Cho con đi du học

Cho con đi du học

 (Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng cháu phải ra đi…)

FB Đỗ Ngọc Thống

Có lần phóng viên của hai tờ báo lớn cùng phỏng vấn tôi một câu hỏi:

– Ông là người làm chương trình giáo dục và viết sách giáo khoa phổ thông, sao con, cháu ông đều học và sống ở Đức?

Ẩn ý của người hỏi thì đã rõ. Nói một cách trắng phớ ra là: “hàng” của ông làm ra toàn cho người khác dùng, còn con cháu ông thì dùng loại khác. Cũng có nghĩa là “sản phẩm” của ông chẳng ra gì, toàn là “rau quả phun hóa chất độc hại”.

Tôi cười lớn và trả lời nhỏ nhẹ:

– Các bạn đã đặt ra một vấn đề rất hay. Và tôi hiểu rất rõ hàm ý của câu hỏi ấy. Vậy tôi xin trả lời bằng cách hỏi lại các bạn: liệu cho con du học có phải chỉ vì chương trình giáo dục và sách giáo khoa của ta kém hay không? Để làm rõ câu này, xin hãy trả lời các câu hỏi tiếp:  

– Cứ cho là có thật nhiều tiền đi, liệu sống ở Hà Nội, thành phố HCM hay nhiều nơi trên đất nước ta, bạn có được hít thở một bầu không khí trong lành? Có được uống một lọai nước sạch đáng tin cậy? Có không phải nghe VTV liên tục cảnh báo “an toàn thực phẩm”, liên tục “nói không với thực phẩm bẩn” mà thực phẩm bẩn vẫn liên tục xuất hiện ngày càng nhiều? Liệu các bạn có được đi lại bằng một hệ thống giao thông thuận tiện, chính xác và an toàn thoải mái? Có không bị hành hạ lên xuống khi đến các cơ quan công quyền? Và không may thất nghiệp liệu bạn có được nhà nước nuôi không ở mức sống bình thường? Có không phải chịu cảnh thằng giỏi làm tớ thằng ngu? Rồi thằng ngu lên quan lại kéo theo cả nhà làm lãnh đạo để cai trị thằng giỏi? Có được sống trong một thể chế thực sự thượng tôn pháp luật? Có không phải chứng kiến hàng ngày những kẻ tham nhũng, làm thất thoát, gây hậu quả nghiêm trọng cho đất nước, đáng ra dứt khoát phải đền cho dân bằng tài sản, phải truy tố, ngồi tù, cần thì tử hình, nhưng rút cuộc chỉ phải cách cái chức khi đã về vườn?… Có nước nào như nước ta không? Cả nước hát quốc ca “chui” mấy chục năm, mãi nay mới được “cấp phép” bởi một tay không hiểu gì về văn hóa, ở một bộ có tên Văn hóa?

Và còn biết bao câu hỏi khác về đời sống tinh thần mà tôi không tiện dẫn ra. Bạn cứ nghĩ và trả lời các câu hỏi ấy… thì sẽ hiểu vì sao tôi cho con du học và sống ở xứ người. Mặc dù xứ ấy một thời là đất nước của Hitler. Và mặc dù đất nước ta đẹp vô cùng.

Nghe xong, hai cô PV cười và nói: “thế thì em cũng cho con du học”.

P/S. Xin nói thêm, hai con tôi đều học phổ thông ở Việt Nam, chỉ đại học cả 2 mới sang Đức. Thằng con trai học toán trung bình thôi nhưng khi sang Đức học IT, chuyên ngành Computer Science tại đại học J.W. Goethe, nó được ông thầy chọn là trợ giảng cho môn toán. Xin cảm ơn các thầy cô giáo phổ thông đã dạy cháu, nhất là các thầy cô môn Toán.

Hà Nội, 04-6 nóng khủng khiếp, viết cho đỡ nóng.

Nguồn: https://www.facebook.com/thongdongoc/posts/10213381293956154?pnref=story

Những người vợ hy sinh bội phần

Những người vợ hy sinh bội phần

Lan Hương, phóng viên RFA
2017-06-02
 
Gia đình nhà hoạt động Bạch Hồng Quyền.

Gia đình nhà hoạt động Bạch Hồng Quyền.

Photo: fb Bach Hong Quyen

Thông thường phụ nữ luôn được coi là phái yếu và là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi hơn trong xã hội cũng như cuộc sống gia đình. Trong thời buổi hiện đại, hầu hết phụ nữ đều tham gia lao động phụ giúp tài chính, về nhà lại lo việc nhà và con cái, lo đối xử nội ngoại sao cho phải đạo,… Nhưng ít nhất phần đông trong số họ có sự giúp đỡ, sẻ chia từ chồng nên vơi bớt phần nào.

Tuy nhiên, những người vợ có chồng tham gia đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi hơn những người vợ bình thường vì công việc của chồng họ.

Vợ anh Bạch Hồng Quyền

Gặp anh Quyền khi cả hai cùng lên tiếng đấu tranh lấy lại đất cho một nhà thờ địa phương, chị Linh đã thầm mến người đàn ông quên đi lợi ích của bản thân để tìm lại công bằng cho mọi người. Cả hai đều cùng chung chí hướng nên ngay từ những ngày đầu yêu nhau, chị đã luôn ủng hộ và giúp đỡ anh Quyền trên con đường anh chọn:

Trước khi yêu nhau bọn mình cùng lên tiếng về vụ đất đai ở giáo xứ Thái Hà những năm 2008 – 2010. Cả hai cùng đi đòi đất cho nhà thờ nên mình đã biết và xác định con đường anh Quyền sẽ đi rồi.

Anh Bạch Hồng Quyền là một nhà hoạt động môi trường, một trong những nhân vật có tiếng nói tích cực và hiệu quả nhất về thảm họa môi trường do nhà máy Formosa ở Hà Tĩnh gây ra từ tháng 4 năm ngoái. Ngày 12/5 Công An Hà Tĩnh đã phát lệnh truy nã anh sau khi quyết định khởi tố anh với tội danh “Gây rối trật tự công cộng” theo Điều 245 BLHS. Trước đó anh bị cáo buộc “chủ mưu, kích động” vụ 2.000 người dân mang băng rôn, khẩu hiệu đến UBND huyện Lộc Hà khiếu nại bồi thường thiệt hại sự cố môi trường biển trong hôm 3/4/2017.

Lấy anh Quyền đã nhiều năm nay, chị Linh vẫn luôn là một người vợ ủng hộ từng bước đi của chồng nhưng chị cũng không phủ nhận con đường ấy mang lại nhiều gian nan cho gia đình.

Quan trọng nhất là vấn đề nhà cầm quyền. Họ luôn làm khó gia đình. Vốn dĩ họ đã o ép về kinh tế, khiến gia đình không thể làm ăn bất cứ chuyện gì. Nếu có sự kiện thì họ canh gác, khủng bố và phá hoại tài sản của mình.

Mình muốn nhắn với chồng rằng hãy cố gắng vững bước trên con đường đã chọn. Mọi người, anh em, bạn bè luôn ở cạnh anh.
– Chị Linh, vợ Bạch Hồng Quyền

Chị cho biết đến chỗ ở của gia đình cũng không được yên ổn, phải thường xuyên thay đổi vì chủ nhà “ngại” không muốn cho thuê. Hơn nữa chính quyền thường xuyên truyền bá các thông tin không hay về gia đình chị, khiến dư luận lời ra tiếng vào, gây áp lực lớn cho cả gia đình.

Tất cả những khu dân cư chỗ mình thuê họ không hề hiểu, họ tỏ ra rất sợ hãi gia đình mình kiểu như gia đình mình làm việc gì đó không được đàng hoàng và nguy hiểm. Họ không muốn tiếp xúc với gia đình mình, và nhìn mình với ánh mắt dị nghị. Rồi những lời nói không hay lắm đằng sau lưng. Nhưng mình và bố mẹ mình rất hiểu công việc anh Quyền đang làm nên bỏ ngoài tai hết những lời nói đó và chỉ biết cầu nguyện mọi người sớm nhận ra rằng công việc anh Quyền và những anh em khác đang làm chỉ là muốn mọi người được nhận thức rõ hơn về quyền con người.

Vợ chồng anh Bạch Hồng Quyền hiện tại có hai con nhỏ, một cháu 4 tuổi rưỡi và một cháu mới được hai tuổi:

Hai cháu vẫn còn bé nên hiện tại chưa bị gì hết. Chỉ có điều bố không có nhà nên các cháu thiếu sự quan tâm chăm sóc của bố thôi. Hiện tại các cháu đang học trên trường dòng là trường của các sơ nên chưa thấy chính quyền đả động gì đến việc làm khó chuyện học hành của các cháu.

Cũng là một phụ nữ tuổi xuân thì nhưng thay vì được sống hạnh phúc với gia đình, được chồng yêu thương chiều chuộng, chị Linh lại phải một thân một mình nuôi 2 con nhỏ và sống trong những lời đàm tiếu của xã hội. Tuy vậy nhưng khi được hỏi liệu khi các cháu lớn lên chị có muốn cho các cháu theo con đường con đường của bố không, chị Linh vẫn hoàn toàn đồng ý:

Mình mong muốn khi con mình lớn lên đất nước sẽ thay đổi rồi, chứ nếu tình trạng đất nước vẫn còn bạo quyền và không có quyền con người như thế này các cháu sẽ rất khổ. Mình muốn các cháu đi theo con đường của bố nhưng là khi các cháu được hưởng trọn vẹn các quyền xứng đáng được hưởng và sẽ đi phổ biến quyền con người theo cách bình yên hơn chứ không có bất công, đổ máu hay bạo lực như tình trạng đất nước bây giờ.

Từ ngày anh Quyền bỏ trốn đến nay đã mấy tuần vợ không được gặp chồng, con không được gặp bố. Tuy nhiên qua trang phụ nữ của RFA, chị Linh muốn nhắn gửi tới chồng mình rằng hãy yên tâm và tự hào vì những điều anh làm vì sau anh là vô số tiếng nói ủng hộ:

Mình muốn nhắn với chồng rằng hãy cố gắng vững bước trên con đường đã chọn. Mọi người, anh em, bạn bè luôn ở cạnh anh. Và chúng mình không hề cô đơn, gia đình luôn tiếp tục đấu tranh cho anh. Những người anh em ở Việt Nam đang bị tù đày áp bức hay đang ở ngoài mà phải chịu bất công từ chính quyền, họ không hề cô đơn vì luôn có mọi người ủng hộ.

Vợ anh Nguyễn Văn Oai

17203114_1599523396743773_3835786218674087118_n-400.jpg
Chị Linh Châu cùng chồng, anh Nguyễn Văn Oai. Photo: fb Linh Châu

Cách nhà chị Linh chừng 200 km, ở một vùng quê nghèo tỉnh Nghệ An nơi có những mảnh đất cằn cỗi đã gắn bao đời với người nông dân bán mặt cho đất bán lưng cho trời, chị Châu cũng như họ phải lao động cực khổ trên mấy thửa ruộng để chăm lo cho mẹ già và đứa con sắp chào đời.

Chồng chị là cự tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Oai bị công an Nghệ An bắt vào hôm 19/1 vừa qua với cáo buộc “chống người thi hành công vụ” và “không thi hành bản án quản chế.

Trước đó cũng vào cuối tháng 7 năm 2011, anh Oai bị an ninh Việt Nam bắt tại sân bay Tân Sơn Nhất – Sài Gòn và sau đó bị toà án kết án 4 năm tù giam và 4 năm quản chế với cáo buộc “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”, theo điều 79 BLHS. Anh ra tù tháng 8 năm 2015.

Khi còn ở nhà, anh Oai một tay lo kinh tế cho gia đình và chăm sóc mẹ già, là trụ cột của gia đình. Nhưng kể từ khi anh bị bắt, mọi trách nhiệm lớn nhỏ trong gia đình chị Châu phải gánh vác thay chồng:

Trước khi anh bị bắt người ta thường xuyên đến “thăm” anh để tạo áp lực và để hàng xóm dị nghị nói rằng thằng này làm gì mà công an đến thăm suốt, rồi thằng này thế nọ thế kia, toàn những lời xấu xa để anh ấy bị cô lập. Giờ anh ấy bị bắt rồi thì họ bảo mình vào khuyên chồng nhận tội rồi sẽ được khoan hồng. Rồi họ nói với hàng xóm để người ta xa lánh mình vì mình có người chồng tù tội. Nhưng tôi vẫn nói với họ rằng chồng tôi có tội đâu mà khuyên tôi bảo chồng nhận tội.

Giờ anh ấy bị bắt rồi thì họ bảo mình vào khuyên chồng nhận tội rồi sẽ được khoan hồng. Nhưng tôi vẫn nói với họ rằng chồng tôi có tội đâu mà khuyên tôi bảo chồng nhận tội.
– Chị Châu, vợ Nguyễn Văn Oai

Sau ngày anh Oai bị bắt, truyền thông trong nước liên tục đăng những bài viết gọi anh bằng những từ ngữ như “thằng phản động”, “thằng hám tiền”, và còn có bài viết gọi niềm tin chị Châu dành cho chồng là nhuốm màu lừa mị, viển vông và là hệ quả của nhận thức thiếu chín chắn.

Trước đây người ta ủng hộ việc anh làm vì đó là việc đúng, hơn nữa anh lại hay giúp đỡ người khác. Nhưng sau khi nghe những điều trên TV nói anh ấy làm những việc đó vì tiền, bị người ta xúi giục làm phản động, những người họ dùng Facebook họ hiểu thì vẫn ủng hộ anh, còn nếu chỉ xem trên báo đài thì họ cho rằng anh làm việc đó vì tiền chứ không phải vì lòng tốt.

Chị Châu cho biết trước đó anh Oai làm việc ở bất cứ đâu, chủ cũng đều bị người ta làm phiền tới mức ngại không muốn thuê anh nữa. Ngay cả người mẹ già yếu cũng thường xuyên bị dư luận buông lời “chửi rủa”:

Dân làng người ta bảo bà này không biết dạy con, ham tiền, vì họ nghĩ anh làm như vậy được nhiều tiền, để con phá làng phá xóm. Rồi bên chính quyền thì bảo là làm như thế chỉ được cho dân làng thôi chứ mình được cái gì. Rồi bảo bà khuyên anh đừng làm vậy. Mà anh thì tìm lại công bằng cho làng xóm, thuế đất hay tiền học phí của học sinh anh đều đòi lại hết nhưng chính quyền lại bảo bà như vậy.

Cuối buổi trò chuyện với chúng tôi, chị Châu đã bật khóc khi nghĩ về ước muốn nhỏ nhoi là được hạnh phúc bên chồng của chị mà khó thực hiện được. Chị nói nhìn vào những gia đình khác thấy gia đình người ta hạnh phúc chị cũng thấy phần ghen tị và tủi lòng. Dẫu vậy chị vẫn quyết ủng hộ anh Oai đến cùng vì chị muốn hạnh phúc đó dù có đến muộn nhưng phải được xây đắp trong một xã hội tự do:

Mong đất nước thay đổi sớm để anh được tự do, và chị cũng muốn được hạnh phúc. Nhìn vào các gia đình khác chị cũng muốn được hạnh phúc lắm. Nhưng phải là hạnh phúc trong đất nước tự do!

Chị muốn anh ấy yên tâm, vững mạnh. Mẹ con chị luôn ủng hộ anh ấy và sẽ chờ ngày anh ấy trở về. Anh là một người đứng đắn, biết giúp đỡ người khác. Từ khi yêu anh, biết anh đến nay chị chưa bao giờ thấy anh làm điều gì sai.

Dù là vợ của tù nhân hay đối tượng truy nã đi chăng nữa, những người phụ nữ như chị Linh, chị Châu cũng cần được hưởng những hạnh phúc mà họ xứng đáng được hưởng như những người phụ nữ bình thường.

Hai chị chỉ là những ví dụ nhỏ trong số những những người vợ, người mẹ, người thân của rất nhiều tù nhân chính trị, nhà hoạt động, blogger đang bị bắt giữ và hàng loạt các nhà hoạt động khác đang bị hành hung, sách nhiễu từng ngày.

Theo thống kê của bộ ngoại giao Mỹ, Việt Nam hiện đang giam cầm 96 tù nhân chính trị. Chỉ tính riêng từ đầu năm đến nay, Việt Nam đã bắt 9 nhà hoạt động dân chủ và truy nã 2 người.

Tâm tĩnh lặng…Những câu nói giúp bạn sống an nhiên hơn

Tâm tĩnh lặng…Những câu nói giúp bạn sống an nhiên hơn

Cuộc sống này quá ngắn để yêu thương. Hãy sống cho thật an nhiên bạn nhé, để những bão giông của cuộc đời không thể nào chạm đến được tâm hồn của bạn. Hãy  điểm qua những câu nói cho phút giây tĩnh lặng…

Cuộc sống này luôn chuyển động từng giây, từng phút, chưa lúc nào và cũng sẽ không bao giờ ngừng lại. Và mỗi con người đều bị cuốn xoáy vào dòng chảy đầy cạm bẫy, chông gai, khó khăn và thử thách này. Có lúc bạn tưởng mình gục ngã, có lúc bạn thấy mình mệt mỏi, muốn buông xuôi tất cả nhưng lại không thể nào buông. Hãy nghỉ ngơi, hãy để tâm hồn mình được tĩnh lặng, lắng đọng mà suy ngẫm về cuộc đời, bạn sẽ thấy lòng nhẹ nhõm và thanh thản hơn nhiều.

Cuộc sống này quá ngắn để yêu thương. Nên hãy luôn yêu thương nhau khi còn có thể.

Khi bạn thức dậy vào buổi sáng, hãy nghĩ rằng mình còn sống là một đặc ân lớn lao được hít thở, được suy nghĩ, được tận hưởng và được yêu thương.

Nếu đã là con đường của bạn, bạn phải tự bước đi. Người khác có thể đi cùng, nhưng không ai có thể bước hộ bạn.

Trong cuộc đời này, có một số chuyện nhất nhất phải tự mình giải quyết. Dù đêm tối đến đâu, đường xa đến mấy thì vẫn cứ phải một mình kiên cường tiến lên phía trước.

Bạn không thể nào thẳng tiến bước trên đường đời cho đến khi bạn biết cho qua và học hỏi từ những thất bại, sai lầm và đau buồn trong quá khứ.

Tình yêu bắt đầu bằng nụ cười, đơm hoa kết trái bằng nụ hôn và kết thúc bằng những giọt nước mắt…

Dù đó là giọt lệ buồn hay vui thì tình yêu ấy đã cho bạn những kỷ niệm thật ấn tượng và sâu sắc, là dấu ấn của tâm hồn và đánh dấu bước trưởng thành của bạn.

Hãy ngước lên cao để thấy mình còn thấp và hãy nhìn xuống thấp để thấy mình chưa cao.

Sao phải lo lắng về những thứ bạn không thể thay đổi? Hãy buông bỏ và tiếp tục tiến lên vì cuộc sống không chờ đợi ai.

Tầm nhìn của bạn sẽ trở nên rõ ràng chỉ khi bạn biết nhìn vào trái tim bạn.

Ai nhìn ra ngoài, Mơ.

Ai nhìn vào trong, Thức Tỉnh.
Cuộc sống rất ngắn. Đừng lãng phí nó bởi nỗi buồn. Hãy là chính mình, luôn vui vẻ, tự do, và trở thành bất cứ gì bạn muốn.

Đừng nghĩ mãi về quá khứ. Nó chỉ mang tới những giọt nước mắt.

Đừng nghĩ nhiều về tương lai. Nó chỉ mang lại lo sợ.

SỐNG Ở HIỆN TẠI VỚI NỤ CƯỜI TRÊN MÔI NHƯ TRẺ THƠ. Nó sẽ mang lại niềm vui cho bạn.
Đừng nhìn dáng vẻ bề ngoài, vì đó là lừa dối.

Đừng vì của cải vật chất, vì có thể mất đi.

Hãy tìm người nào có thể làm bạn mỉm cười, bởi vì nụ cười mới có thể làm ngày âm u trở nên tươi sáng.
Có lẽ cuộc sống muốn chúng ta chọn lầm người trước khi gặp đúng người, để rồi chúng ta mới biết cảm ơn món quà của cuộc sống.

Hãy tự đặt mình trong vị trí của người khác. Nếu trong hoàn cảnh ấy bạn cảm thấy bị tổn thương, thì người khác cũng sẽ cảm nhận như vậy.

Người hạnh phúc nhất không nhất thiết phải là người có mọi thứ tốt nhất, mà là người biết tận hưởng và chuyển những gì xảy đến với mình trong cuộc sống một cách tốt nhất.

Đừng sợ khi bị chỉ trích,

Nếu nó không đúng sự thật, bỏ qua nó.

Nếu nó không công bằng, tránh bị tổn thương vì nó.

Nếu nó khờ khạo, mỉm cười với nó.

Còn nếu nó đúng, học từ nó…

Học cách sống tức là học cách tự do, và tự do tức là chấp nhận việc gì phải đến sẽ đến.

Anh chị Thụ & Mai gởi

33 NĂM SAU

33 NĂM SAU

Với tựa đề “33 năm sau”, đó là một câu chuyện thuật lại như sau: “Những gì đã xảy ra cho đứa bé năm nào?”  Một trong ba vua đã đi triều bái vua Do Thái mới sinh tự hỏi.  Suốt cuộc đời mình, nhà vua không thể nào quên được cuộc hành trình cách đây khoảng 33 năm, một cuộc hành trình dõi theo ánh sáng sao lạ dẫn ông đến hang đá Bêlem.

Câu hỏi: “Liệu đứa bé ấy có trị vì dân Israel được không?”  Làm cho nhà vua bồn chồn đứng ngồi không yên.  Rồi chẳng dừng được, một lần nữa nhà Vua quyết định lên đường đi đến Palestine.  Tại Giêrusalem, những bậc bô lão còn nhớ đến những vì sao lạ, nhưng không ai biết gì đến đứa bé được sinh ra dưới điềm lạ ấy.  Còn tại Bêlem mọi người được hỏi đều lắc đầu, ngoại trừ một cụ già cho nhà Vua biết: Làm gì có ông Giêsu Bêlem, chỉ có ông Giêsu Nagiarét, một người nói phạm thượng tự xưng mình là Con Thiên Chúa, nên cách đây mấy tuần đã bị xử “tử hình thập giá”.

Thất vọng ê trề, nhà Vua thẫn thờ nhập vào đoàn những người hành hương trở lại Giêrusalem, vào đúng ngày Lễ Ngũ Tuần.  Chen lấn vào đoàn lũ đang mừng lễ Tạ Ơn Sau Mùa Gặt, nhà Vua chú ý đến một đám đông đang bu quanh một nhóm người.  Tò mò ông lấn qua đám đông để đến gần và nghe có kẻ nói: “Tưởng gì chứ lại gặp mấy tên say rượu nói tầm xàm.”

Nhưng tai nhà Vua lại nghe một người trong nhóm nói tiếng nước mình và rõ ràng ông ta nói về ông Giêsu Nagiarét, người đã bị đóng đinh, nhưng đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết.  Như bị một sức mạnh vô hình thúc đẩy, nhà Vua chen vào đám đông cất tiếng hỏi: “Vậy bây giờ ông Giêsu đó ở đâu?”  Ðại diện nhóm người đứng ở giữa đám đông là Simon Phêrô trả lời: “Ngài đang ở giữa chúng tôi.  Ngài đang ở trong chúng tôi.  Chúng tôi là môi miệng, là tai mắt, là đôi tay, là đôi chân của Ngài.”

Trong lúc Phêrô đang nói, bỗng có một luồng gió thổi mạnh và hình lưỡi lửa một lần nữa thổi tràn xuống mọi người.  Nhà Vua bỗng lại thấy ánh sao Bêlem, nhưng lần này ánh sao ấy chia ra nhiều ánh sao khác rơi xuống mọi người.  Trong tâm hồn, nhà Vua chợt hiểu: Mỗi người phải trở nên máng cỏ nơi Ðức Giêsu sinh ra và mỗi người phải mang Ngài đến cho mọi người xung quanh.

Câu chuyện trên nối liền ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, mừng biến cố Ngôi Lời nhập thể với Lễ Tưởng Niệm Biến Cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.  Ðồng thời câu chuyện cũng nêu nổi bật bổn phận của mọi người Kitô, là những kẻ phải trở nên tai mắt, trở nên môi miệng và chân tay của Ðức Kitô để mang Tin Mừng của Ngài đến cho mọi người chúng ta gặp gỡ và cộng tác hằng ngày.

Trích Lẽ Sống

Langthangchieutim gởi

NGÀY LỤC TỨ

From facebook:  Hãy Lên Tiếng and 2 others shared Minh Tuấn Hoàng‘s post.
Image may contain: 1 person, crowd and outdoor
Image may contain: outdoor
Image may contain: one or more people and outdoor
Image may contain: one or more people and outdoor

Minh Tuấn Hoàng added 4 new photos — with Nhan Ton Tran and 9 others.

 

NGÀY LỤC TỨ

Cũng vào ngày Chủ nhật cách đây 28 năm trước tại quảng trường Thiên An Môn (Trung Quốc) cuộc biểu tình kháng nghị của các sinh viên đòi chấm dứt nạn tham nhũng, tôn vinh nhân quyền, thiết lập các quy tắc luật pháp và xây dựng nền dân chủ đang lúc cao trào. 4 giờ sáng bất thình lình trời tối sầm lại, đèn điện trong quảng trường Thiên An Môn bị tắt hết. Quân lính tiến vào quảng trường, người biểu tình không thấy do trời tối. 4h30 đèn điện lại vụt sáng trở lại, lúc này các sinh viên mới giật mình khi phát hiện mình đã bị bao vây chặt, những chiếc xe tăng của Quân đoàn 27 Quân đội Giải phóng Nhân dân (PLA) lừng lững tiến vào. Tiếng súng nổ… Nhiều người trúng đạn đổ vật xuống trong vũng máu, tiếng xe tăng gầm lên san bằng tất cả. Quảng trường Thiên An Môn ngập trong máu, hàng ngàn sinh viên đã bị giết hại. Nhiều sinh viên của Đại học Bắc Kinh đã bị xe tăng cán chết. Một số thậm chí còn bị nghiền nát.

Next Magazine chia sẻ thông tin theo hồ sơ mật của Washington có được qua tài liệu nội bộ của Trung Nam Hải đánh giá về số người thương vong trong sự kiện thảm sát Thiên An Môn lên đến 40 nghìn người, trong đó 10.454 người bị giết. Trong đó, Quân đoàn 27 (Quân khu Bắc Kinh) là đội quân chính ra tay thảm sát khiến nhiều người thiệt mạng tại Quảng trường Thiên An Môn ngày 4/6. Quân đoàn 27 là đội quân được tín nhiệm và luôn biết phục tùng, tướng chỉ huy khi đó là Yang Jianhua, em trai cựu Chủ tịch nước Dương Thượng Côn.

Nhưng nhân vật bí ẩn này không thấy có bất cứ tài liệu nào nhắc đến, không thể tìm được tên gốc bằng tiếng Trung Quốc. Đây là đội quân đặc biệt được tuyển từ những nông dân vùng hẻo lánh, có đến 60% là mù chữ. Để tránh tiếng xấu, tháng 12/2015 Quân đoàn 27 đã bị giải thể.

Hôm nay thế giới lại nhắc đến ngày Lục Tứ (4/6/1989) như một lời nhắc nhở về lòng quả cảm của một thế hệ trẻ đã dám nói lên tiếng nói tự do.

Đồng thời lịch sử nhân loại cũng đã chính thức ghi danh chính quyền Cộng sản Trung Quốc là một chế độ tàn bạo nhất của loài người từ trước tới nay.
Đến nay Đảng Cộng sản Trung Quốc bưng bít, che đậy và không thừa nhận cuộc đàn áp này với người dân Trung Quốc. Hàng năm cứ đến ngày 4/6, chính quyền lại kiểm soát chặt chẽ thông tin tưởng niệm cuộc biểu tình này, internet cũng được kiểm soát rất chặt.

Đối với đồng bào của chính Tổ quốc mình mà chính quyền Trung Quốc còn tàn sát man rợ không ghê tay như vậy thì hôm nay những ngư dân Việt Nam – những cột mốc chủ quyền sống trên biển, một trong lực lượng chủ yếu bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam – là những vật cản trên con đường độc chiếm Biển Đông thì chắc chắn không tránh khỏi bị tấn công, cướp phá, tàn sát dưới bàn tay sắt máu của họ.

 

Lúc nào là giai đọan đẹp nhất của cuộc đời?

   Lúc nào là giai đọan đẹp nhất của cuộc đời?
Một chàng trai sắp bước sang tuổi 34 nhưng luôn lo lắng về tương lai mình. Anh tự hỏi không biết giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời mình đang ở phía trước hay là những năm tháng đã qua rồi. Thói quen hằng ngày của anh là đến phòng tập thể dục trước khi đến sở làm.

Một buổi sáng, anh chú ý tới một ông lão đã lớn tuổi nhưng vẫn giữ được vẻ cường tráng và lạc quan. Anh đến làm quen và hai người trò chuyện với nhau về những kinh nghiệm trong cuộc sống. Cuối cùng, chàng trai hỏi:

– Đâu là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời ông?

Không chút lưỡng lự, ông lão đáp:

– Khi tôi còn là một đứa bé, tôi được chăm sóc, nuôi dưỡng bởi cha mẹ. Tôi còn giữ được tâm hồn trong sáng từ tiên thiên. Đó là giai đọan đẹp nhất của cuộc đời tôi.

– Ở tuổi đến trường, tôi học được những kiến thức mới mẻ từ thầy cô, bạn bè. Đó là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi.

– Ngày tôi nhận được việc làm đầu tiên, được gánh vác trách nhiệm và trả luơng bởi những nỗ lực của mình. Đó là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi.

– Khi tôi gặp vợ tôi, chúng tôi đã cùng nhau xây dựng gia đình và cùng chí hướng trong cuộc sống. Đó là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi.

– Ngày tôi thực sự trở thành một người cha, rồi nhìn những đứa con của mình lớn lên theo năm tháng. Đó là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi.

– Và bây giờ ở tuổi 79, tôi có sức khoẻ, tôi cảm thấy hạnh phúc. Tôi đã tìm thấy ý nghĩa chân chính nhất của cuộc đời mình nhờ những cuốn sách Đại Đạo quý giá một người bạn tặng tôi. Tuy rằng tôi nhận được nó hơi muộn, nhưng Thần Thời Gian vẫn ưu ái tôi.

Tôi không lo sợ cái chết nữa và biết giờ đây tôi phải làm gì để chuẩn bị cho kiếp sống tới. Đây là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi.

Tôi sẽ chia sẻ nó với anh, bởi vì anh đã may mắn được Thần Thời Gian ưu ái.

Ngân hàng đó như thế nào? Đó không phải là ngân hàng thông thường, mà được cai quản bởi một vị Thần, có tên Thần Thời Gian.

Mỗi sáng, Thần Thời Gian cung cấp vào tài khoản của bạn 86,400.00 USD, số dư trong tài khoản không được phép chuyển từ ngày này qua ngày khác;

Mỗi buổi khuya Thần Thời Gian sẽ hủy bỏ hết số dư còn lại mà bạn đã không dùng hết trong ngày.

Mỗi người trong chúng ta đều có một tài khoản ở ngân hàng đó. Vị Thần cai quản ngân hàng đó chính là THẦN THỜI GIAN.
Mỗi buổi sáng, Thần Thời Gian cung cấp 86,400.00 giây.
Vào mỗi buổi tối, Thần Thời Gian sẽ xóa bỏ, coi như bạn đã mất, thời gian mà bạn không đầu tư được vào các mục đích tốt. Thần Thời Gian không cho phép bạn được để lại số dư trong tài khoản. Cũng không cho phép bạn bội chi.

Mỗi ngày, Thần Thời Gian lại mở một tài khoản mới cho bạn, lại cho bạn một cơ hội mới để bắt kịp lại là bạn.

Mỗi tối Thần Thời Gian lại hủy hết những gì còn lại trong ngày.

Nếu bạn không dùng được hết thời gian mà bạn có trong ngày, người bị mất chính là bạn. 

Mỗi giai đoạn của cuộc đời đều là những giai đoạn đẹp nhất nếu chúng ta biết trân trọng từng phút giây và không để thời gian trôi qua một cách vô ích, bởi trên cõi đời này có một ngân hàng đặc biệt dành cho bạn.

Không có chuyện quay lại ngày hôm qua. Bạn phải sống bằng những gì bạn đang có trong tài khoản ngày hôm nay. Bạn hãy trân quý từng giây từng phút. Thời gian không quay trở lại.

Đồng hồ cát vẫn đang chạy những hạt cát cuối cùng.

Hãy cố thực hiện thật nhiều điều ý nghĩa trong ngày hôm nay!

From anh chi Thu & Mai

Miền Bắc VN nóng chưa từng thấy: Số người đột tử, bất tỉnh, đổ bệnh tăng vọt

Miền Bắc VN nóng chưa từng thấy: Số người đột tử, bất tỉnh, đổ bệnh tăng vọt

Một bệnh nhi đang được đưa vào phòng cấp cứu. (Hình: Tuổi Trẻ)

VIỆT NAM (NV) – Đợt nóng bất thường với nhiệt độ phổ biến là 40 độ C đã làm ít nhất hai người đột tử giữa đường vì nóng. Số người ngất, số bệnh nhi được đưa vào bệnh viện cấp cứu tăng vọt.

Hôm qua, báo chí Việt Nam bắt đầu loan báo những tác động của đợt nóng bất thường kéo dài đã bốn ngày ở miền Bắc Việt Nam đến con người.

 Báo điện tử VnExpress cho biết, sáng 5 tháng 6, khi đang điều khiển xe hai bánh gắn máy trên đường Xã Đàn, đoạn chạy qua phường Phương Liên, quận Đống Đa, Hà Nội, cụ Mạc Thị Anh Thư, 73 tuổi, đột nhiên té ngang ra đường. Dân chúng quanh đó xúm vào sơ cứu, gọi xe cấp cứu nhưng khi xe đến nơi thì cụ Thư đã tắt thở.

Cũng trong ngày hôm qua, tờ Tuổi Trẻ dẫn thông tin từ Chủ tịch thị trấn Đông Anh, huyện Đông Anh, Hà Nội, cho biết, chiều 3 tháng 6, dân chúng thôn Lễ Pháp ở thị trấn này phát giác một người đàn ông, ngoại tứ tuần gục chết dưới gốc một cây trồng ven đường. Bởi nạn nhân không có giấy tờ tùy thân nên giới hữu trách chưa xác định được danh tính nạn nhân.

Trung tâm Vận chuyển cấp cứu của thành phố Hà Nội, bảo rằng, từ ngày 2 tháng 6 – thời điểm bắt đầu đợt nóng chưa từng thấy tại miền Bắc Việt Nam, riêng Trạm chính của Trung tâm này đã cấp cứu ba người bị sốc do nhiệt độ cao: Nôn mửa, ngất, thân nhiệt trên 40 độ C, mất tri giác, co giật,…

Tờ Tuổi Trẻ tường thuật thêm, các trạm cấp cứu khác cũng ghi nhận nhiều trường hợp sốt cao chưa rõ nguyên nhân trong bốn ngày từ 2 đến 5 tháng 6.

Bác sĩ Trần Minh Điển, Phó Giám đốc Bệnh viên Nhi quốc gia vừa mới cho biết là so với tuần trước, số lượng bệnh nhi vào bệnh viện này tăng khoảng 15%. Đa số bệnh nhi dưới một tuổi và sốt.

Những thông tin vừa kể chỉ là ghi nhận riêng tại Hà Nội. Chưa có thông tin về tác động của đợt nóng bất thường trong vài ngày qua ở các tỉnh, thành phố khác thuộc miền Bắc Việt Nam.

Sau sáu đợt lạnh bất thường trong tháng 5, sang đầu tháng 6, miền Bắc Việt Nam đột nhiên nắng như nung, kể cả khu vực cao nguyên.

Nhiệt độ phổ biến ở nhiều nơi tại miền Bắc Việt Nam là 40 độ C. Không ít nơi, nhiệt độ vượt qua cả mức này: Lào Cai 40.1 độ C, Sơn Tây 40.2 độ C, Hòa Bình 40.4 độ C, Lạng Sơn 40.5 độ C, Hà Nội 40.3 độ C,… Trước đó, vào ngày 3 tháng 6, một số nơi ở Hà Nội, Hải Dương, nhiệt độ vượt qua mức 42 độ C – nếu thân nhiệt chạm mức này, người ta có thể mê sảng và tử vong. Tuy nhiên những con số như vừa kể chỉ là dữ liệu được ghi nhận trong các lều khí tượng – nơi nhiệt kế được đặt cách mặt đất khoảng một mét, bên trên có mái che, không bị ánh nắng chiếu vào và không bị tác động bởi các vật liệu phát tán nhiệt. Tờ Tuổi Trẻ đã thử dùng nhiệt kế đặt trên mặt đường giữa trưa và ghi nhận, nhiệt độ mặt đường tại Hà Nội vào trưa 3 tháng 6 lên tới 56 độ C. Ngày 5 tháng 6, báo điện tử VietNamNet thử đặt nhiệt kế dưới những gốc cây trên đường Phạm Văn Đồng, trong bóng cây nhiệt độ mặt đường chỉ khoảng 40 độ C (thấp hơn 16 độ C so với nơi không có bóng cây).

Đó cũng là lý do chỉ trích của dân chúng đối với chuyện chính quyền thành phố Hà Nội đốn hạ hàng loạt cây xanh, khiến mặt đường tích nhiệt và phát tán nhiệt làm không gian sống ngột ngạt hơn, trở thành hết sức dữ dội.

Mới đây, ông Hoàng Trung Hải, Bí thư Hà Nội vừa hứa sẽ xem lại dự tính đốn hạ thêm 1.300 cổ thụ trên đường Phạm Văn Đồng. Tháng trước, chính quyền thành phố Hà Nội tuyên bố sẽ đốn hạ hàng ngàn cổ thụ trên con đường này để thực hiện dự án đầu tư mở rộng đường vành đai 3 đoạn từ Mai Dịch tới cầu Thăng Long, trước ngày 30 tháng 9. (G.Đ)

Châu Á tìm cách lập đồng minh chống Trung Quốc

From facebook:   Hoang Le Thanh with Phan Thị Hồng.
Châu Á tìm cách lập đồng minh chống Trung Quốc

trithucvn.net -Thứ hai, 05/06/2017

Một số quốc gia Châu Á đang tìm cách thiết lập khối đồng minh không chính thức để tự mình chống lại sự bành trướng của Trung Quốc, trong bối cảnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong khu vực này chưa rõ ràng, các nguồn tin ngoại giao nói với Reuters ngày 4/6.

Các quốc gia này bao gồm Úc, Nhật, Ấn Độ và Việt Nam. Reuters cho hay các nước này đang âm thầm xúc tiến các cuộc đàm phán và hoạt động hợp tác, đồng thời thận trọng không làm Bắc Kinh tức giận.

Vẫn chưa có tiếng nói nào về một khối đồng minh chính thức, nguồn tin ngoại giao cho hay.

Ảnh: Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc (trái), Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ (giữa) và Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản trong hội nghị an ninh Đối thoại Shangri-La 2017

Nguồn: http://trithucvn.net/…/chau-tim-cach-lap-dong-minh-chong-tr…

 

Đảng và dân, ai tớ, ai thầy?


Cờ Nước và cờ Đảng trên đường phố Hà Nội.

Cờ Nước và cờ Đảng trên đường phố Hà Nội.

Đứa con hỏi cha rằng:

– Đất nước mình đã có chính phủ rồi, vì sao lại có thêm đảng, mà đảng lại có quyền hơn chính phủ? Quốc gia đã có một người đứng đầu là Chủ tịch nước rồi, vì sao lại có thêm một ông Tổng Bí thư đảng, mà Tổng Bí thư đảng lại quyền lực hơn ông Chủ tịch nước? Một tỉnh đã có ông Chủ tịch Ủy ban Nhân Dân tỉnh rồi, vì sao trên ông Chủ tịch này có ông Bí thư Tỉnh ủy? Trong quân đội sao cấp chỉ huy không có quyền hành mà phải thống thuộc Đảng ủy, chỉ huy chỉ biết thi hành mệnh lệnh, nhận chỉ thị, kế hoạch để điều hành đơn vị thực hiện; Đảng ủy lãnh đạo về mọi mặt, người chỉ huy chỉ có nhiệm vụ thi hành?

Về quân đội, tức là các lực lượng võ trang, để nắm chắc và giữ quyền độc tôn lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội ngay từ những tổ chức vũ trang đầu tiên: Tự vệ đỏ (xích vệ) trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), các đội du kích Bắc Sơn, Nam Kỳ (1940), Cứu quốc quân (1941), Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (1944), Du kích Ba Tơ và Việt Nam Giải Phóng Quân (1945).

Tư Lệnh không có quyền, tiến thoái, đánh hay không đánh là do đảng ủy đơn vị quyết định! Cấp Sư đoàn có đảng bộ Sư đoàn gồm 15 đến 17 người chỉ huy bởi một Chính ủy.

Như vậy, để điều hành một đất nước, thay vì tiền thuế dân nuôi một công chức, nay lại phải nuôi thêm một quan chức nữa, nghĩa là cơ chế nặng gấp đôi và tốn phí cũng tăng gấp đôi. Dân nuôi đảng để đảng chỉ huy dân.

Người cha trả lời theo Hồ Chí Minh trong sách vở rằng: “Đảng ta là đảng cầm quyền, đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.” (Đầy tớ thì ở nhà lầu- cha con ông chủ gầm cầu sống chui.)

Theo lời Hồ Chí Minh thì “sau hàng chục năm lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, chiến đấu vô cùng gian khổ, Đảng ta mới giành được chính quyền, mới trở thành Đảng cầm quyền.”

Theo lý luận ở đoạn trên thì “đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân,” như vậy đảng và dân là hai cá thể khác nhau, chiến đấu vô cùng gian khổ, nhân dân được chết, còn đảng thì cướp được chính quyền.

Tuy vậy, đảng Cộng sản có chủ trương lúc nào cũng đề cao dân, như “đảng là đầy tớ của nhân dân,” “nhân dân làm chủ,” “dễ trăm lần không dân cũng chịu- khó vạn lần dân liệu cũng xong!”

Sách vở ghi lại lời Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định dân là trên hết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.”

Nhưng chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương chưa bao giờ do dân bầu ra. Chính phủ do Quốc Hội bầu ra, nhưng ứng cử viên Quốc hội là do “đảng cử dân bầu.” Tổng cộng danh sách chính thức ra tranh cử Đại biểu Quốc hội năm nay gồm 870 ứng viên, trong đó chỉ có 11 người tự ứng cử, không có người nào thuộc thành phần bất đồng chính kiến. Trong số 496 đại biểu được bầu, chỉ có 21 đại biểu là người ngoài đảng (chiếm 4,2%). Quốc hội khóa 14 có tỷ lệ đảng viên cao nhất từ trước đến nay.

18 ghế Ủy viên Bộ Chính trị và 200 ghế Ủy Uỷ Viên Trung ương đảng được chia cho các chức vụ quan trọng: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Thường trực Ban Bí thư, Phó Chủ tịch nước, Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Quốc hội, Trưởng và một số Phó Trưởng ban các Ban của đảng, Bộ trưởng các bộ và chức vụ tương đương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và Thứ trưởng Bộ Công an…

Đến nay, Đảng bộ Khối Các cơ quan Trung ương có 63 đảng bộ trực thuộc, trong đó có 34 đảng bộ cấp trên cơ sở, 29 đảng bộ cơ sở, với gần 5.500 chi bộ và hơn 6,5 vạn đảng viên, chưa kể con số 4,5 triệu đảng viên hiện có tại Việt Nam.

Điều 4 của Hiến pháp là “giấy phép độc quyền” cho Đảng cầm quyền lãnh đạo, không có một đảng phái nào khác được tồn tại. Ở Việt Nam, đảng Cộng Sản đứng trên cả chính phủ và Quốc hội. Lập pháp, hành pháp, tư pháp là một. Quốc hội, chính phủ, tòa án đều là công cụ của đảng. Quốc hội làm theo chỉ thị của đảng, chính phủ thi hành triệt để chính sách của đảng, tòa án xét xử người theo bản án có sẵn của đảng.

Đảng là tất cả, cấu kết với nhau thành ra một băng đảng nên đảng mới có câu: “Còn đảng, còn mình!” Quốc gia, đất nước là thứ yếu, nên thà mất nước nhưng không chịu để mất đảng!

Nguyên tắc của Cộng Sản là “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và dân làm chủ!” Đảng lãnh đạo tức là người chỉ đường, rẽ phải rẽ trái, đi lên, chạy xuống là do đảng. Dân chỉ đi theo như con ngựa thồ kéo xe, bị bịt mắt, chỉ cho nhìn ra đằng trước. Mọi sự, tất cả vật chất, tài sản, tiền bạc đều do nhà nước quản lý, mà nhà nước là con sinh ra của đảng, Thủ tướng, Bộ trưởng, công an, quân đội… cũng là tay chân do đảng sinh ra. Chỉ còn một cái bánh vẽ nghìn đời sót lại dứ vào mồm dân, đó là cái quyền làm chủ…trên khẩu hiệu, diễn văn.

Đảng là ông Thủ trưởng chỉ đạo mọi thứ, có quyền hành. Nhà nước là anh thủ kho ôm trong tay của cải. Còn thằng dân trên danh nghĩa là chủ nhân của đất nước, không có tiền mà cũng không có quyền, lại bị bóc lột tận cùng. Ngân sách nhà nước đảng nắm. Nợ nần nhà nước dân lo, đời này trả không hết thì đến đời sau. Nếu dân phản kháng là phá hoại, là do thế lực thù địch phá hoại “thành quả” của đảng, sẽ có công bộc của dân (tức là cán bộ, công an) lập tức có mặt để đàn áp, vì công bộc của dân do đảng đẻ ra, có còng, có roi, có nhà tù, có quyền giết hay cho phép người dân ‘tự tử’ ngay trong đồn trại của mình.

Đã có trường hợp công an bắt dân xuống xe, quỳ xuống giữa đường và đánh đập, cũng như tài xế taxi bị đòn, phải quỳ gối giữa đường lạy vái công an. Nhìn lại thời nô lệ Pháp thuộc cũng chưa bao giờ có cảnh tượng như thế.

Bản báo cáo của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam ghi nhận sự mâu thuẫn giữa Hiến pháp CSVN và sinh hoạt chính trị ở trong nước: “Hiến pháp nhà nước Việt Nam sau khi được sửa đổi, bổ sung có qui định rằng người dân có quyền tham gia quản lý nhà nước qua bầu cử và ứng cử, tự do ngôn luận, hội họp, lập hội và biểu tình. Tuy nhiên, cũng chính Điều 4 của Hiến Pháp lại khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của đảng CSVN trong mọi sinh hoạt của đất nước.”

Chính ở sự mâu thuẫn này và ý đồ duy trì độc quyền chính trị bằng mọi giá mà tất cả những quy định về quyền chính trị được công nhận nơi Điều 20, Điều 21 trong Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Điều 21, Điều 22 trong Công ước Quốc tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị mà Việt Nam cam kết tôn trọng đã bị triệt tiêu.

Xin hãy xem bảng vận động công dân đóng thuế treo đầy đường: “Nộp thuế để xây dựng và bảo vệ đảng!” À ra thế! Tóm lại đảng lãnh đạo, và đảng phải bám vào dân mới có cơm ăn. Dân hì hục đóng thuế để “vỗ béo” đảng. Tình đảng với dân như cá với nước. Cá không có nước thì cá chết. Nước không có cá, thì nước…khoẻ re!

Xin cầu nguyện cho một ngày Việt Nam không có đảng, như khẩu hiệu của dân oan biểu tình: “đảng Cộng Sản, chết đi!”

Phép bỏ dấu hỏi – ngã trong Tiếng Việt

From facebook:  Phan Thị Hồng added 2 new photos — with Hoang Le Thanh and 7 others.

Phép bỏ dấu hỏi – ngã trong Tiếng Việt

Nguyên tắc chung về thinh

Tiếng Việt gồm hai loại, tuy liên hệ nhau nhưng vẫn giữ đặc tính riêng rẽ:

– Tiếng HÁN VIỆT là chữ Hán đọc theo giọng Việt.
– Tiếng NÔM là tiếng do người Việt-nam tạo nên với những tiếng mượn của nước ngoài nhưng đã Việt-hoá.

1 TIẾNG HÁN-VIỆT

Tiếng Hán-Việt là tiếng mượn của tiếng Hán nhưng đọc theo giọng của người Việt. Phần lớn tiếng Hán-Việt là những tiếng gồm hai tiếng trở lên. Ví dụ: quốc gia, kinh tế, quân sự, chánh trị, xã hội, ngoại giao, văn hoá, dân chủ, công ty, v.v. Trong tiếng Việt hiện nay, khoảng 60% là tiếng Hán-Việt. Chúng ta xử dụng khá nhiều tiếng Hán-Việt trong mọi giao tiếp và nói năng hằng ngày.

Ví dụ: “Hôm qua nghiệp đoàn công nhân tổ chức hội nghị thảo luận vấn đề gia tăng niên liễm”. Chỉ có hai chữ thuần Việt là “hôm qua”, còn các chữ khác đều là tiếng Hán-Việt.

Tiếng Hán-Việt có quy luật riêng về dấu Hỏi Ngã. Vì vậy, nếu xử dụng được Luật Hỏi Ngã trong tiếng Hán-Việt thì chúng ta đã giải quyết được hơn 60% công việc về dấu Hỏi Ngã.

Tiếng Hán-Việt có hai đặc tính:

1. Về Chánh tả: giữa âm và giọng có sự liên quan chặt chẽ.

– Các tiếng Hán-Việt khởi đầu bằng một Nguyên-âm, chỉ có thể có dấu Sắc, dấu Hỏi, hoặc Không dấu.

– Các tiếng Hán-Việt khởi đầu bằng các Phụ-âm: L, M, N, NG, NH, D, V, chỉ có thể có dấu Ngã hay Nặng.

2. Về vị trí của các tiếng dùng chung:

Tiếng Chỉ-định luôn luôn đứng trước tiếng được chỉ-định, gọi là Ngữ-pháp đặt ngược

Ví dụ:
Bạch tượng. Bạch chỉ định, làm cho rõ nghĩa tiếng tượng.
Ký sinh trùng. Ký chỉ định sinh, ký sinh chỉ định trùng.

CÁCH NHẬN BIẾT TIẾNG HÁN-VIỆT

1. Các tiếng Hán-Việt thường không tách ra dùng riêng một mình, mà phải dùng trọn từ.

Chẳng hạn chỉ có thể nói làm thương mãi chớ không thể nói làm thương, làm mãi, hoặc nói làm chánh trị chớ không thể nói làm chánh, làm trị v. v…

Vậy mỗi khi gặp một từ ghép, ta thử tách các tiếng cấu tạo từ ấy ra riêng rẽ, nếu chúng không dùng độc lập được, thì đó là một tiếng Hán-Việt.

2. Về nghĩa của một tiếng Hán-Việt.

Các tiếng hợp lại để làm thành một từ Hán-Việt đều có nghĩa, nhưng nghĩa của chúng rất mơ hồ đối với những người không có một trình độ Hán học nhất định. Ví dụ như nếu đem xét riêng biệt các chữ: dĩ, nhiên, hành, chánh, lãnh, tụ, thì chúng đều có nghĩa cả, nhưng hỏi nghĩa thế nào thì không dễ trả lời.

Cho nên khi gặp một từ ghép, nếu cả hai tiếng đều mơ hồ về nghĩa ví dụ như: cảnh giác, mãnh liệt, dũng cảm, thì đó là từ Hán-Việt.

Còn các Tiếng-Nôm-đôi và Tiếng-Nôm-Lấp-láy thì đều có khả năng dùng riêng ra từng chữ và nghĩa của chữ dùng riêng đều rõ và dễ nhận biết. Ví dụ: xe lửa, máy bay, tàu ngầm, xe đạp.

Do đó, dựa vào cách phân biệt như trên, chúng ta dễ dàng biết được tiếng nào là tiếng Hán-Việt và tiếng nào là Tiếng Nôm.

a) Tóm lại: Tất cả tiếng HÁN-VIỆT khởi đầu bằng các nguyên-âm: A, Â, Y, O, Ô, U, Ư, đều viết DẤU HỎI vì các nguyên-âm của Tiếng Hán-Việt thuộc Thanh-âm (Bổng).

Ví dụ: Ải quan, Ảnh hưởng, Ẩm thực, Ẩn dật, Ỷ lại, Oải nhân, Ổn thỏa, Ủy hội, Ưởng.

Phụ chú: Sách của G.s. Lê-ngọc-Trụ có ghi Ê và I vào nhóm nguyên âm nầy. Nhưng vì chữ HÁN-VIỆT không có chữ nào khởi đầu bằng Ể, Ễ hoặc Ỉ, Ĩ nên tôi không ghi hai nguyên âm nầy vào, cho người học đỡ mệt trí [Đ-s-T].

b) Tất cả tiếng HÁN VIỆT khởi đầu bằng phụ âm CH, GI, KH, PH, TH, S, X, đều viết DẤU HỎI vì các phụ-âm nầy cũng thuộc Thanh-âm (Bổng).

Ví dụ:
– CHẩn đoán, CHỉ huy, CHỉnh tề, CHiểu chi, CHủ tọa, CHưởng quản.
– GIải phẫu, GIảm thiểu, GIản tiện, GIảng đường, GIảo quyệt, học GIả.
– KHả dĩ, KHải hoàn, KHảo thí, KHẩu hiệu, KHổng giáo, KHủng hoảng
– PHản bội, PHẩm cách, PHỉ báng, PHổ thông, PHủ nhận. (trừ PHẫn nộ)
– THải hồi, THảm thương, THản nhiên, THảo mộc, (trừ Mâu THuẫn, Phù THũng)
– Sản khoa, Sảnh đường, Sỉ nhục, Siểm nịnh, Sở dĩ, Sủng hạnh, (trừ Sĩ = học trò)
– Xả thân, Xảo trá, công Xưởng, (trừ Xã hội, Xã trưởng, Hợp tác Xã)

Để khỏi bỏ sai dấu, xin độc giả đừng lẫn lộn tiếng Hán Việt với những tiếng Nôm sau đây:

CHĨNH=hủ bằng đất; GIÃ (giã gạo, từ giã); GIÃI (giãi bày); GIÃN (co giãn, giãn ra= tăng độ dài: dây cao su bị giãn); PHŨ (phũ phàng); THÃI (thừa thãi); SŨNG (ướt sũng)

c) Tất cả tiếng HÁN VIỆT khởi đầu bằng Bảy phụ âm L, M, N, NG, NH, D, V, đều thuộc Trọc-âm, cho nên viết DẤU NGÃ (trừ một ngoại lệ duy nhất là Ngải cứu).

Ví dụ:
– Lãng mạn, Lãnh đạm, Lão ấu, Lẫm liệt, Lễ nghĩa, Lũng đoạn, thành Lũy, Lãng phí.
– Mã não, Mãi mại, Mãn nguyện, Mỹ Mãn, Mãnh hổ, Mẫn tiệp, Mẫu nghi, Mỹ nữ.
– Não tủy, Noãn sào, Nỗ lực, phụ Nữ.
– NGẫu nhiên, NGũ cốc, đội NGũ, ngôn NGữ.
– NGHĩa khí, NGHiễm nhiên, NGHĩa trang.
– NHã ý, NHãn khoa, NHẫn nại, NHĩ mục, NHiễm bệnh, NHũ mẫu, NHãn hiệu.
– Dẫn lực, Dĩ nhiên, Diễm lệ, Diễn đàn, Dũng cảm, Dưỡng dục, Dĩ vãng, Dã man.
– Vãn bối, Vãng lai, Vĩ đại, Viễn thị, Vĩnh viễn, Võ trang, Vũ trụ, Vĩ tuyến.

Xin đừng lộn tiếng Hán-Việt với những tiếng Nôm sau đây:

– LẢ (lả lơi, ẻo lả); LẢNG (lảng vảng); LẢNH (lảnh lót); LẢO (lảo đảo) LẨM (lẩm rẩm); LỂ (lể ốc, lể gai); LIỂM (cờ bạc đặt tiền ở giữa hai ô, ra ô nào mình cũng trúng); LƯỞNG (lưởng thưởng);
– MẢ (mồ mả); MẢI (mải miết); MẢNH (mảnh mai); MẨN (mê mẩn); MẨU (mẩu chuyện);
– NẢO (viết thử trước); NỔ (nổ bùng);
– NGẢ (ngả quỵ); NGỦ (đi ngủ);
– NHẢ (nhả mồi, nhả tơ) NHẢN (nhan nhản); NHỈ (vui nhỉ!); NHỦ (khuyên nhủ);
– DẨN (dớ dẩn) DỈ (dỉ hơi);
– VẢNG (lảng vảng); VỈ (vỉ lò, vỉ bánh); VIỂN (viển vông) VỎ (vỏ ốc, vỏ sò).

d) Mấy phụ-âm khởi-đầu khác, gồm có B, C, Đ, H, K, QU, và T, vì đều có ở cả hai bậc Thanh và Trọc, khó phân biệt, nên phải tra tự điển; nhưng cũng theo luật “Thanh viết dấu HỎI, Trọc viết dấu NGÔ.

Vì tiếng giọng Ngã ít hơn tiếng giọng Hỏi nên chúng tôi biên ra dưới đây các tiếng Hán-Việt giọng Ngã của mấy phụ-âm khởi đầu vừa nói trên, để giúp bạn đọc:

Bãi : thôi, nghỉ (bãi công, bãi khóa, bãi thị)
Bão : ẵm bồng (hoài bão, bão hòa, bão mãn)
Bĩ : xấu (bĩ cực thái lai, bĩ vận)
Cưỡng : gắng ép (cưỡng bách, cưỡng chế)
Cữu : cậu vua (quốc cữu), hòm (linh cữu)
Đãi : thết, xử với (đãi bôi, bạc đãi, biệt đãi, khoản đãi, trọng đãi, ưu đãi, đãi lịnh)
Đãng : rộng, phóng túng (đãng tử, du đãng)
Đễ : kính nhường (hiếu đễ)
Điễn : điện (điễn khí, điễn học, điễn lực)
Đỗ : họ Đỗ, chim đỗ quyên, cây đỗ trọng
Hãi : kinh sợ (kinh hãi, hãi hùng, sợ hãi)
Hãm : xông phá (hãm địch, hãm trận)
Hãn : mồ hôi (xuất hãn, phát hãn, liễm hãn)
Hãnh : may mắn (hãnh diện, kiêu hãnh)
Hoãn : chậm (trì hoãn, hoãn đãi, hoãn binh)
Hỗ : lẫn nhau (hỗ trợ, hỗ tương)
Hỗn : lộn xộn (hỗn chiến, hỗn loạn, hỗn hợp)
Huyễn : hoa mắt (huyễn hoặc, huyễn mục)
Hữu : có (hữu cơ, hữu hạn, hữu dụng, hữu lý)
Kỹ : tài năng (kỹ sư, kỹ thuật, kỹ nghệ, kỹ xảo)
Quẫn : khốn đốn (quẫn bách, cùng quẫn)
Quỹ : tủ cất tiền (thủ quỹ, công quỹ, ký quỹ)
Tễ : thuốc huờn (dược tễ, điều tễ, thuốc tễ)
Tiễn : đưa (tiễn biệt, tiễn hành, tiễn khách)
Tiễu : dẹp trừ (tiễu trừ, tuần tiễu, tiễu phỉ)
Tĩnh : im lặng (tĩnh dưỡng, tĩnh mịch)
Tuẫn : liều chết (tuẫn tiết, tuẫn nạn)
Trãi : Nguyễn-Trãi
Trẫm : tiếng vua tự xưng
Trĩ : trẻ (ấu trĩ), bịnh trĩ (trĩ nội, trĩ ngoại)
Trữ : chứa (lưu trữ, oa trữ, tàng trữ, tích trữ)
CÁCH NHỚ LUẬT HỎI NGÃ CHO TIẾNG HÁN-VIỆT

Xem vậy Luật viết dấu Hỏi Ngã cho tiếng Hán-Việt khá phức tạp. Tuy nhiên ta có thể dùng mẹo để nhớ một cách dễ dàng.

a) Chỉ cần nhớ những trường hợp viết dấu Ngã trong tiếng Hán-Việt, tức là nhớ BẢY phụ âm đầu viết dấu Ngã và khoảng 30 trường hợp ngoại lệ phải viết dấu Ngã.

Các trường hợp viết dấu hỏi không cần nhớ vì các tiếng Hán-Việt có âm đầu khác hơn Bảy phụ âm nói trên đều viết dấu hỏi.

b) Để nhớ Bảy Phụ-âm-đầu viết dấu Ngã, các bạn học thuộc lòng câu sau đây:

Mình Nên NHớ Vũ Là Dấu NGã
(M N Nh V L D Ng)

Như vậy là bạn đã nắm được luật viết dấu Hỏi Ngã của tiếng Hán-Việt. Còn các ngoại lệ thì xin chịu khó học thuộc lòng.

2 TIẾNG NÔM

Tất cả những tiếng không phải là tiếng Hán-Việt, được gọi chung là Tiếng Nôm.

PHÂN BIỆT TIẾNG NÔM VÀ TIẾNG HÁN-VIỆT

1. Về ý nghĩa. Tiếng Nôm là những tiếng nói sao hiểu vậy. Trái lại tiếng Hán-Việt thường có thể dịch ra bằng một tiếng thông thường hơn (tiếng thông thường đó gọi là tiếng Nôm).

Ví dụ:

– tiếng Nôm: tập vở, tờ giấy (nói sao hiểu vậy)
– tiếng Hán-Việt: bệnh viện (nhà thương), phi cơ (máy bay)

Tuy nhiên cũng có một số tiếng Hán-Việt không thể dịch ra bằng một tiếng thông thường hơn. Ví dụ: kết quả, hạnh phúc, thành công v.v…

Ngoài ra, nhiều tiếng Hán-Việt, nhất là những tiếng đơn được dùng làm tiếng Nôm (gọi là Tiếng Nôm gốc Hán Việt) vẫn giữ nguyên giọng đọc cũ. Ví dụ: danh, pháp, hải, lao, lãnh v. v…

2. Nhờ quan sát Ngữ Pháp ta sẽ phân biệt tiếng Hán-Việt và tiếng Nôm rất dễ dàng.

Ví dụ:

– LẠC CẢNH: lạc (hình dung từ) làm rõ nghĩa tiếng cảnh (danh từ). Hình dung từ đứng trước danh từ, tức là thuộc Ngữ-pháp đặt ngược. Vậy LẠC là tiếng Hán-Việt.

– TIỂU QUỐC: tiểu (hình dung từ) làm rõ nghĩa tiếng quốc (danh từ). Hình dung từ đứng trước danh từ, thuộc Ngữ-pháp đặt ngược. Vậy TIỂU là tiếng Hán-Việt.

– GẠCH TIỂU: tiểu làm rõ nghĩa tiếng gạch. Hình dung từ tiểu đứng sau danh từ gạch, tức thuộc Ngữ-pháp đặt xuôi.

Vậy tiểu nầy là TIẾNG NÔM GỐC HÁN VIỆT.

3. Trong TIẾNG ĐÔI thì:

– tiếng Nôm liên kết với tiếng Nôm.
– tiếng Hán-Việt liên kết với tiếng Hán-Việt.

Ví dụ:

– LỖI LẦM: khi ta biết lỗi là tiếng Nôm, thì ta có thể quả quyết lầm cũng là tiếng Nôm.
– TƯƠI TỐT: biết chắc tốt là tiếng Nôm, ta có thể quả quyết rằng tươi cũng là tiếng Nôm.
– HỌA SĨ: biết chắc sĩ là tiếng Hán-Việt, ta có thể quả quyết rằng họa là tiếng Hán-Việt.
– LUẬT SƯ: khi biết sư là tiếng Hán-Việt thì ta có thể quả quyết luật cũng là tiếng Hán-Việt.

Cũng có một số tiếng-đôi hợp thành bởi một tiếng Nôm và một tiếng Hán-Việt. Tuy nhiên đó là trường hợp đặc biệt của những tiếng Hán-Việt đã được dùng đơn độc làm tiếng Nôm. Chỉ có những tiếng Hán-Việt ấy mới có thể liên kết với tiếng Nôm để tạo thành tiếng-ghép. Ví dụ:

– máu huyết: huyết là tiếng Hán-Việt có nghĩa “máu”. Tiếng huyết cũng được dùng đơn độc làm tiếng Nôm, như: cháo huyết, huyết heo.

– lý lẽ: lý là tiếng Hán-Việt có nghĩa “lẽ”, nhưng cũng được dùng đơn độc làm tiếng Nôm, như: lời nói có lý, không có lý nào.

– ưa thích: thích là tiếng Hán-Việt được dùng đơn độc làm tiếng Nôm.

TIẾNG NÔM GỐC HÁN-VIỆT

Dấu giọng của những Tiếng-Nôm Chuyển gốc từ tiếng Hán-Việt, phải theo dấu giọng của tiếng gốc, nghĩa là:

a) khi tiếng HÁN GỐC là một tiếng Không dấu hoặc dấu Sắc hoặc dấu Hỏi, thì Tiếng Nôm có Gốc Hán-Việt viết dấu Hỏi. (KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI)

hô > thở; tu > sửa; giá > gả (con); giả > kẻ

b) khi tiếng HÁN GỐC là tiếng dấu Huyền hoặc dấu Nặng hoặc dấu Ngã thì Tiếng-Nôm có Gốc Hán-Việt viết dấu Ngã. (HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ)

hàng > hãng (buôn); kỵ > cỡi; dĩ > đã

TRỪ ngoại lệ:

lý > lẽ; miếu > miễu; nỗ > (cung) nỏ; ngưỡng > ngẩng (ngửng, ngửa), nhĩ > nhử (mồi); dụ > rủ (rê)…

TIẾNG NÔM KHÔNG GỐC HÁN VIỆT

Những Tiếng-nôm không chuyển gốc từ tiếng Hán-Việt thì gọi là TIẾNG-NÔM-LÕI. Có hai loại Nôm-Lõi: Tiếng-Đơn và Tiếng-Đôi.

A. TIẾNG NÔM ĐƠN

Những Tiếng Nôm Đơn, trại ra từ một tiếng khác (không phải là tiếng HÁN), đều tùy tiếng chánh mà viết Hỏi hay Ngã theo luật:

KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI
HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ

Không dấu chuyển ra Hỏi và ngược lại như:

cản/can; chăng/chẳng; chửa/chưa; không/khổng quẳng/quăng; nhủi/chui;

Sắc chuyển ra Hỏi và ngược lại

búa/bửa; thế/thể; hả/há; lén/lẻn; rải/rưới;

Hỏi chuyển ra Hỏi

bảo/biểu; cổi/cởi; tỏa/tủa; xẻ/chẻ; nhỉ/rỉ;
tủi lòng/mủi lòng; rủ/xủ; quên lảng/quên lửng;

Huyền chuyển ra Ngã và ngược lại như:

cùng/cũng; dầu/dẫu; đã/đà; cỗi/còi; lãi/lời; bõ/bù; giũa/giồi; mõm/mồm; ngỡ/ngờ;

Nặng chuyển ra Ngã và ngược lại như:

cội/cỗi; đậu/đỗ; chõi/chọi; giẵm/giậm; trĩu/trịu; chậm/chẫm (chẫm rãi);

Ngã chuyển ra Ngã:

đĩa/dĩa; hẵng/hãy; khẽ/sẽ; nỗi/đỗi; ngẫm/gẫm; dõi/rõi; giễu/riễu; ruỗng/rỗng

TRỪ ngoại lệ:

gõ/khỏ; hõm/(sâu) hóm; kẻ/gã; rải/vãi; mặn/mẳn; (thuộc) lảu/làu; (mệt) lử/(đói) luỗi; phồng/phổng; ngõ/ngả; quãng/khoảng; rõ/tỏ; trội/trổi; lõm/lóm.

B. TIẾNG NÔM ĐÔI

Bởi tánh cách ĐỘC VẬN (mono-syllabic) ngắn ngủn, nên tiếng Việt thường hợp thành Tiếng-Đôi để cho dịu giọng.

TIẾNG NÔM ĐÔI khác hơn TIẾNG GHÉP (là tiếng HÁN-VIỆT do hai hoặc ba tiếng có nghĩa riêng ghép lại để chỉ một ý niệm mới).

TIẾNG NÔM ĐÔI là Tiếng-nôm do hai hoặc nhiều tiếng hiệp lại để cho rõ ý, hoặc dịu giọng.

* Có loại Tiếng Nôm Đôi do Hai tiếng đều có nghĩa hợp lại mà thành.

* Có loại Tiếng Nôm Đôi khác, gọi là Tiếng Đôi LẤP-LÁY, do một tiếng có nghĩa hợp với một tiếng không nghĩa; hoặc do hai tiếng không nghĩa hợp lại nhưng giọng nghe hài hoà, thuận tai, dễ đọc.

Tiếng Nôm Đôi mà CẢ HAI TIẾNG ĐỀU CÓ NGHĨA THÌ KHÔNG THEO LUẬT TRẦM BỔNG mà mỗi tiếng giữ chánh tả riêng của nó về Âm về Vần (Vận) cũng như về Giọng (Thinh).

Ví dụ: mồ mả; cú rũ; rỗi rảnh; bàn ghế; bồng ẵm; cổi gỡ; chống chõi; đầy đủ; lỡ dở; mỏi mệt; ủ rũ; sàng sảy; sâu xa; trồng tỉa; siêng năng; tìm kiếm; kiêng cữ; tỏ rõ; lú lẫn…

Tiếng Nôm Đôi còn chia thành hai loại: Tiếng Nôm Đôi Liên Hiệp và Tiếng Nôm Đôi Độc lập.

Tiếng Nôm Đôi Độc Lập là tiếng đôi mà hai tiếng đều có nghĩa và bình đẳng: thôn xóm, tốt tươi.
Tiếng Nôm Đôi Liên Hiệp là tiếng đôi mà nghĩa của hai tiếng phụ thuộc lẫn nhau để làm cho rõ thêm nghĩa: cà chua, máy cày, xe đạp.

C. TIẾNG NÔM ĐÔI LẤP LÁY

Tiếng Nôm Đôi Lấp Láy là những Tiếng-đôi gồm hai tiếng có liên hệ với nhau về âm thanh mà trong đó phải có ít nhất là một tiếng không có nghĩa.

Ví dụ: đẹp đẽ, mới mẻ, lạnh lùng, vội vàng, v. v… những tiếng đẽ, mẻ, lùng, vàng, đều không có nghĩa. Sự phân biệt tiếng có nghĩa và tiếng không có nghĩa giúp ta nhận ra Tiếng-đôi Lấp-láy dễ dàng.

1. Các mối liên hệ về âm trong Tiếng Đôi Lấp Láy:

a) Liên hệ ở phụ âm đầu. Có những Tiếng Đôi chỉ láy lại phụ-âm đầu: (m-m) mát mẻ, (đ-đ) đồn đãi, (l-l) lểnh lảng, (n-n) nói năng.

b) Liên hệ về vần. Có những Tiếng Đôi chỉ có phần vần được láy lại: lai rai, lải nhải, lạng chạng, lằm bằm, lẫm đẫm, lễ mễ, lơ thơ.

c) Liên hệ cả phụ-âm đầu lẫn vần. Có những Tiếng Đôi láy lại cả phụ-âm đầu lẫn vần như: cào cào, ba ba, bươm bướm, rầm rầm, châu chấu, khinh khỉnh.

Do đó, khi nói về Tiếng Đôi Lấp Láy ta cần chú ý đến sự liên hệ của phụ-âm đầu và vần.

2. Liên hệ về giọng điệu.

a) Cùng một giọng điệu với nhau.

lui cui, lung tung (không dấu)
chí chóe, chíu chít (dấu sắc)
lỏng chỏng, thỉnh thoảng (dấu hỏi)
lễ mễ, dễ dãi (dấu ngã)

b) Cùng một nhóm giọng với nhau.

Tiếng Việt được chia thành hai nhóm giọng:

Nhóm giọng cao gọi là giọng Bổng
Nhóm giọng thấp gọi là giọng Trầm.

Nhóm cao (Bổng), gồm có các giọng: Ngang (còn gọi là Không), Sắc, và Hỏi.

Nhóm thấp (Trầm), gồm có các giọng: Huyền, Nặng, và Ngã.

Trong Tiếng Đôi Lấp Láy, giọng của hai tiếng bao giờ cũng thuộc cùng một nhóm. Nếu một tiếng của Tiếng Đôi Lấp Láy có giọng cao thì giọng của tiếng kia cũng thuộc nhóm giọng cao.

Ví dụ: vui vẻ, mới mẻ, lửng lơ, nho nhỏ…

Ngược lại nếu một tiếng của Tiếng Đôi Lấp Láy có giọng thấp thì tiếng kia cũng có giọng thấp, ví dụ: mạnh mẽ, đẹp đẽ, ngại ngùng, lạnh lùng…

Qui luật về giọng-điệu giữa các tiếng trong Tiếng Đôi Lấp Láy gọi là Qui luật Thuận-thinh-âm (cũng còn gọi là Luật Trầm Bổng).

Tóm lại, TIẾNG ĐÔI LẤP LÁY bỏ dấu theo luật Trầm Bổng:

KHÔNG, SẮC, HỎI đi với HỎI
HUYỀN, NẶNG, NGÃ đi với NGÃ

Tiếng đầu Không dấu hoặc dấu Sắc hoặc dấu Hỏi thì tiếng sau phải bỏ dấu HỎI.

Tiếng đầu dấu Huyền hoặc dấu Nặng hoặc dấu Ngã thì tiếng sau phải bỏ dấu NGÃ.

Thí dụ:

BỔNG

Không dấu đi chung với HỎI và ngược lại: nghỉ ngơi, bảnh bao, lẻ loi, hăm hở, thong thả, sởn sơ, viển vông, run rẩy, vẻ vang, vui vẻ.

Sắc đi chung với HỎI và ngược lại: mải miết, nhắc nhở, thẳng thớm, dí dỏm, bóng bảy, chải chuốt, khỏe khoắn, nhảm nhí, mắt mỏ.

Hỏi đi chung với HỎI: hể hả, lỏng lẻo, nhỏng nhẻo, thỏ thẻ, bải hoải, mỏng mảnh, thỉnh thoảng, tỉ mỉ, xửng vửng.

TRẦM:

Huyền đi chung với NGÃ và ngược lại: vỗ về, rầu rĩ, tầm tã, não nề, đãi đằng, nòng nã, sẵn sàng, kỹ càng, chẵn chòi, lời lãi…

Nặng đi chung với NGÃ và ngược lại: gỡ gạc, vội vã, dữ dội, cặn kẽ, não nuột, lạt lẽo, cãi cọ, lũ lượt, đẹp đẽ, chập chững, gãy gọn…

Ngã đi chung với NGÃ: dễ dãi, lỗ lã, cãi lẫy, mãi mãi, kỹ lưỡng,…

Như vậy, theo luật nầy thì khi gặp Tiếng Đôi Lấp Láy như: bẽ bàng, rõ ràng, vững vàng, chúng ta yên tâm viết bẽ, rõ, vững với dấu ngã vì các chữ bàng, ràng, vàng, đã có dấu huyền.

Đối với Tiếng Đôi Lấp Láy như cãi cọ, chập chững, dọ dẫm, đẹp đẽ, chúng ta viết cãi, chững, dẫm, đẽ, với dấu ngã vì các chữ cọ, chập, dọ, đẹp, là những chữ đã viết dấu nặng.

Đối với Tiếng Đôi Lấp Láy như lỗ lã, dễ dãi vì ta đã biết dễ và lỗ viết dấu ngã (do suy biết từ lỗ lời, dễ dàng) thì theo luật nầy ta biết chắc lã và dễ phải viết dấu ngã.

Khi một chữ của Tiếng Đôi Lấp Láy viết dấu sắc, không dấu, hoặc dấu hỏi, thì chữ kia phải viết dấu hỏi chớ không thể viết dấu ngã.

Ví dụ:

– cứng cỏi, trống trải, trắng trẻo vì đã có các chữ cứng, trống, trắng viết dấu sắc nên các chữ cỏi, trải, trẻo phải viết dấu hỏi.

– trong trẻo, bươn chải, trả treo vì các chữ trong, bươn, treo viết không dấu nên các chữ trẻo, chải, trả phải viết dấu hỏi.

– các Tiếng Đôi Lấp Láy như lẩm bẩm, lủng củng, bỏm bẻm cũng vậy, vì các chữ lẩm, lủng, bỏm, mang dấu hỏi, thì chữ đứng sau phải viết dấu hỏi.

CÁCH NHẬN RA TIẾNG ĐÔI LẤP LÁY

Khi hai tiếng của một từ mà hai phụ âm đầu của hai tiếng ấy giống nhau, hoặc cả âm đầu lẫn vần đều giống nhau (cùng giọng Bổng cả, hoặc cùng giọng Trầm cả), thì đó là Tiếng Đôi Lấp Láy.

DỰA VÀO NGHĨA: Một Tiếng Đôi mà cả hai tiếng đều có nghĩa, thì Tiếng Đôi đó KHÔNG PHẢI là Tiếng Đôi Lấp Láy.

ĐẢO NGƯỢC TRẬT TỰ: Khi đảo ngược trật tự của một tiếng-đôi mà tiếng-đôi đó vẫn còn y nghĩa như khi chưa bị đảo trật tự, thì tiếng đó là tiếng ghép chớ KHÔNG PHẢI là Tiếng Đôi Lấp Láy.

Ví dụ: giữ gìn, lả lơi, lơ lửng, hờ hững, là tiếng ghép chớ không phải là Tiếng Đôi Lấp Láy, vì khi đảo ngược, nó vẫn giữ nghĩa như trước. (gìn giữ, lơi lả, lửng lơ, hững hờ).

TIẾNG ĐÔI BỎ BỚT MỘT DẤU GIỌNG: Có nhiều Tiếng-Đôi vì muốn cho êm tai nên

1) phải bỏ bớt một dấu giọng. Mấy tiếng mất dấu giọng đó là tiếng chánh lập lại, chớ không phải tiếng đệm, nên những tiếng đôi đó không bỏ dấu theo luật Trầm Bổng. Thí dụ: khe khẽ, là khẽ khẽ; dê dễ là dễ dễ; đăng đẵng là đằng đẵng.

2) Có nhiều Tiếng-Đôi bị đổi giọng, như hẳn hoi trở thành hẳn hòi; kỹ càng trở thành kỹ cang.

Ngoài ra, NHỮNG TIẾNG NÓI TẮT do ghép với tiếng ẤY, đều viết dấu Hỏi. (Nói Tắt là nói thúc hai chữ thành một, theo lối giản ước). Ví dụ như:

anh + ấy = ảnh; bà + ấy = bả; cậu + ấy = cẩu; chị + ấy = chỉ; hôm + ấy = hổm; mợ + ấy = mở; năm + ấy = nẳm; thằng cha + ấy = thằng chả; con mẹ ấy = con mẻ

NHỮNG NGOẠI LỆ CỦA TIẾNG-ĐÔI (Không còn theo luật Trầm Bổng)

bền bỉ, chàng hảng, chèo bẻo, dòm dỏ, ẻo ẹo, giãy nảy, hoài hủy, hẳn hòi, ĩnh ương, khe khẽ, lảng xẹt, lý lẽ, luồn lỏi, lẳng lặng, mình mẩy, se sẽ, mủ mĩ, niềm nở, ngoan ngoãn, nhểu nhão, phỉnh phờ, rẻ rề, rỗng tuếch, sành sỏi, sừng sỏ, sửng sờ, thỏng thừa, thung lũng, trễ nải, trọi lỏi, trơ trẽn, ve vãn, vỏn vẹn, xảnh xẹ.

MUỐN BIẾT PHẢI BỎ DẤU GÌ?

1) Cách lẹ nhất là thử tìm một Tiếng Đôi khác, có cái chữ mình đang phân vân về dấu hỏi hay ngã.

Ví dụ chữ dễ dãi: Chỉ cần biết được một trong hai chữ dễ hoặc dãi mang dấu gì thì biết được luôn cả dấu của chữ kia. Thử chọn chữ dễ trước. Với chữ dễ ta có Tiếng đôi Lấp-láy dễ dàng. Với dễ dàng ta biết chữ dễ phải viết dấu ngã vì chữ dàng có dấu huyền. Khi đã biết chữ dễ viết dấu ngã thì ta xác định được là chữ dãi phải viết dấu ngã do luật “HUYỀN, NẶNG, NGà = NGÔ

Đối với các chữ mang dấu Hỏi cũng làm như vậy.

2) Khi không tìm ra một Tiếng-đôi Lấp-láy trong đó có chữ mà ta cần biết là mang dấu gì thì ta nên thử đưa nó vào loại chữ-láy bốn tiếng.

Ví dụ chữ đủng đỉnh: Ta có đủng đa đủng đỉnh, về lủng lẳng ta có lủng la lủng lẳng. Khi ta thấy đủng đa, lủng la, thì ta có thể khẳng định đủng và lủng phải viết dấu hỏi theo luật “KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI”. Khi đã biết đủng và lủng phải viết dấu hỏi rồi thì ta biết được đỉnh và lẳng củng phải viết dấu hỏi theo luật Trầm Bổng “KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI”.

3) Đối với Tiếng-Nôm-đơn, và Chữ-ghép.

Khi gặp tiếng Nôm-đơn hoặc một tiếng trong các Chữ-ghép mà ta phân vân về dấu hỏi ngã, thì ta tìm một Tiếng-đôi Lấp-láy có tiếng đó, rồi áp dụng luật đễ tìm dấu hỏi hay ngã.

Ví dụ 1: ta gặp các chữ: nghỉ, nghĩ, dở, dễ, khoẻ… Ta tìm xem các chữ nầy viết hỏi hay ngã. Ta xem tiếng Lấp-láy phải viết dấu gì?

nghỉ: nghỉ ngơi –> dấu hỏi
nghĩ: nghĩ ngợi –> dấu ngã
dở: dở dang –> dấu hỏi
dễ: dễ dàng –> dấu ngã
khoẻ: khoẻ khoắn –> dấu hỏi

Ví dụ 2: như gặp chữ sửa chữa, không biết chữ nào viết hỏi, chữ nào viết ngã, thì ta tách chữ đó ra để mà tìm.

Ta sẽ có Tiếng-đôi sửa sang. Khi đã có sửa sang thì ta yên tâm viết sửa với dấu hỏi vì “KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI”.

Đến chữ chữa thì ta biết chữa là Tiếng-nôm có Gốc-Hán-việt là chữ Trị, vậy phải viết dấu ngã, vì “HUYỀN, NẶNG, NGà = NGÔ.

Ví dụ 3: gặp chữ ủ rũ, không biết chữ nào viết hỏi, chữ nào viết ngã, thì ta cũng tách chữ đó ra, rồi tìm cách đưa thành một Tiếng-đôi Lấp-láy.

Ta sẽ có ủ ê. Khi đã có ủ ê thì ta yên tâm viết ủ với dấu hỏi, vì ê là chữ không dấu, theo luật “KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI”

Đến chữ rũ thì ta có Tiếng-đôi Lấp-láy rũ rượi nên ta biết là rũ phải viết dấu ngã vì rượi là chữ có dấu nặng, theo luật “HUYỀN, NẶNG, NGà = NGÔ

CHÚ Ý: Khi tạo Tiếng-đôi Lấp-láy để dựa vào đó mà xác định dấu hỏi ngã, ta cần chọn Tiếng-đôi Lấp-láy sao cho nghĩa của Tiếng-đôi đó, khi tách ra một mình, phải cùng nghĩa với chữ mình đang muốn tìm dấu.

Thí dụ: dễ (dễ làm) và dễ trong Tiếng-đôi Lấp-láy dễ dàng, dễ ợt, cùng có nghĩa giống nhau.

Nếu tìm được một Tiếng-đôi Lấp-láy hay không Lấp-láy nhưng chữ trong tiếng đó lại khác nghĩa với nghĩa của chữ mình đang tìm dấu thì không thể dùng được. Chẳng hạn như rũ trong ủ rũ mà ta lại dùng chữ rủ của rủ rê, rủ ren thì không cùng nghĩa cho nên ta sẽ viết sai dấu ngay.

Image may contain: text
No automatic alt text available.
 

Giờ Hà Nội nóng như thiêu đốt, nó có trừ ai không?

Tran Dat shared Lê Tân‘s post.
 
Image may contain: one or more people and outdoor
Lê Tân

 

Dân Hà Nội mấy triệu người mà chỉ có mấy trăm đi biểu tình chống chặ̣t cây xanh.
Còn lại số đông bĩu môi, bảo «lũ rách việc, dở hơi». Một số lớn khác chửi «quân phản động».

Giờ Hà Nội nóng như thiêu đốt, nó có trừ ai không?

(FB Tan Tran)