nhưng trong bản tiếng Nhật, ông có phát biểu tranh cãi hơn khi nói: “’Đường chín đoạn’ mà Trung Quốc nói đánh dấu biên giới biển của họ không có căn cứ luật pháp quốc tế.”

Cương vực của Trung Quốc trên Biển Đông, vẽ theo cái gọi là ‘đường chín đoạn’, bao trọn khoảng 90% diện tích mặt nước ở Biển Đông.

Khi được Reuters yêu cầu giải thích, cố vấn đối ngoại của Tổng thống Indonesia, Rizal Sukma, nói rằng ông Widodo không ám chỉ yêu sách chung của Trung Quốc trên biển mà chỉ đề cập đến bản đồ dựa trên ‘đường chín đoạn’.

“Năm 2009, Indonesia đã gửi lập trường chính thức về vấn đề cho Ủy ban Phân định thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc, khẳng định đường 9 đoạn không có cơ sở pháp lý.”

“Không có gì thay đổi,” ông này nói.

Đường chín đoạn, còn gọi là đường lưỡi bò, được chính phủ Quốc dân đảng công bố lần đầu năm 1947 và sau này cũng được Đảng Cộng sản Trung Quốc dùng lại.

Trong chuyến thăm Nhật lần đầu theo tư cách tổng thống, ông Widodo sẽ gặp Thủ tướng Shinzo Abe.

Bộ trưởng quốc phòng hai nước dự kiến ký một thỏa thuận quốc phòng.

Đây là nỗ lực mới nhất của Nhật muốn thắt chặt quan hệ an ninh với Đông Nam Á.