KHIÊM NHƯỜNG ĐÓN NHẬN

KHIÊM NHƯỜNG ĐÓN NHẬN

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Đọc Tam Quốc Chí, ai cũng mến mộ Trương Lương, một trong những vị tướng tài ba của Lưu Bang. Thuở nhỏ, Trương Lương đi dạo chơi ngoài bờ sông.  Thấy một ông lão ăn mặc rách rưới nằm ngủ trên cầu.  Ông lão ngủ say làm rơi một chiếc dép xuống sông.  Thấy Trương Lương, ông sai bảo: Thằng bé, nhặt chiếc dép cho ta.  Trương Lương vui vẻ xuống sông nhặt chiếc dép kính cẩn đưa lại cho cụ già.  Cụ cầm lấy. không một lời cám ơn.  Loay hoay xỏ mãi không vào, cụ đánh rơi chiếc dép một lần nữa.  Cụ lại quát bảo Trương Lương: Thằng bé, xuống nhặt dép cho ta.  Trương Lương vẫn vui vẻ giúp cụ.  Lần thứ ba cũng thế. Thấy vậy, ông lão khen: Thằng bé này dạy được đây.  Thì ra cụ là một cao nhân lỗi lạc.  Và cụ nhận Trương Lương làm học trò, truyền dạy binh pháp cho ông.  Nhờ thế, Trương Lương trở nên một danh tướng văn võ song toàn, đã giúp cho Lưu Bang dựng nên nghiệp đế vương.

Trương Lương gặp được thầy giỏi một phần nhờ cơ may.  Nhưng phần lớn là nhờ sự khiêm nhường phục vụ của ông.  Đọc truyện Trương Lương, tôi lại nhớ đến Đức Mẹ.  Thời Đức Mẹ, ai cũng mong chờ Đấng Cứu Thế, nhưng chỉ mình Đức Mẹ được diễm phúc đón nhận.  Chúa chọn Đức Mẹ, đó là do ơn lành nhưng không của Chúa, nhưng cũng vì Đức Mẹ có tâm hồn khiêm nhường đón nhận.

Đức Mẹ khiêm nhường trong đời sống bình dị.  Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo.  Sống trong một thôn xóm nghèo hèn vô danh.  Ngày ngày chu toàn những công việc tầm thường như nấu nướng, may vá, dọn dẹp nhà cửa.

Đức Mẹ khiêm nhường trong thái độ ứng xử.  Trước mặt thiên sứ Gabriel, Đức Mẹ xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa, dù thiên sứ đã loan báo Mẹ sẽ là Mẹ Thiên Chúa.  Sau đó, Đức Mẹ đến thăm bà chị họ Elidabet.  Vừa nghe Đức Mẹ chào, bà Elidabet đã ngợi khen Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa.  Đáp lại, Đức Mẹ chỉ nhận mình là phận hèn bé nhỏ.  Nếu có được ơn gì là do Thiên Chúa thương ban.

Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ hoàn toàn vâng phục thánh ý Thiên Chúa.  Đức Mẹ đã có chương trình riêng.  Chương trình đó là sống độc thân trinh khiết.  Đó là một chương trình tốt đẹp.  Nhưng khi Thiên Chúa ngỏ ý muốn Đức Mẹ theo chương trình của Chúa, Đức Mẹ đã mau mắn từ bỏ chương trình riêng tư để đi vào chương trình của Thiên Chúa.  Đức Mẹ nhận biết rằng, chương trình của Chúa là vô cùng tốt đẹp, còn chương trình riêng chỉ là bất toàn. Thánh ý Thiên chúa là tuyệt đối, còn ý riêng chỉ là khiếm khuyết.

Vì khiêm nhường nên Đức Mẹ phó thác trọn vẹn vận mạng trong tay Chúa.  Khi thưa Xin vâng, Đức Mẹ đã mạnh dạn vượt qua những toan tính dè dặt của người đời để nép mình vào bàn tay quan phòng của Thiên chúa.  Nếu ta hiểu luật lệ khắc nghiệt của người Do thái đối với phụ nữ không chồng mà có con, ta sẽ thấy Đức Mẹ liều lĩnh biết bao, và sự phó thác của Mẹ vào Thiên chúa mãnh liệt đến thế nào.

Vì đã thưa Xin vâng, nên Đức Mẹ chấp nhận tất cả, dù chưa hiểu hết Thánh ý Thiên Chúa.  Tại sao Con Thiên Chúa phải sinh ra trong cảnh thiếu thốn nghèo nàn?  Tại sao Vua trời đất lại phải chạy trốn như một kẻ yếu hèn?  Tại sao Đấng Cứu thế làm nhiều phép lạ đến thế để cứu nhân độ thế lại bị người ta chống đối, hành hạ, giết chết nhục nhã như một tội nhân?  Hoàn toàn không hiểu, nhưng Đức Mẹ vẫn khiêm nhường chấp nhận và tin tưởng phó thác.  Vì thế Đức Mẹ vẫn kiên trì theo Chúa Giêsu trên khắp mọi nẻo đường, cho đến dưới chân thánh giá.

Thái độ khiêm tốn chấp nhận của Đức Mẹ đã được Thiên Chúa yêu thương.  Nước chảy xuống chỗ trũng.  Ân huệ Thiên chúa đổ xuống tâm hồn khiêm nhường.  Càng khiêm nhường càng nhận được nhiều ân phúc.  Đức Mẹ có một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu, nên Đức Mẹ đã nhận được đầy tràn ân phúc của Thiên chúa, nhận được chính Ngôi Hai Thiên Chúa, là nguồn mạch mọi ân phúc.

Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến.  Ta mong được đón rước Chúa vào tâm hồn.  Ta mong được ân huệ dư đầy của Thiên Chúa.  Ta hãy noi gương Đức Mẹ, biết khiêm nhường nhận mình tội lỗi yếu hèn, biết khiêm nhường từ bỏ ý riêng để thi hành ý Chúa, biết khiêm nhường vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời, biết khiêm nhường phó thác vận mệnh trong tay Chúa dù không hiểu hết những ý định mầu nhiệm của Người.  Chỉ khi khiêm nhường tan biến thành hư không, ta mới được Chúa thương đổ đầy tràn ân phúc vào tâm hồn.

Lạy Đức Mẹ Maria, xin dạy con biết sống khiêm nhường để con đi vào chương trình của Thiên Chúa.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

From: KittyThiênKim & Nguyễn Kim Bằng gởi

Rượu ngon … đắt tiền, rẻ tiền và khom lưng.

Rượu ngon …

đắt tiền, rẻ tiền và khom lưng.

Wine Gift Boxes: Penfolds Grange 2007 Private Cellar Gift Set

Kết quả công bố của cuộc thi rượu chát quốc tế ” Sydney International Wine Competition” tuần qua (26/11/2014) đã khiến cho cả giám khảo cũng phải ngạc nhiên :”Ngon dzậy mà sao rẻ dzậy !!!”

Trong danh sách top -100 của 2000 chai rượu dự thi, có đến 6 chai rượu rẻ tiền của Aldi lọt vào mắt xanh của 14 giám khảo uy tín của Úc và quốc tế.

Đó là các chai rượu:

-Cabernet Sauvignon

(của vùng South East Australia- $6.99)

-Semillon   ($9.99),

-El Toro Macho Tempranillo ($4.99),

-Byrne & Co Semillon.   Đặc biệt chai

Tudor Central Victorian Shiraz 2013 mà Aldi bán với giá $12.99 vượt qua 1000 đối thủ, nhận hai giải “Best red table wine” và ” Best lighter-bodied dry red table wine“, cùng hạng với Wynns Coonawarra Estate C.E. Black Label Shiraz và Yalumba Paradox Barossa Shiraz, cả hai chai này có giá $45.

-Trong khi đó chai Musigny Premier Cru Champagne mà Aldi bán với giá $29.99 là loại chát trắng ngon nhất.

Như vậy thì những kẻ thừa tiền, thường khoe đẳng cấp lịch lãm của mình qua việc “chỉ uống rượu đắt tiền”, chưa hẳn là tay sành rượu.

Trong các cuộc thi rượu, các giám khảo nếm rượu theo kiểu “blind testing”, tức là các nhãn hiệu trên chai đều bịt kín, những ly rượu trước mặt họ chỉ được đánh dấu bằng mã số, do đó việc thẩm định phẩm chất từng loại rượu chỉ căn cứ vào con mắt, lỗ mủi và cái lưỡi của họ, từ màu sắc của rượu đến hương, vị ở đầu lưỡi, dư vị đọng lại trong cuống họng và cho điểm theo mỗi thứ hạng này.

Mỗi giám khảo có thể có cách thưởng thức khác nhau và cuối cùng điểm số cho từng loại rượu sẽ tổng kết lại và đó là sự đánh giá công bằng nhất. Thực ra những kết quả chưng hửng trong cuộc thi tại Sydney tuần qua không lạ. Năm 1976, thế giới ngạc nhiên và cả trưởng ban tổ chức cuộc thi cũng đã chưng hửng. Đó là cuộc thi The Paris Wine Testing hay còn gọi là Judgment of Paris do nhà buôn rượu người Anh tên Steven Spurrier tổ chức.

Cuối cùng, khi các kết quả công bố ai cũng bật ngửa vì chai rượu được nhiều điểm nhất, được huy chương vàng, lại không phải là một loại rượu lẫy lừng nào của Pháp, mà là một chai rượu Mỹ-của nhà sản xuất Stags’ Leap Wine Cellars ở Napa Valley, tiểu bang California.

Rượu này được ủ năm 1973, rồi 2 năm sau ngâm trong thùng gỗ sồi và một năm đóng trong chai đặt dưới hầm, nó được đưa sang Pháp và đã qua mặt các chai Chardonnay và Cabernet Sauvignon thượng hạng ở vùng Bordeaux của Pháp. Điều này gây ngạc nhiên cho nhà tổ chức Spurrier, vốn chỉ kinh doanh rượu Pháp và tin rằng vang California chẳng thể nào qua mặt được. Từ khởi điểm này mà kỹ nghệ rượu vang California vươn lên và đến nay có hơn 1200 xưởng chế biến rượu chát tại California, từ các cơ sở nhỏ đến các đại công ty như E & J Gallo Winery có mức phân phối toàn cầu.  Rượu đắt tiền…

Rượu đắt tiền chưa chắc đã ngon và rượu ngon không nhất thiết phải đắt. Tuy nhiên phải thừa nhận là những chai rượu cực kỳ đắt tiền thì phải ngon.

Thí dụ chai Penfolds Grange sản xuất năm 1959 khiến ông Barry O’Farrell mất chức thủ hiến tiểu bang Victoria, chai này trị giá 3000 Úc kim vào tháng 4/2011 và hiện được bán tại tiệm Dan Murphy với giá 4,850 Úc kim.

Chắc chắn chai này phải ngon, nhưng vấn đề đặt ra là tại sao rượu này lại đắt như vậy? Cũng như bao sản phẩm khác, rượu đắt tiền xuất phát từ hai yếu tố chính : chi phí sản xuất và yếu tố tâm lý.

Muốn làm một chai rượu ngon, người ta phải chi phí nhiều hơn cho mỗi giai đoạn, trước cả khi hái nho trên cây.

Đầu tiên là phải đầu tư vào những thửa đất trồng nho, phải có điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu tốt, có độ cao, độ ẩm, độ dốc và chiều ánh nắng thích hợp.

Chỉ những ruộng nho như vậy mới cho ra những chùm nho chứa đầy đủ các hợp chất, khoáng chất cần thiết để rượu được đậm đà thơm ngon. Dĩ nhiên những ruộng nho loại này thì giá tiền cao.

Thứ hai là phải hạn chế sản lượng nho vì “Quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.

Để có rượu ngon thì chủ nhân phải hạn chế số lượng nho hái được trên cánh đồng của mình và phải cắt bỏ rất nhiều chùm nho xanh mới nở, chỉ để lại một số chùm khỏe nhất. Lý do là vì cây nho chỉ có thể hút lên từ lòng đất một số hạn chế các khoáng chất để nuôi dưỡng trái nho. Nếu nó phải nuôi trên 30 chùm nho, các khoáng chất bị phân tán mỏng, phẩm lượng của trái nho sẽ giảm xuống… Nhưng nếu nó chỉ nuôi 10 chùm nho thôi, chất bổ sẽ tập trung lại làm cho nước nho đậm đặc vì có đầy đủ chất khoáng, chất đường, chất chua, chất đạm.   Nhưng làm như vậy số nho thu hoạch được sẽ chỉ còn một nửa và giá thành sẽ cao hơn nữa.

Thứ ba là nhân công : nho tốt thì phải có chuyên viên lành nghề chế biến.

Viên kim cương to thì phải giao cho thợ lành nghề mài, nho ngon mà đưa tay lơ tơ mơ thì chẳng khác nào dùi đục chấm nước cáy. Do đó nhà sản xuất phải chi tiền thật nhiều để thuê mướn những thợ làm rượu (winemakers) giàu kinh nghiệm và sáng tạo.

Ngoài ra nho ngon thì phải hái bằng tay, phải đến từng dây nho để lựa chọn chùm nho nào chín mọng mới hái, chùm nào còn xanh phải để chờ đủ chín rồi mới hái một đợt thứ nhì. Hái bằng máy thì rất nhanh nhưng lẫn lộn nho xanh, nho chín, và rượu làm ra sẽ không có hương vị thuần nhất được.

Thứ tư là chi phí ứng biến với thời tiết. Khi hái nho ở những nông trại trong mùa nắng gắt thì phải tránh lúc mặt trời phả hơi nóng, do đó phải hái từ sáng sớm khi mặt trời chưa mọc hay vào ban đêm, khi mặt trời đã lặn và trái nho đã mát dịu.

Nếu hái ban ngày, trái nho bị ánh sáng thiêu đốt làm nóng chất nước ở bên trong, rượu sẽ có vị gắt, khó uống.

Nhưng thuê nhân công làm việc sáng sớm hay ban đêm thì phải trả công cao hơn, chưa kể phải bố trí đèn điện và nghĩa là phải thêm chi phí.

Tại vùng Bordeaux, khi nho đang nở hoa, kết trái hoặc gần chín mà gặp thời tiết băng giá thì phải đốt lửa suốt đêm trong vườn để sưởi ấm cho nho. Có khi chủ nông trại còn thuê trực thăng bay qua bay lại bên trên các vườn nho để quạt hơi ấm xuống cho tan băng giá.

Thứ năm là tiền tồn kho, tiền lãi ngân hàng. Sau khi lên men thì rượu bình thường chỉ cần trữ vài tháng là đã có thể mang ra tiêu thụ, nhưng còn rượu thượng hạng phải được ủ trong thùng gỗ sồi vài ba năm rồi mới vô chai, sau đó phải trữ trong hầm mát một hai năm nữa để chất tanning dịu đi, lắng xuống, các thành tố trong rượu có đủ thời giờ hòa lẫn và kết chặt lại với nhau tạo nên những hương vị đặt biệt rồi mới có thể đưa ra thịtrường .

Dĩ nhiên giá thành sẽ tính thêm tiền tồn kho và tiền lãi từ số vốn đã đầu tư.

Thứ sáu là quy luật cung cầu. Rượu sản xuất như vậy thì rất hiếm, mà của hiếm là của đắt.

Thứ bảy là yếu tố tâm lý. Khi giới trọc phú ngày càng mọc ra nhiều thì càng đua chen để “hơn nhau tiếng gáy”, như kiểu các “đại gia” mới nổi tại Trung Quốc hay Việt Nam, không tiếc tiền để chứng tỏ bản lĩnh và sự sành điệu của mình. Trước các khách hàng như vậy thì các nhà sản xuất và phân phối dại gì mà không nâng giá : chúng mày thừa tiền, muốn khoe giàu thì ông chém !

Và đây chính là “Hiệu ứng Ernest Gallo: uống rượu thật đắt tiền mới đúng là dân sành điệu “. Hiệu ứng Ernest Gallo Nhà tài phiệt rượu chát Ernest Gallo (1090-2007), sáng lập công ty E &J Gallo Winery, đã phát triển công ty từ nguyên lý nói trên, được giới phê bình gọi là “Hiệu ứng Ernest Gallo”: cùng thứ rượu, khách bao giờ cũng chọn rượu đắt tiền . C nói trên, hiện đứng thứ nhì nước Mỹ, nổi tiếng với nhãn rượu Thunderfire và riêng ông ta năm 2006 được tạp chí Forbes xếp hạng 297 trong danh sách 400 người giàu nhất nước Mỹ. Ernest Gallo sinh năm 1909 tại nông trại nho của cha mình ở thung lũng San Joaquin, cách San Francisco khoảng 80 dặm về phía Đông. Bố của Ernest Gallo là một di dân gốc Ý, sinh sống bằng nghề lấy rượu từ các lò sản xuất giao bán tại các bar ở Oakland và San Francisco. Trong khi gia đình bên ngoại của ông có nghề sản xuất rượu chát đỏ và đến khi ông ngoại của Ernest Gallo qua đời năm 1916, xưởng rượu của gia đình đã sản xuất và bán được tổng cộng 9,000 gallon(1 gallon tương đương với 3,7 lít) rượu chát đỏ. Năm 1920, bố mẹ Ernest Gallo mua một nông trại để trồng nho cung cấp cho các nhà sản xuất rượu chát. Từ nhỏ, Ernest Gallo đã cùng các em làm quen với công việc trồng nho của gia đình, tới năm 17 tuổi, Ernest Gallo được bố giao cho công việc chở nho của gia đình tới các lò rượu.   Năm 1919 Mỹ áp dụng luật cấm rượu, tuy nhiên vẫn cho phép sản xuất rượu chát với tính cách cá nhân, và luật cấm này có vẻ như giúp đỡ công việc của gia đình họ. Đơn giản vì chính phủ cấm rượu mạnh và bia thì người ta trông cậy vào rượu chát tự cất, do đó càng tiêu thụ nho nhiều hơn. Công việc tại nông trại của gia đình Gallo đang hoạt động bình thường thì xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế. Nông trại của gia đình Ernest Gallo cũng mất dần nguồn tiêu thụ nho nên lâm cảnh thua lỗ và nợ nần chồng chất. Sáng ngày 21/6/1933, Joseph Gallo- bố của Ernest Gallo- đã bắn chết vợ tại nhà và sau đó ông dùng súng tự sát, bỏ lại ba người con. Ernest Gallo đã trở thành cột trụ trong gia đình và hai tháng sau, chính phủ liên bang hủy lệnh cấm rượu. Ernest Gallo đã quyết định đưa gia đình đi theo con đường sản xuất và kinh doanh rượu chát với quy mô lớn. Ông và em trai mình thành lập hãng rượu E & J Gallo Winery bằng nguồn vốn vay ban đầu là 5,900 Mỹ kim và một công thức nấu rượu từ thư viện công cộng Modesto. Hai anh em đã dựng nghiệp bằng cách phân công : Julio chuyên tâm vào việc nấu rượu, còn Ernest chuyên tâm vào việc giới thiệu sản phẩm. Ngay từ khi bước vào hoạt động, các sản phẩm của họ chưa có được một nhãn hiệu riêng và chưa được nhiều người biết đến, trong khi gặp sức cạnh tranh của các nhãn rượu đã thành danh như Petri, Cribari hay các nhãn hiệu rượu chát nổi tiếng của Ý và Thụy Sĩ tại thị trường địa phượng.Vì vậy  Ernest Gallo đã tập trung vào chương trình quảng cáo các sản phẩm của mình, chủ yếu là loại rượu không đóng chai. Ernest Gallo đã phát triển công ty với mánh lới đã chứng minh qua các thí nghiệm nói trên : cùng thứ rượu, khách bao giờ cũng chọn rượu đắt tiền. Giai thoại kể rằng một lần khi đến New York,  Ernest Gallo rót cùng một bình rượu ra hai ly, một ly hô giá 5 xu, một ly hô giá 10 xu và người khách đã chọn ngay ly 10 xu. Rượu rẻ tiền và rượu khom lưng… Năm 2001, nhà nghiên cứu Frederic Brochet của Đại học Bordeaux thực hiện hai cuộc khảo sát về rượu và có kết quả thu được khá buồn cười. Đầu tiên Brochet lấy cùng một thứ rượu Bordeaux đỏ đổ nó vào hai chai khác nhau, một chai trang trí màu mè như bất cứ loại rượu “sang” nào khác, trong khi chai kia chỉ là một chai trần trụi, thứ rượu bình dân rẻ tiền. Kết quả từ các vị khách thưởng lãm khác nhau một trời một vực. Chai “sang” được khen tấm tắc với “vị rượu dễ chịu, đậm mùi gỗ, vị phức tạp, cân bằng và êm dịu”, còn chai “bình dân” thì bị cho là “nhạt, êm dịu nhưng không thơm, không đủ chua, không hoàn hảo”. Tổng cộng có 40 khách thưởng lãm cho rằng chai rượu có nhãn “sang” đáng uống, đáng thưởng thức, trong khi chỉ có 12 vị khách cho rằng chai “bình dân” ngon.   Sau đó Brochet đề nghị 54 thiện nguyện viên đánh giá 2 cốc rượu đỏ. Thực chất đây là rượu trắng đã được “nhuộm” đỏ bởi màu của thức ăn. Nhưng các thiện nguyện viên tham gia cuộc khảo sát này đã diễn tả sắc “đỏ” đấy theo thứ ngôn ngữ đặc trưng dành cho rượu chát đỏ. Một người ca ngợi vị “ngọt hoa quả” của thứ rượu đỏ , trong khi một “chuyên gia” khác lại thưởng thức nó và trầm trồ ” choáng ngợp bởi vị của một thứ quả đỏ”. Không một ai để ý rằng nó thực ra là một chai rượu trắng. Brochet kết luận :”Đó là một hiện tượng tâm lý khá phổ biến-quí vị nếm thứ quí vị muốn được nếm. Họ mong được thử rượu đỏ và họ đã làm đúng như thế. Những gì họ ghi nhận, thực ra chỉ là một dạng kết quả hỗn hợp của các ý nghĩ, ảo tưởng và vị giác “. Có thể nói rằng ai cũng muốn làm dân phong lưu lịch lãm, do đó muốn nếm rượu phong lưu lịch lãm, mà đã nói đến phong cách này thì phải nói đến tiền : càng lắm tiền, càng dễ phong lưu. Do đó khi nếm rượu chúng ta dễ bị “mù” vì giá tiền : hễ thấy giá tiền cao là cảm thấy ngon ! Davis Wilson dẫn trang blog The Wine Economist, nói về một mánh lới nhỏ của ngành bán lẻ rượu chát. Khi mua rượu, không ai thích mua thứ rượu dỏm, rượu đáng vứt đi. Khai thác tâm lý này các tiệm rượu dồn những thứ rượu có nhãn hiệu kém nhất xuống các kệ dưới, gần sàn nhà, lên cao dần là các nhãn hiệu bậc trung, bậc cao. Mà thiên hạ càng tiêu thụ sản phẩm rẻ tiền , chủ tiệm càng ít lời. Và khi làm như vậy, họ bắt những kẻ mua rượu rẻ tiền phải khom lưng xuống : loại ít tiền thì phải chịu khom lưng, phải chịu hạ mình xuống. Rõ ràng trên đời này không ai muốn tự hạ thấp mình. Khi mua một ly rượu để uống, không ai muốn thiên hạ đánh giá mình là “hạng người uống rượu 5 xu”. Khi đến tiệm mua một vài chai rượu, không ai muốn bị đánh giá là ” đi mua rượu mà phải khom lưng xuống “. Và đó là cái cách mà những tiệm rươu sắp xếp kệ hàng. Theo họ thì hoạt động thể chất trong việc lấy chai rượu, thể hiện chọn lựa tâm lý mà chúng ta đưa ra : với lên cao để lấy các chai rượu đắt tiền hay hạ mình xuống như một kẻ bần tiện để nếm rượu vứt đi. Nguyên tắc này được áp dụng tại cả những siêu thị lớn lẫn những tiệm tạp hóa rẻ tiền với những biến thể khác nhau. Các nhà bán lẻ đã áp dụng nguyên tắc “khu vực tiện thể về già cả” (wine price comfort zone) tương ứng với từng kệ hàng . Họ không xếp các chai rươu theo vị (ngọt hay chát), theo xuất xứ(Pháp, Ý hay Bồ Đào Nha..) mà trộn lẫn với nhau theo giá tiền. Giống như khẩu hiệu : ” vô sản thế giới liên hiệp lại”, rượu rẻ tiền thì bị tống hết xuống dưới, càng rẻ tiền thì càng bị vùi xuống tận đáy của cửa tiệm, bất kể xuất xứ và phân loại. Kệ này giá rượu từ 3 dô đến 5 đô, kệ trên từ 6 đô đến 8 đô… “Tiền nào của đó” nhưng có khi đó là “của nào, người đó”. The Wine Economist nhận định :”Rõ ràng, khách hàng muốn mua một thứ thể diện, mua hình ảnh của một người không hạ mình uống ly rượu 5 xu mà có khi anh ta không thể nói lên sự khác biệt”.

Life’s too short to drink cheap wine …

Bỏ tiền ‘chạy việc’ sau tốt nghiệp?

Bỏ tiền ‘chạy việc’ sau tốt nghiệp?

Diệu Hương Gửi cho BBC từ London

  • BBC

Chưa kịp mừng vui vì có được tấm bằng giỏi của trường Đại học Sư phạm trong tay, Minh lại đối mặt với gánh nặng thất nghiệp khi gia đình không có mối quan hệ trong ngành cũng như 300 triệu VNĐ để giúp sinh viên vừa tốt nghiệp như cô được đứng lớp ở một trường THCS với mức lương 2 triệu VNĐ một tháng.

Có chăng trường hợp của Minh không phải là duy nhất khi hàng vạn sinh viên ra trường mỗi năm phải ‘chạy vạy’ xin việc nếu có nguyện vọng xin việc vào các công ty nhà nước, mà điển hình rõ ràng nhất tồn tại trong ngành giáo dục, ngân hàng, hàng hải, hoá dầu.

Đầu tư cho tấm bằng đại học đã là chuyện không đơn giản, nhất là đối với con em những gia đình không khá giả, hay khó khăn hơn nữa với sinh viên diện vay tiền ngân hàng để đóng học phí. Sau khi ra trường, con đường tìm việc đối với họ khó khăn hơn nhiều lần khi không có sự hỗ trợ của gia đình về mối quan hệ trong ngành nghề mà mình yêu thích hay một khoản tiền lớn đi kèm.

Để có việc ‘dễ dàng hơn’, ‘chi phí’ cho từng ngành nghề ở mỗi khu vực được cho là khác nhau. Không ai khác, những cựu sinh viên đang mỏi mắt tìm việc trong thị trường hiện nay là người nắm thông tin này rõ nhất.

Thực tế chứng minh rằng để xin việc vào các cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan thực thi pháp luật, dịch vụ công, quản lý hành chính, những bộ máy được hưởng lương từ ngân sách nhà nước như giáo dục, hải quan hay y tế,… sinh viên có năng lực, bằng cấp thôi là chưa đủ.

Để trở thành nhân viên hải quan cảng Hải Phòng hưởng mức lương tối thiểu 1.115.000 VNĐ một tháng, Đạt, sinh viên tốt nghiệp ngành quản lý đã chấp nhận bỏ ra 900 triệu, người được hỏi cũng xác nhận rằng con số này có thể dao động từ 900 triệu đến 1 tỉ 200 triệu VNĐ, trước khi theo học nghiệp vụ, ‘tùy vào mối quan hệ với các lãnh đạo trong ngành’.

Anh cho hay ‘nhân viên hải quan có cơ hội tiếp xúc nhiều với hàng hóa’, sẽ có thêm ‘các nguồn thu khác’ nên người muốn làm ngành này cũng phải ‘đầu tư cao hơn’ khi khả năng ‘thu hồi vốn’ là ‘trong tầm tay’.

Hay như trường hợp của Thư, dù đã qua vòng phỏng vấn, cũng vẫn phải nộp 200 triệu để được vào làm kĩ thuật viên Tập đoàn dầu khí hưởng lương 30 triệu một tháng hay Bình bỏ ra 400 triệu để làm việc ở phòng kế toán.

Ba trường hợp kể trên là ví du điển hình trong vô vàn những ví dụ khác, khắc họa thực trạng chung của xã hội, nói như Minh, cựu sinh viên Đại Học Sư phạm Hà Nội là ‘ra trường bây giờ muốn có việc làm phải biết điều, biết thích nghi mới mong có hợp đồng hay vào biên chế’.

Hưởng thụ an nhàn

” Suy cho cùng, để có công việc như mong muốn, được đóng góp cho xã hội, phát huy được sáng tạo và nâng cao kĩ năng mà vẫn không đánh mất bản thân không phải là chuyện dễ dàng.”

Do đâu những sinh viên này chấp nhận bỏ ra một số tiền lớn ban đầu để tìm việc trong doanh nghiệp nhà nước, cũng đồng nghĩa với ‘làm không lương trong vòng nhiều năm’?

Đạt cho hay nghề của anh ‘an nhàn và ổn định lắm’, lại có thêm nhiều ‘khoản khác’ nên sẽ ‘nhanh chóng giàu có mà không phải lo nghĩ nhiều’.

Có phải một bộ phận không nhỏ những người trẻ hiện nay đã sớm hình thành tâm lý ỷ lại, sống dựa dẫm, muốn giàu sang nhanh chóng nhưng lại lười lao động, tìm công việc ‘an nhàn và ổn định lắm’, ‘mức lương chính và phụ cao’, thay vì tìm kiếm ngành nghề phù hợp với đam mê và sở thích cá nhân để được cống hiến và sáng tạo?

Rất khó cống hiến

Quay trở lại trường hợp của Minh, vì không có đủ số tiền để ‘chạy vạy’, cô phải làm nhiều việc trái ngành nếu không muốn thất nghiệp để chờ cơ hội kiếm đủ số tiền 300 triệu VNĐ.

Vậy là sau bao năm đèn sách trên giảng đường đại học, giấc mơ làm giáo viên của Minh cũng đành hoãn lại.

Minh cho hay một số người bạn của cô lựa chọn học cao lên bậc thạc sỹ, tiến sỹ để ‘né thất nghiệp’, tìm kiếm cơ hội khác, thế nhưng thành phần tìm được công việc như mong muốn trong số này cũng không nhiều.

Người người chạy việc, nhà nhà chạy việc, thế nên đây đã trở thành một quy tắc ngầm đối với bất kể ngành nào có sự góp mặt của yếu tố nhà nước.

Nhìn vào báo cáo quý 1 năm 2014 của Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội Việt Nam ghi nhận tình trạng thất nghiệp ở nhóm lao động trình độ chuyên môn ngày càng tăng, cụ thể có 79.100 người có trình độ cao đẳng bị thất nghiệp, 162.400 người có trình độ từ đại học trở lên bị thất nghiệp.

Biết được thực tế, để tồn tại trong môi trường lao động khắc nghiệt như hiện nay, ‘nguồn nhân lực của đất nước’ cũng chỉ biết ‘sống chung với lũ’ , có người chấp nhận và hùa theo, coi việc bỏ tiền ra là đáng làm, cũng có người tìm cách thích nghi hay tìm cơ hội làm việc khác.

Suy cho cùng, để có công việc như mong muốn, được đóng góp cho xã hội, phát huy được sáng tạo và nâng cao kĩ năng mà vẫn không đánh mất bản thân không phải là chuyện dễ dàng.

Họ, những người trẻ đầy nhiệt huyết trước ngưỡng cửa lập nghiệp, đang trở thành ‘nạn nhân’ hay ‘kẻ tiếp tay’ cho một tệ nạn trên thị trường lao động Việt Nam?

Tác giả đã phỏng vấn các bạn nêu trên trong bài nhưng xin không nêu cả họ tên vì lý do tế nhị.

Những đòn trấn áp “thầm lặng” của chính quyền Việt Nam

Những đòn trấn áp “thầm lặng” của chính quyền Việt Nam

Hòa Ái, phóng viên RFA
2014-12-18

122182014-activist-ha.mp3

1511265_10152906787839571_728064690218454701_n.jpg

Anh Lý Quang Sơn

Citizen photo

Your browser does not support the audio element.

Khó khăn về chỗ ở …

Các bạn trẻ ở VN tham gia các hoạt động dân chủ hiện đang gặp nhiều trở ngại trong cuộc sống do phía chính quyền địa phương gây ra. Những khó khăn nào họ đang phải đối diện cũng như họ sẽ tiếp tục con đường đã chọn hay không?

“Hiện nay bọn em thuê hợp đồng với chủ nhà là 1 năm. Tuy nhiên, hợp đồng mới thực hiện được 3 tháng thì chủ nhà bị an ninh liên tục gọi điện. Đầu tháng 10 đã gọi điện cho chủ nhà và yêu cầu chủ nhà hủy hợp đồng với bọn em, đuổi bọn em ra khõi nhà. Họ nói thẳng với bọn em là an ninh, công an phường người ta gọi điện liên tục, 1 ngày phải lên đến 3 lần để làm việc với an ninh. Đi đi, lại lại để làm việc như vậy khiến họ cảm thấy mệt mỏi. Tức là cơ quan công an, an ninh đã có hành vi tác động đến chủ nhà và đuổi bọn em ra khỏi nhà để không cho bọn em ra khỏi đây nữa”.

Vừa rồi là chia sẻ của bạn trẻ Lý Quang Sơn, người đã tham gia các hoạt động phổ biến thông tin về nhân quyền sau khi VN được bầu làm thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (LHQ) hồi tháng 11 năm 2013. Là sinh viên trường Luật, Lý Quang Sơn tự thấy mình có trách nhiệm với xã hội là cần phải tìm hiểu cũng như phổ biến cho những người xung quanh có sự hiểu biết về các quyền căn bản của con người được quy định trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền.

” Tức là cơ quan công an, an ninh đã có hành vi tác động đến chủ nhà và đuổi bọn em ra khỏi nhà để không cho bọn em ra khỏi đây nữa.
-Anh Lý Quang Sơn”

Lý Quang Sơn chia sẻ thông tin nhân quyền với mọi người bằng các cẩm nang trong những buổi tham gia mặc áo có biểu tượng nhân quyền đi nhặt rác. Tuy nhiên, sinh viên Lý Quang Sơn không nhận được sự khuyến khích nào từ chính quyền địa phương trong sự phổ biến kiến thức nhân quyền cho người dân mà trái lại bản thân anh cùng 3 sinh viên khác không được tiếp tục thuê chổ ở dù không có biểu hiện nào vi phạm hợp đồng thuê nhà.

Lên tiếng với đài ACTD, Đỗ Anh Tuấn, người tham gia hoạt động quảng bá cho quyền con người cho biết anh bị phạt 35 triệu đồng vì tàng trữ và phổ biến Tuyên ngôn Nhân quyền LHQ và Hiến pháp nước CHXHCNVN 1992. Anh Đỗ Anh Tuấn chia sẻ rằng nhân ngày Quốc tế Nhân quyền, hôm 8 tháng 12 năm ngoái, anh cùng những người bạn đến công viên Thống Nhất phân phát tờ rơi và tờ gấp Cẩm nang Thực thi Quyền làm người. Sau đó 3 ngày, Đỗ Anh Tuấn nhận thông báo quyết định xử phạt hành chính về xuất bản phẩm in sao lậu và anh Tuấn tiến hành kiện chính quyền địa phương. Anh Tuấn cho biết thêm:

“Lần đầu khi họ quyết định xử phạt thì em đã quyết định kiện đến Tòa án Nhân dân ở Quận Hai Bà Trưng nhưng cách diễn giải của họ thì rất lằng nhằng trong đối tượng bị kiện giữa là Chủ tịch UBND Quận Hai Bà Trưng hay là đích danh ông Nguyễn Văn Hiếu-Chủ tịch UBND Quận Hai Bà Trưng hay chỉ cái tên UBND Quận Hai Bà Trưng không thôi”.

…và việc làm

Vì thủ tục kiện tụng rắc rối như vậy nên anh Tuấn đã dừng lại. Đúng 1 năm sau, Đỗ Anh Tuấn nhận được thông báo bị cưỡng chế bằng hình thức trực tiếp trừ lương hàng tháng trong tài khoản ngân hàng.

580323_455196341258829_1219449910_n-400.jpg

Ảnh minh họa.

Thế số phận của những người bày tỏ chính kiến, chia sẻ thông tin về dân chủ nhân quyền trên các trang mạng xã hội thì thế nào? Bạn Khúc Thừa Sơn cho biết:

“Mình không kiếm được việc làm bởi vì căn cứ theo giấy tờ để xin việc làm thì chính quyền địa phương chỗ Sơn cư trú không chứng giấy tờ cho Sơn. Nếu không có giấy tờ thì không có bất cứ công ty nào nhận hồ sơ cả và coi như mình không thể có việc làm”.

Blogger Nguyễn Thiện Nhân tham gia Hội Nhà báo Độc lập thì lại rơi vào hoàn cảnh bị chủ doanh nghiệp nơi anh làm việc cho thôi việc. Theo như lý do anh bị cho nghỉ việc vì chủ doanh nghiệp bị áp lực từ cơ quan chính quyền địa phương. Anh Nguyễn Thiện Nhân trình bày:

“Tại vì hiện nay ở VN, nhận thức chính trị của người dân cũng như của doanh nghiệp rất thấp do trong một thời gian dài họ phải sống trong một xã hội thông tin một chiều và áp đặt những lý luận của Đảng Cộng sản cho nên nhận thức chính trị của họ thấp. Tôi nghĩ nếu trong thời gian tới mà tôi xin được công việc toàn thời gian thì sau một thời gian ngắn, khoảng nửa năm thì công ty cũng sẽ biết những hoạt động của tôi trên mạng và họ sẽ lại lo lắng và sẽ đuổi tôi thôi. Cho nên tôi thấy đường mưu sinh của tôi bị ảnh hưởng bởi hoạt động vì dân chủ”.

” Tôi nghĩ nếu trong thời gian tới mà tôi xin được công việc toàn thời gian thì sau một thời gian ngắn, khoảng nửa năm thì công ty cũng sẽ biết những hoạt động của tôi trên mạng và họ sẽ lại lo lắng và sẽ đuổi tôi thôi.
– Anh Nguyễn Thiện Nhân”

Ở VN ngày càng có nhiều những người trẻ lên tiếng cũng như tham gia vào các hoạt động cổ võ cho tự do dân chủ. Họ không những phải đối mặt với nhiều hình thức sách nhiễu, trấn áp “thầm lặng” như các hoàn cảnh vừa nêu mà họ còn là nạn nhân của những vụ tấn công, hành hung được dàn cảnh do côn đồ nhưng thực chất là do những nhân viên trong ngành an ninh mặc thường phục. Các trường hợp mới nhất được ghi nhận là của Blogger Nguyễn Hoàng Vi, nhà báo Trương Minh Đức, Luật sư Nguyễn Bắc Truyển…Thậm chí nhiều người phải chịu cảnh tù đày như nhạc sĩ Việt Khang, bạn trẻ Đinh Nguyên Kha…

Mới đây, Tổ chức Các Nhà Báo Không Biên Giới vừa công bố bản phúc trình phản ánh tình trạng đàn áp blogger và cư dân mạng ở VN ngày một trở nên đáng lo ngại. Phúc trình cho thấy hiện có 34 blogger bị cầm tù. Trong khi đó, con số những người đang bị triệt tiêu con đường sống ngoài xã hội do dấn thân hoạt động đấu tranh dân chủ ôn hòa thì vẫn chưa được thống kê.

Thế nhưng, những người này tuyên bố vẫn kiên định theo con đường đã chọn vì họ cho rằng những việc họ làm rất bình thường mà còn bị đàn áp, bị mất nhân quyền thì họ càng phải cố gắng và càng quyết tâm hơn bởi vì xã hội đi lên là nhờ vào nhận thức của mỗi người dân từ những quyền cơ bản nhất, trong đó có quyền tự do ngôn luận và quyền tự do bày tỏ ý kiến của mình. Họ phải tiếp tục với hy vọng không phải cho bản thân mà cho hơn 90 triệu người dân được hưởng một môi trường sống tự do dân chủ, không còn ai bị phạt chỉ vì phát Tuyên ngôn Nhân quyền của LHQ.

Hiện đang có 34 blogger bị giam cầm, và ngay chính trong bản phúc trình mới được Tổ chức Các Nhà Báo Không Biên Giới công bố hôm 16/12 vừa rồi có đoạn viết rằng Nhà nước VN vừa tìm cách ngăn chặn internet vừa bắt giữ những người sử dụng internet để bày tỏ quan điểm của họ, đòi hỏi Chính phủ phải đổi mới chính trị, lắng nghe tiếng nói của người dân. Mặc dù số người bị Nhà nước bắt giữ ngày một nhiều nhưng những nhà tranh đấu dân chủ cho VN vẫn đi sát với lời cam kết mà họ đưa ra từ những ngày đầu tiên là không bao giờ bỏ cuộc.

Mẹ lạnh lắm phải không?

Mẹ lạnh lắm phải không?

me-lanh-lam-phai-khong

Vào một đêm Giáng sinh, một thiếu phụ mang thai lần bước đến nhà một người bạn nhờ giúp đỡ. Con đường ngắn dẫn đến nhà người bạn có một mương sâu với cây cầu bắc ngang. Người thiếu phụ trẻ bỗng trượt chân chúi về phía trước, cơn đau đẻ quặn lên trong chị . Chị hiểu rằng mình không thể đi xa hơn được nữa. Chị bò người phía bên dưới cầu. Đơn độc giữa những chân cầu, chị đã sinh ra một bé trai. Không có gì ngoài những chiếc áo bông dày đang mặc, chị lần lượt gỡ bỏ áo quần và quấn quanh mình đưa con bé xíu, vòng từng vòng giống như một cái kén. Thế rồi tìm thấy được một miếng bao tải, chị trùm vào người và kiệt sức bên cạnh con.

Sáng hôm sau, một người phụ nữ lái xe đến gần chiếc cầu, chiếc xe bỗng chết máy. Bước ra khỏi xe và băng qua cầu, bà mẹ nghe một tiếng khóc yếu ớt bên dưới. Bà chui xuống cầu để tìm. Nơi đó bà thấy một đứa bé nhỏ xíu, đói lả nhưng vẫn còn ấm, còn người mẹ đã chết cóng. Bà đem đưa bé về và nuôi dưỡng.

Khi lớn lên, cậu bé thường hay đòi mẹ nuôi kể lại câu chuyện đã tìm thấy mình. Vào một ngày lễ giáng sinh, đó là sinh nhật lần thứ 12, cậu bé nhờ mẹ nuôi đưa đến mộ người mẹ tội nghiệp. Khi đến nơi, cậu bé bảo mẹ nuôi đợi ở xa trong lúc cậu cầu nguyện. Cậu bé đứng cạnh ngôi mộ, cúi đầu và khóc. Thế rồi cậu bắt đầu cởi quần áo. Bà mẹ nuôi đứng nhìn sững sờ khi cậu bé lần lượt cởi bỏ tất cả và đặt lên mộ mẹ mình.

“Chắc là cậu sẽ không cởi bỏ tất cả – bà mẹ nuôi nghĩ – cậu sẽ lạnh cóng!”

Song cậu bé đã tháo bỏ tất cả và đứng run rẩy. Bà mẹ nuôi đi đến bên cạnh và bảo cậu bé mặc đồ trở lại. Bà nghe cậu bé gọi người mẹ mà cậu chưa bao giờ biết: “mẹ đã lạnh hơn con lúc này, phải không mẹ?” Và cậu bé oà khóc…

From: KittyThiênKim & Nguyễ Kim Bằng gởi

Tiền Việt kiều gửi về ‘là phao cứu sinh’

Tiền Việt kiều gửi về ‘là phao cứu sinh’

Một kinh tế gia ở Việt Nam nói kiều hối có tác động rất tích cực đến vĩ mô ở Việt Nam.

Bình luận được tiến sĩ Võ Trí Thành từ Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) đưa ra nhân sự kiện hãng dịch vụ chuyển tiền Western Union kỷ niệm 20 năm hoạt động tại Việt Nam vào tuần này.

Western Union hiện có hơn 9000 điểm giao dịch và đại lý ở 63 tỉnh thành tại Việt Nam.

“Trong giai đoạn 1991-2013, lượng kiều hối chính thức vào Việt Nam hàng năm đã tăng trưởng trung bình 38,6%/năm, với tổng giá trị kiều hối là 80,4 tỉ đô la Mỹ, chưa tính lượng kiều hối năm nay 2014, dự kiến vào khoảng 11-12 tỉ đô la Mỹ.

“Trong giai đoạn 2007-2013, tổng kiều hối là nguồn vốn lớn thứ 2 tại Việt Nam (sau vốn FDI), và lớn hơn cả vốn ODA đã giải ngân”, ông Thành được Thời báo Kinh tế Sài Gòn dẫn lời.

‘Rất quan trọng’

Kiều hối 2010-2012

Hoa Kỳ 57%

Úc 9%

Canada 8,4%

Đức 6%

Campuchia 4%

Pháp 4%

Một khảo sát của CIEM tiến hành với hàng trăm người ở bảy tỉnh, thành phố ở Việt Nam cho thấy “khoảng 16% người tham gia khảo sát cho biết dòng tiền kiều hối chảy vào lĩnh vực kinh doanh và sản xuất;

“Khoảng 17% số người tham gia cho biết tiền kiều hối chiếm đến 80% tổng thu nhập gia đình họ. Có đến 40% số người tham gia khảo sát cho biết, tiền kiều hối đóng vai trò “quan trọng” và “rất quan trọng” đối với đời sống gia đình họ.

“Kiều hối đóng vai trò phao cứu sinh cho các nhà đầu tư không thể vay vốn ngân hàng do các quy định nghiêm ngặt về vay vốn,” ông Thành được báo này dẫn lời.

Vào năm ngoái Việt Nam nằm trong 10 nước nhận kiều hối nhiều nhất thế giới với tổng giá trị kiều hối là 11 tỉ đô la Mỹ năm 2013, chiếm đến hơn 8% GDP.

Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao cho biết có khoảng 4 triệu người Việt Nam đang sinh sống, làm việc, và học tập tại hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Ngày 25/11 vừa qua, Quốc hội Việt Nam biểu quyết thông qua Luật Nhà ở với đa số phiếu cho phép các tổ chức và công ty nước ngoài hoạt động tại Việt Nam cũng như cá nhân “được phép nhập cảnh vào Việt Nam” được mua nhà và căn hộ.

Tuy nhiên luật này phải tới tháng 7 năm 2015 mới có hiệu lực và giới quan sát tỏ ra lạc quan ở mức dè dặt đối với cái gọi là “các văn bản hướng dẫn” hiện chưa có.

Trong cuộc phỏng vấn với BBC vào cuối tháng trước, ông Nguyễn Ngọc Thịnh, Việt kiều Mỹ định cư và làm việc ở Việt Nam lâu năm, nhận định “khối người nước ngoài mở công ty, kinh doanh ở Việt Nam có xu hướng thuê nhà nhiều hơn mua” và “nhu cầu có một căn nhà để về ở khoảng sáu tháng cho tới một năm của một số Việt kiều là có”.

“Những Việt Kiều chúng tôi nói chuyện và khá nhiều nhà đầu tư nước ngoài khác vẫn chờ đợi một văn bản cởi mở hơn, rõ ràng hơn được đi vào thực tiễn”, ông Thịnh nói thêm.

Ngay cả khi mua nhà cho người nước ngoài trong đó có Việt Kiều được đơn giản, ông Thịnh nói cần có một thủ tục rõ ràng để bán lại bất động sản đã mua nhằm “tránh rủi ro”.

Tiếp tục suy nghĩ về những vụ bắt bớ gần đây

Tiếp tục suy nghĩ về những vụ bắt bớ gần đây

RFA

Những gì diễn ra trong những năm gần đây và nhất là trong những ngày gần đây khiến tôi tự đặt cho mình câu hỏi này : phải chăng đang diễn ra một quá trình tái toàn trị hóa (trở lại với thời kỳ toàn trị) tại Việt Nam ?

Những nghiên cứu của Hannah Arendt cho phép bà xác định rằng khái niệm chủ nghĩa toàn trị (totalitarisme) được áp dụng cho hai hệ thống duy nhất : hệ thống cộng sản Liên Xô dưới thời Staline và hệ thống quốc xã Đức thời Hitler. Sau cái chết của hai lãnh tụ toàn trị này, hệ thống toàn trị sụp đổ, cái còn tiếp tục tồn tại được gọi là hệ thống độc tài cộng sản.

Václav Havel không đồng ý với cách nhìn này. Trong những năm 70 của thế kỷ trước, ông dùng chữ chủ nghĩa hậu toàn trị (post-totalitarisme) để chỉ mô hình chính trị của các nước cộng sản Đông Âu. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là đến cuối những năm 80, ông sử dụng lại khái niệm « chủ nghĩa toàn trị » của Arendt một cách hệ thống để chỉ hình thái cộng sản Đông Âu, trong một bài viết có tựa đề là « Histoire et totalitarisme ». Có lẽ đối với Havel, những yếu tố toàn trị luôn là một đặc điểm cố hữu của chủ nghĩa cộng sản.

Nếu ta đồng ý với Arendt rằng chữ « chủ nghĩa toàn trị » chỉ phù hợp với một chế độ trong đó diễn ra việc thanh trừng hàng loạt, giết người với số lượng lớn, và giết những người vô tội, thì quả thật điều đó chỉ phù hợp với Liên Xô của Staline, và nước Đức của Hitler.

Ở các nước cộng sản khác, dù số lượng người bị giết không nhiều như ở hai quốc gia nêu trên, nhưng vẫn diễn ra những vụ giết người hàng loạt. Ở Việt Nam, điều đó đã xảy ra trong cải cách ruộng đất. Bao nhiêu người vô tội đã bị giết chỉ vì thuộc thành phần địa chủ, và kể cả khi họ không phải là địa chủ, kể cả khi họ là ân nhân của những lãnh tụ cộng sản, họ bị giết chỉ vì cần phải có một số lượng người bị giết cho đủ chỉ tiêu. Nếu đặt trong guồng máy và logic của chủ nghĩa toàn trị và chủ nghĩa cộng sản để xem xét vụ cải cách ruộng đất, ta sẽ hiểu vì sao một việc như thế có thể xảy ra, và đã xảy ra.

Có lẽ hiện đang có một quá trình tái toàn trị hóa tiệm tiến tại Việt Nam. Để xác định được nó bắt đầu từ lúc nào, cần phải có nghiên cứu, nhưng rất có thể (đây chỉ là một phỏng đoán chưa kiểm chứng) nó có nguồn gốc từ hội nghị Thành Đô, bởi trước đó Việt Nam đã biết đến một thời kỳ mở cửa với thành tựu trên nhiều mặt.

Tôi dẫn ra đây những sự kiện mà tôi dựa vào đó để suy luận về một quá trình tái toàn trị hóa có thể đang diễn ra trên lãnh thổ chúng ta.

Vụ Nhã Thuyên cho thấy sự trở về với những cuộc thanh trừng thời kỳ Nhân văn Giai phẩm. Dù rằng, về quy mô và tính chất không có sự tương đương, nhưng có một ý chí quyết tâm đưa sinh hoạt văn học nghệ thuật và nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn trở lại thời kỳ Nhân văn Giai phẩm, và được thực hiện tinh vi hơn, kín đáo hơn. Thậm chí ý chí này được luật hóa bằng luật giáo dục.

Việc xuất hiện « sự tố giác của quần chúng » chính là ngôn ngữ của thời cải cách ruộng đất. Và những người bị bắt mới đây, Hồng Lê Thọ và Nguyễn Quang Lập, là những người bình thường như bao nhiêu người khác. Việc bắt bớ họ gây ngạc nhiên, gây sửng sốt bởi họ không giống Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, không giống Trương Duy Nhất và Phạm Viết Đào ở những điểm : họ không có một tuyên ngôn rõ ràng về quan điểm chính trị, không có quan điểm chống đối, không trực tiếp viết bài. Blog của họ chỉ làm nhiệm vụ đưa tin, như bao nhiêu blog khác. Thậm chí, dưới mỗi bài đăng lại trên Quê Choa đều có ghi : « Nội dung bài viết không phản ánh quan điểm của Quê Choa ». Tôi ghi theo trí nhớ, vì khi vào tìm lại blog Quê Choa để kiểm tra thì không còn tìm thấy địa chỉ của Quê Choa trên google nữa. Ngoài số lượng người truy cập và số lượng bài giới thiệu, thì Quê Choa và Người Lót Gạch cũng giống như rất nhiều những blog khác. Và mọi người ngơ ngác, không hiểu tại sao hai người này bị bắt, và do đó đã có nhiều suy luận khác nhau về nguyên nhân, một điều bình thường trong bối cảnh chẳng có nguyên nhân nào được đưa ra một cách chính thức.

Trước đây chính quyền chỉ bắt một người, bây giờ đã có dấu hiệu bắt hàng loạt, và bắt những người bình thường, theo « tố giác của quần chúng ». Đó là một dấu hiệu rõ rệt của sự quay trở lại với thời cải cách ruộng đất. Hẳn chúng ta chưa quên rằng cách đây ít lâu, có một triển lãm chính thức về cải cách ruộng đất tại thủ đô, và điều này cũng đã gây ngạc nhiên cho tất cả mọi người. Khó có thể tìm thấy một lý do thích hợp cho việc tổ chức một triển lãm như vậy. Nhưng chúng ta sẽ không ngạc nhiên khi nhìn nó như dấu hiệu của một quyết tâm quay trở lại với thời kỳ dã man nhất của chủ nghĩa toàn trị cộng sản. Thực ra chính quyền cũng không dấu sự dã man của mình khi chọn bắt giam hai người có tuổi và đều đang bị bệnh nặng. Thông điệp của chính quyền là : dân chúng cần biết rằng họ đang được lãnh đạo bởi một chính quyền đủ khả năng đi tới tận ranh giới cuối cùng của sự vô nhân đạo.

Khi đã đi tới chỗ bắt quả tang một nhà văn đang viết văn (có nhà văn nào mà không viết văn, không viết văn sao gọi nhà văn), có nghĩa là đi tới chỗ bắt một người đang làm công việc thường nhật của mình, thì có nghĩa mọi việc chẳng còn nằm trong bất kỳ một logic nào nữa. Ai cũng có thể bị bắt quả tang khi đang làm công việc thường nhật của mình : một nhà giáo sẽ bị bắt quả tang khi đang đứng trên bục giảng, một bác sĩ sẽ bị bắt quả tang khi đang khám cho bệnh nhân, một bà nội trợ sẽ bị bắt khi đang làm bếp, và có thể tới chỗ một ông chồng sẽ bị bắt quả tang khi đang ngủ với vợ mình… Thật ra chẳng còn gì đáng ngạc nhiên nữa kể từ khi hai cái bao cao su đã qua sử dụng bị bắt quả tang đang ở trong sọt rác của khách sạn, rồi hai xe máy bị bắt quả tang đi hàng ba… Một nhà văn bị bắt quả tang khi đang viết văn, có lẽ sự phi lý này có nhiều thi tính nhất trong số các sự vụ phi lý đã diễn ra!!!

Chúng ta thực sự không biết được chính quyền này có quyết định quay trở về tới tận cái khởi điểm chết chóc của chủ nghĩa toàn trị, lúc mà hàng loạt người vô tội bị giết không cần lý do, không cần nguyên nhân, bị giết bởi chính sự vô tội của họ. Chúng ta không biết được, không ai suy đoán được.

Chúng ta đã có bằng chứng trong lịch sử để thấy sự tàn bạo, bạo lực, bản năng giết người nằm sẵn trong con người như thế nào, và trong những điều kiện nào đó thì sự tàn bạo dâng lên và lây lan trên diện rộng. Bao nhiêu triệu người Do Thái đã bị giết chỉ vì họ là người Do Thái. Đã có bao nhiêu nghiên cứu về bạo lực, nhưng dĩ nhiên chưa ai có câu trả lời cuối cùng.

Trên cái đà gia tăng bạo lực trong xã hội hiện nay, và với sự gia tăng đàn áp, gia tăng bạo lực từ phía chính phủ mà càng ngày dân chúng càng bị buộc phải chứng kiến như trong thời gian những năm gần đây, chúng ta khó mà biết được quá trình tái toàn trị hóa này sẽ dẫn Việt Nam tới đâu.

Chúng ta cần tiếp tục suy nghĩ nếu chúng ta còn có bộ não ở trong đầu. Chúng ta cần cảm thấy đau đớn trước việc những người vô tội càng ngày càng bị bắt nhiều hơn, nếu chúng ta còn có một trái tim trong lồng ngực. Và chúng ta cần hành động nếu cuộc sống của chính chúng ta bị đe dọa. Quyền bảo vệ mạng sống là quyền tự nhiên mà tất cả mọi người sinh ra đều có, đó là quyền mà không ai ban bố được cho ai, cũng không ai tước đoạt được của ai.

Paris, 17/12/2014

Nguyễn Thị Từ Huy

Các nhà báo, blogger bị «bắt khẩn cấp»

Các nhà báo, blogger bị «bắt khẩn cấp»

Hoà Vân

Hai vụ bắt blogger trong tuần qua nhắc lại : ở Việt Nam, dù là một nước hoà bình từ nhiều thập kỉ nay, nghề viết lách (nhà văn, nhà báo, blogger) vẫn là một nghề nhiều nguy hiểm. Công cụ đàn áp người viết thì nhiều, nhưng nổi bật phải kể đến Điều 258 của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009 (dưới đây sẽ gọi tắt là “điều 258”).

Điều này đề ra «tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân». Khung hình phạt của nó là «phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm, trong trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm».

Với cách viết mơ hồ, chung chung, đi ngược hẳn các nguyên tắc luật pháp thông thường đòi hỏi sự rõ ràng, phân minh, điều 258 hiển nhiên chỉ giao quyền cho Nhà nước «xử» những người công khai phản kháng những chính sách, hành xử, của Nhà nước và đảng cầm quyền (từ «tổ chức» trong tội danh). Ngay cả từ «công dân» ở đây cũng chỉ có thể – và đã xảy ra một lần – là một công dân «bình đẳng hơn những (công dân) khác», theo cách nói của George Orwell trong Trại Súc vật, nói cách khác, là những công dân có chức có quyền ở một cấp «không nhỏ». Các trường hợp «xâm phạm lợi ích» của phó thường dân (xin lỗi, «công dân») khác dĩ nhiên thuộc phạm vi của Luật dân sự, Nhà nước chẳng hơi đâu mà hình sự hoá chuyện ông X «xâm phạm lợi ích» của bà Y nếu bà này không thuộc bộ máy. Mục tiêu ở đây «cao» hơn: bóp nghẹt mọi đòi hỏi tự do ngôn luận, tự do báo chí.

Một khía cạnh nữa, tuy kỹ thuật nhưng cho thấy rõ hơn mục tiêu bóp nghẹt đó. Lần giở lại những thông tin được đưa ra trong các vụ bắt bớ vì điều 258, người ta thấy toàn là các vụ « bắt khẩn cấp », như thể những người bị bắt chuẩn bị bỏ trốn hoặc mới có hành động gì nguy hiểm, phải ngăn chặn ngay, nhưng cơ quan điều tra lại chẳng hề đưa ra được chứng cớ nào để chứng minh hai khả năng ấy – kể cả những «chứng cớ » nguỵ tạo như kiểu «hai bao cao su đã qua sử dụng » trong vụ Cù Huy Hà Vũ ! Mới đây, trong hai vụ bắt các blogger Hồng Lê Thọ và Quê Choa Nguyễn Quang Lập, công an còn sáng tạo ra khái niệm «bắt quả tang (đang không làm gì !)». Nói theo ngôn ngữ của công an: không có thủ đoạn hèn hạ nào mà «chúng tao» không dám làm, bắt là bắt thôi, đừng ai hỏi vì sao, vô ích.

Ai là đối tượng mà điều 258 nhắm tới ?

Trong một lần trả lời phỏng vấn của báo Người Việt (California) tháng 8 năm 2013, nhà báo – blogger Phạm Đoan Trang cũng nhấn mạnh mục tiêu nói trên: «Điều 258 đặc biệt được chính quyền sử dụng để bắt nhà báo». «Nhà báo» ở đây dĩ nhiên không chỉ là những người viết cho các báo chí chính thống, mà cả những blogger (những người viết blog), nhất là từ những năm cuối thập kỷ 2000 – 2010, khi việc sử dụng Internet lan rộng ở Việt Nam.

Chị nói thêm: «Trong điều kiện Việt Nam thì việc làm thống kê là bất khả thi, vì rất có thể là đã có nhiều người bị bắt vì Điều 258 mà dư luận không biết». Tuy nhiên, trong một bài viết chung với luật sư Trịnh Hữu Long trên Mạng lưới blogger Việt Nam, tác giả nêu lên con số «ít nhất 32 người từ 2006 tới nay» đã bị bắt theo điều này, kể cả một số người mà công an «cứ bắt cái đã», nếu cần thì đổi tội danh sau!

Trong điều kiện đó, những vụ việc mà chúng tôi nêu ra dưới đây dĩ nhiên chỉ có giá trị như những ví dụ điển hình, và không thể được coi như toàn bộ hồ sơ các vụ bắt bớ vì điều 258 này. Lại càng không phải toàn bộ hồ sơ những vụ bắt bớ các nhà báo và blogger, dưới những tội danh khác cũng mơ hồ như tội «lợi dụng tự do, dân chủ»: tội «tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam» (điều 88 Luật Hình sự) hay «phá hoại chính sách đoàn kết» (điều 87), hoặc nặng hơn, tội «hoạt động nhằm lật đổ chính quyền» (điều 79) v.v.

Những người đã được trả tự do, sau thời gian tạm giam hoặc đã hết hạn tù

Tháng 5 năm 2008, hai nhà báo Nguyễn Việt Chiến (Thanh Niên) và Nguyễn Văn Hải (Tuổi Trẻ) bị bắt về tội “lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” liên quan tới vụ PMU18, nhưng rút cục đã bị truy tố ra toà về tội «lợi dụng tự do, dân chủ…» (điều 258). Trong phiên toà ngày 15.10.2008, Nguyễn Việt Chiến bị kết án 2 năm tù giam (ông được trả tự do trước thời hạn, vào ngày 15.1.2009), còn Nguyễn Văn Hải bị kết án 24 tháng tù treo và được trả tự do ngay tại toà.

Ngày 13 tháng 6.2013, nhà báo – blogger Phạm Viết Đào bị « bắt khẩn cấp » vì điều 258, các blog của ông bị xoá hết, và ngày 19.3.2014 ông bị toà án Hà Nội kết án 15 tháng tù (địa chỉ chúng tôi đưa đây là blog mới, sau khi ông được trả tự do ngày 13.9.2014).

Điếu Cày Nguyễn Văn Hải là một trường hợp đặc biệt. Ông bị bắt ngày ngày 20.4.2008 và bị đưa ra toà về tội « trốn thuế », nhưng ai cũng biết tội danh chính của ông là tham gia thành lập Câu lạc bộ Nhà báo Tự do (vào tháng 9.2007). Bị kết án 30 tháng tù (tính từ ngày bị bắt), ông chờ đợi được trả tự do sau khi mãn hạn vào ngày 20.10.2010, nhưng lại bị giữ trong tù để «điều tra thêm» về các hành vi tuyên truyền chống nhà nước (điều 88), và bị đem ra xử vào tháng 9.2012 về tội danh này (sau gần 2 năm giam giữ không có cơ sở pháp lý nào, và không cho gia đình bất kỳ thông tin nào), cùng với hai người bạn trong Câu lạc bộ Nhà báo Tự do là các blogger Tạ Phong Tần và Phan Thanh Hải. Trong phiên toà xử tội phạm rất nghiêm trọng đó (nhưng lại diễn ra lúi xùi chỉ trong một ngày, gia đình người thân đều không được tham dự), ông bị kết án 12 năm tù, bà Tạ Thị Phong Tần 10 năm và ông Phan Thanh Hải 4 năm tù. Ngày 21.10 vừa qua, nhà cầm quyền Hà Nội bất ngờ «trả tự do» cho ông, nhưng lại dẫn ông ra thẳng sân bay đưa sang Los Angeles (không phải với lý do «đoàn tụ gia đình» vì ông không có thân thích ở đây).

Cuối tháng 8 năm 2009, các blogger Bùi Thanh Hiếu (blog Người Buôn Gió, tác giả những bài viết mang tên «Đại vệ Chí dị»), Phạm Đoan Trang (lúc đó là nhà báo VietnamNet, blog Trang The Ridiculous, nay là Đoan Trang), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (blog «Mẹ Nấm») cùng bị bắt trong vụ in áo thun «Hoàng Sa – Trường Sa là của Việt Nam». Cả ba được trả tự do sau khi hết hạn tạm giam (9 ngày), nhưng tiếp tục bị quấy nhiễu nhiều lần sau đó. Người Buôn Gió hiện đã được sang Đức khi có lời mời của thị trưởng Weimar. Phạm Đoan Trang đang học tiến sĩ ở Mỹ.

Nhà báo Lê Nguyễn Hương Trà, nổi tiếng hơn với blog Cô gái Đồ Long bị bắt khẩn cấp ngày 26.10.2010 cũng về tội «lợi dụng tự do, dân chủ» nhưng người ta mau chóng được biết là trong trường hợp này điều 258 đã được viện ra do một bài blog «liên quan tới diễn viên múa Linh Nga và người chồng tương lai là Nguyễn Khánh Trọng, con trai của Nguyễn Khánh Toàn, thượng tướng công an, thứ trưởng Bộ Công an». Có lẽ đây là trường hợp là duy nhất mà người bị buộc tội vi phạm điều 258 vì đã «xâm phạm lợi ích» của một cá nhân (chữ «công dân» trong tội danh, như đã nói trên). Xem bài của Phong Quang trên mặt báo này. Cô gái Đồ Long được tại ngoại ngày 20.1.2011, sau gần ba tháng bị giam cầm, rồi được «miễn truy cứu hình sự» ngày 8.4.2011.

Gần đây hơn, vụ nhà báo Phạm Chí Dũng bị bắt ngày 17.7.2012 vì bị tình nghi có «hoạt động lật đổ» (ông bị nghi ngờ là đứng sau trang mạng «Quan làm báo» rất nổi đình đám lúc đó), tội rất nghiêm trọng có khung hình phạt lên đến án tử hình, nhưng chỉ bị tạm giam tới đúng khi hết thời hạn (4 tháng) thì được tha. Hiện nay, ông đã cũng với một vài người cùng chính kiến thành lập Hội nhà báo độc lập và trang mạng Việt Nam thời báo.

Những người hiện còn bị giam cầm

Trước hết, cần nhắc lại, trong vụ Câu lạc bộ các Nhà báo tự do, tuy Điếu Cày Nguyễn Văn Hải đã được ra khỏi tù và bị đưa thẳng sang Mỹ, hai người bạn của ông là bà Tạ Thị Phong Tần và ông Phan Thanh Hải vẫn còn bị tù đày dài hạn vì một bản án vô nhân, có mục đích trấn áp những người quyết tâm đòi tự do báo chí.

Gần như cùng thời gian với vụ Phạm Viết Đào, ngày 26.5.2013 công an Đà Nẵng đã phối hợp với Cơ quan An ninh điều tra thuộc bộ Công an tiến hành bắt blogger Trương Duy Nhất, chủ blog Một góc nhìn khác (hiện đã bị khoá). Diễn Đàn đã đưa tin này trong mục Thấy trên mạng, với đường dẫn về nhiều bài viết, bình luận của giới nhà báo «lề trái» trong và ngoài nước. Ngày 4.3.2014, sau gần 10 tháng «tạm giam», ông mới được đưa ra xử tại toà án Đà Nẵng, và bị kết án 2 năm tù. Do không nhận tội, và kháng án, ông được đưa ra một phiên toà phúc thẩm ngày 26.6.2014, và bị toà này xử y án hai năm.

Tù nhân 258 nổi tiếng nhất dĩ nhiên là Nguyễn Hữu Vinh, biệt danh Anh Ba Sàm, từ tên của trang mạng thông tin hàng đầu ở Việt Nam, mà anh là người sáng lập và điều hành cho tới gần đây. Nổi tiếng không phải vì anh là con một vị lão thành cách mạng (ông Nguyễn Hữu Khiếu, nguyên bộ trưởng Bộ Lao động – 1965-1974, nguyên đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Liên Xô), mà chính vì trang mạng Ba Sàm (thành lập vào tháng 9.2007, đã nhiều lần bị đánh sập !), đi đầu trong các hoạt động mở rộng thông tin chính trị – xã hội đến đông đảo người dân, vượt qua các kiểm duyệt, cấm kỵ của đảng (với châm ngôn “Phá vòng nô lệ”), được cộng đồng công nhận «gần như là một biểu tượng của cuộc đấu tranh của các blogger vì quyền tự do ngôn luận, tự do biểu đạt» (lời nhà báo Phạm Đoan Trang, trả lời đài RFI ngày 19.7.2014). Anh bị bắt ngày 5.5.2014 cùng với một cộng tác viên, bà Nguyễn Thị Minh Thuý. Sau khi anh bị bắt, đã có 51 người đồng ký tên vào Yêu cầu trả tự do cho Nguyễn Hữu Vinh, trong đó có giáo sư Chu Hảo, tiến sĩ Lê Đăng Doanh, tiến sĩ Nguyễn Quang A, tiến sĩ Hà Sĩ Phu… Yêu cầu này được gửi đích danh cho ông bộ trưởng Công an Trần Đại Quang. Ngày 30/10/2014, tức là gần 6 tháng sau khi bắt giam đối tượng, Cơ quan An ninh điều tra mới đưa ra Bản kết luận điều tra vụ án “Nguyễn Hữu Vinh cùng đồng bọn lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân”. Nhân dịp này, giáo sư Hoàng Xuân Phú đã viết một bài dài vạch ra rất nhiều sai phạm về tố tụng trong vụ án. Kinh nghiệm cho thấy «Toà án nhân dân» chưa bao giờ biết nhận sai trong các cáo trạng của mình, cụ thể Anh Ba Sàm và chị Nguyễn Thị Minh Thuý sẽ bị kết án như thế nào, người ta vẫn phải đợi…

Cũng như, còn phải đợi không biết tới bao giờ các blogger bị bắt đầu tháng này, các blogger Hồng Lê Thọ và Nguyễn Quang Lập mới được/bị đem ra xử, và bị kết án như thế nào. «9 ngày, nếu không thấy về thì chắc khoảng 3 năm» như lời Bọ Lập trấn an vợ khi bị bắt, hay hơn nữa?

Một câu hỏi khác không thể không đặt ra: sau Bọ Lập rồi tới ai?

Trong bài trả lời phỏng vấn của BBC ngày 6.12, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho rằng sau các vụ bắt bớ blogger này, có thể có thêm nhiều người khác ‘bị bắt’ dù ông không đoán được ai có thể là ‘mục tiêu’ tiếp theo. Nhưng, ông cũng cho rằng mặc dù có các vụ bắt bớ gần đây, sẽ không có chuyện giới blogger, phản biện và các nhà hoạt động bị ‘trùng xuống’ hoặc ‘chùn tay’.

Tôi nghĩ cũng chẳng ai chùn vì vụ này“, ông nói.

Và đó là điều chính quyền sẽ thấy, rất nhanh. Đừng nghĩ bắt «vài tên đầu sỏ» là xong chuyện. Thời Internet, hơn bao giờ hết, Dân mới là chính. Mà dân thì ở khắp nơi, không dễ «tổ chức», nhưng cũng không dễ đè bẹp đâu, các vị ạ.

H.V.

Nguồn: http://www.diendan.org/viet-nam/cac-nha-bao-blogger-bi-bat-khan-cap

Đài phát thanh Vatican thông tin về án tuyên thánh cho cha Phanxicô Trương Bửu Diệp

Đài phát thanh Vatican thông tin về án tuyên thánh cho cha Phanxicô Trương Bửu Diệp

Chuacuuthe.com

VRNs (18.12.2014) -Sài Gòn- Đài phát thanh Vatican dẫn hãng tin Asianews cho biết, Việt Nam có thể sớm có một vị thánh mới. Bộ Tuyên Thánh của Vatican đã mở án tuyên thánh cho cha Phanxicô Xavier Trương Bửu Diệp, một linh mục chịu tử đạo vào năm 1946 trong Chiến tranh Việt Nam, đang khi cố gắng cứu giáo dân của mình.

0

Thánh Bộ đã thông báo với Giám mục Cần Thơ, Đức Cha Têphanô Tri Bửu Thiên hôm 31/10, tuy nhiên thông tin trên mới được loan đi gần đây.

Theo AsiaNews cho biết, thông tin trên được rất nhiều người chào đón, gồm những tín hữu của giáo phận và cả những người hành hương, có trong đó những người thuộc các tôn giáo khác.

Những người hành hương này đến từ khắp nơi trên đất nước, để cầu nguyện tại ngôi mộ của vị linh mục ở nhà thờ Tắc Sậy, thuộc giáo phận Cần Thơ.

Hội đồng Giám mục Việt Nam đã và đang thúc đẩy tiến trình điều tra tuyên thánh, sau khi đưa ra đề xuất này trong cuộc họp thường niên đầu năm 2012, được tổ chức từ ngày 9 – 13/4, tại Giáo Phận Xuân Lộc.

Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn, nguyên Tổng Giám mục giáo phận Sài Gòn cũng nằm trong số những nhân chứng của án tuyên thánh cho cha Diệp.

Được biết cha Diệp từ khi 8 tuổi, Đức Hồng Y cho biết cha Trương Bửu Diệp “là một vị linh mục thánh thiện, luôn luôn lo lắng về tương lai của Giáo Hội và thúc giục các tín hữu dấn thân sâu hơn cho đạo của mình.”

Bất cứ nơi nào ngài đến, Đức Hồng Y nói tiếp, “ngài đều dựng nơi thờ phượng và nhà ở cho các tín hữu. Ngài đã sống và đã chết cho họ.”

Cha Diệp sinh năm 1897 tại một ngôi làng ở phía tây nam Việt Nam, thuộc tỉnh An Giang.

Vào thời điểm đó, đây là khu vực thuộc Hạt Đại diện tông tòa của giáo phận Phnom Penh. Sau thời gian học Đại chủng viện ở đây, ngài được thụ phong linh mục tại thủ đô Campuchia vào năm 1924.

Từ năm 1930, ngài coi giáo xứ Tắc Sậy cho đến khi qua đời vì chịu tử đạo. Khi Việt Minh đến khu vực này, nhiều linh mục đã quyết định ra đi, tuy nhiên ngài đã chọn ở lại với các tín hữu. Ngài bị bắt ngày 12/3/1946 cùng với 60 giáo dân. Ngài chịu hy sinh để họ được trả tự do.

Pv. VRNs

Việt Nam trong số 5 quốc gia thiếu tự do báo chí nhất thế giới

Việt Nam trong số 5 quốc gia thiếu tự do báo chí nhất thế giới

Nguoi-viet.com

NEW YORK (NV) .- Trong số 10 nước thiếu tự do báo chí nhất thế giới, Tổ Chức Bảo Vệ Ký Giả quốc tế có trụ sở ở New York xếp Việt Nam hạng thứ 5 về số người bị bỏ tù trong năm 2014.

Tổ chức Bảo vệ Ký giả (CPJ) xếp CSVN hạng 5 trong số các nước bỏ tù nhiều nhà báo nhất năm 2014, với 16 người hiện đang bị giam giữ.(Hình: CPJ)

Trong danh sách 16 người cầm bút hiện đang bị nhà cầm quyền CSVN cầm tù, Tổ chức Bảo Vệ Ký Giả nêu tên các người viết blogs nổi tiếng như ông Trần Huỳnh Duy Thức, bà Tạ Phong Tần, ông Lê Quốc Quân, nhà báo Hoàng Khương, ông Nguyễn Hữu Vinh (Anh Ba Sàm), ông Trương Duy Nhất và nhà báo Võ Thanh Tùng.

Trung Quốc là nước bỏ tù nhiều người viết báo nhất với 44 người (8 người nhiều hơn năm 2013), kế đến là Iran, Eritrea, Ethiopia rồi đến Việt Nam. Sau đó là đến các nước Ai Cập, Syria, Miến Điện, Azerbaijan và Thổ Nhĩ Kỳ.

Trong một bản nhận định và tổng kết về tình hình tự do báo chí trên thế giới năm 2014 mới phổ biến, Tổ chức Bảo Vệ Ký Giả CPJ (Committee to Protection Journalists) nói rằng năm nay tồi tệ hơn năm ngoái khi có số ký giả và người sử dụng internet để thông tin nhiều hơn.

CPJ thống kê thấy năm 2014 có tất 220 nhà báo trên khắp thế giới bị bỏ tù trong khi năm 2013 có 211 người bị tù. Năm 2012 có số nhà báo bị cầm tù nhiều nhất với 232 người.

Theo thống kê của CPJ, trên thế giới năm nay, 132 người hay 60% nhà báo bị các nước bỏ tù với cáo buộc tuyên truyền chống lại nhà cầm quyền, hoặc còn bị vu cho là “khủng bố”. Tội danh này nhiều hơn hẳn các loại tội trạng khác như vu khống hay nhục mạ.

Có đến 20% các nhà báo bị nhà cầm quyền tống giam mà không hề loan báo tội trạng. Vẫn theo CPJ, 119 người hay hơn một nửa những người bị bỏ tù đã sử dụng internet để đưa tin hay trình bày quan điểm cá nhân.

“CPJ tin rằng không nên bỏ tù các nhà báo chỉ vì người ta sử dụng quyền tự do thông tin”. Tổ chức CPJ nói như thế và cho hay đã gửi các thư phản đối đến các chính phủ bắt các nhà báo.

Cuối Tháng 11 đầu tháng 12 vừa qua, nhà cầm quyền Việt Nam đã tống giam hai nhà báo công dân là Hồng Lê Thọ (ngày 29/11/2014) và Nguyễn Quang Lập (ngày 6/12/2014). Ông Thọ viết blog “Người Lót Gạch” và ông Lập là chủ nhân blog “Quê Choa” đều là những người nổi tiếng với những bài viết đã kích các sai trái của nhà cầm quyền.

Lúc đầu cả hai đều bị vu cho tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ…” theo điều 258 Luật hình sự CSVN nhưng tin tức mới nhất cho biết ông Nguyễn Quang Lập bị đổi sang tội danh “Tuyên truyền chống nhà nước…” theo điều 88 nên có thể bị kết án đến 20 năm tù.

Khi loan tin các ông Hồng Lê Thọ và Nguyễn Quang Lập bị bắt giam, cũng như các trường hợp khác mà họ có thông tin, CPJ đều lên tiếng đòi hỏi nhà cầm quyền CSVN phải tôn trọng quyền tự do thông tin và báo chí của người dân, trả tư do cho công dân.

Tương tự như CPJ, tổ chức Phóng Viên Không Biên Giới (RSF) trụ sở ở Paris đưa ra một bản tổng kết cho biết, theo những thông tin họ thu thập được, năm 2014 trên thế giới có 180 ký giả bị cầm tù và 178 người sử dụng internet để thông tin hay bầy tỏ chính kiến đã bị bỏ tù.

Tổ chức RSF công bố bản chỉ số tự do báo chí toàn cầu căn cứ trên khảo sát tại 180 quốc gia cho thấy Việt Nam xếp hạng thứ 174, ở đám gần chót bảng cùng với những nước Cộng sản hay độc tài quân phiệt, tôn giáo cuồng tín như Iran, Trung Quốc, Somalia, Syria, Turkmenistan, Bắc Hàn, và Eritrea. (TN)

Mua Sao Sáng -Nguyễn Văn Đông -Giao Linh & Lien Khuc Noel -Phuong Loan, Phuong Hong Que, Huynh Thi & Chi Thien

Mua Sao Sáng -Nguyễn Văn Đông -Giao Linh

httpv://www.youtube.com/watch?v=OJDTXItVkl8&list=PL8071336FFEFFCDF6&index=17

Lien Khuc Noel -Phuong Loan, Phuong Hong Que, Huynh Thi & Chi Thien -DD

httpv://www.youtube.com/watch?v=teBSIgprD-0&index=21&list=PL8071336FFEFFCDF6

 

André Rieu – Home for Christmas Trailer

Bài Thánh Ca Buồn -Nguyên Vũ -Elvis Phuong -NNS

Chuyện Hai Người “Quét Rác” Và “Đổ Rác”

Chuyện Hai Người “Quét Rác” Và “Đổ Rác”

Vào sáng Chủ  Nhật, có thể là do ngày nghỉ rảnh rỗi, một người đàn ông trung niên lúi húi quét dọn trước cửa nhà. Ông cầm chiếc chổi và đồ hốt rác quét sạch vỉa hè rồi quét dọc theo lề đường, cẩn thận gom tất cả đám cát, bao ny-lông, mẩu thuốc lá, ly giấy, lá khô và đủ thứ rác rưởi của xã hội văn minh vào thùng, đậy nắp cận thận, đặt ngay ngắn xuống lòng đường, để ngày mai xe rác của thành phố lấy đi. Khi nhận thấy vỉa hè và lòng đường đã khá sạch, ông toan thu dọn để bước vào nhà thì một thanh niên từ xa bước tới, miệng phì phèo điếu thuốc. Chỉ cần nhìn cách ăn mặc và đi đứng người ta có thể nhận ra đây là một chàng thanh niên ngang tàng. Khi tới chỗ ông đang đứng, người thanh niên rít hơi cuối cùng rồi coi như không có ai, thản nhiên quăng mẩu thuốc lá xuống đường. Nhìn mẩu thuốc là nằm tênh hênh trên mặt vỉa hè sạch trơn, dường như nó có vẻ “phá hoại” và trêu ngươi, cho nên người đàn ông tức giận, lớn tiếng gọi người thanh niên:

-Này, yêu cầu quay lại nhặt tàn thuốc lá lên nghe!

Người thanh niên đã đi cách xa ông khoảng năm, sáu bước, nghe gọi thế quay đầu lại nhìn với vẻ hết sức ngạc nhiên. Anh ta ngạc nhiên vì có thể cả trăm lần quăng mẩu thuốc lá như thế này mà chẳng ai phản ứng gì, nay có một “gã điên” làm chuyện không giống ai. Anh ta quay lại, sẵng giọng hỏi:

-Ông nói gì?

-Yêu cầu cậu nhặt mẩu thuốc lá lên!

Mặt chàng thanh niên đỏ gay:

-Bộ đường phố này của ông hả?

Người đàn ông trả lời ngay:

-Không phải của tôi nhưng tôi tôi quét dọn sạch sẽ. Người tự trọng không bao giờ xả rác bừa bãi.  Cậu hiểu điều đó không? Tôi yêu cầu cậu nhặt lên!

Tự ái bị tổn thương, người thanh niên không cần phân biệt đúng-sai, nói như gây sự:

-Không nhặt thì sao?

Sự lớn tiếng qua lại giữa hai bên làm người trong nhà chạy ra, người qua lại trên hè phố tò mò đứng lại. Cuối cùng tất cả đều thấy đây không phải chuyện đại sự cho nên xúm vào can gián. Cuối cùng người thanh niên hậm hực bỏ đi còn người đàn ông đứng phân bua một hồi rồi bực bội bước vào nhà.

***

Ba ngày sau, tại một khu phố khác cách đó khoảng năm, sáu con đường người ta thấy một vị sư đang quét rác tại cổng một ngôi chùa. Hôm nay là Thứ Hai chùa vắng, Phật tử đi làm hết, sau hai ngày cuối tuần bận rộn với sinh hoạt và lễ lạc, rác đã thấy lai rai trên sân. Ngoài ra, còn lá trên cây rụng xuống cho nên thầy trụ trì ra công quét dọn, vừa vận động vừa làm sạch trong ngoài. Đối với người xuất gia, quét rác cũng là “công phu”. Sau khi cổng chùa đã sạch sẽ, sư toan đẩy thùng rác trở vào thì một chàng thanh niên tà tà bước tới. Đây chính là anh chàng đã gây sự với người đàn ông quét rác ba ngày trước. Khi đi tới cổng chùa, có thể do vô tình, do quán tính, cố tật, hoặc đãng trí, sau khi mở bao thuốc lá, chàng ta rút ra một điếu, châm lửa. Thấy bao thuốc đã hết, chàng ta quăng cả chiếc bao trống không dưới chân bức tường cạnh cổng chùa rồi thản nhiên bước đi. Thế nhưng khi bước đi khoảng năm, sáu thước, có thể do nhớ lại cuộc “đụng độ” với người đàn ông trước đây, chàng ta quay đầu lại xem sự thể như thế nào. Trái với phỏng đoán của mình, vị sư bình thản bước tới chân bức tường, cúi xuống nhặt bao thuốc lá lên, quay lại thùng rác, mở một bao rác nhỏ, bỏ bao thuốc lá trống vào bên trong, cột trở lại, bỏ vào thùng rác rồi lặng lẽ đẩy thùng rác vào bên trong sân chùa, không hề quay nhìn chàng thanh niên …đang ngạc nhiên đứng đó.

***

Ngày hôm sau, chàng thanh niên tới thăm vị sư. Sau khi giới thiệu mình chính là người xả rác trước cổng chùa. Chàng ta kể lại chuyện “đụng độ” với người đàn ông rồi hỏi:

-Thưa thầy, tại sao cùng một chuyện mà thầy lại có lối cư xử nhẹ nhàng hơn người đàn ông kia?

Sư hiền từ đáp:

-Người đàn ông đó là một công dân tốt. Một công dân tốt do làm tròn bổn phận của mình cho nên thường thẳng thắn nói lên cái sai của người khác để cùng nhau sửa chữa trong tinh thần ôn hòa. Tuy nhiên cách hành xử giữa một người thường và một người xuất gia có khác nhau. Người xuất gia không nói về cái lỗi của kẻ khác mà kham nhẫn để kẻ phạm lỗi giác ngộ mà tu sửa. Hai lối hành xử đó không cái nào hơn cái nào, “vạn pháp đều bình đẳng”, chỉ tùy duyên ứng xử mà thôi. Một căn nhà, một ngôi chùa, một khu phố hoặc nơi làm việc cần phải sạch sẽ. Sự sạch sẽ làm trang nghiêm cuộc sống và thế giới. Ngay đầu óc chúng ta cũng cần sạch sẽ.. Muốn sạch sẽ thì phải quét rác. Một chiếc máy điện tử muốn tốt cũng phải “đổ rác”. Đầu óc con người muốn thanh tịnh, sạch sẽ cũng phải “đổ rác”- đổ bớt rác rưởi của tâm hồn. Những ý nghĩ bất tịnh, tương tranh, thù hận, đố kỵ, tị hiềm, những tư tưởng loại trừ, kỳ thị, ghét bỏ đều là rác rưởi của tâm hồn. “Quét rác” và “đổ rác” là việc làm thường xuyên của người nào muốn tâm hồn thanh tịnh. Từ thanh tịnh mà có thanh thản. Vì thanh thản cho nên không động tâm. Vì tâm không động cho nên ít gây đổ vỡ.

***

Ba ngày sau, chàng thanh niên tìm tới nhà người đàn ông, nói lời xin lỗi. Chàng học được một bài học nơi sư, “ Thay vì xả rác xuống đường hoặc nơi công cộng thì nên xả bớt rác trong tâm hồn mình.”

Ngoài đức tính kham nhẫn, có thể sư đã đạt tới mức “vô phân biệt”. Sư cứ thấy rác thì quét mà không hề phân biệt rác từ cây đổ xuống, Phật tử xả ra, nam hay nữ, lạ hay quen cho nên rác của chàng thanh niên cũng thế thôi. Chính vì “vô phân biệt” cho nên sư không động tâm. Không động tâm cho nên sư đã quét rác trong trạng thái “vô tâm”. Mà vô tâm thì an lành./.

Cám ơn Sơn Đỗ gởi