GIẢI THƯỞNG NOBEL HÒA BÌNH NĂM 2014

GIẢI THƯỞNG NOBEL HÒA BÌNH NĂM 2014

Trầm Hương Thơ

12/10/2014

Sự vinh dự dành cho 2 nhân vật nổi tiếng tranh đấu cho quyền lợi của trẻ em đến từ Ấn Độ và Pakistan.

Giải thưởng Nobel Hòa bình năm nay 2014 đã được trao tặng cho cô nữ sinh Malala Yousafzai 17 tuổi đến từ Pakistan, và ông Kailash Satyarthi 60 tuổi đến từ Ấn Độ. Cả hai đều là những nhân vật nổi tiếng thế giới chống lại sự áp bức bóc lột trẻ em lao động, và quyền được hưởng sự giáo dục từ học đường.

Giải Nobel Hòa bình năm nay 2014 vừa được ông Thorbjorn Jagland, Chủ tịch Hội đồng Nobel Na Uy, công bố lúc 11h sáng nay theo giờ Âu Châu. ngoài vinh dự trên còn kèm theo 1,1 triệu USD.

Ông Thorbjørn Jagland chủ tịch Ủy ban Nobel Na Uy nói chúng tôi nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục đối với trẻ em. Sáu mươi phần trăm dân số thế giới hiện nay là người trẻ dưới 25 tuổi.

“Ủy ban rất quan tâm tới sự phát triển toàn cầu cho hòa bình và quyền của trẻ em và thanh thiếu niên phải được tôn trọng” . Nhất là ở các khu vực xung đột dẫn đến việc vi phạm quyền trẻ em nghiêm trọng, và nếu không có hòa bình thì nó sẽ tiếp diễn từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Cô gái Malala Yousafzai.

– Cô Yousafzai, sinh năm 1997, đã từng là ứng cử viên sáng giá cho giải Nobel Hòa bình năm ngoái. Cô bị phe Taliban bắn trọng thương ở đầu vào tháng 10-2012 trên một chiếc xe bus vì tranh đấu đòi quyền cho các em gái được hưởng sự công bằng về giáo dục học đường.

Với giải thưởng này, Yousafzai, 17 tuổi, trở thành người trẻ tuổi nhất từ trước tới nay nhận được giải Nobel.

– Satyarthi, 60 tuổi, vô cùng can đảm khi dẫn đầu các đoàn biểu tình chống sự khai thác lao động trẻ em ở Ấn Độ.

“Ông Kailash Satyarthi người nổi tiếng tranh đấu cho sự phát triển quyền của trẻ em cho hợp với công ước quốc tế.”

Ông đã tranh đấu trong nhiều năm trời chống lại việc lao động trẻ em ở Ấn Độ. Ông đã thể hiện lòng dũng cảm tuyệt vời! Đã tổ chức các cuộc biểu tình theo sự truyền thống của Mahatma Gandhi, và nhiều cách khác nhau đối với việc khai thác bóc lột sức lao động của trẻ em cho các mục tiêu kinh tế. Ông cũng đã góp phần rất nhiều vào sự phát triển của quyền trẻ em với quốc tế. Những nỗ lực không mệt mỏi của ông từ những năm 1980. Ông thành lập tổ chức “Bachpan Bachao Andolan” tạm gọi là: “Phong trào để cứu tuổi thơ” Nhiều lần ông đã xông vào các nhà máy, để giải thoát các trẻ em bị bắt làm việc qúa cực nhọc. Ông đã vận động không mệt mỏi để có luật cấm lao động trẻ em trong ngành công nghiệp dệt thảm.

Ông cũng đã nhận được nhiều giải thưởng cho những nỗ lực tranh đấu của mình. Điển hình vào năm 1994 với giải thưởng Hòa bình ở Aachen. Năm 1999 với giải thưởng Nhân quyền của Friedrich-Ebert-Stiftung.

Đây là lần đầu tiên mà một người Ấn Độ đã giành được giải thưởng Nobel Hòa bình ..”

Giải thưởng Nobel Hòa bình được trao hàng năm kể từ năm 1901 của Ủy ban Nobel Na Uy ở Oslo. Có 278 ứng viên đã được đề cử cho giải Nobel Hòa bình năm 2014 – nhiều hơn tất cả những ứng cử viên từ trước tới nay. Trong số các đề nghị gồm cả 47 tổ chức.

Thanh Sơn 10.12.2014
Lược dịch từ Spiegel online Politik

Việt Nam từ chối hàng ngàn xe và người Trung Quốc vào du lịch

Việt Nam từ chối hàng ngàn xe và người Trung Quốc vào du lịch

Nguoi-viet.com
HÀ NỘI (NV) – Sau 15 ngày bàn thảo giữa các bên liên quan, chiều 15 tháng 12, Bộ Giao Thông Vận Tải đã ra thông báo chính thức không đồng ý tiếp nhận đoàn xe du lịch tự lái của Trung Quốc quá cảnh vào Việt Nam với lý do “Không đủ điều kiện để bảo đảm an toàn và an ninh cho đoàn xe…”

Trong 11 tháng đầu năm 2014, có 1,8 triệu lượt khách Trung Quốc du lịch Việt Nam.
(Hình: Tuổi Trẻ)

Trước đó, nhà cầm quyền Việt Nam đã rất lúng túng không biết giải quyết thế nào khi thành phố Bằng Tường, Trung Quốc yêu cầu được đưa cả ngàn chiếc xe và người vào du lịch khắp nơi.

Tờ Tuổi Trẻ đưa tin, ngày 1 tháng 12, Bộ Công Thương Việt Nam nhận được phúc trình từ Bộ Giao Thông Vận Tải đề nghị góp ý về việc chính quyền thành phố Bằng Tường, Trung Quốc đề nghị cấp phép cho khoảng 1,000 xe tải và 1,500 người vào du lịch tại Việt Nam và quá cảnh sang các nước ASEAN, nhân dịp hội chợ thương mại Việt Nam-Trung Quốc tổ chức luân phiên giữa thành phố Bằng Tường và Lạng Sơn.

Theo phúc trình của chính quyền thành phố Bằng Tường, 1,000 xe Trung Quốc sẽ vào Việt Nam rồi chia thành bảy tuyến tỏa ra đi du lịch gần như khắp Việt Nam, trong đó có những đoàn xuyên Việt, tới khắp các thành phố lớn.

Cụ thể, có tuyến sẽ chỉ đi từ Lạng Sơn về Hà Nội rồi ra Vịnh Hạ Long, có tuyến tới Ninh Bình, Vinh. Một số tuyến đi dài từ Lạng Sơn đến Đà Nẵng, có tuyến đi tới Hội An, Nha Trang, Vũng Tàu, Bình Thuận, Sài Gòn… Ngoài ra, có tuyến sẽ quá cảnh Việt Nam sang Lào, Campuchia. (Tr.N)

Đừng biến nước ta thành nhà nước cảnh sát

Đừng biến nước ta thành nhà nước cảnh sát

Chuacuuthe.com

VRNs (16.12.2014) – anhbasam-  Nước ta vốn là nước nhân nghĩa, đừng biến nước ta thành Nhà nước cảnh sát!

Tin tức gần đây cho biết nhiều trang mạng bị cấm, bị phá, dồn dập nhiều chủ trang mạng bị bắt, bị cầm tù: Phạm viết Đào, Nguyễn hữu Vinh, Nguyễn thị Minh Thúy, Hồng lê Thọ, Nguyễn quang Lập dù đương bị tật nguyền. Người ta bắt họ không phải để bảo vệ độc lập chủ quyền, vì chính họ đăng những bài chống TQ xâm lấn nước ta, làm hại nước ta. Họ phản đối TQ lũng đoạn nước ta về kinh tế, chi phối nước ta về chính trị, uy hiếp nước ta về quân sự và chuẩn bị chiếm trọn biển Đông trong đó có các quần đảo của chúng ta, có lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta.

P1110805

Ông Nguyễn Trọng Vĩnh (1916) là thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam và là đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc từ năm 1974 đến 1987.

Các bài đăng trên các trang mạng nêu lên những yêu cầu gì, phản đối gì, phê phán gì?

Nêu yêu cầu Đảng CS độc tài toàn trị tự chuyển biến thành Đảng CS dân chủ để dân tin thì có tội gì? Vì dân thì dân theo, chống dân thì dân chống là lẽ thường. Yêu cầu đa đảng thì có tội gì? Nước ta trước đây đã gừng có đa đảng mà Đảng Lao động Việt Nam vẫn giữ được vị trí lãnh đạo. Yêu cầu tam quyền phân lập mà các nước văn minh tiến bộ trên thế giới đều thực hiện ghì có tội gì? Yêu cầu được hưởng các quyền công dân ghi trong Hiến pháp và hợp với Công ước Nhân quyền quốc tế thì có tội gì?

Các trang mạng phản đối đàn áp biểu tình yêu nước, phản đối cho TQ vào Tây Nguyên khai thác boxit, thuê dài hạn nhiều điểm xung yếu về an ninh quốc phòng: Vũng Áng, Cửa Việt, Kỳ Anh, đèo Hải Vân… Phản đối việc cho TQ trúng thầu nhiều công trình với thiết bị lạc hậu, để ngưuuời TQ nhập cảnh và cư trú trái phép, phản đối cưỡng chế lấy đất của nông dân vì lợi ích cá nhân và lợi ích nhóm là chính đáng, đâu phải là chống lại chủ trương của Đảng. Chính tình trạng tham nhũng tràn lan từ dưới lên trên, “không ít cán bộ đảng viên thoái hóa biến chất” làm cho Đảng suy thoái, cùng với đường lối sai lầm bảo thủ làm cho đất nước tụt hậu, kiệt quệ, nước yếu dân nghèo là tự đánh mất lòng tin của dân đối với Đảng chứ đâu phải các trang mạng bịa đặt bôi xấu làm mất uy tín của lãnh đạo.

Sẵn quyền lực trong tay, bất chấp Hiến pháp, bất chấp luật pháp, muốn bắt ai thì bắt, rồi gán cho họ tội “chống Nhà nước” theo Điều 258 rất mơ hồ, tội “chống chế độ XHCN”. Chế độ XHCN ở LX, Đông Âu đã lỗi thời, phá sản rồi, chế độ XHCN ở Việt Nam dựa trên cơ sở nào, có nội dung gì mà buộc người ta “chống chế độ”?!

Đám tang ông Trần Lâm nguyên cán bộ cao cấp Viện Kiểm sát, người ta đem vòng hoa đến viếng, công an cũng giật băng và ngăn cản không cho nhiều người đến viếng; những người thân quen nhau, rủ nhau đi liên hoan, công an cũng theo dõi, cũng phá; ngày X, ngày Y, công an cũng đến gác cửa các “đối tượng nguy hiểm” không cho ra khỏi nhà. Cứ thế này thì hình ảnh Việt Nam ta không lấy gì làm đẹp đẽ dưới con mắt thế giới. Con mắt công an nhìn đâu cũng thấy “phần tử nguy hiểm”, nhìn đâu cũng thấy “phản động”. Lực lượng Công an ăn lương của dân luôn ở tư thế sẵn sàng trấn áp. Có người nói Nhà nước này đương trở thành “Nhà nước cảnh sát”.

Người ta thường rêu rao rằng các lực lượng chống đối tiếp tay cho “Đảng Việt Tân”, cho diễn biến hòa bình của Mỹ (tưởng tượng!) Mà không thấy sự thật là chính nhà cầm quyền TQ dương diễn biến vừa hòa bình vừa không hòa bình nước ta thành thuộc quốc của họ.

Đảng CS độc tài toàn trị chuyển biến thành Đảng CS dân chủ, đoàn kết toàn dân tộc, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ đề ra đường lối chính sách hợp lòng dân và hợp với sự phát triển của đất nước, về đối ngoại, giữ mối quan hệ hữu nghị với TQ cũng được nhưng không ngả hẳn vào vòng tay của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, đồng thời phát triển đối tác chiến lược với cả Mỹ, tạo sự gắn kết hơn nữa trong khối Asean.

Đó là con đường ích nước lợi dân, hòa bình, êm thấm, không có xung đột đổ vỡ.

Nguyễn Trọng Vĩnh

14-12-2014

https://anhbasam.wordpress.com

Bắn cả gia đình vợ vì vợ đòi li dị

Bắn cả gia đình vợ vì vợ đòi li dị

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Kẻ gây ra vụ nổ súng kinh hoàng tại quận Thanh Xuân bắn trọng thương vợ, mẹ vợ, em vợ và tài xế taxi do tức giận vì bị vợ đòi li dị đã bị công an bắt giữ.

Nguyễn Anh Tuấn cùng tang vật vụ án. (Hình: Thanh Niên)

Theo báo Thanh Niên, tối 14 tháng 12, phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, công an Hà Nội, cho biết, đã bắt giữ Nguyễn Anh Tuấn (36 tuổi), trú tại tổ 3, khu 6, phố Bùi Xương Trạch, phường Khương Đình, quận Thanh Xuân, người nổ súng bắn trọng thương 4 người vào đêm 10 tháng 12 để điều tra về hành vi “Giết người” và “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng.”

Cụ thể, vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 10 tháng 12, tại phố Bùi Xương Trạch, đã xảy ra vụ nổ súng.

Các nạn nhân là bà Hoàng Thị Nhi (62 tuổi), mẹ vợ ông Tuấn; Lê Thị Huệ (36 tuổi), vợ ông Tuấn; em Lê Xuân Nam (17 tuổi), em vợ Tuấn và ông Ngô Công Hùng (31 tuổi), trú ở Đặng Xá, Gia Lâm là tài xế taxi.

Vào thời điểm trên, ông Tuấn xảy ra cãi vã, va chạm với mọi người trong gia đình nên đã mang súng ra bắn vào mọi người trong nhà.

Sau khi bắn hàng loạt đạn vào những người thân nhà vợ, ra đến đầu ngõ ông Tuấn gặp ông Ngô Công Hùng đang lái xe taxi đến nhà ông Tuấn theo yêu cầu của người dân để đưa người bị nạn đi cấp cứu, thì liền bị ông này rút súng bắn. Sau đó ông Tuấn bỏ trốn.

Đến đêm 13 tháng 12, công an phát hiện và bắt được ông Tuấn đang lẩn trốn trên đường Nguyễn Tất Thành, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.

Khám người ông Tuấn, cơ quan công an thu giữ một khẩu súng Colt, 1 băng đạn có 6 viên và 29 viên đạn.

Tại cơ quan điều tra, ông Tuấn khai nhận do mâu thuẫn với gia đình nhà vợ và vợ từ hơn 1 năm trở lại đây và đã nhiều lần vợ ông Tuấn đòi li dị nên đã nảy sinh ý định trả thù.

Để làm điều này, ông Tuấn đã lên Lạng Sơn mua súng, đạn với mục đích giết vợ và mọi người. (Tr.N)

ÔNG GIÀ NOEL KHÔNG MẶC ÁO ĐỎ

ÔNG GIÀ NOEL KHÔNG MẶC ÁO ĐỎ

Tôi ngồi phành chân trên ghế trước trong xe Pontiac cũ của chúng tôi, bởi vì đó là cách ngồi hay nhất dành cho một đứa trẻ lớp bốn.  Ba tôi lái xe vào thành phố để mua sắm, còn tôi chỉ đi theo chơi.  Đó là lý do tôi nói với ông.  Thật ra, tôi có một vấn đề quan trọng cần hỏi ông, mà vấn đề đó cứ lởn vởn trong đầu tôi mấy tuần nay.  Tôi bắt đầu lên tiếng:
– Ba à…
Tôi ngập ngừng. Ông không quay sang nói:
– Gì vậy?
– Dạo này, mấy đứa bạn trong trường con thường bàn tán về một điều mà con biết là không đúng…
Tôi cảm thấy môi dưới mình run rẩy vì phải cố kìm lại những giọt nước mắt chỉ trực trào ra.
– Chuyện gì vậy, Punkin?
Tôi biết tâm trạng ông đang vui khi ông dùng cách gọi thân mật như vậy để gọi tôi.
– Tụi nó nói là không có ông già Noel.
Một giọt nước mắt bên phải trào ra.  Tôi ấm ức nói tiếp:
– Tụi nó nói con ngốc lắm mới tin là có ông già Noel…  Chuyện đó chỉ dành cho con nít.
Một giọt nước mắt bên trái lăn nhanh xuống má. Tôi sụt sùi:
– Nhưng con tin những gì ba đã nói với con.  Ông già Noel là có thật.  Phải không ba?
Ba tôi dịu dàng nói:
– Patty, bọn trẻ ở trường con sai rồi.  Ông già Noel có thật.
Tôi thở ra một hơi nhẹ nhõm:
– Con biết ngay mà!
– Nhưng ba cần nói thêm về ông già Noel với con. Ba nghĩ giờ đây con đã đủ lớn để có thể hiểu những gì ba sắp chia sẻ với con. Con sẵn sàng chưa?

Nét mặt ba tôi dịu dàng hẳn, và ánh mắt của ông thật ấm áp.  Tôi biết sắp có một chuyện quan trọng, và tôi sẵn sàng vì tôi hoàn toàn tin tưởng nơi ông.  Ba tôi sẽ không bao giờ nói dối tôi.

– Ngày xưa có một người đàn ông thường chu du khắp nơi trên thế giới.  Đi tới đâu, ông ấy cũng tặng quà cho những đứa trẻ mà ông thấy là xứng đáng.  Con sẽ tìm thấy ông ấy ở nhiều vùng đất khác nhau với nhiều tên khác nhau.  Ông ấy là tinh thần của yêu thương vô điều kiện, và ông ấy mong muốn chia sẻ yêu thương bằng cách tặng những món quà từ trái tim.  Khi con đến một độ tuổi nào đó, con sẽ biết ông già Noel thật sự không phải là người chui qua ống khói nhà con đêm trước Giáng Sinh.  Cuộc đời thật và linh hồn thật của vị thần tiên này sống mãi trong lòng con, trong lòng ba, trong lòng mẹ, trong lòng – cũng như trong tâm trí – của tất cả những ai tin vào niềm vui mà chúng ta tặng cho người khác.  Tinh thần thật sự của ông già Noel nằm trong điều con cho đi, chứ không phải điều con nhận được.  Một khi con hiểu và chấp nhận khái niệm này, Giáng Sinh càng thêm lý thú và kỳ diệu, vì con biết phép lạ xuất phát từ tâm hồn con, khi ông già Noel sống trong trái tim của con.  Con có hiểu những lời ba muốn nói với con không?

Tôi nhìn chằm chằm ra ngoài khung cửa, tập trung vào một thân cây phía trước mặt.  Tôi sợ phải nhìn ba tôi – người mà lúc nào cũng đoan chắc với tôi rằng ông già Noel là có thật.  Tôi chỉ muốn tin như hồi năm ngoái tôi đã tin – ông già Noel là một vị thần tiên to lớn, mập mạp, mặc bộ đồ đỏ.  Tôi không muốn nuốt vào viên thuốc làm người lớn và nhìn thấy mọi việc khác đi.

– Patty, con hãy nhìn ba.

Ba tôi yên lặng chờ đợi.  Tôi quay đầu lại nhìn ông.

Ba tôi cũng đang khóc – nước mắt của vui sướng.  Nét mặt ông rạng rỡ bởi ánh sáng của hàng ngàn thiên hà, và trong đôi mắt ông, tôi thấy đôi mắt của ông già Noel.  Ông già Noel thật sự.  Là người bỏ nhiều công sức lựa những món quà đặc biệt mà tôi muốn trong tất cả những dịp Giáng Sinh. Là người sẵn sàng ăn phần cà rốt mà tôi bỏ lại cho con chó Rudolph.  Là người – dù không có kỹ năng – vẫn ráp xe đạp, ráp cỗ xe ngựa, và những thứ linh tinh khác cho tôi trong suốt buổi sáng của những ngày Giáng Sinh.

Tôi đã nhận được điều đó.  Tôi đã nhận được niềm vui, sự chia sẻ và yêu thương.  Ba tôi kéo tôi vào vòng tay ấm áp của ông, âu yếm ôm tôi thật lâu.  Hai cha con tôi cùng khóc với nhau.

Ba tôi nói tiếp:

– Bây giờ thì con thuộc về một nhóm người đặc biệt.  Kể từ giây phút này, mỗi ngày trong năm, con sẽ chia sẻ niềm vui Giáng Sinh với mọi người.  Vì giờ đây, ông già Noel đang sống trong tâm hồn con như ông ấy đang sống trong tâm hồn ba.  Trách nhiệm của con là thực hiện trọn vẹn tinh thần trao tặng.  Đây là một trong những điều quan trọng nhất có thể xảy ra trong suốt cuộc đời con, vì bây giờ con biết ông già Noel không thể tồn tại nếu như không có những người như con và ba – luôn giữ cho ông ấy sống mãi.  Con có thể thực hiện được điều này không?

Tâm hồn tôi tràn ngập niềm tự hào, và tôi chắc chắn ánh mắt tôi sáng rực lên vì xúc động.  Tôi nói:
– Được, thưa ba. Con muốn ông ấy luôn ở trong tim con, như ông ấy luôn ở trong tim ba.  Ba ơi, con yêu ba lắm.  Ba là ông già Noel tuyệt vời nhất trong đời con.

Khi đến lúc tôi phải giải thích sự hiện hữu của ông già Noel cho các con tôi biết, tôi cầu xin tôi có tài ăn nói và tình yêu thương như ba tôi vào ngày đã giúp tôi hiểu được ông già Noel không mặc bộ đồ màu đỏ.  Tôi hy vọng các con tôi cũng dễ dàng chấp nhận như tôi ngày đó.  Và tôi hoàn toàn tin tưởng nơi chúng.

Patty Hansen

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi

Tay súng Hồi giáo chết trong vụ Sydney

Tay súng Hồi giáo chết trong vụ Sydney

Tay súng Hồi giáo, cùng hai người khác, đã thiệt mạng sau khi đặc nhiệm Úc xông vào quán cà phê ở Sydney để giải cứu con tin.

Bốn người bị thương, trong đó có một cảnh sát.

Một người đàn ông 34 tuổi và một phụ nữ 38 tuổi, cùng thủ phạm, đã tử vong sau khi được đưa vào bệnh viện, cảnh sát New South Wales nói trong một tuyên bố.

Hai phụ nữ bị các vết thương không nguy hiểm tính mạng và một cảnh sát bị mảnh đạn văng vào mặt.

Một phụ nữ khác bị thương ở vai do trúng đạn.

Thủ phạm, một người tị nạn Iran, đã bắt giữ nhiều người.

Trung tâm thành phố Sydney đã bị phong tỏa sau khi tay súng bắt con tin vào sáng thứ Hai, bắt họ phải trưng biểu ngữ Hồi giáo trên cửa sổ quán cà phê Lindt.

Quán cà phê Lindt Chocolat nằm tại Martin Place, một khu trung tâm mua sắm tấp nập thuộc quận tài chính của Sydney.

Cảnh sát bang New South Wales nói đây chỉ là một vụ “riêng lẻ”.

Giới chức đã tìm thấy toàn bộ 17 con tin, gồm cả hai người đã chạy thoát trước đó.

Ông Man Haron Monis

Cảnh sát biết rõ về ông Man Haron Monis

Chiến dịch giải cứu

Lính đặc nhiệm đã xông vào quán cà phê ở Sydney, kết thúc cuộc cầm giữ con tin của một người đàn ông Iran kéo dài trong 16 giờ đồng hồ.

Vào lúc 9:45 sáng thứ Hai (22:45 GMT Chủ Nhật), cảnh sát được gọi tới quán Lindt Chocolat Cafe. Giả thiết ban đầu theo đó cho rằng đây là một vụ cướp có vũ trang đã nhanh chóng bị bác bỏ.

Tới 10:09, truyền hình Úc phát đi các hình ảnh cho thấy các con tin cầm biểu ngữ Hồi giáo màu đen giương lên cửa sổ và hình ảnh tay súng buộc khăn.

Tay súng người Iran được xác định là một người Iran tị nạn.

Người này đang được tại ngoại trong lúc đối diện nhiều tội danh về dùng vũ lực.

Man Haron Monis, người đã được Úc cấp quy chế tị nạn, được một luật sư cũ của ông ta mô tả là chỉ hành động một mình.

Ông Monis, tự gọi mình là giáo sĩ Hồi giáo, đang được tại ngoại trong lúc chờ xử về tội có liên quan vụ giết vợ cũ và đối diện hơn 40 cáo buộc liên quan sách nhiễu tình dục và dùng vũ lực.

Ông ta cũng từng bị kết tội vì gửi thư đe dọa cho gia đình các quân nhân Úc đã chết.

Thủ tướng Úc trước đó mô tả vụ bắt giữ con tin là ‘cực kỳ đáng lo ngại’.

Ông nói hiện chưa rõ kẻ nào đứng sau vụ việc và mục tiêu là gì nhưng cho biết các cơ quan thực thi pháp luật của Úc đã ‘được trang bị đầy đủ để đối phó’.

Phát biểu trong một cuộc họp báo, ông nói Ủy ban An ninh Quốc gia đã được báo cáo tình hình về kêu gọi người dân Úc vẫn tiếp tục cuộc sống hằng ngày nhưng phải cảnh giác.

Nỗi niềm bất hạnh

Nỗi niềm bất hạnh

Giới thiệu của Giao Chỉ, San Jose.

Thưa quý độc giả,

Bây giờ là cuối năm 2014. Chúng ta sắp bước vào năm thứ 40 trải qua 4 thập niên từ 1975 đến nay. Chia sẻ với đau thương của nhân loại, dân Việt đã có biết bao nhiêu câu chuyện về nỗi niềm bất hạnh. Trên mạng lưới điện toán hàng ngày chúng ta đã phải xóa đi tin tức sai lầm và những chuyện đánh phá tao lao nhưng đôi khi phải dừng lại để nghe những câu chuyện vui buồn có ý nghĩa. Xin chuyển đến các độc giả thân yêu của tôi một câu chuyện buồn. Cô gái thuyền nhân 18 tuổi bị hải tặc thảm sát toàn gia, bắt cô gái đi giam giữ riêng. Xin để quý vị đoc câu chuyện của cô gái thuyền nhân Việt Nam kể lại niềm bất hạnh với lời giới thiệu của người cha bất hạnh.

Xin cảm ơn cháu Thùy Nhiên đã viết lại tấn thảm kịch. Xin cảm ơn đại úy quân báo TTM Nguyễn Bá Quang đã giới thiệu tác phẩm của con gái. Xin cảm ơn các bạn đã chuyển cho tôi những câu chuyện tuy đau thương nhưng rất cần được kể lại cho thế hệ tương lai. Đây là một trong hàng ngàn câu chuyện và hình ảnh lưu trữ trong viện bảo tàng thuyền nhân. Sau này con cháu chúng ta sẽ biết được ông cha đã trải qua những đau thương ra sao để đến được miền đất tự do.

Cháu Thùy Nhiên và đại úy Quang, chúng ta hãy sống cho xứng đáng với những người đã trải qua niềm bất hạnh mà nay không còn nữa.

alt

BỌN HẢI TẶC VỊNH THÁI LAN

Đôi lời vào truyện: Tôi tên Nguyễn Bá Quang, là một sĩ quan QLVNCH cấp bậc Đại Úy thuộc đơn vị 101 P2/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Ở tù CSVN tại trại tù Tiên Lãnh, Quảng Nam, Đà Nẵng suốt hơn 12 năm. Qua Mỹ với diện HO.5 năm 1991. Hiện cư ngụ tại Reda, Califonia.

Trong thời gian tôi ở tù chưa được thả, gia đình vợ con tôi vượt biển tìm tự do tại Cà Mau tỉnh Minh Hải. Trong chuyến vượt biển hãi hùng ngày 22-2-1985 vợ và sáu người con trai của tôi đã bỏ xác trên biển cả vì bọn hải tặc làm đắm thuyền. Ngoài ra còn có cả nhạc phụ của tôi và các em vợ cùng các cháu đã chết một cách tức tưởi trên chuyến tàu đau thương ấy. Chỉ còn sống sót người con gái yêu thương của tôi tên Thùy Nhiên và dì ruột của cháu là Phạm Thị Sa.

Năm 1975 mất nước, con gái tôi mới có tám tuổi. Khi CS Bắc Việt chiếm miền Nam chúng dọa nạt, đấy ải gia đình của các sĩ quan QLVNCH đi cải tạo tại các trại lao động khổ sai. Vợ con tôi phải đi kinh tế mới tại Cà Mau, Minh Hải, việc học hành khó khăn, cháu chỉ học tới lớp bảy rồi phải bỏ lỡ dở đi buôn cá tại vùng ven sông thuộc Cà Mau để kiếm tiền nuôi gia đình và các em trai còn nhỏ tiếp tục đi học, vì thế nên cháu chỉ có thể thuật lại Nỗi bất hạnh của đời tôi một cách trung thực.

Là ba của cháu, tôi cũng chỉ sửa những lỗi văn phạm, chính tả. Qua sự thúc bách của tôi, cháu mới có thể thuật lại câu chuyện thương tâm, vì mỗi lần nhớ lại những cảnh đau thương tang tóc của gia đình thì cháu đâm thẫn thờ, ngơ ngẩn hết mấy ngày, và lòng tôi cũng quặn đau vô vàn. Hiện cháu đã lập gia đình và sống với chồng con tại Úc. Sau đây là câu chuyện của con gái tôi, nỗi bất hạnh của cháu, cũng là nỗi bất hạnh của tôi.

Nguyễn Bá Quang

 

altalt

Nỗi bất hạnh đời tôi

Thùy Nhiên

Sau bao tháng ngày mẹ và các anh chuẩn bị ghe thuyền, từng can dầu, tom góp từng gói lương khô như gạo sấy, thuốc men v….v…một cách bí mật. Ông ngoại, gia đình bà dì ruột, gia đình của cha Liêm, từng tốp, từng tốp len lỏi trong đêm tối lần lượt đến điểm tập trung tai bãi Đá Bạc Cà Mau thuộc tỉnh Minh Hải.

Tất cả chúng tôi yên lặng lên thuyền, gồm có 22 người đã có mặt đầy đủ. Tiếng nổ dòn của máy lướt sóng ra khơi, mọi người chúng tôi nín thở hồi hộp.

Qua mấy giờ lầm lũi chạy trong đêm, trời đã sáng, ánh nắng chan hòa, chúng tôi đã rời khỏi hải phận Việt Nam, mọi người thở ra nhẹ nhỏm, vui mừng, bồi hồi xúc động vì đã thoát qua được chặng đường  đầy nguy hiểm và bất trắc nhất, vì nếu chẳng may mà bị VC bắt lại, thì bị tù tội, tịch thu tài sản, tất cả đều mất sạch. Niềm vui thoát được khỏi bọn công an VC đang miên man trong đầu óc mọi người, bỗng nhìn đằng xa có chiếc tàu lớn hiện ra, tim tôi đánh thình thịch, tàu của ai đây? Của CS hay của thế giới tự do? Càng lại gần thì càng hồi hộp, một thoáng chán nản và sợ sệt hiện rõ trên nét mặt mọi người khi nhìn rõ màu cờ máu Liên Xô, Thuyền của chúng tôi cố ý lái chệch hướng chiếc tàu lớn, cứ thế tiến thẳng, đã qua thêm một sự nguy hiểm, và cũng vì thế thuyền đã chệch hướng đi như ban đầu đã định trước của mình. Chạy thêm vài giờ nữa thì đằng trước hiện lên một chiếc thuyền đánh cá treo cờ VC (cờ đỏ sao vàng), bên hông tàu thấy hai chữ Kiên Giang, giây phút trọng đại, mọi người như nín thở, từ thuyền bên kia phát loa yêu cầu thuyền chúng tôi ngừng lại để cho họ kiểm soát.

Không thể để bị bắt, rồi phải ngồi tù, tài sản bị mất sạch, nên thuyền chúng tôi quyết định mở hết tốc lực. Một loạt đạn AK nổ dòn bắn về phía chúng tôi, tài công lúc đó là anh Hai Liêm của tôi bị thương ở cánh tay, Mẹ bị thương ở bả vai, ông Ngoại bị thương nhẹ ở đầu. Thuyền bắt buộc phải ngừng lại. Tất cả bàng hoàng chờ đợi những gì xấu nhất sắp xảy ra. Thuyền Kiên Giang là thuyền đánh cá nhưng có cán bộ VC, công an mang theo súng, bọn chúng bước qua thuyền chúng tôi lục soát từng người một kể cả những em bé 3, 4 tuổi, tịch thu một số vàng và tiền bạc (đô la) mà mọi người mang theo, chúng lấy một máy lớn của thuyền chúng tôi và dọa sẽ đưa trở lại vào bờ giao cho công an địa phương xử lý. Ông ngoại tôi là người lớn tuổi nhất trong thuyền, ôm vết thương còn chảy máu trên đầu loang xuống mặt, cố gắng năn nỉ giải thích: Các anh cho chúng tôi đi, nếu đưa chúng tôi trở lại bờ Việt Nam thì các anh chẳng có lợi gì cả, chúng tôi bị tù tội, tiền, vàng của các anh vừa tịch thu thì cũng phải giao nạp cho công an thôi. Sau đó bọn họ cho chúng tôi đi, và chỉ hướng cho tàu chạy.

Còn lại một máy nhỏ, thuyền tiếp tục chạy một cách nặng nhọc, chậm chạp lướt sóng tiến về vùng biển Thái Lan. Chạy được một giờ đồng hồ nữa thấy có một chiếc thuyền giống thuyền đánh cá xuất hiện, khi chiếc thuyền này tiến lại gần không thấy treo cờ nước nào cả, nhưng dấu hiệu trên mạn thuyền được bôi lem, chạy với tốc độ nhanh rồi quay đầu chận ngang thuyền chúng tôi. Đã trải qua nhiều hiểm nguy, lần này tôi hồi hộp và lo sợ, tất cả như nín thở, những đứa nhỏ cũng biết được những gì quan trọng sắp xảy ra nên chúng ngồi thu mình vào thành ghe im re trông thật tội nghiệp. Tất cả không một tiếng động.

Tiếng nói ở thuyền bên kia là một tiếng lạ không ai hiểu gì, lúc đó cha Liêm là người biết tiếng Anh nói xin họ giúp đỡ. Toán người kia như không nghe biết, với cử chỉ hung hăng dữ tợn, cặp vào thuyền chúng tôi la hét lục soát từng người một. Một lần nữa vơ vét sạch những gì tàu Kiên Giang VC vơ vét còn sót lại. Thấy kết quả lục soát chúng chẳng được là bao, chúng đi tìm từng bộ mặt một, nhất là nhìn chằm chằm vào những người đàn bà con gái. Mẹ tôi còn trẻ đẹp nhưng vừa bị thương mất máu co ro, mặt mày tái mét nên chúng bỏ qua không để ý tới. Chúng đến gần tôi và chị H, bạn gái của anh Hai, chúng liền nắm áo chúng tôi kéo qua thuyền chúng nó.

Trước cảnh dã man này mấy anh tôi không kềm hãm được nên đã có phản ứng binh vực em mình (tôi lúc đó mới được 18 tuổi, cô kia xấp xỉ tuổi tôi hoặc lớn hơn một tuổi ) nên đã la ó phản đối. Mẹ tôi cúi lậy xin chúng tha. Ông ngoại, cha Liêm năn nỉ nài nỉ chúng chẳng nghe. Chúng đẩy chúng tôi qua thuyền chúng. Phẫn uất trước hành động tàn bạo này, mấy anh tôi đánh trả lại chúng. Chúng rút súng lục ra uy hiếp và chế ngự mấy anh. Lúc đó chúng lôi chúng tôi xuống nhốt dưới hầm tàu tối đen. Từ đó không hay biết chi nữa những việc xảy ra bên ngoài.

Sau khi bắt chúng tôi, chúng nổ máy cho tàu chạy, sau đó quay trở lại đâm vào thuyền chúng tôi làm vỡ thuyền, thuyền chìm, chuyện xảy ra tôi sẽ kể tiếp phần sau khi tôi gặp lại người dì ruột tại trại SongLa.

Ngồi trong hầm tàu tối đen mà lòng tan nát, tôi chấn tĩnh mình bằng lời cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria, hiện ra trước mặt tôi là hình ảnh của mẹ, các anh, em tôi và ba tôi. Mẹ, các anh em tôi giờ đây trên biển cả mênh mông đã trôi dạt về đâu rồi? Đã được tàu của thế giới tự do vớt chưa? Ba tôi trong trại tù CS tại trại Tiên Lãnh, Quảng Nam Đà Nẵng, ba là sĩ quan QLVNCH ở tù 10 năm rồi tương lai sẽ ra sao đây. Tôi nhớ hết những người thân thương, đầu óc tôi rối bời như có trăm ngàn mũi kim nhọn đâm vào quả tim bé nhỏ của tôi tan nát. Chưa bao giờ tôi nghĩ đến hoặc tưởng tượng ra hoàn cảnh mà tôi phải gánh chịu như hôm nay. Nước mắt tràn đầy ra má mà chẳng hay biết gì, nước mắt đã làm dịu cơn khủng hoảng của tôi. Một niềm hy vọng loé lên trong đầu, chắc mẹ và các anh em của mình còn sống sẽ được tàu vớt, sẽ vượt qua nguy hiểm để đến bến bờ tự do và mình sẽ được gặp lại.

Ở trên tàu của bọn cướp được vài hôm, chúng chuyển tôi qua tầu đánh cá thứ hai, còn chị H. thì ở lại trên tầu của chúng nói tiếng Thái với nhau tôi không hiểu một tí gì cả chỉ biết cảm nhận theo linh tính của mình, thấy tàu này chuyên lo đánh cá, chắc là họ vừa đánh cá vừa làm hải tặc ăn cướp chăng? Một tuần sau chúng lại chuyển tôi qua tàu khác, cứ thế lênh đênh trên biển cả qua ngày thứ 51, ngày này chúng chuyển qua một tàu khác nữa, người trên tàu có vẻ hung tợn dữ dằn hơn những chiếc tàu trước đây.

Vào khoảng nửa đêm một tên đàn ông vào kéo tôi dậy, nhìn cặp mắt nó, thấy dễ sợ như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Người tôi run bần bật, miệng thầm đọc kinh xin ơn trên phù hộ cứu giúp. Chúng nó sờ mó và bắt cởi hết quần áo, chúng nói gì với nhau tôi không hiểu, chỉ biết kẹp hai chân cứng lại, hai tay ôm chặt lấy ngực, và nhìn vào vết thẹo nổi đỏ trên cánh tay tôi. Lúc nhỏ khoảng hai tuổi bị tai nạn phỏng dầu làm đường đến 50% khi chữa lành vẫn còn vết thẹo luôn ửng đỏ. Không biết ai xui khiến cho tôi cứ nhìn vào vết thẹo ấy và kêu la thảm thiết. Bọn chúng nói với nhau những điều gì, tôi cảm nhận như chúng e ngại về vết thẹo của tôi là bị bệnh phong cùi gì chăng? Sau khi bàn bạc chúng đã xô tôi xuống biển không cho một vật gì có thể trôi nổi trên mặt biển.

Nước lạnh làm tỉnh hẳn người, tôi đã thoát qua những bàn tay con quỷ dữ, cố gắng với hai chân để người mình nổi lên trên mặt nước ( ở Cà Mau tôi sống bên sông nên bơi lội cũng khá giỏi. Trên biển giữa đêm đen, có gì ghê rợn bằng. Tôi cố sức mình chống chọi với bao ý nghĩ bi thương, bản năng sinh tồn lại đến với tôi mãnh liệt, tôi kêu xin mẹ Maria bổn mạng hãy cứu giúp tôi. Một lần nữa hình ảnh của mẹ, anh, em và Ba tôi ở trại cải tạo lại hiện ra như khuyến khích tôi hãy ra sức cố gắng chống chọi với tử thần để ráng sống may đâu có người cứu vớt. Vì thế mà đã qua được năm tiếng đồng hồ dưới biển lạnh.

Trời đã hừng đông, một tia hy vọng đến với tôi, nhưng người càng ngày càng bị lạnh cóng, sắp sửa không chịu đựng nổi nữa rồi, thì may thay, nghe có tiếng động cơ của thuyền chạy đến. Tôi cố giơ tay lên nhưng thân hoàn toàn cóng cứng, rất may trên thuyền họ nhìn thấy, dừng thuyền lại và vớt tôi lên. Nguyện xin đây là một chiếc thuyền làm ăn lương thiện để tôi còn được sống an bình. Thật quả như lòng mong ước, tôi được những người này săn sóc tận tình, cho quần áo để mặc, cho ăn uống đàng hoàng và dùng máy vô tuyến gọi police (cảnh sát ) Thái cho tàu ra đón tôi vào bờ và đưa đến trại Song La và đến trại Sikiew.

alt

Hằng ngày ở trại, cô đơn lạc lõng, thân gái dặm trường, hằng đêm nguyện cầu cho lòng vơi đi ít niềm đau. Mong chờ mẹ, anh em sẽ đến với mình, nhưng càng ngày càng thấy bặt tăm vô âm tín, lòng buồn rười rượi. Mỗi khi có người mới nhập trại tôi thường đến để cầu mong gặp người thân. Hôm nay bất thần tôi thấy dì Sa, em của mẹ thất thểu bước vào trại, dì cháu gặp lại nhau, nước mắt tuôn trào như mưa, và Dì đã kể lại những gì xảy ra kế tiếp khi tôi bị hải tặc bắt qua tàu của chúng.

Sau khi bọn hải tặc bắt con và H qua tàu của chúng. Vì không chịu nổi những uất ức các anh con đã phản ứng mãnh liệt đánh lại chúng nó. Nhưng chúng có súng, nên các anh con đành thúc thủ. Chúng lồng lộn lên lục soát nát bét trên tàu, bắt mọi người cởi bỏ hết quần áo chỉ cho mặc một quần lót mỏng, lấy hết những gì còn lại trên tàu, rồi rú máy cho tàu chạy.

Mọi người chưa kịp hoàn hồn thì thấy tàu hải tặc quay đầu trở lại, và chạy rất nhanh đâm thẳng vào hông thuyền của mình đánh rầm, thuyền vỡ làm đôi, một số người văng xuống biển. Đồ vật nặng chìm xuống nước, những vật nhẹ nổi lềnh bềnh. Trong lúc hỗn loạn, mỗi người đều bơi lội, vớ lấy can đựng dầu, đụng nước làm phao. Các anh con, Chương, Long bơi vớt những tấm ván để kết làm bè, kèm lên phần thuyền còn lại nổi trên mặt nước. Phần bè và thuyền nổi cho mẹ, dì, con của dì và Đạt, Hoài, hai em con. Ông ngoại và anh Liêm đã ra đi trong lúc thuyền bị đánh chìm vì cả hai đều bị thương.

Trời bắt đầu sập tối, nỗi kinh hoàng xâm chiếm lòng người. Màn đêm đem đến sự sợ hãi cho mọi người trong cảnh thập tử nhất sinh, lạnh đói và khát, nhưng vẫn cố gắng bu lấy bên nhau, cùng nhau sống chết. Thấy các em con vì đói khát và lạnh, quá tội nghiệp nên Chương liều bơi, lặn xuống lòng thuyền may ra tìm được nước uống hoặc thức ăn. Nhưng đã lâu không thấy Chương trở lại, mẹ và Dì kêu gào thật lâu chẳng có tiếng trả lời. Hễ người nào chịu không nổi buông tay ra là đi vĩnh viễn. Thấy những người thân lần lượt ra đi, lòng mẹ và dì tan nát nhưng biết làm sao đây hỡi trời, chỉ biết đọc kinh cầu nguyện Chúa, Mẹ cứu giúp, hộ phù. Phía bên kia có Linh mục Hồ Quang Liêm và người em Hồ Quang Lập cùng mấy người bà con của cha trong đêm đó cũng ra đi.

Ngày thứ hai kể từ ngày đắm thuyền chỉ còn có dì, mẹ và mấy đứa nhỏ vì được ngồi trên bè, nên chống được sự lạnh cóng. Mẹ con bị thương máu ra nhiều, không ăn, không uống nên người mệt lả đi, hơi thở yếu dần, dì gọi mẹ không trả lời nổi, mẹ tức tưởi ra đi. Đạt, Hoài hai em của con ôm mẹ khóc thảm thiết, dì đứt cả ruột gan. Các cháu cứ muốn giữ mẹ lại bên cạnh không xa rời, dì khuyên nhiều lần các cháu mới chịu để mẹ con xuống lòng đại dương. Còn lại con Châu, con Xuân của dì mềm người vì đói khát lặng lẽ ra đi. Dì như người mất hồn, không còn biết gì nữa, đặt con mình xuống nước cho dòng nước trôi xuôi, đau đớn vô cùng.

Ngày thứ ba chỉ còn lại Dì, Em Đạt của con, mệt quá gục trên tấm ván, bỗng nó ngồi nhổm dậy nói: Để con lấy nước cho dì, con thấy có dòng suối trong xanh, nước ngọt lắm dì ơi nó định bước xuống nước để đi Dì cầm tay nó kéo lại: Con ơi không có đâu, đó chỉ là ảo ảnh mà thôi, con ngồi xuống đây đọc kinh với với dì xin ngài ban phước. Sau khi kinh nguyện, yên tĩnh được một lúc, nó lại kêu lên khát nước quá dì ơi con chịu hết nổi rồi. Dì nói trong vô thức hay con uống đại một hớp nước biển xem có chống chọi được không? Sau khi uống một miếng nước vào bụng, tức thì cháu ôm bụng rên la khủng khiếp, nước bọt trào ra nơi, nước bọt giống như bọt xà phòng trào ra, trào ra, cháu lịm người dần và nằm bất động, người cuối cùng ở bên cạnh dì cũng ra đi.

Còn lại một mình đang nằm chờ chết dưới ánh nắng như thiêu như đốt bỗng thấy có đám mây đen kéo đến trời đột nhiên dịu xuống, một vài giọt mưa rơi trên mặt dì, dì liếm từng giọt nước, nhưng người dì đã kiệt sức không còn hay biết gì nữa cả. Khi tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên thuyền đánh cá của người Thái Lan. Theo tàu họ trên biển, 15 ngày sau thì được đưa vào trại Batani, qua trại SongLa và dì gặp con tại đây.

Ôi ! Những biến cố đó trong đời  làm tôi điên dại, sống dưới ánh nắng mặt trời mà như trong hang âm u. Tôi đã mất mẹ, mất anh, mất em, mất ông ngoại, cậu, cháu và những người thân yêu, 18 người đã chết tức tưởi, bỏ mình trên biển cả … Đó là tất cả NỖI BẤT HẠNH CỦA ĐỜI TÔI.

Mẹ ơi ! Sao mẹ nỡ xa lìa con, xa lìa ba, ba đã chịu bao nhiêu điều cay đắng tủi nhục trong ngục tù Cộng Sản. Các anh ơi ! Các em ơi ! Tất cả đã xa lìa tôi, vĩnh viễn ly biệt tôi một cách tức tưởi: Khổ đau tột đỉnh, hận thành non cao, Biển xa sóng lớn dạt dào, nhớ anh, em, mẹ có ngày nào nguôi.

Thùy Nhiên, viết từ Úc Châu

* Viết để kính dâng linh hồn mẹ Phạm Thị Khanh, Ông ngoại Phạm Văn Đình, Cậu Phạm Văn Tiếng, các Anh: Nguyễn Bá Liêm, Nguyễn Bá Chương, Nguyễn Bá Long, các em, Nguyễn Bá Phú, Nguyễn Bá Đạt, Nguyễn Bá Hoài, Chú nguyễn Văn Dậu, các em con dì Nguyễn thị Minh Châu, Nguyễn thị Minh Xuân, Nguyễn Minh Toàn và Linh mục Hồ Quang Liêm, chú Hồ Quang Lập và các anh bà con với cha Liêm mà tôi không nhớ tên.

* Viết cho Ba là Nguyễn Bá Quang. Ba và con cùng chịu NỔI BẤT HẠNH trên cuộc đời này.

“THẦN BÒBOUL” Tượng Chúa Hài Ðồng Ban Nhiều Ơn Lạ .

Mến chúc Qúi Bằng hữu và Gia đình Một Mùa Giáng Sinh nhiều Ơn Lành, tràn ngập niềm vui và Hạnh Phúc .

TQB.

“THẦN BÒBOUL”

Tượng Chúa Hài Ðồng Ban Nhiều Ơn Lạ .

Hồi ký của Trần Quốc Bảo :

Ðể chuẩn bị cho cuộc thăm viếng Thái Lan của bà Rosalynn Carter, – phu nhân Tổng Thống Hoa Kỳ, – vào đầu tháng 11 năm 1979, Bộ Ngoại Giao và An Ninh Mỹ đã phải âm thầm hoạt động trước nhiều tháng trời.

Mục tiêu của cuộc viếng thăm này là bà Rosalynn Carter muốn đích thân quan sát tìm hiểu về thảm cảnh tại các Trại Tị Nạn trên đất Thái Lan, điều mà báo chí và các hãng thông tấn, truyền hình… đã nhiều lần tường thuật như là một vết thương đại thảm khốc do cộng sản gây ra cho lịch sử nhân loại vào thời bấy giờ.

Chắc chắn ông Carter, vị Tổng Thống mà nụ cười luôn luôn đậu trên môi, một lúc nào đó đã phải chau mày, suy tư về thảm họa kinh hoàng của hàng trăm ngàn người đang sống tại các trại tị nạn Ðông Nam Á.  Không một bản tường thuật nào sẽ sống động và thành thật hơn những nhận xét của chính vợ ông, bà Rosalynn.

Vậy nên nhiệm vụ của 14 người trong “phái đoàn tiền sát” được cử qua Thái Lan đầu tháng 10-1979 thực là quan trọng.  Phái đoàn sẽ đến Thái Lan như những người du lịch, sẽ tìm hiểu và ghi nhận trước tất cả mọi khía cạnh của vấn đề; một bản phúc trình tỉ mỉ về tị nạn sẽ được thiết lập với những nhận xét và đề nghị thật chuẩn xác, để cuộc tới thăm của bà Ðệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ sẽ chỉ là duyệt lại các điều mà bà đã biết từ trước.

Riêng tôi, một trong 14 nhân viên của phái đoàn tiền sát, tôi hoàn toàn không hay biết mảy may gì về mục tiêu, mục đích của cuộc ra đi này.  Tôi lại cũng mù tịt về mọi lãnh vực ngoại giao và an ninh của Mỹ.  Thế mà tôi lại được đi trong phái đoàn, điều mà chính tôi cũng phải ngạc nhiên.  Trong 14 người, thì 11 là Mỹ chính hiệu “con nai trắng”, còn 3 ngoại kiều là một cô Cam-bốt, một giáo sư  Thái Lan và tôi là Việt Nam.  Sở dĩ có tên tôi là bởi một sự bất ngờ rất tếu.  Tôi có anh bạn trong “Hội Nhà Thờ Bảo Trợ”, tên John, anh này là cựu sĩ quan, trước từng ở Việt Nam hai năm, làm cố vấn cho đơn vị tôi.  Ngẫu nhiên nay gặp lại nhau, anh rất khoái tôi.

Thường thường tụi tôi có các buổi họp mặt weekend là có John.  Anh ta cũng ngồi xếp bằng tròn quanh mâm nhậu, bóc lon la-de và nốc một hơi trăm phần trăm y chang như các tay tổ trong băng độc thân vậy.  John nói được một ít tiếng Việt, ăn được nước mắm, khoái món phở tái, chả giò … và đôi khi chúng tôi nhậu khan với nhau bằng mực khô nướng, củ kiệu, John cũng xáp vô nhai khô mực ra rít lắm.

Bởi cái chỗ thân tình ấy nên tụi tôi coi John như một người bạn chí thiết.  Một lần đang cơn nhậu, John hỏi chúng tôi, ngoài tiếng Mỹ có ai biết nói tiếng Lào không?  Tôi phét lác nhận là nói được và xổ ra một tràng tiếng Lào líu lo líu lường… làm cho cả bọn cười bò.  Thật tình tôi có học được một ít tiếng Lào trong thời gian hành quân Hạ Lào, lâu không nói thì nay cũng đã quên nhiều, nói bậy bạ dỡn chơi thì được, chớ còn phiên dịch thông ngôn thì không nổi.

Thế mà nửa tháng sau tôi nhận được giấy mời lên Văn phòng Ngoại giao.  Người tiếp tôi chính là John.  Anh ta nói muốn dành cho tôi cơ hội để về thăm miền Ðông Nam Á trong nhiệm vụ tiền sát như đã nói trên.  Tôi thú thật với John tôi quá kém về Lào ngữ.  Nhưng anh ta trấn tĩnh tôi rằng, có một nữ nhân viên Cam-bốt nói tiếng Lào giỏi sẽ giúp tôi, và có thể phái đoàn cần tôi trong nhiệm vụ giao dịch tiếng Việt nữa.

Chúng tôi đã đến Thái Lan như những du khách, và đã nhờ Hồng Thập Tự địa phương đưa đến các trại Tạm cư Tị nạn.  Hai trại lớn mà chúng tôi đã ở lại nhiều ngày là trại U-thong (phía Tây Bắc cách Bangkok trên 300 dặm) hiện có 36 ngàn người Lào tị nạn; và trại Sa-kaeo nằm trên quốc lộ số 8 cách Bangkok 650 dặm về phía Ðông, chứa tới 200 ngàn dân Căm-bốt tị nạn.

Có ai tưởng tượng được (vào thời điểm năm 1979) chỉ ở một trại tạm cư thôi mà con số những người tị nạn Căm-bốt đã lớn lao đến thế không?  Hàng trăm ngàn người đó đang sống vô cùng thiếu thốn, đói khổ và bệnh tật, ở chui rúc trong các tàng cây, những lều lá xiêu vẹo mà họ gọi là cái nhà.  Thiếu thực phẩm, thuốc men, quần áo. – Một vài hình ảnh khiến ta có thể tưởng như lớp người đó đang sống ở thời thượng cổ, thời đại sống trong hang hốc, ăn lông, ở lỗ.  Sau này khi bà Rosalynn Carter đến viếng thăm đã phải thốt lên:  “Thật quả là thê thảm, những cảnh tượng này tôi chưa hề bao giờ thấy như vậy, đã làm cho tôi xúc động kinh hoàng.”  (“It’s like nothing I ‘ve ever seen, it’s emotionally overwhelming”).

Nếu muốn viết về chuyến đi Thái Lan  của tôi thì sẽ có một chuyện dài, nhưng tôi không thể đưa lên báo bản phúc trình chỉ dành riêng cho vị Ðệ Nhất Phu Nhân đọc.  Ở đây, tôi muốn kể lại một câu chuyện nhỏ- một kỷ niệm mà mãi mãi tôi không quên.

Buổi chiều hôm đó, sau những giờ đã làm việc khá mệt mỏi, chúng tôi chia nhau bánh mì và thịt hộp để ăn bữa tối, Saleng (cô gái Căm-bốt trong phái đoàn) gọi tôi:

– Anh có muốn đi coi “Ông Thần Con Nít” không?

Tôi vừa nhai bánh vừa cười, hỏi đùa:

– Có Ông Thần Con Nít hả?  Vậy Saleng làm ơn bồng ông Thần Bếby ấy tới đây, tụi mình chụp hình phỏng vấn, chớ đi nữa thì… mệt quá rồi.

Saleng nghiêm sắc mặt:

– Anh chớ nói dỡn, Thần Con Nít thiêng lắm, Thần đã cứu nhiều người ta và đã đưa họ đến đây tị nạn.

Tôi hỏi một hơi:

– Sao cô biết? Thần con nít là Ông Thần gì ? ở Ðâu?  Cứu ai?  Chuyện đầu đuôi ra sao?

Saleng liếc xéo tôi:

– Bộ anh muốn ghi vô biên bản phúc trình hả?  Muốn biết thì đi! Đi tôi dẫn tới cho coi.

Tôi uống cạn ly cà phê rồi ngoắc John cùng đi theo.  Chúng tôi lên một ngọn đồi nhỏ, chung quanh toàn là dân di tản Căm-bốt ở chen chúc dưới các lùm cây tàng lá.  Những cảnh sống cơ cực hiện ra trước mắt trong suốt mấy ngày nay đã làm chúng tôi quen rồi.  Các em nhỏ, phần lớn là ở trần truồng, gầy gò, xanh xao và bệnh hoạn.  Các ông già bà cả ngồi trầm lặng như những pho tượng.  Nhiều cặp mắt lo âu nhìn về phía chúng tôi, không biết họ đang nghĩ gì.  Nhưng có điều chắc chắn là nếu ai bảo họ trở lại với quê hương cộng sản của họ thì họ lắc đầu cương quyết phản đối ngay.

Saleng dừng lại ở đỉnh đồi – nơi có những đá lớn chồng chất – trên một tảng đá, tôi thấy có bầy biện như một bàn thờ, cắm nhiều cây nhang, có một cặp nến đỏ viết chữ Miên chằng chịt như đạo bùa.

Một bầy trẻ con chừng 20 đứa ốm o đang cầu kinh và ca hát chung quanh.  Vài người lớn thấy chúng tôi, rê lại gần đứng nhìn.  Ðến gần bàn thờ, tôi và John đã ngạc nhiên khi nhận ra vị “Thần Con Nít” mà Saleng đặt tên cho, chính là tượng “Chúa Hài Ðồng nằm trong máng cỏ”.  Tượng bằng thạch cao lớn cỡ bằng quyển tự điển, một góc bị bể nên bàn chân Chúa mất một nửa.

Rất tự nhiên, John và tôi cùng qùy gối xuống cạnh những em bé trần truồng.  Chúng tôi làm dấu Thánh Giá.  John hát lên một bài ca Sinh Nhật bằng tiếng Mỹ, tôi cũng ca tiếp bài “Ðêm đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời…”  Cử chỉ cung kính của chúng tôi trước vị Thần Con Nít đã phút chốc gây cảm tình với các em bé và bà con cô bác tị nạn Căm-bốt.  Số đông đã bu lại quanh chúng tôi có tới năm sáu chục người.  Họ nói chuyện ồn ào, và Saleng làm nhiệm vụ thông dịch cho chúng tôi hiểu.  Trong đám đông đó, Saleng dẫn tới giới thiệu với chúng tôi một bà già tên Lam-Pranak và con gái bà, bé Bòboul.  Câu chuyện ly kỳ “Thần Bò-Boul” đã sẩy tới cho hai mẹ con bà, đầu đuôi thế này:

Ông Lam-Pranak, vị đại úy thời Lon-Nol, bị Miên cộng hạ sát năm 1975.  Hai đứa con của ông đã bị ném vô lửa trước mắt ông, trước lúc chúng bắn ông.  Vợ ông và 4 đứa con khác trốn về tỉnh Kompong Kdey, một năm sau bị phát giác và cũng bị bắt.  Miên cộng nhốt năm mẹ con bà Pranak cùng với khoảng 400 người khác thuộc “chế độ cũ” trong một Nhà Thờ Chánh Tòa đổ nát ở tỉnh nhỏ Khum Samrong.

Chính tại nơi đó, con gái út của bà, em bé Bòboul, đã tìm thấy tượng Chúa Giêsu Hài Ðồng nằm trong máng cỏ.  Thoạt đầu, em chỉ thấy đẹp và muốn giữ chơi như một búp-bê.  Nhưng rồi bà mẹ em đã nghiệm thấy dường như có một uy quyền, một phép lạ nào đó ẩn tàng trong Búp-bê Thần này.  Cứ mỗi lần Bòboul bị đau ốm, mà em được ôm lấy Búp-bê Thần thì em liền được khỏi bịnh.  Rồi nhiều em nhỏ khác bị nhốt trong Nhà Thờ đau ốm cũng đã được ơn cứu chữa ấy.  Chí đến các người lớn bệnh hoạn cũng đã được khỏi khi cầu xin Búp-bê Thần; và lòng sùng kính tôn thờ tự nhiên dâng lên.

Trước con mắt nhòm ngó dữ dằn của bọn lính Miên cộng, những người tù khốn khổ trong Nhà Thờ đã không dám lập nên một bàn Thờ cho Vị “Chúa Con Nít” của họ.  Ðền đài của Chúa Giêsu Hài Ðồng nơi đây chính là cái túi vải rách rưới đeo trên lưng em bé Bòboul, một đứa trẻ gầy gò bẩn thỉu.  Ðến nỗi chính danh hiệu cao cả của Chúa cũng chẳng ai biết nữa.  Ðoàn người tù tội đã dùng ngay tên em bé để gọi Chúa Hài Ðồng, bây giờ tên Ngài là “Thần Bòboul”.

Nhiều đêm, cửa Nhà Thờ mở ra, những họng súng chĩa vào, vài tên Miên cộng thò đầu vô gọi tên một số người.  Những người bị gọi đi trong đêm sẽ không bao giờ trở lại.  Họ đến quỳ gối bên em bé Bòboul, hôn tượng Chúa Hài Ðồng:

– Lậy Thần của Bòboul, bây giờ con sắp đi vào cõi chết, con muốn khi chết đi được Thần của Bòboul thương con, đem con về cõi Trời với Thần!

Cầu nguyện xong, họ hôn em Bòboul và vĩnh biệt ra đi, trong khi đó Bòboul vẫn ngủ say sưa không biết gì cả.  Số tù nhân vô tội vơi xuống lần lần.

Một đêm nọ, bà Pranak bị gọi tên.  Bà choáng người như bị sét đánh, gọi cả bốn con dậy, mẹ con ôm lấy nhau khóc mướt rồi bà cầu nguyện:

– Lậy Thần của Bòboul, xin cứu con, xin cho con được sống với bốn đứa nhỏ này, cha nó đã bị bắn, hai anh nó đã bị đốt lửa; xin Thần hãy cứu con để chúng nó còn có mẹ, và để mẹ con chúng con suốt đời thờ lạy Thần.

Bà hôn các con rồi ra đi trong đêm tối theo lũ Miên cộng…

Chừng hơn tiếng đồng hồ sau, cánh cửa hậu Nhà Thờ bỗng hé mở.  Bà Pranak len lén bò vào.  Bà thì thào với các con:

– Mẹ và nhiều người bị đẩy xuống một cái hố, tụi nó xả súng bắn càn rồi lấp đất lên, và bỏ đi.  Mẹ không bị trúng đạn, moi đất chui lên được về đây với các con.  Ðúng là Thần của Bòboul đã cứu mẹ!

Năm mẹ con lại ôm nhau khóc… và tạ ơn Thần. – Việc bà thoát chết, mò mẫm đêm khuya trở lại Nhà Thờ (đúng ra là nhà tù), cũng như việc lính gác ngủ vùi và cửa Nhà Thờ hé mở, cho đến bây giờ, bà Pranak vẫn không hiểu tại sao được như vậy. Bà chỉ một mực tin rằng đó chính là Thần Bò-Boul ra ơn cứu mạng

Ngày chế độ Pol-Pot bị lật đổ, bọn lính canh tù trước khi tháo chạy đã thảy đại vô Nhà Thờ 3 trái lựu đạn.  Bé Bòboul thất kinh, cầm tượng giơ ra ngăn cản.  Lạ thay, cả 3 qủa đạn đều tịt ngòi lăn long lóc trên nền Nhà Thờ.  Một người trong toán tù đã liều mình nhặt vứt ra ngoài.  Khi qủa lựu đạn cuối cùng ném ra khỏi cửa sổ, cả 3 đã phát nổ dữ dội khoét thủng một lỗ ở chân tường, và do đó đoàn tù đã thoát ra rồi tản mát, mạnh ai nấy chạy trốn vượt biên giới qua Thái Lan tị nạn.

Bé Bòboul lạc gia đình, một mình chạy nhủi ở trong rừng, hết lòng cầu xin, hai ngày sau thì gặp lại được mẹ và anh em như cũ.

Khi năm mẹ con dắt díu nhau vượt biên tại Ban Nong Pru chính là chỗ quân đội hai bên đang canh phòng ghìm nhau rất cẩn mật.  Bé Bòboul cầm tượng Chúa đi trước dẫn đầu cho gia đình đi ngang qua hai trạm lính canh gác, lạ thay, thấy lính Miên cộng và lính gác Thái đều ôm súng ngủ khì.  Câu chuyện thuật lại như khôi hài và hoang đường vậy.

John tỏ ra đặc biệt chú trọng đến mọi chi tiết của câu chuyện.  – Anh hỏi và Saleng thông ngôn:

– Cho đến nay, Chúa Hài Ðồng còn tiếp tục làm phép lạ không?

Bà Pranak trả lời:

– Không! không phải phép lạ, Thần của Bòboul không làm phép ra lửa, ra ánh sáng đâu.  Thần chỉ cứu người thôi.  Ai cầu xin Thần sẽ được, nhưng phải ở hiền, ở tốt, đừng có dữ dằn, ai yêu thương người ta, Thần của Bòboul mới cho ơn.  Thần còn cho ơn nhiều nhiều, phải tin Thần thì mới được chứ!.

Tôi ngạc nhiên đến sững sờ nhìn bà Pranak, có phải bà vừa đọc một đoạn Thánh Kinh nào đó cho tôi nghe không?  Tôi nhìn kỹ mặt bà, gương mặt cằn cỗi xám xịt, hàm răng vàng khè, cặp mắt đục và mệt mỏi.  Bà quê kệch, xấu xí và rách rưới, nhưng tâm hồn bà dường như tràn ngập niềm tin và sự vui mừng.

Bốn đứa nhỏ của bà cùng với lũ trẻ tị nạn khác đang xúm quanh John nhai kẹo cao-su.  John nhờ Saleng giảng dịch cho chúng hiểu sơ lược về Chúa Cứu Thế, mà bức tượng của Bòboul chính là Thánh tượng Ngài.  Thật mà nói, tôi thấy lũ nhỏ chăm chú vào việc nhai kẹo nhiều hơn là lắng nghe câu chuyện Thánh Sử.

Khi chúng tôi từ biệt bà con tị nạn để về lều, John chưa kịp nói Good Night thì một thanh niên chạy tới rối rít lên:

– Ðem Thần của Bòboul tới mau, xin cứu vợ tôi, nó sắp đẻ rồi, chẳng có cô mụ bác sĩ gì ráo, khéo nó chết mất!  Lạy Thần, xin cho vợ con của con được sống.

Tượng Chúa Hài Ðồng được rước đi tức khắc.  Chúng tôi cũng cấp tốc trở về lều.  Khi John trở lại với một bác sĩ thì mọi sự đã song.  Một em bé tị nạn đã sinh ra bằng yên,  Người sản phụ đang thiu thiu ngủ, và người chồng đang quỳ dưới đất chắp tay lạy Chúa Hài Ðồng như tế sao.

Bà Rosalynn Carter, sau này khi đến thăm trại, đã bồng đứa bé đó trên tay và ứa lệ nói rằng:  “I want to go home as fast as I can and mobilize people and do all we can to help the people here”.  [Tôi muốn trở về Mỹ càng sớm càng tốt để vận động dân chúng làm tất cả những gì chúng ta có thể làm được để giúp dân chúng nơi đây.]

Trần Quốc Bảo

Richmond,VA/USA

Cảnh sát Australia giải cứu con tin ở Sydney

Cảnh sát Australia giải cứu con tin ở Sydney

Một con tin bị thương được cảnh sát đưa ra xe cứu thương sau khi có nhiều phát súng nổ trong 1 vụ bắt cóc ở 1 tiệm cafe  ở Martin Place ở quận trung tâm thương mại của Sydney, Australia, hôm 16/12.

Một con tin bị thương được cảnh sát đưa ra xe cứu thương sau khi có nhiều phát súng nổ trong 1 vụ bắt cóc ở 1 tiệm cafe ở Martin Place ở quận trung tâm thương mại của Sydney, Australia, hôm 16/12.

16.12.2014

SYDNEY—

Cảnh sát đã xông vào một tiệm cà phê ở Sydney, chấm dứt vụ giằng co kéo dài mười mấy giờ đồng hồ trong đó có một số người không rõ là bao nhiêu bị bắt làm con tin.

Lực lượng an ninh đã bao vây hiện trường rồi xông vào tiệm Lindt Chocolat Cafe ở trung tâm thành phố hồi sáng sớm thứ ba giờ địa phương.

Hình ảnh chiếu trực tiếp từ hiện trường cho thấy một loạt tiếng súng nổ và ánh chớp trước khi vài người được mang ra từ tòa nhà ở khu Martin Place.

Một số người được mang đi trên băng ca. Người ta trông thấy nhân viên cứu hộ làm hô hấp nhân tạo cho một người bên ngoài tiệm cà phê. Có tin về thương vong nhưng chưa được xác nhận.

Cảnh sát Australia cho biết thủ phạm vụ này là một di dân người Iran tên là Man Haron Monis.

Thủ tướng Tony Abbott nói rằng vụ này có thể có động cơ chính trị.

Man Haron Monis có tên Manteghi Bourjerdi trước khi đổi tên. Y được công chúng biết tới với một chiến dịch viết thư cho gia đình của binh sĩ Australia thiệt mạng ở Afghanistan, trong đó y chỉ trích hành động của các binh sĩ Úc. Y cũng bị cho là co dính líu tới vụ vợ cũ của y bị giết hại năm 2013.

Trong vụ khủng hoảng con tin hôm thứ hai, người ta trông thấy con tin đứng bên trong tiệm cà phê, giơ hai tay lên trời. Qua cửa sổ, người ta trông thấy một là cờ đen với một giòng chữ màu trắng viết bằng tiến Ả Rập, ghi lại một tín điều của người Hồi giáo.

Trước khi vụ giải cứu được tiến hành, có 5 người đã từ trong tiệm chạy ra bên ngoài. Hiện chưa rõ những người đó bỏ chạy thoát thân hay được thả.

Người bị hành quyết được tuyên vô tội

Người bị hành quyết được tuyên vô tội

Tòa đã xin lỗi cha mẹ của thanh niên bị hành quyết

Một thanh niên Trung Quốc bị hành quyết cách đây 18 năm vì tội hiếp dâm và giết một phụ nữ tại nhà vệ sinh công cộng được tuyên vô tội, theo truyền thông nhà nước Trung Quốc.

Anh Huugjilt mới 18 tuổi khi bị tòa án ở vùng Nội Mông kết án.

Bản án bị đặt vấn đề khi một kẻ chuyên hiếp dâm thú nhận gây án hồi năm 2005, theo Tân Hoa Xã.

Chuyện tuyên án vô tội đối với người đã bị hành quyết là chuyện hiếm ở Trung Quốc.

Vụ giết người xảy ra giữa lúc có chiến dịch chống tội phạm và các chuyên viên điều tra thừa nhận họ bị sức ép phải tìm bằng được thủ phạm để kết án.

Thẩm phán tại Hohhot ở Nội Mông đã cúi người trước cha mẹ của thanh niên đã bị xử tử sau khi tuyên anh vô tội.

“Tòa Tối cao Nội Mông thấy bản án kết tội ban đầu … không phù hợp với thực tế và thiếu chứng cứ,” Tòa tuyên bố.

“Huugjilt vô tội.”

Tòa cũng trao khoản tiền 30.000 nhân dân tệ (gần 5.000 đôla Mỹ) để tỏ sự cảm thông với cha mẹ anh Huugjilt.

Tỷ lệ kết tội cao

Tân Hoa Xã đưa tin anh Huugjilt đã giúp người phụ nữ sau khi nghe thấy tiếng kêu khóc của cô từ nhà vệ sinh công cộng.

Anh cũng báo vụ việc với cảnh sát.

Tuy nhiên vào tháng Tư năm 1996 anh bị kết tội hiếp dâm và giết người phụ nữ và bị xử tử vào tháng Sáu cùng năm.

Vào năm 2005, một kẻ sát nhân và chuyên hiếp dâm, Zhai Zhihong, thú nhận với cảnh sát rằng y đã gây án.

Phiên xử lại anh Huugjilt diễn ra hồi tháng 11 năm nay.

Những kẻ vũ trang bắt người làm con tin ở Bỉ

Những kẻ vũ trang bắt người làm con tin ở Bỉ

Cảnh sát thuộc lực lượng đặc biệt lắp đặt thiết bị đặc biệt trên chiếc xe van ở Ghent, Bỉ, 15/12/14

Cảnh sát thuộc lực lượng đặc biệt lắp đặt thiết bị đặc biệt trên chiếc xe van ở Ghent, Bỉ, 15/12/14

15.12.2014

Cảnh sát tại thành phố Ghent của Bỉ đang bao vây một tòa nhà chung cư, nơi có 4 người đàn ông có vũ trang đang cầm giữ một con tin.

Một giới chức chính phủ hôm nay nói rằng chưa có dấu hiệu nào cho thấy vụ có dính líu tới khủng bố, nhóm Nhà nước Hồi giáo hay những gì đang xảy ra ở Sydney.

Cảnh sát đã phong tỏa một khu vực rộng lớn xung quanh tòa nhà.

Vụ con tin ở Bỉ xảy ra vài giờ sau khi một kẻ có súng bắt người làm con tin tại một tiệm ăn ở thành phố lớn nhất của Australia.

5 người chạy thoát khỏi kẻ bắt người làm con tin ở Australia

5 người chạy thoát khỏi kẻ bắt người làm con tin ở Australia

Một con tin chạy đến với các cảnh sát sau khi thoát khỏi quán cà phê nơi một kẻ võ trang đang giữ người làm con tin, 15/12/14

Một con tin chạy đến với các cảnh sát sau khi thoát khỏi quán cà phê nơi một kẻ võ trang đang giữ người làm con tin, 15/12/14

15.12.2014

Vụ khủng hoảng con tin bắt đầu sáng ngày hôm nay ở thành phố Sydney của Australia đang tiếp diễn, và Thủ tướng Tony Abbott nói rằng chưa ai biết được động cơ của thủ phạm là gì. Từ Sydney, thông tín viên Phil Mercer của đài VOA gởi về bài tường thuật.

Năm người vừa thoát được ra khỏi nhà hàng ở trung tâm thành phố Sydney, nơi một kẻ có súng đang cầm giữ một nhóm người không rõ là bao nhiêu làm con tin. Có người nói là 10 người, nhưng cũng có tin cho biết có đến 25 người bị bắt làm con tin.

Hình ảnh tại hiện trường được chiếu trực tiếp trên truyền hình cho thấy một nhân viên của tiệm Lindt Chocolate Cafe và hai khách hàng chạy vượt những nhân viên cảnh sát đang bao vây nhà hàng này và phong tỏa khu vực xung quanh. Sau đó, hai người khác cũng chạy ra khỏi tòa nhà. Hiện chưa rõ 5 người đó đã tự chạy thoát hay được kẻ có súng thả ra.

Các văn phòng ở kế bên nhà hàng đã được di tản. Nhà hát nổi tiếng của Sydney, cách đó vài khu phố, cũng đã được sơ tán sau khi giới hữu trách nói rằng một gói khả nghi đã được phát giác ở đó. Các đường phố trong khu vực đã được phong tỏa và một tuyến xe lửa chạy bên dưới nhà hàng cũng ngưng chạy.

Người ta trông thấy những con tin đứng sát vào các cửa sổ trong lúc giơ cao hai tay lên trời và có một lá cờ màu đen với những chữ viết bằng tiếng Ả Rập. Chưa có thương vong nào được báo cáo kể từ khi vụ khủng hoảng bắt đầu vào khoảng 9:45 phút sáng nay, giờ địa phương.

Xuyên qua một cửa sổ kính, người ta trông thấy kẻ bắt con tin mặc sơ mi trắng và áo vest đen và mang khí giới.

Một nữ phát ngôn viên cảnh sát nói rằng kẻ bắt con tin đã liên lạc với giới hữu trách, nhưng các nhà thương thuyết của cảnh sát chưa xác định được động cơ của vụ này.

Phó Tổng Giám đốc Cảnh sát Tiểu bang New South Wales, bà Catherine Burn, phát biểu như sau:

“Các nhà thương thuyết của cảnh sát đã thiết lập sự liên lạc và họ tiếp tục liên lạc và chúng tôi sẽ giải quyết vụ này thông qua các nhà thương thuyết. Có thể phải mất một ít thời gian nhưng chúng tôi muốn giải quyết vụ này một cách hòa bình và tôi bảo đảm với quí vị là nếu cần có thời giờ thì chúng tôi sẽ kiên nhẫn chờ đợi.”

Trước đó, Thủ tướng Australia Tony Abbott cho biết tại một cuộc họp báo là chưa ai biết động cơ của thủ phạm. Ông nói thêm rằng mục tiêu của những hành động như vậy là gây hoảng sợ cho mọi người và ông hối thúc dân chúng tiếp tục các sinh hoạt bình thường như mọi ngày.

Ông Andrew Scipione, Tổng Giám đốc Cảnh sát Tiểu bang New South Wales, nói với báo chí rằng giới hữu trách chưa biết được động cơ của kẻ bắt con tin. Ông cũng nhất mực không chịu nói rằng đây là một vụ khủng bố. Ông cho biết:

Vào lúc này, tôi được thông báo là chúng tôi vẫn đang xem xét động cơ của vụ này là gì và ở thời điểm này chúng tôi chưa biết thủ phạm là người nước nào.