Bạo lực học đường

Bạo lực học đường

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam
2015-03-25

03252015-violence-in-school.mp3

Một cảnh học sinh đánh nhau trước cổng trường học

Một cảnh học sinh đánh nhau trước cổng trường học

Clip-from youtube

Your browser does not support the audio element.

Trong vòng chưa đầy một tháng, có đến hơn một chục video clip nữ sinh đánh nhau, cấu xé nhau được tung lên mạng và có đến vài chục video clip nam sinh lập thành bằng nhóm, dàn trận đánh nhau, chém nhau theo kiểu xã hội đen. Tất cả những video clip này đều do học sinh tải lên. Đó là chưa kể đến hơn 6000 vụ đánh nhau gây thương tích, chết người kể từ Mồng Một Tết đến nay. Và tất cả những vụ xô xát, đánh nhau trong giới trẻ Việt Nam đều có liên quan đến vấn đề giáo dục, học đường và tính dục, bạo lực do văn hóa xuống cấp.

Tính dục và giáo dục bị chằng chéo

Ông Vận, cựu giáo viên một trường phổ thông trung học tại thành phố Sài Gòn đưa ra nhận xét: “Do cái nghiệp quả của tiền duyên nhiều đời. Nó muốn làm anh chị, nó muồn làm anh hùng nên nó tranh nhau, nó cấu xé nhau, tranh nhau vậy đó. Nó muốn làm thì nó làm, mình can đâu có được. Nói nó cũng như không. Không nói được, không thể nói hết nổi!”.

Theo thầy Vận, là một giáo viên dạy qua hai chế độ chính trị, trước 30 tháng 4 năm 1975, ông vừa tốt nghiệp đại học và đi dạy chưa đầy hai năm thì thành phố có sự thay đổi lớn, ông về quê làm ruộng một thời gian dài và năm 1980, ông quay trở lại Sài Gòn, tiếp tục nộp đơn xin dạy học. Sau gần một năm chờ điều tra lý lịch, không có thành phần gia đình dính đến chế độ cũ nên ông được nhận vào dạy môn toán trở lại với điều kiện chỉ được dạy toán và không được bàn luận gì về chính trị dù bất cứ với ai.

Ông Vận chấp nhận điều kiện và đi dạy mãi cho đến năm 1990 thì về hưu. Trong suốt quá trình dạy học, ông nhận ra bầu không khí dạy và học trước và sau 1975 có thể nói là khác nhau một trời một vực. Và quá trình dạy giữa những năm trước 1988 và sau 1988 cũng khác nhau đáng kể. Càng về sau, nền giáo dục càng có dấu hiệu lụn bại, hết phương cứu chữa.

Giải thích thêm, ông Vận cho rằng hình ảnh người thầy giáo thời trước 1975 có những đặc thù mà hiện tại không có được. Sự uy nghiêm, tính mẫu mực cũng như lương tâm nhà giáo, luôn sẵn sàng cống hiến hết mình vì sự nghiệp dạy học, lấy viên phấn trắng và tấm bảng đen làm cảm hứng của cuộc đời. Chính vì thế, người thầy dạy cấp hai và cấp ba thời đó đã được gọi là giáo sư, họ được học trò và phụ huynh coi trọng, kính nễ.

Chính tình trạng bệ rạc của nền giáo dục bởi nạn mua quan bán chức, chạy bằng giả, kinh doanh kiến thức, lạm dụng tình dục học đường đã đẩy nhiều thế hệ đến chỗ thực dụng, máu lạnh và bạo lực học đường diễn ra như cơm bữa

Sự kính nễ này một phần nhờ vào cơ chế giáo dục coi trọng tính người, coi trong nhân cách và mỗi người thầy bắt buộc phải là một tấm gương về nhân cách trong xã hội đã giúp cho học trò có cảm hứng trong việc học tập, kính trọng thầy cô và luôn noi gương thầy cô như một trách nhiệm mà con người phải làm trong cuộc đời. Chính nền giáo dục với triết lý nhân bản xuyên suốt của thời đó đã tạo ra nhiều thế hệ học trò vừa thành đạt lại vừa có nhân cách lớn trong xã hội. Điều đó hiếm có và hầu như không có trong hiện tại.

Chỉ riêng không khí dạy và học trước và sau năm 1988 cũng đã có quá nhiều thay đổi theo chiều hướng xấu đi. Trước năm 1988, nền giáo dục bao cấp, dù không thể so sánh với nền giáo dục nhân bản trước 1975 nhưng dù sao nó cũng không phải là một cái thị trường giáo dục lộn xộn như thời kỳ giáo dục thị trường sau này. Kể từ sau 1988, nền giáo dục Việt Nam rơi vào tình trạng mua bán chữ, hoạt động dạy thêm dạy kèm nở ra rầm rộ. Sau đó là thời kỳ mua bằng cấp, đút lót trong giáo dục, và gần đây nữa là tình trạng hối lộ bằng tình dục giữa học sinh và thầy giáo, giữa hiệu trưởng với các quan chức.

Chính tình trạng bệ rạc của nền giáo dục bởi nạn mua quan bán chức, chạy bằng giả, kinh doanh kiến thức, lạm dụng tình dục học đường đã đẩy nhiều thế hệ đến chỗ thực dụng, máu lạnh và bạo lực học đường diễn ra như cơm bữa. Điều đáng buồn nhất là hiện tại, những danh hiệu nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú, giáo sư tiến sĩ… đều không được trọng vọng như những giáo viên cấp trung học thời xưa. Theo thầy Vận, đây là một vấn đề cần đặt dấu hỏi lớn về cơ chế giáo dục hiện tại.

Bạo lực tới sau

Một cô giáo tên Hà, sống tại Gò Vấp, Sài Gòn, chia sẻ thêm: “Khó nói lắm, mà về nguyên nhân thì không lẽ mình đổ thừa hết cho giáo dục nó cũng không đúng. Nói chung là do môi trường. Khó nói lắm!”.

Chuyện các nữ sinh đánh nhau, các nam sinh dàn trận chém nhau ngày càng có nguy cơ phát triển và lan rộng là một bằng chứng về nền giáo dục mua bán bằng cấp, chạy chọt và hối lộ trong nghề nghiệp đã chuyển hóa thành một thứ tệ nạn và kéo theo hàng triệu hệ lụy phía sau

Theo cô Hà, vấn đề bạo lực học đường ở Việt Nam hiện nay có thể nói là vô phương cứu chữa, nó có thể bùng phát bất kì giờ nào và lan rộng đến mức khó mà lường được. Tiếng nói của giáo viên đối với học trò hiện tại không phải là tiếng nói của một vị thầy trước lớp học mà là tiếng nói của một người bán chữ trước đám đông các thượng đế mua chữ.

Trong các thượng đế mua chữ này, có nhiều thành phần khác nhau, cũng có thể là thượng đế con nhà bình dân, cũng có nhiều thượng đế con nhà quí tộc, trọc phú, đại gia. Và yêu cầu của các thượng đế đối với người bán chữ cũng khá gắt gao. Không thiếu học sinh yêu cầu phải đổi cô giáo vì cô giáo không đủ đẹp để mình học. Đương nhiên là chuyện này hiếm nhưng đã từng xãy ra tại Sài Gòn. Thậm chí có nhiều nam sinh cấp trung học trêu ghẹo cô giáo, viết thư rủ cô giáo cùng đi phòng trọ, nhà nghỉ, khách sạn.

Khi cô giáo nhận lá thư, chỉ biết run rẩy và khủng hoảng, không dám tố cáo sự việc vì sợ trả thù. Nhiều cô bỏ trường, chuyển trường. Nhưng cũng có nhiều cô chấp nhận điều kiện của học sinh để được nhận một khoản thù lao béo bở. Chính vì môi trường giáo dục hết sức kì quặc này mà nhiều nam sinh, nữ sinh và thầy cô giáo trở thành bạn tình với nhau. Mà một khi thầy cô giáo trở thành bạn tình của học sinh thì tiếng nói của họ với nhau không còn là tiếng nói của giáo dục, nó thành tiếng nói của tình dục và luyến ái. Mối quan hệ thầy trò bị phá vỡ ngay tức khắc sau khi vào nhà trọ, vào khách sạn với nhau.

Không dừng ở đây, nhiều đường dây mua bán dâm trong học đường xuất hiện, nhiều thầy giáo, cô giáo kiêm thêm nghề tú ông, tú bà chăn dắt các nữ sinh đến với khách hàng là các quan chức thèm của lạ, thèm gặm cỏ non. Và khi điều này trở thành một thế lực ngầm, một hoạt động ngầm trong học đường thì học đường đó có thể trở thành một kiểu nhà thổ trá hình. Vấn đề giáo dục trở nên khủng hoảng và bế tắc.

Theo cô Hà, chuyện các nữ sinh đánh nhau, các nam sinh dàn trận chém nhau ngày càng có nguy cơ phát triển và lan rộng là một bằng chứng về nền giáo dục mua bán bằng cấp, chạy chọt và hối lộ trong nghề nghiệp đã chuyển hóa thành một thứ tệ nạn và kéo theo hàng triệu hệ lụy phía sau. Cho đến thời điểm hiện nay, có thể nói rằng không còn cách nào để cứu chữa được nữa.

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Cùng khởi điểm, vì sao tụt hậu hằng chục năm?

Cùng khởi điểm, vì sao tụt hậu hằng chục năm?

Việt-Long – RFA
2015-03-25

singapore-1945

Quân Anh trở lại Singapore- 1945

Courtesy of Wikipedia

Singapore là thuộc địa của Anh từ 1819. Bị Nhật chiếm đóng rồi kết thúc thế chiến thứ hai, Singapore vẫn là thuộc địa của Anh nhưng được Anh dành cho một số quyền chính trị và tự trị hạn chế. Mãi đến 1959 tiểu đảo này mới được tự trị rộng rãi, chỉ trừ các lãnh vực ngoại giao, quốc phòng.

Việt Nam- Singapore

Năm 1963 Singapore được trả độc lập mà không cần chiến tranh giải phóng. Thủ tướng Lý Quang Diệu vận động xin gia nhập và được sáp nhập vào Liên Bang Mã lai Á. Nhưng chỉ được hai năm, đến 1965 bị Liên Bang đuổi ra, trong tình cảnh một xứ sở hầu như không có một chút tài nguyên thiên nhiên, không lực lượng quốc phòng, nguồn nước ngọt cũng phải trông vào Malaysia, thiếu thốn đủ mọi bề. Vậy mà đến nay tiểu đảo Sư tử đã trở thành một quốc gia có thu nhập bình quân cá nhân đứng trong hàng 10 nước cao nhất thế giới, với một chính quyền trong sạch, một xã hội dân trí cao. Thử đối chiếu hoàn cảnh lịch sử hai nước, chúng ta thấy gì?

Nói về hoàn cảnh lịch sử, Việt Nam và Singapore đều là thuộc địa của Pháp và Anh từ thế kỷ 19, sang thập niên 1940 bị Nhật chiếm đóng trong mấy năm. Khi Nhật thua trận, phe đồng minh tiếp quản, Singapore lại trở về dưới chế độ bảo hộ như trước, sau cùng được trả lại độc lập.

saigon-1945

Sài Gòn – 25-8-1945

Ở Việt Nam lúc Nhật đầu hàng, lực lượng Việt Minh chớp thời cơ cướp chính quyền, ép Hoàng đế Bảo Đại thoái vị, quyết giành độc lập không trở lại chế độ thuộc địa. Lúc đó quân Nhật đã phục tùng Hoàng đế Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim trong khi chờ đồng minh giải giới, nhưng Hoàng đế Bảo đại không cho quân Nhật can thiệp. Khi quân Anh Pháp trở lại tiếp quản để tiếp tục chế độ bảo hộ của Pháp, thì nổ ra chiến tranh. Tình cảnh Việt Nam từ đó đã rẽ sang một ngã khác.

Trong thời gian chiến tranh 1946-1954 ở Việt Nam thì Singapore được an bình trong chế độ bảo hộ của người Anh, để rồi được trả quyền tự trị vào năm 1959, và độc lập vào năm 1963. Trong giai đoạn này ở bán đảo Mã lai có xảy ra phong trào kháng chiến giành độc lập do đảng Cộng sản Mã Lai phát động, nhưng ở quá xa những cái nôi cách mạng Nga, Tàu, nên chỉ đến năm 1960 là bị dẹp tan. Riêng Singapore vẫn được yên ổn, nhưng phải ôm lấy nền độc lập trong cô đơn từ năm 1965, một tình cảnh mà Thủ tướng Lý Quang Diệu mô tả là nỗi thống khổ của ông và của người dân Singapore. Hai nước Singapore và Việt Nam nằm trong tình cảnh hoàn toàn khác biệt, còn có gì để đối chiếu?

Sự khác biệt là hòa bình và chiến tranh, nhưng về kinh tế Việt Nam vẫn có được hơn nửa thập niên phát triển trong yên bình. Con đường phát triển của Singapore bắt đầu từ lúc quân Nhật thua trận, và đảo quốc đã phát triển mạnh theo viễn kiến của Thủ tướng Lý Quang Diệu từ 1965. Trong khi đó Việt Nam đã trải qua 6 năm khói lửa Nam Bắc phân tranh từ 1959, đến 1965 bắt đầu leo thang ác liệt với sự xâm nhập ồ ạt của quân đội Bắc Việt, và các sư đoàn quân Mỹ nhảy vào Việt Nam.

Trong giai đoạn từ 1954 đến khoảng trước 1965 khi chiến tranh bùng nổ lớn ở miền Nam Việt Nam, Singapore và Việt Nam Cộng hòa vẫn cùng song song kiến tạo được nền kinh tế, văn hóa, giáo dục tiến bộ hơn hẳn so với năm 1954, 1955 và so với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa Bắc Việt. Việt Nam Cộng Hoà đã xuất cảng gạo, cao su, xi măng… Singapore vốn là trung tâm thương mại quốc tế từ đầu thế kỷ 20, vào năm 1965 đã đạt được bình quân thu nhập cá nhân cao hàng thứ ba ở Đông Á và từ đó phát triển nhảy vọt cho đến ngày nay.

Kinh tế Miền Nam Việt Nam bắt đầu xuống dốc từ năm 1965, khi hai miền Nam Bắc dốc hết nhân tài vật lực vào chiến tranh. Kinh tế miền Bắc Việt Nam trước sau cũng không có gì đáng kể.

Việt Nam- Korea

saigon-1975

Sài Gòn 1975

Nhìn sang một xứ Đông Á khác, Korea, có nhiều chỗ tương đồng với Việt Nam hơn là Singapore, để có thể đối chiếu và suy nghiệm. Nói Korea để chỉ cả hai xứ Nam Bắc Hàn. Sự tương đồng nằm ở chỗ Korea chia ra 2 miền nam bắc vào năm 1948, nhưng đến năm 1950 thì Bắc Hàn xâm lăng xứ miền Nam, đẩy lùi quân Nam Hàn và quân Mỹ tiếp viện xuống cuối miền Nam, chỉ còn giữ vòng chu vi Pusan. Mỹ tung thêm quân vào trận, đẩy lui quân Bắc Hàn đến biên giới Trung Quốc. Tháng 10 năm đó chí nguyện quân Trung hoa tràn vào, đánh tới vĩ tuyến 38 chia đôi hai miền. Chiến tranh kéo dài mãi đến năm 1953 mới ngưng chiến, và hai miền thi đua phát triển từ đó.

Tình trạng này mới có thể đem đối chiếu với Việt Nam từ năm 1954 trở đi.

Hoàn cảnh lịch sử hai nước có thể coi là tương đồng tính đến năm 1953, nhưng tiến trình phát triển trong hoà bình và trong chiến tranh hoàn toàn khác biệt.

Từ năm 1953 Bắc Hàn cũng có một thời gian ngắn phát triển rực rỡ về khoa học kỹ thuật, nhưng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa không thể nuôi dân mặc dù người dân Bắc Hàn chỉ được cung cấp những nhu cầu vật chất tối thiểu. Đến nay Bắc Hàn cũng chỉ hùng mạnh về quân sự, đem vũ khí hạt nhân đe doạ để đòi thực phẩm cứu đói, dân vẫn thường xuyên đói kém, phải trông nhờ hết vào Trung Quốc. Đó chỉ là kết quả của con đường xã hội chủ nghĩa với chế độ chính trị độc tài man rợ.

Nam Hàn tìm theo con đường sáng, từ thập niên 1960 đã áp dụng chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu, dựa vào nguồn vốn từ đầu tư nước ngoài và chương trình ODA. Trong nước thì chính sách giáo dục đã đào tạo được tầng lớp chuyên viên cao cấp trong mọi lĩnh vực, phần lớn cũng nhờ ý chí cương quyết và cái tâm sáng của dân tộc Nam Hàn. Ngày nay Nam Hàn xứng đáng đứng vào hàng các quốc gia phát triển, và là một trong số ít nước giàu có nhất trên thế giới.

Yếu tố địa lý

Đối chiếu Nam Hàn với Việt Nam, bối cảnh lịch sử của hai nước đã khác biệt hẳn từ thập niên 1960 trở đi, do bối cảnh địa lý hoàn toàn khác biệt.

Tuy chia đôi nam bắc giống như Việt Nam nhưng Nam Hàn đến năm 1953 đã được hưởng thái bình dù vẫn căng thẳng, trong khi Việt Nam bị chiến tranh tàn phá đến tận năm 1975.

seoul-1980

Seoul 1980

Bắc Hàn từng gánh cuộc chiến tranh uỷ nhiệm và tiến chiếm miền Nam không thành, nhưng cũng không thể gây chiến tranh nổi dậy hay trường kỳ kháng chiến như Việt Nam vì không thể đưa quân chính quy xâm nhập qua đường biển bao quanh bán đảo Triều Tiên như Bắc Việt xâm nhập miền Nam qua đường Trường Sơn, hành lang Lào-Miên.

Nam Hàn phải cám ơn “mẹ đại dương” đã che chở để dồn hết nỗ lực vào công cuộc phát triển kinh tế. Việt Nam Cộng Hoà bảo vệ được bờ biển nhưng không thể ngăn Bắc quân trong hằng chục năm liền quyết dồn bao nhiêu thế hệ thanh niên xẻ dọc Trường Sơn, đâm mũi dáo nhọn xuống đồng bằng miền Trung, hay luồn đến Cambodia rồi lao thẳng vào hướng Sài Gòn…

Việt Nam từ khởi điểm trong hoàn cảnh lịch sử sau năm 1945 hoà bình vãn hồi, không khác các nước Á Đông, nhưng chỉ vì bối cảnh địa lý sát lưng với nước Trung Hoa Cộng sản, lại được cả Trung Quốc lẫn Liên Xô cổ võ cấp viện từ xe tăng đại pháo tên lửa đến hạt gạo và cây kim sợi chỉ, nên đã hăng hái giương lá cờ đầu, giành lấy miền Bắc về cho phe xã hội chủ nghĩa, lại thừa thắng xông lên đem 800 ngàn mạng người lìa bỏ quê nhà đi đánh chiếm miền Nam ruột thịt, lập công đầu trong thế giới Cộng sản anh em.

Một mình Việt Nam miệt mài đem xương máu đồng bào đi đòi xương máu đồng bào để tự mình giải phóng cho mình, trong khi khắp trời Á Đông nơi nơi miệt mài phát triển dân giàu nước mạnh, thịnh vượng văn minh như Singapore, Nam Hàn đã minh chứng.

Mải mê con đường ngược chiều thế giới văn minh, chẳng trách lúc phá sản chủ nghĩa, mở mắt nhìn lại, thì đã muộn sau người hằng thế kỷ.

Bài nói chuyện với các nữ tu dòng kín: Hãy thắng thói vô cảm.

Bài nói chuyện với các nữ tu dòng kín: Hãy thắng thói vô cảm.

Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng

Bài nói chuyện với các nữ tu dòng Kín Phú Cường

HÃY THẮNG THÓI VÔ CẢM

“Chúa không dửng dưng với chúng ta. Mỗi người trong chúng ta đều có chỗ trong lòng của Ngài, Ngài biết đích danh chúng ta, chăm sóc và đi tìm chúng ta mỗi khi chúng ta bỏ Ngài. Chúa quan tâm đến mỗi người chúng ta; tình yêu không cho phép Chúa dửng dưng với những gì xảy đến với chúng ta” Đó là lời trong phần đầu của sứ điệp “Anh em hãy vững lòng” (Giac 5,8), mùa Chay 2015 của Đức Phanxicô.

Dựa trên Lời Chúa, Đức Thánh cho thấy sự ray rứt của mình về thái độ vô cảm đang diễn ra trên toàn thế giới. Với khẳng định, Thiên Chúa là Đấng không vô cảm, “Thiên Chúa không dửng dưng với chúng ta”, Đức Thánh Cha không dấu được nỗi đau thắt, khi đứng trước “hiện tượng toàn cầu hóa thói vô cảm” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Như tiếng kêu cứu thay những phận người xấu số, Đức Thánh Cha đòi cả Hội Thánh, đòi từng giáo xứ, từng cộng đoàn dòng tu, từng Kitô hữu hãy dấn thân, hãy hy sinh, hãy làm một điều gì cụ thể cho mọi người đau khổ; cho các nạn nhân của bạo quyền, bạo lực; cho việc đẩy lùi thói vô cảm, đẩy lùi sự an thân một cách độc ác của một phần lớn nhân loại.

Đức Thánh Cha thẳng thắn nói lên khao khát của mình: “Tôi mong muốn biết bao rằng nơi nào Giáo Hội hiện diện, đặc biệt là các giáo xứ và các cộng đoàn của chúng ta, nơi ấy sẽ trở thành những hải đảo giữa lòng đại dương vô cảm!” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

I. HIỆN TƯỢNG VÔ CẢM.

Chúng ta còn nhớ giây phút cảm động trong chuyến tông du của Đức Giáo Hoàng tại Philippines, giây phút một câu hỏi bất ngờ được cất lên từ miệng của một trẻ em: “Tại sao Chúa lại để xảy ra như vậy?”.

Đó là lời bé gái Glyzelle Iris Palomar 12 tuổi, hỏi Đức Giáo Hoàng. Em cùng một bé trai 14 tuổi là Juan Chura, đại diện những trẻ bụi đời đang được viện Tulayng Kabataan nuôi dưỡng, và là một trong nhiều nhân chứng được chọn để trình bày những hiện trạng và thách đố của xã hội lên Đức Phanxicô, trong buổi gặp gỡ dành riêng cho thanh thiếu niên, tổ chức tại Giáo hoàng Học viện Santo Tomas.

Đang phát biểu chào mừng Đức Thánh Cha, – sau khi kể hoàn cảnh mình là một bé gái bị bỏ rơi, bị vất ra ngoài lề xã hội; từng sống lang thang như bao nhiêu trẻ bụi đời; quá nhiều lần chứng kiến đồng bạn bị cha mẹ bỏ, rồi sa vào cạm bẫy của sự dữ: nghiện ngập, mãi dâm, cướp bóc, tù tội, bị giết hại, bị mọi người lên án, bị chà đạp nhân phẩm, bị chà đạp quyền sống… – em đã không thể đọc tiếp bài dọn sẵn. Em nhìn lên Đức Thánh Cha, bất ngờ đặt câu hỏi như trên. Em không thể đọc tiếp, nhắm nghiền mắt và nức nở khóc. Cố gắng lắm, em kết thúc bằng một câu hỏi khác: “Và tại sao lại ít có người giúp chúng con như thế?”. Người ta đã phải dỗ em trước khi đưa em lên bắt tay Đức Giáo Hoàng. Ngài đã đứng dậy, bước xuống nửa đường để ôm em vào lòng.

Hình ảnh một vị Giáo hoàng rưng rưng nước mắt và bé Palomar gục mặt mình vào lòng của ngài, là hình ảnh đẹp không thể nói hết. Hình ảnh đó lập tức được loan tải rộng rãi trên tất cả các hệ thống truyền thông. Nhiều tờ báo đánh giá đây là giây phút cảm động nhất của chuyến tông du.

“Tại sao Chúa lại để xảy ra như vậy?”. Đó là câu hỏi của một em bé. Từ câu hỏi đắng lòng ấy, ta phải thấy những câu hỏi khác: Tại sao một trẻ thơ, một chồi non của thế giới phải ngậm ngùi cất lên câu hỏi đầy thương đau? Thế giới đã làm gì, con người đã làm gì, Hội Thánh đã làm gì cho những kẻ ngày đêm sống trong đau khổ? Đặc biệt, tất cả chúng ta có thấy trách nhiệm của mình trước đau khổ của con người, để đến nỗi, một em bé phải xót xa cất lên lời hỏi đầy thách đố cho đức tin, cho ý thức tôn giáo của cả Hội Thánh?

Chúng ta hãy ra khỏi vỏ bọc đạo đức của mình. Chúng ta hãy quan sát thế giới. Chúng ta hãy liên đới với người bị đau khổ xâu xé. Chúng ta không được đứng ngoài những gì diễn ra trong thân phận nghiệt ngã của người xấu số.

Thế giới không được phép vô cảm. Hội Thánh không được phép vô cảm. Giáo xứ và các cộng đoàn không được phép vô cảm. Từng tín hữu Kitô không được phép vô cảm.

“Em ngươi đâu?” (St 4, 9), là câu hỏi Chúa đang tra vấn từng người chúng ta. Vì đó là lời Chúa hỏi, nên chúng ta phải luôn ghi tâm khắc cốt mà sống, mà hành động để trả lời cho Chúa, nhờ sự nỗ lực dấn thân của mỗi chúng ta. Hãy chiến đấu để chiến thắng sự vô cảm hằng tồn tại nơi mỗi con người.

II. ĐỌC SỨ ĐIỆP MÙA CHAY 2015.

Đức Thánh Cha đòi chúng ta, không phải riêng một cá nhân nào, nhưng là toàn bộ, từ cộng đoàn Hội Thánh, các cộng đoàn giáo xứ, các dòng tu, đến từng Kitô hữu, hãy tỉnh thức, đừng để thái độ vô cảm xâm lấn, thống trị mình.

1. Hội Thánh.

Dù sự vô cảm là thái độ tàn nhẫn mà thế giới có thể gây nên cho mình, Hội Thánh không được phép sợ hãi. Hãy như Chúa Kitô, chúng ta phải đi vào lòng thế giới: “Thiên Chúa không dửng dưng đối với thế giới chúng ta, Ngài yêu thương thế giới đến độ ban Con của Ngài để cứu rỗi chúng ta. Trong mầu nhiệm nhập thể, trong cuộc sống trần thế, trong mầu nhiệm sự chết và sống lại của Con Thiên Chúa, cánh cửa giữa Thiên Chúa và con người, giữa trời và đất, đã mở ra một lần và luôn mãi. Giáo Hội như bàn tay giữ cho cánh cửa ấy luôn mở, qua việc công bố Lời Chúa, cử hành các bí tích, và làm chứng cho đức tin sống động nhờ đức ái (x. Gl 5,6). Nhưng thế giới lại có xu hướng thu mình lại và đóng chặt cánh cửa mà qua đó Thiên Chúa đi vào thế giới và thế giới đến với Thiên Chúa. Thế nên nếu Giáo Hội, như là bàn tay, có bị từ khước, bị nghiền nát và mang thương tích thì chẳng có gì đáng ngạc nhiên” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Qua việc trưng dẫn câu Kinh Thánh: “Nếu một chi thể đau, thì mọi chi thể cùng đau” (1Cr 12,26), Đức Giáo Hoàng mời gọi chúng ta đặt niềm tin nơi Thiên Chúa và Hội Thánh. Không thể đơn phương chống lại căn bệnh vô cảm, chúng ta cần chiến đấu cùng toàn thể Hội Thánh.

Cả Hội Thánh nên một trong Chúa Kitô, liên kết với Chúa Kitô. Vì thế, hành động của Chúa Kitô phải trở thành hành động của cả Hội Thánh. Nếu Chúa Kitô đã cúi xuống rửa chân cho Hội Thánh, thì Hội Thánh cũng phải theo gương Chúa Kitô mà phục vụ con người. Bởi “chỉ có người nào ‘dự phần’ với Ngài (Ga 13, 18) thì mới có thể phục vụ người khác” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Đặc biệt, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi hãy sống bí tích Thánh Thể. Chỉ có nơi bí tích kỳ diệu này, “chúng ta trở thành điều mà chúng ta lãnh nhận: trở nên Thân Mình Chúa Kitô” (Sứ điệp mùa Chay 2015). Hãy nhớ, Chúa Kitô không vô cảm, vì thế, khi đã là thân mình Chúa, “không có chỗ cho thói vô cảm rất thường chiếm lĩnh tâm hồn chúng ta. Vì ai thuộc về Chúa Kitô thì cũng thuộc về một thân mình duy nhất và trong Chúa chúng ta không được dửng dưng đối với nhau.‘Vì nếu một chi thể đau, thì mọi chi thể cùng đau; và nếu một chi thể được vinh dự thì mọi chi thể đều được chia sẻ niềm vui ấy’(1 Cr 12,26)” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Đừng chần chừ thêm nữa, nhưng hãy bắt tay làm một cái gì đó cho người bên cạnh ngay từ bây giờ. Mùa Chay là thời gian thuận tiện để bày tỏ mối quan tâm này đối với người khác. Những dấu chỉ tuy bé nhỏ nhưng cụ thể này nói lên rằng chúng ta thuộc về một cộng đoàn Hội Thánh duy nhất.

2. Các giáo xứ và các cộng đoàn.

Bắt đầu từ lời hỏi: “Em ngươi đâu?” của sách Sáng thế, Đức Thánh Cha đòi từng giáo xứ, từng cộng đoàn phải trả lời những câu hỏi cấp thiết của ngài: “Những gì đã nói về Giáo Hội hoàn vũ thì cũng phải được áp dụng cho đời sống của các giáo xứ và các cộng đoàn. Các tổ chức Giáo Hội này có giúp chúng ta cảm nghiệm được mình thuộc về một thân mình duy nhất hay không? Một thân mình lãnh nhận và chia sẻ những gì Thiên Chúa muốn ban tặng? Một thân mình biết nhận ra và chăm sóc những phần tử yếu đuối nhất, nghèo khổ nhất và bé nhỏ nhất? Hay chúng ta trốn chạy vào một tình yêu phổ quát, ôm trọn cả thế giới mà lại không nhìn thấy người nghèo Lazarô ngồi trước cửa nhà đóng kín của chúng ta? (x.Lc 16,19-31)” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Đức Giáo Hoàng nhắc nhở chúng ta, ngay cả các thánh trên thiên quốc, dù đã hoàn thành cuộc đời trần thế, dù đã chiến thắng thói vô cảm, vẫn “không hoan hỉ vì đã quay lưng với những đau khổ của trần thế để vui mừng trong cảnh huy hoàng của riêng mình” (Sứ điệp mùa Chay 2015). Để minh chứng rằng,“các thánh vẫn đồng hành với chúng ta trên đường lữ thứ”, niềm vui của các ngài chưa trọn vẹn, khi “tình yêu chưa thấm nhập vào toàn thế giới”, Đức Thánh Cha đã nhắc đến lời một vị thánh trẻ nổi tiếng: “Thánh Têrêsa Lisieux, tiến sĩ Hội Thánh, đã bày tỏ xác tín rằng niềm vui trên trời về chiến thắng của Tình yêu chịu đóng đinh vẫn chưa trọn vẹn bao lâu còn một người trên trần thế phải chịu đau khổ và khóc than: ‘Con hy vọng rằng ở trên trời con sẽ không phải ngồi không, mong ước của con là vẫn tiếp tục làm việc cho Giáo Hội và cho các linh hồn’ (Thư 254 ngày 14.7.1897)” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Các thánh trên trời mà còn “không phải ngồi không”, thì nhất thiết, chúng ta không được phép chểnh mảng bổn phận. Đức Thánh Cha đề nghị hai cách để giáo xứ và cộng đoàn dấn thân cho sự không vô cảm: 1. Liên kết với các thánh “trong chiến thắng của Chúa Kitô Phục Sinh”, để đủ sức mạnh “vượt thắng thói vô cảm và cứng lòng”, 2. “Ra khỏi chính mình để dấn thân vào đời sống của xã hội rộng lớn hơn mà mình cũng là thành phần, nhất là với những người nghèo và những người ở xa Giáo Hội” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

3. Mỗi tín hữu.

Từ gợi hứng của thánh Giacôbê, “Anh em hãy vững lòng!” (Giac 5,8), Đức Giáo Hoàng đưa ra nhận xét:“Cả trong tư cách là những cá nhân, chúng ta cũng bị cám dỗ sống vô cảm. Khi bị chìm ngập trong những tin tức và hình ảnh kinh hoàng về đau khổ của con người, chúng ta thường cảm thấy mình hoàn toàn không có khả năng giúp đỡ” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Từ nhận xét ấy, Đức Phanxicô đặt vấn đề: “Phải làm gì để không bị vướng vào cái vòng xoáy khốn cùng và bất lực ấy?”. Ngài đòi mỗi cá nhân hãy giải quyết vấn đề tưởng chừng bất lực ấy, dựa trên ba nền tảng:

a. Cầu nguyện:“Chúng ta có thể hiệp thông cầu nguyện với Giáo Hội ở trần thế và Giáo Hội trên thiên quốc. Chúng ta đừng coi thường lời cầu nguyện có sức mạnh của biết bao người hiệp nhất với nhau! Sáng kiến 24 giờ cho Chúa, mà tôi mong ước sẽ được cử hành vào các ngày 13-14 tháng Ba trong toàn Giáo Hội, cả ở cấp giáo phận, sẽ là dấu chỉ cho thấy cần thiết phải cầu nguyện” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

b. Bác ái: “chúng ta có thể giúp đỡ bằng những việc bác ái, cho những người ở gần cũng như những người ở xa Giáo Hội, qua nhiều tổ chức bác ái của Giáo Hội. Mùa Chay là thời gian thuận tiện để bày tỏ mối quan tâm này đối với người khác, qua những dấu chỉ –tuy bé nhỏ nhưng cụ thể– nói lên rằng chúng ta thuộc về một gia đình nhân loại duy nhất” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

c. Hoán cải: “đau khổ của người khác là một lời mời gọi hoán cải, vì sự thiếu thốn của họ nhắc nhở tôi rằng cuộc đời tôi rất mong manh, và tôi lệ thuộc vào Thiên Chúa và anh chị em mình. Nếu chúng ta khiêm tốn cầu xin ơn Chúa và chấp nhận những giới hạn của mình, thì chúng ta sẽ tin tưởng vào những khả năng vô biên mà tình yêu của Thiên Chúa dành sẵn cho chúng ta. Và chúng ta có thể chống lại cám dỗ của ma quỷ khi tưởng mình có thể cứu thoát bản thân và thế giới bằng sức riêng mình” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

Màu tím Mùa Chay diễn tả sự sầu khổ và lòng thống hối trong tâm hồn. Nhờ đó, mỗi Kitô hữu trở về cùng Thiên Chúa tình yêu. Ý thức thân phận mỏng dòn của mình, ta “đừng sợ”, nhưng can đảm nhìn lên Thánh giá, cậy nhờ sự chuyển cầu của Đức Maria, triều thần thánh và mọi anh chị em nơi dương thế, mà gắng sống chính tình yêu của Chúa, như Chúa yêu ta.

Với lòng chân thành, muốn thực tâm đẩy lùi thói vô cảm, từng người hãy cùng vị Cha chung tha thiết cầu nguyện: “xin uốn lòng chúng con nên giống Trái Tim Chúa (kinh cầu Rất Thánh Trái Tim Chúa Giêsu)” (Sứ điệp mùa Chay 2015). Nhờ đó, con tim mỗi người trở nên đền thờ Chúa Thánh thần, Đấng dẫn dắt ta đi trên những nẻo đường tình yêu, đến với anh chị em bằng việc chia sẻ chính bản thân ta. Rồi nhờ đến cùng anh chị em, ta nhận ra sự nghèo nàn của chính mình vốn cần được Thiên Chúa làm cho đầy tràn.

Có nhận ra sự nghèo nàn của mình, ta càng dễ dàng để Chúa ưốn nắn. Nhờ đó, ta “có được một con tim mạnh mẽ và biết xót thương, ân cần và quảng đại, một con tim không thu mình lại, không vô cảm hay rơi vào cám dỗ của nạn toàn cầu hóa thói vô cảm” (Sứ điệp mùa Chay 2015).

III. DỤ NGÔN NGƯỜI SAMARITANÔ NHÂN HẬU (x.Lc 10, 30-37).

Năm 2015, năm Đời Sống Thánh Hiến. Chúng ta hãy hồi tâm để ăn năn tội về những lỗi phạm đến đời thánh hiến và trong đời thánh hiến của chúng ta. Tôi thiết nghĩ, hình ảnh tư tế, Lêvi trong dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu đáng để chúng ta suy nghĩ mà cãi thiện đời sống, mà ăn năn thống hối theo tinh thần mùa chay, mà chết cho con người cũ, phục sinh con người mới trong ơn phục sinh của Chúa Kitô.

Kể câu chuyện người Samaritanô nhân hậu, Chúa “lật đổ” thái độ vô cảm của hàng giáo sĩ trong Hội Thánh. Hãy nghe Chúa nói về hàng giáo sĩ của Chúa: “Một người kia từ Giêrusalem xuống Giêricô, dọc đường bị rơi vào tay kẻ cướp. Chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống, nửa chết. Tình cờ, có thầy tư tế cũng đi xuống trên con đường ấy. Trông thấy nạn nhân, ông tránh qua bên kia mà đi. Rồi một thầy Lêvi tới chỗ ấy, thấy thế, cũng tránh qua một bên mà đi…”.

Tư tế là ai? Lêvi là ai? Đó là những người tương đương bậc “chân tu” thời đại. Họ là giám mục, linh mục của Chúa.

Qua hình ảnh tư tế, Lêvi, đã làm ngơ, đã thể hiện sự vô cảm đến độ độc ác trước thực trạng của người bị cướp đánh có nguy cơ mất mạng sống, trở thành một gương mù, một phản chứng lớn vô cùng đối với chính đời dâng hiến của họ.

Mặc dù Chúa không trực tiếp kết tội, nhưng trong mấy từ “tránh qua bên kia mà đi”, cho thấy Chúa không bằng lòng. Tại sao lại tránh?

“Tránh qua bên kia” nghĩa là người bị tấn công đang bất động ngay dưới chân mình, cản bước mình. Ngay dưới chân nên mới phải “tránh” mà đi!

Họ đã bước vào đời hiến dâng, họ dạy người khác phải hy sinh, phải hướng thiện, phải chấp nhận bỏ mình vì tha nhân, sao chính họ lại không hiến thân?

Họ dạy phải nhân từ, phảy yêu thương, sao họ vô cảm trước nỗi đau của đồng loại?

Thôi thì hãy cố tìm lý lẽ tốt để biện minh giúp những người đang bị “kết tội”: Họ sợ hãi! Bởi sợ nên vô tâm. Tư tế và Lêvi vô tâm đối với người bị cướp vì họ sợ nhiễm ô uế.

Luật Do thái quy định, ai đụng chạm vào người ngoại giáo, nhất là đụng chạm vào xác chết sẽ bị nhiễm ô uế.

Cứ cho rằng, người bị cướp có thể là người ngoại, lại còn sắp chết. Vì thế, để khỏi nhiễm ô uế, tư tế và Lêvi trong dụ ngôn đã “tránh qua bên kia mà đi”.

Dù vậy, sự “kết tội” Chúa quy cho những nhà “chân tu” của dụ ngôn, khó có ngôn từ khả dĩ giúp họ có thể “chạy tội”.

Mặt khác, vì lời Chúa dạy: “Các con đừng sợ những kẻ giết được thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng ra, các con phải sợ Đấng có thể tiêu diệt cả xác lẫn hồn trong hỏa ngục…”, và các tư tế, Lêvi xưa không được phép sợ mà “tránh sang bên kia”, thì những nhà “chân tu” ngày nay càng không được phép vô cảm.

Thế nhưng, biết đâu vẫn còn những nhà lãnh đạo trong Hội Thánh sống trong sự nơm nớp lo sợ tương tự như thế. Chẳng hạn như sợ không được xây nhà thờ mà đành nhắm mắt làm ngơ trước cảnh bất công của giới cầm quyến.

Hoặc vì quyền lợi tư riêng mà ngậm miệng trước cảnh người nghèo bị áp bức. Hoặc vì để dễ sống, để yên thân sống mà không thèm đếm xỉa gì đến những anh chị em đang bị đố kỵ, bị rẻ rúng, bị chà đạp quyền sống…

Thế giới quanh ta vẫn còn đó, rất nhiều những người bị “cướp” như hình ảnh người bị cướp trong dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu.

Đó là những bào thai không phương thế tự vệ, vẫn bị giết, bị trục xuất ra khỏi lòng mẹ không thương tiếc. Cho đến nay, dù mỗi năm Hội đồng Giám mục Việt Nam họp hai lần, vẫn chưa bao giờ có một tiếng nói chính thức nào phản đối, hay chí ít là kiến nghị về luật cho phép phá thai. Chính do luật này, mà ngày nay Việt Nam đã “được nâng lên” hàng “top” thế giới. Thật mỉa mai! Thật chua xót! Một quốc gia nghèo, lạc hậu, không phải vươn lên hết nghèo, hết lạc hậu, mà lại “vươn lên” hàng đầu về thảm trạng phá thai.

Đó là những trẻ em bị cướp mất tuổi thơ khi người ta buộc các em phải lao động nặng nhọc, phải tham gia vào con đường tội ác, phải đem chính giá trị tuổi thơ của mình phục vụ những kẻ mang hình người nhưng lương tâm thú tính trong các nhà chứa, trong các đường dây tình dục… Và còn biết bao nhiêu mảnh đời trẻ thơ phải chấp nhận sống chui rúc ở bãi rác, gầm cầu, phố chợ…

Đó còn là những mảnh đời ngụp lặn trong dòng đời nhầy nhụa, mất định hướng sống, mất niềm hy vọng sống. Cũng có thể họ là những người sống lương thiện, nhưng bị nghi ngờ, bị hiểu lầm, bị chèn ép, bị bóc lột, bị hiếp đáp…

Đó còn là những cụ già bị bỏ quên trên góc phố, bị mất tất cả sức lao động, nhưng vẫn phải lê thân từng ngày đội nắng, đội mưa bán vé số, lượm ve chai, ngửa tay xin lòng trắc ẩn của mọi người…

Tất cả những người ấy, đều rất cần chúng ta, những bàn tay của người Samaritanô thời đại. Chúng ta hãy dẹp bỏ thái độ vô tâm của tư tế, Lêvi để cúi xuống trên những anh chị em đau khổ của mình. Hãy nhớ rằng, chỉ khi trở thành người Samaritanô, ta mới thật sự là anh em của những người “bị cướp” ấy.

Lẽ ra chúng ta phải mang trong lòng mình, khắc sâu trong nội tâm mình tình yêu của Thiên Chúa, thái độ âu yếm, cảm thông của Thiên Chúa, Lời Thiên Chúa dạy yêu thương để sống nhân ái hơn, quan tâm hơn, gần cận anh chị em của mình hơn…

Trong khi đó, nhiều người không đứng trong hàng ngũ “chân tu” như chúng ta, thậm chí họ chỉ là người ngoại giáo như người Samari ngoại giáo, lại sống đức tin, sống lời của Chúa, sống phù hợp thánh ý Chúa, sống đúng theo lề luật Chúa.

Thật trớ trêu, thật mâu thuẫn, và đáng xấu hỗ cho những người sống đời thánh hiến có thói vô cảm của tư tế, Lêvi trong dụ ngôn: Bởi họ luôn là biểu tượng của những người sống gần Thiên Chúa, nhưng hình như lòng họ không có Chúa bao nhiêu. Còn những người Samaritanô giữa đời, cứ tưởng nơi lòng họ “chất đời” nhiều hơn “chất Chúa”, thì hành động của họ lại cho thấy lòng họ “đầy Chúa”.

Chúng ta chỉ hãy mang hình ảnh người ngoại giáo Samaritanô hiên ngang sống cho đức tin, hiên ngang lao vào mọi mặt trận của đời sống con người để đánh phá mọi thứ “cướp”, trả lại cho con người cuộc sống yên bình, hạnh phúc.

Bất cứ khi nào ý thức mình là người sống trong đời tu, ý thức mình đã hiến dâng cho Chúa, thì càng can đảm bênh vực sự thật, công lý, tình yêu, con người… Hãy loại trừ hình ảnh tư tế, Lêvi ích kỷ, chỉ tìm vinh thân mà bỏ qua mọi điều tốt phải thực thi, không hề đoái hoài đến những con người bất hạnh, dù họ có ở ngay trước mắt mình.

Càng sống lâu trong đời tu, những người đã thánh hiến cho Chúa càng phải học lấy tinh thần bất khả nhượng của các thánh Tử Đạo Việt Nam, mà đối đầu trước mọi gai chướng, mọi thương đau, mọi cùng cực, mọi bẻ bàng của nhiều anh chị em quanh mình.

Tất cả chúng ta, dù là tu sĩ, hay linh mục, đã là Kitô hữu, hãy đào tạo lương tâm mình thành người hữu dụng cho Thiên Chúa, cho Hội Thánh và cho cuộc đời. Hãy đào tạo mình thành người có tâm, biết chạnh lòng thương, biết nhìn đến nhu cầu của con người, không sống vô tâm, không sợ hãi bất cứ điều gì. Vì chính khi sống vì hạnh phúc của người khác, ta sẽ bắt gặp hạnh phúc của chính mình.

Chúng ta hãy đinh ninh luôn luôn lời Chúa kết luận cho dụ ngôn Người Samaritanô nhân hậu: “Hãy đi, và làm như vậy” (Lc 10, 37), để dấn thân, để can đảm, để ra khỏi chính mình, để sáng danh Chúa, để làm cho không còn tình trạng “cướp”.

Chiều ngày áp lễ thánh Giuse

18.3.2015

Lm. JB NGUYỄN MINH HÙNG

1,062 nhà truyền giáo bị giết trên thế giới trong thời gian từ 1980 đến 2014

1,062 nhà truyền giáo bị giết trên thế giới trong thời gian từ 1980 đến 2014

Nguyễn Việt Nam

3/24/2015

Ngày 24 tháng 3, Giáo Hội tại nhiều nơi trên thế giới kỷ niệm ngày “Các Nhà Truyền Giáo Tử Đạo” là ngày cầu nguyện và ăn chay để tưởng nhớ các nhà truyền giáo đã thiệt mạng trên bước đường rao giảng Chúa Kitô cho muôn dân.

Đây là một sáng kiến của phong trào thanh niên của các Hội Giáo Hoàng Truyền Giáo, được cử hành đúng vào ngày Đức Cha Oscar Arnulfo Romero, Tổng Giám Mục San. Salvador bị giết chết. Ngài sẽ được phong chân phước vào ngày 23 tháng 5 tới đây.

Theo thông tấn xã Fides của Bộ Truyền Giảng Tin Mừng Cho Các Dân Tộc, trong thập niên từ năm 1980 đến 1989, có115 nhà truyền giáo bị giết. Thập niên tiếp theo, tức là từ năm 1990 đến Năm Thánh 2000 con số này tăng lên gần gấp 6 lần với 604 nhà truyền giáo bị sát hại. Sự đột biến này chủ yếu là kết quả của tội ác diệt chủng ở Rwanda, với 248 nhà truyền giáo bị giết tại đây.

Trong thời gian từ năm 2001 đến cuối năm 2014, 343 nhà truyền giáo bị thiệt mạng vì bạo lực chống lại đức tin Kitô. Riêng trong năm qua 2014, 26 vị đã bị giết bao gồm 17 linh mục, 1 thầy, 6 nữ tu, 1 chủng sinh, và 1 giáo dân.

Lý Quang Diệu, nhà độc tài được yêu mến và ngưỡng mộ nhất thế giới

Lý Quang Diệu, nhà độc tài được yêu mến và ngưỡng mộ nhất thế giới


Nguyễn Hưng Quốc

Trên thế giới, trong nửa sau thế kỷ 20, không có chính khách nào thành công và được ngưỡng mộ như là Lý Quang Diệu (1923-2015).

Thành công đầu tiên là ông nắm quyền lực trong một thời gian rất lâu. Có thể nói ông là một trong những thủ tướng dân cử tại vị lâu nhất trên thế giới, trong hơn 30 năm, từ 1959 đến 1990. Sau đó, với chức bộ trưởng danh dự (senior minister) và người hướng dẫn các bộ trưởng khác (minister mentor), ông tiếp tục có ảnh hưởng lớn trong việc phác hoạ chính sách phát triển cho Singapore. Từ năm 2011, ông chính thức rút lui khỏi bộ máy cầm quyền, nhưng vẫn tiếp tục làm dân biểu Quốc hội, ở đó, tiếng nói của ông vẫn được lắng nghe một cách đặc biệt, một phần vì thủ tướng đương nhiệm, Lý Hiển Long, là con trai của ông, phần khác, quan trọng hơn, vì những ý kiến của ông bao giờ cũng được xem là khôn ngoan và sắc sảo không những chỉ ở tầm quốc gia mà còn ở tầm quốc tế.

Thành công thứ hai của Lý Quang Diệu là ông đã làm cho đảng Hành động Nhân dân (People’s Action Party – PAP) do ông sáng lập với một số bạn bè từ năm 1954 trở thành một đảng cầm quyền có uy tín và sức mạnh hầu như vô địch tại Singapore trong suốt 60 năm qua. Trong cuộc bầu cử năm 1963, đảng của ông chiếm 37 trên tổng số 51 chiếc ghế Quốc hội; trong các cuộc bầu cử sau đó, từ năm 1968 đến 1980, đảng của ông chiếm toàn bộ số ghế. Chỉ từ năm 1984 trở đi, trong Quốc hội mới thấp thoáng có vài ba chiếc ghế thuộc phe đối lập. Cho đến nay, đảng Hành động Nhân dân vẫn giữ ưu thế tuyệt đối trong Quốc hội.

Thành công thứ ba và cũng là thành công to lớn nhất của Lý Quang Diệu là, trong suốt mấy chục năm, ông đã biến Singapore từ một quốc gia nhỏ xíu, nghèo đói và lạc hậu trở thành một trong những quốc gia phát triển và có thu nhập trên đầu người thuộc vào hạng cao nhất trên thế giới.

Xin lưu ý Singapore là một trong vài quốc gia nhỏ và có mật độ dân cư cao nhất thế giới. Với diện tích khoảng 700 cây số vuông, Singapore chỉ bằng một nửa thành phố Đà Nẵng của Việt Nam. Cái đảo quốc này không có đất cho nông nghiệp, thậm chí, không đủ nguồn nước ngọt để sử dụng, hầu như không có bất cứ một thứ tài nguyên nào cả. Vào những năm mới được tự trị cũng là lúc Lý Quang Diệu mới lên làm Thủ tướng, Singapore là một quốc gia rất nghèo nàn với trình độ dân trí rất thấp, hơn nữa, lại bị chia rẽ trầm trọng về sắc tộc. Sự chia rẽ trầm trọng đến độ Malaysia không muốn nhận Singapore làm một thành viên trong Liên bang Malaysia dù hầu hết các chính khách tại Singapore, kể cả Lý Quang Diệu, khao khát điều đó: Hầu như mọi người đều cho, với những bất lợi về phương diện địa lý và một số dân ít ỏi như vậy, Singapore rất khó phát triển và bảo vệ được chủ quyền của mình sau khi được Anh trao trả độc lập.

Thế mà, chỉ mấy chục năm sau, dù dân số vẫn rất thấp (hiện nay khoảng 5 triệu rưỡi), Singapore đã trở thành một trong những quốc gia tiên tiến nhất trên thế giới. Đó là quốc gia có thu nhập trên đầu người thuộc loại cao nhất trên thế giới; có những trường đại học được xếp vào hạng ưu tú nhất trên thế giới; nơi có môi trường làm ăn thuận lợi và dễ dàng nhất trên thế giới, quốc gia ít tham nhũng và minh bạch nhất thế giới; nơi có hãng hàng không và phi trường được xem là uy tín nhất thế giới; một hải cảng tấp nập nhất thế giới; những đường phố sạch sẽ nhất thế giới, v.v…

Sự phát triển nhanh chóng và vượt bậc của Singapore xuất phát từ nhiều lý do nhưng hầu như tất cả các nhà phân tích chính trị và nghiên cứu lịch sử đều đồng ý với nhau ở một điểm: lý do quan trọng nhất là sự lãnh đạo khôn ngoan của Lý Quang Diệu. Ông được xem là người lập quốc, một vị cha già của dân tộc. Nhắc đến Singapore, nhiều học giả gọi đó là Singapore của Lý Quang Diệu (Lee Kuan Yew’s Singapore).

Khác với các “vị cha già” (founding father) khác, từ Mao Trạch Đông đến Fidel Castro, Kim Nhật Thành và Hồ Chí Minh, những kẻ chỉ đẩy đất nước vào chiến tranh hoặc khốn cùng, “vị cha già” Lý Quang Diệu làm cho đất nước ông càng ngày càng văn minh và giàu có, được cả thế giới kính trọng.

Với tư cách một kiến trúc sư, người xây dựng một nước Singapore hiện đại, không phải Lý Quang Diệu không có khuyết điểm. Khuyết điểm nổi bật nhất của ông là độc tài. Ông trấn áp những người đối lập, tìm mọi cách để ngăn chận sự phát triển của xã hội dân sự, ưu tiên cho những thành phần ưu tú, để cho gia đình ông nắm giữ những chức vụ cao cấp trong bộ máy chính quyền cũng như trong lãnh vực kinh tế, có những chủ trương khắc nghiệt để bảo vệ một Singapore trong sạch và lành mạnh. Tuy nhiên, phần đông dân chúng vẫn hài lòng với sự độc tài ấy. Họ hiểu nguyên nhân của sự độc tài là từ thiện chí muốn, một, tạo nên một hệ thống quản trị tốt và hữu hiệu và hai, đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá đất nước của Lý Quang Diệu. Bởi vậy, biết ông độc tài, người ta vẫn yêu mến và kính trọng ông. Có thể nói, Lý Quang Diệu là một trong những nhà độc tài khả ái và khả kính hiếm hoi trên thế giới. Hầu như tất cả các lãnh tụ trên thế giới, khi nói về ông, bao giờ cũng tỏ vẻ đầy tôn trọng. Các tổng thống Mỹ, từ Richard Nixon đến Bill Clinton và George H.W. Bush; các thủ tướng Anh, từ Margaret Thatcher đến Tony Blair, đều nhiệt liệt khen ngợi ông.

Nhưng sự thành công của Lý Quang Diệu không dừng lại ở phạm vi Singapore. Ông được xem là một nhà chiến lược thiên tài ở châu Á. Nhiều quốc gia, trong đó có Trung Quốc và Việt Nam, thường xin ý kiến của ông trong nỗ lực hiện đại hoá đất nước của họ. Ở phạm vi quốc tế, một trong những đóng góp nổi bật của Lý Quang Diệu là đưa ra khái niệm bảng giá trị Á châu (Asian virtue) với nội dung chính là: khác với Tây phương nơi các bảng giá trị được xây dựng trên chủ nghĩa cá nhân, ở châu Á, dưới ảnh hưởng của Nho giáo và các nền văn hoá bản địa, tinh thần tập thể cao hơn hẳn, ở đó, người ta tìm kiếm sự đồng thuận hơn là cạnh tranh, nhắm đến cái chung hơn cái riêng, đặt quyền lợi của đất nước cao hơn quyền lợi của gia đình và quyền lợi của gia đình cao hơn quyền lợi của bản thân. Dĩ nhiên, người ta thừa biết quan điểm này của Lý Quang Diệu chỉ là một sự biện hộ cho các chính sách bị xem là độc tài và độc đoán của ông. Biết vậy, nhưng người ta cũng không thể không ghi nhận là với quan điểm ấy, ông trở thành một thủ lãnh tinh thần của châu Á, một Kissinger ở Phương Đông, như nhận định của một số học giả.

Huyện Đắk Tô: Sẽ triệt hạ 22 “công trình sinh hoạt tôn giáo” trong năm 2015

Huyện Đắk Tô: Sẽ triệt hạ 22 “công trình sinh hoạt tôn giáo” trong năm 2015

– Tin nổi bật, Phóng sự


VRNs (25.03.2015) – Kontum – Một bản Kế hoạch được đóng dấu “Mật” của huyện Đăk Tô, tỉnh Kontum do ông Cao Trung Tin, chủ tịch huyện ký ngày 30.01.2015 cho biết trong năm 2015 này, huyện Đăk Tô sẽ phải triệt hạ/xóa sổ 22 “công trình sinh hoạt tôn giáo” của người các sắc tộc thiểu số trong huyện này.

Theo kế hoạch này, những “công trình sinh hoạt tôn giáo” phải triệt hạ thuộc về 7 đơn vị hành chánh xã, thị trấn. Nơi nhiều nhất là 7 trong xã Đăk Trăm. Còn các xã khác ít hơn: Diên Bình (1), Pô Kô (4), Văn Lem (4), Ngọc Tụ (1), Đăk Rơ Nga (2), Tân Cảnh (1), và thị trấn Đăk Tô (2).

Kế hoạch được triển khai làm ba bước. Bước một, trực tiếp vận động yêu cầu các hộ gia đình cam kết không sử dụng nhà vào mục đích sinh hoạt tôn giáo. Bước hai, theo dõi, nếu tiếp tục sử dụng nhà cho sinh hoạt tôn giáo thì sẽ bị lập biên bản, phạt hành chánh và buộc tháo dỡ hoặc đập phần nhà sử dụng cho việc thờ phượng. Bước ba, những hộ chấp nhận triệt hạ nhà nguyện thì phần cơi nới hay nhà mới làm thêm được tiến hành làm giấy tờ hợp thức hóa nhà ở, những hộ không chấp nhận thì dứt khoát không làm thủ tục chuyển đổi mục tiêu sử dụng đất.

Kế hoạch còn chỉ đạo: “Tăng cường công tác quản lý nhà nước về tôn giáo, không để xảy ra tình trạng các hộ dân xây dựng công trình riêng biệt nằm bên cạnh công trình nhà ở hoặc tự ý cơi nơi nhà ở để sử dụng vào mục đích sinh hoạt tôn giáo”.

Theo luật pháp hiện hành, nhà ở thuộc về sở hữu cá nhân, nên gia chủ có quyền làm tất cả những gì pháp luật không cấm. Cho đến nay chưa có một văn bản có hiệu lực pháp luật nào cấm công dân không được sinh hoạt tôn giáo trong nhà mình cả. Ngược lại Khoản 1 Điều 9 Pháp lệnh Tín ngưỡng – Tôn giáo qui định: “Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo”.

Hình minh họa

Do đó, việc ông Chủ tịch huyện Đăk Tô chỉ đạo các cán bộ của ông phải “trực tiếp vận động yêu cầu các hộ gia đình cam kết không sử dụng nhà vào mục đích sinh hoạt tôn giáo” là chính ông vi phạm Pháp lệnh Tin ngưỡng – tôn giáo. Việc ông Cao Trung Tin ra lệnh cho công an, du kích và các lực lượng khác phải “theo dõi, nếu tiếp tục sử dụng nhà cho sinh hoạt tôn giáo thì sẽ bị lập biên bản, phạt hành chánh và buộc tháo dỡ hoặc đập phần nhà sử dụng cho việc thờ phượng” là việc dùng công quyền khủng bố dân không đúng tư cách công chức và quan chức. Còn việc ông Tin đòi cán bộ phải kiên quyết thực hiện chính sách “những hộ chấp nhận triệt hạ nhà nguyện thì phần cơi nới hay nhà mới làm thêm được tiến hành làm giấy tờ hợp thức hóa nhà ở, những hộ không chấp nhận thì dứt khoát không làm thủ tục chuyển đổi mục tiêu sử dụng đất” là bằng chứng phân biệt đôi xử với các hộ có tôn giáo thuần thành, trung thành với đức tin sẽ bị nhà cầm quyền tước đoạt quyền lợi.

Các “công trình sinh hoạt tôn giáo” này của giáo hội Công giáo thuộc giáo phận Kontum là một giáo phận Công giáo Việt Nam lâu đời nhất ở vùng Tây Nguyên. Địa giới giáo phận rộng 25.728 km², tương ứng chủ yếu với các tỉnh Gia Lai và Kontum. Dân cư cũng như các tín hữu chủ yếu là người dân tộc Xơđăng, Bahnar, Giẻ, Triêng, Jarai… Niềm tin Công giáo đã được người thuộc các sắc tộc thiểu số ở vùng đất này đón nhận từ giữa thế kỷ 19. Hiện nay, giáo phận có hơn 250.000 giáo dân.

Chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ mới có ở VN 40 năm, sự tồn tại chỉ chưa bằng 1/4 chiều dài lịch sử của niềm tin Kitô giáo có trên đất Kontum, nhưng do thâu tóm mọi quyền lực, nên nhà cầm quyền đã bất chấp nhu cầu chính đáng và phong tục làng sắc tộc thiểu số đã tồn tại lâu dài để rắp tâm triệt hạ các nhà nguyện, là những nơi do chính người dân tự nguyện sử dụng nhà mình, đất mình rồi cùng nhau dựng nên cách tạm bợ, sau khi đã xin phép một thời gian rất dài, mà không được phép xây dựng nhà thờ, nhà nguyện tạm.

Việc giáo dân tự nguyện dành một khoảnh của gia đình làm nơi thờ phượng của tôn giáo sẽ trực tiếp góp phần củng cố đạo đức xã hội, nhưng nhà cầm quyền huyện Đăk Tô đã luôn luôn xem hành vi đó là vi phạm pháp luật.

Kế họach này trực tiếp củng cố nhận định của ông Bielefeldt, báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn giáo LHQ vừa trình bày ở Geneva, Thụy Sỹ, rằng tại Việt Nam đang diễn ra tình trạng vi phạm tự do tôn giáo nghiêm trọng. Kế hoạch này đóng dấu “Mật” là chuẩn bị cửa hậu cho ông chủ tịch và quan chức huyện Đăk Tô chạy tội khi sự việc bị dư luận lên án. Lúc đó họ sẽ nói rằng đó là việc làm sai trái của thôn của xã chứ không phải của huyện. Bài ca “trên bảo dưới không nghe” sẽ được cất lên lu loa.

PV. VRNs

Giáo viên rượt đuổi, đánh và lăng mạ học sinh trong lớp học

Giáo viên rượt đuổi, đánh và lăng mạ học sinh trong lớp học

Chuacuuthe.com


VRNs (25.03.2015) – Sàigòn – Một đoạn video lan truyền trên các trang mạng xã hội có độ dài gần 5 phút mô tả cảnh một cô giáo quát tháo một học sinh nữ, yêu cầu nữ sinh này đứng lại nhưng em đã bỏ chạy, ngay lập tức cô đã chạy lên ghế, rượt đuổi em học sinh ngay trong lớp học. Sau khi cô giáo bắt được nữ sinh này thì cô liên tục tát vào mặt, đánh vào đầu với những lời lẽ lăng mạ trước sự chứng kiến của nhiều em học sinh khác cùng lớp.

Trong đoạn video cũng cho thấy, một nữ sinh khác đã lên tiếng bảo vệ nữ sinh này sau khi chứng kiến cảnh cô giáo hành hung bạn, nhưng cô giáo tiếp tục dùng những lời lẽ đe dọa cả hai em học sinh.

Sau khi đoạn video trên được loan tải thì có nhiều phản ứng gay gắt về nền giáo dục VN sau gần 40 năm dưới thời XHCN.

Hông Trân thốt lên: “Giáo viên gì mà thiếu nhân cách quá!”. Thanh Pho Hao Hoa kêu lên: “Cô giáo kiểu gì vậy, dạy học sinh như thế này không thể chấp nhận được.” Trungthu Nguyen nói cụt lủn: “Cô giáo với nền giáo dục của cộng sản.”

Nhiều bạn đọc khác đau lòng khi nhìn thấy cô giáo rượt đuổi, hành hung học sinh và lo lắng hơn cho vận mệnh đất nước khi thế hệ trẻ đã và đang sống dưới nền giáo dục định hướng bạo lực, vô cảm và vô trách nhiệm của nhà cầm quyền cs gây ra suốt gần 40 năm qua.

Tuyen Nguyenngoc chán nản: “Một nền Giáo dục quá tồi tệ nhự vậy đủ để đánh giá sự phát triển của một đất nước ra sao…” Cong Hung phẫn nộ: “Trăm năm trồng người XHCN là đây! Người lớn đang dạy bạo lực cho trẻ nhỏ!”. Bùi Văn Tiến nói: “Hành vi ứng xử của Nhà giáo tác động trực tiếp đến hàng triệu học sinh được ví như ‘trang giấy trắng’, gián tiếp đến hàng chục triệu con người trong xã hội.”

Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng ‘bạo lực học đường’ càng ngày càng gia tăng ở độ tuổi học sinh. Đó là nhận xét của bạn Nhuhoa Nguyen, bạn này nói tiếp: “Chỉ mới có 40 năm ‘trồng người’ thôi, còn tới ’60 năm’ nữa mới đủ ‘Trăm năm trồng người’. Có thể từ bây giờ tới 60 năm nữa sẽ có cảnh bạo lực từ trường Mẫu giáo.”

Còn bạn đọc Phạm Gia Bình phản ứng mạnh: “Không thể tưởng tượng nổi. Cô giáo như vậy, thì bảo sao xã hội không loạn. Bộ giáo dục sẽ phản ứng ra sao đây? Với hành vi như vậy, cô giáo trên đã vi phạm một loạt các quy định như: đạo đức và tư cách nhà giáo, vi phạm luật bảo vệ trẻ em, lăng nhục và đe dọa tính mạng người khác, hành hung xâm phạm thân thể người khác. Với các vi phạm trên cô giáo trên phải bị đuổi việc và xử lý theo đúng pháp luật. Nếu cơ quan bảo vệ pháp luật không chủ động tham gia thì gia đình học sinh nên kiện cô giáo ra tòa.”

Tuy nhiên, rất nhiều bạn đọc khác lại đồng tình và thông cảm với cách hành xử của cô giáo trong đoạn video trên, bởi vì họ cho rằng, ngày nay, các em học sinh cứng đầu cứng cổ, cãi chày cãi cối, tính tình hung hăng… nên cần phải trừng trị thẳng tay như vậy.

Kelvin Anhvu nói: “Cô giáo đánh học sinh là sai nhưng gặp học sinh như thế này thì bực không chịu được. Ai đời, cô nói trò đứng lại thì trò không thèm nghe, còn cãi cả cô nữa, chẳng xem giáo viên ra gì.” Xa Que tiếp lời: “Đứng vào địa vị của cô giáo mới hiểu, bởi vì học sinh thời nay cái tốt thì không chịu học, mà cái xấu thì học rất nhanh.” Ước Mơ Nhỏ cho biết: “Cô giáo không như thế này thì làm sao mà trị được lũ học sinh hư hỏng. Phải có người như thế để chúng nó phải sợ mà lo lắng học hành chứ. Học sinh giờ mất nết lắm, không trị sẽ hư hỏng. Khổ cho các thầy cô giáo.”

Cũng có một số bạn đọc khác cho rằng, dư luận không nên đổ hết mọi tội lên đầu giáo viên. Kaoh Hmin Neugyn cho ý kiến: “Ngày trước, thầy cô giáo cũng đánh và trừng phạt học sinh bằng cách nằm lên bàn roi nện, khẻ tay, quỳ gối, viết phạt… nhưng học sinh thời đó không ngỗ nghịch, hay trả treo như bây giờ. Do đó, không thể buộc tội nhà giáo.”

Thế nhưng, bạn đọc tên là Diana Vuong không đồng tình với ý kiến của Kaoh Hmin Neugyn, bạn này nói: “Đồng ý với anh Kaoh là không nên đổ hết lỗi cho Thầy Cô Giáo. Một phần do gia đình, một phần do xã hội nhưng Thầy Cô Giáo ít nhất cũng phải làm gương cho học trò, tác phong đứng đắn một chút chứ ai mà rượt đuổi, đánh học trò như kẻ vô ý thức như vậy.” Còn bạn đọc Rock Xuyên Màn Đêm đặt lại vấn đề với Kaoh Hmin Neugyn: “Dù học sinh có hỗn láo như thế nào đi chăng nữa, thì cách hành xử của cô giáo như vậy có đúng không?”.

Như vậy là, chỉ qua một số bình luận tiêu biểu chúng tôi trích dẫn trên đã đủ cả những nguyên nhân từ chế độ chính trị, xã hội, luật pháp, xưa và nay, phê phán, ủng hộ… Thế nhưng, vấn đề cần đặt ra làm thế nào để không còn tái diễn những vụ việc tương tự thì lại ít người nêu lên. Phải chăng tâm lý chấp nhận sống chung với cái ác đã ngấm dần vào mỗi người dân VN, khiến mỗi người dân chỉ còn biết phê phán khi sự việc đã xẩy ra, còn xắn tay áo lên ngăn chặn sự ác từ trước khi chúng có thể hình thành thì thuộc nhiệm vụ người khác, mà dân gian thường mỉa mai ‘đã có đảng và nhà nước lo’! Người ta chỉ vẽ lên khẩu hiệu ‘tiên học lễ…’, còn Luật Giáo dục thì qui định hẳn một điều cấm ‘truyền bá tôn giáo…’. Trong khi xưa nay có ai nghe tôn giáo truyền bá điều ác? Người ta phát động học tập đạo đức…, nhưng đạo đức ấy đòi hỏi phải đấu tranh giai cấp, phải sử dụng bạo lực, phải trấn áp, phải cuớp, phải giành, phải đấu tố, phải giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ. Vâng, ‘gieo hạt nào, gặt quả ấy’.

Huyền Trang, Pv VRNs

Năm người Việt trộm hàng hiệu ở Thái Lan bị bắt

Năm người Vit trm hàng hiu Thái Lan b bt

24.03.2015

Giới hữu trách Thái Lan cho hay cảnh sát vừa bắt giữ 5 người Việt Nam lấy trộm đồ hàng hiệu trị giá hàng trăm ngàn bath tại các cửa hàng ở quận Muang, tỉnh Chiang Mai

Tờ The Nation của Thái Lan hôm 24 tháng 3 loan tin rằng ba phụ nữ và hai người đàn ông, tuổi từ 24 đến 39, bị bắt với tang vật 64 món đồ lấy trộm – là những đồ hiệu cất giấu trong hai túi bọc giấy bạc ở quận Muang, thành phố Chiang Mai, tỉnh Chiang Mai.

Giám đốc sở cảnh sát tỉnh Chiang Mai, ông Montri Sambunnanont, cho biết cả năm nghi can người Việt này đã thừa nhận trộm đồ hiệu tại hai khu trung tâm mua sắm.

Các nghi can này nhận là họ định đem đồ trộm được về Việt Nam bán với giá rẻ hơn.

Những người ăn trộm Việt Nam này nói họ giấu đồ hiệu lấy trộm vào túi bọc giấy bạc để đánh lừa máy phát hiện mã vạch, theo ông Sambunnanont.

Giới hữu trách Thái Lan cảnh báo các cửa hàng về tình trạng trộm cắp, và có những biện pháp đề phòng như yêu cầu khách gởi túi xách trước khi vào mua sắm, và cảnh giác cao hơn với trộm cắp.

Trước đó, vào ngày 22 tháng 3, cơ quan phòng chống tội phạm kinh tế Thái Lan cho biết một công dân Malaysia, tên Wong Chen Jear, 29 tuổi, đã bị bắt giữ cùng 11 thẻ tín dụng giả mạo và 5 túi hàng hiệu trị giá 46.000 đôla tại sân bay Don Muang ở Bangkok.

Nguồn: The Nation, TNO

Một cuộc chiến, một gia đình, một số phận

Một cuộc chiến, một gia đình, một số phận

Tien Phan

RFA

NYC149403.jpg 

Một bà mẹ già trong ngày 30/4/1975 

Hiroji Kubota/Magnum Photos

Nói đến tháng tư đen, nói đến ngày Quốc hận và nói đến ngày miền Nam Việt Nam bị bức tử thì chúng ta

Một bà mẹ già trong ngày 30/4/1975

Hiroji Kubota/Magnum Photos

Nói đến tháng tư đen, nói đến ngày Quốc hận và nói đến ngày miền Nam Việt Nam bị bức tử thì chúng ta không thể bỏ qua Tết Mậu Thân và mùa hè đỏ lửa năm 1972.

Miền Nam trước 1975 đang sống một cuộc sống bình yên, mọi người dân đều được Dân chủ, được bày tỏ chính kiến của mình và được tham gia bảo vệ và xây dựng đất nước. Nhưng cộng sản Bắc Việt không chịu để yên cho người dân Miền nam, không chịu thực hiện hai hiệp định họ đã đặt bút ký vào đó mà lại vi phạm trắng trợn rồi để lại biết bao tang tóc, đau khổ cho hàng ngàn, hàng triệu gia đình Miền Nam trong đó có gia đình tôi.

Và đây là một ký ức, một câu chuyện hoàn toàn sự thật, không hề hư cấu dù một ý nhỏ nào của gia đình tôi trong những ngày tháng đó.

Bà Nội tôi sinh ra được năm người con, hai gái và ba trai. Trong năm người con đó có Ba tôi, tất cả đều phục vụ cho chế độ VNCH. Ba người con trai và một người rể tham gia Quân đội VNCH, còn một người con dâu tham gia bên hành chánh ở Quận thuộc tỉnh Quảng Tín. Với gia đình tôi thời kỳ đó là một niềm vinh hạnh nhất. Rồi chiến tranh, một cuộc chiến phi lý huynh đệ tương tàn đã cướp đi tất cả những con người đó. Để lại biết bao tang thương, ly tán và bất hạnh cho gia đình tôi, khi tôi mới vừa lên năm tuổi.

Cái tháng 3 đen của gia đình tôi là tháng 3/1972. Trong một tháng mà gia đình bà nội tôi phải chịu mất đi vĩnh viễn sáu người. Ngày đó mặc dù còn rất nhỏ nhưng tôi vẫn còn nhớ nội tôi phải đội trên mái đầu đến sáu chiếc khăn tang. Có sự tang thương nào bằng, có sự mất mát nào lớn lao đến thế, có nỗi đau nào bằng nỗi đau mẹ mất con, vợ mất chồng và con mất cha?

Đầu tháng 3/1972. Một tin như sét đánh vào gia đình tôi là Chú tôi đang chiến đấu ở chiến trường Khe sanh, Quảng Trị trong Thiết đoàn tăng thiết giáp đã hy sinh. Lúc đó chú tôi mới tròn 27 tuổi và thím tôi đang mang thai được 7 tháng.

Ba tôi đang công tác ở đơn vị quân vận đóng tại Đà Nẵng nghe tin đó và đưa cả gia đình tôi về lập bàn thờ cho chú tôi ở quê nhà nội tôi là tỉnh Quảng Tín. Lập xong bàn thờ cho chú tôi thì Ba tôi nhận được lệnh hành quân ra Quảng trị. Nghe Má tôi kể lại là lúc đó cộng sản bắc việt đang tấn công thành cổ Quảng Trị dữ dội lắm và VNCH đang ra sức đánh để tái chiếm lại. Đơn vị Ba tôi phải vận chuyển nhu yếu phẩm và vũ khí đạn dược ra để tiếp tế cho Thuỷ Quân Lục Chiến thời bấy giờ đang giành giật lại từng tấc đất.

Ba tôi đi hành quân được một tuần lễ thì một thông tin báo về cho gia đình tôi như sét đánh tiếp là đoàn chiến xa của Ba tôi đã bị cộng sản Bắc việt chặn đánh tại cầu Mỹ Chánh. Tất cả đoàn xe lọt vào ổ phục kích cộng sản nên đã bị thiêu rụi không còn một chiếc nào trở về được do pháo kích dữ dội của cộng sản. Lúc bây giờ Má tôi, Nội tôi và cả gia đình tôi như chết lặng đi trong cơn tuyệt vọng và tan gtóc. Rồi sau đó một di ảnh và một cái bàn thờ nữa đã đặt ở nhà nội tôi với mùi khói hương u ám, chết chóc bao trùm lên cả gia đình tôi. Từ mẹ già, vợ hiền đến con thơ ai nấy đều chít trên đầu những chiếc khăn tang trắng.

Lúc ba tôi tử trận thì má tôi đang có bầu sắp sanh hai em tôi (thai song sinh). Mặc dầu đau thương cực độ nhưng gia đình tôi hy vọng sẽ đến nơi lửa đạn khốc liệt đó để tìm xác ba và chú tôi đem về với đất mẹ. Nhưng hoàn toàn tuyệt vọng cho dù chỉ cần mong mỏi tìm thấy được chút gì còn lại của hai cái thân xác ba và chú tôi. Tất cả hai con người đó, hai thân xác đó không còn chút gì để tìm thấy được nữa.

Bất hạnh không dừng lại ở đó với gia đình tôi. Ngày đó cả gia đình tôi đều dồn vào mỗi công việc là đi tìm kiếm cho bằng được thân xác của ba và chú tôi đem về đất mẹ. Tất cả những nơi nào nghe ngóng được là Quân lực VNCH thu gom chiến trường và đưa xác của tử sĩ về vùng an toàn là gia đình tôi đều tìm đến. Nhưng tất cả đều tuyệt vọng, không tìm được chút gì còn sót lại cả. Nỗi đau chồng chất nỗi đau.

NYC149404-350.jpg

Những người mẹ mang con di tản ngày 30/4/1975. Hiroji Kubota/Magnum Photos

Có lẽ do đau buồn quá nhiều, tuyệt vọng quá nhiều và đi lại tìm kiếm quá nhiều nên má tôi và người bác dâu của tôi đã không giữ được những sinh linh trong bào thai non nớt đó. Cả hai đều sanh ra nhưng những sinh linh vô tội đó không sống được trên cõi đời này nữa. Bác dâu tôi cũng mang thai song sinh như má tôi. Bốn con người vô tội nữa cũng ra đi vĩnh viễn.

Như vậy là trong tháng 3/1972 gia đình tôi đã mất đi sáu người. Cuộc chiến phi lý này đã cướp đi những gì bình yên và hạnh phúc nhất của một gia đình trong nhiều gia đình ở miền nam lúc bấy giờ. Hậu quả của nó để lại không hề quên lãng được. Những đứa trẻ mồ côi như chúng tôi sống làm sao trong nhũng ngày loạn lạc còn lại. Bà Nội tôi như điên dại, Má và Thím dâu tôi như chết rồi, còn chúng tôi thì ngơ ngác, ngây thơ và bơ vơ cứ hỏi sao Ba không về hả Má.

Ngày 30/4/1975. Sài gòn thất thủ, kẻ ở người đi, kẻ cười người khóc, ly tan ly tán. Trước ngày Sài gòn thất thủ, gia đình tôi chỉ còn lại hai người đàn ông duy nhất mà gia đình có thể dựa vào đó để mà sống những ngày còn lại đó là Bác tôi và người Dượng chồng cô tôi. Lúc đó đang còn ở Quân đội VNCH. Nhưng rồi họ cũng mất đi từ cái tháng 4 đen đó. Sau 30/4 không còn một tin tức gì với hai người đó nữa. Không biết họ đã sống chết như thế nào?  Sau 30/4 gia đình tôi chỉ còn lại bà già, goá phụ và trẻ mồ côi mà thôi. Cuộc chiến này đã cướp hết những gì gia đình tôi đã có trước đây và mất đi từ năm1972 đến 1975.

Bốn mươi năm trôi qua, bốn mươi năm thành trẻ mồ côi cha. Thời gian chừng ấy  đủ để một đứa trẻ lúc đó đến bây giờ cũng ngoài 40 tuổi suy ngẫm, nhận thức mà đem vào ký ức. Bốn mươi năm một gia đình toàn bà già và con nít sống trong chế độ cộng sản.

Tôi không muốn nhắc lại quá khứ tang thương này của gia đình tôi và nhiều gia đình giống như vậy ở miền nam. Nhưng lịch sử vẫn là lịch sử, tội ác vẫn là tội ác. Không có ai có quyền bóp méo. Mọi người cứ thử tưởng tượng một người mẹ hàng đêm không ngủ mà trên tay cứ cầm chiếc đèn dầu heo hắt đi quanh nhà mà gọi tên con, cho dù những đứa con đó đã bỏ mẹ già, bỏ vợ con ra đi đã hơn 10 năm rồi. Đến lúc nhắm mắt lìa đời ở tuổi 84 như bà Nội tôi cũng chỉ có một mình trên giường, không con, không cháu và không một lần thắp được cho những đứa con mang nặng đẻ đau một nén nhang trong đêm giá lạnh vì tất cả đã chết mà không hề có mộ phần.

Cuộc chiến này đã cướp đi linh hồn và cả thể xác những đứa con của Nội tôi. Còn nhiều nỗi đau nữa mà những đứa trẻ mồ côi như chúng tôi phải chứng kiến và gánh chịu. Tôi không than thở vì tôi ý thức được rằng đó là hậu quả của một cuộc chiến mà anh em, cha con bắn giết nhau để phục vụ cho một chủ nghĩa. Tôi chỉ muốn thức tỉnh những ai đó còn chút lương tri của con người, còn chút suy nghĩ về đồng loại của mình mà đang là lãnh đạo, có quyền chức, có điều kiện, được học hành thì hãy thức tỉnh lại để dân tộc này bớt khổ đau, trao lại cho nhân dân quyền dân chủ thực thụ như bao dân tộc dân chủ cường thịnh khác trên thế giới này.

Tôi cũng xin khẩn thiết kêu gọi những ai mà đã ra đi tìm được cuộc sống tự do ở hải ngoại hãy nghĩ về những đứa trẻ mồ côi của đồng đội mình đang ở trong nước hay ngoài nước mà động viên, an ủi và ủng hộ cho cuộc đấu tranh nhân quyền của dân tộc này.

Có trách nhiệm hơn với đất nước, với dân tộc, với chủ quyền lãnh thổ, với những đứa trẻ mồ côi đã chết hay còn sống như tôi dù chỉ một lời chia sẻ hay động viên an ủi. Ít ra cũng làm chúng ấm lòng và biết được cha ông chúng đã ngã xuống không phi nghĩa mà chúng đã chịu miệt thị, cô đơn và phân biệt hơn 40 năm rồi. Tôi cũng kêu gọi tất cả những đứa trẻ mồ côi cha hay mẹ trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn trước năm 1975 hãy liên lạc, chia sẻ, giúp đở nhau để làm điều gì đó không phụ lòng cha mẹ mình đã nằm xuống cho đất nước.

Chúng tôi mong muốn sao một Việt nam thực sự Tự Do Dân Chủ, Đoàn Kết Dân Tộc, cùng nhau xây dựng đất nước cường thịnh để đủ mạnh về quân sự, vững chắc về kinh tế cùng nhau bảo vệ và chống lại giặc ngoại xâm. Để trẻ em như chúng tôi ở những ngày 40 năm về trước được học hành, được tự do thực thụ và được sống trong vòng tay yêu thương, che chắn của cha mẹ.

Mười Điều Tâm Niệm

Mười Điều Tâm Niệm

1)    Nghĩ đến thân thể đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì tham dục dễ sanh .

2)    Ở đời đừng cầu không khó khăn hoạn nạn, vì không khó khăn hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy.

3)     Tự xét tâm tính đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo.

4)     Xây dựng đạo hạnh đừng mong không bị ma chướng, vì không bị ma chướng thì chí nguyện không kiên cường.

5)    Việc làm đừng mong dễ thành, vì dễ thành thì lòng khinh thường ngạo mạn.

6)     Giao tiếp đừng mong lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa.

7)    Với người đừng mong tất cả đều thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng.

8)    Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cẩu đền đáp là có ý mưu đồ.

9)    Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động.

10)  Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả.

S.T.

NHỮNG CÁI CHẾT CỦA CÁC TÔNG ĐỒ CHÚA GIÊSU

NHỮNG CÁI CHẾT CỦA CÁC TÔNG ĐỒ CHÚA GIÊSU

“Sau đây là tên mười hai Tông Đồ: đứng đầu là ông Simon, cũng gọi là ông Phê-rô, rồi đến ôngAn-rê, anh của ông; sau đó là ông Gia-cô-bê con ông Giê-bê-đê và ông Gio-an em của ông; ông Phi-lip-phê và ông Ba-tô-lô-mê-ô ; ông Tô-ma và ông Mát-thêu người thu thuế ; ôngGia-cô-bê con An-phê và ông Ta-đê-ô ; ông Simon thuộc nhóm Quá Khích, và ông Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, chính là kẻ nộp Người”. (Mt 10,2-4)

1- Simon Peter (Phêrô): Chúa Giêsu gọi ngài là đá, còn được gọi là Simon con Giôna. Ông là một ngư phủ đến từ thành Bethsaida xứ Galilee. Đã bị đóng đinh ngược trên thập giá. Theo lời truyền của giáo hội thì ngài đã nói với những người lý hình rằng, ngài cảm thấy không xứng đáng chết cùng một thể thức giống như Chúa Giêsu, cách Thầy mình đã chết.

2- Andrew (Anrê): Em của Phêrô, ngư phủ thành Bethsaida. Ngài bị đóng đinh trên thập giá hình chữ X ở Patras, Greece, sau khi bị bảy người lính đánh đòn nhừ tử. Người ta dùng những sợi dây trói thân xác ngài vào thập giá cốt ý kéo dài sự đau đớn của ngài. Những môn đệ của ngài thuật lại rằng, khi ngài bị dẫn đến trước thập giá, ngài đã kính cẩn chào thập giá và nói những lời này: “Tôi đã từng ước mong và dự đoán sẽ có giờ vui mừng này. Thánh giá đã được tận hiến nhờ thân xác của Chúa Kitô treo trên đó”. Ngài tiếp tục rao giảng cho những tên lý hình trong hai ngày cho đến khi tàn hơi.

3- James the Great (Giacôbê Cả): con ông Giê-bê-đê, là anh em với thánh Gioan. Là người chài lưới khi Chúa Giêsu gọi ngài làm môn đệ hiến trọn đời cho sứ mạng rao giảng tin mừng. Là người lãnh đạo can trường của Giáo hội, Giacôbê đã bị chặt đầu ở Giêrusalem. Người lính Rôma có nhiệm vụ canh gác Ngài đã kinh ngạc chứng kiến thánh nhân bảo vệ niềm tin trước toà án. Sau này, người lính này cùng đi với Giacôbê tới nơi xử hình. Bị thuyết phục bởi niềm tin, chính ông đã tuyên xưng niềm tin mới với quan toà, và quỳ xuống bên cạnh thánh Giacôbê chấp nhận bị chặt đầu vì là người Kitô hữu.

4- John (Gioan): con ông Giê-bê-đê, được Chúa Giêsu gọi là Môn đệ yêu dấu. Đối diện với cái chết tử đạo khi bị nấu trong nồi dầu sôi trong cuộc bách hại tôn giáo ở Rôma. Nhưng lạ thay, ngài được cứu thoát khỏi cái chết. Thánh Gioan bị kết án đi làm hầm mỏ tại trại tù ở đảo Patmos. Tại đây, Ngài đã viết cuốn sách Khải Huyền chứa đầy những lời tiên tri. Thánh Gioan được trả tự do, và trở về làm Giám mục ở Edessa, Thổ Nhĩ Kỳ. Ngài chết vì già yếu. Ngài duy nhất là tông đồ đã chết một cách bình an.

5- Philip (Philiphê): người thành Bethsaida xứ Galilee, bị đóng đinh.

6- Bartholomew (Batôômêô): con trai của Talemai. Ngài làm chứng cho Chúa ở Thổ Nhĩ Kỳ. Batôômêô tử vì đạo vì đã giảng đạo ở Armenia, nơi mà ngài bị quất bằng roi cho tới chết.

7- Thomas (Tôma): vị thánh duy nhất không tin Chúa Phục sinh, và sau đó đã tin vì đã được thọc tay vào vết thương nơi cạnh sườn của Chúa. Ngài chết vì bị đâm bởi lưỡi đòng ở Ấn độ, trong một chuyến đi truyền giáo nhằm thiết lập hội thánh tại tiểu lục địa này.

8- Matthew (Mát-thêu): người thu thuế, con trai của Alphaeus. Tử đạo ở Ethiopia, chết vì vết thương của lưỡi gươm.

9- James (Giacôbê): con ông Alphaeus. Là người lãnh đạo hội thánh ở Giêrusalem, bị quăng hơn một trăm feet xuống đất từ hướng Đông Nam trên đỉnh của Đền thờ, sau khi ngài không chịu từ chối niềm tin vào Chúa Kitô. Khi người ta khám phá ra là ngài vẫn còn sống mặc dù bị quăng xuống đất từ trên cao, những kẻ thù của ngài đã đánh ngài tới chết bằng cây gậy của người thợ hồ vải. Đỉnh đền thờ này cũng là nơi mà ma quỷ trước kia đã đưa Chúa Giêsu lên để cám dỗ Ngài.

10- Thaddaeus (Tađêô): trong Phúc âm Luca gọi là Giuđa, con của Giacôbê. Bị đóng đinh.

11- Simon: người Canaan, bị đóng đinh.

12- Judas Iscariot (Giuđa “kẻ bội phản”): người đã nộp Chúa Giêsu cho người Do Thái, sau đó hối hận và đi treo cổ tự tử.

13- Mathias (Mátthia): thay thế môn đệ Giuđa phản bội, bị ném đá và bị chặt đầu.

14- Thánh Paul (Phaolô): trở nên môn đệ của Chúa Giêsu, sau khi bị Chúa cho té ngựa trên đường đi Đamát bách hại dân Chúa. Phaolô đã tán thành việc ném đá ông Têphanô. Ngài bị tra tấn và sau đó bị chặt đầu bởi hoàng đế Nerô ở Rôma. Thánh Phaolô đã bị giam trong tù một thời gian dài, nhờ đó mà ngài đã có thời gian viết các thư gởi cho các tín hữu của các hội thánh, mà ngài đã thiết lập khắp nơi. Những thư này đã dạy những giáo điều làm nền tảng của Kitô giáo, và các thư này chiếm phần lớn trong sách Tân Ước.

15- Têphanô Vị tông đồ tử vì đạo đầu tiên. Ngài bị ném đá cho tới chết vì bị cho là nói phạm thượng.

16- Mark (Maccô): tác giả sách Tin Mừng. Qua đời ở Alexandria, Ai cập, sau khi bị ngựa kéo trên đường cho tới chết.

17- Luke (Luca): tác giả sách Tin Mừng. Bị treo cổ ở Greece sau cuộc rao giảng cho người ngoại.

Những cái chết của các tông đồ Chúa Kitô nhắc nhở chúng ta rằng, những đau khổ và thử thách của chúng ta thì nhỏ bé so với những sự bách hại lớn lao và sự đối sử tàn nhẫn mà các tông đồ xưa đã phải chịu trong việc bảo vệ niềm tin. Lời Chúa Giêsu đã nói: ”Vì danh Thầy, người ta sẽ ghét bỏ các con, nhưng những ai bền đỗ đến cùng, người ấy sẽ được cứu thoát:. (Mt 10:22).

Mỗi người Chúa ban cho sức mạnh đủ để chịu những thử thách như lời Chúa nói: Ơn Thầy sẽ đủ cho con. Hãy vững niềm tin vào Chúa.

Xem thêm:

Các Tông Đồ Đã Chết Cách Nào & Cái Chết Của Đức Giêsu