ƠN HOÁN CẢI + ƠN THIÊN TRIỆU

ƠN HOÁN CẢI + ƠN THIÊN TRIỆU

Từ một chàng trai hư hỏng, cờ bạc, ma túy đến một phạm nhân, rồi thành đan sĩ linh mục, giờ đây chính Lm P.X. Trần An lại hoán cải cuộc đời cho nhiều người giúp họ sống lương thiện, có ích.

Phóng viên Báo điện tử Gia đình Việt Nam đã tới Đan Viện Thiên An ở Huế và gặp Đan sĩ, Linh mục Phanxicô Xaviê Trần Văn An. Cuộc đời linh mục là một hành trình đầy thử thách, gian nan; đầy sự phấn đấu, lòng nhân từ và hồng ân.

Từ tình yêu thương bao la của mẹ

Sinh ra trong gia đình giàu có ở giáo xứ Cầu Rầm (Vinh, Nghệ An), chàng trai Trần Văn An ngày ấy rất khôi ngô và hào hoa.

17 tuổi, Trần Văn An bắt đầu con đường ăn chơi, sa đọa. Học hết cấp 3, cha mẹ cho theo nghề kim hoàn, Trần Văn An trở nên giàu có nhờ buôn bán vàng và đồ cổ. Nhưng chẳng mấy chốc, anh tiêu sạch tiền và sa vào cờ bạc, rượu chè, ma túy.

Hết tiền, Trần Văn An quay sang ăn cắp tiền của gia đình và nhiều người, tham gia băng nhóm xã hội đen, đánh lộn, ăn cắp và hút chích để rồi sa chân vào vòng lao lý, bắt đầu những tháng ngày tù tội khổ đau.

Từ một thanh niên có tương lai tốt đẹp, thành người ăn chơi sa đọa rồi một tù nhân, Trần Văn An còn bị thêm cú sốc khi người yêu “sang ngang”. Tuyệt vọng đến tận cùng, được tha về, anh vẫn chứng nào tật nấy, ngựa theo đường cũ, chẳng bao lâu lại dính vào nghiện ngập.

Chúng tôi hỏi cơ duyên nào khiến Trần Văn An quyết tâm từ bỏ con đường nghiện ngập và trở nên công chính, linh mục trả lời, rằng từ tình thương bao la của mẹ lay động lòng trời.

Khi đang lén lút hút thuốc phiện tại nhà, Trần Văn An bị mẹ phát hiện. Ngước mắt nhìn người mẹ yêu dấu khổ đau, sốc đến tận cùng, anh như bị sét đánh. Từ nội tâm như bật lên tiếng nói, thúc giục anh trở về với mẹ, phải sống tốt để tạ ơn mẹ. Cũng từ đó, trong anh có một quyết tâm lớn là làm lại cuộc đời, anh chạy đến Thánh Địa La Vang (Quảng Trị) nguyện cầu với Mẹ Maria, cầu nguyện Chúa cho anh đủ sức vượt qua cám dỗ của ma túy.

Năm 1992, chính bố ruột gửi Trần Văn An đến ở cùng một cha xứ. Hai năm sau, Trần Văn An gia nhập Đan Viện Thiên An và trở thành Đan sĩ dòng Biển Đức của đạo Thiên Chúa Giáo. Kể từ đó, Trần Văn An dành cả cuộc đời linh mục, đan sĩ của mình để cầu nguyện, giúp đỡ, chia sẻ và mang niềm hy vọng cho biết bao nhiêu người lầm lỡ muốn trở về con đường thiện. Vị linh mục nói: “Chúa đã yêu thương tôi và cứu chữa tôi. Vì thế tôi cố gắng làm một việc gì đó hữu ích cho người nghèo, bệnh nhân và người tội lỗi”.

Tôi hỏi: viết rõ quá khứ như vậy liệu có gì phiền không? Linh mục cười, nói rằng đây là sự thật và khi nói về sự thật cuộc đời mình thì mình đang hòa giải với chính mình đã; mình thấy thanh thản và cũng là để cảm tạ những ơn lành Chúa ban cho mình.

Hơn nữa nếu sự thật này mà chia sẻ được với bao thanh niên lỡ lầm cùng cảnh ngộ với thời trai trẻ của mình thì nên nói, vì câu chuyện này thêm sức mạnh, thêm niềm tin và hy vọng cho họ.

Dự án phát huy sức mạnh nội tâm…

Có một thanh niên tên Q, quê ở Hà Tĩnh, là người đã sống ngoài vòng pháp luật hơn 10 năm chỉ vì trong một bữa tiệc lời qua tiếng lại, dùng dao đâm chết bạn đồng hương rồi bỏ trốn. Người thanh niên này đã đến nhờ linh mục Trần Văn An giúp. Trước thái độ ăn năn của Q, linh mục đã chia sẻ, giúp đỡ, hướng dẫn Q tĩnh tâm, thống hối để nhận ra lỗi lầm của mình và khuyên Q ra đầu thú để nhận được khoan hồng của pháp luật.

Trong bức thư gửi Linh Mục Trần An, Q tâm sự “Thưa Cha, con cám ơn Cha nhiều lắm, nhờ Cha mà giờ đây con sắp được vào tù. Con cảm thấy bình an hạnh phúc lắm, bởi tuy thân xác con ở tù nhưng lương tâm con lại được tự do giải phóng”

Còn rất nhiều, rất nhiều người khác nữa từ thanh niên đến người lớn tuổi, từ người công giáo đến người ngoài công giáo đã nhận được sự giúp đỡ tận tâm của Linh mục Trần An.

Thấy phương pháp dưỡng tâm, hướng dẫn người nghiện ma túy tĩnh tâm bằng cầu nguyện để tìm ra ý nghĩa đích thực của sự sống, của cuộc đời mình có kết quả rất tốt, tôi hỏi Linh mục Trần An sao không nhân rộng ra. Linh mục cho biết đã vận động được một số bà con giúp đỡ và đang xin chính quyền các cấp cho phép mở “Ngôi nhà tĩnh tâm, hướng thiện”.

Đây là dự án từ thiện về giáo dục hướng thiện, giúp đỡ, dạy nghề cho người nghiện ma túy, giúp họ tìm ra sức mạnh nội tâm để chiến thắng ma túy.

LÊ THÀNH

Thủ tướng VN bật đèn xanh casino Phú Quốc

Thủ tướng VN bật đèn xanh casino Phú Quốc

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chấp thuận “chủ trương đầu tư” một dự án có casino tại huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang.

Ông Dũng được truyền thông trong nước dẫn lời giao cho một bộ chủ trì và phối hợp với UBND tỉnh Kiên Giang và các cơ quan liên quan “nghiên cứu, tiếp thu, giải trình và báo cáo Thủ tướng xem xét sau khi Chính phủ ban hành nghị định về kinh doanh casino”.

Hiện tại Việt Nam chưa có luật liên quan đến hoạt động casino và mới chỉ có dự thảo nghị định do Bộ Tài chính trình Chính phủ từ tháng 8/2014.

Dự thảo nghị định khi đó yêu cầu chủ đầu tư dự án casino phải cam kết từ 4 tỷ USD trở lên mới Thủ tướng cấp phép và rằng Thủ tướng sẽ quyết định điều chỉnh mức vốn cam kết đầu tư tối thiểu “theo từng thời kỳ, phù hợp với sự phát triển của thị trường.”

Thời báo Kinh tế Việt Nam cho biết “tờ trình đề án thành lập đặc khu kinh tế Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang nói casino được xây dựng trên diện tích 30.000 m2 với 200 – 400 bàn đánh bạc, 2.000 máy chơi bạc, ngoài ra còn có trung tâm hội nghị, hội thảo quốc tế và khách sạn 5 sao 3.000 phòng…

“Tháng 9/2014, Thủ tướng cũng đã có quyết định công nhận huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang là đô thị loại 2. Mục tiêu của Chính phủ là đưa Phú Quốc thành một đặc khu kinh tế và trở thành trung tâm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí cao cấp quốc gia và quốc tế, trung tâm tài chính tầm cỡ khu vực”, báo này nói thêm.

Tại Kiên Giang, ông Dũng từng làm bí thư Huyện Hà Tiên, sau thăng chức làm phó bí thư rồi bí thư Tỉnh ủy. Ông cũng từng là chủ tịch tỉnh Kiên Giang. Nơi đây được cho là có nhiều thành phần ủng hộ ông Dũng.

Ông Nguyễn Thanh Nghị, con trai đầu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hồi tháng Ba năm ngoái được Bộ Chính trị luân chuyển về tỉnh Kiên Giang làm phó bí thư Tỉnh ủy.

Việc luân chuyển 19 thứ trưởng, trong đó có ông Nghị, từ trung ương về địa phương này được mô tả là nhằm ‘chuẩn bị một bước về nhân sự lãnh đạo cấp ủy địa phương’ và ‘đào tạo, rèn luyện cán bộ trẻ’, theo một công văn của Bộ Chính trị hồi cuối tháng Hai.

Trước khi nhận nhiệm sở mới, ông Nghị từng là thứ trưởng Bộ Xây dựng và là ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng.

Hiện chỉ có người ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài là hai đối tượng được phép chơi tại các casino trên lãnh thổ Việt Nam.

Tại phiên họp thường vụ Quốc hội hồi tháng Tư năm ngoái, dự thảo Nghị định được Bộ trưởng Tài chính trình bày vẫn giữ nguyên quan điểm hạn chế người Việt

Hiện có một bộ phận không nhỏ người Việt Nam vẫn mang tiền đi chơi casino tại nước ngoài và đã có nhiều đề xuất cho rằng nên bổ sung đối tượng tham gia chơi casino là người Việt Nam để quản lý và hạn chế việc “chảy máu” ngoại tệ, truyền thông Việt Nam đưa tin bấy lâu nay.

Đánh bạc là hành vi bị coi là bất hợp pháp tại Việt Nam, được qui thành tội danh trong Bộ Luật Hình sự.

Ngoài phạt tiền và cải tạo không giam giữ, người bị coi là phạm tội đánh bạc có thể bị xử tù tới tối đa bảy năm (Điều 248/BLHS).

Hiện không có thống kê chính thức nhưng nhiều người cho rằng có hàng ngàn người vượt biên giới Việt Nam sang đánh bạc tại Campuchia mỗi ngày.

Hiện có 7 doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh casino trên toàn Việt Nam, trong đó có 5 dự án casino được mô tả là “quy mô nhỏ” tại Hải Phòng, Lào Cai, Đà Nẵng, Quảng Ninh và hai dự án “quy mô lớn” tại Quảng Nam và Bà Rịa – Vũng Tàu.

Được biết Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản đã chấp thuận về chủ trương đầu tư dự án phát triển khu du lịch tổng hợp casino Phú Quốc và dự án khu du lịch tổng hợp có casino Vân Đồn, Quảng Ninh.

Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn,

“Đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng cô đơn,”

đời tôi cô đơn nên yêu ai cung không thành.

đời tôi cô đơn nên yêu ai cũng dở dang,

yêu ai cũng lỡ làng dù rằng tôi chẳng lỗi chi.

(Vinh Sử – Đời tôi cô đơn)

(1Cor 7: 30-32)

Trần Ngọc Mười Hai

Là nghệ sĩ, có thể anh chị vẫn hát những câu như thế. Chứ còn, linh mục bọn tôi, hỏi rằng hát vậy có nên không?

Nên hay không, xin bạn và tôi, ta cứ nghe thêm một đoạn nữa rồi ắt biết:

“Đời tôi cô đơn nên yêu em chẳng bao lâu

ngày mai đây em lên xe hoa bước theo chồng.

đời tôi quen cô đơn nên tôi chẳng trách em.

tôi quen rồi những chuyện dang dở từ khi mới yêu.

tôi quen tôi đã quen rồi em,

dang dở khi tình yêu tôi không xây trên bạc vàng.

tôi quen tôi đã quen rồi em

em khóc làm gi nữa bận lòng gi kẻ trắng tay.

tôi xin xin chúc em ngày mai hoa gấm ngọc ngà

luôn vây quanh em cả cuộc đời.

riêng tôi duyên kiếp luôn dở dang

nên suốt đời tôi vẫn yêu cô đơn như tình nhân.

(Vinh Sử – bđd)

Chẳng biết sao chứ bần đạo đây mới được đọc một bài tâm sự do đấng bậc nọ sống ở Úc từng viết về tâm-trạng của chính mình khi ông chọn suộc sống tông-đồ mục-vụ ở quê miền rất Úc Đại Lợi, lại có những giòng chảy như sau:

“Lâu nay, ngay từ ngày thụ-phong linh-mục ở Ballarat và thực-thi công-cuộc thừa-tác mục vụ ở Warrnambool, Koroit và Hamilton, tôi vẫn tự coi mình như linh-mục đồng quê, bởi cư dân ngụ ở nơi đó cũng tự gọi như thế. Và tôi cũng nghĩ là như thế, đã từ lâu…

Sống ở xứ đạo miền quê, tôi nay quen dần với cuộc sống ‘vò võ’ chỉ có mỗi một mình. Nhìn vào quá khứ tôi thấy mình cũng học được nhiều thứ. Bản thân mình, tôi là người anh cả trong gia đình có 9 người. Xem thế thì, tôi đã lớn lên trong khung cảnh gia đình đầy những người. Lên đại học, tôi lại là sinh-viên nội-trú san sẻ chốn ngụ cư với không ít sinh viên khác. Và khi bước chân vào đại-chủng-viện, lại cũng ở chung với nhiều bạn đồng cảnh, đồng-nghiệp. Nay sống ở vùng xa xôi thuộc tiểu bang Victoria, nước Úc, đáng lý ra tôi sẽ sinh sống cùng với gia đình nhỏ; nhưng chốn tôi ăn ở tại xứ họ này, lại không phải là gia đình nhỏ, mà chỉ mình tôi phải xoay xở đủ mọi thứ, cũng một mình.

Đáng lý ra, thật dễ sống trong khung cảnh nhà xứ với 3 phòng: gồm một nhà bếp, một phòng học/làm việc và một phòng ngủ, các nơi khác còn lại của nhà xứ đều không bàn ghế tủ giường và bỏ lơ là, trống rỗng. Tôi chống lại sự việc này nên đang cố gắng tạo dựng một cơ ngơi mang tính gia đình hơn, là: ăn ở phòng ăn, đọc sách tại phòng khách; nên, phòng ốc được trang-bị ngày càng thêm nhiều bàn ghế/tủ giả hơn và cứ từ từ tôi biến phòng ốc thành khu đông người ở bằng các tranh ảnh và bản in trên giấy dán khắp tường.

Làm như thế, cũng không có gì là lớn lao cho lắm. Nhưng phòng ốc tôi sinh sống nay được bày biện như nhà xứ với đồ đạc từ thế kỷ 19 có ghế bành, đồ đạc thuộc thập niên 90, và cứ thế giúp tôi có cảm giác như đang ở với gia đình vậy.

Lý do cho mọi chuyện, lại cũng đơn giản chỉ vì tôi không là người đơn độc ở một mình, nên không việc gì phải sống như những người đó. Linh mục độc thân nhưng lại được mọi người gọi bằng tiếng “cha”. Theo tôi thì, đây có sự khác biệt ‘một trời một vực’ giữa những người sống một thân một mình với cuộc sống độc-thân trong thánh-hiến. Trên lĩnh-vực thực-tế, thì một giáo xứ mang tính gia-đình sẽ giúp tôi cưỡng lại vị-thế thương-hại/thương xót chính mình và cả đến sự đơn độc nữa.

Cụ-thể hơn, thì thế này: khi tôi suy-tư và học hỏi mọi sự đều thấy hài lòng và vui thích, như hiện tại, thì trong tôi tràn đầy sự cảm-kích với những vật liệu lành-thánh ở quanh tôi. Giả như tôi có lang thang trong khu vực quanh nhà xứ lớn rộng và trống rỗng như thế, có cảm-giác sự đơn độc rất day dứt, thì chỉ cần liếc nhìn vào các ảnh hình ở quanh mình có Chúa hiện diện là tôi đã thấy mình không còn đơn chiếc nữa. Và ngay khi ấy, tôi dâng hiến cái cảm-giác đơn độc trong phút chốc ấy như một động-tác thương yêu, là xong ngay.

Ngoài ra, tôi đang vui hưởng tính hiếu-khách của giáo-dân miền quê. Các vị này vẫn mời chào tôi đến với mỗi người trong nhà của họ và tôi đặc biệt rất quí các bữa ăn với các gia đình còn son trẻ. Khi ấy mới thấy quí tình thân thương đại lượng của các bậc cha mẹ son trẻ, là các người đồng đạo, đồng thuyền với tôi, đã cho đi rất nhiều qua vị-thế của đời sống vợ chồng. Điều đó khiến tôi học đòi bắt chước tính chân phương đại độ của họ trong cuộc sống theo ơn gọi của riêng tôi.

Tắt một lời, sống một mình ở xứ đạo quê mùa, dân-dã, tôi học được nhiều bài học về thương yêu giùm giúp khiến tôi lên tinh-thần hơn trước”. (x. Lm John Corrigan, Diary of a country Priest: A solitary life? No. I’m never really alone, The Catholic Weekly 16/11/14, tr. 33)

Nhà Đạo mình thì như thế. Khi đã yêu rồi, thì không còn biết và cũng chẳng cần hiểu là mình có đơn độc hoặc đơn chiếc nữa không. Trong khi đó, người đời ở phố chợ đông đúc  dù đang yêu và vẫn yêu, nhưng miệng họ lại cứ hát những câu như sau:

“Đời tôi cô đơn bao năm qua vẫn cô đơn.

dù ai đẹp đôi nhưng riêng tôi vẫn lạnh lùng.

Trời cho tôi cô đơn bao nhiêu lần nữa đây,

tôi không hề trách đời hay giận đời mau đổi thay.”

(Vinh Sử – bđd)

Thế mới biết, cô đơn, lạnh lùng ở cuộc đời vẫn còn tùy. Tùy người. Tùy tâm tính và quyết-tâm tạo cuộc sống cho mình, thôi. Còn nhớ, khi xưa các cụ thường có câu: “Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!. Và nếu ta cứ diễn đạt theo chiều hướng này, ắt cũng có thể bảo: cảnh có đông/vui, đâu làm cho người đơn độc thấy được niềm vui ở cuối đường, được!

Thế mới hay, rằng: cuộc sống con người dù ở ngoài đời hay trong Đạo, vẫn không cho những người đã sống và đang sống cuộc đời qua nhiều điều, để rồi người đời lại cứ dựa vào đó mà suy tư, đành hanh, tị nạnh.

Thế mới hiểu, như nhận định của người viết nọ từng minh định trên mạng, sau đây:

“Ở một đất nước giàu có của Châu Âu, có một cô ca sĩ rất nổi tiếng. Tuy mới chỉ 30 tuổi nhưng danh tiếng cô đã vang dội khắp nơi, hơn nữa cô có một người chồng như ý và một gia đình hạnh phúc mỹ mãn. Một lần, sau khi tổ chức thành công một đêm diễn, cô ca sĩ cùng chồng và con trai bị đám đông người hâm hộ cuồng nhiệt bao quanh. Mọi người tranh nhau chuyện trò với cô. Những lời lẽ tán tụng khen ngợi tràn ngập cả sân khấu.


Có người khen cô tuổi nhỏ chí lớn, vừa tốt nghiệp đại học đã bước chân vào nhà hát tầm cỡ quốc gia và trở thành nữ ca sĩ trụ cột của nhà hát. Có người tán tụng rằng mới có 25 tuổi mà cô đã được lựa chọn là một trong 10 nữ ca sĩ có giọng háy opera xuất sắc nhất thế giới. Có người lại ngưỡng mộ cô có người chồng tuyệt vời, một cậu con trai kháu khỉnh, dễ thương.

Trong khi mọi người thi nhau bà luận, cô ca sĩ này chỉ im lặng lắng nghe, không thể hiện thái độ gì. Khi mọi người nói xong cô chậm rãi nói: “Trước tiên, tôi cảm ơn những lời ngợi khen của mọi người dành cho tôi và những người trong gia đình tôi. Tôi hy vọng có thể chia sẻ niềm vui này với mọi người. Nhưng các bạn chỉ nhìn thấy một số mặt trong cuộc sống của tôi còn một số mặt khác, các bạn vẫn chưa nhìn thấy. Cậu con trai của tôi mà mọi người khen là bé kháu khỉnh, đáng yêu, thật bất hạnh, nó là 1 đứa trẻ bị câm. Ngoài ra, nó còn có một người chị tâm thần và thường xuyên bị nhốt ở nhà.”


Mọi người đều ngơ ngác, sửng sốt nhìn nhau, dường như rất khó chấp nhận một sự thật như thế. Lúc này, cô ca sĩ mới điềm tĩnh nói với mọi người: “Tất cả những chuyện này nói lên điều gì? Có lẽ chúng nói lên một triết lý, đó là, Thượng đế rất công bằng, ngài không cho ai quá nhiều thứ bao giờ.”

Thượng đế rất công bằng, ngài không cho ai quá ít, cũng không cho ai quá nhiều. Vì thế, đừng nên chỉ nhìn thấy hoặc ngưỡng mộ những thứ người khác có, mà nên nghĩ và trân trọng những thứ bạn đang có, cho dù đó không phải là những vinh quang tột đỉnh.

Vậy nên, nếu ai hỏi bạn “Bạn có hạnh phúc không?”

Bạn hãy trả lời rằng: “Mình hạnh phúc.

Hạnh phúc theo cách mình sống và những gì mình đang có trên đời này”.

(trích dẫn bài viết của tác giả ký tên là ST trên Internet)

Thế mới lạ, câu hỏi cuối cùng cứ lởn vởn trong đầu mọi người, vẫn cứ là: “Bạn có hạnh phúc không?” Hạnh phúc hiểu theo nghĩa thường, bất kể hoàn cảnh của đời mình có sống cô đơn, một mình ở chốn “khỉ ho cò gáy”, như linh mục tên John Corrigan ở “miệt dưới” nước Úc.

Hạnh phúc hiểu theo nghĩa đích đáng của đấng bậc ở “miệt trên cao” xứ Đạo toàn cầu, bên đó có giòng chảy đầy những chữ như sau:

1. Hãy sống thật với chính bản thân mình

Nhà thơ Mỹ Jay Parini cho rằng trước đó giáo hoàng Francis đã nhắn gửi thông điệp này khi khẳng định ông không đủ tư cách để đánh giá người đồng tính. Giáo hoàng nói: “Hãy bước về phía trước và để cho mọi người khác làm như vậy”.

Hãy sống thật với bản thân như Đức Giáo Hoàng. Ngài giản dị, gần gũi, vui tính, tràn đầy yêu thương, bao dung và bác ái. Khoảnh khắc hài hước của Đức Giáo Hoàng khi chủ trì hôn phối cho cặp đôi trẻ tại quảng trường Thánh Phêrô.

2. Hãy sống vì người khác

Đó là hãy đóng góp thời gian và tiền bạc của bản thân mình cho những người cần đến chúng. Đừng nên sống thụ động, trơ lì. Giáo hoàng Francis cho rằng mọi người cần cởi mở, vị tha và hào phóng với người khác. Ngài khiêm nhường quỳ xuống hôn chân giáo dân trong một nghi lễ. Ngài còn là người gần gũi với tất cả mọi người và đặc biệt rất yêu thương trẻ em.

3. Hãy sống một cách điềm đạm và lặng lẽ

Giáo hoàng dẫn lời nhà văn Argentina Ricardo Guiraldes mô tả một người thời trẻ “giống như một dòng chảy mạnh qua tất cả”, nhưng khi trưởng thành thì nên trở thành “một dòng sông tĩnh lặng, thanh bình”. Đức Giáo Hoàng luôn giản dị trong đời sống thường nhật, khiêm cung và lặng lẽ.

4. Hãy tận hưởng những khoảnh khắc thư thái

Giáo hoàng cho rằng chủ nghĩa tiêu thụ quá mức đã gây những nỗi lo âu vô cớ đối với nhiều người. Do đó mọi người cần dành thời gian nghỉ ngơi, chơi đùa với con cái. Các gia đình khi ăn cơm nên tắt tivi để có thể nói chuyện với nhau nhiều hơn. Ngài cũng luôn dành thời giờ để tận hưởng khoảnh khắc thư thái. Bóng đá và điệu Tango là sở thích của Ngài

5. Hãy dành chủ nhật cho gia đình

Giáo hoàng cho biết đây là một trong những điều răn trong Kinh thánh và đó là cách sống lành mạnh.

6. Hãy tìm việc làm cho người trẻ

“Chúng ta phải sáng tạo trong tìm việc cho người trẻ. Nếu họ không có cơ hội có việc làm, họ sẽ rơi vào các tệ nạn như ma túy” – giáo hoàng nhấn mạnh. Ông cho rằng không cần phải giàu có, nhiều tiền, chỉ cần tìm thấy niềm vui trong công việc là đủ.

Ngài cũng luôn hết sức gần gũi với giới trẻ.

7. Hãy tôn trọng tự nhiên

Theo giáo hoàng, suy thoái môi trường là một trong những thách thức lớn nhất đối với con người. “Câu hỏi mà chúng ta cần hỏi bản thân là phải chăng loài người đang tìm cách tự sát khi đối xử với tự nhiên một cách bừa bãi và bạo ngược như vậy” – giáo hoàng nói.

8. Hãy ngừng những suy nghĩ tiêu cực

Giáo hoàng cho rằng việc suốt ngày than thở về cái xấu và sự tiêu cực của người khác cho thấy sự thiếu tự tin của chính bản thân mình. Hãy để cho những điều tiêu cực trôi nhanh.

9. Hãy tôn trọng tín ngưỡng của người khác

Theo giáo hoàng, mỗi người đều có quyền nhìn thế giới theo cách riêng của họ và chúng ta phải tôn trọng điều đó. Theo Đức Giáo Hoàng Phanxicô, thì: “Mỗi người đều có quyền nhìn thế giới theo cách riêng của họ và chúng ta phải tôn trọng điều đó”.

10. Hãy làm việc vì hòa bình

Giáo hoàng khẳng định chúng ta đang sống trong một thời kỳ có nhiều xung đột và cần phải kêu gọi hòa bình. Trên thực tế giáo hoàng từng đến Trung Đông để kêu gọi người Israel và Palestine đối thoại với nhau. Ông từng nhấn mạnh hậu quả lớn nhất của chiến tranh chính là những đứa trẻ thiệt mạng, bị tật nguyền hoặc trở thành mồ côi.” (x. Tạp chí Argentina Viva, Đức giáo hoàng Francis tiết lộ danh sách 10 bí quyết để sống hạnh phúc mà ông muốn gửi gắm tới tất cả mọi người.)

Nhắc đến đấng bậc nhà Đạo “ở trên cao”, nói đến hạnh phúc những 10 điều, cũng nên nhắc nhớ và nhắc nhở câu an ủi của đấng bậc lành thánh khác, ở Tin Mừng, như sau:

“Thưa anh em,

tôi xin nói với anh em điều này:

thời gian chẳng còn bao lâu.

Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có;

ai khóc lóc, hãy làm như không khóc;

ai vui mừng, như chẳng mừng vui;

ai mua sắm, hãy làm như không có gì cả;

kẻ vui hưởng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng.

Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.

Tôi muốn anh chị em không phải bận tâm lo lắng điều gì hết.”

(1Cor 7: 30-32)

Thế mới biết, cuộc đời này, nếu cứ nói năng, tranh-luận về hạnh-phúc/sướng vui, cũng tùy người/tùy việc. Nay, xem thế thì bạn và tôi, ta cũng nên cảm-nghiệm chuyện vui/buồn ở đời người theo nhiều cách, nhiều khíá cạnh, rất khác nhau.

Có một cách và cũng là khía cạnh cho thấy người người đều thấy vui và hạnh phúc, khi mãn nguyện với việc mình làm rất đúng hướng, đúng điệu và đúng cách. Những hướng, những điệu và cách thức, tương tự ý-nghĩa của chuyện kể cũng rất phiếm được dùng làm đoạn kết kết cho bài phiếm nhẹ, rất như sau:

“Trong lần phỏng-vấn tìm việc có lời hỏi/đáp rất ngắn gọn, như sau:

-Được gọi đến phỏng vấn tìm việc như thế này, anh có thấy hạnh phúc không?

-Thưa ông, rất TT.

-Có thể nào anh nói rõ rất TT là nghĩa gì không? Hay chỉ có nghĩa “tê tê”, thẫn thờ?

-Thích thú, mới đúng nghĩa.

-Thế, tên anh là gì để tôi còn vào sổ?

-Dạ thưa, TT.

-Một lần nữa xin nói cho đủ chữ.

-Trần Trường, ạ.

-Thế tên cha là gì?

-Dạ, TT.

-Như thế là gì?

-Dạ, Trần Tình.

-Nơi sinh?

-Dạ, TT.

-Lại TT là nghĩa gì?

-Dạ, Thừa Thiên ạ.

-Văn bằng anh tạo được là do đâu?

-TT ạ.

-Xin lỗi, nếu tôi không được trầm tĩnh, thì chữ đó có nghĩa gì?

-Dạ, do “thủ thuật” ạ.

-Vậy thì, tại sao anh muốn có việc làm?

-Dạ, vì TT ạ.

-Lại nữa, TT đây là cái gì thế?

-Dạ, Túng Thiếu ạ.

-Thế anh thấy nhân cách của anh thế nào?

-Dạ, TT.

-Nghĩa là gì, xin nói cho đầy đủ chữ?

-Dạ, tuyệt trần ạ!

-Thôi được rồi, tôi sẽ gọi anh để cho biết kết quả.

-Thưa ông thấy TT, à quên tư thế của tôi thế nào, sau vụ này?

-Tôi nghĩ anh đang TT đấy!

-Dạ thưa, TT ông nói có nghĩa gì vậy?

-Có nghĩa là anh như người bị Tâm Thần, vậy thôi…”

(trích truyện cười trên trang mạng của Úc, do bạn bè gửi)

Nói cho cùng, có Tê Tê hay Zet zét, cũng chỉ là tư thế của những người đang đi tìm niềm vui trong cuộc sống có Tê Tê, nhiều tự truyện. Thế nhưng Tê Tê cuộc đời không chỉ mỗi tê tê, hay bê bê bối bối cũng chẳng sao. Miễn là bạn đi đâu, ở đâu cũng thấy hạnh phúc sướng vui là được. Chí ít, là sống đời đi Đạo, ở giữa đời.

Tắt một lời, cuộc đời người đâu chỉ mãi như câu hát ở bên dưới, mà rằng:

“Đời tôi cô đơn bao năm qua vẫn cô đơn.

dù ai đẹp đôi nhưng riêng tôi vẫn lạnh lùng.

Trời cho tôi cô đơn bao nhiêu lần nữa đây,

tôi không hề trách đời hay giận đời mau đổi thay.”

(Vinh Sử – bđd)

Tắt một lời, dù có “Tê Tê” buồn buồn như truyện kể, hoặc “cô đơn/lẻ bóng như câu hát, thì bạn và tôi, ta hãy cứ hiên ngang mà sống. Sống, theo lời khuyên bảo của đấng thánh-hiền nhà Đạo vẫn căn dặn rằng:

“kẻ vui hưởng của cải đời này,

hãy làm như chẳng hưởng.

Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.”

(1Cor 7: 30-32)

Tắt một lời, dù cho bộ mặt “thế gian” lan man với thế giới này vẫn không biến đi như lời thánh-hiền tiên đoán, thì bạn và tôi hãy cứ sống vui sống mạnh, sống xứng một đời đi Đạo, trong đời người. Rất ở huyện.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những quyết-tâm

đại loại như thế.

Gió thổi hôm nay lá rụng nhiều,

“Gió thổi hôm nay lá rụng nhiều,”

“Cây em đan hộ tấm tình yêu
Để về mang ủ lòng anh lạnh,
Cho khoảng đêm trường đỡ quạnh hiu.”

(Dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)

Mc 1: 14-20

Mai Tá lược dịch.

Nhà thơ ưu tư nhiều, về người em đan áo lạnh. Đan áo cho đêm trường khỏi quạnh hiu. Nhà Đạo ít bận tâm, về đáp ứng lời gọi mời, vẫn từ lâu.

Trình thuật hôm nay, thánh Máccô kể về lời Chúa gọi mời, có thử thách. Về, cả những đáp ứng của muôn dân thiên hạ, đã dửng dưng. Tin Mừng nay được viết, ngay sau khi Đức Chúa chịu thanh tẩy bên bờ sông Gióc-đan. Thanh Tẩy Chúa, có Ngôi Cha hỗ trợ. Có cả, Thần Linh Chúa ở cùng với Đức Giê-su.

Thánh Gio-an Tẩy Giả đã bị bọn xấu bắt giữ, nên thánh nhân đã “trao ban – phó nộp” vào lúc Đức Giê-su đi đến gặp ông. Đúng theo ngôn từ ta sử dụng trong thánh lễ, lúc vị chủ tế dâng Mình Thánh: “Này là Mình Ta, sẽ bị nộp vì các con.” Trao ban – phó nộp, mang ý nghĩa Chúa khởi đầu cuộc đời công khai rao giảng, cho người đời.

Cuộc đời Ngài, tóm gọn vào hai giòng chữ, rất rõ ràng: “Thời buổi đã mãn, và Nước Thiên Chúa đã gần bên! Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng” (Mc 1: 15). Quả thật, toàn bộ tín thư Tin Mừng tóm gọn ở hai mệnh đề này. Đó, chính là mục tiêu Chúa đến với nhân trần. Và, ta đáp ứng việc ấy ra sao.

Thời buổi đã mãn, là Đấng Mêsia, Vua Cứu Độ, nay đã đến. Cũng thế, Vương Quốc Nước Trời, như Triều đại/ngai vàng của Chúa nay gần kề. “Vương quốc” Ngài, không là nơi chốn địa dư không gian, mà là mạng lưới tương quan. Và, ai tuỳ thuộc “mạng”, là người chấp nhận thị kiến sống do Đức Giê-su ban bố, cho mọi người. Tức, cuộc sống của những ai đặt căn bản trên thị kiến ấy. Chẳng cần biết người ấy là ai; họ ở đâu. Mạng tương quan, đang hiện hữu ở đây. Lúc này. Vương quốc của Ngài rộng hơn Hội thánh. Vẫn được gọi, là bảng hiệu chỉ rõ Vương Quốc Đức Chúa, hiện diện ở gian trần.

Làm cách nào vào được Vương quốc ấy? “Hãy hối cải và tin vào Tin Mừng”. Ở bài đọc 1, tiên tri Giôna rao giảng về việc sám hối, chuyển đến dân chúng chốn thị thành ở Ninivê. Trái hẳn điều ông kỳ vọng, dân ngoại ở đây “đã biết tin vào Đức Chúa” và “họ đã bỏ đường gian ác mà trở về”.

Ở đây, cụm từ “sám hối” mang ý nghĩa còn mạnh hơn cả việc hối hận những lỗi phạm thời đã qua. Nó đòi hỏi một chuyển đổi tận thâm căn (người Hy Lạp gọi là Metanoia). Thay đổi định hướng. Đổi thay mọi ưu tiên trong đời mình. Thay, là thay cái cũ, để đi tới cái mới.

Điều thay đổi, là TIN VÀO Tin Mừng. Là, không chỉ chấp nhận rằng: những điều Chúa dạy bảo hoặc Giáo hội nhủ khuyên, đều đúng thật, thôi. TIN VÀO, còn đòi phải có quyết tâm, rất trọn vẹn. Quyết, rũ bỏ nhiều điều của chính mình như hai người thề hứa lúc kết hôn: quyết ở với nhau cả khi hạnh phúc cùng lúc gian nan. Cả, điều xấu lẫn cái tốt.

Phần hai của trình thuật, trưng dẫn đáp ứng đầu tiên với lời mời và gọi. Có 4 vị chài lưới, đã được bảo: “Hãy theo Tôi, Tôi sẽ làm cho các anh thành kẻ lưới người như lưới cá.” Ngay lúc ấy, Phêrô, Anrê bỏ chài bỏ lưới (tức bỏ cuộc sống cũ xưa) lập tức đi theo Ngài. Cũng thế, bỏ cha đẻ của mình ở lại, hai anh em nhà Zêbêđê là: Gioan và Gia-cô-bê đã ra đi, theo chân Chúa.

Theo chân Chúa, là trọn vẹn đặt tin tưởng và trao ban chính con người mình, cho Chúa. Thật ra, các vị thuộc lớp dân chài này, chỉ nghe thoe tiếng mời gọi, chứ đâu biết mình sẽ đi đâu. Cũng chẳng biết tương lai của mình, sẽ ra sao. Đấy, chính là sự tin tưởng lớn lao vào Con Người, đến từ mây xanh. Lại, đã đi vào cuộc đời mình. Đã đổi thay chính mình, để mình bỏ lại đằng sau tất cả sự an toàn, bỏ tất cả. Thật sự, thì quý vị ấy cũng đã ngang qua nhiều kinh nghiệm, vui cũng có. Khổ, cũng có.

Các anh sẽ thành những kẻ lưới người, là tiếp tục hành động cao cả, mà Thầy đem đến cho mọi người. Cao cả, là đường lối mới để sống. Sống chân thật. Sống trong tin yêu, tự do và công chính. Và, các ngài đã tạo cho mình nhiều kinh nghiệm thăng hoa mọi ước ao, mình vẫn có.

Lời gọi mời Chúa đưa ra, vẫn tiếp tục được gửi đến với mỗi người, trong chúng ta. Ta có sẵn sàng đáp trả? Có bước theo chân Ngài hay không, đó chính là vấn đề. Và, vấn đề còn đó, là hỏi rằng mạng lưới nào đang bủa rộng/giam giữ chúng ta? Lưới nào, hạn chế tự do có quyết tâm, của chính ta? Tương quan nào đang làm cản trở đường ta đang đi? Lo âu nào khiến ta khắc khoải? Tham vọng? Vị kỷ?

Bài đọc 2, thánh Phao-lô hôm nay nhắn nhủ giáo đoàn Corinthô hãy sống hoàn toàn tự do, và rũ bỏ. Rũ bỏ, là bởi những gì ta sở hữu, dù là vật chất hay của riêng ta dính bén, đều không mang tính trường cửu. Vẫn có thể, biến mất trong nháy mắt, chẳng báo trước. Cuộc sống dù đẹp, dù chỉ lan man tàn tàn, cũng chẳng tổn tại, lâu dài. Trừ phi, đó là giá trị căn bản của sự thật. Của tình yêu đích thực, của tự do và công lý. Giá trị chăng, chẳng phải do cái mình có. Mà là, bản chất của chính mình.

Bởi thế nên, hôm nay bà con ta hãy cầu và mong sao mình nghe được lời gọi mời, rất rõ. Mong và cầu, để mình có sự do, mà theo Ngài. Tự do, để nghe theo tiếng gọi mời, âu yếm ấy. Nghe, để lúc nào cũng sẵn sàng ra đi. Đi đến bất cứ nơi nào Chúa mời mình, đặt chân đến.

Trong tư thế sẵn sàng lắng nghe, ta cứ hân hoan lên, mà vui hát. Hát rằng:

“Này người yêu anh ơi!

Cho anh nồng ấm cuộc đời

Hoa thơm có ánh mặt trời

Ôi núi mừng – vì mây đến rồi!

Này người yêu, người yêu anh hỡi!

Yêu nhau mình đưa nhau tới

Bước nhẹ – và nói bên môi

Nói cho vừa … mình anh nghe thôi!”

(Nguyễn Đức Quang – Bên kia sông)

Nồng ấm cuộc đời, Ngài vẫn gọi. Gọi và nghe, là tư thế của cuộc đời. Một đời, có gió thổi. Có, mây trôi nhiều lá rụng. Một đời, có “em đan hộ tấm tình yêu, để về mang ủ lòng anh lạnh”. Một đời, quyết nghe theo Lời Chúa, để “đêm trường đỡ quạnh hiu.”

Lm Frank Doyle sj

Mai Tá lược dịch.

Một phụ nữ Việt sắp bị xử bắn ở Indonesia

Một phụ nữ Việt sắp bị xử bắn ở Indonesia

17.01.2015

Một công dân Việt sắp bị đưa ra pháp trường tại quốc gia cùng thuộc khối ASEAN sau khi bị kết án tử hình về tội buôn lậu ma túy.

Bà Trần Thị Bích Hạnh vẫn sẽ bị xử bắn vào ngày mai, 18/1, cùng với 4 người nước ngoài khác và một phụ nữ Indonesia, dù Tổng thống Brazil và chính phủ Hà Lan đã lên tiếng kêu gọi chính quyền địa phương tha mạng cho các công dân nước mình vào phút chót.

Không rõ là chính quyền Việt Nam có ngỏ lời với phía Indonesia hay không.

Ngoại trưởng Hà Lan cho biết đã liên hệ với tất cả các quốc gia có công dân bị đem ra bắn ở Indonesia.

Các phạm nhân hôm nay đã bị đưa vào buồng cách ly, và hai người một sẽ bị xử bắn cùng lúc.

Tất cả các tử tù bị kết án buôn lậu ma túy trong khoảng thời gian từ năm 2000 – 2011.

Tổng thống Indonesia Joko Widodo đã bác đơn xin ân xá của các tử tù tháng 12 năm ngoái.

Một giới chức Indonesia được trích lời nói rằng nước ông “chỉ tìm cách bảo vệ đất nước khỏi mối nguy hại của ma túy”.

Indonesia áp dụng các luật lệ nghiêm khắc đối với tội trạng buôn lậu ma túy.

Hơn 138 người hiện là tử tù, và phần lớn trong số đó là có liên quan tới tội buôn lậu ma túy. Một phần ba trong số đó là công dân nước ngoài.

Nguồn: AP, Reuters

ĐTC: Chúa Kitô không để các con ngã quỵ

ĐTC: Chúa Kitô không để các con ngã quỵ

Chuacuuthe.com

DTC-2015-01-17

VRNs (17.01.2015) -Philippines- Đức Thánh Cha vừa kết thúc thánh lễ tại phi trường Tacloban. Từ đây ngài về tòa Giám mục địa phận Tacloban và dùng cơm trưa với 30 người đại diện là những nạn nhân sống sót sau cơn bão Hải Yến hồi năm ngoái. Trên quảng đường về tòa Giám mục, người dân hai bên đường vỗ tay reo hò từng chặng khi xe chở ngài tiến qua.

Sau đây là nguyên văn nội dung bài giảng của ĐTC trong thánh lễ tại Phi trường Tacloban.

Hôm nay cha muốn giảng bằng Tiếng Tây Ban Nha vì cha đã có một thông dịch viên tuyệt vời!

Chúng ta có vị linh mục cao cả có khả năng cảm thông những yếu đuối của chúng ta. Chúa Giêsu giống như chúng ta, sống như chúng ta và giống ta mọi đàng ngoại trừ tội lỗi vì Ngài không phải là một tội nhân. Nhưng để giống chúng ta hơn, Ngài mang lấy tất cả mọi khốn khổ và tội lỗi của chúng ta. Chính Ngài chấp nhận đi vào trong tội. Đây là điều mà thánh Phaolô Tông đồ nói với chúng ta.

Chúa Giêsu luôn luôn đi trước chúng ta và khi chúng ta trải qua một kinh nghiệm, một thập giá thì Ngài đã trải qua trước chúng ta. Sự hiện diện của chúng ta hôm nay tại đây, sau 14 tháng hứng chịu cơn bão Hải Yến là vì chúng ta không đánh mất niềm tin vào Chúa Giêsu vì chính Ngài đã ở đây trước chúng ta.

Trong cuộc khổ nạn của Ngài, Chúa Giêsu đã mang lấy tất cả nỗi đau của chúng ta. Vì thế Ngài có khả năng thấu hiểu chúng ta như chúng ta đã nghe trong bài đọc I.

Cha muốn nói với các con một vài điều từ sâu thẳm cõi lòng của cha. Khi cha còn ở Rôma, cha chứng kiến thảm họa các con phải chịu cha nghĩ rằng cha phải ở đây với các con. Và trong những ngày đó, cha đã quyết định phải đến đây. Cha ở đây hơi trễ nhưng lúc này cha đang ở đây. Cha đến để nói với các con rằng, Chúa Giêsu chính là Chúa. Và Ngài không bao giờ để chúng ta phải quỵ ngã. Các con có thể nói với cha rằng, cha ơi con đã bị quỵ ngã vì con đã mất quá nhiều thứ: nhà cửa, cuộc sống. Điều đó đúng nếu các con nói như thế và cha tôn trọng cảm nghĩ này của các con. Nhưng Chúa Giêsu đã ở đó, chịu đóng đinh trên thập giá và từ thập giá Ngài không để chúng ta bị quỵ ngã. Ngài đã được thánh hiến cho Thiên Chúa trên thập giá và ở đó Ngài đã kinh nghiệm tất cả những tai ương mà chúng ta đã trải nghiệm. Chúa Giêsu là Chúa. Và từ trên thập giá Ngài thấu hiểu tất cả chúng ta. Và trong mọi thứ Ngài giống như chúng ta. Đó là điều tại sao chúng ta có một Vị Thiên Chúa đã khóc với chúng ta và đi với chúng ta trong những giây phút đau khổ nhất của cuộc sống.

Vì thế nhiều người trong các con đã mất mọi thứ. Cha không biết phải nói như thế nào với các con. Nhưng Thiên Chúa biết những gì phải nói với các con. Một số trong các con đã mất một số thành viên trong gia đình. Nhưng điều cha có thể làm là giữ thinh lặng và đi với các con bằng con tim thinh lặng của cha. Nhiều người trong các con đã trách Chúa tại sao lại xảy ra như thế và mỗi các con trong tận cõi lòng mình đã nghe tiếp trả lời của Đức Kitô. Từ trên thánh giá, Ngài đã trả lời cho các con. Cha không cần nói thêm lời nào nữa. Chúng ta hãy nhìn lên Chúa Kitô. Ngài là Chúa. Ngài hiểu chúng ta vì Ngài trải qua tất cả những thử thách mà chúng ta đã kinh nghiệm.

Và bên cạnh thập giá là Mẹ của Ngài. Chúng ta giống như trẻ nhỏ trong những giây phút mà chúng ta có quá nhiều đau khổ và không còn hiểu điều gì cả. Tất cả chúng ta có thể làm là nắm chặt lấy tay Mẹ và nói “Mẹ ơi!” Giống như trẻ thơ nói như thế khi nó sợ hãi. Có lẽ lời duy nhất cha có thể nói trong thời khắc khó khăn là: “Mẹ ơi!”

Chúng ta hãy thinh lặng một phút với nhau và nhìn lên Đức Kitô trên thập giá. Ngài hiểu chúng ta vì Ngài đã chịu đựng tất cả mọi thứ. Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ Maria và giống như trẻ thơ chúng ta hãy nắm lấy tà áo của Mẹ và với một con tim thành tâm nói rằng: “Mẹ ơi!”

Trong thinh lặng hãy nói với Mẹ những gì các con đang cảm nhận trong lòng. Chúng ta biết rằng chúng ta có một người Mẹ là Mẹ Maria và có Một Người Anh tuyệt vời là Chúa Giêsu. Chúng ta không cô đơn. Chúng ta cũng có rất nhiều anh em, những người trong những lúc khó khăn đã giúp đỡ chúng ta. Và vì thế chúng ta cũng cảm nhận chúng ta là anh chị em của nhau.

Đó là những gì xuất phát từ cõi lòng của cha. Hãy thứ lỗi cho cha nếu như cha không có đủ lời để diễn tả. Xin hãy biết rằng Chúa Giêsu không bao giờ để các con phải quỵ ngã. Hãy biết rằng với sự dịu dàng của Mẹ sẽ không để các con phải quỵ ngã và hãy nắm lấy tà áo của Mẹ. Và với sức mạnh đến từ tình yêu của Chúa Giêsu trên thập giá, chúng ta hãy đứng dậy và cùng bước đi như những anh chị em trong Chúa Kitô.

Pv. VRNs tại Philippines (dịch)

ƠN GỌI

ƠN GỌI

Thùy Phương

“Hãy tin rằng Ngài sẽ cho bạn những ơn thánh cần thiết vào những thời điểm cần thiết vì Ngài đã nói “ơn Ta đủ cho con”, và Ngài không bao giờ thử thách quá sức chịu đựng của bạn”

“Ơn Gọi” – chỉ hai chữ thôi nhưng đã đặt ra cho con biết bao nhiêu câu hỏi ngay từ khi con có trí khôn.  Ơn gọi là gì?  Là ai gọi?  Gọi như thế nào?  Và tại sao lại gọi?…  Biết bao nhiêu câu hỏi tại sao và tại sao mà chưa có lời giải đáp.  Hai chữ ấy theo con lớn lên khiến con càng phải đi tìm câu trả lời cho mình, và từng bước con khám phá ra qua cuộc sống, qua những biến cố hàng ngày.

“Ơn Gọi” – là một cái gì đó rất bình thường nhưng cũng thật phi thường.  Bình thường vì nó chỉ là một tiếng gọi nhưng phi thường vì tiếng gọi ấy chỉ là một ơn mà Thiên Chúa ban cho mỗi người.  Được sinh ra làm người và làm con Chúa chính là một hồng ân và ơn gọi sống đời thánh hiến mà Chúa dành cho con là một quà tặng mà con được nhận.  Con đã được mời gọi dấn thân vào đời sống tu trì một cách rất tình cờ và cũng thật tự nhiên.  Lời mời gọi ấy văng vẳng quanh con, qua gia đình, anh chị em, bạn bè, qua những nơi, những người mà con tiếp xúc.  Lời gọi ấy âm thầm nhưng lại mãnh liệt.  Đã nhiều lần con muốn làm ngơ trước lời ấy nhưng dường như càng lẩn trốn thì tiếng gọi ấy càng lớn dần trong con và ngày càng thôi thúc con phải làm điều gì đó cho Chúa, cho mọi người và cho chính bản thân.  Con cảm thấy mình rất can đảm, can đảm vì dám bước theo Chúa, can đảm vì có một quyết định mà người khác cho là “điên”….  Vâng, con chấp nhận như thế vì chính con cũng biết rằng: đi theo Chúa là khổ cực, là từ bỏ mọi thứ mà lẽ ra con sẽ có ở độ tuổi này.  Theo Chúa là từ bỏ gia đình, anh chị em để sống chung trong gia đình mới với mỗi người mỗi nết khác nhau, và theo Chúa chính là lội ngược dòng….

Nhưng khi đến được điểm hẹn với Chúa, con thấy mình hạnh phúc, hạnh phúc vì có Chúa, hạnh phúc vì thực hiện điều Chúa muốn và hạnh phúc vì xuất phát từ con tim con.  Bởi con biết cuộc sống con ở trong tay Chúa, chọn con cũng là sáng kiến của Chúa.  Và cũng thật kỳ diệu thay khi sáng kiến ấy lại xuất phát từ khi con chưa lọt lòng mẹ thì Chúa đã chọn, Chúa chỉ việc đợi chờ con đáp trả một cách tự do mà không ràng buộc.

Và bây giờ con đã hiểu, con vẫn đang trên hành trình đi tìm hạnh phúc, và chỉ khi nào con chia sẻ hạnh phúc ấy cho mọi người thì con mới thực sự hạnh phúc trong Chúa.

Xin mọi người hãy tiếp tục cầu nguyện cho ơn gọi của con nhé…..

Thùy Phương

From: suyniemhangngay1 & Anh chị Thụ Mai gởi

Giác Ngộ “Tự Tánh” trong THIỀN Phật Giáo (Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng) (phần 2)

Giác Ngộ “Tự Tánh” trong THIỀN Phật Giáo (Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng) (phần 2)

dongten.net

II.    NỘI DUNG

1.      Tánh và Thấy Tánh

a.      Tánh

Trước hết, “Tánh” (Tính) về mặt ngữ nghĩa là chỉ về cái bản thể, yếu lý, linh hồn, hoặc cái bẩm sinh ở con người [12], người Việt hay gọi là “Lương tâm”. Từ mà chính Huệ Năng hay dùng là “Bổn lai diện mục” tức là “Khuôn mặt ngàn đời” trước sau không thay đổi. Tánh “vốn tự đủ, chẳng lay động, chẳng sinh chẳng diệt”[13] nơi mỗi người nên cũng được gọi là “Tự Tánh”, “Chân Như”, hay “Phật Tánh”. Tánh thể hiện về mặt trí gọi là “Bát Nhã”, đó là “Trí Bát Nhã” hay “Trí Huệ”. Tánh là một ánh sáng phát xuất từ bên trong nội tâm nên gọi là“Ánh Sáng Tự Tâm”. Việc thấy Tánh cũng mở ra một nhãn quan mới gọi là mở “Con Mắt Trí Huệ”. “Tự Tánh” mặc dù với nhiều tên gọi khác nhau nhưng đều chỉ về một Thực tại Siêu Việt đã có sẵn trong mỗi người từ muôn đời. Huệ Năng nhiều lần nhắc nhở đồ chúng và môn đồ của mình: “Tâm ta tự có Phật, Tự Phật là chơn Phật… Các ngươi tự tâm là Phật, chớ hồ nghi nữa.”[14]

Thật ra, thực tại Tự Tánh là một Thực tại Siêu Việt, ta không thể dùng lời để diễn tả hết những sâu diệu của nó. Ta cũng không thể chỉ dựa vào câu chữ ở trên mà hiểu được hết, chỉ khi ta tự chứng nghiệm lấy thì ta sẽ hiểu phần nào về Tánh đó. Điều này cũng giống như việc mãi giải thích cho “Hạt muối”[15] về “Biển” là gì trong khi chỉ cần ra đến biển và ngụp lặng vào biển thì hy vọng đã hiểu được phần nào. Hơn nữa, ta không thể diễn đạt được hết ý nghĩa và đúng bản chất của Tánh bằng một khái niệm nào bằng mặt chữ, mà dù có định nghĩa là gì thì ta cũng chỉ là gọi tên đơn thuần hay nói về một thuộc tính của Tánh mà thôi. Vì thế, các triết gia Ấn thường diễn đạt Tánh theo lối phủ định: “neti neti” nghĩa là không phải như vậy mà cũng chẳng như thế kia.[16]

Tánh mà Huệ Năng muốn nhấn mạnh cũng theo một lối như thế khi Sư ra câu đố cho các đồ đệ của mình. Sư hỏi: “Ta có một vật, chẳng đầu chẳng đuôi, chẳng danh chẳng tự, chẳng lưng chẳng mặt, các ngươi có biết chăng?”. Một môn đệ của sư là Thần Hội bèn ra nói: “Ấy là bổn nguyên của chư Phật, Phật tánh của Thần Hội”. Sư nói: “Đã nói với ngươi là chẳng danh chẳng tự, ngươi bèn gọi là bổn nguyên Phật Tánh, ngươi sau này dẫu cho có ra hoằng pháp cũng chỉ thành một môn đồ tri giải mà thôi”.[17]

Từ những gì bàn ở trên cho ta thấy rằng, tự bản chất Phật giáo đã hướng về Tuyệt Đối Siêu Việt. Mặc dù không cho đó là một Đấng có Bản vị như nhiều tôn giáo khác nhưng Phật Giáo chính thống luôn tin Thực Tại Siêu Việt mà trước hết là hướng tìm Siêu Việt ngay trong tâm mình. Theo Huệ Năng, chỉ vì ta “mê loạn trong tư tưởng” nên không hiện thực được Ánh sáng Siêu Việt ấy ở trong ta, cần có sự hướng dẫn và khai ngộ của một bậc Thiền đức cho đến khi con Mắt huệ mở ra để ta có thể nhìn thấy Tự Tánh tinh tuyền của ta, điều đó gọi là Thấy Tánh”. [18]

b.      Thấy Tánh – Trí Bát Nhã [19]

“Thấy Tánh” chính là đối tượng mà phép hành Thiền nhắm đến. Kinh Phạm Võng cũng nói: “Tự tánh vốn thanh tịnh, nếu nhận được Tự Tâm, thấy được Bản Tánh, tức thành Phật đạo” [20].  Thấy Tánh trong Thiền cũng hay gọi là “Ngộ”, “Giác” hay “Giác Ngộ” (Budhi – Bồ đề) [21]. Thấy Tánh hay Giác ngộ có thể nói rằng đó là trạng thái thức tỉnh của tâm hồn nhận ra điều gì đó lớn lao, rất cụ thể từ bên trong, là sự hiểu biết cao thâm mà từ trước đến giờ chưa hề biết đến.[22] Sự hiểu biết này phải phát sinh từ sự nhận ra bản chất của Tự Tánh nơi tâm hồn mình. Chắc chắn cái biết đó không phải là cái biết thuần lý trí và lý thuyết nhưng là sự tự trực nghiệm thấy được, tự nhận ra được Chân lý cao sâu từ bên trong không thể diễn tả hết bằng lời nói.[23]

Nếu như Thấy Tánh là nhận ra và hiểu được diệu lý của Bổn thể mình thì đồng thời sự nhận biết đó cũng phản lại cái diệu lý đó lên vạn vật gọi là Trí Bát Nhã. Như thế, Thấy Tánh là đồng một thể Trí Bát Nhã. [24] Trí Bát Nhã nơi sự Giác ngộ không những là trạng thái tuyệt đối của tâm dứt bặt hết phân biệt của vọng tưởng nhưng còn là thể nghiệm trạng thái “kiến chiếu muôn vật trong Một niệm”[25]. Cần “Một Niệm[26] mới có Giác, cái biết của Trí Bát Nhã (Trí Huệ) là thấy “tất cả tức một, một tức tất cả, tới lui tự do, tâm thể vô ngại”. Đó là cái biết phát xuất từ bản chất của Tự Tánh, “Trí Bát Nhã đều từ Tự tánh mà sanh, chẳng từ bên ngoài vào do vậy không thể lấy ý thức hay lý trí để cho đó là Trí Bát Nhã”. [27] Vì lẽ đó, nhìn thấy Tánh không chỉ là giới hạn nơi con người mình nhưng là nhận ra Tánh bao hàm toàn thể vũ trụ, vốn tự do tự tại không bị giới hạn vào điều gì cả. Tánh này vốn đầy sinh lực sáng tạo, tự tri tự giác.

Tuy vậy, Huệ Năng còn nhấn mạnh đến việc tìm thấy Tánh ở trong nội tâm mình trước mà không phải ở ngoài. Theo Sư, nếu không thấy Tự Tánh nơi mình trước thì chẳng thể thấy Tánh đó nơi vạn vật, vạn vật đều có Phật Tánh nhưng do tâm hạnh con người tà hiểm nên chỉ thấy vạn vật chỉ là vạn vật thôi mà cái thấy đó cũng bị sai lệch, và ngay cả Phật trước mắt cũng chẳng coi ra gì huống gì là người thường và sự vật thấp hèn. Huệ Năng luôn nhấn mạnh ở điểm này: “Nếu tự chẳng Phật tâm, nơi nào tìm chân Phật?”[28] “Ngoài tâm đi tìm đạo, suốt đời chẳng thấy đạo”[29] Vì thế, Thiền mà chẳng Thấy Tánh thì chẳng phải Thiền của Huệ Năng cũng chẳng phải phát xuất từ Tâm Phật Thích Ca dưới cây Bồ đề. “Dù có nói tụng muôn ngàn kinh Phật, hay ngày đêm tu tập cốt lấy cái học rộng nghe nhiều làm pháp Phật mà không thấy Tánh Phật nơi mình thì cũng là không, uổng công phí sức cũng giống như nói đủ về các món ăn mà vẫn đói”[30]. Điều này cho thấy, “cái biết đích thật” phải phát xuất từ Tự Tánh trước, nếu không thì cái biết từ bên ngoài vào cũng trở nên vô nghĩa đối với đời sống mình, nhiều lúc lại trở nên điều chẳng lành khi ta quá tự mãn về sự hiểu biết thuần kiến thức của ta!

Ở đây, cũng cần lưu ý rằng việc thấy Tánh hay không là ở nơi kinh nghiệm mỗi người tự chứng ngộ lấy. Nếu không như thế ta sẽ dễ tự vướng mắc vào thế phân biệt “thấy” hay “không thấy”. Vấn đề bàn ở đây chỉ là nêu vấn đề để bàn luận để hiểu phần nào về việc “Thấy Tánh”. [31] Để hiểu hơn về cái Thấy Tự Tánh ta cần vượt qua “lý trí phân biệt” để đi vào “Nhất nguyên vô biệt” nơi Trí Bát Nhã.

2.      Trí Bát Nhã – Nhất Nguyên Vô Biệt

Tại sao việc thấy Tánh hay Trí Bát Nhã nơi việc Giác Ngộ lại liên quan mật thiết với việc loại trừ lý trí phân biệt? Như chúng ta đã nói, Tự Tánh vốn thanh tịnh không là cái hai hay cái nhiều, vạn vật cũng là cùng nhất thể với Tự Tánh nên cũng bình đẳng như nhau. Huệ Năng thường nhấn mạnh rất nhiều ở điểm này:

“Phật tánh phi thường phi vô thường, nên chẳng đoạn dứt gọi là bất nhị. Một là thiện, hai là bất thiện, Phật tánh phi thiện, phi bất thiện, gọi là bất nhị.”[32]

Ở nơi khác Sư cũng nói:

“Niệm niệm viên tròn sáng tỏ, tự thấy bản Tánh, thiện ác dù khác, Tánh vốn bất nhị, Tánh bất nhị gọi là thật Tánh, ở trong thật Tánh chẳng nghĩ thiện ác”[33].

Quả thế, mọi sự vạn vật có bị phân ra với những trạng thái đối nghịch là chỉ tồn tại nơi tâm trí ta mà thôi. Trí Bát Nhã loại trừ cái nhìn phân biệt là để có cái nhìn trọn vẹn về sự vật, không bị nghiêng lệch phiến diện, từ đó không làm nảy sinh trong tâm những ý tưởng “tham, sân, si” vốn thường hay nảy sinh từ lý trí phân biệt.

Thật ra, khi nói không phân biệt tốt xấu thiện ác là một điều khá nghịch lý đối với cái nhìn thường hằng của đa số nhưng quả thật nếu thật sự có được sự chiếu rọi của Tự Tánh ta sẽ nhận ra rằng dù là âm-dương, sinh-diệt, có-không, tốt-xấu, thiện-ác… vẫn chỉ là “Một” trong tiến trình không gian, thời gian thôi. Phần lớn ta chỉ thấy có một mặt trong một thời điểm nào đó hay chỉ thấy mặt trội lên ở một điểm nào đó nên mới phân biệt ra như vậy chứ chẳng phải sự vật là phân biệt rạch ròi. Nếu xét kỹ ta sẽ thấy rằng, trong những điều ta cho là tốt nhưng bên trong đã hàm chứa mầm mống xấu hay ngược lại. Cũng cùng một sự việc nhưng người này cho là tốt nhưng người khác lại cho là xấu, hay cũng cùng một người lúc này cho là xấu nhưng lúc khác lại cho là tốt. Vì thế, tất cả những trạng thái đối nghịch là cũng do ý kiến chủ quan của ta ở một không gian hay thời gian nào đó. Lý do là cái nhìn của ta còn bị hạn hẹp, chỉ là cái nhìn trước mắt, chủ quan, phiến diện. Ngược lại, cái nhìn của Trí Bát Nhã phải là cái nhìn vượt lên đối tượng, vượt lên cả không gian thời gian, nhìn mọi sự trong tổng thể của nó, và đơn thuần chỉ “nhìn nó như là nó là” không nghĩ ngợi phân biệt gì nữa.

Mặc dầu vậy, Thiền không đặt nặng việc “có hay không sự phân biệt” cho bằng tâm ta có “tác ý” hay không, để rồi gán ghép cho sự vật là xấu để tránh né (sân) hay cho là tốt quá đến nổi nảy sinh ham muốn chiếm đoạt (tham) và đam mê (si).[34] Sự vật tự bản chất không tốt mà cũng chẳng xấu, có như thế nào là do những ý nghĩ trong lòng ta mà thôi.  Điều này được Huệ Năng tóm kết trong một đoạn kệ như sau: “…Đại viên cảnh trí Tánh thanh tịnh, Bình đẳng Tánh trí tâm chẳng bệnh. Diệu quan sát trí chẳng tác ý.[35] Do vậy, muốn giữ tâm thể được thanh tịnh thì đối với các vấn đề thiện ác Huệ Năng khuyên chớ nên suy lường.[36]

Trong đời sống thực tế, vấn đề khó là: mặc dù phân biệt thì ta vẫn phân biệt nhưng làm sao để tâm ta không nảy sinh những ý tưởng phân biệt gây nên những tình cảm yêu ghét. Khi sinh lòng yêu ghét, ta chỉ lo tìm lợi cho mình và gây hại người xung quanh bất chấp việc “bán rẻ” phẩm giá, mạng sống mình và người khác. Đó chính là mầm mống của “Vô minh”, là “bể khổ” và phiền não của cõi trần. Vô minh là gì, lý trí phân biệt gây nên Vô minh như thế nào và tác hại của Vô minh gây ra đau khổ như thế nào, chúng ta cùng xem xét ở phần sau.

Lửa Mới

04/2014

Xin xem tiếp tục phần 2 vào kỳ tới:
Bản chất của Vô Minh và Vô Niệm

Xin tải sách “Pháp Bảo Đàn Kinh” của Lục Tổ Huệ Năng tại đây:

https://drive.google.com/file/d/0B4ObwVVeiXE-bU50R19MV1VNQVU/view?usp=sharing

CHÚ THÍCH

[1] x. Daisetz Teitaro Suzuki, Thiền Luận, Quyển Thượng, NXB. TP.HCM, tr. 91.

[2] Thừa: nghĩa là Hành, Tối Thượng Thừa hay Phật Thừa là con đường hành đạo chính tông của Phật Giáo. Tam thừa: Đại Thừa, Trung Thừa, Tiểu thừa là con đường nhỏ hơn, đòi hỏi ít hơn so với Tối Thượng Thừa. Xem thêm: Lục Tổ Huệ Năng, Pháp Bảo Đàn Kinh, Phẩm Cơ Duyên thứ bảy, tr.48+56. (Số trang của sách này dựa trên sách người viết tự in từ file điện tử).

[3] Nghĩa là “Tâm truyền Tâm” thay vì truyền bằng văn tự hay lời nói, Thiền quan niệm rằng: “Diệu lý của chư Phật chẳng dính dáng với văn tự”. Do vậy “Được ý phải quên lời,.. được cá quên nơm,.. qua sông rồi phải bỏ bè.”.

  1. Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Cơ Duyên thứ bảy, tr. 42.

[4] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.123.

[5] Sẽ được giải thích sau.

[6] Điều chính yếu là Phật Pháp phải là Truyền từ Tâm Phật. Y Bát thật ra chỉ là vật để làm cho người ta tin, minh chứng cho chánh Pháp (Giáo lý) của người được truyền thừa từ Phật Thích Ca. Vì có sự tranh giành lẫn nhau nên Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn căn dặn Huệ Năng không nên truyền Y Bát nữa. Xem thêm: Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Tựa thứ nhất.

[7] Sẽ bàn ở phần sau.

[8] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Tựa thứ nhất, tr.4.

[9] Cũng gọi là “Kiến Tánh” hay “Giác Ngộ Tánh”, sẽ giải thích rõ hơn ở phần sau.

[10] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.255.

[11] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Tựa thứ nhất, tr.13.

[12] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr. 280, phụ chú 2.

[13] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Tựa thứ nhất, tr.8-9.

[14] sđd, Phẩm Phó Chúc thứ mười, tr.89.

[15] Xem thêm câu chuyện “Hạt muối và biển” trong sách Lẽ Sống.

[16] Hoành Sơn, Triết Sử Ấn Độ, Cuốn II, Hưng Giáo Văn Đông XB, tr.62.

[17] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Đốn Tiệm thứ tám, tr.66.

[18] sđd, Phẩm Bát Nhã thứ hai, tr.14.

[19] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.137-146.

[20] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Bát Nhã thứ hai, tr.17.

[21] Chúng ta sẽ bàn nhiều về Giác Ngộ ở phần sau, ở đây chỉ xin sơ lược qua những khái niệm tổng quát.

[22] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.278.

[23] Ngộ hay Trí Bát Nhã: theo Triết Ấn đó là sự tỉnh giấc của cái biết thuộc Nội Trí (Budhi) so với cái biết của ngoại trí (Manas) là cái biết thuần lý trí. Xem: Hoành Sơn, sđd, tr.79.

[24] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Bát Nhã thứ hai, tr.15.

[25] x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.144.

[26] “Một niệm”: sẽ được bàn ở phần sau.

[27] Lục Tổ Huệ Năng, sđd, Phẩm Bát Nhã thứ hai, tr.15.

[28] sđd, Phẩm Phó Chúc thứ mười, tr.89.

[29] sđd, Phẩm Bát Nhã thứ hai, tr.23.

[30] Huyết Mạch Luận của Bồ Đề Đạt Ma: x. Daisetz Teitaro Suzuki, sđd, tr.258 & 280-81.

[31] sđd, Phẩm Cơ Duyên thứ bảy, tr.65.

[32] sđd, Phẩm Tựa thứ nhất, tr.13.

[33] sđd, Phẩm Sám Hối thứ sáu, tr.39.

[34] sđd, Phẩm Cơ Duyên thứ bảy, tr.63.

[35] sđd, Phẩm Cơ Duyên thứ bảy, tr.51.

[36] sđd, Phẩm Pháp Hội thứ chín, tr.78.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu chính:

  1. Lục Tổ Huệ Năng, Pháp Bảo Đàn Kinh.
  2. Daisetz Teitaro Suzuki, Thiền Luận, Quyển Thượng, NXB. TP.HCM.

Tài liệu khác:

  1. Thích Thiên Ân, Triết học Zen, Tập I, Đông Phương xuất bản, 1966.
  2. Suzuki, Thiền và Phân tâm học, NXB. Phương Đông, (Như Hạnh dịch).
  3. Shunryu Suzuki, Thiền Tâm – Sơ Tâm, NXB. Phương Đông, (Nguyễn Duy Nhiên dịch).
  4. Đan Minh, Thiền Đến Phiền Đi, Phương Đông, (Thích Thiện Phước dịch).
  5. Hoành Sơn, Triết Sử Ấn Độ, Hưng Giáo Văn Đông xuất bản, 1970-1974.
  6. Lý Minh Tuấn, Đông Phương Triết học Cương yếu.
  7. Lý Minh Tuấn, Triết lý chữ Hòa (Từ linh đạo Kitô Giáo đến các Linh đạo Đông Phương), Phương Đông.
  8. Thường Nhân, Thanh Tịnh Tâm – Tu thiền thực tập, NXB. Phương Đông.
  9. Anthony de Mello SJ, Một Phút Khôn Ngoan, Antôn Đuốc Sáng.
  10. Kinh Thánh Tân Ước và Cựu Ước.

Giác Ngộ “Tự Tánh” trong THIỀN Phật Giáo (Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng)(phần 1)

Giác Ngộ “Tự Tánh” trong THIỀN Phật Giáo (Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng) (phần 1)

dongten.net

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (2)

Thiền là gì? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời, vì thật khó có thể tóm gọn “Thiền” chỉ một câu nói hay một lý thuyết thuần túy.

Bạn đọc thân mến,

Xin gửi đến những ai quan tâm đến Tâm linh như một phần quan trọng trong cuộc sống của mình một bài luận về Thiền Phật Giáo.

Hy vọng qua bài luận này bạn đọc sẽ hiểu sâu hơn về cốt tủy Phật Giáo khi bàn về “Giác ngộ Tự Tánh” qua tác phẩm “Pháp Bảo Đàn Kinh” của Lục Tổ Huệ Năng, kèm theo những giải nghĩa trong bộ “Thiền Luận” của Giáo Sư Thiền học Daisetz Teitaro Suzuki. Ở phần phản tỉnh cá nhân, tôi sẽ bàn thêm mối tương quan giữa Thiền và Kitô giáo như một phần để đối thoại và hiểu nhau hơn trong đời sống tâm linh nói chung.

Chắc hẳn với chút nghiên cứu quá giới hạn không thể đáp ứng hết lời giải đáp cho mọi vấn đề và cũng xin lượng thứ nếu có điều gì không đồng với quan điểm đức tin nơi mỗi người. Do vậy, ước mong bạn đọc khi tham khảo bài này cần vượt qua những câu chữ, không nên chú trọng quá để lấy kiến thức hay để tranh luận. Nhưng cách nào đó là để hiểu hơn và rút tỉa những điều bổ ích liên quan đến đời sống nội tâm cá nhân mỗi người; từ đó cảm thấy vui, tôn trọng nhau hơn khi nhận ra rằng chúng ta dù khác nhau về văn hóa và cách tiếp cận Tâm linh nhưng vẫn đi trên một Đường Đạo.

Lửa Mới

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (14)

Bài luận này sẽ gồm những phần chính như sau:

(1) Thiền Huệ Năng : Thiền là ”Thấy Tánh”.

(2) Bản chất của Vô Minh – Vô Niệm

(3) Bản chất của Giác ngộ Tự Tánh

Làm sao để Giác ngộ Tự Tánh?

(4) Tự độ và tha độ trong Phật Giáo (phản tỉnh cá nhân).

(5) Thiền dưới lăng kính Kitô giáo (phản tỉnh cá nhân).

Phụ lục: Thập Mục Ngưu Đồ Thiền Tông.

(Xin click vào các con số trong ngoặc vuông [..] để xem chú thích ở phía dưới và click lại các con số ở chú thích để trở lại đọc tiếp.)

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (12)

GIÁC NGỘ “TỰ TÁNH”
TRONG THIỀN  PHẬT GIÁO

(Theo Pháp Bảo Đàn Kinh của Lục Tổ Huệ Năng)

PHẦN I: THIỀN HUỆ NĂNG: THIỀN LÀ “THẤY TÁNH”

I.       LỜI MỞ ĐẦU

Dường như thời đại nào cũng vậy, cuộc sống được gắn liền với “cuộc truy tìm hạnh phúc” phát xuất từ khát khao thẳm sâu trong thâm tâm mỗi con người. Ai cũng muốn mình được hạnh phúc cách này cách khác dù là phải tìm đến cái chết. Dầu vậy, không có từ nào mà lại mông lung cho bằng hai chữ “hạnh phúc”. Hạnh phúc thật đa dạng nên mỗi người sẽ tự tìm cho mình những loại hạnh phúc khác nhau; đó có thể là tiền bạc, vật chất, danh vọng, địa vị, sắc đẹp… Có người chú ý đến những sở thích hay sở trường khả năng riêng của mình. Cũng có người cho rằng sức khỏe thể xác là quý hơn cả, có người lại hướng đến hạnh phúc trong đời sống trí thức, tinh thần hay tâm linh. Hạnh phúc như thế sẽ có nhiều thang bậc khác nhau nhưng phần lớn ai cũng cho rằng: điều họ đang tìm kiếm thì mới là hạnh phúc hơn cả!

Như vậy thì ai đúng ai sai, ai hạnh phúc hơn ai, ai mới là có hạnh phúc thật sự và hạnh phúc đích thực là gì? Thật ra, hai chữ “hạnh phúc” không có một định nghĩa chung bằng câu chữ và không có một triết thuyết nào có thể diễn đạt hết con đường đạt đến hạnh phúc! Điều có thể xác định lại là: hạnh phúc thật hay không là tự ở nơi tâm hồn mỗi người cảm nhận.

Nhiều người tin rằng Thiền là một công cụ dẫn đến một công năng kỳ diệu cho cuộc sống và làm cho họ được giải thoát khỏi đau khổ và mang lại sự hạnh phúc đích thật.

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (18)

DẪN VÀO THIỀN

Thiền là gì? Đó là một câu hỏi không dễ trả lời, vì thật khó có thể tóm gọn “Thiền” chỉ một câu nói hay một lý thuyết thuần túy. Thế nhưng, chắc hẳn đó phải là một thực tại tâm linh không phải ‘với tới’ chỉ bằng lý trí hay kiến thức luận lý. Dùng lý trí để nói về Thiền cũng là một thiển cận rồi! Khi tìm hiểu về Thiền, bài luận này chỉ muốn đụng chạm đến những khái niệm cơ bản và ngắm thử con đường mà Thiền muốn nhắm tới thôi. Còn Thiền thật sự là gì thì hãy để “Thiền” tự nói với mỗi người trong tâm hồn.

Dhyana hay Jhana (Thiền na / Thiền: dịch nghĩa là “tư duy tu”) bắt nguồn từ Ấn Độ, ở Nhật gọi là Zen, ở Trung Hoa gọi là Tịnh Lự. Nói đến Thiền ở Ấn Độ là nói đến phương pháp tu luyện cổ truyền có từ thuở ban sơ của Ấn Độ Giáo và Phật Giáo sau đó. Dhyana hay Tịnh Lự là chỉ việc trầm tư về một Chân lý, một Triết lý hoặc một Đạo đến chỗ triệt ngộ, in sâu trong nội thức. Tu Thiền là phải đến chỗ thanh vắng, xa cảnh náo nhiệt loạn động thì mới mong có sự giải thoát[1]. Phật Thích Ca cũng là một trong những người đi tìm sự giải thoát trong Thiền như thế.

Vì lẽ đó, có người khi nói đến “Thiền” là nghĩ ngay đến việc ngồi Thiền, ngồi làm sao để giữ mình trong tĩnh lặng, không còn bị chi phối bởi điều gì nữa. Cuộc sống xã hội điên đảo nên càng ngày càng có nhiều người đến với Thiền và họ hy vọng sẽ gặp được sự thinh lặng nội tâm và coi đó là niềm hạnh phúc thật sự. Cũng có người ngồi Thiền để gìn giữ sức khỏe trong việc luyện Thiên Khí Năng, Khí Công, Nhân Điện, Yoga… hay luyện một công phu phi thường nào đó có ích cho mình và giúp ích cho mọi người. Nhiều người khác cho Thiền là một thực tại tâm linh huyền bí nên họ sử dụng Thiền như một phương tiện để tu hành đạt chánh quả trong nhiều tôn giáo đặc biệt là Phật Giáo. Nói cho cùng, “Thiền” được xem như là một phương tiện để đạt một mục đích hay công năng siêu vượt nào đó. Vì cách hành Thiền khác nhau nên mỗi người sẽ quan niệm khác nhau về Thiền. Không có một định nghĩa xác đáng cho tất cả vì Thiền cũng chỉ là phương tiện mà thôi. Điểm nhắm chính là làm sao đạt được điều mỗi người mong muốn hay nhắm tới.

Trong giới hạn của bài luận này, người viết chỉ chú ý đến Thiền của Tổ Huệ Năng (637-713) thuộc Tông Phật Giáo Tối Thượng Thừa[2] ở Trung Hoa. Đây là tông phái Thiền được coi là “cốt tủy” của Phật Giáo vì được truyền từ Tâm của Phật Thích Ca (623-543 TCN) (gọi là Truyền Tâm Ấn[3]) khi Người đạt quả Giác Ngộ dưới gốc Bồ Đề. Huệ Năng là Tổ thứ 33 tính từ Phật Thích Ca, cũng là Tổ thứ 6 kể từ khi Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma (?-529) mang Thiền từ Ấn Độ truyền qua Trung Hoa (520). Huệ Năng được xem là Tổ khai sáng Thiền Trung Hoa. Mặc dù tinh thần Thiền tông vẫn là một nhưng hình thức Thiền của Huệ Năng lại hoàn toàn Trung Hoa vì được diễn đạt theo kinh nghiệm đặc nét riêng, đầy sáng tạo của tâm hồn thực tế con người Trung Hoa. Và cũng từ Huệ Năng, Thiền trở thành một Tông phái cực thịnh vào thời nhà Đường và các thời sau đó.[4]

http://dongten.net/wp-noidung/uploads/2015/01/L%E1%BB%A5c-T%E1%BB%95-Hu%E1%BB%87-N%C4%83ng.jpg

THIỀN HUỆ NĂNG

Huệ Năng (637-713) sinh ra trong một gia đình nghèo ít học làm nghề bán củi, cha mất sớm nên ông ở với mẹ. Một lần trong khi đi giao củi cho khách, Huệ Năng vô tình nghe một người tụng Kinh Kim Cương thì tự nhiên được khai ngộ[5]. Huệ Năng hỏi ra thì biết người đang tụng lấy Kinh này từ Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn (601-674); sau đó Huệ Năng tìm cách đến thọ giáo Ngũ Tổ. Qua cuộc đối đáp, Ngũ Tổ biết được Huệ Năng đã có căn cơ đi vào cốt tủy của Thiền Môn. Mặc dù suốt ngày chỉ lo việc giã gạo ở nhà sau nhưng Huệ Năng đã đi vào được tinh yếu của Thiền và đạt Đại Ngộ trước tất cả mọi người. Ngũ Tổ biết căn cơ của Huệ Năng nhưng không công khai cho mọi người biết điều đó. Về sau, Tổ chỉ âm thầm Truyền Y Bát (là vật làm tin[6]) cho Huệ Năng làm tổ thứ 6 của Thiền Tông. Huệ Năng trốn về phương Nam ẩn tích một thời gian lâu, sau đó lại ra thuyết về Pháp Đốn Ngộ Tự Tánh [7]. Có nhiều đồ đệ sau khi được Huệ Năng khai ngộ đã kế tục Pháp Đốn ngộ của sư. Cuộc đời và Pháp Đốn Giáo của sư Huệ Năng được một đệ tử là Thần Hội viết lại trong cuốn “Pháp Bảo Đàn Kinh” [8]. Nội dung bài viết này phần lớn xoay quanh những ý chính trong cuốn Pháp Bảo Đàn Kinh này, kèm theo những giải nghĩa trong bộ“Thiền Luận” của Giáo Sư Thiền học Daisetz Teitaro Suzuki.

Giác Ngộ “Tự Tánh” Trong Thiền (5)

Theo Huệ Năng, Thiền là “Thấy Tánh” [9]. Đó là hai chữ tinh yếu nhất trong dòng khai diễn của đạo Thiền. Thiền kết tinh tại đó, và “nhờ đó ta biết cố gắng của ta phải hướng về đâu, và bằng cách nào ta có thể hình dung nó trong tâm thức”. Thật ra, hai chữ này cũng đã được Bồ Đề Đạt Ma dùng đến, nhưng phải đến Huệ Năng mới “nắm trọn tinh nghĩa và in mạnh trọn vẹn ý nghĩa trong tâm thức người nghe cách dứt khoát không sao lầm lẫn được” so với các tông phái khác. [10] Yếu chỉ này lần đầu tiên được Huệ Năng tuyên xướng cho pháp sư Ấn Tông khi sư nói rằng: “Chỉ luận Thấy Tánh, chẳng luận Thiền định hay giải thoát.”[11]

“Tánh” hay còn gọi là “Thực tại Tự Tánh” nghĩa là gì? Tại sao Huệ Năng xem việc “Thấy Tánh” hay “Giác ngộ Tự Tánh” là yếu chỉ của Thiền? Bằng cách nào để đạt đến sự Giác ngộ thực tại đó? Tất cả những gì bài luận này nhắm tới chỉ nhằm triển khai các khái niệm ấy. “Tự Tánh” hay “Giác ngộ Tự Tánh” là một đề tài không dễ để luận bàn vì đó là một thực tại tâm linh. Trong giới hạn của mình, người viết cũng chỉ là một người nghiên cứu để trình bày lại những gì mình đọc được và cảm nhận được từ các tài liệu liên quan chứ không phải trên tư cách của một Thiền sư hay người đã chứng ngộ được điều gì!

Bài chia sẻ của ĐTC tại buổi gặp mặt các gia đình ở Philippine

Bài chia sẻ của ĐTC tại buổi gặp mặt các gia đình ở Philippine

Chuyển ngữ: Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

Các gia đình rất thân mến,

Những người bạn trong Đức Kitô thân mến của tôi,

Tôi rất biết ơn về sự hiện diện của các bạn tại đây tối nay và vì chứng tá tình yêu các bạn dành cho Đức Giêsu và cho Giáo Hội. Tôi cảm ơn Đức Cha Reyes, Chủ Tịch Ủy Ban về Gia Đình và Sự Sống của Hội Đồng Giám Mục, vì những lời chào mừng ngài thay mặt các bạn dành cho tôi. Và, một cách đặc biệt, tôi cảm ơn tất cả những ai đã trình bày chứng tá và đã chia sẻ đời sống đức tin của mình cho chúng tôi. Giáo Hội tại Philippines thật có phúc với nhiều phong trào tông đồ dành cho gia đình.

Kinh Thánh ít khi nói về thánh Giuse, nhưng cứ mỗi khi nhắc đến, chúng ta thường thấy Ngài luôn trong lúc nghỉ ngơi, như khi thiên thần mặc khải ý Chúa cho Ngài trong những giấc mơ. Trong đoạn Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe, chúng ta thấy thánh Giuse không phải chỉ nằm nghỉ một lần, nhưng là hai lần. Tối nay, tôi muốn được nghỉ ngơi trong Chúa với tất cả các bạn, ý tôi là nghỉ ngơi trong Chúa cùng với các gia đình và tôi nhớ gia đình của tôi, bố mẹ, ông và cố của tôi. Hôm nay, tôi muốn nghỉ ngơi với các ban và tôi muốn cùng suy tư với các bạn món quà gia đình.

Nhưng trước hết, tôi muốn nói một chút về giấc mơ… Mỗi người cha và người mẹ đều mơ về con của mình khi chúng còn trong dạ suốt chín tháng. Mơ về cuộc sống sau này của bé. Không thể có một gia đình không có những giấc mơ như thế. Khi bạn đánh mất khả năng mơ, bạn cũng đánh mất khả năng yêu và năng lực yêu này cũng mất. Tôi mời gọi các bạn, tối nay, khi xét mình, hãy tự vấn xem: “Tôi có mơ về con cái của tôi không? Tôi có mơ về tình yêu của người bạn đời không? Tôi có mơ về bố mẹ và gia đình không? Mơ và mơ trong một gia đình là điều rất quan trọng. Xin đừng đánh mất khả năng mơ theo cách này. Và bạn sẽ tìm ra được những giải pháp cho các vấn đề gia đình bạn dành thời gian để suy tư, suy nghĩ về chồng/vợ và chúng ta cùng mơ về những đặc tính tốt đẹp chúng ta có. Thậm chí đừng bao giờ đánh mất những điều mơ mộng khi còn hẹn hò.

Sự nghỉ ngơi của Giuse đã mặc phải ý Chúa cho ngài. Trong khoảnh khắc nghỉ ngơi với Chúa này, khi chúng ta tạm dừng những bổn phận và hoạt động hàng ngày, Chúa cũng nói với chúng ta. Chúa nói với chúng ta nơi bài đọc mà chúng ta vừa mới nghe, nơi lời cầu nguyện và chứng tá của chúng ta, và trong sự thinh lặng của con tim chúng ta. Chúng ta hãy phản tỉnh về điều Chúa đang nói với chúng ta, đặc biệt là trong đoạn Tin Mừng tối nay. Có ba khía cạnh của đoạn này mà tôi muốn mời gọi các bạn cùng suy xét: nghỉ ngơi trong Chúa, thức dậy cùng với Giêsu và Maria, và trở thành một tiếng nói ngôn sứ.

Nghỉ ngơi trong Chúa. Nghỉ ngơi là điều rất cần thiết cho sức khỏe tâm trí và thể xác chúng ta, và thường rất khó có được vì rất nhiều nhu cầu đè nặng trên chúng ta. Nhưng nghỉ ngơi cũng là điều rất thiết yếu cho sức khỏe thiêng liêng để chúng ta có thể nghe tiếng Chúa và hiểu được điều Người muốn nói với chúng ta. Thánh Giuse đã được Thiên Chúa chọn để trở thành vị dưỡng phụ của Đức Giêsu và hiền phu của Maria. Là những người Kitô hữu, các bạn cũng được mời gọi, giống như thánh Giuse, để dành cho Giêsu một mái nhà. Các bạn xây dựng một mái ấm cho Ngài trong con tim, gia đình, giáo xứ và cộng đoàn của các bạn.

Để có thể nghe và đón nhận lời mời gọi của Chúa, xây dựng một mái nhà cho Giêsu, các bạn phải có khả năng nghỉ ngơi trong Chúa. Các bạn phải dành thời gian mỗi ngày để nghỉ ngơi trong Chúa để cầu nguyện. Cầu nguyện là nghỉ ngơi trong Chúa. Nhưng các bạn có thể nói với tôi: Thưa Đức Thánh Cha, con muốn cầu nguyện, nhưng có nhiều việc phải làm quá! Con phải chăm sóc cho con cái; con phải làm việc nhà; con mệt mỏi đến độ thậm chí chẳng thể ngủ ngon được.” Điều này có thể đúng, nhưng nếu chúng ta không cầu nguyện, chúng ta sẽ không biết được điều quan trọng nhất trên tất cả mọi sự là: thánh ý của Chúa dành cho chúng ta. Và chúng ta sẽ đạt được nhiều hiệu quả trong các hoạt động, trong những bận rộn với lời cầu nguyện của chúng ta.

Nghỉ ngơi trong lời cầu nguyện có tầm quan trọng rất đặc biệt đối với các gia đình. Chính nơi gia đình mà lần đầu tiên chúng ta học được cách cầu nguyện. Đừng quên điều đó, khi gia đình cầu nguyện cùng nhau, ở cùng nhau. Nơi đó, chúng ta đến để biết Chúa, để trở thành những người nam người nữ của đức tin, để thấy chính mình như là những thành viên của đại gia đình của Chúa, là Giáo Hội. Nơi gia đình, chúng ta học cách yêu, tha thứ, quảng đại và rộng mở, chứ không đóng kín và ích kỷ. Chúng ta học cách vượt lên trên những nhu cầu của riêng mình, để gặp gỡ những người khác và chia sẻ cuộc sống của chúng ta với họ. Đó là lý do vì sao việc gia đình cùng cầu nguyện với nhau là điều rất quan trọng! Đó là lý do vì sao các gia đình rất quan trọng trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho Giáo Hội! Nghỉ ngơi trong Chúa chính là cầu nguyện, cả gia đình cùng với nhau.

Tôi xin mạn phép chia sẻ với các bạn một điều rất riêng tư vào tối nay. Tôi rất yêu mến thánh Giuse, vì ngài là một người có tinh thần thinh lặng rất mạnh mẽ, và trên bàn làm việc của tôi, tôi có hình của ngài đang ngủ. Dù là ngủ nhưng ngài vẫn luôn chăm lo cho Giáo Hội và ngài có thể làm thế, tại sao không? Khi tôi gặp phải một vấn đề hay khó khăn gì, tôi viết lên một mẫu giấy nhỏ và đặt nó dưới bức tượng để ngài có thể mơ về nó.

Phương diện thứ hai là thức dậy với Giêsu và Maria. Những khoảnh khắc quý giá để nghỉ ngơi, tịnh dưỡng với Chúa trong cầu nguyện là những khoảnh khắc mà có lẽ chúng ta muốn kéo dài mãi. Nhưng như thánh Giuse, một khi chúng ta đã nghe được tiếng Chúa, chúng ta phải trỗi dậy, chúng ta phải thức dậy và hành động trong gia đình, chúng ta phải thức dậy và hành động (x Rm 13,11). Đức tin không tách chúng ta ra khỏi thế giới, nhưng đưa chúng ta đi vào nó sâu hơn, điều này rất quan trọng. Chúng ta phải đi vào thế giới cách sâu xa nhưng với sức mạnh của lời cầu nguyện. Thực ra, mỗi người chúng ta có một vai trò đặc biệt trong việc chuẩn bị cho Nước Chúa ngự trị trên thế giới này.

Cũng như món quà Thánh Gia được trao phó cho Thánh Giuse, thì món quà gia đình và vị trí của nó trong kế hoạch của Thiên Chúa cũng được trao phó cho chúng ta. Thiên Thần Chúa đã mặc khải cho Giuse những mối nguy đang đe dọa Giêsu và Maria, buộc họ phải trốn sang Ai Cập và rồi sau đó định cư ở Nazaret. Cũng thế, trong thời đại của chúng ta, Chúa mời gọi chúng ta hãy nhận ra những mối nguy đang đe dọa gia đình và mời gọi chúng ta hãy bảo vệ các gia đình khỏi những hiểm họa.

Hãy cẩn trọng với sự thực dân hóa của ý thức hệ mới. Có một ý thức hệ mà chúng ta phải cẩn trọng vì nó đang cố hủy hoại gia đình. Nó không được sinh ra từ giấc mơ mà chúng ta có từ Thiên Chúa, từ lời cầu nguyện và từ sứ mạng mạng mà Thiên Chúa trao ban cho chúng ta. Nó đến từ bên ngoài. Đó là lý do vì sao tôi gọi là sự thực dân hóa. Chúng ta đừng đánh mất tự do để nhận lấy sứ mạng mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Và cũng như người dân của chúng ta đã có thể nói “không” với thời kỳ thực dân hóa, thì các gia đình chúng ta phải phải khôn ngoan, và mạnh mẽ nói “không” với những kiểu ý tưởng thực dân hóa có thể hủy hoại gia đình này và xin thánh Giuse chuyển cầu để biết khi nào nói “vâng”, khi nào nói “không”.

Có rất nhiều áp lực trên đời sống gia đình ngày nay. Tại Philippines này, có vô số các gia đình vẫn còn chịu nhiều đau khổ từ thảm họa thiên tai. Hoàn cảnh kinh tế cũng khiến cho các gia đình phải xa cách nhau do phải di cư và tìm kiếm công việc, và những vấn đề tài chính đã khiến cho các chủ gia đình phải nỗ lực rất nhiều. Trong khi nhiều gia đình sống trong tình trạng quá nghèo, những người khác lại sống theo chủ nghĩa vật chất và có lối sống hủy hoại đời sống gia đình và những đòi hỏi cơ bản nhất của luân lý Kitô giáo. Đó là kiểu thực dân hóa ý thức hệ. Gia đình cũng bị đe dọa bởi những nỗ lực không ngừng của một số người muốn tái định nghĩa lại chính thể chế hôn nhân, bởi chủ nghĩa tương đối, bởi nền văn hóa phù du, bởi việc thiếu đi tinh thần mở ra với sự sống.

Tôi nghĩ đến Chân Phước Giáo Hoàng Phaolo VI trong những lúc có những thách đố về việc dân số gia tăng. Ngài biết những khó khăn, kinh nghiệm gia đình và đó là lý do vì sao trong Tông Huấn của mình, ngài đã bày tỏ lòng thương cảm cho những trường hợp cụ thể và ngài dạy các giáo sư cũng phải tỏ lòng thương cảm các đặc biệt. Ngài thấy được những thiếu sốt và khó khăn có thể gây ra cho gia đình trong tương lai. Giáo Hoàng Phaolo VI là người rất can đảm, ngài là một vị mục tử tốt lành, ngài đã cảnh báo chiên của mình về đàn sói đang đến và trên Thiên Đàng, ngài đang chúc lành cho chúng ta hôm nay.

Thế giới cần những gia đình tốt và mạnh mẽ để vượt qua những đe dọa này! Nước Philippines cần những gia đình thánh thiện và yêu thương để bảo vệ nét đẹp và chân lý về gia đình trong kế hoạch của Thiên Chúa và trở thành một sự nâng đỡ và mẫu gương cho các gia đình khác. Mỗi một đe dọa cho gia đình là một đe dọa cho chính xã hội. Tương lai của nhân loại, như Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II thường nói, hệ ở các gia đình (x Familiaris Consortio, 85). Vì thế, hãy bảo vệ gia đình của các bạn! Hãy nhìn thấy nơi các gia đình là gia sản to lớn nhất của đất nước và hãy luôn nuôi dưỡng các gia đình bằng lời cầu nguyện và ơn sủng của các bí tích. Các gia đình sẽ luôn có những thử thách của mình, các bạn đừng thêm vào thử thách cho các gia đình nữa! Thay vào đó, hãy trở thành những mẫu gương sống động của tình yêu, sự tha thứ và quan tâm. Hãy trở thành những đền thờ tôn trọng sự sống, loan báo sự thánh thiêng của mỗi sự sống con người từ khi thụ thai cho đến khi chết tự nhiên. Thật là một ơn lớn lao cho xã hội nếu mỗi gia đình Kitô hữu sống tròn đầy ơn gọi cao quý của mình! Vì thế, hãy thức dậy cùng với Đức Giêsu và Mẹ maria, và bước đi trên con đường Chúa đã vạch ra cho mỗi người các bạn.

Cuối cùng, Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe nhắc nhở chúng ta về bổn phận Kitô hữu của chúng ta trong việc trở thành tiếng nói ngôn sứ giữa cộng đoàn chúng ta. Thánh Giuse đã lắng nghe lời Thiên Sứ và đáp lại lời mời gọi của Chúa chăm lo cho Giêsu và Maria. Như thế, ngài đã đặt phần mình vào kế hoạch của Chúa, và trở nên một phúc lành không chỉ cho Thánh Gia, nhưng còn cho tất cả nhân loại. Cùng với Maria, thánh Giuse trở thành một kiểu mẫu cho trẻ Giêsu khi Người lớn lên trong sự khôn ngoan, tuổi tác và ân sủng (x. Lc 2,52). Khi các gia đình đưa các em nhỏ vào trong thế giới, giáo dục chúng trong đức tin và những giá trị vững chắc, và dạy bảo chúng đóng góp cho xã hội, chúng trở nên một phúc lành cho thế giới chúng ta. Gia đình có thể trở thành một phúc lành cho thế giới. Tình yêu của Thiên Chúa trở nên hiện diện và thiết thực qua cách chúng ta yêu và qua những việc tốt chúng ta làm. Chúng ta mở rộng nước của Đức Kitô trên thế giới này. Và khi làm như thế, chúng ta cho thấy mình đang sống trung tín với sứ mạng ngôn sứ mà chúng ta đã lãnh nhận nơi bí tích Rửa Tội.

Trong suốt năm này, năm mà các giám mục của các bạn thiết lập là năm của người nghèo, tôi mời gọi các bạn, những gia đình, hãy đặc biệt lưu tâm đến lời mời gọi trở thành những môn đệ thừa sai của Đức Giêsu. Điều này có nghĩa là luôn sẵn sàng để vượt qua phạm vi gia đình mình và chăm lo cho những anh chị em đang thiếu thốn. Tôi xin các bạn hãy đặc biệt tỏ bày mối bận tâm dành cho những ai không có một gia đình của riêng mình, cách riêng là những người già cả và những trẻ em không cha mẹ. Đừng bao giờ để họ cảm thấy bị tách biệt, cô đơn và bỏ rơi, nhưng hãy giúp họ nhận biết rằng Chúa không bao giờ quên họ. Tôi rất cảm động sau thánh lễ sáng nay khi đi thăm một tổ ấm dành cho trẻ không có bố mẹ. Có bao nhiêu người trong Giáo Hội đã hoạt động để ngôi nhà này trở thành một tổ ấm, một gia đình? Đây là điều tôi có ý nói đến khi nói về ý nghĩa mang tính ngôn sứ của gia đình. Các bạn có thể nghèo về vật chất, nhưng các bạn có rất nhiều ơn để trao ban khi các bạn trao ban Đức Kitô và cộng đoàn Giáo Hội của Người. Đừng che giấu đức tin của các bạn, đừng che giấu Đức Giêsu, nhưng hãy mang Người vào trong thế giới và trao ban chứng từ đời sống gia đình của các bạn!

Những người bạn trong Đức Kitô thân mến của tôi, hãy biết rằng tôi luôn cầu nguyện cho các bạn! Hôm nay, tôi cầu nguyện cho các gia đình, tôi cầu xin Chúa tiếp tục giúp các bạn đào sâu tình yêu các bạn dành cho Ngài, và xin cho tình yêu này có thể được biểu lộ trong tình yêu các bạn dành cho nhau và cho Giáo Hội. Đừng quên là Đức Giêsu đang ngủ, đừng quên là thánh Giuse đang ngủ. Đừng quên sự bảo trợ của Thánh Giuse. Hãy luôn cầu nguyện và đem hoa trái lời cầu nguyện của các bạn vào trong thế giới để tất cả mọi người đều có thể biết Đức Giêsu Kitô và tình yêu nhân lành của Người. Xin các bạn cũng hãy cầu nguyện cho tôi, vì tôi thực sự cần những lời cầu nguyện của các bạn và luôn luôn tin vào những lời cầu nguyện ấy. Cảm ơn rất nhiều!”

Chuyển ngữ: Pr. Lê Hoàng Nam, SJ

ĐTC Phanxicô trong bài giảng cho hàng Giáo sĩ Phi luật tân: Hãy sửa soạn những nẻo đường cho Truyền giáo Á châu

ĐTC Phanxicô trong bài giảng cho hàng Giáo sĩ Phi luật tân: Hãy sửa soạn những nẻo đường cho Truyền giáo Á châu


Vũ Van An

1/16/2015

Cử hành Thánh Lễ tại Nhà Thờ Chính Tòa Manila hôm nay, thứ Sáu, 16 tháng Giêng, Đức GH Phanxicô thúc giục người Công Giáo Phi Luật Tân trở thành các đại sứ của Chúa Kitô và thừa tác viên của hòa giải, bằng cách loan báo Tin Mừng về tình yêu, lòng thương xót và cảm thương vô biên của Thiên Chúa. Nói với các giám mục, linh mục, tu sĩ và chủng sinh tụ tập tại Nhà Thờ Chính Tòa, Đức Giáo Hoàng nói rằng Giáo Hội tại Phi Luật Tân được mời gọi thừa nhận và đấu tranh chống các nguyên nhân tạo ra bất bình đẳng và bất công lâu đời từng làm hoen ố bộ mặt của xã hội Phi Luật Tân, hiển nhiên đi ngược lại giáo huấn của Chúa Kitô.

Giữa lúc người Phi Luật Tân chuẩn bị mừng 5 thế kỷ Giáo Hội du nhập vào quốc gia Á Châu này, Đức Giáo Hoàng nói rằng người Công Giáo phải xây dựng trên di sản quá khứ một xã hội được gây hứng bởi sứ điệp đức ái, tha thứ và liên đới của Tin Mừng để phục vụ ích chung.

Sau đây là nguyên văn bài giảng của Đức GH Phanxicô tại Nhà Thờ Chính Tòa Đức Mẹ Vô Nhiễm, Manila

“Con có yêu mến Thầy không?… Hãy chăm sóc đoàn chiên của Thầy” (Ga 21:15-17). Lời Chúa Giêsu nói với Thánh Phêrô trong Tin Mừng hôm nay là những lời đầu tiên tôi thưa với anh chị em, các hiền huynh giám mục và linh mục, các tu sĩ nam nữ, và các chủng sinh trẻ trung. Những lời này nhắc ta nhớ tới một điều chủ yếu. Mọi thừa tác mục vụ đều phát sinh từ tình yêu. Mọi đời sống tận hiến đều là dấu chỉ tình yêu hòa giải của Chúa Kitô. Giống Thánh Têrêxa, trong tính đa dạng của ơn gọi, mỗi người chúng ta đều được mời gọi, cách nào đó, trở thành tình yêu giữa lòng Giáo Hội.

Tôi chào kính mọi anh chị em bằng một tâm tình âu yếm bao la. Và tôi xin anh chị em đem tình âu yếm này tới mọi anh chị em cao niên và bệnh hoạn của anh chị em, và tới mọi người không thể tham gia với chúng ta hôm nay. Giữa lúc Giáo Hội tại Phi Luật Tân hướng về lễ kỷ niệm 5 trăm năm truyền giảng Tin Mừng của nó, chúng ta cảm thấy biết ơn đối với di sản do không biết bao nhiêu giám mục, linh mục và tu sĩ của những thế hệ đã qua truyền lại. Họ lao nhọc không những để truyền giảng Tin Mừng và xây đắp Giáo Hội tại xứ sở này, mà còn tạo nên một xã hội được gợi hứng bởi sứ điệp bác ái, tha thứ và liên đới của Tin Mừng nhằm phục vụ ích chung. Ngày nay, anh chị em đang tiếp nối công trình yêu thương ấy. Giống như họ, anh em được mời gọi xây dựng những chiếc cầu, chăm nuôi đoàn chiên của Chúa Kitô, và chuẩn bị những con đường tươi mát cho Tin Mừng tại Á Châu vào lúc bình minh của một thời đại mới.

“Tình yêu Chúa Kitô thúc ép chúng ta” (2Cor 5:14). Trong bài đọc thứ nhất hôm nay, Thánh Phaolô dạy ta rằng tình yêu mà ta được mời gọi công bố là một tình yêu hòa giải, phát sinh từ trái tim Đấng Cứu Thế chịu đóng đinh. Chúng ta được mời gọi trở thành “các đại sứ của Chúa Kitô” (2Cor 5:20). Thừa tác vụ của chúng ta là thừa tác vụ hòa giải. Chúng ta công bố Tin Mừng về tình yêu, lòng thương xót và cảm thương vô biên của Thiên Chúa. Chúng ta công bố niềm vui của Tin Mừng. Vì Tin Mừng quả là lời hứa ơn thánh của Thiên Chúa, là sức mạnh duy nhất, một mình nó có thể đem lại sự toàn vẹn và lành lặn lại cho thế giới tan vỡ của chúng ta. Nó có thể gợi hứng cho việc xây dựng một trật tự xã hội thực sự công bằng và được cứu chuộc.

Trở thành đại sứ của Chúa Kitô, trước nhất, có nghĩa mời gọi mọi người tiến tới việc đích thân gặp gỡ một cách đổi mới với Chúa Giêsu (Niềm Vui Tin Mừng, số 3). Lời mời gọi này phải nằm ở cốt lõi việc anh chị em kỷ niệm công cuộc truyền giảng Tin Mừng tại Phi Luật Tân. Nhưng Tin Mừng cũng là lời mời gọi hồi tâm, tự vấn lương tâm ta, trong tư cách cá nhân và trong tư cách một dân tộc. Như các giám mục Phi Luật Tân đã rất đúng trong lời giảng dạy của mình, Giáo Hội Phi Luật Tân được mời gọi thừa nhận và đấu tranh chống các nguyên nhân tạo ra bất bình đẳng và bất công lâu đời từng làm hoen ố bộ mặt của xã hội Phi Luật Tân, hiển nhiên đi ngược lại giáo huấn của Chúa Kitô. Tin Mừng mời gọi các cá nhân Kitô hữu sống cuộc sống trung thực, liêm chính và quan tâm tới ích chung. Nhưng nó cũng kêu gọi các cộng đồng Kitô Giáo tạo ra “các qũy đạo liêm chính”, các hệ thống liên đới có thể mở rộng để bao gồm và biến cải xã hội bằng chứng tá tiên tri của mình.

Là các đại sứ của Chúa Kitô, chúng ta, các giám mục, các linh mục và các tu sĩ, phải là những người đầu tiên chào đón ơn hoà giải vào trái tim mình. Thánh Phaolô giải thích rõ ý nghĩa của điều này. Nó có nghĩa từ bỏ các lối nhìn phàm tục, để nhìn mọi sự cách mới mẻ dưới sự soi sáng của Chúa Kitô. Nó có nghĩa phải là những người đầu tiên biết xét lương tâm mình, biết thừa nhận các thiếu sót và tội lỗi của ta, và tiếp nhận con đường hồi tâm liên lỉ. Làm thế nào công bố được nét mới mẻ và sức mạnh giải thoát của Thánh Giá cho người khác, nếu chính chúng ta từ khước không để lời Chúa lay động sự tự mãn của ta, nỗi sợ thay đổi của ta, những thỏa hiệp ti tiện của ta với cung cách của thế gian này, nghĩa là “tính phàm trần thiêng liêng” của ta (xem Niềm Vui Tin Mừng, số 93)?

Với chúng ta, các linh mục và người tận hiến, quay trở về với nét mới mẻ của Tin Mừng bao hàm hàng ngày phải gặp gỡ Chúa trong cầu nguyện. Các thánh dạy ta rằng đây là nguồn của mọi nhiệt thành tông đồ! Đối với các tu sĩ, sống nét mới mẻ của Tin Mừng cũng có nghĩa là tìm ra như mới trong đời sống và việc tông đồ của cộng đoàn các sáng kiến để càng ngày càng kết hợp mật thiết hơn với Chúa trong một tình yêu hoàn hảo. Đối với tất cả chúng ta, nó có nghĩa phải sống những cuộc sống phản ảnh được đức nghèo khó của Chúa Kitô; trọn cuộc đời của Người đã tập chú vào việc thực thi thánh ý Chúa Cha và phục vụ người khác. Dĩ nhiên, nguy cơ lớn lao đối với việc này là chủ nghĩa duy vật chất có thể len lỏi vào đời ta và xâm hại chứng tá ta đưa ra. Chỉ bằng cách trở nên nghèo, bằng cách tước bỏ tính tự mãn của ta, ta mới có thể đồng hóa với những người nhỏ bé nhất trong anh chị em mình. Ta sẽ nhìn sự vật dưới một ánh sáng mới và nhờ đó, giải đáp được một cách trung thực và liêm chính thách đố của việc công bố tính triệt để của Tin Mừng trong một xã hội đã trở nên thoải mái với chính sách loại bỏ, phân cực và bất bình đẳng xã hội đầy tai tiếng.

Ở đây, tôi muốn ngỏ mấy lời đặc biệt với các linh mục, các tu sĩ và chủng sinh trẻ đang hiện diện giữa chúng ta. Cha yêu cầu các con chia sẻ niềm vui và niềm phấn khích trong tình yêu Chúa Kitô và Giáo Hội của các con với mọi người, nhất là với những người cùng trang lứa với các con. Hãy hiện diện với những người trẻ có thể đang bối rối và nản lòng, nhưng vẫn tiếp tục coi Giáo Hội là bằng hữu trên đường lữ thứ và là nguồn hy vọng. Các con hãy hiện diện với những người, vì phải sống giữa một xã hội trĩu nặng vì nghèo đói và thối nát, nên đã tan nát trong tinh thần, toan tính đầu hàng, bỏ trường, sống ngoài đường phố. Hãy loan báo vẻ đẹp và sự thật của sứ điệp Kitô Giáo cho một xã hội đang bị cám dỗ bởi những trình bày dối trá về tính dục, hôn nhân và gia đình. Như các con đã biết, các thực tại này mỗi ngày mỗi bị tấn công nhiều hơn bởi các lực lượng mạnh mẽ đe doạ làm méo mó kế hoạch của Thiên Chúa dành cho tạo vật và phản bội chính các giá trị từng gây hứng và lên khuôn cho tất cả những gì tốt đẹp nhất trong nền văn hóa của các con.

Thực vậy, nền văn hóa Phi Luật Tân vốn được lên khuôn bởi óc tưởng tượng của đức tin . Người Phi Luật Tân ở khắp nơi vẫn nổi danh về tình yêu Chúa, lòng đạo đức sốt sắng của họ và lòng sùng kính đầy ấm áp của họ đối với Đức Mẹ và kinh mân côi của ngài. Di sản vĩ đại này chứa đựng một tiềm năng truyền giáo mạnh mẽ. Đó là cung cách nhân dân các con đã hội nhập văn hóa Tin Mừng và tiếp tục duy trì sứ điệp của nó (xem Niềm Vui Tin Mừng, số 122). Trong các cố gắng chuẩn bị mừng 5 trăm năm của các con, hãy xây dựng trên nền tảng vững chắc này.

Chúa Kitô đã chết cho mọi người để, sau khi chết cho Người, chúng ta sẽ không còn sống cho chính mình nữa mà là cho Người (xem 2Cor 5:15). Các hiền huynh giám mục, các linh mục và tu sĩ thân yêu, tôi cầu xin Đức Maria, Mẹ Giáo Hội, tiếp nhận cho tất cả anh chị em ơn nhiệt thành, để anh chị em dành chính anh chị em cho việc phục vụ anh chị em của mình cách vô vị kỷ. Bằng cách này, xin tình yêu hòa giải của Chúa Kitô càng ngày càng thấm sâu trọn vẹn hơn vào cơ cấu xã hội Phi Luật Tân và qua anh chị em, tới những vùng xa xôi nhất của thế giới.

Tỉnh Kontum tiếp tục xâm phạm quyền tự do tôn giáo

Tỉnh Kontum tiếp tục xâm phạm quyền tự do tôn giáo

Chuacuuthe.com

n2

VRNs (17.01.2015)Sài gòn– Nhà cầm quyền xã Đăk Môn, huyện Đăk Glei, tỉnh Kontum xâm phạm quyền tự do tôn giáo và hạn chế các hoạt động tôn giáo của người dân tại giáo xứ Đăk Jâk thuộc giáo phận Kotum.
Nhà cầm quyền nói rằng, giáo xứ Đăk Jâk không phải là cơ sở tôn giáo. Chính vì thế, họ không cho linh mục dâng lễ và cư trú tại đây, và không cho giáo dân xây dựng nhà thờ.
Lược lại quá trình lịch sử, giáo xứ Đăk Jâk hình thành từ những năm 1957 do vị Chủ chăn tiên khởi là cha Léo Dujon.
Sau đó, từ những năm 1975 cho đến 1988, giáo dân xứ Đăk Jâk bị bắt bớ rất gắt gao, giáo xứ không có linh mục, không có nhà thờ, bà con tự giữ Đạo, tự đọc kinh…
Vào khoảng 1984 – 1988, Hội Yao Phu Đăk Jâk được hình thành, nhằm mục đích cộng tác với các linh mục trong nhiệm vụ tông đồ truyền giáo, nhưng nhà cầm quyền lại bắt bớ và bỏ tù các Yao phu.
Về sau, vào tháng 11.2011, Đức Cha Micae Hoàng Đức Oanh – Giám mục Giáo phận Kotum bổ nhiệm Cha Đaminh Trần Văn Vũ làm chính xứ Đăk Jâk. Cha Vũ là cha xứ đầu tiên ở cùng với dân cho dù không được nhà cầm quyền công nhận.
Tuy đời sống đạo của giáo dân gặp nhiều nguy nan và gian truân nhưng đời sống Đức tin của bà con không chùn bước mà còn phát triển mạnh mẽ hơn. Cho đến nay, giáo xứ đã có hơn 5000 giáo dân gồm người Kinh, Sêđăng, Hơlăng và Jeh.
Mặc dù giáo xứ được hình thành từ khá lâu và số giáo dân càng ngày càng gia tăng nhưng nhà cầm quyền nhất quyết không cho giáo xứ xây dựng nhà thờ, ngăn cản các hoạt động tôn giáo của các Chức sắc và Tín đồ.
Không cho linh mục thực hiện lễ nghi Tôn giáo trong phạm vi phụ trách và giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở Tôn giáo.
Nhân sự kiện này, chúng tôi thấy, nhà cầm quyền đang nhầm lẫn các hoạt động tôn giáo của các Chức sắc, Nhà tù hành với các hoạt động tôn giáo của Tín đồ. Trong khi đó, Pháp lệnh về Tín ngưỡng – Tôn giáo quy định hai hoạt động này hoàn toàn khác biệt nhau. Cũng vậy, hoạt động tôn giáo của các Chức sắc gồm việc “thực hiện lễ nghi Tôn giáo” và việc “giảng đạo, truyền đạo” cũng được quy định hoàn toàn khác nhau. Thế nhưng, ít nhiều cán bộ nhà nước hoặc ngay chính các vị Chức sắc, Nhà tu hành có lẽ chưa xem xét kỹ những nội dung của Pháp lệnh, dẫn đến việc tự mình làm khó hoặc lạm dụng để làm khó, xâm phạm quyền tự do Tôn giáo.
Trước hết, căn bản của Hiến pháp và pháp luật nhắm đến “tôn trọng, bảo đảm quyền tự do Tôn Giáo” được quy định tại Điều 24 Hiến pháp; tại Điều 1 Pháp lệnh về Tín ngưỡng- Tôn giáo; tại Điều 2 Nghị định 92/2012/NĐ-CP. Do vậy, Pháp lệnh về Tín ngưỡng- Tôn giáo quy định tại khoản 1 Điều 9: “Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn giáo mà mình tin theo.”. Và khoản 1 Điều 11 cũng quy định “Chức sắc, nhà tu hành được thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm vi phụ trách, được giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở tôn giáo.”. Như vậy tín đồ không bị ràng buộc việc thực hiện các hoạt động Tôn giáo ở cơ sở Tôn giáo, nghĩa là việc thực hành các lễ nghi, cầu nguyện… là bất kỳ ở đâu. Còn các nhà chức sắc, nhà tu hành bị ràng buộc “thực hiện lễ nghi Tôn giáo” trong phạm vi phụ trách và “giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở Tôn giáo”. Ví dụ, Đức Giám Mục có quyền thực hiện lễ nghi Tôn giáo ở bất kỳ nơi nào trong giáo phận của Ngài phụ trách, còn việc ‘giảng đạo, truyền đạo” thì Ngài phải giảng dạy tại các cơ sơ Tôn giáo. Chính vì lẽ đó mà tại Quyết định số 1119/QĐ-BNV ngày 10/10/2013 của Bộ Nội vụ về việc công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực Tín ngưỡng Tôn giáo (“Quyết định số 1119/QĐ-BNV”) chỉ có thủ tục “chấp thuận việc giảng đạo, truyền đạo của chức sắc, nhà tu hành ngoài cơ sở tôn giáo”.
Xin nhấn mạnh, khoản 4 Điều 5 Luật đất đai 2013 qui định, cơ sở Tôn giáo “gồm chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo và cơ sở khác của tôn giáo”. Cha Đa Minh Trần Văn Vũ được Đức Giám mục -trong phạm vi phụ trách Giáo phận- bổ nhiệm phụ trách khu vực Giáo xứ Đăk Jâk; và ngôi nhà tạm mà Giáo dân cât lên để thực hành các Lễ nghi Tôn giáo, sinh hoạt… phải được xem là “cơ sở khác của Tôn giáo”.
Do đó, nhà cầm quyền xã Đăk Môn ngăn cấm không cho cha Đa Minh Trần Văn Vũ “thực hiện lễ nghi Tôn giáo” trong phạm vi phụ trách và “giảng đạo, truyền đạo tại các cơ sở Tôn giáo” là vi phạm nghiêm trọng Hiến pháp và Luật pháp hiện hành.
Ngăn cản giáo dân xây dựng mới công trình Tôn giáo
Từ khi giáo xứ Đăk Jâk thành lập từ năm 1957 cho đến nay, giáo xứ chưa có nhà thờ nên giáo dân liên tục làm đơn xin phép Nhà nước nhưng nhà cầm quyền không cho. Do đó, vào tháng 4.2013, giáo dân quyết định dựng một “nhà thờ tạm” bằng cột tròn, lợp tôn, không thưng vách, thô sơ, với diện tích khoảng 1000 m2, để che nắng che mưa khi linh mục thực hiện lễ nghi Tôn giáo cho giáo dân, để họ tham dự một cách trang nghiêm hơn.
Chưa đầy một tháng sau đó tức vào tháng 5.2013, nhà cầm quyền quyết định tháo dỡ ngôi nhà thờ tạm này, nhưng giáo dân kiên quyết phản đối và họ chỉ đồng tình cho tháo dỡ với điều kiện nhà cầm quyền phải cho họ xây dựng mới ngôi nhà thờ.
Được biết, Tòa Giám mục Kontum và Giáo xứ đã nhiều lần làm việc với nhà cầm quyền huyện Đăk Glei và tỉnh Kontum. Trong quá trình thương thảo, Tòa Giám mục đồng ý tháo dỡ ngôi nhà thờ tạm khi Huyện Đăk Glei có văn thư quyết định cho giáo xứ xây dựng nhà thờ với diện tích 200 mét vuông trên đất của Giáo xứ. Cả 2 bên đều thống nhất giải pháp này vào ngày 22.08.2014. Thế nhưng, nhà cầm quyền nói mà không làm, khiến lòng dân mất niềm tin vào Nhà nước nên phản ứng của họ càng gay gắt hơn.
Không những vậy, việc ngăn cản của nhà cầm quyền không cho giáo dân xây dựng mới công trình Tôn giáo trên khu đất của giáo xứ là vi phạm pháp luật. Cụ thể:
Theo qui định tại khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh về Tín ngưỡng- Tôn giáo và khoản 4 Điều 34 Nghị định 92/2012/NĐ-CP thì việc xây dựng mới các công trình Tôn giáo là theo qui định của pháp luật về xây dựng.
Công trình Tôn giáo, theo Nghị định 92/2012/NĐ-CP là “… những công trình như: Trụ sở của tổ chức tôn giáo, chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh đường, thánh thất, niệm phật đường, trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo, tượng đài, bia, tháp và những công trình tương tự của các tổ chức tôn giáo”.
Như vậy – trong trường hợp xây dựng Nhà thờ là công trình Tôn giáo – phải tuân theo pháp luật về xây dựng, bao gồm việc có đất xây dựng và có giấy phép xây dựng.
Về đất xây dựng công trình Tôn giáo thì Luật đất đai 2003 và Luật đất đai 2013 qui định rõ, “trường hợp đất do cơ sở Tôn giáo đang sử dụng” với “trường hợp được giao đất”.
Đối với trường hợp của Giáo xứ Đắk Jâk nếu đất có ngôi nhà thờ tạm được cất lên thuộc các trường hợp qui định tại khoản 4 Điều 51 Luật đất đai 2003, và khoản 4 Điều 102 Luật đất đai 2013 thì ‘cơ sở tôn giáo đang sử dụng đất được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất khi có đủ các điều kiện sau đây: thứ nhất, được Nhà nước cho phép hoạt động; thứ hai, không có tranh chấp; thứ ba, không phải là đất nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho sau ngày 01 tháng 7 năm 2004” thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Cần nhấn mạnh Luật đất đai mới 2013 đã bỏ cái điều kiện “có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất về nhu cầu sử dụng đất của cơ sở Tôn giáo”. Điều mà hiện nay, nhà cầm quyền Đăk Môn nói riêng và nhiều nơi khác nói chung thường nại ra để từ chối giao đất, cấp phép xây dựng Nhà Thờ là “người dân không có nhu cầu…”
Về giấy phép xây dựng công trình Tôn giáo, đáng chú ý là Nghị định 64/2012/NĐ-CP và Thông tư 10/2012/TT-BXD qui định, “đối với công trình Tôn giáo phải có văn bản chấp thuận của Ban Tôn giáo cấp có thẩm quyền”. Thế nhưng, tại Quyết định số 1119/2012/QĐ-BNV lại không có thủ tục “chấp thuận cho xây dựng công trình Tôn giáo.” Tuy nhiên, pháp luật về Tín ngưỡng Tôn giáo, về đất đai, về xây dựng, … không có qui định nào để hạn chế hay không cho phép công nhận quyền sử đất đang sử dụng cho cơ sở Tôn giáo hoặc cấp giấy phép xây dựng cho cơ sở Tôn giáo. Xét về pháp lý, Giáo xứ Đăk Jâk- có đất đang sử dụng cất Nhà Thờ tạm, có lượng Giáo dân đông đảo, có nhu cầu thực hành và trên thực tế đã và đang thực hành các hoạt động Tôn giáo… thì không có lý gì lại không được giải quyết xây mới Nhà Thờ.
Việc ngăn cản, buộc tháo dỡ ngôi nhà thờ tạm tại một Giáo xứ đã có từ năm 1957, với số lượng giáo dân hơn 5000 người như Giáo xứ Đắk Jấk, và không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã và đang sử dụng, không cấp phép xây dựng công trình Tôn giáo cho Giáo xứ Đắk Jấk là xâm phạm quyền tự do Tôn giáo, hạn chế hoạt động Tôn giáo. Điều mà Pháp lệnh về Tín ngưỡng Tôn Giáo khẳng định: “Không ai được xâm phạm quyền tự do ấy.”

Pv.VRNs

Xem thêm:

Giáo dân xứ Đăk Jâk thắp nến cầu nguyện (Dòng Chúa Cứu Thế)

n1