Kinh Xin Ơn Nhiệm Mầu ĐHY Nguyễn Văn Thuận – Chứng Nhân Hy Vọng

httpv://www.youtube.com/watch?v=P8FiAIZ8XkI&feature=youtu.be

Kinh Xin Ơn Nhiệm Mầu ĐHY Nguyễn Văn Thuận – Chứng Nhân Hy Vọng

Xin gửi đến Kinh Xin Ơn ĐHY Nguyễn Văn Thuận – Chứng Nhân Hy Vọng.

Nguyện xin ĐHY cầu bầu cùng Chúa ban cho quê hương Việt Nam thân yêu của chúng ta được sống trong công lý và hoà bình

Kính,

PT

MANG LẤY ÁCH

MANG LẤY ÁCH

 

Báo Văn Học số 193 tháng 5 năm 2002, trong mục Tin Văn do Thế Quân phụ trách, đăng tin về em bé Mattie Stepanek 11 tuổi, hiện sống với mẹ ở Upper Marlboro, bang Maryland.  “Mới sinh ra, em đã mang một căn bệnh di truyền quái ác có tên là “dysautonomic mitochondrial myopathy”, một hình thức khá hiếm hoi của bệnh yếu cơ – muscular dystrophy.  Bệnh này đã giết chết ba anh chị em của Mattie, còn bản thân em thì đời sống bị dính liền vào chiếc xe lăn với một bình oxygen thường xuyên bên cạnh.  Nhỏ nhắn, yếu ớt, thiếu sức khỏe và mang một căn bệnh vô phương cứu chữa như thế, nhưng em luôn vui vẻ, lạc quan.  Em rất ham học và sáng tạo.  Em bắt đầu làm thơ và viết văn vào lúc 3 tuổi.  Em đọc và mẹ em đánh máy lại.  Lúc 5 tuổi, em đã có mấy trăm bài thơ và đến nay đã có hàng ngàn bài thơ.”

 

“Em có ba ước mơ: thứ nhất là xuất bản một tập thơ của riêng em, thứ hai là được diện kiến với “model” của em là cựu tổng thống Jimmy Carter, và cuối cùng là được xuất hiện trong chương trình truyền hình của Oprah.  Năm 2001, cả ba ước mơ của em không những đã thành đạt mà còn thành đạt ngoài ý muốn.  Tháng 7 năm 2001, hai nhà xuất bản “VPS Books” và “Hyperion Books” hợp tác nhau xuất bản thi tập đầu tiên của em, tựa đề là “Heartsongs.”  Ngay lập tức, nó trở thành “bestseller” trên toàn quốc.  Tháng 10 năm 2001, em được diện kiến cựu tổng thống Carter trong chương trình truyền hình “Good Morning America.”  Và ngày 19 tháng 10 năm 2001, em xuất hiện trong chương trình truyền hình Oprah.

 

Tối ngày 17 tháng 4 năm 2002, Mattie xuất hiện trong chương trình “Lary King Live” của hệ thống truyền hình CNN.  Trong cuộc trò chuyện này, bằng một giọng nói lưu loát, cử chỉ sống động, em trả lời nhiều câu hỏi về cuộc sống, việc học, việc làm thơ và những mơ ước của em một cách thông minh, chân thành và đôi khi còn pha chút dí dỏm.  Trả lời câu hỏi liên quan đến căn bệnh nan y của em, Mattie nói: “Các bác sĩ không tin rằng cháu sẽ sống nổi một ngày.  Nhưng cháu đã sống được.  Rồi họ lại bảo “OK, thằng nhỏ sống đến 6 tháng là cùng.”  Cháu đã sống… Khi cháu lên 2, họ nói “OK, 10 tuổi thôi.”  Bây giờ đây cháu đã được 11 tuổi.  Họ sẽ có thể nói “đến mười mấy thôi, quá lắm là đến hết tuổi thiếu niên, nhưng cháu dự tính sẽ sống đến 101 tuổi lận”.

 

Đề cập đến sự kiên trì phấn đấu của mình để tồn tại và sáng tác, em phát biểu: “Đôi khi, cháu tự hỏi: Tại sao lại là cháu?  Tại sao cháu lại có một đời sống khó khăn như thế này?  Tại sao mấy anh chị em của cháu lại chết?  Tại sao bệnh không lành?  Nhưng rồi cháu nghĩ lại và tự hỏi: Tại sao không phải là cháu chứ?  Cháu có thể chịu đựng được tốt hơn một đứa trẻ khác đã phải chịu những khó khăn trong đời của nó.  Hoặc là cháu có thể chịu đựng tốt hơn một đứa nhỏ chẳng hiểu gì chuyện đó cả và có thể còn đau khổ hơn”.

 

Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta mang lấy ách của Người trên đôi vai chúng ta.  Phải chấp nhận những nhọc nhằn vất vả, bệnh tật ốm yếu, khổ đau buồn sầu, và tất cả những ngang trái ngoài ý muốn như là cái ách phải mang lấy trong cuộc đời.

 

Người Do Thái dùng thành ngữ cái ách để chỉ sự vâng phục, phục tùng.  Họ nói về cái ách của lề luật, cái ách của các giới răn, cái ách của Vương Quốc, và cái ách của Thiên Chúa.  Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh cụ thể này để diễn tả lời mời gọi của Người.

 

Theo William Barclay, Chúa Giêsu nói, “Ách của Ta thì êm ái.”  Chữ “êm ái”, tiếng Hy Lạp là “chrestos” có nghĩa là vừa vặn.  Trong xứ Palestine những cái ách của con bò được làm bằng gỗ; con bò phải được dẫn đến tiệm thợ mộc để đo kích thước phù hợp với từng con.  Sau đó cái ách phải được thợ mộc đẽo gọt, điều chỉnh, sửa chữa cẩn thận cho thật vừa vặn để không làm trầy da hay tổn thương đến con vật.

 

Có một huyền thoại cổ kể lại rằng Chúa Giêsu là người thợ mộc sản xuất ra những cái ách vừa vặn vào loại hạng nhất ở xứ Galilêa, và trong khắp cả nước người ta ùn ùn kéo đến với Người để mua những cái ách hạng nhất do Người làm ra.  Thời ấy, các cửa tiệm cũng có những nhãn hiệu dán trên cửa, và cái nhãn hiệu của tiệm thợ mộc ở Nagiarét nổi tiếng với hàng chữ: “My yokes fit well” – “Ách Ta rất vừa vặn”.

 

Chúa Giêsu nói: “Ách của Ta thì êm ái”, có nghĩa là: “Cuộc sống Ta ban cho con không phải là gánh nặng làm tổn hại đến con; bổn phận của con đã được đo lường thích hợp với con rồi.”  Bất cứ điều gì Thiên Chúa gửi đến cho chúng ta đã được làm để phù hợp chính xác với những nhu cầu và khả năng của chúng ta.

 

Chúa Giêsu nói: “Gánh của Ta thì nhẹ nhàng.”  Đúng như lời của một thầy Rabbi đã nói:“Gánh của tôi đã trở nên bài ca của tôi.”  Điều này không có nghĩa là gánh nặng thì dễ dàng mang vác; nhưng có nghĩa rằng nó được đặt trên vai chúng ta bằng tình yêu.  Nó sẽ được mang vác trong tình yêu.  Và tình yêu sẽ làm cho những gánh nặng nề nhất cũng trở nên nhẹ nhàng như thánh Augustinô đã nói: “Ở đâu có tình yêu, ở đó hết khó nhọc.”

 

Sưu tầm

Louis Pasteur – Nhà bác học thiên tài – Một tâm hồn khiêm tốn

Louis Pasteur – Nhà bác học thiên tài – Một tâm hồn khiêm tốn

Trên tuyến xe lửa đi về Paris, có một thanh niên trẻ ngồi cạnh một cụ già. Chỉ ít phút sau khi đoàn tàu chuyển bánh, cụ rút trong túi áo ra một cỗ tràng hạt và chìm đắm trong cầu nguyện. Người sinh viên quan sát cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội.

Sau một hồi lâu, xem chừng không thể chịu nổi, anh ta mạnh dạn lên tiếng:

“Thưa Ông, Ông vẫn còn tin vào những chuyện nhảm nhí thế à?”

Cụ già thản nhiên trả lời: “Đúng vậy, tôi vẫn tin. Còn cậu, cậu không tin sao?”

Người thanh niên xấc xược trả lời:

“Lúc nhỏ tôi có tin, nhưng bây giờ làm sao tôi có thể tin vào những chuyện nhảm nhí ấy được, bởi vì khoa học đã mở mắt cho tôi. Ông cứ tin tôi đi và hãy học hỏi những khám phá mới của khoa học, rồi Ông sẽ thấy rằng những gì Ông tin từ trước đến nay đều là những chuyện nhảm nhí hết.”

Cụ già nhỏ nhẹ hỏi người sinh viên:

“Cậu vừa nói về những khám phá mới của khoa học, liệu cậu có thể giúp tôi hiểu được chúng không?”

Người sinh viên nhanh nhẩu trả lời:

“Ông cứ cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gởi sách vở đến cho ông, rồi ông sẽ say mê đi vào thế giới phong phú của khoa học cho mà xem.”

Cụ già từ từ rút ra trong túi ra một tấm danh thiếp và trao cho người sinh viên. Đọc qua tấm danh thiếp, người sinh viên bỗng xấu hổ đến tái mặt và lặng lẽ rời sang toa khác. Bởi vì trên tấm danh thiếp ấy có ghi:

Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris.

Scientific Identity, Portrait of Louis Pasteur

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Louis Pasteur – Nhà bác học thiên tài – 

Một tâm hồn khiêm tốn và cầu nguyện

 Trên tuyến xe lửa đi Ba Lê

có sinh viên ngồi bên cụ già

cụ lấy ra, khi tàu chuyển bánh

cổ tràng hạt chìm đắm nguyện cầu

Sinh viên quan sát cụ già

cử chỉ bực bội, xoay qua, xoay về

Sau một hồi, im re không nổi

anh mạnh dạn gặn hỏi cụ già:

“-Thưa ông sao còn thiết tha

“tin chuyện nhảm nhí, nguyện cầu đọc kinh?

Cụ thản nhiên: -“tôi tin cầu nguyện”

“còn anh không tin chuyện tôi làm?”

Sinh viên xấc xược nói :- “vâng

“tôi tin lúc bé, nhưng sang trang rồi

“khoa học mở mắt tôi nhìn thấy

“chuyện nguyện cầu nhảm nhí ngày xưa

“Khám phá khoa học dẫn đưa

“cho thấy tôn giáo phỉnh lừa dân gian

“Ông sẽ thấy rõ ràng chứng cớ”

Cụ già liền nói nhỏ nhẹ rằng:

-“Khám phá khoa học mà anh

“vừa nói đến tôi rất cần biết qua

“để tôi hiểu đâu là sự thật”

Sinh viên liền thân mật trả lời:

-“Ông viết địa chỉ cho tôi

“ tôi sẽ gửi sách sáng soi vấn đề

“rồi ông sẽ say mê tìm được

“thế gìới của khoa học văn minh”

Cụ già rút danh thiếp mình

từ tốn trao cho anh sinh viên nầy

Đọc danh thiếp tía tai, anh lủi

Qua toa khác vì bởi thiệp danh

ghi: Louis Pasteur rành rành

Viện nghiên cứu khoa học thành Ba-Lê

BS Phùng Văn Hạnh cảm tác

Đổ gần 1 triệu m3 bùn, cát: Nhìn từ nhiều phía

From facebook:  Thuong Phan shared Hen Tran‘s post.

LẬP LỜ ĐÁNH LẬN CON ĐEN !

Nếu là nạo vét bùn thì lập bãi đổ trên bờ cũng được đâu có ảnh hưởng gì , sao cứ một hai đổ xuống biển . Cách trả lời của bộ TN&MT là không thuyết phục và chúng ta đã nhìn thấy rõ Sau vụ Formosa có thằng đéo nào chịu trách nhiệm đâu .

Nói rõ luôn về tầm nhìn lâu dài khi biển không còn nữa thì đánh bắt cá ở đâu ? Ra khơi hoàng sa, trường sa thì TQ nói biển của họ , qua hải phận nước khác đánh thì họ tóm đầu , làm ăn không ra thì lấy đâu trả lãi NH khi đóng tàu mới đi xa bờ và cuối cùng :

Biển chết , tàu nằm ụ , nợ nần chồng chất, người chết bỏ biển thì biển lúc đó sẽ thuộc về ai ? Trong khi TQ đang hăm he lấy toàn bộ biển đông , họ dùng nhiệt điện, nhà máy thép để tiêu diệt môi trường biển, cho người dân không có con đường mưu sinh và bỏ biển . Vậy thì ở VN ai là người tiếp tay cho TQ thực hiện mưu đồ này . Ai cũng hiểu kể đứa trẻ lên 3 cũng hiểu nhưng lãnh đạo của VN lại không hiểu ….

(PL)- Bộ TN&MT đã khảo sát thêm một số vị trí ra xa nữa. Nhưng mà ngoài đó có những yếu tố khác không thể đáp ứng cho hoạt động nhận chìm. Chẳng hạn sóng, gió, địa chất địa hình…
PLO.VN
 

TUYÊN BỐ VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO QUỐC GIA VIỆT NAM CỦA CÔNG DÂN VÀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ VIỆT NAM

From facebook:   Hoa Kim Ngo‘s post.
 
Image may contain: 9 people, crowd and outdoor

Hoa Kim Ngo with Paul Trần Minh Nhật and 8 others.

 

ĐỢT 3 ĐÃ CÓ 10 TỔ CHỨC VÀ 248 NGƯỜI KÝ TÊN . ĐÃ DỊCH RA 4 NGÔN NGỮ: ANH – PHÁP – TRUNG QUỐC- ĐỨC.

*Xin ký tên ủng hộ bản Tuyên bố này qua địa chỉ biendongtuyenbo@gmail.com.

TUYÊN BỐ VỀ CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO QUỐC GIA VIỆT NAM
CỦA CÔNG DÂN VÀ CÁC TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN SỰ VIỆT NAM (dịch sang các tiếng Anh, Pháp, Trung và Đức; cập nhật đợt 3: 10 tổ chức, 248 cá nhân ký tên)

Ngày 27 tháng 6 năm 2017

Lần đầu tiên, một lãnh đạo Trung Quốc sang Việt Nam – tướng Phạm Trường Long – đã tuyên bố công khai, trực tiếp với lãnh đạo Việt Nam, rằng “vùng lãnh hải Biển Đông là thuộc chủ quyền Trung Quốc từ thời cổ đại”, điều mà Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phát biểu tại Singapore sau khi rời Việt Nam, mà không dám nói khi còn ở Việt Nam. 

Phạm Trường Long, đại diện lập trường bành trướng của Trung Quốc, đã tiến thêm một bước khiêu khích mới, đe dọa chủ quyền Việt Nam, đồng thời Trung Quốc tiến hành manh động gây hấn ở lãnh hải và một số điểm trên đất liền của Việt Nam.
Dù yêu chuộng hòa bình hữu nghị, và đã từng trải qua chiến tranh, nhân dân Việt Nam không sợ hãi và kiên quyết chống lại cuộc xâm lấn của nhà cầm quyền Bắc Kinh, như đã từng thể hiện qua lịch sử mấy ngàn năm chống giặc Tàu xâm lược. 
Chúng tôi, các công dân Việt Nam và các hội đoàn xã hội dân sự Việt Nam, long trọng tuyên bố:

1) Phản bác và lên án các hành vi xâm lược lãnh hải, lãnh thổ Việt Nam của nhà cầm quyền Bắc Kinh đang diễn ra. Dù bất cứ tình huống nào, sự đánh trả của nhân dân Việt Nam để bảo vệ đất nước là tất yếu. 

2) Nhân dân Việt Nam đồng lòng, đoàn kết, gác bỏ mọi khác biệt và ủng hộ tất cả các Nhà nước của Quốc gia Việt Nam ở mọi thời kỳ, trong cùng lập trường bảo vệ chủ quyền quốc gia, chống mọi hành động xâm lược. 

– Tại Hội nghị quốc tế San Francisco – Mỹ, 1951, Thủ tướng Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã khẳng định quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa thuộc Việt Nam, và được hội nghị công nhận. 

– Chính phủ VNCH (Miền Nam), 1974, đã chiến đấu quyết liệt chống quân Trung Quốc xâm lược Hoàng Sa, tuy thất bại nhưng tinh thần không khuất phục. 

– Chính phủ CHXHCN Việt Nam, sau khi thống nhất đất nước, dưới thời Tổng Bí thư Lê Duẩn 1979 đã tiến hành cuộc đánh trả oanh liệt cuộc xâm lăng 6 tỉnh miền Bắc Việt Nam. Tuy Việt Nam chưa giành lại được 6 đảo ở Trường Sa và quần đảo Hoàng Sa còn bị Bắc Kinh chiếm đóng, nhưng năm 2011 trước Quốc hội Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tiếp tục khẳng định chủ quyền của Việt Nam về Hoàng Sa và Trường Sa.

Chính phủ Việt Nam cũng có những tuyên bố khác có nội dung thống nhất như trên. Và Quốc hội Việt Nam đã công khai thừa nhận là Việt Nam chưa hoàn thành nhiệm vụ lịch sử khôi phục sự toàn vẹn lãnh thổ.

Lập trường của nhân dân Việt Nam và sự nhất quán của các Chính phủ của Quốc gia Việt Nam đã rõ ràng trong suốt chiều dài lịch sử. Tham vọng ngông cuồng, lạc thời đại của bè lũ Bành trướng Tập Cận Bình – Phạm Trường Long không tránh khỏi sự thất bại thảm hại.

3) Nhân dân Việt Nam luôn ghi nhận và tri ân các thế hệ quân đội thuộc các thời kỳ, đã chiến đấu và hy sinh vì Tổ quốc, để chống các loại giặc ngoại xâm bất cứ từ đâu đến và dưới màu sắc nào. 

4) Cải thiện nội trị là điều khẩn thiết để có nội lực hùng mạnh bảo vệ Tổ quốc chống ngoại xâm. Các tầng lớp nhân dân đang phấn khích, ủng hộ và theo dõi xu thế làm trong sạch bộ máy nhà nước, và cải tổ về mọi lãnh vực: kinh tế, y tế, giáo dục, quốc phòng, tư pháp. Đặc biệt, canh tân quân đội, từ bỏ sự sa đà vào lợi ích nhóm bất chính, chấn chỉnh hệ thống hành chánh quan liêu, diệt trừ tham nhũng. Và quan trọng hơn hết là từ bỏ hệ tư tưởng lạc hậu ảo tưởng, sửa Điều 4 Hiến pháp nhằm hiệu chính vai trò của Quốc hội, tăng cường sức mạnh đoàn kết của nhân dân, thực thi nền dân chủ cho kịp đà tiến của thời đại. 

Tổ quốc là trên hết, gác lại quá khứ, chấp nhận khác biệt. 

Chúng tôi kêu gọi các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội dân sự, các thành viên trong bộ máy nhà nước, cùng đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, ủng hộ tuyên bố này.
Chúng tôi kêu gọi nhân dân các nước ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa, bảo vệ chủ quyền quốc gia Việt Nam theo công ước quốc tế, góp phần bảo dưỡng môi trường tài nguyên vùng biển, đảm bảo tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông.

Xin ký tên ủng hộ bản Tuyên bố này qua địa chỉ biendongtuyenbo@gmail.com.

Chinese version
越南公民及民间组织关于越南水域与岛屿主权之声明
胡志明市六月27/6/2017

日前,中国共产党中央军事委员会副主席范长龙访问越南时竟对河内越南领导人发表如下声明:“南中国海诸岛自古以来属于中国”。即使是中国国家主席习近平也不敢在越南如此造次,他是在离开我国后于新加坡才发表了类似言论。
作为中国霸权主义的代表之一,范长龙在挑衅和威胁越南主权方面迈出新的危险的一步。与此同时,中国正在蓄谋攻击越南大陆架部分地区和越南部分国土。
即使历经诸次战争,但依旧热爱和平与友谊!不过,越南人民将万众一心坚决反对中国领导人所进行的各种侵略行为,千年历史也不断证明越南人民具有坚定抵制中国侵略的顽强意志和能力。
我们,越南公民及民间组织在此作出以下庄严声明:
1.我们反对和谴责目前北京领导人对越南水域和领土所进行的语言侵略行为。在任何情况下,我们都将为维护国家主权而进行斗争,这是毋庸置疑的!
2.越南人民团结一致,放下内部矛盾,支持在历史上所有时代为维护越南主权而进行斗争的越南政府。
– 1951年,在美国旧金山举办的国际会议上,越南共和国(南越)总理陈文有发表声明,明确黄沙群岛与长沙群岛归属越南,并且得到所有与会代表的支持和大会公认。
– 1974年,越南共和国(南越)在黄沙进行了一场英勇反击中国侵略之战,虽没有成功,但其不屈精神将被世代铭记。
– 1979年,在南北统一之后,越南社会主义共和国在总书记黎笋的领导下,顽强抵制中国在北越与中国接壤的6省所进行的侵略。
迄今为止,黄沙群岛和长沙群岛中的六座岛屿仍被中国占领,但2011年越南总理阮晋勇在国民议会前已明确越南在黄沙群岛与长沙群岛的权利。随后的各种声明都不断强调了这一立场。此外,国民议会已正式承认越南尚未完成恢复完整领土的历史责任。
越南人民及历届越南政府在领土问题上的立场将不会不变。习近平 – 范长龙之妄想与不明形势的野心肯定会遭到挫败!
3.无论隶属何派, 越南人民对为抵抗外来势力侵略、维护祖国完整领土而斗争与牺牲的历代军队表示诚挚的感谢与永久的怀念!
4.内部团结是加强国防军队力量、抵抗外侵的必要条件。越南人民在不同层面热切关注和坚定支持国家政策、经济体制、卫生体制、国民教育、国防、司法等方面的改革与透明化进程。尤其是军队改革,革除特殊利益团体,重组内部体制,清理腐败。其重中之重乃是放弃不切实际的幻想,摒弃落后的意识形态,修改宪法第四条,恢复国民议会的权利,加强民族团结,实现民主,赶上时代。
我们在此大声呼吁:请以国为先,大局为重,搁置历史遗留,求同存异!
我们恳请全体群众、民间社会团体,国家机关成员以及生活在越南境外的越南同胞,支持这份正义的声明。
我们还呼吁世界各国支持我们进行按照国际法维护越南主权、保护环境、保护自然资源、保障南中国海海域及空域自由航行的正义斗争。
如果您支持这些声明,请通过以下电子邮件地址提供您的联系信息(姓氏和名字,职业,居住地点)biendongtuyenbo@gmail.com.
Deutsche Version

ERKLÄRUNG VON BÜRGERN UND ZIVILGESELLSCHAFTLICHEN ORGANISATIONEN VIETNAMS ÜBER DIE HOHEITLICHE SOUVERÄNITÄT ÜBER VIETNAMESISCHE GEWÄSSER UND INSELN

Ho-Chi-Minh-Stadt, den 27. Juni 2017

Anläßlich eines Staatsbesuchs in Vietnam hat ein chinesischer Staatsmann, General Fan Changlong, zum ersten Mal gegenüber der vietnamesischen Staatsführung offiziell erklärt, dass “das Ostmeer seit Altertum zu China” gehöre. Das war eine Aussage, die nicht einmal der chinesische Präsident Xi Jinping in Vietnam auszusprechen wagte, sondern erst im Anschluss in Singapur, nachdem er Vietnam verlassen hatte.
Als Vertreter der chinesischen Expansionspolitik machte Fan Changlong einen neuen Schritt in Richtung Provokation und Drohung gegen die vietnamesische Souveränität. Gleichzeitig greift China an verschiedenen Orten im Meeres- und im Landesgebiet Vietnams an.
Das fried- und Freundschaft liebende, kriegsleidgeprüfte Volk Vietnams ist furchtlos und entschlossen, auf diese Expansion der chinesischen Machthaber zu antworten, was sich in der tausendjährigen Geschichte des Widerstands gegen die chinesische Aggression mehrfach bewährt hat.
Wir, die Bürger und zivilgesellschaftlichen Organisationen Vietnams, erklären hiermit feierlich:
1. Wir protestieren und verurteilen die gegenwärtigen aggressiven Aktivitäten der Pekinger Machthaber zu Wasser und zu Lande gegen Vietnam. Ein Antwort unsererseits zur Verteidigung des Landes wird unter allen Umständen erfolgen.
2. Zu jeder Zeit und über alle Differenzen hinweg steht das vietnamesische Volk einträchtig hinter allen Regierungen Vietnams im Kampf um die nationale Souveränität und gegen die Aggressoren.
– Auf der Friedenskonferenz von San Francisco im Jahr 1951 bekräftigte Trần Văn Hữu, Ministerpräsident der Republik Vietnam, die Position, dass die Paracel- und Spratly-Inselgruppe zu Vietnam gehören, und fand Anerkennung von der Konferenz.
– Die Republik Vietnam führte 1974 einen unbeugsamen, jedoch erfolglosen Kampf gegen die Annexion der Paracel-Inseln durch China.
– Nach der Wiedervereinigung hat die Sozialistische Republik Vietnam unter Generalsekretär Lê Duẩn im Jahr 1979 einen heldenhaften Verteidigungskrieg gegen den chinesischen Überfall auf 6 nördliche Provinzen geführt. Obwohl die 6 Paracel- und Spratly-Inseln noch immer von China annektiert sind, bekräftigte Premierminister Nguyễn Tấn Dũng im Jahr 2011 vor der Nationalversammlung die Hoheitsrechte Vietnams über die Paracel- und Spratly-Inselgruppe. Diesen Standpunkt bestätigt später die vietnamesische Regierung in verschiedenen Erklärungen. Auch die Nationalversammlung gibt offiziell zu, dass Vietnam immer noch unter seiner geschichtlichen Schuldigkeit zur Wiederherstellung der territorialen Integrität leidet.
Der Standpunkt des vietnamesischen Volkes und die andauernd konsequente Position respektiver Regierungen ist von historischer Konstanz. Der größenwahnsinnigen, zeitentrückten Begierde von den Expansionisten Xi Jinping, Fan Changlong und ihren Lakaien wird eine jämmerliche Abfuhr widerfahren.
3. Stets anerkennt das vietnamesische Volk in Dankbarkeit die Aufopferung der Armeen unterschiedlicher Zeiten, die das Vaterland gegen die Aggressoren gleich woher und unter welcher Flagge verteidigen.
4. Um die Verteidigungskräfte des Landes gegen Aggressionen zu verstärken, ist eine innenpolitische Konsolidierung unaufschiebbar. Alle vietnamesischen Bevölkerungsschichten beobachten gespannt und unterstützen die Bemühungen um die Säuberung des Staatsapparates und die Reformen in allen Bereichen wie Wirtschaft, Gesundheits- und Bildungswesen, Landesverteidigung, Rechtssystem, insbesondere die Neugestaltung der Armee, die Beseitigung irregulärer Gruppeninteressen, die Reorganisation des bürokratischen Verwaltungssystems, die Bekämpfung der Korruption. Vor allem geht es um die Überwindung der rückständigen, illusorischen Ideologie, die Überholung des Artikels 4 der Verfassung, um dadurch die Rolle der Nationalversammlung zu rektifizieren, die nationale Eintracht zu steigern und die Demokratie mit der zeitgemäßen Entwicklung Schritt halten zu lassen.
Vaterland über alles – in diesem Sinne lassen wir die Vergangenheit beiseite und akzeptieren die Differenzen.
Wir appellieren an alle Bevölkerungsschichten, zivilgesellschaftlichen Organisationen, Personen der Staatsorgane und Auslandsvietnamesen, dass Sie diese Erklärungen unterstützen.
Wir appellieren an die Menschen aller Länder, dass Sie unseren gerechten Kampf für die Verteidigung der nationalen Souveränität im Einklang mit dem Völkerrecht, für den Schutz der Ressourcen aus dem Meer, für die Sicherung freier See- und Luftwege durch das Ostmeer unterstützen.
Unterstützen Sie diese Erklärungen mit Ihrer Unterschrift per E-Mail anbiendongtuyenbo@gmail.com

DANH SÁCH KÝ TÊN
I. Hội đoàn tổ chức xã hội dân sự

Đợt 1
1. Ban Vận động thành lập Văn đoàn Độc lập Việt Nam do nhà văn Nguyên Ngọc đại diện
2. Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng do ông Lê Thân, Chủ nhiệm Câu lạc bộ, đại diện
3. Diễn đàn Xã hội Dân sự do TS Nguyễn Quang A đại diện
4. Người Bảo vệ Nhân quyền (Defend the Defenders) do ông Vũ Quốc Ngữ đại diện
5. Mạng lưới Các Tổ chức Xã hội Dân sự Độc lập (Vietnam Independent Civil Society Organizations – VICSON) do ông Vũ Quốc Ngữ đại diện 
6. Câu lạc bộ Phan Tây Hồ do TS Hà Sĩ Phu và cán bộ cộng sản Tiền khởi nghĩa Đoàn Nhật Hồng đại diện
7. Diễn đàn Bauxite Việt Nam do GS Phạm Xuân Yêm và GS Nguyễn Huệ Chi đại diện
Đợt 2
8. Tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam tại Úc, Hoa Kỳ và Canada do ông Trần Đông, Tổng Giám Đốc & Sáng lập viên đại diện
9. Ban Hỗ Trợ Nạn Nhân Ô Nhiễm Biển Môi Trường Biển Giáo Phận Vinh. Đại diện: Linh Mục Giuse Phan Sĩ Phương, Trưởng ban
10. Ban Công Lý và Hòa Bình Giáo Phận Vinh. Đại diện: Linh mục Ant Nguyễn Văn Đính, Trưởng ban

II. Cá nhân
Đợt 1
1. Nguyễn Quang A, TSKH, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
2. Hồ An, nhà báo, Sài Gòn
3. Vũ Hồng Ánh, nghệ sĩ, Sài Gòn 
4. Lại Nguyên Ân, nhà nghiên cứu độc lập, Hà Nội
5. Nguyễn Trọng Bách, kỹ sư động lực, Nam Định
6. Trần Văn Bang, kỹ sư, cựu chiến binh chống Trung Quốc xâm lược, Sài Gòn
7. Nguyễn Nguyên Bình, Nhà văn, Hà Nội
8. Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
9. Nguyễn Huệ Chi, GS, hưu trí, Hà Nội
10. Nguyễn Kim Chi, nghệ sĩ, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
11. Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động, Hoa Kỳ
12. Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn, nhà báo, Sài Gòn
13. Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn tự do, Đà Lạt
14. Nguyễn Trung Dân, nhà báo, Sài Gòn
15. Nguyễn Đắc Diên, bác sĩ, Sài Gòn 
16. Nguyễn Xuân Diện, TS, Hà Nội
17. Hoàng Dũng, PGS TS, Sài Gòn
18. Nguyễn Duy, nhà thơ, Sài Gòn
19. Lê Công Định, luật sư, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
20. Trần Tiến Đức, nhà báo độc lập, đạo diễn truyền hình và phim tài liệu, Hà Nội
21. Phạm Nam Hải, Hà Nội
22. Nguyễn Trần Hải, cựu sĩ quan Hải quân Nhân dân Việt Nam, Hải Phòng
23. Chu Hảo, Viện trưởng Viện Phan Châu Trinh, Hội An, Quảng Nam
24. Đặng Thị Hảo, TS, hưu trí, Hà Nội
25. Nguyễn Thị Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp
26. Vũ Thư Hiên, nhà văn, Pháp 
27. Bùi Hiền, nhà thơ, Canada
28. Ngô Kim Hoa (Sương Quỳnh), nhà báo tự do, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
29. Đoàn Nhật Hồng, nguyên Giám đốc Sở Giáo dục Lâm Đồng, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Đà Lạt
30. Lại Thị Ánh Hồng, nghệ sĩ, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
31. Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục Giáo phận Vinh
32. Nguyễn Đăng Hưng, GS Danh dự Đại học Liège, Bỉ, cư ngụ tại Sài Gòn
33. Hoàng Hưng, nhà thơ, dịch giả, Sài Gòn
34. Đoàn Thị Thu Hương, nội trợ, Sài Gòn 
35. Lê Phú Khải, nhà báo, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
36. Lê Xuân Khoa, GS, Hoa Kỳ
37. Mai Thái Lĩnh, nhà nghiên cứu, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Đà Lạt
38. Lê Khánh Luận, tiến sĩ toán, nhà thơ, nguyên GV ĐH KT Tp.HCM
39. Phan Đắc Lữ, nhà thơ, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
40. André Menras – Hồ Cương Quyết, nhà giáo Pháp-Việt, Pháp
41. Gioan Baotixita Huỳnh Công Minh, linh mục Giáo phận Sài Gòn
42. Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn giải phóng, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
43. Nguyên Ngọc, nhà văn, Hội An
44. Nguyễn Đình Nguyên, TS Y khoa, Australia
45. Nguyễn Quang Nhàn, cán bộ hưu trí Đà Lạt, Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Đà Lạt
46. Ý Nhi, nhà thơ, Sài Gòn
47. Hồ Ngọc Nhuận, nhà báo, dân biểu đối lập thời VNCH, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của thành phố Hồ Chí Minh, Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
48. Phan Hoàng Oanh, giảng viên đại học, Sài Gòn 
49. Bùi Oanh, giáo viên, đã nghỉ hưu, Sài Gòn 
50. Hà Sĩ Phu, TS, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Đà Lạt
51. Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, Hội An
52. Tô Lê Sơn, kỹ sư, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
53. Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp
54. Võ Văn Tạo, nhà báo, Nha Trang 
55. Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, Sài Gòn
56. Phạm Thành, nhà báo, nhà văn, Hà Nội
57. Trần Minh Thảo, viết văn, thành viên Câu lạc bộ Phan Tây Hồ, Bảo Lộc, Lâm Đồng
58. Lê Thân, cựu tù chính trị Côn Đảo, Chủ nhiệm Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
59. Đào Tiến Thi, nhà nghiên cứu văn học và ngôn ngữ, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
60. Võ Văn Thôn, nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TP HCM, thành viên Câu lạc bộ Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
61. Đào Công Tiến, nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TpHCM
62. Đoàn Văn Tiết, nhà giáo, Sài Gòn
63. Mạc Văn Trang, tiến sĩ tâm lý học, Hà Nội
64. Nguyễn Thị Khánh Trâm, hưu trí, Sài Gòn 
65. David Tran, GS, Hoa Kỳ
66. Phạm Đình Trọng, nhà văn, Sài Gòn
67. Phạm Nguyên Trường, dịch giả, Vũng Tàu
68. Trần Ngọc Tuấn, nhà văn, nhà báo, Praha, Czech
69. Hà Quang Vinh, hưu trí, Sài Gòn
70. Nguyễn Ngọc Xuân, làm vườn, đã nghỉ hưu, Bà Rịa – Vũng Tàu
71. Phạm Xuân Yêm, GS, hưu trí, Paris
Đợt 2
72. Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, Sài Gòn.
73. Hạ Đình Nguyên, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
74. Cao Lập, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
75. Lê Anh Hùng, nhà báo tự do, Hà Nội
76. Đoàn Đức Phương, giáo viên, Sài Gòn
77. Nguyễn Đình Ấm, nhà báo, Hà Nội
78. Nguyễn Thu Giang, hưu trí, nguyên Phó Giám đốc Sở Tư pháp TP Hồ Chí Minh
79. Phạm Hữu Tình, luật sư, Bình Dương.
80. Khổng Hy Thiêm, kỹ sư Điện, Khánh Hòa.
81. Bùi Thị Minh Hằng, cựu tù nhân lương tâm, Vũng Tàu
82. Phạm Khiêm Ích, nghiên cứu khoa học, Hà Nội
83. Lê Tuấn Huy, TS, TPHCM
84. Nguyễn Thế Hùng, GSTS, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam
85. Nguyễn Văn Đức, lao động tự do, Sài Gòn
86. Nguyễn Ngọc Dũng, công dân Việt Nam, TPHCM
87. Đinh An, kỹ sư Chế tạo máy, Hà Nội
88. Nguyễn Văn Tiên, kỹ sư Tư vấn Môi trường, Bình Dương
89. Vinh Anh, cựu chiến binh, Hà Nội
90. Mã Lam, Nhà thơ, Sài Gòn
91. Nguyễn Lệ Uyên, nhà văn, Sài Gòn
92. Phạm Gia Minh, TS Kinh tế, Hà Nội
93. Nguyễn Thượng Long, giáo viên hưu trí, Hà Nội
94. Bùi Minh Quốc, nhà báo, Đà Lạt
95. Hồ Quang Huy, kỹ sư đường sắt CTCP đường sắt Phú Khánh, TP Nha Trang
96. Nguyễn Văn Lượm, nghề nghiệp tự do, TP Nha Trang
97. Chu Sơn, công dân Việt Nam, TPHCM
98. Nguyễn Thị Kim Thoa, công dân Việt Nam, TPHCM
99. Nguyễn Văn Sơn (Son Nguyen), về hưu, Hoa Kỳ
100. Huỳnh Nhật Hải, hưu trí, Đà Lạt
101. Huỳnh Nhật Tấn, hưu trí, Đà Lạt
102. Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội
103. Trần Thiện Kế, dược sĩ, Hà Nội
104. Hoàng Ngọc Đính, cựu sĩ quan QLVNCH, Đà Lạt
105. Đào Minh Châu, Hà Nội
106. Nguyễn Lạc, doanh nhân, Hội Sinh viên Sài Gòn Gia Định
107. Nguyễn Tiến Đức, nghỉ hưu tại TPHCM
108. Nguyễn Trọng Cương, Học viện Nông nghiệp Việt Nam
109. Trần Thanh Vân, kiến trúc sư, Hà Nội
110. Đồng Quang Vinh, hưu trí, Nha Trang, Khánh Hòa
111. Phạm Minh Đức, kỹ sư Cơ khí, Hà Nội
112. Nguyễn Đào Trường, hưu trí, Hải Dương
113. Nguyễn Văn Lịch, hưu trí, Hà Nội
114. Hoàng Quý Thân, PGSTS, hưu trí, Hà Nội
115. Phạm Văn Chung, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội
116. Trần Viết Tuyên, kiến trúc sư, nghỉ hưu, Hamburg, CHLB Đức
117. Trần Thế Tuấn, Đại học Sư phạm, Đại học Quốc gia Việt Nam, Hà Nội
118. Ngô Kim Dung, bác sĩ, Pháp
119. Phan Quốc Tuyên, kỹ sư Tin học, Genève, Thụy Sĩ
120. Phạm Vương Ánh, kỹ sư Kinh tế, cựu sĩ quan QĐNDVN, Nghệ An 
121. Doãn Mạnh Dũng, kỹ sư, Phó Chủ tịch, Tổng thư ký Hội Khoa học Kỹ thuật và Kinh tế Biển TPHCM
122. Lê Quỳnh, nhà báo, Sài Gòn
123. Nguyễn Huy Canh, giáo viên hưu trí, Hải Phòng
124. Hoàng Thị Như Hoa, bộ đội xuất ngũ, Hà Nội
125. Tô Oanh, giáo viên đã nghỉ hưu, TP Bắc Giang
126. Nguyễn Văn Hồng, giáo viên đã nghỉ hưu, Bắc Ninh
127. Hà Văn Thùy, nhà văn, TPHCM
128. Lê Văn Ngọ, cán bộ hưu trí tại Nha Trang
129. Uông Đình Đức, hưu trí, TPHCM
130. Phan Châu Danh, thạc sĩ Quản lý Kinh doanh & Quản lý Chất lượng, kinh doanh tự do tại Bỉ
131. Hoàng Xuân Sơn, nhà thơ, Canada
132. Lý Đăng Thạnh, Người chép Sử, Sài Gòn
133. Trần Minh Quốc, nguyên giáo sư chuyên khoa Sử-Địa trước năm 1975, Sài Gòn
134. Trương Thế Kỷ, München, CHLB Đức
135. Cao Xuân Lý, nhà văn, Australia
136. Hoàng Thanh Linh, thạc sĩ, Sài Gòn
137. Nguyễn Trọng Hoàng, bác sĩ, Pháp
138. Trần Văn Hoàng, Canada
139. Nguyễn Văn Nghi, TS, Hà Nội
140. Lê Mai Đậu, kỹ sư, Hà Nội
141. Phan Văn Quý, kiến trúc sư, Sài Gòn 
142. Nguyễn Diễm Quyên, kinh doanh, TPHCM
143. Đỗ Quốc Minh, Thủ Đức, Sài Gòn
144. Nguyễn Thị Xuyến, Bình Dương
145. Ngô Trường Hải, Buôn Ma Thuột
146. Huỳnh Thanh Thương, công dân Việt Nam, Sài Gòn
147. Trần Đình Sử, GSTS, Hà Nội
148. Nguyễn Phúc Thành, dịch giả, Sài Gòn
149. Nguyễn Đức Quỳ, cựu giáo chức, Hà Nội
150. Phùng Hoài Ngọc, thạc sĩ, An Giang
151. Đặng Đăng Phước, giáo viên, Đăk Lăk
152. Lê Phước Nhất Sang, kế toán, Sài Gòn
153. Trần Đình Tuấn, nghiên cứu văn hoá dân gian độc lập, Hà Nội
154. Hà Thúc Huy, PGSTS Hóa học, Sài Gòn
155. Vũ Ngọc Lân, kỹ sư Luyện kim, Hà Nội
156. Trần Quốc Túy, kỹ sư Hóa, đã nghỉ hưu, Hà Nội.
157. Anh N Tran, giáo chức, hưu trí, Hoa Kỳ
158. Bùi Hồng Mạnh, biên dịch tự do, cử nhân Hóa học, cựu sĩ quan “79”, QĐNDVN, Munich, CHLB Đức
159. Lê Hải, nghệ sĩ nhiếp ảnh, Đà Nẵng
160. Nguyễn Chính, luật gia, nhà báo, Nha Trang 
161. Lê Thăng Long, kỹ sư, doanh nhân, Sài Gòn
162. Tống Hồ Huấn, Mục sư nhà thờ, Auckland, New Zealand
163. Nguyễn Thu Hoà, kế toán viên, Auckland, New Zealand
164. Nguyễn Rose Hồng, Truyền đạo Hội Thánh Elim, Auckland, New Zealand
165. Nguyễn Khánh Việt, cán bộ hưu trí, Hà Nội
166. Trần Hữu Khánh, hưu trí, TPHCM
167. Jane Nguyen, Hoa Kỳ
168. Hồ Hữu Nghị, kỹ sư dự án, TPHCM
169. Hồ Sĩ Phú, kỹ sư cơ khí, Quy Nhơn
170. Hồ Trọng Đễ, giáo viên nghỉ hưu, TPHCM
171. Trần Đình Sơn, giảng viên Toán, Anh Quốc
172. Uông-Nguyễn Thị Xuân Hương, Thụy Sĩ
173. Tư Đồ Tuệ, Canada
174. Trần Đông, Tổng Giám Đốc & Sáng lập viên Tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam tại Úc, Hoa Kỳ và Canada
175. Bùi Tiến An, cựu tù Côn Đảo, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
176. Thiều Thị Tân, cựu tù Côn Đảo, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn 
177. Nguyễn Thúy Hạnh, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
178. Ant. Nguyễn Thanh Tịnh, Linh mục quản xứ Cồn Sẻ, Giáo phận Vinh.
179. Giuse Phan Sĩ Phương, Linh mục quản hạt Cửa Lò, Giáo phận Vinh
180. Giuse Nguyễn Công Bắc, Linh mục quản hạt Cầu Rầm, Giáo phận Vinh
181. Ant. Nguyễn Văn Đính, Linh mục quản hạt Thuận Nghĩa, Giáo phận Vinh
182. GB. Bùi Khiêm Cường, Linh mục quản xứ Đông Sơn, Giáo phận Vinh
183. GB. Nguyễn Đình Thục, Linh mục quản xứ Song Ngọc, Giáo phận Vinh
Đợt 3
184. Đặng Hữu Nam, Linh mục Giáo phận Vinh
185. Paul Nguyễn Minh Sáng, Linh mục Giáo xứ Phù Kinh, Giáo phận Vinh
186. Fx. Nguyễn Hồng Ân, Linh mục Giáo phận Vinh 
187. Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức yêu nước TP HCM, Chủ tịch danh dự CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
188. Lê Công Giàu, hưu trí, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
189. Huỳnh Tấn Mẫm, bác sĩ, cựu Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn trước năm 75, cựu ủy viên MTTQ TP HCM, cựu Tổng Biên tập báo Thanh Niên, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
190. Liệt Kha, thành viên CLB Lê Hiếu Đằng, Sài Gòn
191. Nguyễn Phục Hưng, kỹ sư Điện, TPHCM
192. Vũ Giang, Hoa Kỳ
193. Nghiêm Hồng Sơn, nghiên cứu viên cao cấp, Đại học Công nghệ Queensland, Australia
194. Trương Chí Tâm, cựu chiến binh chiến trường Campuchia, cử nhân y khoa, Sài Gòn
195. Lê Thị Lệ Hằng, nội trợ, Sài Gòn
196. Triệu Sang, thương phế binh VNCH, Sóc Trăng
197. Nguyễn Ngọc Tâm, kinh doanh tự do, Nghi Lộc, Nghệ An
198. Lê Thị Kiều Oanh, Sài Gòn
199. Nguyễn Văn Trợ, TPHCM
200. Hồ Sỹ Hải, cựu chiến binh, kỹ sư, nghỉ hưu, Hà Nội
201. Đaminh Lê Thanh Trưởng, Linh mục Giáo phận Xuân Lộc
202. Phê rô Nguyễn Đức Manh, sinh viên Đại học Huế, Quảng Bình
203. Phê rô Nguyễn Đạo, sinh viên Đại học Đà Nẵng, Quảng Bình
204. Nguyễn Văn Vinh, hưu trí, Hà Nội
205. Trần Kim Thập, giáo chức, Australia 
206. Hanh.M.Tran, Australia
207. Chi To, Australia
208. May Dang, Australia
209. Thao Nguyen, Australia
210. Hoa Nguyen, Australia
211. Jane Pham, Australia
212. Jasmine Tran, Pháp
213. Tallys Tran, Pháp
214. Trần Quốc Hùng, TPHCM
215. Nguyễn Ngọc Tâm, Giáo xứ Trang Cảnh, hạt Cửa Lò, Giáo phận Vinh
216. Hoàng Văn Khẩn, TS Sinh Hoá học, Thụy Sĩ
217. Phạm Ngọc Kỳ, TS, kiến trúc sư, Berlin, CHLB Đức
218. Trần Văn Tân, kỹ sư, Berlin, CHLB Đức
219. Đặng Quốc Tuấn, lao động tự do, Hà Nội
220. Đinh Đức Long, TS, bác sĩ, Sài Gòn
221. Chu Quốc Khánh, kỹ sư Điện tử, cử nhân Kinh tế, Hà Nội
222. Hoàng Minh Cảnh, Quảng Bình
223. Nguyễn Duy Oai, giáo dân giáo xứ Trang Nứa, Giáo phận Vinh
224. Nguyễn Đăng Cao Đại, Th.sĩ Quản lý Dự án, Sài Gòn 
225. Võ Trường Phú, kỹ sư Xây dựng, Hà Tĩnh
226. Nguyễn Tiến Đạt, hỗ trợ kỹ thuật FPT, Sài Gòn
227. Vinh Nguyễn, Hoa Kỳ
228. Kimdzung Nguyễn, Hoa Kỳ
229. Trần Xuân Huyền, công dân tự do, Anh Quốc
230. Nguyễn Peng, công tác xã hội, Sài Gòn
231. Quan Vinh, chuyên viên tin học, Italy
232. Lê Đình Hồng, kế toán, Canada
233. Lê Thị Nhân, nội trợ, Canada
234. Phan Văn Song, cựu giáo viên, Australia
235. Phạm Anh Tuấn, kỹ sư, Australia
236. Tri Nguyen, Australia
237. Kim Anh Hoang, Australia
238. Nguyễn Sỹ Kiệt, TS Khoa học Kỹ thuật, cán bộ hưu trí, T HCM
239. Nguyễn Văn Ly (Tư Kết), nguyên thư ký Bí thư Thành ủy TPHCM Mai Chí Thọ, hưu trí, Sài Gòn
240. Lê Kim-Song, TS, Australia
241. Nguyễn Thị Hạnh, hưu trí, TpHCM.
242. Lê Văn Oanh, kỹ sư Xây dựng, Hà Nội
243. Vu Dinh Bon, TS, kỹ sư Công chánh, Hoa Kỳ
244. Đặng Viết Trường, nhà báo, Hà Nội
245. Phạm Ngọc Thái, nhà thơ, Hà Nội
246. Trần Hưng Thịnh, kỹ sư, đã nghỉ hưu, Hà Nội
247. Vũ Trọng Khải, chuyên gia Kinh tế Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, TPHCM
248. Paul Trần Minh Nhật, cựu tù nhân lương tâm, Đà Lạt, Lâm Đồng

Tranh cãi việc đổ 1 triệu m3 bùn cát gần Hòn Cau – BBC Tiếng Việt

From facebook:  BBC Vietnamese

 
 

Hôm 4/7, Thứ trưởng Bộ TNMT Nguyễn Linh Ngọc đã giải thích với báo chí về quyết định cấp phép hôm 28/6 cho phép Nhiệt điện Vĩnh Tân đổ 1 triệu m3 bùn cát nạo vét xuống lòng biển.

Việc nhận chìm khối lượng lớn chất nạo vét để xây dựng một nhà máy nhiệt điện than do Trung Quốc đầu tư gây xôn xao dư luận, vì khu vực nhận chìm bùn cát nạo vét gần khu bảo tồn biển Hòn Cau.

Tuy nhiên tiến sĩ Nguyễn Tác An, Phó Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật biển Việt Nam cho rằng những lời giải thích của thứ trưởng là “không khoa học,” “không hiểu gì về sự sống ở đại dương.”

 
 
 
 
Ý kiến trái chiều về tin Việt Nam cấp phép cho công ty Nhiệt điện Vĩnh Tân 1 đổ khối lượng lớn bùn cát xuống biển.
 
BBC.COM|BY BBC NEWS
 

Nhờ ánh sáng của bạo lực cắt mạng và “ơn bác, ơn đảng” chúng cháu chém rơi đầu nhau

 Nhờ ánh sáng của bạo lực cắt mạng và “ơn bác, ơn đảng” chúng cháu chém rơi đầu nhau

Dân Đen (Danlambao) – Tổ chức khủng bố hồi giáo tại các nước Ả Rập đã và đang là mối kinh hoàng của cả thế giới. Những kẻ khủng bố gieo rắc nỗi sợ bằng những đợt đánh bom cảm tử hoặc những cuộc tấn công man rợ nhắm vào nơi đông người. Nhưng có lẽ ghê rợn nhất trong cách mà tổ chức khủng bố áp dụng là việc hành hình nạn nhân bằng cách chặt đầu. Hành vi khủng khiếp ấy tưởng chừng chỉ xảy ra tại những nơi mà tổ chức khủng bố chiếm giữ để sát hại các con tin của chúng. Tuy nhiên hành vi khủng khiếp ấy lại được thực hiện ngay tại một đất nước luôn tự huyễn hoặc là thiên đường, là một quốc gia hạnh phúc, là một dân tộc ngàn năm văn hiến. Đó chính là Việt Nam đang bị làm cái đuôi cho cái “thiên đường” cộng hòa xã hội chủ nghĩa.

Chắc chắn không ít người cảm thấy rùng mình khi đọc bản tin “kinh hoàng nam thanh niên bị chém lìa đầu trong đêm” được đăng tải trên các trang báo trong nước. Việc này được nhận định là một cuộc ẩu đả sau những mâu thuẫn cá nhân của một số thanh niên trên địa bản tỉnh Vĩnh Phúc. Tình tiết của sự việc đã gióng lên hồi chuông cảnh báo về tương quan hành xử giữa con người với nhau. Đây chắc chắn không phải là một vụ thanh toán được sắp đặt hay lên kế hoạch hành động, nó chỉ đơn giản là cách xử lý một vụ mâu thuẫn cá nhân. Tuy nhiên hành động chém lìa đầu một người không phải là việc làm dễ dàng ngay cả đối với những sát thủ chuyên nghiệp.

Điều đáng suy nghĩ ở đây là tại sao con người Việt Nam ngày càng trở nên tàn ác đối với đồng loại. Những thông tin về các vụ án cướp, giết, hiếp vẫn đầy dẫy trên các trang báo của nhà nước, nhưng các chuyên gia tâm lý cũng khó có thể lý giải nguyên nhân tại sao người Việt ngày nay lại có những hành động đáng ghê sợ như thế. Phải chăng người dân Việt Nam đang chọn cho mình một lối sống theo xu hướng bạo lực để tự vệ trước tất cả sự việc ảnh hưởng đến bản thân.

Một ông phó giáo sư tiến sĩ nọ thản nhiên cầm gạch đập vỡ kính xe ô tô của người lạ dám đậu xe trước sân nhà mình. Hai cán bộ đảng viên kia sẵn sàng choảng nhau đổ máu ngay chốn công sở cơ thi hành luật pháp. Ba, bốn học sinh ấy thay nhau đánh đập, lột đồ bạn học, quay clip tung lên mạng chỉ vì “mày dám thích bạn trai của tao”. Và các “đồng chí” lạnh lùng bắn vào đầu “đồng bọn” cùng đảng tại Yên Bái vì tranh giành quyền lực, ghen tức lẫn nhau.

Đã hơn 40 năm đất nước “thống nhất” dưới sự độc tôn cướp quyền lãnh đạo của đảng cộng sản, những hình ảnh con người ngày nay chém giết, hãm hại nhau lại trở nên phổ biến trong cuộc sống hằng ngày. Không ai khác, chính đảng cộng sản với chủ trương bạo lực cách mạng, với nền giáo dục nhồi sọ lòng căm thù, với bộ máy tuyên truyền sặc mùi giáo Mác và mủi Lê, những thế hệ Việt Nam đã sinh ra và lớn lên trong cái địa ngục cộng sản được tuyên truyền là thiên đàng, đã bị đảng làm mất hết nhân tính. “Nhìn tổng quan đất nước mình có bao giờ được như thế này”. Câu nói này của tổng bí thư cộng sản đảng Nguyễn Phú Trọng có lẽ là câu trả lời xác đáng nhất cho hiện trạng đất nước ngày nay mà người dân đang sống ngập ngụa trong dối trá và dã man là nhờ ở “ơn bác, ơn đảng” và “truyền thống bạo lực cắt mạng”.

04.07.2017

Dân Đen

danlambaovn.blogspot.com

Đức hối thúc Trung Quốc cho Lưu Hiểu Ba đi nước ngoài chữa bệnh

Đức hối thúc Trung Quốc cho Lưu Hiểu Ba đi nước ngoài chữa bệnh


Hình ảnh xuất hiện trên mạng vào cuối tuần trước cho thấy ông Lưu Hiểu Ba dường như đang trong tình trạng ổn định.

Hình ảnh xuất hiện trên mạng vào cuối tuần trước cho thấy ông Lưu Hiểu Ba dường như đang trong tình trạng ổn định.

Trung Quốc nói rằng nhà bất đồng chính kiến này bị bệnh quá nặng không rời khỏi đất nước được, nhưng hôm thứ Hai bạn của ông Lưu và nhà bất đồng chính kiến Hồ Gia nói một đoạn video xuất hiện trên YouTube vào cuối tuần trước cho thấy ông Lưu dường như đang trong tình trạng ổn định.

“Chúng tôi hoan nghênh việc ông Lưu Hiểu Ba được phóng thích để được điều trị y tế,” phát ngôn viên Chính phủ Đức Steffen Seibert nói, lưu ý về tin tức cho biết có những yêu cầu để hai vợ chồng ông Lưu được đi nước ngoài. “Chính phủ tin rằng trong tình thế khó khăn như vậy, một giải pháp nhân đạo cho ông Lưu Hiểu Ba nên là ưu tiên hàng đầu.”

Ông Lưu là nhà thơ và nhà hoạt động nhân quyền, bị bắt sau khi viết Hiến chương ’08, một tuyên ngôn kêu gọi cải cách dân chủ tại Trung Quốc. Ông được trao giải Nobel Hòa bình vào năm 2010 cho chiến dịch đấu tranh của ông vì dân chủ và nhân quyền.

Có được thông tin đáng tin cậy, độc lập về tình trạng của ông Lưu và mong muốn đi nước ngoài của ông là điều khó khăn, vì ông và vợ, Lưu Hà, đã bị chính quyền cô lập nên bạn bè và giới truyền thông không thể tiếp cận.

Dù hai vợ chồng chưa công khai bày tỏ ý muốn ra nước ngoài, bạn bè của họ tin rằng họ muốn đi, dựa trên những điều mà trước đây bà Lưu Hà đã cho bạn bè của bà biết.

Ông Lưu đã bị kết án 11 năm tù về tội “kích động lật đổ quyền hành nhà nước.” Luật này thường bị nhà chức trách Trung Quốc sử dụng để làm im tiếng những nhà bất đồng chính kiến.

Ẩu đả, một thanh niên ở Vĩnh Phúc bị chém đứt đầu

Ẩu đả, một thanh niên ở Vĩnh Phúc bị chém đứt đầu

Ông Nguyễn Sơn Hà, người chứng kiến vụ việc, chia sẻ với phóng viên. (Hình: Báo điện tử VietNamNet)

VĨNH PHÚC, Việt Nam (NV) – Trong đêm, nhiều người dân ở thị trấn Hương Canh (huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc) bàng hoàng khi phát hiện một nam thanh niên bị chém đứt lìa đầu sau trận ẩu đả.

Ông Đỗ Thái Học, chánh văn phòng công an tỉnh Vĩnh Phúc, xác nhận công an đã bắt giữ nhóm người chém chết ông Nguyễn Minh Toàn (26 tuổi, trú ở thị trấn Hương Canh).

Philippines: hai người VN bị nhóm Abu Sayyaf chặt đầu

Philippines: hai người VN bị nhóm Abu Sayyaf chặt đầu

  • BBC    hồi giáo
  • Bản quyền hình ảnhABU SAYYAF
Abu Sayyaf thề trung thành với Nhà nước Hồi giáo

Hai người đàn ông Việt Nam bị tổ chức Hồi giáo Abu Sayyaf chặt đầu, quân đội Philippines cho hay.

Thi thể của họ được tìm thấy trên đảo Basilan, miền Nam Philippines, nơi nhóm đặt căn cứ.

Hai nạn nhân thuộc nhóm sáu thuyền viên Việt Nam bị các chiến binh bắt cóc vào năm ngoái.

Phiến quân Hồi giáo đang trỗi dậy tại miền Nam Philippines, gần đây là cuộc chiến tại thành phố Marawi cướp đi sinh mạng của hơn 400 người từ tháng 5/2017.

“Binh lính của chúng tôi tìm thấy những thi thể không đầu sau khi cư dân địa phương báo tin”, quân đội Philippines nói với AFP.

Ba trong số các con tin được cho là vẫn đang bị cầm giữ trong khi một người được trả tự do vào tháng trước.

 
Philippines truy quét chiến binh Hồi giáo

Abu Sayyaf là một trong các các nhóm thánh chiến nhỏ nhất nhưng bạo lực nhất ở miền Nam Philippines, được biết đến qua các vụ bắt cóc đòi tiền chuộc và mức độ tàn bạo, gồm việc chặt đầu nạn nhân.

Tổ chức này thề trung thành với Nhà nước Hồi giáo và đã tiến hành những vụ bắt cóc cả người nước ngoài và người Philippines.

Tháng 2/2017, nhóm này chặt đầu một con tin người Đức sau khi gia đình người này không trả tiền chuộc.

Năm 2016, một con tin người Canada bị chặt đầu.

Theo cảnh sát, Abu Sayyaf được cho là đang giam giữ tổng cộng 22 con tin, trong đó có 16 người nước ngoài.

Abu Sayyaf được lập vào thập niên 1990.

Tại thành phố Marawi, cuộc chiến giữa một nhóm Hồi giáo khác, phiến quân Maute và quân đội diễn ra từ tháng 5/2017.

Tư tưởng của giới luật sư lại bị “siết”?

Tư tưởng của giới luật sư lại bị “siết”?

Cát Linh, RFA
 

Việc thông qua Điều 19, Luật sư tố cáo thân chủ, vẫn còn đang tạo nên làn sóng tranh cãi lẫn bức xúc trong dư luận, thì ngày 3 tháng 7, một bài viết trên báo Pháp luật với tiêu đề “Luật sư không được nói bậy trên mạng” một lần nữa khiến giới luật sư phải có ý kiến.

Sai nội dung

Ngay sau khi bài viết được đang tải, luật sư Trần Vũ Hải viết trên trang cá nhân của ông rằng: “Tiêu đề của báo Pháp luật TPHCM ghi không đúng ý của Bộ Tư Pháp, và thiếu tôn trọng giới luật sư.

Theo dự thảo của Bộ Tư Pháp, luật sư muốn hành nghề, phải chấp nhận mất quyền công dân- “mở mồm” phê phán các cơ quan chức năng trên mạng xã hội.”

Và ông đưa ra lời kêu gọi: “Có lẽ các đồng nghiệp chúng ta cần gặp gỡ, đối thoại với ông này, để hiểu giới luật sư hành nghề ra sao, và nếu ông cấm luật sư “mở mồm”, dân chúng sẽ đánh giá thế nào về giới luật sư?”

Nội dung chính của bài viết “Luật sư không được nói bậy trên mạng” đăng tải trên tờ báo Pháp luật đề cập đến Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định 123/2013 của chính phủ. Theo đó, Bộ Tư pháp cho rằng tổ chức và hoạt động của luật sư thời gian qua có vướng mắc, bất cập. Luật Luật sư đã quy định tiêu chuẩn về chuyên môn để trở thành luật sư nhưng chưa quy định cụ thể về các tiêu chuẩn liên quan đến phẩm chất đạo đức, tuân thủ pháp luật để hành nghề luật sư.

Không hoàn toàn đồng ý với điều này, luật sư Nguyễn Văn Hậu, Phó chủ tịch Hội Luật Gia TP.Hồ Chí Minh, Chủ tịch Trung tâm Tài chính Thương mại Luật gia Việt Nam cho biết cách diễn giải như thế sẽ gây ra những suy nghĩ sai lệch về qui trình đào tạo một luật sư, kể cả phẩm chất của một luật sư. Sư sai lệch đó sẽ được hiểu là từ trước đến nay, các tiêu chuẩn liên quan đến phẩm chất đạo đức, các quy định tuân thủ pháp luật để hành nghề luật sư chưa từng được định chế cụ thể trong các văn bản của pháp luật hoặc Bộ tư pháp.

Có lẽ các đồng nghiệp chúng ta cần gặp gỡ, đối thoại với ông này, để hiểu giới luật sư hành nghề ra sao, và nếu ông cấm luật sư “mở mồm”, dân chúng sẽ đánh giá thế nào về giới luật sư? – LS. Trần Vũ Hải

 

Cho nên theo ông, cần phải cụ thể hoá những quy định, nguyên tắc đã có sẵn trong Luật Luật sư.

“Viết như vậy là người ta sẽ hiểu lầm, và người ta sẽ nghĩ 1 ý khác. Nguyên tắc hành nghề luật sư đã 4 lần được Quốc hội sửa đổi để theo kịp các nước trên thế giới. Một trong những nguyên tắc hành nghề luật sư là họ là những người biết luật, cho nên 5 nguyên tắc đã quy định rõ trong luật, bây giờ mình phải cụ thể hoá ra là luật sư được làm những gì?

Khi họ hành nghề thì họ phải tuân thủ Luật Luật sư và tuân thủ qui tắc đạo đức.”

Theo Luật sư Nguyễn Văn Hậu, nguyên tắc luật sư hiện nay qui định khá đầy đủ nhưng chưa hết. Đối với quan điểm của ông, trong cuộc sống, ranh giới giữa sai và đúng rất mong manh. Chính vì vậy con người sẽ dễ dàng phạm phải sai lầm, chỉ cần một khoảnh khắc không tự chủ, họ sẽ vi phạm pháp luật. Và đặc biệt, ông nhấn mạnh, “khi biết luật, càng dễ phạm luật”. Do đó, theo ông rất cần có những ràng buộc cụ thể để bảo vệ quyền và lợi ích của người dân.

“Nếu mà không qui định thì họ dễ có 1 vấn đề, họ lợi dụng là họ biết nghề. Về những nguyên tắc hành nghề thì luật chỉ bao quát thôi, cho nên phải có những hướng dẫn. Nhưng những hướng dẫn đó không được xâm phạm những nguyên tắc mà luật đã qui định.”

Liên quan đến điều này, dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 123/2013 có nói là quy định chi tiết hoá những trường hợp bị coi là không đáp ứng đủ hiến pháp, pháp luật và tiêu chuẩn có phẩm chất đạo đức tốt.

Không rõ ràng

Một nội dung khác của dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 123/2013 riêng được nêu ra có vẻ như là cách giải thích chi tiết cho tiêu đề “Luật sư không được nói bậy” đó là “Phải phát ngôn chuẩn mực”. Bài viết ghi rõ:

“Luật sư không được ứng xử và phát ngôn trên phương tiện thông tin đại chúng, trang mạng xã hội, với các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác gây ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín nghề của luật sư, phương hại đến hoạt động của cơ quan tổ chức khác.”

Một lần nữa, luật sư Nguyễn Văn Hậu không đồng tình với cách dẫn giải của bài báo. Ông cho rằng cách nói như thế là không cần thiết vì không được đầy đủ và không đúng.

Dựa vào năm nguyên tắc hành nghề luật sư mà Luật Luật sư đã quy định, luật sư Nguyễn Văn Hậu nói rằng khi phát ngôn, người luật sư tuyệt đối không được xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, phát biểu những gì mà pháp luật cho phép. Đó là chuẩn mực đã được qui định đối với việc hành nghề luật sư.

“Trước hết, người luật sư phải tuân thủ pháp luật trước đã. Khi họ phát ngôn, họ phải chịu trách nhiệm về lời phát ngôn của mình. Khi anh phát ngôn, là luật sư thì phải phát ngôn 1 cách chính xác. Thứ nhất là đúng luật, thứ hai là phù hợp với đạo đức xã hội, khung cảnh mà anh phát biểu.”

Trước hết, người luật sư phải tuân thủ pháp luật trước đã. Khi họ phát ngôn, họ phải chịu trách nhiệm về lời phát ngôn của mình. – LS. Nguyễn Văn Hậu

Chính vì vậy, những nội dung nêu ra trong dự thảo sửa đổi, bổ sung Nghị định 123/2013 sau đó được giới luật sư bày tỏ sự bất bình khá rõ. Họ cho rằng nghị định và thông tư của Bộ tư pháp phải làm sao phù hợp với hiến pháp và phù hợp với luật luật sư.

Đồng tình với điều này, luật sư Nguyễn Văn Hậu chia sẻ.

“Anh sử dụng mạng xã hội thì cứ sử dụng thôi, nhưng sử dụng mạng xã hội mà xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp, xâm phạm bí mật đời tư, bí mật gia đình, đó là những quyền bất khả xâm phạm mà pháp luật đã qui định, thì trên mạng xã hội anh phải chịu trách nhiệm về điều đó.”

Thực tế gần đây cho thấy một số luật sư qua trang các nhân đưa ra một số thông tin, ý kiến liên quan đến các phiên toà và qua trang cá nhân của các luật sư đó, công luận có thể biết được nhiều chi tiết hơn nếu đó là phiên toà chính trị không ai được vào, ví dụ trang mạng xã hội của luật sư Võ An Đôn, luật sư Lê Luân… cho người quan tâm biết được những diễn biến bên trong phiên xử blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh. Ngoài ra, với nhiều diễn biến xảy ra gần đây trong xã hội Việt Nam, quan điểm của giới luật sư cũng được thể hiện rất rõ trên trang mạng cá nhân của họ.

Câu hỏi được mọi người đặt ra sau khi bài báo “Luật sư không được nói bậy trên mạng?”: Phải chăng đó chính là nguyên nhân? Mà luật sư Trần Vũ Hải gọi trên trang Facebook của ông là: “Bộ Tư Pháp muốn “siết” tư tưởng giới luật sư, sau khi đã đeo vòng kim cô 19.3 (luật sư phải tố thân chủ) cho giới này.”

NGUỒN GỐC CHỮ QUỐC NGỮ (VIỆT NAM)

 NGUỒN GỐC CHỮ QUỐC NGỮ (VIỆT NAM) 

CHỮ QUỐC NGỮ – Tiến sĩ Nguyễn Tường Bách (tại Đức)

Sự ra đời của chữ quốc ngữ – CHỮ QUỐC NGỮ

Lisboa – Bồ Đào Nha

Bồ Đào Nha là dân tộc của những người đi biển. Hơn thế nữa, từ xưa, họ là những người chịu bỏ xứ đi tha hường. Lisboa là cảng biển thiên nhiên duy nhất của bán đảo Iberia, từ trước công nguyên đã là một trung tâm chính trị và kinh tế. Lisboa nằm ngay trên cửa biển, hòa nước ngọt của sông Tejo vào nước mặn của Đại Tây Dương, mênh mông một màu nước, khơi gợi lòng viễn du của một dân tộc sẵn sàng lên đường. Thực vậy, kể từ thế kỷ thứ 15, khi tài đi biển của người Bồ Đào Nha lên đến đỉnh cao, quốc gia này bành trướng thành cường quốc số một ở Châu Âu, chiếm lĩnh nhiều thuộc địa ở Brazil, Châu Phi, Ả-rập, Ấn Độ và Trung Quốc. . .

Năm 1511 thuyền nhân Bồ Đào Nha bắt đầu nhắm đến Trung Quốc và Nhật Bản. Họ vòng từ miền nam Ấn Độ, đi đường biển dọc theo miền Trung Việt Nam để lên đảo Macau.

Nhà truyền giáo đến với cộng đồng bằng thuyền ở Việt Nam xưa
 
Hẳn họ đã dừng chân tại Hội An để buôn bán và tiếp tế lương thực, nên năm 1524 họ dựng một tấm bia đá ở cù lao Chàm. Song song, các nhà truyền giáo lần lượt đến Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam. Trong những năm cuối của thế kỷ thứ 16 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha của hai dòng thánh Francisco và Agustino đến Việt Nam, nhưng cuối cùng bỏ cuộc.
 
Đầu thế kỷ thứ 17 các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha lại đến Việt Nam một lần nữa và lần này họ thành công. Dòng Tên* chính thức được thành lập ở Đàng Trong năm 1615. Đàng Ngoài năm 1627. Trong giới giáo sĩ dòng Tên người Bồ có một nhân vật xuất sắc, đóng một vai trò lịch sử trong nền văn hóa Việt Nam, đó là Francisco de Pina. Pina sinh  năm 1585, đến Macau năm 1613, đặc biệt rất giỏi tiếng Nhật. Năm 1617 ông đến Đàng Trong truyền giáo và bắt đầu dịch một số văn bản của Ki Tô giáo ra tiếng Nôm, một thứ chữ Hán được bản địa hóa.. Thế nhưng Pina nhận thấy các nhà truyền giáo đồng nghiệp có một khó khăn trầm trọng , đó là họ không sao học được chữ Nôm. Chàng linh mục trẻ tuổi Pina thấy chữ Nôm không thể là phương tiện giao lưu với người bản xứ, ông nghĩ ra một cách đơn giản. Ông thử lắng nghe người Việt phát âm ra sao rồi dùng mẫu tự la tinh để diễn tả âm tiết theo cách mà tiếng Bồ Đào Nha thường làm. Đó là thời điểm khai sinh của chữ quốc ngữ chúng ta ngày nay. Theo lời xác nhận của chính Pina, kể từ năm 1622, ông đã xây dựng một hệ thống chuyển mẫu tự la tinh cho hợp với thanh điệu và lối phát âm của tiếng nói Viet Nam. Pina cũng soạn cả một tập văn phạm thô sơ cho loại chữ viết mới mẻ này. Có lẽ trên thế giới không có nơi nào có một thứ chữ viết được hình thành trong điều kiện như thế.
 
Năm 1624 Francisco de Pina mở trường dạy tiếng Việt cho các nhà truyền giáo khác. Trong số người đến học với ông có hai vị quan trọng, một người đã lớn tuổi là António de Fontes (1569 -?), sinh tại Lisboa. Vị kia chính là Alexandre de Rhodes (1591-1660), sinh tại Avignon, Pháp.Hai vị này lãnh hai trọng trách, de Fontes là trụ cột cho giáo xứ truyền giáo ở Đàng Trong, còn de Rhodes sẽ ra Đàng Ngoài vào năm 1626, lúc đó trong thời kỳ của Chúa Trịnh Tráng. Một ngày nọ trong thang12 năm 1625, một chiếc tàu của Bồ Đào Nha bỏ neo ở vịnh Đà Nẵng, Pina lên tàu để mang hàng hóa vào bờ. Khi đến bờ chẳng may thuyền chìm, Pina chết tại đó, ông chỉ sống được 40 tuổi.
 
Sau cái chết bi thảm của Pina, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha vẫn tiếp tục xây dựng chữ quốc ngữ mà hai nhân vật có công nhất chính là hai người Bồ, Gaspar de Amaral (1549-1646) và Antonio Barbosa (1594-1647). Còn Alexandre de Rhodes thì bị chúa Trịnh Tráng trục xuất năm 1630, phải đi Macau. Mười năm sau, năm 1640 de Rhodes trở lại Đàng Trong và đến năm 1645 bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. De Rhodes trở về La Mã và năm 1651 ông cho xuất bản tập tự điển Việt-Bồ Đào Nha-La Tinh (Dictionarium annamiticum seu tunquinense lusitanum et latinum).
 
Trong các đời sau, nhiều người tôn Alexandre de Rhodes là người sáng tạo chữ quốc ngữ nhưng thực ra đó là công của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha, mà người đầu tiên phải là Francisco de Pina.
 
Một tình cờ của lịch sử đã đưa các vị giáo sĩ Bồ Đào Nha phát minh ra một loại chữ viết cho cả một dân tộc xa lạ, trong đó họ buộc phải dùng mẫu tự và âm tiết của ngôn ngữ mình để diễn tả một tiếng nói khác, vốn mang đầy thanh âm trầm bổng như tiếng chim. Mục đích ban đầu của chữ quốc ngữ là để cho các nhà truyền giáo nói được tiếng Việt và giao tiếp với cộng đồng tôn giáo của mình bằng chữ viết. Về sau, khi các nhà cai trị người Pháp đến Việt Nam, họ cũng không kham nổi chữ Hán lẫn chữ Nôm. Giải pháp thuận tiện của người Pháp là buộc mọi người Việt Nam phải sử dụng chữ quốc ngữ và có lẽ đó cũng là lý do tại sao vai trò của Alexandre de Rhodes được nêu bật.
 
Từ 1930 chữ quốc ngữ trở thành chữ viết chính thức của người Việt.
 
Chú thích: * Bài viết trích từ chương Những Người Đi Biển, trong tập bút ký “Đường Xa Nắng Mới” của TS Nguyễn Tường Bách, tên bài viết do blog tự đặt.