Vương sầu nơi nao, ý thắm tàn mau,

“Vương sầu nơi nao, ý thắm tàn mau”,
Chưa nguôi yêu dấu, mắt đã hoen mầu thương đau.
Khóc lúc đêm thâu.
Ôi tiếng lòng lơ láo, đón làn nước mắt ngày nào.”

(Nhạc Chopin: Tristesse – Lời Việt: Phạm Duy: Sầu)

(2 Cor  2:7, 14)

Trần Ngọc Mười Hai

Nhạc Chopin hay là thế, mà sao người viết lời Việt lại đặt tên là “Sầu”, nghe cũng rầu. Nhạc rất tuyệt, lời lẽ tình tứ chứ nào có nghĩa sầu đau hay sầu mộng đâu. Không tin ư? Vậy thì, mời bạn/mời tôi, ta nghe thêm ý nhạc có tình-tiết rất như sau:

“Khúc tình đầu, hẹn về sau.
Lắng về môi xưa, bỗng thấy buồn đưa.
Xa xôi là nhớ, lúc duyên ra đời trong mơ.
Tiếng hát đương tơ,
Ta muốn níu em về với dòng châu.
Ta hướng hết u sầu đến đời sau,
Ta muốn tìm mau tới cõi nào nương náu.
Cho ta vừng sao, giá băng như niềm đau.
Xót xa như tình mới,
(Khóc cười cho)
Tâm hồn lên khơi,
Sẽ thấy sầu nguôi.
Cho ta tìm tới kiếp vô biên chẳng tàn phai
Cất tiếng qua đời.”

(Sầu/Tristesse – bđd)

Vẫn biết rằng: hễ cứ “sầu” thì phải như thế! Như thế, tức: sự thể nghe ra cũng sầu mà không buồn. Và, chẳng rầu đến nỗi nào đâu. Xem như thế, tức: sự thể bạn và tôi đây tuy vẫn nghe, nhưng đừng nên mường tượng rằng đó chính là mối sầu buồn, ở đời, đến với người.

Ừ thôi. Không tin hoặc không chịu tin, thì bạn và tôi, ta cứ lặng nhìn đời ở câu kết, sẽ thấy:

“Ta sẽ thoát linh hồn giữa nẻo xa.
Ta hoá kiếp nên lời hát bài thơ.
Ta biến thành tâm tư mối tình tan vỡ.
Cho ta thành mơ,
Sống yên trong nghìn thu.
(Sầu/Tristesse – bđd)

Thế mới biết, nên phát khiếp. Khiếp, là bởi: “Thoát linh-hồn giữa nẻo xa”, tựa hồ tình-tiết của những vị từng “kinh”-qua giai-đoạn sầu/buồn, ở đời.

Thế mới khiếp, nên đã biết: đời người không chỉ mỗi chuỗi ngày đớn đau/sầu buồn, rất lã chã. Thế mới tường, còn là chuỗi ngày có vui và có buồn như ngày-dài-cuộc-đời mà người người người từng trải qua cơn binh-biến, nhưng vẫn bình an, tươi vui.

Tươi và vui, như lập-trường của người viết ở dưới đây:

“Sống phù hợp Đạo Chúa, người Công giáo vẫn hay hát. Hát cả khi vui, lẫn lúc buồn. “Hát là cầu nguyện, những hai lần”. Người nhà Đạo hát rất chăm. Suy tư rất nhiều. Có những bài ca làm tỉnh giấc nồng, như bài hát ở các xứ đạo nói tiếng Anh lại vẫn ca những lời như: “How Great Thou Art”, nghe chưa chuẩn cho lắm. Chí ít, là tiểu khúc, ở câu 3 qua đó tác giả lại vẫn dẫn ý rằng: “Hân hoan tình Chúa rất bao la, chẳng ngại hồn đau vẫn cứ là. Là, Con Một Hiền lành theo cõi chết, Ôm trọn tội người, trọn ý Cha.”

Vâng, tiểu khúc trên, dù có mang cả một truyền-thống ý-nghĩa thế nào đó, lại vẫn coi cái chết của Đức Kitô, như một hành-động chuộc lại những tội và lỗi, do Cha muốn.

Nhận định như thế, tức bảo rằng: khổ đau và sự chết của Đức Giêsu là giá “chuộc mạng” mà Ngài quyết thanh-trả cho bọn xấu, để ta chia-sẻ sự sống với Cha. Như một chọn lựa rất đúng, cái chết của Đức Giêsu phải được coi như hành-động duy-nhất làm Cha nguôi giận về tội thờ ơ của con người. Chính vì thế, nên Cha vẫn thương-yêu loài người như trước.

Nhạc ướt át như thế, đôi lúc cũng làm ta hãi sợ. Có sợ hãi, nên mới kiểm-tra xem lời ca/ý nhạc, có hợp và chuẩn với thần-học ta nghe dạy, hay không. Một đằng, thần-học nhà Đạo vẫn khẳng định rằng: tình thương-yêu đặc-biệt Chúa tặng ban, lại vẫn cao sang vời vợi. Tình yêu Ngài, còn diễn tiến qua mọi thăng trầm cuộc sống, khi vui cũng như lúc buồn, mới đúng.

Đằng khác, khi ca hát, ta thường kể nhiều về nỗi khó, buồn phiền được Chúa gánh chịu. Xem như thế, há chẳng phải ta vẫn chủ trương rằng: Đấng Tạo Hoá đầy lòng bao-dung, cứ đẩy Người Con Thân Yêu của Ngài vào nỗi chết tủi nhục sao? Há ta lại coi đây như phương-cách có-một-không-hai khiến Ngài hài lòng, hay sao? (xem Lm Richard Leonard sj, Suy Tư ngày Lễ Lá năm B www.suyniemloingai.blogspot.com 29/3/15)

Nhạc “Sầu” cho người yêu dấu, đôi lúc làm người nghe liên-tưởng đến tình-huống sống Đạo của những người quyết theo Chúa phải suy-tư, nghĩ-ngợi. Nhiều lúc/nhiều khi, còn lung lay/bối rối, nên mới thực-hiện cuộc sống thật rất khác. Khác, như nhận-định của vị linh-mục dẫn ở trên, nay tiếp tục nhận-định:

“Đời sống đức tin của người đi Đạo, đôi lúc làm ta xa vời niềm tin đích thực, lâu nay được nhắc nhớ, rằng: Đức Chúa ở trên cao vẫn thương-yêu hết mọi người, dù con người lầm lỡ, lỗi phạm nhiều mấy đi nữa.

Ngày nay, ta nghe nhiều về các nạn nhân, không còn chọn lựa nào khác, đã rơi vào bẫy cạm của lỗi phạm. Thật ra, nhiều trường hợp, việc ấy không phải do họ mà ra. Nhưng, do người khác đối xử với họ không theo “phép” Đạo. Người khác, là những người có tự do trong đối xử rất “khác người” một cách lạ kỳ, buồn bã hay rất “Sầu”? Người khác đây, lại có thể là người biết nhiều, hiểu nhiều.

Nhưng, đứng từ góc cạnh nào đó, ta sẽ cùng với “người khác” ấy, biểu đồng tình và cho rằng: Đức Kitô là nạn-nhân của thánh ý Cha khi Ngài chấp-nhận đau khổ và cái chết. Hiểu như thế, tức bảo rằng: Cha vẫn muốn Con Một Ngài phải hy-sinh. Vẫn muốn Con chuộc mạng, để đổi chác tội-phạm của con người, hòng tha thứ cho họ, sao?

Hiểu như thế, sẽ kéo theo ngộ-nhận mà bảo rằng: mình là nạn-nhân của Đức Chúa, cũng không chừng. Giả Cha muốn Đức Kitô phải chịu khổ-đau và chết-chóc, thì về phía ta sao cứ buồn khi lĩnh-nhận đau-khổ tưởng-chừng-như-quá-nặng?

Suy-tư như thế này, sẽ tạo thêm nghi ngờ rằng: bài Thương khó thánh Mác-cô ghi, có thể đã nhấn mạnh lên tính miễn-cưỡng/bó buộc của Đức Chúa khi Ngài chấp-nhận khổ-đau/sầu buồn ư? Quả là, thánh sử có nhắc đến việc Ngài ngồi cùng bàn với phường giá áo/túi cơm. Làm bạn với bọn “phản phé”. Làm thầy những người chối-từ sự thật, bỏ của chạy lấy người, nhưng không thể hiểu như thế đưọc. Không thể theo khuynh hướng này được.

Bằng không, sẽ có người ngờ rằng: thánh Mác-cô ám-chỉ là: Đức Chúa hoảng sợ trước cái chết ô-nhục, đang trờ tới. Và, trong chiều hướng ấy, sẽ nghĩ là: khi Ngài cất tiếng kêu “Lạy Cha!”, tức là Ngài cất lên lời tả oán cốt cứu Ngài khỏi cơn “Sầu” và muộn phiền, hay sao? Cuối cùng, hiểu theo hướng này, hẳn sẽ có người lại cứ nghĩ: Đức Giêsu đã nhận “làm theo ý Cha”, nhưng vào phút cuối, Ngài lại thấy mình như bị bỏ rơi trên thập giá, chứ? Không. Đó không là thần học của Đạo Chúa. Đó không là triết-lý của dân-gian tình người…” (x. Lm Richard Leonard sj, bđd)

Theo như điều được đấng bậc dẫn-ở-trên lên tiếng bảo: thần-học nhà Đạo, bao giờ cũng nên suy-nghĩ cho chín-chắn, để hướng-dẫn người đi Đạo sống thực đời đi Đạo bằng những tươi vui đích-thị như ý-định Ngài tỏ-lộ cho biết.

Hệt như thế, nếu là người viết nhạc thì cũng nên cẩn trọng kẻo lại mất cả ý-nghĩa của thập-giá là: không “sầu/buồn” dù đang ở vào mùa chay kiêng/tịnh khẩu, rất Phục Sinh. Bởi, tinh-thần Phục Sinh trong suốt đời, không có nghĩa: cứ phải hát những bài “sầu/buồn” chảy nước mắt trong mùa “Tím”.

Tinh-thần Phục-sinh phải có ở những điều được bậc thày ở Úc, lại nhận-định tiếp:

“Đọc kỹ đoạn Kinh Sách trong đó nói: Đức Chúa chấp-nhận thánh-ý của Cha tại Vườn Dầu âu-sầu, day-dứt thay vì hiểu theo hướng xấu, rồi đổ riệt mọi lỗi/tội cho Cha, có lẽ ta nên coi đây như một khẳng định, rằng: Đức Kitô vẫn một lòng chung-thủy với đường-lối Ngài tuân-thủ trong hành xử với Cha và với con người. Ngài vẫn một mực tuân-phục thánh ý của Cha. Tuân phục cho đến chết. Tuân và phục, đến độ thương-yêu con người đến hơi thở cuối.

Có như thế, Đức Giêsu mới trấn-át được giới chức trong đạo/ngoài đời, thời bấy giờ. Ngài qui-chiếu khẳng-định nòng-cốt này, đến nỗi họ thấy không làm gì được Ngài, ngoài việc ra tay ám hại Ngài. Xem như thế, thì: qua việc chấp-nhận cái chết trong tuân-phục, Ngài hy-sinh đến phút cuối ngõ hầu chứng-tỏ cho mọi người thấy: Ngài thương yêu loài người đến mức nào.

Điều này cho thấy: Đức Giêsu đã sống thực tư-cách “người” của Ngài. Vì trung thực với cuộc sống thủy chung, Ngài bị quyền-lực đen tối dẫn đến nỗi chết thể xác rất nhục hơn bao giờ.

Ngày hôm nay, có kinh qua nỗi thống-khổ của thập-giá, và chết cho chính mình, ta mới nhận ra được cái giá mình phải trả, khi giáp mặt thực-trạng của người phạm lỗi, trái luật. Và có như thế, mới sống đúng yêu-cầu của “Vương Quốc Nước Trời” bình an, công chính.” (Lm Richard Leonard sj, )

Nhận-định về nỗi “Sầu” nhè nhẹ của nhà Đạo, như đấng bậc nhà mình từng tô vẽ. Nhận-định về nỗi “Sầu” đời người, trong đó con người lại cứ hát những lời ca vẫn cứ bảo:

“Vắng tanh như đời gió.
Ðắm trong tình cũ.
Bóng ta còn nhớ.
Thiên thu sầu u.”

(Sầu/Tristesse – bđd)

Nhận-định như đấng bậc lành thánh ở mọi thời, còn là nhận-định rất rõ như sau:

“Vì vậy, tốt hơn,

anh em phải tha thứ và an ủi,

kẻo người đó bị chìm đắm trong nỗi ưu phiền quá mức chăng.

Cho nên, đối với người đó,

tôi khuyên anh em

hãy đặt tình bác ái lên trên hết.”

(2Cor 2: 7)

Thành ra, dù hát nhiều về nỗi “Sầu” của ai đó, có lẽ cũng đừng để họ và mình chìm đắm trong nỗi “Sầu” buồn “quá mức chăng”. Nhưng trái lại, người đi Đạo và sống Đạo thực, lại cứ phải thực-hiện những điều được đấng thánh hiền-lành, chủ-trương như sau:

“Tạ ơn Thiên Chúa,

Đấng hằng cho chúng tôi tham dự cuộc khải hoàn trong Đức Kitô,

tạ ơn Người

là Đấng đã dùng chúng tôi

mà làm cho sự nhận biết Đức Kitô,

như hương thơm,

lan toả khắp nơi.

(2 Cor 2: 14)

Vâng. Đúng thế. Ta và người chỉ có thể tham-dự vào sự-khải-hoàn trong Đức Giêsu Kitô, mà thôi. Và tham-dự như thế, chỉ có thể cảm tạ liên-hồi về những sự và những việc Ngài làm vì tình thương-yêu người và mình, suốt mọi thời.

Vâng. Chỉ có thể hiểu nỗi “Sầu” của người đời, không là chuyện thiên-thu tự chuốc lấy những phiền muộn do tự mình hoặc người khác. Mà, phải đặt tình bác-ái lên trên hết. Bởi, chỉ có tình bác-ái mới giải-quyết được hết mọi sự và mọi việc.

Chỉ có lòng từ-bi nhân-hậu với chính mình và mọi người mới khiến người và khiến mình nghĩ đến “hương thơm lan toả khắp nơi” vào mọi thời. Hương thơm chỉ lan toả khắp mọi nơi vào mọi thời, khí hương đó là hương tình thương, hoặc còn gọi là tình người người, rất yêu đời, mà thôi.

Vâng. Người viết lên ý-nhạc và chính lời ca, vẫn diễn-tả một sự và một việc rất như thế, dù có “sầu” nhưng không buồn. Sầu-nhưng-không-buồn, lại chính là nỗi sầu chóng qua, nhè nhẹ, không trì-chiết. Sầu ấy, chỉ là “sầu” ở lời nói chóng qua, rồi sẽ khác. Nỗi “Sầu” ấy, sẽ và vẫn chỉ là những tình-tự được người nghệ-sĩ diễn tả không chỉ bằng lời, mà bằng giọng hát rất mượt mà, tình-tứ như sau:

“Ta sẽ thoát linh hồn giữa nẻo xa.
Ta hoá kiếp nên lời hát bài thơ.
Ta biến thành tâm tư mối tình tan vỡ.
Cho ta thành mơ,
Sống yên trong nghìn thu.
(Sầu/Tristesse – bđd)

Vâng. “Sầu” ở đây, tình-tự ấy, còn được diễn tả bằng thơ văn, truyện kể vẫn kéo dài câu chuyện đời, với mọi người. Chuyện đời, là những chuyện cười ra nước mắt tuy rất nản nhưng không “Sầu”. Bởi lẽ, có sầu thì làm sao cười được, như nhận-định của bậc thày dạy khác từng đặt vấn-đề “sầu buồn” tội phạm, những đền bù, vào một tóm gọn tình hình Hội thánh như sau:

“Nay, cũng nên đặt vấn-đề thế này: mọi người công-nhận rằng biến-cải là hành-động thuận theo ý Chúa. Xem thế thì, biến-cải đây phải chăng là cải-hoán chốn gian-trần? Hoặc, việc đó chỉ là cải-biến căn-bản ở trên trời, chứ không phải trần-thế? Phải chăng, Thiên-Chúa sai phái Đức Giêsu xuống thế làm người, là để cứu ta ra khỏi vòng cương-toả của ác-thần/sự dữ, lúc này? Hoặc, cốt để đưa ta vào chốn miền nào đó (tựa như thiên-đàng) ở đó không có ác-thần/sự dữ cần loại bỏ?

Và, để phá-bỏ mọi thúc-bách từ xã-hội, hoặc để ban cho ta trạng-huống thiên-đàng sau thời sống với xã-hội trần-gian, qua đó ta không còn nghĩ về những thúc-bách như mình hiện ở trần-gian, không? Phải chăng việc gặp gỡ Đức Kitô trước tiên là gặp Ngài trong hoàn-cảnh hiện-tại ta đang sống; hoặc: ta chỉ gặp được Ngài vào lúc đang và chỉ sau khi chết, mà thôi không? Ta có sống đích-thực điều Chúa dạy trước khi chết, không? Ta có chết, trước khi mình vẫn sống chứ? Phải chăng, Chúa gỡ bỏ trạng-huống khốn-khổ ta thường gặp ngay bây giờ? Hoặc, Chúa chịu-đựng trạng-huống ấy lúc này, là để gỡ bỏ nó cho ta được phục sinh/trỗi dậy thực sự?

Có điều là, tư-duy thời hậu-Công-đồng Vatican 2, lại tiếp-nhận cung-cách sống “ở dưới đất”, nên mới thất-bại khi quan-hệ với truyền-thống và những người có nhu-cầu khẩn-thiết, sâu-sắc. Sự việc này, tựa như “xối nước” lên đường-lối sống Đạo theo kiểu thông-thoáng. Thế nên, từ đó, mới cần tái rao-truyền Phúc Âm cho tín-hữu nào còn sống như thế. Cần đào sâu, sự việc gần cận tính hiện-đại hơn. Nói theo cung-cách sử-học, thì: sống kiểu này, là để định-vị chính mình vào mẫu-mã của địa-cầu trần-gian như nghị-trình Thời Khai-sáng từng tạo ra, lúc đó.

Từ Công Đồng Vatican 2 đến nay, lại thấy nhiều cuộc-chiến cứ diễn ra bên trong vùng đất Giáo-hội. Cuộc-chiến này, là thứ thánh-chiến vẫn tiếp-tục như cuộc chiến kéo dài 30 năm, thời Phục-Hưng. Chủ-thuyết sống Đạo cách thông-thoáng, lại đưa thêm uy-lực cả vào trong đó. Nay, nó hiện-diện trong cuộc thiết-dựng đạo-giáo và lý-lịch nền-tảng đa-văn-hoá theo tầm-cỡ rất toàn-cầu. Ngõ hầu tránh né một cuộc chiến đích-thực lại sẽ xảy ra; hoặc ít ra, lại cũng như các chính-phủ dân-sự vẫn coi đạo-giáo có hiệu-quả tương-đương và xứng đáng được lợi-lộc dân-sự so với thể-chế dân-chủ.

Điều này, do chủ-thuyết “duy-lý” vốn không cởi mở và chấp-nhận ảnh-hưởng từ “truyền-thống siêu-nhiên”.

Cũng thế, các đại-học theo kiểu của người Anh và người Đức có truyền-thống hậu-Phục-hưng và các thể-chế “chuyên-nghiệp”. Tức, có nghĩa: nói về thời-đại mới khai phá, thì các thần-học-gia khi xưa thường là giám-mục hoặc các thày Dòng khắc-kỷ, chứ không phải bậc thày giảng dạy, như ngày nay. Thế nên, do bởi muộn-phiền gây ra do nền giáo-dục thông-thoáng, hiện-đại và lề-lối suy-tư then chốt, các đấng bậc thày dạy về Đạo lâu nay được huấn-luyện theo truyền-thống như thế, vẫn dắt dìu kẻ-tin vào tầm-hướng nhiều sai lạc…” (x. Lm Kevin O’Shea, CSsR, “Ơn Cứu Chuộc Nơi Ngài Chan Chứa”, dịch-phẩm đang in)

Thì ra là như thế. “Sầu” nhưng không buồn ở nhà Đạo đôi khi cũng mang ý-nghĩa rất khác lạ. Khác và lạ, hơn thời trước cũng rất nhiều. Khác và lạ, khiến mọi người trong cuộc hoặc “ngoài luồng” vẫn hay đặt thành vấn-đề, khá lung-khởi. Khác và lạ, như một chuyện phiếm những Đạo vào đời, cần khai-triển.

Khai-triển bằng nhiều cách tương-tự như trường-hợp dung truyện kể để minh-hoạ cho vấn-đề đang đặt ra. Truyện để kể, không chỉ cười xoà rồi thôi, nhưng khiến người đọc và nghe suy-nghĩ nhiều như câu truyện ở dưới được đặt cho cái tên vô-thưởng-vô-phạt như chuyện “Tôi kể bà nghe”:

“Tôi kể bà nghe…

Lũ trẻ bây giờ yêu nhau buồn cười lắm!

Chúng mình bên nhau cả đời chưa chán,

Chúng nó bên nhau tính tháng, tính ngày.

Tôi kể bà nghe…

Lũ trẻ bây giờ yêu nhau lạ lắm thay

Thời chúng mình, cái nắm tay cũng làm cả làng dị nghị,

Chúng nó thì nhận lời hôm trước, hôm sau đã đưa nhau vào nhà nghỉ,

Làm cái chuyện động trời!

Tôi kể bà nghe…

Chẳng biết tôi với bà đã quá lỗi thời,

Hay là vì lũ trẻ bây giờ học đòi tân tiến.

Chúng nó nghĩ yêu là phải hết mình dâng hiến,

Thế là mặc sức cho đi mà chẳng nghĩ đến cha mẹ, họ hàng…

Tôi kể bà nghe…

Ngày xưa chúng mình tìm hiểu nhau đứng đắn, đàng hoàng,

Bây giờ lũ trẻ nứt mắt ra, học cấp ba đã học đòi yêu đương dấm dúi,

Điện thoại tân thời, áo quần cũn cỡn, xe số xe ga…chúng nó đưa nhau

vào bờ, vào bụi…

Chẳng ra cái thể thống gì!

Tôi kể bà nghe…

Lũ trẻ bây giờ yêu nhau rất lạ kỳ.

Chúng nó bảo yêu say đắm, yêu hết mình,

mà chẳng có bao nhiêu đôi đi được với nhau đến cùng trời cuối đất.

Chúng nó lướt qua cuộc đời nhau như chẳng có gì để mất,

Biến “Tình yêu” thành cái định nghĩa hết sức tầm thường…

Tôi kể bà nghe…

Tôi với bà tình thương mến thương

Hơn sáu chục năm trời mà thấy vẫn còn chưa đủ…

Lũ trẻ bây giờ chán rồi bỏ nhau, thất tình khóc xong rồi ngủ,

Sáng mai tỉnh dậy lại tươi tắn rêu rao :”Tìm một nửa thất lạc của đời

mình”.

Tôi kể bà nghe…

Ngày xưa chúng mình cứ phải cân nhắc bên hiếu, bên nghĩa, bên tình.

Bây giờ chúng nó nhắm mắt đưa chân mà chẳng một lần nhìn lại,

Chúng nó cứ mù quáng buông mình trôi đi mãi

Chẳng biết đâu mới là giới hạn, để dừng lại cho những tháng ngày sau…

Tôi kể bà nghe…

Tuy chúng mình già nhưng chẳng yếu lắm đâu!

Trái tim tôi với bà vẫn còn đập những nhịp nguyên lành cho những yêu thương ngọt ngào phía trước,

Lũ trẻ bây giờ trao cho nhau trái tim đã bao lần bị ném, vùi, vỡ xước…

Rồi chúng nó tự hỏi mình, đau khổ tại vì đâu?

Tôi kể bà nghe…

Tại vì chúng nó không biết trân trọng nhau!

Ở thời của chúng mình, cái gì vỡ thì cùng nhau hàn gắn,

Chúng nó thích tân thời, chúng nó ham vứt đi để mua cái mới…

Nên chúng nó chẳng giữ được cái gì bền vững vượt thời gian…

Tôi kể bà nghe…

Có một câu nói dân gian:

“Dẫu cho chẳng có bạc vàng,

Bên anh chỉ có mình nàng, anh vui!

Người ta sống ở trên đời,

Quý nhân, trọng nghĩa, là người an yên”.

Và người kể lại vẫn cứ thêm những lời-bàn-rất-Mao-Tôn-Cương, rằng:

Hạnh phúc đơn giản chỉ là sự tồn tại của mình…

Được ai đó nhận ra – Bắt gặp – Và giữ lấy…

Hạnh phúc đơn giản chỉ là 1 câu nói quan tâm…

Không cần ngọt ngào nhưng đừng giả tạo…(xem truyện kể ở điện-thư mới nhận được)

Vâng. Có lẽ cũng như thế, nếu bạn và tôi, ta định nghĩa nỗi “Sầu”, khó đoán. Tuy, “Sầu” đó, buồn đây chẳng giống nhau chút nào, như nỗi “sầu” thiếu hạnh-phúc ở tuổi trẻ-người-non-dạ” rất hôm.

Vâng. Hạnh-phúc cuộc đời người vẫn cứ giản-đơn như bao giờ. Ở với người.

Trần Ngọc Mười Hai

Nay không còn trẻ nữa

Nên cũng chẳng cần nghe chuyện

Tôi kể bà nghe

ở đâu đó rất gần đây.

Tình đã chết, có mong gì sống lại

“Tình đã chết, có mong gì sống lại”

Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết
Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ
Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ
Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn”.

(Dẫn từ thơ Trần Dạ Từ)

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Mừng Sống Lại, ta không chỉ loanh quanh việc gợi nhớ. Nhớ giây phút Chúa sống lại, đánh động tâm can đồ đệ, thôi. Nhớ Phục sinh, là nhớ rằng ơn cứu độ đã ảnh hưởng lên cuộc sống và niềm tin của con dân. Nhớ Phục sinh, còn là nhớ lời gọi mời đổi mới tận gốc rễ, như đồ đệ Chúa đã làm, thời tiên khởi. Nhớ Phục sinh, không chỉ là tin tưởng và loan báo việc Chúa sống lại, nhưng còn phải tác động lên điều mình tin lên tình thương yêu, rao giảng.

Bài đọc 1, thánh Phêrô nói đến kinh nghiệm mà thánh nhân muốn sẻ san với cộng đoàn đang nghe giảng. Là môn đồ gần cận, thánh nhân san sẻ với mọi người về giảng rao. Nhờ có kinh nghiệm, thánh nhân biết đích xác Đức Giêsu đã chết trên thập giá, nay đang sống với các thánh, trong niềm vui đầy tràn. Và, các thánh san sẻ niềm vui ấy với mọi người. Để, ai nấy cùng vui như Ngài. Với Ngài.

Bài đọc 2, Phaolô, một Pharisêu cương nghị, từng bức bách con dân của Chúa, cũng có kinh nghiệm về sự sống lại, với mình. Và, thánh nhân đã hồi hướng trở về cùng Chúa, ngay trên đường đi Đamát. Hồi hướng trở về, thánh Phaolô đem dân con Chúa về với cộng đoàn tình thương.

Qua kinh nghiệm, Phaolô thánh nhân đích thân thay đổi cuộc sống. Bằng vào kinh nghiệm sống lại, thánh nhân đã có thị kiến mới về mọi sự, về cuộc sống của Đức Giê-su và về thông điệp Ngài đem đến. Cuối cùng, thánh nhân đã sử dụng trọn vẹn năng lực mình có để phục vụ, theo cung cách khi trước hầu giúp đỡ mọi người biết yêu thương và dấn bước theo chân Chúa.

Trình thuật, nay kể về “Mộ trống” như dấu hiệu Chúa về lại với cuộc sống, bình thường. Và thánh sử kể về sự kiện Maria Magdala và đồ đệ Chúa đến mộ phần, chứng kiến và tin vào Chúa Phục Sinh. Tin, là tin vào Tin Mừng, như đã viết: “Hai ông chưa hiểu rằng theo Kinh thánh: Đức Giêsu phải trỗi dậy từ cõi chết” (Ga 20: 9). Tin và hiểu, như hai vị tông đồ trên đường Emmaus, cũng được giải thích, để hiểu rõ. Tin và hiểu, là biết chấp nhận một sự thật: Chúa chấp nhận khổ đau và sống lại, quả đúng như điều được ghi trong Cựu Ước.

Suy cho cùng, ta hiểu Phục sinh không đơn thuần là phục hồi sinh lực cho cơ thể Chúa. Phục sinh, không là chuyện tai nghe mắt thấy. Thấy, như đã thấy Chúa bị đóng đinh như sự-kiện lịch-sử mà là sự kiện của niềm tin. Đức Chúa Phục sinh, nay sống lại để đi vào cung cách mới, của sự sống.

Các văn bản sau ngày Chúa Phục sinh, cho thấy: Ngài không được các tông đồ gần cận, nhận thức trước. Ngài ở những nơi mà đồ đệ Ngài đi đến. Chúa Phục Sinh phải được hiểu, là Ngài mang nơi Mình Ngài, một hình thức tân tạo. Mang cung cách hoàn toàn mới mẻ để hiện hữu ở với ta. Và, cung cách mới, đó là cộng đoàn dân con hiện thân Nước Trời, ở trần gian, tức tương quan dân của Chúa.

Đọc tiếp trình thuật, ta sẽ thấy: thánh Phêrô và “môn đồ được Chúa thương” đích thân chứng kiến Chúa sống lại, đã chạy về kể cho bạn bè nghe những điều mình “tai nghe mắt thấy”. Riêng Maria Magđala, người nữ phụ đầy lỗi phạm khi trước, nay đã dâng trọn đời mình để Chúa dẫn dắt. Chính nhờ thế, Thầy Chí Ái đã vui lòng ở lại, với chị. Với mọi người.

Với Maria Magđala, mặc khải “Chúa sống lại” là sự kiện: có thiên thần hiện diện, tức do Chúa. Và, khi ngước mắt quay nhìn, chị thấy Chúa nhưng không nhận ra. Đó là điều, khiến chị bật thành tiếng khóc trong mừng vui. Vui, vì biết rằng Chúa Sống Lại đã hiện ra với chị. Với người đời. Thế mà, chị cứ ngỡ Ngài là “người làm vườn”.

“Người làm vườn”, lời Tin Mừng được thánh Gio-an nhiều lần nhắc đến. Vườn, là chốn địa đàng, nhị vị tiên tổ từng ngã phạm (Kn 2: 23). Vườn, là nơi chôn Chúa, chốn cứu chuộc (Ga 19: 41). Vườn, là khu lưu giữ chiên đàn, Chúa nói đến (Ga 10: 1-5). Tựu trung, Chúa Phục Sinh từng gọi tên Maria Magđala để mặc khải, hay gọi tên chiên con, đều ở đây ở trong vườn.

“Thôi đừng giữ Thầy lại”, điều này chứng tỏ: dân con Đạo Chúa cứ đeo đuổi bám víu vào con người “cũ” của Đức Chúa. Trên thực tế, Đức Giêsu nay đã về với Cha, trong quang vinh. Về với Cha, Ngài hứa sẽ trở lại, nhưng theo cung cách khác. Bằng một thực thể mới mẻ, khác lạ. Và, ta chỉ gặp Ngài, nơi những người được coi là đồ đệ. Người liên kết làm một Thân Mình Chúa. Một Hội Thánh Chúa ở địa phương.

“Tôi đã thấy Chúa!”, lời kể của Maria Mác-đa-la, người nữ phụ từng phạm lỗi, rất nặng theo luật Do Thái, cũng là của phụ nữ, những người có vị thế rất thấp trong xã hội. Nhưng, với Tin Mừng, lại được ưu tiên cao. Ưu tiên được biết trước nhất, chuyện Chúa sống lại. Đó chính là mục đích cũng như ý nghĩa của sứ vụ rao báo Tin Mừng. Rao báo, không chỉ là chuyển giao triết lý của lòng tin. Mà còn là, san sẻ cho nhau những kinh nghiệm mình chứng kiến.

Kinh nghiệm được gặp và được thấy Chúa trong cuộc đời, của chính mình. Rồi sau đó, mời gọi mọi người cùng làm như thế. Mừng kính Chúa Phục Sinh, ta cũng được gọi mời cùng một cung cách như thế. Gọi và mời theo một kiểu như Phêrô thánh nhân, Maria Mácđala và đồ đệ khác. Một kiểu cách như bài đọc hôm nay.

Đọc thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côrintô, ta đều thấy: lời mời gọi Phục Sinh là một gọi mời hồi hướng trở về, tận căn rễ. Là, thanh lọc tự bản thân, của mỗi người. Khi cử hành lễ Vượt qua, người Do Thái có thói quen đổ bỏ bánh lên men mà họ vẫn có. Thay vào đó, là bánh không men, vừa mới cất.

Thói quen đổ bỏ bánh lên men này, vì qua tiến trình lên men tạo nên bánh, men được coi là nhân tố gây lũng đoạn bột. Vì thế, thánh Phaolô khuyên ta nên mừng lễ Vượt Qua, “đừng với men cũ, là men gian tà, ác độc; nhưng, với Bánh không men của lòng tinh tuyền, và chân thật.” (1Cr 5: 6)

Về lại bài đọc 1, từ sách Công vụ Tông đồ, thánh Phêrô nhấn mạnh đến tầm vóc quan trọng của đồ đệ Chúa. Quan trọng ở chỗ, ta không chỉ rút kinh nghiệm từng trải và vui hưởng niềm vui Đức Chúa là Thầy Chí Thánh nay đã Phục Sinh, mà thôi. Nhưng còn phải sẻ san kinh nghiệm và niềm vui ấy cho càng nhiều người càng tốt. Đó là điều ta nên làm. Nên làm vì nếu  chỉ liên hoan Phục sinh thì mới có nửa phần. Mà, với người Đạo Chúa, Phục Sinh là đại lễ diễn ra hằng ngày. Là, ngày vui Chúa Sống lại, ta san sẻ với hết mọi người. Vào mọi ngày.

Lời thánh Phêrô “còn chúng tôi đây xin làm chứng”, là làm chứng về những việc Chúa đã làm. Về, việc Chúa bị bắt, hãm hại và giết đi. Về, “Thiên Chúa đã làm cho Người trổi dậy” và chúng ta, là “những kẻ được cùng ăn cùng uống với Người” (Cv 10: 40-41), vẫn là điều ta vẫn làm mỗi khi tham dự Tiệc Thánh Thể. Dự Tiệc Thánh, ta vẫn ăn và vẫn uống Thân Mình Đức Chúa Phục Sinh, quang vinh.

Vậy thì, thông điệp ta có được từ lễ Chúa Phục Sinh, là thông điệp gì? Ta có đáp ứng đòi hỏi làm con dân Đức Chúa, hay chỉ ngồi đó tham dự thánh lễ mỗi Chủ Nhật, như người dưng? Bởi, thông điệp của Chúa là thông điệp gửi mỗi người chúng ta. Gửi, để ta ra đi mà rao báo Tin Mừng Ngài đã Phục Sinh. Rao và báo, cho cho con dân Ngài biết  Thiên Chúa đã chọn Đức Giêsu đến với ta, không phải để lên án kẻ sống với người chết. Nhưng, để mọi người tin vào Ngài, sẽ được tha thứ mọi lỗi lầm, ngang qua Ngài.

Trong tinh thần mừng Chúa Sống Lại, ta hãy cúng nhau ngâm lại lời thơ trên, rằng:

“Tình đã chết, có mong gì sống lại”

Nhưng anh biết cái gì xưa đã chết

Anh càng buồn càng muốn kết thành thơ

Mộng đang xanh, mộng hóa bơ phờ

Đây bài thơ chót kính dâng tặng bạn”.

(Trần Dạ Từ)

Sống lại, với mọi người vẫn là sống trỗi dậy từ mối tình đã chết. Tình chết với nhân-gian, người phàm hay bạn hữu thân thương ở Nước Trời, vẫn cần sống lại, mãi mãi, rất thiên thu.

Lm Richard Leonard sj

Mai Tá lược dịch

Nơi viếng ông Lý Quang Diệu rất giản dị’

Nơi viếng ông Lý Quang Diệu rất giản dị’

Phóng viên Nguyễn Lễ của BBC tiếng Việt mô tả lại quang cảnh dân xếp hàng dài chờ vào viếng cố lãnh đạo Lý Quang Diệu.

“Tôi hết sức bất ngờ trước sự giản dị của nơi đặt thi hài ông Lý Quang Diệu. Tức là linh cữu không đặt trong hội trường mà ở ngoài sảnh hay hành lang của tòa nhà quốc hội Singapore, ngay chỗ có cầu thang đi lên.

“Quan tài được đặt trên bệ và phủ quốc kỳ, không hề có bàn thờ hay có dòng chữ gì cả.

“Xung quanh chỉ có bốn người lính đứng gác và hai cành hoa lan mang tên cố lãnh đạo Singapore mà thôi.

“Khách vào viếng dừng trước linh cữu ông chỉ chừng 5-10 giây, họ cúi đầu và có người chắp tay thành kính. Tôi nghe thấy cả một người phụ nữ khóc ngay sau tôi nữa”, Nguyễn Lễ cho biết vào hôm thứ Sáu 27/03.

” Quan tài được đặt trên bệ và phủ quốc kỳ, không hề có bàn thờ hay có dòng chữ gì cả. Xung quanh chỉ có bốn người lính đứng gác và hai cành hoa lan mang tên cố lãnh đạo Singapore.”

Phóng viên BBC nói người tới viếng phải xếp hàng tới khoảng 7 giờ.

“Vào hôm nay nhà chức trách Singapore quyết định mở cửa tàu điện ngầm 24/24 giờ để đáp ứng nhu cầu đi viếng của người dân. Họ muốn giãn bớt số người viếng vào ban ngày để người ta có thể vào viếng ban đêm.

“Cá nhân tôi vì là nhà báo nên được đi vào hàng ưu tiên bao gồm cả người già và trẻ em, nên nhanh hơn nhưng cũng phải mất tới bốn tiếng kể từ khi xếp hàng mới vào được tới nơi.

“Có nhiều người già và người phải đi xe lăn và người ẵm theo cả con nhỏ tới viếng ông Lý Quang Diệu.

“Có nhiều người chịu đứng ngoài nắng nhiều giờ rất nóng và nhịn qua cả bữa ăn để có thể vào viếng”, Nguyễn Lễ cho biết.

Giới chức trách Singapore vào hôm thứ Sáu khuyến cáo người dân ngừng xếp hàng vào viếng ông Lý Quang Diệu, chính khách và người sáng lập đất nước Singapore tại nơi lĩnh cữu ông được quàn.

Họ cảnh báo rằng tới chiều thứ Sáu thì thời gian xếp hàng chờ để vào được Nhà Quốc hội sẽ là chín tiếng.

Khoảng 250.000 người đã viếng để tỏ lòng tôn kính với ông Lý, người qua đời hôm thứ Hai hưởng thọ tuổi 91.

Các thủ tục quốc tang sẽ được tổ chức vào ngày Chủ Nhật, với sự hiện diện của các quan khách quốc tế từ khắp nơi trên thế giới.

Giới chức trách cho biết trong một tuyên bố rằng dân chúng đã được “khuyên” rất rõ ràng là không nên xếp hàng nữa và chỉ dẫn cho họ chuyển đến các địa điểm tưởng niệm nhỏ hơn được lập ra rải rác trên quốc đảo này.

90.000 công nhân đình công ở TP.HCM

90.000 công nhân đình công ở TP.HCM

RFA

PouYuen-dinhcong-622.jpg

Hàng chục ngàn công nhân công ty PouYuen Việt Nam ở Quận Bình Tân TPHCM, bắt đầu đình công từ hôm 26/03/2015.

Coutesy laodong.com.vn

Gần 90.000 ngàn công nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh đình công phản đối một điều luật Bảo hiểm Xã hội mới ban hành.

Công nhân công ty TNHH PouYuen Việt Nam ở quân Bình Tân đình công từ hai ngày nay, thứ năm và thứ sáu, để phản đối điều 60 luật bảo hiểm xã hội được quốc hội thông qua hồi tháng 11 năm ngoái,  có hiệu lực từ đầu năm sau.

Điều luật này không cho người tham gia BHXH khi nghỉ việc được hưởng bảo hiểm một lần như trước, mà phải chờ đến tuổi hưu. Ờ Việt Nam tuổi hưu người phái nam là 60, phái nữ là 55 tuổi.

Trước đây theo luật BHXH năm 2006, điều 55, quy định rằng nếu công nhân nghỉ việc tại công ty sẽ được nhận cuốn sổ BHXH mà họ đã tham gia, sau đó 1 năm đem cuốn sổ này đến cơ quan BHXH để khai báo làm thủ tục nhận trợ cấp 1 lần.

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam gửi văn thư giải thích là luật mới nhằm bảo đảm cho công nhân khi về hưu được bảo đảm quyền an sinh xã hội, hưởng chế độ hưu trí khi hết tuổi lao động. Công Đoàn Công ty cũng kêu gọi công nhân trở lại sản xuất để không ảnh hưởng đến Công ty và bản thân công nhân.

Uỷ ban Nhân dân quận Bình Tân cho biết đã nhận kiến nghị của công nhân, đang chuyển lên cấp trên và quốc hội để giải quyết.

Bệnh viện từ chối cho xe cấp cứu, Việt kiều Ðức chết oan

Bệnh viện từ chối cho xe cấp cứu, Việt kiều Ðức chết oan

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV)Một Việt kiều Ðức bị đột quỵ giữa đường, nhiều người dân gọi, thậm chí đến tận bệnh viện nài nỉ xin xe cấp cứu nhưng bị từ chối, để rồi nạn nhân phải chịu chết oan ức.

Theo báo điện tử Một Thế Giới, đã nhiều ngày xảy ra sự việc, nhưng người dân phường Thảo Ðiền, quận 2, vẫn chưa hết uất ức trước thái độ vô trách nhiệm của bệnh viện đa khoa Bưu Ðiện Sài Gòn (cơ sở 2), đóng tại địa phương.


Bệnh viện đa khoa Bưu Ðiện cơ sở 2, nơi bỏ mặc không cứu người bệnh. (Hình: Một Thế Giới)

Ông Lê Văn Tư (56 tuổi), bảo vệ chợ tạm Thảo Ðiền, một trong 3 người dân trực tiếp tới bệnh viện này gọi xe cứu thương thuật lại: Khoảng 6 giờ 30 phút ngày 21 tháng 3, khi ông thấy một người đàn ông đứng tuổi dựng xe đạp vào gốc cây rồi lảo đảo, té ngửa ra sau. Ðoán nạn nhân bị đột quỵ, mọi người chia nhau gọi hơn 20 cuộc điện thoại đến bệnh viện Bưu Ðiện nhờ đưa xe đến cấp cứu nhưng không được.

Quá sốt ruột, ông cùng hai người khác chạy xe máy tới thẳng phòng cấp cứu gọi cho bác sĩ, điều dưỡng của bệnh viện này nhưng đều bị từ chối. “Tôi vào khoa cấp cứu gặp một nhân viên nữ. Tôi trình bày sự việc và nhờ cho xe cứu thương ra hiện trường cứu người, nhưng cô này tỉnh bơ kêu gọi xe taxi chở vào,” ông Tư bực tức nói.

Ông Nguyễn An Ninh, (65 tuổi), ngụ phường Thảo Ðiền, quận 2, là bạn ông Huỳnh Văn Ngài, người bị đột quỵ xác nhận: “Bệnh viện không điều xe cấp cứu, cũng không cử người xuống hỗ trợ, dù bệnh nhân chỉ cách bệnh viện chưa đầy 1 cây số. Rõ ràng chúng tôi thấy xe cứu thương vẫn đang đậu ngay trước sân bệnh viện, nhưng khi đến kêu cứu, họ vẫn làm ngơ như không có chuyện gì.”

Không được bệnh viện này giúp đỡ, người dân mới liên lạc với bệnh viện quận 2 và được xe cấp cứu đến ngay sau đó. Tuy nhiên, do bệnh viện quận 2 xa hơn chục km, trong khi chờ xe cấp cứu đến thì ông Ngài cũng đã đột quỵ hơn 30 phút. Các bác sĩ sơ cứu tại chỗ rồi đưa về bệnh viện. Nhưng không lâu sau, người dân nhận hung tin ông Ngài đã chết do không được cấp cứu kịp thời.

Trả lời phóng viên Một Thế Giới, bà Phan Thị Kim Hoa, phó giám đốc bệnh viện thừa nhận, sáng ngày 21 tháng 3, có tới 3 người dân lần lượt đến gặp nhân viên bệnh viện để xin điều xe cấp cứu ra cứu người bị đột quỵ. Khi đó, xe cứu thương đang để không.

Tin cho biết, ông Huỳnh Văn Ngài là Việt kiều Ðức về Việt Nam mở công ty tư vấn. Nhiều năm nay ông là thành viên tích cực trong ban liên lạc cựu học sinh Pétrus Ký.

Bệnh viện đa khoa Bưu Ðiện thuộc tập đoàn Bưu Chính Viễn Thông, đã có thâm niên hơn 30 năm thành lập. (Tr.N)

Ðại đức trụ trì chùa Từ Nghiêm quyên sinh

Ðại đức trụ trì chùa Từ Nghiêm quyên sinh

Nguoi-viet.com

Nhóm phóng viên Người Việt

SANTA ANA, California (NV)Ðại Ðức Thích Nhuận Thư, trụ trì chùa Từ Nghiêm, Santa Ana, vừa được phát hiện tự tử tại chùa sáng Thứ Năm, 26 Tháng Năm.

Nói với Người Việt, Tỳ Kheo Thích Minh Trí, trú sứ chùa Từ Nghiêm và là người phát hiện sự ra đi của Ðại Ðức Nhuận Thư, kể lại: “Sáng sớm nay có người đến gõ cửa chùa, nhưng thầy không muốn tiếp. Vào khoảng 9 giờ, tôi muốn ra xem họ đi chưa thì thấy thầy treo cổ bằng dây thừng. Tôi rất lúng túng, muốn bồng thầy xuống để cứu nhưng nặng quá không làm được, tôi gọi ngay cảnh sát.”


Cảnh sát chuẩn bị mang thi thể Ðại Ðức Thích Nhuận Thư đi giảo nghiệm. (Hình: Kalynh Ngô/Người Việt)

Ông Anthony Bertagna, phát ngôn viên Sở Cảnh Sát Santa Ana, xác nhận với nhật báo Người Việt rằng: “Có vụ tự tử tại chùa Từ Nghiêm. Một người chết và nhân viên giảo nghiệm tử thi của Orange County đã mang thi hài đi.”

Tuy nhiên, về chuyện ra đi của vị đại đức, ông Bertagna chỉ nói: “Chúng tôi không thể cho biết chết ra sao và vào lúc nào, vì phải đợi liên lạc với thân nhân của người quá cố.”

“Sáng nay đông người tới chùa quan sát. Có đầy đủ báo chí chứng kiến người ta đến đem thi hài đi. Chúng tôi tới chùa phải ra phía sau để tụng kinh. Phía trên chùa không được vào,” nữ Phật tử Chơn Hòa nói.

Tỳ Kheo Thích Minh Trí cho biết thêm: “Gần đây thầy gặp ai cũng than thở. Thầy có nói ý định tự tử cho ba của thầy là Hòa Thượng Thích Nhất Pháp, và hòa thượng có khuyên thầy rằng tự tử không phải là con đường của nhà Phật.”

“Tôi nghĩ sự việc này có liên quan đến việc chuyến đi hành hương. Thời gian đầu, các Phật tử đến đòi tiền, thầy còn nhỏ nhẹ giải thích. Sau này, giọng của thầy hơi gắt gỏng vì mọi người cứ đòi trả tiền ngay, bằng chi phiếu hoặc tiền mặt,” vị tu sĩ cho biết thêm. “Có nghe thầy nói là đã tìm được người giựt tiền bên Việt Nam. Có đến nhà mấy lần nhưng không gặp.”


Tỳ Kheo Thích Minh Trí, người phát hiện thi thể vị tu sĩ trụ trì chùa Từ Nghiêm. (Hình: Kalynh Ngô/Người Việt)

Tỳ Kheo Thích Minh Trí kể tiếp: “Hôm qua thầy và tôi có việc ở bên ngoài cả ngày. Trước đây nhiều lần chùa bị cúp nước và điện cho đến khi thầy đi đóng tiền. Khi đi đóng tiền điện ở Santa Ana hôm qua, thầy có nói ‘sẽ không có lần sau.’ Mấy ngày trước, khi ngồi nói chuyện với thầy, tôi thấy thầy cầm trên tay một sợi dây thừng, vuốt tới vuốt lui.”

“Cách đây khoảng hai ngày, vào lúc 9 giờ tối, có một thanh niên đến tìm thầy, trong tình trạng không được tỉnh táo, có vẻ như say rượu. Người đó đòi tiền và có ý định hành hung thầy. Một người trong chùa lúc đó đã gọi báo cảnh sát nhưng cảnh sát không đến,” vị tu sĩ nói thêm.

Sự việc xảy ra làm một số cư dân sống gần chùa và Phật tử ngậm ngùi và thương tiếc.

Ông Frank, không muốn cho biết tên họ, cư ngụ sát bên chùa, nói: “Ông ấy là một người tốt. Tuy chúng tôi trao đổi với nhau rất ít vì trở ngại ngôn ngữ, nhưng với tôi, ông ấy là một người tốt. Mẹ của tôi cũng nói thế. Ông hay mang cho mẹ tôi bánh cookie.”

Phật tử Trúc Tâm, 67 tuổi, cư dân Santa Ana, người có ghi danh trong chuyến đi hành hương, kể: “Từ khi xảy ra sự việc, tôi chưa lần nào hỏi thầy về nguyên nhân hoặc đòi thầy số tiền. Không phải chỉ riêng tôi mà những Phật tử khác nữa. Tôi và họ khuyên thầy rất nhiều lần mỗi khi thầy nói ‘chắc thầy không sống nổi.’ Chính tôi có nói với thầy nếu mình đã trót làm sai thì mình vẫn còn cơ hội sửa sai.”

Cảnh sát Orange County mang tang chứng đi để điều tra. (Hình: Ðỗ Dzũng/Người Việt)

Bà Trúc Tâm nói rằng tất cả Phật tử rất kính mến vị tu sĩ trụ trì chùa Từ Nghiêm.

Riêng bà, sau khi xảy ra sự việc, bà tự nhủ và cũng nói với gia đình bà là “giống như con của mình mà qua xứ người mà bị hoàn cảnh này thì cũng đau khổ như vậy.”

“Thầy hay nói với tôi là ‘thầy muốn chết đi, thầy không sống nổi. Người đạp lên người mà đi.’ Thầy hay nói vợ chồng tôi là thầy xem vợ chồng tôi như cha mẹ của thầy,” bà Trúc Tâm nói thêm. “Có một lần thầy nói với tôi là ‘cám ơn chúng tôi, nhưng áp lực lớn quá thầy chịu không nổi.’”

Chùa Từ Nghiêm có tổ chức chuyến hành hương cho khoảng 50 người. Nơi đến là Hà Nội, Miến Ðiện và Thái Lan. Chuyến đi dự kiến khởi hành sáng Thứ Hai, 2 Tháng Ba, nhưng phải hủy bỏ vì chùa xảy ra hỏa hoạn vào tối Thứ Bảy trước đó.

Tất cả sổ thông hành do Phật tử nộp cho vị đại đức một số bị thiêu rụi, một số cháy một phần, trong đó còn cả hình của người hành hương nộp để xin visa.

Sau khi sự việc xảy ra, một số Phật tử ghi danh hành hương có đến chùa đòi lại tiền. Một số nhận được chi phiếu, nhưng không rút được tiền.

Riêng vụ cháy ở chùa, một ngày trước khi xảy ra vụ tự tử, Sở Cứu Hỏa Orange County xác nhận rằng: “Các nhân viên điều tra của chúng tôi tin rằng có một sự cố ý gây ra vụ hỏa hoạn ở chùa Từ Nghiêm. Vụ án vẫn đang trong quá trình điều tra.”

Người Việt tiếp tục trốn chạy khỏi đất nước bằng mọi giá

Người Việt tiếp tục trốn chạy khỏi đất nước bằng mọi giá

Sau 40 năm kể từ ngày CSVN cai trị tòan cõi Việt Nam người dân tiếp tục bỏ xứ ra đi bằng mọi cách vẫn tiếp tục diễn ra.

Sau những đợt di tản năm 1975, đến lượt người dân Việt Nam liều mình vượt biên bắt đầu từ cuối thập niên 70. Sau đó là các đợt định cư theo diện H.O. Rồi đến những đợt người đi theo diện bảo lãnh, đòan tụ.

Gần đây hơn là dạng các em du học sinh đi học ở nước ngoài, rồi tìm mọi cách để được ở lại hợp pháp.

Tình trạng những người dân miền Bắc tìm cách trốn ở lại Anh sau khi đi du lịch châu Âu đang diễn ra một cách thầm lặng nhưng đều đặn. Sau đây là một câu chuyện được một thiếu nữ miền Bắc, mới đến được Anh trong tháng 02/2015, kể lại:

Làm sao em tìm được đường dây qua đây ?

* Bây giờ bên Việt Nam nhiều lắm, rồi bạn bè qua trước thì mình hỏi và họ sẽ chỉ.

– Đi tốn kém bao nhiêu ?

* Có hai giá. Một giá gọi là VIP và một giá gọi là “Cỏ”

VIP nghĩa là gì ? còn “Cỏ” là gì ?

* VIP thì đắt hơn, sẽ được giàn xếp , chỗ ngủ đàng hoàng . Còn “Cỏ” rẻ hơn nhưng chỗ ngủ không tốt và không được giàn xếp.

Giá cả thế nào?

* VIP thì USD 34,000 còn “Cỏ” thì USD 20,000

Chừng nào phải trả tiền

* Đi tới nơi là trả ngay.

Em đi giá VIP và đi ra sao?

* Vâng em đi giá VIP, em đi du lịch, ngồi máy bay tới một nước châu Âu, trước khi sang Pháp, rồi mới trốn qua Anh.

Vậy em đi du lịch ?

* Dạ vâng

Em đi vậy có sợ không? Và không biết tiếng Anh thì sao?

* Em nói được vài câu và trước khi đi người ta hướng dẫn. Em cũng sợ lắm, lúc ngồi máy bay lo sợ vì không biết tới châu Âu làm gì?

Vậy em vào Châu Âu có bị hỏi gì không? Rồi em tính cuộc hành trình như thế nào?

* Thì người ta đưa em giấy hộ chiếu , rồi dặn em lên máy bay , khi tới châu Âu cứ làm người du lịch.  Họ có viết trong tờ giấy dặn em phải làm gì khi ra khỏi sân bay châu Âu.

Rồi em có bị an ninh và hải quan hỏi gì không? Mà em không biết tiếng thì sao?

* Em nói được vài chữ trước khi đi , rồi tới đó em bập bẹ rồi ra được.

Sau đó thì sao?

* Em ra khỏi sân bay, trong tờ giấy họ dặn em đón taxi ra ga xe lửa để đi Paris

Em không biết gì hết thì sao?

* Em text về cho người hướng dẫn, họ text vào điện thoại rồi em đưa cho tài xế taxi , họ xem rồi đưa em ra ga.

Tất cả chi phí taxi và ăn uống em phải trả ?

* Vâng em phải trả hết.

Tới Paris thì sao?

* Em lại mua vé đi về phía bờ biển, đi phà qua Anh , rồi em đợi và có người đón.

Tới bờ biển có người đón em sao nữa ?

* Dạ người đón em, vì em trả giá VIP nên có nhà ngủ, nhưng cũng kinh lắm chứ không phải khách sạn. Nhưng ai đi vé “Cỏ” là nằm ngoài biển.

Rồi sao nữa?

* Khi trả vé VIP thì họ sẽ xếp cho mình lên xe hàng. Họ xếp em vào loại xe y như là xe đưa bưu phẩm, trong đó chia làm hai ngăn. Còn đi vé “Cỏ” thì họ sẽ phá những thùng container mình lén vô trong. Loại này dễ bị bắt hơn.

Trong thùng xe của em bao nhiêu người ?

* Tới 15 hay 16 người chật lắm anh.

Trong đó có người Việt không?

* Vài người thôi anh, còn lại là Trung Quốc, Ấn độ và Trung Đông

Rồi làm sao họ lái xe lên trên phà được mà em không bị bắt?

* Họ có kinh nghiệm anh, họ đợi cái giờ đổi ca thì lúc đó khám xét không chặt chẽ, có sơ hở thì xe chạy vào giờ đó thì nhóm kiểm tra không dò máy kỹ , nhờ đó xe lên được phà.

Vậy là em qua tới đây ?

* Dạ có 5 ngày là em tới đây rồi. Nhiều người nói em may lắm, vì không phải ngủ bờ ngủ bụi nhất là không bị cưỡng hiếp. Nếu em được lựa chọn thì em sẽ không đi nước ngoài đâu. Giờ không biết cuộc đời như thế nào? Và đi như thế này khiếp quá.

Đúng là làm người Việt Nam y như những kẻ khốn cùng, từ năm 1975 phải đi, và đến giờ 2015 vẫn còn người phải ra đi… Cô gái vừa trải qua một hành trình gian khổ chỉ im lặng, không nói gì. nhưng ánh mắt cô hiện lên một nỗi buồn khó tả.

Đoàn Hưng / SBTN

Báo Nhân Dân tiêu nhiều tiền hơn VTV?

Báo Nhân Dân tiêu nhiều tiền hơn VTV?

Chia sẻ

Người đọc báo ở Việt Nam – hình minh họa

Tài liệu công khai ngân sách của Bộ Tài chính Việt Nam cho thấy tờ báo của Đảng Cộng sản cầm quyền có dự toán ngân sách cao hơn Đài Truyền hình Việt Nam (VTV).

Trong văn bản công bố trên cổng thông tin điện tử của Chính phủ Việt Nam về chi tiêu của Văn phòng Trung ương Đảng ( xem đường dẫn), báo Nhân Dân có dự toán ngân sách năm 2014 là 46 tỷ 460 triệu VND.

Văn bản tương tự về VTV cho hay đài này chỉ có dự toán ngân sách cùng năm là 45 tỷ 970 triệu VND.

Tuy nhiên, đây không phải là số liệu về các khoản thu từ quảng cáo và kinh doanh của VTV.

Theo báo chí Việt Nam gần đây, VTV được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khen ngợi đã ‘tự chủ về mặt tài chính, tiền lương’.

Vẫn theo bản tin VTV hôm 13/03/2015, “Đài Truyền hình Việt Nam đã không phải phụ thuộc vào ngân sách của Nhà nước khi có thể tự chủ về tài chính và tự đầu tư đổi mới thiết bị”.

Trong khi đó, một địa chỉ của trang báo Nhân Dân bản điện tử (www.nhandan.org.vn) hiện chỉ được xếp thứ 3899 trong số các trang mạng ở Việt Nam.

Một địa chỉ khác (www.nhandan.com.vn) thì đạt vị trí cao hơn, thứ 1142 nhưng vẫn còn rất xa sau trang VnExpress (7) và Dân Trí (15), theo thống kê của www.alexa.com về các trang web ở Việt Nam.

Tuyên truyền và lý luận

Còn về chi tiêu của Văn phòng Trung Ương Đảng, Tạp chí Cộng sản có ngân sách còn cao hơn báo Nhân Dân, ở mức 49 tỷ 850 triệu VND.

Trang báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam có dự toán ngân sách 32 tỷ 340 triệu VND và có tổng biên tập riêng, không phải tổng biên tập báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản.

Trực thuộc Văn phòng Trung ương Đảng còn một cơ quan không thuộc lĩnh vực làm báo hay sản xuất chương trình truyền thông là Hội đồng Lý luận Trung ương có ngân sách 38 tỷ 800 triệu VND năm qua.

Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Đinh Thế Huynh và lãnh đạo báo Nhân Dân, ông Thuận Hữu

Hội đồng này có 23 biên chế và sáu nhân viên hợp đồng, theo văn bản nói trên.

Theo một bài trên trang dangcongsan.org.vn hồi tháng 10/2011 thì Hội đồng trong nhiệm kỳ 2011-2015 có 39 thành viên, gồm 38 tiến sĩ, chỉ có một vị là thạc sĩ.

Chủ tịch Hội đồng là Tiến sĩ Đinh Thế Huynh, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương.

Cộng cả chi tiêu cho Nhà xuất bản thuộc Văn phòng TW Đảng (36 tỷ 280 triệu VND) thì các khoản cho lĩnh vực tuyên truyền, truyền thông và lý luận của Trung ương Đảng lên tới 195 tỷ 730 triệu VND.

Đây là con số không nhỏ, gần bằng một nửa chi ngân sách cùng năm 2014 cho Thông tấn xã Việt Nam (409 tỷ 842 triệu) vốn có hoạt động trên các tỉnh thành trong nước và văn phòng ở nhiều nước trên thế giới.

Trong năm 2014, Văn phòng Trung ương Đảng có dự toán 1973 tỷ VND, tương đương 98,6 triệu USD, gấp 10 lần VP Chủ tịch Nước (195.9 tỷ).

Văn phòng Chính phủ có dự toán chi tiêu 1290 tỷ VND.

Lý Quang Diệu và chính sách ngăn ngừa CS tại Singapore

Lý Quang Diệu và chính sách ngăn ngừa CS tại Singapore

Trần Trung Đạo

Cựu Thủ tướng Cộng Hòa Singapore Lý Quang Diệu được đưa vào bệnh viện hôm 5 tháng 2 vì bịnh viêm phổi trầm trọng. Chỉ vài hôm sau, ông được chuyển qua hệ thống duy trì sự sống (life support). Theo nhiều nguồn tin, hai năm trước đây ông đã thêm vào di chúc một đoạn trong đó ông không muốn kéo dài sự sống vô nghĩa bằng cách này. Theo thông báo của chính phủ Singapore “ông qua đời trong thanh thản” tại Tổng Y Viện Singapore lúc 03:18 sáng, giờ địa phương thứ Hai 23/3/2015, thọ 91 tuổi. Lý Quang Diệu là Thủ tướng đầu tiên của Singapore và mất vào năm kỷ niệm 50 năm độc lập của quốc gia này.

Các thành tựu kinh tế

Về đối ngoại, hầu hết các chính trị gia thế giới từ Margaret Thatcher của Anh trước đây đến Barack Obama của Mỹ hiện nay đã từng ca ngợi Thủ tướng Lý Quang Diệu. Ông có một tầm nhìn rất xa không chỉ vào tương lai Singapore mà cả chính trị khu vực Á Châu và Thái Bình Dương. Từ đầu năm 1994, Lý Quang Diệu đã thấy trước sự căng thẳng trong vùng biển Đông.

Về đối nội, mặc dù nhiều chính sách cứng rắn của Lý Quang Diệu tạo nên nhiều tranh luận và phê bình, ông có một niềm tin vững chắc vào khả năng lãnh đạo của chính mình và tiềm năng của nhân dân Singapore để cùng đưa quốc gia rất nhỏ bé và bị bao quanh bởi các quốc gia thù địch thành một trong những nước giàu có nhất thế giới. Ngày nay, Singapore, quốc gia có dân số 5.5 triệu, là một trong những trung tâm thương mại lớn nhất thế giới, một trong năm cảng thương mại bận rộn nhất thế giới và có lợi tức đầu người cao thứ ba trên thế giới.

Một danh sách dài của những bảng danh dự mà các thống kê, các tổ chức kinh tế, tài chánh, thương mại quốc tế dành cho Singapore trong nhiều lãnh vực. Chẳng hạn, World Bank xếp Singapore vào hạng nhất trên thế giới về dễ dàng làm thương mại (The ease of doing business) và giữ vị thứ này suốt 7 năm liền; Singapore được xếp hạng ba trên thế giới về quốc gia cạnh tranh nhất (Most competitive country in the world); Singapore đứng hạng nhất về bảo vệ tài sản trí tuệ (The best protection of intellectual property); WHO (World Health Organization) năm 2010 xếp Singapore hạng nhì về tỉ lệ tử vong thấp trong thiếu nhi; Tổ chức Minh Bạch Quốc Tế (Transparency International: Corruption Perceptions Index) năm 2010 xếp Singapore vào hạng quốc gia trong sạch nhất. Và rất nhiều bảng danh dự quốc tế khác.

Thành tựu lớn nhất của Lý Quang Diệu chưa hẳn là thành tựu kinh tế

Reihan Salam, Chủ bút điều hành của National Review Institute và tác giả nhiều tác phẩm chính trị, trong phân tích và cũng là kết luận Thành Tựu Lớn Nhất Của Lý Quang Diệu Chưa Hẳn Là Thành Tựu Kinh Tế của Singapore (Lee Kuan Yew’s Greatest Accomplishment May Not Have Been Singapore’s Economic Success) đăng trên National Review sáng 23/3/2015 vừa qua.

Theo Reihan Salam, trong những năm trước 1959, xã hội Singapore chịu đựng tình trạng xung đột chủng tộc giữa các sắc dân Ấn, Mã Lai và Trung Hoa không chỉ về kinh tế mà trong cả văn hóa, tôn giáo. Ngoài ra, sự phân liệt trầm trọng diễn ra trong sinh hoạt chính trị với đa số thành phần CS và thân Cộng là người gốc Hoa trong khi đa số thành phần chống Cộng là gốc Mã Lai. Thế nhưng, ngày nay có thể nói không một quốc gia nào mà nơi đó người dân thuộc thành phần thiểu số cảm thấy an toàn hơn tại Singapore và gần một nửa số người đang sống yên ổn tại Singapore vốn sinh ra tại nước ngoài. Sự an toàn, ổn định và hòa hợp đó sẽ không xảy ra nếu quốc gia này nằm trong tay CS. Thành tựu lớn nhất của cố Thủ tướng Lý Quang Diệu, do đó, phải là thành tựu ngăn chận được sự phát triển của phong trào CS tại Singapore.

Lịch sử phong trào CS tại Mã Lai và Singapore

Năm 1927, năm cán bộ CS Trung cộng được phái tới Mã Lai để thành lập đảng CS Nanyang (Mã Lai, Singapore) với tầm hoạt động bao gồm cả Thái Lan, Đông Dương và các thuộc địa Đông Ấn thuộc Hòa Lan. Năm 1930, Đệ Tam Quốc Tế CS (1919-1943) tổ chức một hội nghị tại Singapore, giải tán đảng CS Nanyang và thành lập đảng CS Mã Lai. Cùng thời gian này, đảng CSVN cũng thuộc Đệ Tam Quốc Tế được thành lập.

Địa bàn hoạt động của đảng CS Mã Lai bao gồm Mã Lai, Singapore và lan rộng tận Thái Lan. Chương trình hành động của đảng CS Mã Lai gắn liền với điều kiện chính trị tại Trung cộng và đảng CSTQ bởi vì đa số đảng viên CS Mã Lai là người gốc Hoa. Những năm hòa hoãn giữa đảng CSTQ và Quốc Dân Đảng Trung Hoa để chống Nhật, đảng CS Mã Lai có cơ hội hoạt động mạnh hơn. Năm 1939, đảng CS Mã Lai có khoảng 40 ngàn đảng viên với một nửa số đó hoạt động tại Singapore. Tài liệu của đảng CSVN không ghi thống kê của năm 1939 nhưng trong giai đoạn 1935 đảng chỉ có 600 đảng viên. So sánh để thấy, hoạt động của đảng CS Mã Lai lúc bấy giờ mạnh đến dường nào.

Các đảng CS thuộc Đệ Tam Quốc Tế, trong đó có Việt Nam và Mã Lai, thực thi một chiến lược giống nhau do Lenin vạch ra trong Cương lĩnh của Quốc tế Cộng sản được chấp thuận tại đại hội Đệ Tam Quốc Tế lần thứ nhất vào năm 1919 và Luận Cương về Vấn đề Dân Tộc và Thuộc Địa do Lenin đọc tại đại hội của Đệ Tam Quốc Tế CS lần thứ 2 vào năm 1920. Chấp hành đường lối quốc tế đó, đảng CS tại các nước thuộc địa dùng cơ hội hợp tác với chính quyền chống ngoại xâm để phát triển đảng một cách công khai. Mã Lai-Singapore chống Anh, Trung Hoa chống Nhật và Việt Nam chống Pháp. Đảng CS mượn chiếc cầu chống thực dân và lợi dụng lòng yêu nước của các tầng lớp nhân dân để đạt mục đích tối hậu là thiết lập chế độ CS trên phạm vi cả nước.

Lai Teck, Tổng bí thư đảng CS Mã Lai có máu Việt Nam

Khi Thế chiến thứ hai bùng nổ, đảng CS Mã Lai tuyên bố hợp tác với chính quyền bảo hộ Anh để bảo vệ Singapore. Nhiều đảng viên CS Mã Lai được Anh huấn luyện quân sự. Lai Teck, Tổng bí thư đảng CS Mã Lai nhưng thực chất là một gián điệp làm việc cho nhiều cơ quan tình báo chống CS. Y có máu Việt Nam với cha là người Việt và mẹ là người Hoa. Lai Teck sinh tại Việt Nam và có tên thật là Trương Phước Đạt. Y từng làm việc cho cơ quan mật thám Pháp và xâm nhập đảng CSVN. Sau khi toàn thành nhiệm vụ Pháp chuyển Lai Teck sang cho tình báo Anh và tình báo Anh chỉ thị y xâm nhập vào đảng CS Mã Lai năm 1935. Lai Teck có một tiểu sử đầy kỳ bí và nhiều câu hỏi về nhân vật này vẫn chưa được ai trả lời thỏa mãn.

Khi Singapore rơi vào tay Nhật, Tổng bí thư Lai Teck bị Nhật bắt và trong giai đoạn này y lại bí mật hợp tác với Nhật. Sau Thế chiến thứ hai, Lai Teck vẫn tiếp tục hoạt động trong đảng CS. Mãi cho đến 1947, khi quá khứ bị phanh phui, Lai Teck bỏ trốn sang Thái. Chin Peng, Tổng bí thư mới của đảng CS Mã Lai yêu cầu các đảng viên CS Thái và CS Việt Nam đang hoạt động trên đất Thái truy lùng Lai Teck. Cuối cùng, một tổ ám sát CS Thái tìm ra và siết cổ y chết tại Bangkok. Xác của Lai Teck được ném xuống sông Chao Phraya năm 1947. Năm đó Lai Teck 44 tuổi.

Cộng sản Mã Lai và Singapore sau Thế chiến thứ hai

Giống như tại Việt Nam, khi Nhật rút lui nhưng Đồng Minh chưa đến, các nhóm CS Mã Lai xuất hiện, nhất là trong các khu người Hoa. Các đảng viên CS này được chào đón như những anh hùng cứu tinh dân tộc. Đảng CS tịch thu vũ khí do Nhật để lại và tuyển dụng đảng viên một cách công khai. Những “trung đoàn” CS trong thời chiến mỗi đơn vị chỉ hơn một trăm lính đã lên đến con số 6 ngàn trong một thời gian ngắn.

Khi chính quyền bảo hộ Anh được tái lập tại Singapore và ra lệnh đảng CS Mã Lai phải giao nạp vũ khí và giải tán các “trung đoàn” CS. Đảng CS buộc phải đồng ý giải tán nhưng cũng giấu đi nhiều vũ khí. Theo lịch sử đảng CS Mã Lai, các “trung đoàn” phải giải tán vì thiếu hàng ngũ cán bộ chính trị viên để nắm vững phần tư tưởng của đảng viên, nhưng dù sao đó cũng là một quyết định sai lầm của đảng. Trong khi đó tại Việt Nam, đảng CS lợi dụng khoảng trống cuối Thế chiến thứ hai để chiếm Hà Nội và vài thành phố khác qua biến cố gọi là “Cách mạng Mùa Thu”.

Sau thời kỳ Lai Teck, Chin Peng, 27 tuổi, một lãnh đạo CS Mã Lai gốc Hoa lên nắm quyền Tổng bí thư và chuyển sang đấu tranh bạo động, bao gồm ám sát và khủng bố. Chính quyền phản ứng mạnh qua các chiến dịch truy lùng các lãnh đạo đảng nhưng Chin Peng trốn thoát. Đảng CS Mã Lai thành lập một tổ chức ngoại vi có tên Mặt Trận Giải Phóng Dân Tộc Mã Lai. Chính quyền Mã Lai áp dụng chính sách cắt nguồn tiếp tế cho CS bằng cách đưa dân về các “Khu tân lập” được bảo vệ an ninh chặt chẽ. Sau lần đàm phán thứ nhất để giải quyết xung đột trong hòa bình thất bại, các lực lượng CS rút lui dần về biên giới Thái. Theo ước đoán của Bộ Ngoại giao Mỹ, số đảng viên CS Mã Lai trong giai đoạn này chỉ còn vào khoảng 2 ngàn người. Anh trao trả độc lập hoàn toàn cho Mã Lai ngày 31 tháng 8 năm 1957 nhưng vẫn tiếp tục bảo hộ Singapore.

Lý Quang Diệu và CS Singapore

Năm 1950, sau khi học xong ngành luật tại Fitzwilliam College, Cambridge, Anh, và hoàn tất chương trình thực tập luật, Lý Quang Diệu được nhận vào luật sư đoàn Anh nhưng ông đổi ý định hành nghề ở Anh và về nước. Chàng luật sư 27 tuổi Lý Quang Diệu trở lại quê hương mang theo một tấm lòng yêu nước, lý tưởng công bằng xã hội, ý chí quyết tâm và tầm nhìn xa vào tương lai Singapore.

Lý Quang Diệu là một trong ba người thành lập Đảng Hành động Nhân dân Singapore (People Action Party, gọi tắt là PAP) vào ngày 21 tháng 11, 1954. Mục đích chính của PAP là bảo đảm an ninh quốc gia mà không phải sử dụng bạo lực và xác định trong tuyên ngôn thành lập “PAP sẵn sàng hợp tác một cách thành thật với các đảng phái chính trị khác để đạt đến mục tiêu độc lập thật sự cho đất nước”.

Trong cuộc bầu cử tháng Năm 1959, PAP thắng lớn. Singapore thành quốc gia tự trị trong khuôn khổ Commonwealth và Lý Quang Diệu là Thủ tướng đầu tiên với Thống đốc Sir William Allmond Codrington Goode là Quốc trưởng. Theo kết quả của cuộc trưng cầu dân ý 1962, Singapore sáp nhập vào Liên Bang Mã Lai. Việc chọn gia nhập Liên Bang Mã Lai phát xuất từ mối lo ngại thiếu tài nguyên và ngoài ra, một số chính trị gia cũng quan tâm đến việc Singapore có thể trở thành một quốc gia CS. Tuy nhiên chỉ trong vòng 3 năm, Quốc hội Mã Lai với số phiếu 126 trên 126 loại Singapore ra khỏi liên bang. Thủ tướng Lý Quang Diệu đứng trước một tương lai Singapore đầy bất ổn. Ngay cả trong nội bộ PAP, vài năm trước, các thành viên sáng lập cũng đã chọn con đường tả khuynh cho riêng họ.

Các thành phần CS và tả khuynh trong lãnh đạo PAP

Hai thành viên sáng lập khác là Fong Swee Suan và Lim Chin Siong có lập trường tả khuynh trong lúc Lý Quang Diệu quyết tâm ngăn chận mầm mống CS phát sinh trong xã hội Singapore. Lý Quang Diệu biết rõ rất đông lãnh đạo và đảng viên PAP bị ảnh hưởng CS và việc chấp nhận sự ủng hộ của cánh CS chẳng khác gì ngồi trên lưng cọp nhưng ông tin tưởng vào khả năng và có một niềm tin kiên định vào mục đích sống của đời mình. Muốn đưa Singapore trở thành một quốc gia cường thịnh, trước hết phải xóa bỏ mọi tàng tích CS còn tồn đọng từ quá khứ và ngăn chận mọi mầm mống phát sinh của ý thức hệ CS tại Singapore. Tất cả chính sách đối nội của Lý Quang Diệu đều tập trung vào mục đích đó.

Đảng PAP tập hợp những thanh niên Singapore trẻ, có tinh thần độc lập và liên kết với các nghiệp đoàn, nhưng như Lý Quang Diệu giải thích, sự liên kết này chẳng khác gì một loại “hôn nhân hợp đồng” vì ông chỉ biết nói tiếng Anh nên cần các đảng viên biết nói tiếng Tàu trong giới lao động thân CS.

Lim Chin Siong, một trong ba người thành lập, có giọng nói hùng hồn và thu hút người nghe đã đắc cử Dân biểu Quốc Hội đơn vị Bukit Timah khi chỉ mới 22 tuổi. Năm 23 tuổi Lim Chin Siong và Lý Quang Diệu đại diện cho Singapore để thảo luận về hiến pháp tại London.

Những hoạt động tả khuynh quá khích của Lim Chin Siong đã làm cho hai lãnh đạo PAP xa nhau rất sớm. Lý Quang Diệu tố cáo Lim Chin Siong là CS và dựa vào Sắc Luật An Ninh Quốc Nội (Internal Security Act) bỏ tù đồng chí sáng lập PAP này nhiều năm không xét xử.

Mặc dù Lim từ chối là CS, các hành vi của y như việc đọc diễn văn trong lễ tưởng niệm Joseph Stalin và kế hoạch lật đổ chính phủ Lý Quang Diệu sau khi Singapore sáp nhập vào Mã Lai cho thấy chủ trương CS hóa Mã Lai bao gồm cả Singapore nằm trong ý định của Lim và mục tiêu của đảng Barisan Sosialis do y thành lập. Dù sao, sau khi Lim Chin Siong chết ngày 5 tháng Hai 1996, Lý Quang Diệu bày tỏ sự kính trọng về quyết tâm, tận tụy với lý tưởng dành cho đồng chí sáng lập PAP vừa qua đời.

Fong Swee Suan, một thành viên sáng lập khác của PAP cũng có lập trường thân CS. Không giống Lý Quang Diệu học hành đổ đạt, Fong Swee Suan bị trục xuất ra khỏi trường trung học vì tham gia đình công. Fong dành hết thời gian còn lại cho các hoạt động của giới thợ thuyền. Trong thời gian PAP lãnh đạo Singapore, Fong Swee Suan là Bộ trưởng Bộ Lao Động. Tháng Bảy 1961, Lý Quang Diệu yêu cầu Fong Swee Suan từ chức vì có liên can đến việc kêu gọi Singapore tự trị. Fong bị bắt tháng Hai 1963, giam tại Mã Lai và được phóng thích vào tháng Tám 1967. Fong có niềm tin sâu xa rằng giới công nhân là giới bị áp bức bóc lột và nghiệp đoàn là phương tiện để giới công nhân đấu tranh giải phóng áp bức bóc lột. Ông thừa nhận là một người xã hội chứ không phải là CS.

Sau khi giới hạn các thành phần CS và tả khuynh trong hàng ngũ lãnh đạo PAP, và ổn định chính trị quốc nội, Lý Quang Diệu thực hiện hàng loạt các chính sách kinh tế trong nước và mở rộng các quan hệ quốc tế. Singapore gia nhập Liên Hiệp Quốc 1965 và ASEAN 1967.

Lý Quang Diệu và Cộng Sản Tàu

Có lẽ không ai có ý thức rõ ràng và sâu sắc hơn Lý Quang Diệu về hiểm họa CS Tàu tại Singapore. Hầu hết, nếu không muốn nói tất cả đảng viên CS hoạt động tại Singapore là người Hoa. Do đó, tách rời Singapore ra khỏi quỹ đạo của Trung Cộng càng xa càng tốt. Ông học về lý thuyết CS tại Anh một cách nghiêm túc và nhiều lần khẳng định chủ nghĩa CS không cần thiết là một phương tiện để giành độc lập và chủ nghĩa CS không thể xây dựng Singapore thành một nước cường thịnh về mọi mặt.

Vào những năm đầu thập niên 1960, trong lúc các nhà lãnh đạo CSVN phải sang chầu Trung Cộng hàng năm để xin súng đạn, Lý Quang Diệu từ chối ngay cả việc thừa nhận nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một nước có chủ quyền toàn vẹn. Những biện pháp cứng rắn của chính phủ Lý Quang Diệu sau khi Singapore ra khỏi Liên bang Mã Lai là nhằm bảo vệ sự tồn tại mong manh của bán đảo này và ngăn chặn sự xâm nhập của Cộng Sản với hậu thuẩn tích cực của Trung Cộng.

Khi Đặng Tiểu Bình phát động bốn hiện đại hóa, Lý Quang Diệu mở rộng các quan hệ các quan hệ kinh tế, thương mại với Trung Cộng vì lợi ích của Singapore nhưng vẫn chưa thiết lập các quan hệ chính trị trên tầm mức quốc gia. Mặc dù công khai bày tỏ sự kính phục dành cho Đặng Tiểu Bình và được mời thăm Trung Cộng nhiều lần, mãi đến tháng 10 năm 1990, khi Singapore đủ mạnh về kinh tế và ổn định về chính trị, Lý Quang Diệu mới thiết lập ngoại giao hoàn toàn. Singapore là nước cuối cùng ở Đông Nam Á thừa nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa. Và mặc dù công nhận Trung Cộng, Lý Quang Diệu đồng thời cũng duy trì một quan hệ tốt với Đài Loan.

Quan hệ thương mại với Trung Cộng, tránh phê bình chế độ chính trị CS tại Trung Cộng không có nghĩa Lý Quang Diệu thừa nhận cơ chế CS là đúng. Lý Quang Diệu hiểu CS hơn nhiều lãnh đạo quốc gia khác vì chính ông đã từng tranh đấu một cách gian nan để ngăn chận CS tại Singapore cũng như đã từng phát biểu về lâu về dài nền dân chủ Ấn Độ sẽ giúp cho quốc gia này vượt qua Trung Cộng.

Một số học giả Trung Cộng như Lu Qi gọi Lý Quang Diệu là hanjian (Hán Gian) khi kết án ông Lý đã buộc người dân Singapore sử dụng tiếng Anh như ngôn ngữ chính và kết quả làm cho đa số người dân Singapore gốc Hoa ngày nay không biết tiếng Tàu. Nhưng tên học giả này quên rằng Lý Quang Diệu là Singapore chứ không phải là Trung Hoa và lại càng không phải Hán. Quyết định duy trì tiếng Anh làm ngôn ngữ chính ngay từ thời gian mới độc lập là một phần trong tầm nhìn xa của họ Lý để chuẩn bị cho Singapore dễ dàng hội nhập vào thế giới toàn cầu hóa năm chục năm sau.

Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, Lý Quang Diệu và nhiều lãnh đạo sáng suốt ở châu Á đã lợi dụng chính sách chống CS của Mỹ ở châu Á để hợp tác và phát triển kinh tế với Mỹ, nhờ đó, không chỉ nền kinh tế Singapore mà nhiều nước nhỏ khác ở châu Á như Nam Hàn, Đài Loan cũng đã lần lượt cất cánh và trong một thời gian ngắn được thế giới ca ngợi như là những con rồng châu Á.

“Vâng, nếu tôi không làm thế, chúng ta có thể không có mặt ở đây hôm nay”

Như Joseph Chinyong Liow, thuộc Viện Nghiên Cứu Brookings, phân tích trong bài bình luận Lý Quang Diệu, con người và giấc mơ hôm 22 tháng 3 vừa qua, chính lý tưởng và tầm nhìn đã giúp Lý Quang Diệu đưa Singapore từ một quốc gia bị trị, phân hóa chính trị, CS hoành hành, xung đột chủng tộc, thiếu thốn tài nguyên thiên thiên trở thành một nước hiện đại, được nhân loại khắp năm châu kính nể.

Lý Quang Diệu, một lần, thừa nhận đã có can thiệp vào đời sống riêng tư của người dân nhưng như ông biện luận “Vâng, nếu tôi không làm thế, chúng ta có thể không có mặt ở đây hôm nay”. Đúng thế, lịch sử Singapore hiện đại đã chứng minh một cách hùng hồn rằng Lý Quang Diệu có lẽ là lãnh đạo có lập trường quốc gia duy nhất không những tồn tại mà còn xóa bỏ được cả một hệ thống CS tại Singapore và đưa đất nước ông thăng tiến vượt lên trên phần lớn nhân loại.

Trần Trung Đạo

Tham khảo:

– Lee Kuan Yew: The Crucial Years, Alex Josey, Marshall Cavendish International 2012, p10-p15.
– National and Colonial Questions For The Second Congress Of The Communist International, Lenin, 5 June, 1920 (https://www.marxists.org/archive/lenin/works/1920/jun/05.htm)
– The Cold War in Asia (1945-1990), National Archives of Australia, 2007
– Malayan Communist Party
(http://en.wikipedia.org/wiki/Malayan_Communist_Party)
– Workers’ Party of Singapore
(http://en.wikipedia.org/wiki/Workers%27_Party_of_Singapore)
– Internal Security Act (Singapore) http://en.wikipedia.org/wiki/Internal_Security_Act_(Singapore)
(http://www.nationalreview.com/article/415871/lee-kuan-yews-greatest-accomplishment-may-not-have-been-singapores-economic-success
– Barisan Sosialis (http://en.wikipedia.org/wiki/Barisan_Sosialis)
– Lim Chin Siong (http://en.wikipedia.org/wiki/Lim_Chin_Siong)
– Lee Kuan Yew, Early Political Career (http://en.wikipedia.org/wiki/Lee_Kuan_Yew#Early_political_career.C2.A0.E2.80.93_1951_to_195)
– Lee Kuan Yew’s Greatest Accomplishment May Not Have Been Singapore’s Economic Success (http://www.nationalreview.com/article/415871/lee-kuan-yews-greatest-accomplishment-may-not-have-been-singapores-economic-success)
– Fong Swee Suan (http://eresources.nlb.gov.sg/infopedia/articles/SIP_2013-07-29_173512.html)
– Lai Teck (http://en.wikipedia.org/wiki/Lai_Teck)
– Singapore (http://en.wikipedia.org/wiki/Singapore)
– Malaysia (http://en.wikipedia.org/wiki/Malaysia)
– Lai Teck – the traitor of all traitors, Barry Wain, 2011 (http://heresthenews.blogspot.com/2011/01/lai-teck-traitor-of-all-traitors.html)
– Was Lee Kuan Yew an Inspiration or a Race Traitor? Chinese Can’t Agree (http://www.chinafile.com/reporting-opinion/media/was-lee-kuan-yew-inspiration-or-race-traitor-chinese-cant-agree)

Sự giàu có mang lại bất hạnh

Sự giàu có mang lại bất hạnh

Có lẽ tất cả chúng ta đều mơ một ngày nào đó sẽ trở nên giàu có, trừ những người sinh ra trong những gia đình khá giả…

2015/01/img_6884.jpg

Và có lẽ ai cũng từng mơ về việc sở hữu khối tài sản khổng lồ, lối sống xa hoa của những người giàu có và nổi tiếng, những căn biệt thự với sân vườn được cắt tỉa tỉ mỉ và những hồ bơi khổng lồ, những hòn đảo của riêng mình, xe thể thao đắt tiền, phi cơ riêng và nói chung là tiền để phung phí vào bất cứ thứ gì bạn muốn.

Vậy, điều gì đã xảy ra với những người đạt được giấc mơ đó?

Góc tối của sự giàu có

Tiền mang lại những thay đổi, đôi lúc là theo hướng tích cực, đôi lúc lại là tiêu cực.

Carol Philo đã chứng kiến cha mẹ mình, từ những người nghèo khó, biến thành những triệu phú sau khi công ty in ấn của họ làm ăn phát đạt.

Tuy nhiên lợi nhuận càng nhiều thì tham vọng cũng càng tăng.

“Mẹ tôi trở thành người mê tiền … Không có gì là đủ đối với bà,” Philo nói.

Sau một thời gian, quan hệ gia đình bắt đầu đổ vỡ.

“Là người đã chứng kiến tất cả những điều đó, tôi có thể khẳng định rằng có thể phấn đấu để sống thoải mái, nhưng để giàu có thì không nên”.

Murat Morrison cũng đồng ý với quan điểm trên.

Ông đã kiếm được nhiều tiền sau khi bán một công ty vận tải vào cuối những năm 90. Thế nhưng điều mà ông rút ra được, đó là “tiền chỉ mua sự thoải mái”.

“Sự thoải mái không tạo nên hạnh phúc hay sự mãn nguyện. Tôi cảm thấy trống trải suốt nhiều năm trời. Dù sống thoải mái là điều tốt, nhưng hạnh phúc sẽ mang lại cho bạn cảm giác trọn vẹn”.

Sự giàu có cũng làm lộ ra bản chất của con người, ông Paul Buchheit nhận định.

“Nói chung nó khắc đậm hơn những tính cách mà một người đã sở hữu,” ông nói.

“Nếu bạn là một kẻ đáng ghét, việc trở nên giàu có sẽ khiến bạn trở nên đáng ghét hơn”.

“Thế nhưng nếu bạn là người sống có mục đích và muốn lẽ sống của mình không chỉ đơn thuần là chạy theo đồng tiền, thì sự giàu có sẽ giúp bạn có thêm khả năng để theo đuổi ước mơ của mình”.


Liệu vật chất có làm nên hạnh phúc? Liệu vật chất có làm nên hạnh phúc?

Sống với thực tế

Khía cạnh tiêu cực của sự giàu có đôi lúc có thể áp đảo những điều tích cực.

“Có lẽ khi nghe ai nói như vậy, bạn sẽ nghĩ họ nói dóc, vì bạn nghĩ người ta không có quyền than thở vì sự giàu có của mình,” một người ẩn danh, vốn đã kiếm được 15 triệu đôla sau khi bán một công ty công nghệ, nói.

“Nếu như bạn là người giàu có, bạn không có quyền được biểu lộ những bức xúc hay nhu cầu của mình trước công chúng. Người ta không nhìn bạn giống như một người thường”.

“Sự giàu có cũng làm ảnh hưởng đến mối quan hệ với bạn bè và gia đình. Người ta bắt đầu trông đợi được hưởng lợi từ bạn, và bạn bắt đầu tự hỏi liệu người ta có quý mến bạn thực sự, hay chỉ đến vì tiền”.

“Nếu bạn còn độc thân, việc biết được ai đó tìm đến với mình vì bản thân mình hay vì tiền còn khó khăn hơn”.

Thế nhưng phần lớn những người khác đều cho rằng sự giàu có mang lại nhiều lợi ích.

“Có nhiều tiền vẫn tốt hơn, nhưng có điều chắc chắn là sự giàu có không phải tuyệt vời như nhiều người tưởng tượng”, người này nói thêm.

Christopher Angus, một người kiếm nhiều tiền sau khi bán bốn công ty do mình thành lập, nói “tôi thà có tiền hơn là không. Bảy năm qua, tiền bạc đã cho tôi sự thoải mái và trải nghiệm mà người khác không thể có được trong cả cuộc đời.”

“Ví dụ như tôi đã đi nghỉ mát 25 lần trong một năm và đã xài hết 20 nghìn đôla chỉ trong một tối thứ Bảy”.

2015/01/img_6880.jpg

Sự cô lập

Thế nhưng sự giàu có cũng khiến cho tiêu chuẩn của bạn tăng lên.

“Ban đầu bạn lái một chiếc Audi hoặc ăn trong một nhà hàng sang trọng”.

“Nhưng sau đó bạn bắt đầu quen với điều đó và bắt đầu trông đợi vào những thứ ở tầm cao hơn, và những thứ dưới mức đó sẽ không làm bạn hứng thú nữa”.

Sự thoải mái không làm nên hạnh phúc hay sự mãn nguyện

(Doanh nhân Morat Morrison)
Angus, một người từng có nhiều tiền hơn nhu cầu khi chỉ mới 20 tuổi, nói cảm giác chán ngán đến với ông rất sớm.

“Tôi cảm thấy việc có đủ tiền cho gần như tất cả mọi thứ vật chất đã khiến tôi mất hết hứng thú và động lực để đạt được những điều mình từng mong ước trước khi trở nên giàu có.”

“Một chiếc Porsche và những thứ khác không còn đáp ứng nhu cầu của tôi nữa. Ba năm sau đó tôi mua 5 chiếc Porsche và những chiếc xe thể thao khác,” Angus nói.

Tôi trở nên nghiện ngập những thứ chỉ có giá trị hình thức để thu hút sự chú ý và khiến người ta muốn giao du với mình chỉ vì những gì tôi có và những gì tôi có thể mang lại cho họ.”

Một người giàu có khác, với khối tài sản hơn 20 triệu đôla, nói với điều kiện ẩn danh rằng “tôi đã luôn muốn trở nên giàu có và thực tế tôi đã đạt được giấc mơ đó.”

“Nhưng giờ đây tôi cảm thấy dường như nó không giống những gì tôi tưởng tượng”.

“Có lẽ con người ta cần tiến tới sự giàu có một cách chậm rãi hơn để có thể làm việc và sống lành mạnh hơn”.

“Tất nhiên là một khi đã giàu có thì khó mà từ bỏ nó. Bạn sẽ muốn được như vậy mãi mãi”.

Maria Atasanov

Posted by Việt Anh
http://thanhnientudo.com

CHÚ CHÓ TRUNG THÀNH

CHÚ CHÓ TRUNG THÀNH

Khổng Văn Đương

Hồi tôi mới độ 15 tuổi, bố tôi mang về một con chó đực. Con chó có bộ lông trắng, đôi mắt màu nâu đen rất đẹp. Năm đó mất mùa đói kém, gia đình tôi phải thường xuyên ăn độn khoai sắn. Lạ lùng thay, con chó này cứ lớn phổng phao, mượt mà. Nó phải nặng đến 15kg. Cũng như nhiều gia đình khác, những con chó nuôi đều không được đặt tên. Nó là loài vật, nên vô danh !  Mỗi lần muốn gọi, chỉ cần:  “Êu, Êu” là nó xuất hiện, ve vẩy đuôi, miệng rít lên những tiếng như tiếng rên, rất dễ thương ! Thường ngày, khi không có ai cần đến, nó nằm khoanh tròn trong gậm giường, đầu hướng ra phía cửa. Có khách lạ, nó sủa lên vài tiếng báo hiệu. Còn là người quen thân, nó vùng dậy, xông ra, vẫy đuôi rối rít và kêu lên mừng rỡ.
Từ ngày mua được con chó này, nhà tôi như được bình an hơn. Cha tôi quý con chó lắm. Mùa đông giá rét, ông lấy một chiếc bao tải quấn quanh mình, giữ ấm cho nó. Những ngày hè nóng nực, ông mang nó ra ao tắm cho sạch lông. Nhà tôi nghèo như thế, vậy mà đôi khi ông vẫn đi đâu đó tìm được một khúc xương mang về cho nó gặm. Con chó rất quyến luyến cha tôi, suốt ngày luẩn quẩn bên ông.

Một hôm có hai người khách lạ đến nhà tôi hỏi mua chó. Họ nói, họ ở làng bên cạnh, cách làng tôi một cánh đồng. Ngày mai gia đình họ có đám giỗ, cần một con chó để thịt! Cha tôi nghe vậy không muốn bán, nhưng gia cảnh nhà tôi lúc đó rất nghèo. Cả cha mẹ và bốn anh em tôi, mặc dù bữa ăn phải độn nhiều khoai sắn nhưng không ngày nào thật sự được ăn no. Mẹ tôi bàn với cha tôi lâu lắm. Nếu tiếp tục nuôi thì không còn gì để cho nó ăn, dù rằng con chó vô cùng dễ ăn. Nó có thể ăn vài cọng rau thừa, dăm bảy cái vỏ khoai lang, mấy cái xương lõi sắn, vài hạt cơm rơi vãi quanh mâm hoặc bất cứ cái gì có thể ăn được mà con người cho phép. Tuy nhiên, nuôi nó cũng như thêm một miệng ăn nữa. “Người chẳng có mà ăn, lấy đâu ra cơm nuôi nó mãi ?” – Mẹ tôi bảo thế.
Có một điều rất lạ là khi cả cha và mẹ tôi miễn cưỡng đồng ý bán con chó, thì tự nhiên nó chạy biến đi đâu mất! Không lẽ con chó này hiểu được tiếng người ?  Chúng tôi chia nhau đi tìm mọi xó xỉnh, xung quanh nhà, thậm chí sang cả nhà hàng xóm, nhưng bặt vô âm tín. Cho đến khi cha tôi nước mắt lưng tròng, lên tiếng gọi, thì từ trong đống rơm ở phía sau chuồng lợn nó chui ra !  Người ta lấy cái chày giã gạo chẹn cổ nó xuống, trói mõm và bốn chân nó lại. Con chó tội nghiệp kêu rên ư ử, hai mép nó sùi bọt. Cha tôi ôm lấy nó, khóc. Nhìn bộ dạng cha tôi, thương lắm. Tôi liên tưởng đến lão Hạc, một nhân vật của nhà văn Nam Cao khi phải bán cậu Vàng !…

Người ta trả tiền cho mẹ tôi và dùng đòn ống khiêng nó đi. Cha tôi buồn bã lên giường nằm, tay trái vắt ngang qua trán, tay phải để lên bụng và thở dài thườn thượt… Chiều hôm đó ông bỏ ăn. Một bát cơm và đĩa khoai phần ông vẫn còn nguyên trong trạn. Mẹ tôi bảo, nó chỉ là một con chó, việc gì phải tiếc quá như vậy ?  Nếu muốn, lại sẽ mua con khác về nuôi ! Cha tôi không nói gì, cứ nằm im như người bệnh nặng…

Đêm hôm đó trời tối đen như mực. Cả nhà tôi đã ngủ yên, chỉ một mình cha tôi thao thức. Thỉnh thoảng ông trở dậy, bật diêm hút thuốc. Rồi ông nằm xuống thở dài, trằn trọc, quay ra, lật vào, ngao ngán. Tâm trạng ông nôn nao, buồn phiền như tiếc nuối một vật gì đã mất đi, quý lắm… Vào khoảng 2-3 giờ sáng, cha tôi là người đầu tiên phát hiện những tiếng động rất lạ ở vách cửa. Cha tôi yên lặng lắng nghe. Không có nhẽ đêm đầu tiên không có con chó giữ nhà là đã có kẻ trộm ?  Mà nhà tôi có gì đáng giá để kẻ trộm phải rình mò ?  Nhưng chỉ một phút sau, linh tính báo cho ông biết, con chó đã trở về !  Nó cào mạnh vào cửa, kêu ư ử như cầu cứu. Cha tôi vồng dậy, kéo cửa ra. Con chó mừng rỡ nhảy sổ vào nhà. Mẹ tôi trở dậy thắp đèn. Tội nghiệp con chó. Cổ nó còn nguyên một vòng xích sắt có khóa, nối với đoạn dây thừng lớn đã bị nó cắn đứt kéo lê theo. Đầu và bụng nó ướt lút thút, bốn chân và đuôi dính đầy bùn. Nó đói quá, hai bên sườn xẹp lại, sát vào nhau. Cha tôi vội tháo vòng xích, lấy cái khăn rách lau khô lông và lau sạch bùn ở đầu, ở bụng, ở chân và đuôi nó, rồi vào trạn lấy bát cơm còn để phần ông từ hồi chiều hôm trước, trộn với một ít tương cho nó ăn. Lạ lùng thay, con chó đói gần chết, và lại lần đầu tiên được ăn một bát cơm ngon như thế, vậy mà nó ngước mắt nhìn cha tôi, như nghi ngờ và ngần ngại… Một lúc sau, nó mới cúi đầu xuống ăn một cách từ tốn. Cha tôi vuốt ve nó rất lâu, sau đó cho nó vào gầm giường. Ông lên giường nằm và một lúc sau ông đã chìm vào giấc ngủ bình thản và ngon lành.

Sáng hôm sau, mới tinh mơ hai người mua chó hôm trước quay trở lại nhà tôi. Con chó đánh hơi thấy trước nên nó trốn biệt. Cha tôi điều đình và trả lại tiền cho hai người mua chó. Cả nhà tôi đều hiểu rằng, dù có phải chết đói, cha tôi cũng không bao giờ bán con chó cho ai nữa.

Từ hôm đó chúng tôi để tâm chăm lo cho con chó nhiều hơn. Cha tôi, dù cả bữa cơm ông phải ăn khoai là chính (tiêu chuẩn mỗi người chỉ một bát cơm), song ông luôn dành cho con chó một nửa bát. Con chó hình như cũng hiểu được điều này. Nó trở nên nhút nhát hơn, cảnh giác hơn với mọi người. Nhưng với cha tôi, nó cứ luẩn quẩn bên chân ông. Khi ông ra đìa, nó luôn đi theo ông như hình với bóng. Còn những lúc ông đi làm xa, không cho nó đi theo thì nó ra đầu thềm nhà nằm ngóng ra cổng, chờ cho đến khi nào ông về, nó nhảy xổ ra, mừng rối rít rồi theo ông vào nhà !

Khoảng chừng hai năm sau, kinh tế gia đình tôi khá giả hơn trước. Con chó cũng lớn hơn, khỏe ra, mượt mà, rất đẹp. Nó luôn luôn theo sát cha tôi, không rời nửa bước. Vào một buổi trưa cuối mùa hè, cha tôi ra đìa để vớt bèo lục bình về làm phân xanh. Cái đìa này lầy bùn, cỏ và cây dại mọc dày đặc từ hàng trăm năm nay. Dưới gốc rễ cây đan quyện vào nhau như những tấm lưới thép, tạo thành những hang hốc sâu đầy bùn. Ở dưới đó, rất nhiều lươn và cá trê lưu cữu to bằng bắp chân người lớn. Đôi khi người ta còn bắt được cả rái cá, kỳ đà. Nhưng không một ai có thể tưởng tượng ra dưới cái đìa rậm rạp đó lại có một con trăn hoang to như một cây tre bương, dài cỡ 3 mét, sống lâu năm và chắc nó cũng đã ăn hết cả mấy tạ cá dưới đìa.

Hôm đó cha tôi lội dưới bùn vớt những đám bèo dày đặc vứt lên bờ. Đến gần gốc một cây vạy, ông nhìn thấy đuôi một con trăn lớn thò ra. Cha tôi quyết định bắt sống hoặc đánh chết con trăn này. Ông chộp lấy đuôi con trăn, đạp hai chân vào gốc vạy, kéo con trăn ra ngoài. Con trăn chống cự. Khi bị lôi ra khỏi hang, nhanh như một tia chớp, con trăn cong người cắn chặt vào bắp chân cha tôi. Ông ngã ra bờ đìa và kêu lên một tiếng sợ hãi. Ngay lúc đó con chó không kịp sủa một tiếng nào, nó nhảy bổ vào, cắn vào cổ con trăn và dính liền hàm răng vào đó, như không bao giờ muốn nhả ra nữa. Con trăn quật mình cuốn chặt lấy thân con chó. Chỉ bằng một cú núc, nó làm con chó gãy đôi xương song !  Mõm con chó vẫn cắn chặt vào cổ con trăn. Hai bên mép nó ứa ra hai dòng máu và ở lỗ hậu môn lòi ra một đống phân nhão !  Cha tôi đã ý thức được sự nguy hiểm, ông vớ lấy con dao quắm mang theo để chặt cây, nhằm vào đầu con trăn chém rất mạnh. Con trăn chỉ quằn quại được một lát, nó mềm nhũn ra và bất động. Cha tôi cứ để máu ở chân chảy ròng ròng, ông quay ra cố gỡ mõm con chó ra khỏi cổ con trăn và ôm chặt nó vào lòng. Nhìn thân mình con chó ướt sũng, bê bết bùn, mềm ẹo, mắt nhắm nghiền, cha tôi khóc. Ông nghĩ rằng nó đã chết. Cha tôi mang con chó về nhà, tắm, lau khô và để nó nằm vào một cái nong đặt ở cuối thềm. Ông bảo tôi đi tìm một cái thùng gỗ, đặt con chó vào và mang nó đi chôn. Khi cha tôi nhấc nó lên, định cho nó vào hòm thì đôi mắt nó mở hé ra và chớp. Cha tôi mừng quá, sai tôi đi tìm ông lang Tá về băng, bó nẹp cố định xương sống cho nó. Xong xuôi mọi việc, cha tôi mới thấy đau ở bắp chân. Ông ngồi xuống bậc thềm, để cho ông lang rửa sạch, sát trùng, bôi thuốc và băng bó vết thương.

Buổi chiều, ông bảo mẹ tôi nấu một nồi cháo gạo, rồi đập hai quả trứng gà vào quậy đều. Đây là một món ăn sang trọng để tẩm bổ mà gia đình tôi rất ít khi được ăn. Ông múc cháo ra tô, chờ nguội và vuốt ve dỗ dành cho con chó ăn. Nó nằm im, đôi mắt ướt nhìn cha tôi, nhưng không ăn một miếng nào. Cả xóm tôi đem con trăn ra làm thịt chia nhau, ai cũng khen con chó quá khôn, nhưng không ai tin rằng nó còn có thể sống thêm được vài ngày nữa. Nhiều người bảo mẹ tôi đem con chó ra mà thịt, kẻo để nó chết uổng phí của trời !  Chỉ riêng cha tôi không nghĩ thế. Ông luôn tin rằng con chó sẽ sống cùng ông, và nếu chẳng may nó chết, ông sẽ đem chôn nó như chôn một con người !

Khoảng hai tháng sau, với sự chăm sóc của cha tôi, con chó đã bình phục. Tuy nhiên vì xương sống của nó bị gãy nên hai chân sau hoàn toàn bị liệt. Mỗi lần đi, nó chỉ dùng hai chân trước chống xuống đất và lết trên đầu gối của hai chân sau. Điều làm cả nhà tôi ngạc nhiên, từ khi con chó đi được theo kiểu lê lết, nó chỉ gặp khó khăn trong khoảng một tháng đầu. Sau những ngày ấy, nó lết nhanh không kém gì những con chó bình thường.
Từ dạo đó, cha tôi cưng con chó như con. Một suất cơm đạm bạc và ít ỏi của ông, bữa nào cũng được chia làm đôi. Thảng hoặc, ngày nào có một hai miếng thịt, cha tôi cũng dành cho nó một phần. Con chó rất khôn, hình như nó biết tất cả mọi điều đang diễn ra xung quanh. Nó không bao giờ quấy rầy chúng tôi. Nhưng với cha tôi, nó quấn quýt, liếm láp chân tay, không muốn rời ra nửa bước. Ban đêm ông nằm ngủ, nó nằm dưới chân giường. Hình như chỉ như thế thì cả chó và người mới thấy yên tâm !.

Cuộc sống như vậy trôi đi. Cả nhà tôi luôn biết ơn con chó và gần như ngày nào cũng nhắc đến chuyện con trăn ! Cho đến tháng hai năm 1959, nhà tôi có đại tang. Cha tôi bị một cơn bạo bệnh rồi qua đời ! Tôi còn nhớ như in, hôm đưa ma cha tôi, trời mưa tầm tã, rét lắm, nhưng người đi đưa rất đông. Anh chị em, chú bác, cô dì, dòng họ ai cũng khóc như mưa. Không mấy ai để ý trong dòng người đông đúc đó, con chó liệt cũng có mặt. Nó ướt lút thút như chuột lột, rét run lẩy bẩy, cố lết trên đôi chân liệt, len lỏi giữa dòng người than khóc sướt mướt trong đám tang. Không ai hình dung ra được con chó liệt đó có thể đi theo đám tang ra tận nghĩa địa, nơi chôn cất cha tôi, và sau đó bằng cách nào nó lại tự lê lết về nhà ?  Chỉ đến khi trời tối mịt, thắp đèn lên, mới tìm thấy nó nằm sâu trong gầm giường, bộ lông hãy còn ẩm ướt và đôi mắt buồn rầu khó tả, cứ nhìn đi đâu đó, như hướng về một cõi nào mơ hồ nhưng ở đâu xa lắm…

Sáng hôm sau, cúng cơm cho cha tôi xong, chúng tôi gọi chó ra cho nó ăn. Không còn thấy nó nằm trong gầm giường nữa. Nó đã lết ra đầu thềm tự khi nào, nằm quay đầu ra cổng ngóng chờ xem một ngày nào đó liệu cha tôi có trở về ?  Tôi bế nó vào nhà, vỗ về và dỗ dành cho nó ăn, nhưng tuyệt nhiên nó không đụng vào bất cứ thứ gì. Tôi đem mấy miếng thịt lợn luộc, những thứ mà ngày thường nó vô cùng thích ăn. Nó quay đầu ra chỗ khác. Tôi đặt nó trở lại gầm giường. Nó không chịu nằm yên, lại lết ra đầu thềm, nằm ngóng ra cổng, kiên trì chờ đợi và im lặng như một mô đất.

Sau hơn một tuần lễ con chó nhịn ăn như thế, nó gầy rạc đi. Cả nhà bận cúng tuần cho cha tôi, nhưng ngày nào tôi cũng để tâm và dỗ dành, hy vọng nó ăn lấy một chút. Nhưng nó không màng.

Rồi một buổi sáng tinh mơ, trời còn đầy sương và se se lạnh, chúng tôi ra nghĩa trang thắp nhang và đặt tấm bia đá trên mộ cha tôi. Tất cả mọi người đều kinh ngạc đến mức không còn tin ở mắt mình :  Con chó liệt đã nằm chết trên mộ cha tôi tự bao giờ, hai chân trước chồm lên ôm lấy ngôi mộ, hai chân sau bại liệt như đang quỳ, cơ thể nó đã cứng đơ, đôi mắt nhắm nghiền, thanh thản, nhưng dường như còn hơi ươn ướt…
Chúng tôi trở về nhà đóng một cái hòm gỗ, khâm liệm con chó tử tế và chôn nó dưới chân mộ cha tôi… Tôi cắm mấy nén nhang lên ngôi mộ nhỏ bé này, lòng miên man nghĩ ngợi :  Không biết giờ này linh hồn cha tôi đang phiêu diêu bên trời Tây cực lạc, Người có biết con chó đầy ân tình và tội nghiệp của Người đã mãi mãi đi theo Người…

Khổng Văn Đương

Dương Phong gời

TÔI CHẾT RỒI XIN HÃY ĐỂ TÔI YÊN

Lời mẹ Nguyễn Thị Thứ ( 1904-2010) gửi bức tượng đá “MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG” mang tên mình :

thanhnientudo /


TÔI CHẾT RỒI XIN HÃY ĐỂ TÔI YÊN

Thơ Trần Mạnh Hảo

Sao các ông nỡ biến tôi thành bức tượng đá pháo đài bay B-52
Cả đời tôi bị máy bay này rải thảm
Chồng tôi và chín người con trai tử trận
Hai con rể một cháu ngoại hi sinh

Tôi chưa đủ đớn đau hay sao, còn làm tội làm tình ?
Còn biến tôi thành pháo đài bay hung ác
Sao lại biến tôi thành con nhân sư Ai Cập
Tôi chết rồi không vồ được ai đâu…

Hãy chôn cất tôi đừng để ló cái đầu
Tôi có tội gì đâu mà chôn sống tôi vào núi
Cả đời chôn cất chồng con, đầu tôi lặng cúi
Sao lại tạc mặt tôi hãnh tiến dường này ?

Tôi thuần Việt mà, đâu có lai Tây
Sao gương mặt tượng tôi y chang bà mẹ Mỹ ?
Cả đời tôi đói nghèo nuôi chiến sỹ
Hãy trả bốn trăm mười một tỉ đồng lại cho dân
Số tiền đó dùng chôn tôi vào trùng trùng đá xám
Ôi Mẹ Việt Nam, tôi đâu dám
Mẹ bốn nghìn năm, tôi mới có trăm năm

Tôi đã chết rồi trong đất mẹ yên nằm
Xin đừng bêu đầu tôi trên đá biếc
Đừng bắt tôi làm anh hùng khi đã chết
Anh hùng nằm trong mộ lại hi sinh

Tôi chỉ còn nắm xương thôi, xin hãy thương tình

Trong tĩnh lặng, xin Phật Trời siêu thoát…

Sài Gòn ngày 16-03-2015

T.M.H.