Tuyệt đối tin tưởng !!!

From facebook:  Phan Thị Hồng added 4 new photos — with Hoa Kim Ngo and 11 others.
Tuyệt đối tin tưởng !!!

Sự kiện cướp đất của người dân tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, cách thủ đô Hà Nội 30km đã được các nhà đài và các tòa báo lớn trên thế giới lên tiếng.

Khẩu hiệu và cờ được treo nghiêm chỉnh trên boong ke – vật cản để ngăn chận mọi sự xâm nhập.

Băng rôn in rõ: “Nhân dân xã Đồng Tâm TUYỆT ĐỐI TIN TƯỞNG vào chính sách và đường lối của đảng và nhà nước”.

Theo nội dung in trên câu khẩu hiệu và nội hàm toàn bộ tấm ảnh thì rõ ràng đây là một biểu lộ công khai sự khinh bỉ, báng bổ, phỉ nhổ của nhân dân, người dân đã công khai xuyên tạc thẳng thừng vào đường lối của đảng.

Đây là lần đầu tiên nhà nước chưa kịp vu khống nhân dân “xuyên tạc” chính sách và đường lối.

Nhân dân đã thể hiện sự công khai xuyên tạc: xuyên tạc rõ ràng và mai mai, xuyên tạc một cách nghiêm túc và thẳng thừng vào sự trơ tráo chính sách và đường lối của đảng.

Hình ảnh nói rõ hơn vạn lời : Nhân dân hoàn toàn không còn một chút tin tưởng.

Đảng cộng sản hãy gương to mắt lên mà nhìn.

Khẩu hiệu in rõ: Nhân dân tuyệt đối tin tưởng.

Nhưng nội hàm của tấm ảnh đã nói thẳng thừng:

– Nhân dân phỉ nhổ vào cái gọi là TUYỆT ĐỐI TIN TƯỞNG vào sự lãnh đạo dối trá, trơ tráo của chính sách và đường lối.

– Đảng có dám cho rằng đây (nội hàm tấm ảnh) không phải là sự xuyên tạc chính sách và đường lối.

Hình ảnh đã nói rõ suy nghĩ và hành động của nhân dân: Nhân dân hoàn toàn không còn một chút tin tưởng vào chính sách và đường lối của đảng và nhà nước.

Theo nhận định của Ls. Lê Công Định Định Công Lê thì:

Bản chất của cộng sản là tráo trở và tàn bạo. Sớm muộn gì họ cũng sẽ đàn áp Đồng Tâm.

– Dụ dỗ là bước một,
– Tráo trở là bước hai,
– Đàn áp là bước ba,
– Tuyên truyền dối trá là bước bốn,
– Mị dân là bước năm.

Hãy chờ xem sự tráo trở đang tiếp diễn và chuẫn bị sang hồi thứ ba: ĐÀN ÁP.

Ảnh được chụp tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức nơi nhà nước địa phương Hà Nội toa rập với một đơn vị quân đội cướp đất của người dân.

Image may contain: outdoor
Image may contain: 1 person, sitting and text
Image may contain: text
Image may contain: one or more people and text
 

TRỞ VỀ CÁT BỤI…

From facebook:  Kimtrong Lam to Lương Văn Can 75.

TRỞ VỀ CÁT BỤI…

Em nè…
Ráng cầm tay anh nhé
Đường không còn bao xa
Đời không là tất cả
Ta đi cuối chặng về…

Anh à…
Bận lòng chi thế sự
Bao nhiêu năm chăn gối
Vượt thăng trầm nổi trôi
Đôi ta thuyền viễn xứ…

Từ khi…
Hai ta được gặp nhau
Cuộc sống luôn mới lạ
Hạnh phúc rất mượt mà
Rạng rỡ muôn sắc màu…

Cuộc đời…
Đã cho ta tất cả
Những điều người ước mong
Ta tận hưởng ngập lòng
Bận gì bao nghiệt ngã…

Bây giờ…
Đường đi đến chặng cuối
Kẻ trước rước người sau
Đừng bệnh cũng đừng đau
Trôi êm như dòng suối…

Cuộc đời…
Thân ta là cát bụi
Đến được rồi cũng đi
Buồn vui có xá gì
Cho con cháu ngậm ngùi…

Liverpool.18-4-2017
Song Như.

Ghi chú thêm của Phùng Văn Phụng:

Đức Hồng  Y Nguyễn Văn Thuận viết: ” Chính sự chết cũng là một  bổn phận cuối cùng, mà con làm cách sẵn sàng và đầy yêu mến“.

Sách “Đường Hy Vọng và Dẫn Giải”

Dân vẫn giữ 20 lãnh đạo, cán bộ, công an huyện Mỹ Đức – Tuổi Trẻ Online

From facebook: Trần Bang

TUOITRE.VN

Riêng bài này viết về Đồng Tâm, Mỹ Đức ở báo Tuổi trẻ gần sự thật hơn, còn 800 tờ báo khác của quốc doanh nhà sản viết giọng kẻ cả (phải chiến thắng nhân dân ) của tuyên giáo.

TTO – Chiều 18-4, có mặt tại huyện Mỹ Đức, phóng viên Tuổi Trẻ chứng kiến…
 
TUOITRE.VN|BY TUỔI TRẺ
 

Decal dán xe “STOP FORMOSA” trong đồn công an.

From facebook:   Trần Bang‘s post.
 
No automatic alt text available.
Image may contain: car
Image may contain: phone
No automatic alt text available.
Trần Bang added 4 new photos.

Decal dán xe “STOP FORMOSA” trong đồn công an.

Khi thấy công an Bến Nghé chuyển chiếc xe máy của TB về đồn Cầu Ông Lãnh, nơi tôi được chuyển về trước đó (12h đêm ngày 16/4/2017)
Công an, an ninh, dân phòng trong đồn một số ra kiểm tra, một số nhìn ra xe, thấy xe có dán decal ” STOP FORMOSA !”.
Một số CA mừng ra mặt (cảm giác như họ đã khám phá ra “chứng cứ buộc tội” quan trọng của công an Bến Nghé là đây (?), nhưng cũng có một số công an và dân phòng ngạc nhiên, thay đổi thái độ, như họ hiểu ra vấn đề, và đồng cẩm với người bị bắt.

Một cháu CS cấp úy đang viết biên bản mừng vì có thể có thêm cái để viết vào biên bản, cháu hỏi :
– Xe của anh đúng không?
– Đúng (tôi trả lời)
– Xe của anh dán decal là có ý gì?
– Tôi dán vì tôi thích nội dung của nó, vì tôi phản đối Formosa xả độc ở miền Trung ở VN!
– Tôi sẽ ghi vào biên bản ?
– OK, anh cứ ghi vì tôi muốn đuổi Formosa ra khỏi Việt Nam.
– Thế là em CS ghi vào biên bản: Trên xe máy anh TB có hai decal có nội dung ” STOP FORMOSA” dán trước và sau xe. Hỏi anh TB tại sao…, anh TB đáp: anh phản đối Formosa đầu độc biển miền Trung của VN, và muốn đuổi Formosa ra khỏi VN.

– Em thấy Decal Stop Formosa có sao không? (tôi hỏi an ninh thường phục ngồi kế em CS viết biên bản)
– Đó là quyền tự do cá nhân của anh! (AN còn trẻ có vẻ hiểu biết trả lời)
– Các anh có biết Formosa được Giải hành tinh đen năm 2009 chưa? (tôi hỏi chung cả phòng khoảng 6,7 người)
– Chưa, nhưng đó là giải gì? (một người trả lời và hỏi)
– “Giải hành tinh đen” được tổ chức bảo vệ môi trường Thế giới tặng cho công ty Formosa Đài Loan vì có công nghệ xả khí thải, nước thải, chất thải có hóa chất độc hại ra môi trường, hủy hoại môi trường nhiều năm liền.
– Thế các anh có biết Formosa bị phạt ở Mỹ không? Và Formosa bị phạt và bị đuổi khỏi Campuchia không?
– Không.
– Campuchia, họ đã đuổi formosa từ những năm 1998, sao Việt Nam không đuổi được?
– Vỏ Formosa, nhưng bên trong là công nghệ Trung Quốc xả chất độc… (một dân phòng nói nhỏ nhưng tôi vẫn nghe thấy, anh này có vẻ hiểu nỗi bức xúc của người dân, anh cũng tỏ ra là người tử tế khi ghế ngồi cả đêm, nhường bàn anh vẫn ngủ tạm qua đêm cho Thanh Trúc ngả lưng.)
– Anh phản đối Formosa từ khi nào? ( Một cảnh sát già có vẻ hiền lành tử tế hỏi TB)
– Tôi phản đối từ tháng 4/2016, lúc Formosa xả độc làm cá chết ở Hà Tĩnh, Quảng Bình…
– Tôi hiểu tâm tư của anh, nhưng anh cảnh giác đấy, có người bị bắt bị tù mấy năm chỉ vì nhận có 200 đô la để được thuê rải vài trăm tờ rơi có nội dung xấu đấy.
– Thế nội dung decal ở xe tôi có xấu không?
– Không!

– Formosa đã đền bù 500 triệu đô la rồi còn đuổi gì nữa, sao dân mình ngu và tham thế? ( Một tay thiếu ta, khuôn mặt hắc ám ngồi vắt vẻo nói).
– 500 triệu đô la là to thế sao? Tẩy độc môi trường biển chưa làm, nếu làm cũng tốn cả tỷ đô la và mất nhiều năm, để người dân bị hại thống kê thiệt hại và kiện ra tòa thì Formosa cũng phải đền dân cả tỷ đô. Chỉ có Tòa phán quyết mới công bằng và đúng pháp luật. (TB trả lời )
– May là Chính phủ thương lượng nên đã lấy được tiền của Formosa cho dân rồi, dân đã nhận tiền còn đòi kiện ra Tòa gì nữa, đuổi gì nữa, sao tham thế? ( Thiếu tá lặp lại)
– Chính phủ tự ý thỏa thuận với Formosa mà chưa thống kê thiệt hại của dân đầy đủ, chưa được dân đồng ý, việc cần làm là tẩy độc môi trường cũng chưa làm…, do vậy người dân vẫn có quyền kiện ra tòa và vẫn có quyền lên tiếng đuổi Formosa ra khỏi VN, vì để còn gần 70 năm nữa, nó như quả bom hóa học độc hại, biết nó sự cố khi nào? ( TB trả lời )

– Lấy tiền thì thôi chứ, dân tham vừa thôi, cứ nghe phản động đòi đuổi, đuổi thì đừng nhận tiền đền bù của nó nữa, cái gì cũng muốn?
– Tôi hỏi, kẻ hiếp dâm cứ đền tiền cho người bị hại là xong à? Không cần khởi tố, xét xử, kết án, phạt tù kẻ phạm tội nữa, và cứ để nó hiếp dâm tiếp người khác à?…

Sau đó tay thiếu tá vênh váo này cứ ba hoa lên lớp dạy rằng:
-Anh cũng có con, anh phải nghĩ đến con cháu chứ? anh có biết là sau này con cái anh sẽ bị ảnh hưởng, bị ghi lý lịch xấu, khó xin việc…”

-Tôi dậy con tôi có tinh thần tự lực từ sớm, học tập rèn luyện từ nhỏ để có kỹ năng, có đạo đức, trung thực, chăm chỉ, tôn trọng, yêu thương mọi người. Cần việc làm thì thi tuyển vào nơi cần người làm phù hợp với kỹ năng, kiến thức và đạo đức nơi đó cần, không ỉ vào quen biết bố mẹ, không cần lý lịch bố mẹ, không đút lót để mua việc.

Tôi không sợ con tôi không xin được việc chỉ vì bố nó có “lý lịch” chống độc tài, đuổi Formosa…
Còn Formosa, còn công nghệ luyện cốc, luyện thép của TQ, còn nhập hàng trăm tấn hóa chất độc hại phục vụ công nghệ TQ đó mỗi năm, thì sự cố biết xẩy ra lúc nào?
Khi có sự cố, lại xả hóa chất độc hại hủy hoại môi trường biển, ra nước, ra đất, ra không khí… không những làm chết thủy sản như năm qua làm khánh kiệt người dân sống nhờ biển, mà chất độc qua vật trung gian như qua tôm cá, rong tảo, qua muối, nước mắm, không khí… gây ung thư, quái thai, bệnh tật cho người dân hôm nay và cho các thế hệ sau. Formosa là quả bom hóa học đó!
Đuổi Formosa vì công nghệ độc hại TQ không phải chỉ giúp con cháu tôi, mà giúp cả con cháu các anh đó. Hay đến khi gia đình mình bị ung thư, bệnh liên quan hóa chất độc TQ rồi các anh mới tỉnh?

– Vài dân phòng các công an, an ninh nghe tôi nói về Formosa, người thì gật gù có vẻ tán đồng, người thì không nói gì.

Riêng tay thiếu tá vênh vênh nói như đe dọa:
– Anh cứ làm thế này (không hiểu thế này là thế nào?) anh đi chứng giấy tờ này nọ cho anh, cho vợ con và gia đình ở địa phương, sẽ chẳng ai chứng cho anh?…
Rồi anh xem tui nói có đúng không?!

Nghe đến đây thì tôi quay đi chỗ khác, chẳng ghe, cũng không nói gì nữa.

Hắn nói một mình khoảng 10 phút sau thì tự tắt đài, vì không ai bắt chuyện với anh ta. Tôi cũng không để ý tay thiều tá trong đồn công an Cầu Ông Lãnh này tên gì. Nhưng tôi cứ thấy trong lời hắn nói là lời của bóng ma “anh chuỗi, chị rễ” sống lại trong chuyện “Ba người khác” và “Biết đâu địa ngục Thiên đường” nói về cải cách ruộng đất ở miền Bắc những năm 1953-1955. Cũng thấy câu đe dọa của tay thiếu tá này như hiện hình của người ấp trưởng, du kích xã ít học mà hách dịch ở nông thôn miền Nam sau 30-4-1975, như nhiều người còn đang sống ở miền Nam kể lại.

Tôi nghĩ trong đầu, không biết còn bao nhiêu sỹ quan, đảng viên, cán bộ CS “khoái” đe dọa dân, “khoái” bắt dân phải cúi đầu?
Nếu ai không cúi đầu thì bị trừng trị bằng cách ” không chứng giấy tờ”… bởi nền hành (dân là) chính, với hàng ngàn loại giấy tờ quan liêu như thời mới “thống nhất đất nước” sau 30-4-1975 nữa?

P/s: Ảnh 1, 2 Xe dán decal STOP FORMOSA để trước đồn công an, mặt tiền đường Nguyễn Thái học suốt từ 3h sáng đến 21h đêm ngày 17/4/2017 vẫn còn, nhưng 21h30 khi nhận xe ở Bình Thạnh mới bị ai đó bóc đi.
Ảnh 2,3 decal điện thoại dù công an tạm giữ từ 1h30 đến 21h30 mới lấy lại nhưng vẫn còn nguyên vẹn decal.

 
LikeShow more reactions

Comm

CẦU MONG CÔNG AN NHÂN DÂN BIẾT LỰA CHỌN NHÂN DÂN!

CẦU MONG CÔNG AN NHÂN DÂN BIẾT LỰA CHỌN NHÂN DÂN!

FB Mạc Văn Trang

18-4-2017

Công an nhân dân cưỡng chế đất của dân ở Bình An tháng 6/2016. Ảnh chụp từ clip NKYN.

Từ lâu tôi đã nghĩ: Tại sao CAND, CSCĐ, thậm chí có lúc cả quân đội nữa lại đi đàn áp dân để “giải tỏa”, “cưỡng chế” đất đai của dân, dâng cho các doanh nhân? Kinh doanh theo cơ chế thị trường thì phải thương thảo “thuận mua, vừa bán” chứ! Ở đây có nhiều khuất tất, phi lý. Các doanh nhân và số quan chức ký kết dự án với nhau thì làm giàu bất chính trên lưng người dân khốn khổ. Không những thế, người dân còn bị đàn áp, tù đầy, oan ức.

Không oan ức, phẫn uất tột cùng thì sao người dân lại lăn vào bánh xe ủi? Sao người phụ nữ lại tụt quần áo, lõa lồ trước bàn dân thiên hạ lăn ra giữ đất? Sao hàng trăm, hàng ngàn người dân liều chết chống trả lực lượng vũ trang được trang bị tận răng cộng với chó nghiệp vụ và bọn xã hội đen bố ráp? Không oan ức tột cùng, sao có hàng vạn dân oan khiếu kiện ròng rã năm này qua năm khác từ mọi miền đất nước, kéo ra Sài gòn, Hà Nội, vật vờ khổ ải triền miên? Sao cả xã Đồng tâm, huyện Mỹ Đức Hà Nội, hơn 6.000 người dân thề “giữ đất đến chết”?

Từ “Trận đánh đẹp” ở Hải Phòng, bắt 2 anh em Đoàn Văn Vươn đi tù, đến vụ “đại cưỡng chế” lấy đất ở Hưng Yên cho Ecopark, năm 2012, cứ tưởng các nhà lãnh đạo đã nhận ra những sai lầm bất cập trong việc huy động CAND đi “cưỡng chế” đất của dân cho doanh nhân, không ngờ!… Các nhà lãnh đạo, các đại biểu quốc hội… có thấu nỗi đau của dân mình không? Sao mãi đến năm 2017 này, vẫn không có quyết sách gì để cải thiện tình hình?

Thực tế là, bao nhiêu lợi nhuận kếch xù doanh nhân hưởng, bao nhiêu % béo bở quan chức ký dự án hưởng, còn bao nhiêu tiếng xấu trút lên đầu CAND! Hãy nghĩ kỹ mà xem, ngành CA thật đau xót. Bao nhiêu hình ảnh đẹp đẽ của người chiến sĩ CAND gần gũi, thân thương “Thức cho dân ngủ ngon”, “Gác cho dân bình yên” đã mất đi, thay vào đó là hình ảnh những hung thần “cưỡng chế”! Khẩu hiệu “Đối với nhân dân phải kính trọng lễ phép”. “Đối với kẻ địch phải kiên quyết khôn khéo” đã mai một trong dân. Bao nhiêu người dân đã chửi vào mặt các công an viên: “Hèn với giặc, ác với dân”!

Gần đây trong một Video clip (tôi có đưa lên FB), có một bà nông dân đã chửi lực lượng CA đến “cưỡng chế” một cách rất tục tĩu, nhưng phản ánh rất chân thực tâm lý người dân. Bà ta chửi: “Chúng mày ăn cơm của dân, mặc áo của dân, mà đi cướp đất của dân cho doanh nghiệp à? Chúng mày không phải là CAND nữa mà là CA CỦA DOANH NGHIỆP hiểu chưa”? Trong khi đó loa của CA vẫn ra rả: “Thực hiện lệnh cưỡng chế…”!

Khi người dân nhìn vào CA với định kiến: “HÈN VỚI GIẶC, ÁC VỚI DÂN”, “CAND CHỈ BIẾT CÒN ĐẢNG CÒN MÌNH” và “CA LÀ CỦA DOANH NGHIỆP” thì CA có còn là CAND nữa không? Niềm tin đã mất đi, bao giờ khôi phục lại được?

Nhưng sự kiện ngày 15/4/2017, lực lượng CSCĐ về xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức “dẹp loạn”, 20 chiến sĩ đã chịu để cho dân bắt nhốt vào “Nhà văn hóa” và nhờ vậy, cả quân lẫn dân đã không đổ máu. Từ đó đã nảy ra giả thuyết rằng: Các CSCĐ đã nhận rõ mình là CAND, chứ không phải CA của doanh nghiệp “Việt teo” đi chiếm đất của dân. Vì vậy họ chấp nhận làm “tù binh của nhân dân”, chứ không làm “kẻ thù của nhân dân”.

Tôi tin vào giả thuyết này, vì thực sự CAND đều từ con em nhân dân mà ra; phần lớn có tiếp cận những thông tin rộng rãi trên mạng và dư luận xã hội, họ hiểu được thực trạng đất nước và nỗi khổ cực, nỗi phẫn uất trào dâng của nhân dân… Và các CSCĐ về xã Đồng Tâm đã “đồng tâm” chọn Nhân dân?

Cầu mong CAND biết lựa chọn Nhân dân, thuộc về Nhân dân!

Advertisements

Bà Hạnh Nhơn, ân nhân của thương phế binh và quả phụ VNCH, qua đời.

 Bà Hạnh Nhơn, ân nhân của thương phế binh và quả phụ VNCH, qua đời.

Nguoi-viet.com

Bà Hạnh Nhơn (giữa) tại Đại Nhạc Hội Cám Ơn Anh kỳ V. (Hình: Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y)

FOUNTAIN VALLEY, California (NV) – Cựu Trung Tá Nguyễn Thị Hạnh Nhơn, một người được coi là ân nhân của vô số thương phế binh và quả phụ VNCH, vừa qua đời lúc 1 giờ 43 phút sáng Thứ Ba, 18 Tháng Tư, tại bệnh viện Fountain Valley, California, hưởng thọ 90 tuổi.

Tin này được bà Trâm Lý, con gái bà Hạnh Nhơn, xác nhận với nhật báo Người Việt.

Khi biết tin, nhà báo Huy Phương, một người thân thiết và sát cánh với bà Hạnh Nhơn trong công tác giúp thương phế binh và quả phụ VNCH nhiều năm qua, thốt lên: “Xin cầu nguyện cho chị Hạnh Nhơn. Nghĩ rằng chuyện sẽ tới, nhưng khi tới, không khỏi xót xa.”

Khi hay tin, ông Trần Văn Lý, một thương phế binh VNCH, viết trên email:

Tin sét đánh ngang tai
Một tượng đài vừa đổ!

Nay chị lìa bể khổ
Để về cõi vĩnh hằng

Chúng em gạt nước mắt
Đành chúc chị bình an!

Nhà báo Huy Phương cho biết thêm: “Chúng tôi sẽ gặp gỡ các cháu trong gia đình để bàn thảo việc cáo phó theo chúc thư của chị ghi lại cho tôi. Sau đó tôi sẽ thông báo cho tất cả diễn tiến của tang lễ.”

Sở dĩ bà Hạnh Nhơn được coi là “ân nhân của vô số thương phế binh và quả phụ VNCH” vì bà là hội trưởng Hội H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH, người đứng đầu các đại nhạc hội Cám Ơn Anh, gây quỹ giúp thương phế binh và quả phụ VNCH tại quê nhà.

Đại nhạc hội này nay đã trở thành một trong những sự kiện lớn nhất của cộng đồng Việt Nam tại hải ngoại.

Mỗi năm, hội giúp hàng chục ngàn cựu chiến binh VNCH bị mất một phần thân thể, cùng những phụ nữ có chồng hy sinh, trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của bà, cùng phối hợp với các tổ chức, trung tâm ca nhạc, và cơ quan truyền thông, đại nhạc hội Cám Ơn Anh nay được luân phiên tổ chức ở Nam và Bắc California, mỗi năm thu được cả trăm hoặc cả triệu đô la, do đồng bào hải ngoại đóng góp, gởi về Việt Nam giúp rất nhiều người.

Đại nhạc hội lần thứ 10 hồi năm ngoái thu được tổng cộng $1,279,000.

Theo nhiều tài liệu, bà Hạnh Nhơn nhập ngũ năm 1950 ngành hành chánh tài chánh, với công việc là phát lương cho “đệ nhị quân khu” sau gọi là Quân Ðoàn I. Kế đến, bà là thiếu úy rồi trung úy sĩ quan tiếp liệu tại quân y viện Nguyễn Tri Phương. Sau đó bà được thuyên chuyển về Trung Tâm Huấn Luyện và Trường Nữ Quân Nhân và rồi lên lon đại úy làm việc tại văn phòng đoàn nữ quân nhân của Bộ Tổng Tham Mưu. Năm 1969, bà là thiếu tá trưởng phòng nghiên cứu. Sau đó, bà được chuyển qua Không Quân và lên trung tá năm 1972.

Sau Tháng Tư, 1975, bà bị Cộng Sản bắt đi tù nhiều nơi khác nhau, bao gồm Long Giao, Quang Trung, Hóc Môn, Z30D, Hàm Tân, và Long Thành.

Sau khi ra tù, năm 1990, bà định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO2.

Ban đầu, bà là phó chủ tịch Hội Tương Trợ Cựu Tù Nhân Chính Trị, phụ tá cho ông Nguyễn Hậu là chủ tịch thời bấy giờ. Công việc của bà là làm giấy tờ bảo lãnh cho các cựu quân nhân QLVNCH không có thân nhân bảo lãnh.

Sau đó, bà làm hội trưởng Hội H.O. Cứu Trợ Thương Phế Binh và Quả Phụ VNCH cho tới nay.

Trong một lần trả lời phỏng vấn nhật báo Người Việt hồi năm 2011, khi được hỏi lý do khiến bà hăng say trong công việc cứu trợ thương phế binh và quả phụ VNCH, bà cho biết: “Tôi cảm thấy vui khi được cùng đồng hương Việt Nam và các hội đoàn tổ chức Ðại Nhạc Hội Cám Ơn Anh Kỳ I và các lần sau này là vì tình huynh đệ chi binh. Là lính, tình cảm ấy nặng lắm.”

Bà không giấu được xúc động khi nhắc đến những giây phút làm hồ sơ cứu trợ, hoặc khi đọc những lá thư hồi báo của các thương phế binh, hay từ gia đình các quả phụ, gởi về cho hội: “Tôi tưởng tượng lúc họ vui khi nhận được tiền, con cái họ có thêm miếng cơm, có thêm tấm áo, gia đình họ ấm lòng khi đồng bào ở hải ngoại xa xôi vẫn nghĩ đến và nhớ ơn sự hy sinh của họ.” (Đ.D.)

Một cuộc đối đầu có thể trở thành cuộc chiến tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức

Một cuộc đối đầu có thể trở thành cuộc chiến tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức

Hải Âu (Danlambao) – Mỹ Đức là một huyện nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 40km về phía Tây Nam, hiện có khoảng 2.572 hộ dân với dân số hơn 8.600 người.

Những diễn biến xung quanh vụ việc người dân xã Đổng Tâm, huyện Mỹ Đức cố thủ chống lại lực lượng cưỡng chế của nhà cầm quyền Hà Nội đang là đề tài nóng trên các diễn đàn, mạng xã hội trong những ngày qua. Điểm mấu chốt của vụ việc cho đến lúc này là người dân đang giam giữ 32 người gồm công an, cảnh sát cơ động, an ninh giả dạng côn đồ.

Sự việc đang diễn ra tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức được dư luận biết đến khi một số trang mạng lề Dân đăng tải, chia sẻ đoạn clip cho thấy hàng chục công an bỏ chạy khi bị người dân rượt đuổi. Liền sau đó, những thông tin, hình ảnh một nhóm cảnh sát cơ động bị người dân “giam lỏng” tại nhà văn hóa của huyện được lan tỏa nhanh chóng. Nguyên nhân dẫn đến vụ việc trên bắt nguồn từ những mâu thuẫn trong việc nhà cầm quyền dùng vũ lực cưỡng chiếm đất đai của người dân xã Đồng Tâm huyện Mỹ Đức. Đây không phải là lần đầu cộng sản Hà Nội hành xử thô bạo và trái pháp luật khi thực hiện những quyết định thu hồi đất.

Hồi đầu tháng 1/2010, cộng sản Hà Nội đã đập phá biểu tượng Thánh Giá của giáo xứ Đồng Chiêm thuộc huyện Mỹ Đức ngay trong lúc linh mục đoàn đang tĩnh tâm định kỳ tại tòa giám mục Hà Nội. Đây được xem là một vụ vi phạm tự do tôn giáo nghiêm trọng của nhà cầm quyền khi ra lệnh triệt hạ biểu tượng của người Công Giáo với lý do an ninh quốc phòng, dù rằng Thánh Giá được dựng trên phần đất thuộc quyền quản lý của giáo xứ.

Khoảng giữa năm 2013, cộng sản Hà Nội tiếp tục “giải phóng mặt bằng” sau khi ban hành quyết định thu hồi 168.456m2 của người dân xã Hương Sơn thuộc huyện Mỹ Đức. Người dân trong xã đã nhiều lần phản đối dự án xây dựng khu du lịch Hương Sơn vì cho rằng nhà cầm quyền vi phạm những qui định về việc thu hồi đất. Một số người còn mang quan tài đến khu đất nhằm ngăn cản chủ đầu tư cố tình xây dựng khi chưa giải quyết xong vấn đề tranh chấp giữa nhà cầm quyền và người dân.

Sự việc trở nên căng thẳng khi cộng sản Hà Nội tổ chức cưỡng chế khu đất. Hàng trăm công an, cảnh sát và an ninh mật vụ đã được điều động để trấn áp người dân tại đây. Không chỉ dừng lại ở việc cưỡng chiếm đất đai, một mặt nhà cầm quyền cưỡng chế, mặt khác cho an ninh giả dạng côn đồ gây hấn để lấy cớ tạo ra bạo loạn, sau đó bắt giam một số người dân bị “côn đồ” đánh đập. Công an cộng sản Hà Nội tiếp tục thể hiện thủ đoạn khốn nạn của nhà cầm quyền khi khởi tố 10 người bị bắt giam trong đợt cưỡng chế tại Hương Sơn với tội danh “chống người thi hành công vụ”.

Năm 2014, qua hai phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm, 10 người dân xã Hương Sơn đều bị tuyên án tù giam với những bản án bỏ túi. Đây là một màn kịch bỉ ổi được dựng nên bởi bàn tay tà quyền cộng sản thường sử dụng sau khi cưỡng chiếm đất của người dân.

Quay trở lại vụ việc ở xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức hiện nay.

Tin từ người dân xã Đồng Tâm cho biết nguyên nhân vụ việc đã bắt đầu xảy ra từ năm 2012 khi nhà cầm quyền cố tình sai phạm trong quá trình đo đạc và xác định ranh giới đất nông nghiệp và đất thuộc diện quốc phòng. Hơn 47ha đất nông nghiệp được nhà cầm quyền giao cho tập đoàn Viettel làm dự án. Nhiều hộ gia đình tại đây đã bất bình trước việc làm sai trái của nhà cầm quyền nên đã nhiều lần khởi kiện. Tuy nhiên việc khởi kiện một tập đoàn được bảo kê bởi hệ thống công an dưới sự thống trị của cộng sản đảng thì thiệt thòi chắc chắn thuộc về phía người dân.

Sự việc ngày càng trở nên phức tạp khi nhà cầm quyền cố tình bác bỏ đơn kiện của các hộ dân và tiếp tục cho Viettel đầu tư xây dựng trong khi vụ việc vẫn chưa được giải quyết. Đã có những xô xát xảy ra trong quá trình tranh chấp, và dĩ nhiên những người bị đánh đập luôn là nông dân. Ngày 30/3/2017, công an cộng sản Hà Nội lại tiếp tục ra quyết định khởi tố những người thưa kiện với tội danh “gây rối trật tự công cộng”. Đến lúc này có lẽ sức chịu đựng của người dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức đã vượt quá khả năng chịu đựng.

Những gì phải đến đã đến trong ngày 15/4 vừa qua khi nhà cầm quyền mời một số đại diện phía người dân khiếu kiện lên làm việc sau đó cố tình bắt giữ họ một cách trái phép. Đáp trả hành động xem thường pháp luật của nhà cầm quyền Hà Nội, hàng ngàn người dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức đã thực hiện một cuộc phản kháng được xem là mạnh mẽ nhất trong nhiều năm trở lại đây. Một cuộc phản kháng bằng sự căm phẫn cùng tinh thần đoàn kết cửa người dân khiến những tên tay sai thuộc ngành công an cộng sản Hà Nội đã phải tan hàng ngũ, bỏ mặc đồng đội, đồng chí để tháo chạy.

Người dân bắt giữ 32 kẻ trực tiếp tham gia trấn áp trong đó có cảnh sát cơ động và an ninh giả dạng côn đồ. Điều này cho thấy người dân Mỹ Đức đã thật sự vượt qua sợ hãi trước bạo quyền của cộng sản. Hơn nữa họ tạo ra những thế trận nhiều vòng khiến nhà cầm quyền Hà Nội mất phương hướng trong cách giải quyết vấn đề nhạy cảm này. Nếu cộng sản Hà Nội quyết tâm “cứu” 32 tên tay sai của mình bằng bạo lực, chắc chắn sẽ có bạo loạn xảy ra không chỉ tại Mỹ Đức. Đây được xem là một nước cờ khó cho nhà cầm quyền.

Hình ảnh những tên cảnh sát bị vây bắt trong nhà văn hóa huyện đã tỏ ra rất “thuần phục” trước nỗi căm phẫn và lòng nhân hậu của người dân. Những kẻ dùng bạo lực để trấn áp người dân lại được người dân đối xử tử tế vì họ biết rằng những kẻ này chỉ vì nghe theo sự chỉ đạo của những tên quan chức cấp cao trong bộ máy của cộng sản đảng. Hình ảnh đó ít nhiều sẽ tác động lên những cảnh sát cơ động, công an chìm nổi nhìn vào để thấy rõ người dân không hề muốn gây thù oán với lực lượng công quyền. Nhưng nếu bị dồn vào bước đường cùng thì sự phản kháng của người dân sẽ trở thành sức mạnh không gì có thể ngăn cản nổi.

Chưa thể nói diễn biến tiếp theo của vụ việc sẽ xảy ra theo kịch bản nào, nhưng người dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức cần hết sức tỉnh táo trước những thủ đoạn của cộng sản. Có thể nhà cầm quyền sẽ có những nhượng bộ ban đầu nhằm giảm nhiệt sự căm phẫn của người dân. Tuy nhiên đây là một trong những thủ đoạn mà cộng sản thường sử dụng trong các vụ việc căng thẳng giữa người dân và giới chức cộng sản. Sau những bước nhượng bộ sẽ là những đòn gây chia rẽ sự đoàn kết nhằm tìm ra những hạ sách trả thù những người đại diện khiếu kiện.

“Cuộc chiến” của người dân xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức chắc chắn còn diễn ra với những tình tiết khó đoán. Hơn lúc nào hết, những người nông dân can đảm này rất cần sự hỗ trợ của nhân dân cả nước trên nhiều phương diện để đạt được kết quả có lợi trong “cuộc chiến”. Một “cuộc chiến” không hẳn chỉ đòi quyền lợi đất đai mà trên hết là cuộc chiến dành lại quyền làm người đã và đang bị cộng sản đảng tước đoạt.

18.04.2017

Hải Âu

danlambaovn.blogspot.com

Vượt biển !

From facebook: Hoang Le Thanh added 2 new photos 
Vượt biển !

Khi trường Đại học Kinh Thương (Viện ĐH Minh Đức) tổ chức lễ tốt nghiệp khóa đầu tiên, tôi đến Kỳ Đồng lôi Thắng vào một phòng riêng, hỏi nhỏ:

– Ông có giúp tôi một vài bản nhac, được chăng?
– Ở đâu ?
– Lễ tốt nghiệp khóa đầu tiên, trường Kinh Thương.
– Ồ! Rất vinh dự!
Tôi nói :
– Sinh viên tổ chức, không có tiền thù lao đâu nhé !
– Biết rồi! Thắng bảo và nói thêm: – Tôi thích hát cùng sinh viên!
– Khôn dữ hé! Tôi và Thắng cùng cười.

Vài hôm sau, tôi đến cư xá Bắc Hải đón và đưa Thắng cùng cây đàn guitar đến dự buổi lễ. Bố trí Thắng ngồi cùng dãy quan khách gồm các vị tổng trưởng, thứ trưởng, qúy Đức Cha, Linh muc và các giáo sư đại học, …

Sau nầy tôi cảm ơn Thắng bằng một chầu cà phê cóc ở chợ Kiến Thiết, gần nhà anh Ngô Mạnh Thu (dân ca), có cả anh Nguyễn Minh Nữu, Ngô Mạnh Thu, Nguyễn Đức Quang, … vài cô nữ sinh Gia Long cũng có mặt uống ké.

… tình cờ nhìn thấy bài viết của Nguyễn Quyết Thắng (nhạc sĩ). Một chút xa xưa nhớ về người bạn nhạc sĩ dễ thương, hiền hóa, thường nỡ nụ cười trên môi.

Xin giới thiệu và mời qúy bạn cùng đọc một bài viết về̀ – Kỷ niệm Tháng Tư Đen – của Nguyễn Quyết Thắng.

Xin tag đến anh Nguyễn Minh Nữu để Thắng có hỏi, nhờ Nữu nói với Thắng: Tôi gởi lời thăm!
Lê Thanh Hoang Le Thanh

***
” Nước …”

Nguyễn Quyết Thắng
Du Ca
Sau chuyến vượt biên hụt hẫng tại Nha Trang vào một buổi tối mùa thu của năm 1980, tôi không thể trở về Banmê được nữa nên chạy thẳng xuống Sài gòn. Cơ duyên hội ngộ chúng tôi 3 người bắt tay nhau để tiếp tục thực hiện ý định vượt biên luôn sẵn trong tâm trí, anh Nguyễn Thế Bang có tài ăn nói khôn khéo, uyến chuyển và nhanh trí, lo tiếp xúc với bạn bè và những người muốn tham gia vượt biên, anh “làm cái” đứng mũi chịu sào nên tôi gọi đùa là “Cái Bang”, chị Minh Tâm một người hiền hòa ăn nói nhã nhặn, khuôn mặt phúc hậu và là người con của một gia đình uy tín trước kia, vì thế những người được chị mời đến tham gia đều tin tưởng và hy vọng. Cũng từ cái duyên này mà anh Bang và chị Tâm thường xuyên gặp nhau, tình yêu nẩy nở và nên duyên vợ chồng.

Nhiệm vụ tôi phải lo trực tiếp những nhu cầu cần thiết cho chiếc thuyền, từ giấy tờ chuyên chở hàng hóa để ngụy trang, đến vật dụng cần thiết như tìm mua hải bàn, hải đồ, dầu nhớt, thuốc men v..v.. một công việc qủa khó khăn và nguy hiểm. Mặc dù sẽ có tài công lo điều khiển con tầu, nhưng tôi cũng phải nghiên cứu tìm tòi học hỏi cách lái tầu, chọn con nước, hướng gió, ôn lại ánh trăng sao, những chuyện này tôi từng quen biết nhờ sinh hoạt trong Hướng Đạo, các hội đoàn và những ngày tháng phục vụ trong quân đội. Tôi luôn có mặt trên thuyền để bảo vệ phá hoại hoặc bị đánh cắp thuyền, nó là một vật quan trọng, một ước mơ, một hy vọng của tương lai đời sống chúng tôi.

Tôi đã bán đi chiếc nhẫn cưới và sợi dây chuyền cuối cùng để mua ly tách, phin càphê, vài cái ghế đẩu chân thấp và 2 cái bàn xếp cho có lệ, thuê một quán cóc bên đường đối diện với cổng sau Sở Thú đầu cầu Thị Nghè mở quán bán càphê, dùng làm điểm hẹn hò, nơi gặp gỡ bàn bạc công việc, khách qua đường ghé uống càphê thì cũng bán bình thường như thường. Đêm về, xập mái hiên lá xuống che kín phiá trước thay cho cánh cửa, nằm trong chiếc ghế bố mượn của anh chị Kha được mở ra khi đi ngủ, nghe đêm về tịch liêu, nhớ nhà, nhớ vợ con đang còn ở trên cao nguyên Banmê, nơi chất chứa đầy kỷ niệm thời mới lớn, nay đành phải rời xa, thương cho tương lai đàn con thật mịt mờ, cuộc sống hẩm hiu thua kém chúng bạn, thiếu thốn mọi điều, ngay hạnh phúc gia đình với tình cha con cũng bị cách ngăn, không biết bao giờ mới an bình quây quần bên nhau. Thương chúng bao nhiêu, thương mình bấy nhiêu, trong bóng đêm âm thầm lặng câm, đôi dòng lệ trào dâng, ấy là niềm an ủi vô biên luôn theo sát bên tôi.

Chiếc thuyền dài 9 thước, rộng 2 thước rưỡi, đã được vài người tài công mời từ Phan Thiết đến thăm, cùng đôi người thợ máy đến viếng, đều lần lượt bỏ ra đi với nhiều lý do khác nhau, tựu chung là ” chê “, máy Zanma 2 đầu bạc với bánh trớn to tổ chảng và nặng chình chịch, xưa qúa rồi, mũi thuyền thấp qúa, không phải thuyền đi biển, phải là mũi..” Thái Lan ” mới được, anh Bang nói rằng : ” Tháng 3 bà già đi biển “, sóng êm gió lặng, loại thuyền này đi thì không sợ bị lộ, thắng là cái chắc. Điều này tôi không có ý kiến, chẳng có kinh nghiệm, mở mắt chào đời đến nay, đây là chiếc thuyền đầu tiên tôi thực sự được sờ tận tay ray tận mắt, tôi nghĩ rằng chiếc nào thì cũng tương tự như nhau, khác chăng là to hay nhỏ hơn thế thôi ! tôi là dân sống trên núi, bơi còn chưa biết nữa huống hồ…

Thế rồi ! tháng 3 năm 1981 ngày dự định đã đến, chàng cựu sĩ quan hải quân cùng người thợ máy bạn của anh ta đột nhiên biến mất, không một lý do ? May thay chị Tâm đã mời được ông Nhất từ Phan Thiết về làm tài công, ngày đi không thay đổi, chỉ có tôi và ông Nhất trên thuyền đến điểm hẹn nơi cửa biển, các “taxi” ( ghe nhỏ ) sẽ đổ người ra. Tôi cầm sổ thông hành cấp phép đi từ bến Hàm Tử Chợ lớn đến Vũng Tầu để nhận hàng về, qua trạm kiểm soát tôi phải nhẩy lên bờ trình giấy, xòe điếu thuốc Vàm Cỏ ra mời. Đường đi nước bước trên sông ngòi, tôi hoàn toàn mù tịt, chỉ lẳng lặng nghe theo lời ông Nhất, cũng chẳng hề nghi ngờ ông ta có biết đường hay không? dường như cũng có lần lạc lối vì thấy ông ta hỏi vọng qua những thuyền khác dọ hướng đi, điểm đến ở đâu đó bên cửa Thuận An !! tất cả hải bàn, hải đồ, thuốc men, thực phẩm đều giao cho người điều động đánh bãi và taxi, họ sẽ giao lại ở bãi chính, chúng tôi không được mang theo, sợ lộ.

Thuyền chạy qua bao làng xóm, tỉnh lỵ bên sông nước, những vẻ đẹp thật thơ mộng của sông rạch miền Nam tôi chưa hề được chiêm ngưỡng, những cành lá của cây dừa nước xỏa ra bên bờ lạch cùng những mái nhà tranh thấp thoáng sau vườn cây thưa nắng, yên bình như trong hình vẽ, ngồi trước mũi thuyền thở mùi nước đục, hưởng làn gió mát và tiếng nước vỗ bên mạn thuyền, tôi quên rằng mình đang trên đường trốn chạy. Ánh mây chiều đỏ thẫm, từng vệt dài chen lẫn hàng mây xanh-vàng, những khối mây đen nổi rõ từng cuộn phía trước, hoà tan dần dần, nối đến mây xám trải dài sau lưng. Giữa dòng sông rộng lớn, sóng nhấp nhô dập mũi thuyền chồm lên chúi xuống, hai bên bờ sông lui dần ra xa và bóng tối phủ xuống không còn nhìn rõ những mái nhà thấp thoáng sau rặng tre bên bờ sông đất lở. Giữa sông có chòm cù lao khá lớn, thuyền chạy đến đó, tôi nhẩy lên bờ. Cù lao trống trơn không có ngọn cỏ, toàn cát-đá-sỏi trộn lẫn bùn đất, có những con Thòi Lòi nằm dương cặp mắt tròn lo như nai tơ nhìn chúng tôi dò hỏi?… Ông Nhất nói : “mình nấu cơm ăn đi” rồi tự tay cầm nồi múc nước sông vo gạo, lấy bình nước uống đổ vào, đặt nồi cơm trên bếp dầu sau thuyền, tôi lấy loong guigoz đựng thịt kho mặn bầy ra. Cơn gió thổi lồng lộng trong khung trời rộng, không ai nói nói lời nào, tôi nhìn ông Nhất ưu tư, da xạm nắng dáng khắc khổ, râu dài hơn tóc, và hàm răng đóng nhựa thuốc lào, tôi đoán ông khoảng 60 tuổi, nhưng thực ra tuổi của ông mới ngoài 50, sóng gió và biển cả đã làm ông già đi trước tuổi.

Ăn xong chúng tôi nhổ neo đi tiếp, trong bóng đêm của sông nước miền đất lạ, thật khó nhận diện cảnh vật phía trước, ông Nhất lái thuyền thì tôi đứng trước mũi dòm chừng chỉ lối, hoặc ngược lại, chiếc đèn pha trên mui không đủ chiếu ánh sáng xa hơn chục thước phía trước, càng làm tôi mỏi mắt hơn khi phải điều tiết trong bóng đêm, bực mình hơn thế nữa là những lưới đánh cá giăng qúa nhiều giữa sông, thường thì người ta cắm 2 chiếc đèn bão ở 2 đầu cọc lưới, đêm khuya có khi 1 đèn bị tắt không biết đâu là bên phải, đâu là trái, có khi thuyên trôi vào giữa đáy lưới, làm ông Nhất phải nhẩy xuống nước gỡ lưới quấn quanh chân vịt và cả bàn lái, cũng may đó chỉ là lưới cá nhỏ dễ gỡ, phải làm thật nhanh và chạy cho lẹ, kẻo chủ lưới bắt được không những đòi bồi thường mà còn bị lộ chuyện vượt biên thì thật tai họa.

Thuyền qua nhiều khu vực tỉnh lẻ, tôi không nhớ hết địa danh mà ông Nhất đã kể…, rồi thuyền đến bến Ninh Kiều Cần Thơ, ông Nhất nói nghỉ ở đây một chút rồi thuê ghe nhỏ vào chợ, quanh đây đầy thuyền to ghe nhỏ dọc ngang qua lại, hay im lìm neo trước bến. Trên bờ đèn đuốc sáng trưng, khói nấu-nướng tỏa mù mịt một góc. Chừng nửa giờ sau ông Nhất trở về với chai rượu trắng và gói giấy trong tay, tôi đoán là đồ nhậu ! Thì ra ông Nhất thèm rượu, nói đúng ra là nghiện rượu, có rượu là ông ta vui vẻ, khoẻ mạnh hơn, tiếc cho ông ta là tôi không biết uống để làm bạn tri kỷ với ông, tuy nhiên ông ta cũng huyên thuyên kể chuyện về gia đình của ông, cũng vì thế tôi biết được vợ con ông đều đang sống ở Mỹ, qua những đợt vượt biên trước đây họ đã chở thuê cho những người ra bãi rồi nhẩy theo luôn, ông ta thì bị bắt nhốt tù, nay mãn hạn trở về, đang tìm cơ hội để ra đi lần nữa.

Rời bến Ninh Kiều, thuyền chạy dọc qua nhiều lò gốm phía bên trái, từng đống chum lọ bằng đất sứ chồng chất lên nhau, chờ ngày đem bán, bên phải là bờ đất cao hơn cả 3-4 thước, phía trên là lò nấu đường, thơm mùi khét mía cháy, vị ngọt của mạch nha, lửa đốt trong lò rực sáng hun đúc chum đường sôi sục văng vãi lung tung, những đường rãnh nước chẩy bào mòn từ trên lò chẩy xuống bờ sông nhớp nháp, có đàn chuột cống nhẩy qua, chạy lại loanh quanh, tôi nghĩ, giá có con chuột nào vô phước rớt vào chum đường đang sôi kia, chắc cũng chẳng ai biết vì khói trong nồi bốc ra khá dầy đặc. Tới ranh giới tỉnh Sóc Trăng, tôi thấy đằng xa có ngôi nhà thờ sáng rực, nhiều quầy-quán và xe bán dạo bật đèn sáng đủ mầu, bóng người thấp thoáng đông đảo. Tôi nhẩy lên bờ nhắm hướng ánh sáng đi tới, đoán là buổi chợ đêm, định đến để tìm mua thêm gói thuốc lá dằn túi, đến nơi mới biết đó là một buổi lễ cầu nguyện của giáo dân trong vùng trong ngày cuối tuần, tiếng cầu kinh vang ra từ trong giáo đường hòa lẫn tiếng nhạc của xe bán nước ngọt, caphê, mực khô vang lên ngoài đường, âm vang vui nhộn. Tôi đảo mắt tìm xe thuốc lá, nhưng chợt đổi ý, không nên đến chỗ đó, mình dễ bị phát hiện là kẻ lạ mặt và chẳng may bị bắt thì thật đáng tiếc. Nghĩ thế, tôi quay lưng trở về thuyền.

Dường như có ánh trăng nửa đêm yếu ớt ẩn mình sau tầng mây cao, thuyền trôi đến một một vùng sông rộng lớn, những cành cây lưa thưa vươn trên mặt nước khẳng khiu đơn độc, những tàn cây này đã bị nước thủy triều dâng cao nên không thấy gốc, chốc nữa nó cũng sẽ bị ngập chìm toàn diện dưới mặt nước, quay nhìn lại phía sau, tôi chợt bắt gặp một vùng lân tinh tỏa ánh sáng lung linh, nhấp nhô ánh thép bạc lan tỏa khắp mặt nước như trăm ngàn ngọn đèn lấp lánh từ đáy nước hắt lên, và từ trên cao rơi xuống, những cuộn hơi sương đục như khói trắng bốc lên, tan loãng trên mặt nước trông tựa như một giòng nước nóng đang bốc hơi giải nhiệt êm đềm, thật ngoạn mục và kỳ quái, một cảnh thần tiên tôi chưa hề thấy, lạ lùng và huyền bí như truyện thần thoại, tôi muốn vốc những ánh lân tinh mầu trắng-xanh lấp lánh trong suốt đó trong lòng tay, hay thử đập vỡ nó ra xem có gì lạ? lòng vui và kinh ngạc trộn lẫn chút lo lắng không tên, …
Trong khoang ông Nhất ngồi ngủ gục sau những ngụm rượu khề khà, tôi nghe hình như có tiếng nước chẩy lao xao phía trước, qua khung cửa kính phòng lái, tôi nhìn thấy cảnh vật mờ mờ ảo ảo phía trước, bật đèn pha trên mui ra xem, thì hỡi ôi ! cách mũi thuyền dăm bẩy thước là một đáy lưới cá khổng lồ giăng ngang bằng một dây cáp sắt cao hơn mũi thuyền, nước đổ vào đáy ào ào tạo thành một phễu nước xoáy từ miệng sông rộng gom vào túi đáy thu nhỏ phía sau, 2 đầu giây cáp được quấn chặt vào 2 cột trụ gỗ đóng sâu xuống lòng sông to bằng tay người ôm.

Tôi không còn đủ thời giờ để hét lên nữa, tay giật mạnh cần số về phía sau, bánh đưôi tôm quay ngược, con tầu rung chuyển bần bật trong tiếng rú của máy de lui mệt nhọc khó khăn, tuy đã rú ga lui hết cỡ về sau, nhưng con tầu vẫn từ từ trôi vào miệng đáy, không còn thời giờ để suy tính chọn lựa tìm cách thoát hiểm, chỉ còn phản xạ tự nhiên, thực hiện ngay những gì lý trí bảo mình làm.

Nếu tầu bị hút vào đáy, nước sẽ nhận chìm con tầu xuống nước như những chiếc lá trôi sông, như những con cá vào đáy không đủ sức vẫy vùng bơi ngược dòng trở lại, huống chi tôi lại chẳng biết bơi, và cái lưới to lớn kia sẽ cuốn hút xoay vòng trói chặt con mồi hết lối thoát.

Thấy de lui không có kết qủa và sự nguy hiểm đang cận kề, tôi gạt cần số tới, rú ga và bẻ hết cỡ về bên phải, con tầu rướn lên trôi ngang trên mặt nước cuồn cuộn, đâm xầm vào đầu cột đáy giữa sông rồi trượt qua bên kia, cái cột to bị đổ nghiêng qua một bên, và may thay con tầu đã lướt qua được phía ngoài của miệng đáy trôi tuột ra xa….. tôi nhủ thầm cám ơn Trời Phật đã độ lượng, tiếng ông Nhất vọng ra : – Chuyện gì đó ?…

Bấy giờ tôi mới nhớ có ông Nhất ngủ trong khoang.

Một giờ sau, thuyền đến một bến nước có nhiều căn nhà dựng tuốt ngoài sông, thủy triều xuống để trơ ra những cột nhà khẳng khiu mỏng manh được đóng xuống lòng sông cao lêu khêu, nhà nhà đều tối thui, ông Nhất ghé vô một căn nhà còn ánh sáng hắt ra, gọi lớn :
– Còn đồ ăn không ? ông chủ ơi ! rồi quay lại bảo tôi : – Đây là quán ăn .

Quả đúng như vậy, nhà có một cầu thang phía sau thòng xuống nước để đón khách thuyền đò ghé qua, chúng tôi leo lên, căn nhà vắng hoe…, chợt có một bà khoảng 50 tuổi bước ra hỏi :

– Cần chi ông? đồ ăn hết mất rồi…
Ông Nhất đòi hỏi :
– Có cái gì ăn cũng được !! Tô cháo gà đi ! được mà..
– !!!!… Nhà chỉ còn con gà, nhưng còn nhỏ xíu xìu hà.
– Được rồi, được !!!

Bất đắc dĩ bà chủ bắt gà làm thịt nấu cháo cho chúng tôi không một tiếng thở than, chắc cảnh này vẫn thường xẩy ra.. Tôi ngồi im chờ đợi, nhìn ra mặt sông tối đen, lo lắng, mệt mỏi, nhiều suy nghĩ đổ ra rối tung, tôi cũng chẳng biết còn bao lâu nữa thì đến điểm hẹn, đi cũng đã gần 2 ngày rồi còn gì ?. Tránh các trạm kiểm soát làm việc ban ngày và tránh để người dân nhận diện thuyền lạ, chúng tôi phải chọn đi ban đêm, ít phiền nhiễu, nhưng không ngờ lại gặp những khó khăn khác.

Ăn xong trả tiền, chúng tôi cho thuyền qua phía bên kia, sau một dẫy nhà dựng trên mặt nước neo ở đấy ngủ. Sáng hôm sau bị đánh thức bởi tiếng máy đuôi tôm gào lớn và sóng nước cuộn tới, nâng thuyền tôi lên xuống lắc lư, sóng đánh vào mạn thuyền bồm bộp, mở mắt nhìn theo thấy đó là 1 chiếc ghe tam bản dài khoảng 5-6 mét, phía sau gắn một máy đuôi tôm cần trục dài thoòng chĩa xuống nước quậy sóng, người thanh niên trẻ tuổi háo động, rồ máy ghe lượn qua lượn lại, phóng hết ga biểu diễn, khiến các ghe buôn bán hàng hóa trên mặt sông la ó bất bình. Chúng tôi ở đó nguyên ngày, chờ đến chiều tối lại nổ máy đi tiếp…

Cuối cùng cũng đã đến điểm hẹn, đợi ở đó suốt từ sáng đến chiều mới thấy một chiếc ghe nhỏ từ đâu chèo đến, một người thò đầu vào thuyền nhìn tôi cười cười hất hàm hỏi :

-Tới lâu chưa ? mệt không ?. Rồi quay qua nói với ông Nhất :- Lui thuyền lại chỗ trống kia đi bác Hai ?

Chẳng cần nghe tôi trả lời, và cũng chẳng cần biết họ có quen tôi hay không? đoán chắc chỉ là người trong ” bãi đánh ” nên ông Nhất thản nhiên nổ máy làm theo lời họ. Một lúc sau, cũng chiếc ghe đó chạy xát vào thuyền tôi và quăng qua cửa sổ một chùm bánh nếp nhân đậu đỏ, gói bằng lá dừa mầu vàng trông giống như bánh ú nho nhỏ, khoảng 50-70 cái cột với nhau thành 1 chùm, nói với theo :

– Đồ ăn đó !

Mừng qúa, buồn ngủ gặp chiếu manh, họ thật tử tế và chu đáo đã cho tôi thức ăn lót bụng, bèn mở một cái ra ăn thử. Có biết đâu rằng đó là phần thực phẩm dành của 50 người vượt biên trong bao nhiêu ngày lênh đênh trên biển đấy?… Lúc sau lại có 1 ghe khác cặp vào bên hông, một người đàn ông chui vô khoang máy nói :

– Trước khi ra biển, phải kiểm tra máy móc lần chót cho an toàn ! nhé ?

Rồi ông ta mở nắp máy xem xét, chỉnh qua chỉnh lại, vặn tới vặn lui 4 cái “Béc dầu” xong nhẩy ra ngoài biến mất. Còn người thợ máy chính thức theo chúng tôi trên đường vượt biển, sẽ đến chung với nhóm người bằng ” ghe taxi ” tối nay.

Ánh mặt trời dần tắt, tôi bồn chồn chờ đợi, thỉnh thoảng lại ghé mắt bên cửa sổ nhỏ nhìn ra ngoài, ông Nhất cũng thế ! chẳng ai muốn nói năng lời nào, và chẳng ai nghĩ đến chuyện cần phải nấu cơm ăn tối cả. Nhìn lại bao quát căn buồng máy, tất cả đã gọn gàng ngăn nắp, sàn ngồi trong khoang lót ván là chỗ ngủ của tôi bấy lâu nay có thể chứa được 35 người ngồi bó gối, phía sau buồng lái chứa khoảng 15 người, số còn lại ở trên mui, cái máy thuyền to qúa, nằm giữa khoang với cái ” bánh trớn ” to chả khác gì của “xe ủi lô”, thấy phát khiếp không ai dám ngồi gần, thùng nước bằng thiếc to thiết kế theo dạng mũi thuyền chứa được 800 lít nước và phía sau đuôi thuyền cũng có 1 thùng thiếc phía dưới chứa 800 lít dầu gasoil, thêm 4 kan lẻ để phía trên và 4 kan nhớt máy nữa. Tất cả do ông chủ nhà, nơi neo thuyền ở bến Hàm Tử lo đầy đủ và giao cho chúng tôi lúc ra đi, 2 cái “béc ” phun dầu dự phòng để trong hộc khoang phía trước cùng với sợi dây cu roa máy bơm nước, bên hông trên cao mới gắn thêm 1 máy bơm nước bằng tay, phòng trường hợp máy bơm máy không làm việc, một trục máy dài 2 mét gắn sẵn chân vịt mới dự trữ, đây là kinh nghiệm học được ở những người đi trước thưòng gặp phải trục trặc.

Chợt có tiếng người nhẩy lên thuyền làm tôi điếng người, một người đàn ông cúi mình thò đầu vào khoang nhìn dáo giác một lượt rồi hỏi :

– Xong rồi chứ ? đánh nhe, mọi người tới rồi.

Tôi chỉ kịp trả lời :- Dà. thì ông ta đã quay gót nhẩy lên bờ, lát sau thì nhiều tiếng động trước mũi thuyền, làm chiếc thuyền chao đảo không ngừng, gìa trẻ trai gái, lần lượt chui nhanh vào khoang, chỉ có tiếng xì xào to nhỏ và tiếng lục cục của chân dẫm lên bục gỗ. Em Nguyễn Hữu Chí trao cho tôi gói giấy, phía ngoài bọc bao nylon, trong đó có cái hải bàn, và tấm hải đồ mà tôi đã khó khăn dò la để mua được. Ông Nhất nói với Chí quay giúp bánh trớn, cái máy ho lên xằng xặc nổ được chốc lát rồi từ từ tắt ngấm, lại quay – rồi lại tắt. Ông Nhất bực dọc : – Thợ máy đâu rồi hè ?. Một người lên tiếng :- Tôi đây, rồi thoăn thoắt chen qua đám người ngồi chật ních đến bên máy tầu kiểm soát, tôi cũng chui đầu vào nhìn, thấy nhớt trong máy phun ra phè phè mỗi khi máy nổ, anh ta lẩm bẩm gì đó với nắp máy đã dược tháo ra, tôi hỏi :

– Có cần gì không anh ? sao vậy ?

Anh ta trả lời :
– Không sao, chạy được, nhưng uống nhớt hơi nhiều, ai căn máy gì kỳ qúa dzậy? để coi lại coi !!!

Anh ta vặn vặn xoay xoay một chặp thì máy cũng nổ được đều đặn trở lại, và chiếc thuyền rời bến nhắm thẳng cửa biển tiến tới, mọi người ngồi im lặng trong bóng tối nén tiếng thở mạnh, thế nhưng cái máy tầu cứ ho lên còng cọc vang lên và ống nước giải nhiệt trong máy thải ra ngoài phun lên phè phè. Cái khoang bé xíu vậy mà có thể chứa được hầu hết tất cả mọi người trong đó, khi nghe ông Nhất nói tôi mới để ý : – Ráng chịu khó ở trỏng một lát đi bà con, ra khỏi cửa biển là xong rồi.
Thuyền chạy được một lúc thì đến cửa biển, nước trong thuyền dâng cao ướt chỗ ngồi, ông Nhất mở máy bơm cho nước ra ngoài, sóng cuộn có phần mạnh hơn, trước mặt là biển nước mênh mông, ánh nước nhấp nhô trong bóng đen rờn rợn, tôi quay lại nhìn phía sau, không còn thấy nhánh sông vừa đi ra là ở chỗ nào nữa, chỉ thấy lờ mờ những hàng cây, bờ đất ẩn hiện thành một hàng ngang, trên cao là cột hải đăng sừng sững đang thè lưỡi liếm bóng đêm từng vòng.

Thuyền kéo ga hết cỡ đi về phía trước, tôi mừng thầm : “Chạy nhanh như vậy sẽ mau đến hải phận, giờ này nếu bị phát hiện họ đuổi theo cũng không kịp”. Nhưng mỗi khi nhìn lại ngọn đèn hải đăng, thì vẫn thấy nó nằm đó, vẫn thấy rõ mồn một chẳng cách xa được là bao nhiêu. Tôi lần mò mở bao giấy lấy hải bàn ra xem, giờ phải dùng đến nó để định hướng đi, tôi xực nhớ đến những vật dụng cần thiết khác, bèn hỏi lớn :

– Ai cầm gói thuốc tây ??… Có ai thấy cái buồm không ??… Ai giữ phao, mấy cái ruột xe hơi đó ??…

Không có tiếng trả lời, đáng nhẽ ra tôi phải nhớ hỏi ngay từ lúc mọi người lên thuyền chứ ? nhiều việc chi phối trong đầu, khiến tôi không thể nhớ được mọi thứ. Tôi hỏi lại lần nữa, hỡi ôi ! vẫn không có ai trả lời, tôi thất vọng, bực bội và nổi giận. Bịch thuốc Tây gồm thuốc tiêu chẩy, thuốc say sóng, dầu nóng, thuốc nhức đầu, những cuộn băng vết thương v.v.. tất cả tôi đã mua được của anh Trần Đại Lộc, gần chợ An Đông. Cũng không thấy 4 cái ruột bánh xe vận tải được cắt đôi ra thành 8 khúc, ép kín và bắt khoen 2 đầu, dùng để gắn 2 bên sườn thuyền thay thế phao nổi cho thuyền cân bằng, tôi đã phải khó khăn để thuê làm cho thật tốt và kín đáo với giá không rẻ, thuê xe Ba Gác chở từ Hàng Xanh về Bến Hàm Tử thật không dễ tránh né Công An kiểm soát. Còn cái buồm nữa :- Trời ơi ! cái buồm đâu rồi ?. Cái buồm được cắt ra từ một cái dù mầu trắng của lính nhẩy dù còn cả dây dù mới tinh, anh Thảo đã nhờ người nhà ngồi may suốt buổi tối. Tội nghiệp cái cột buồm còn nằm trơ kia, tôi đã phải đợi đến bến Ninh Kiều Cần Thơ mới mua được một thân cây gỗ dài 6 mét, đục đẽo làm chốt gắn sau buồng lái, để phòng khi ra khơi cần đến sẽ dựng lên. Tất cả mọi vật, anh Bang đã trao cho ông Đông ” chủ bãi ” để đem ra đây cùng với mọi người trong ngày hôm nay, tất cả đều không thấy đâu? Vì cuộc sống khó khăn, hay vì lương tâm bất nhẫn, lòng tham đã khiến người ta giữ những vật ” vô giá ” đó của chúng tôi làm của riêng, mà không cần màng đến tính mạng và thân phận của những người đang đi vào cõi tử sinh, “một đi không trở lại”, và họ nghĩ rằng, sẽ không còn gặp lại chúng tôi nữa. “Bần cùng sinh đạo tặc”, buồn cho ” thế thái nhân tình” trong cuộc sống khó khăn của xã hội mới, đã tạo cho họ những tư tưởng và hành động bất nhân như thế. Có tiếng ai la lớn trong khoang:

– Sao nước vô nhiều qúa vậy ? mở máy bơm lên.

Có tiếng ông Nhất vang lên :

– Mở rồi, chở ” khẳm ” nước dô chút đỉnh mà, lo chi.
Tiếng máy vẫn nổ cọc cọc vang động dòn tan, đẩy chiêc thuyền đi tới, trong bóng đêm mênh mông, mặt nước tương đối bình lặng, biển nước bao la không có một điểm mốc nên thấy như nó vẫn đứng nguyên một chỗ, trong khoang lặng im trong sự căng thẳng hồi hộp, tôi lo lắng nhìn về phía bờ xa sau lưng, ngọn hải đăng vẫn còn đấy, – Trời ơi, đi lâu qúa rồi mà vẫn chưa khuất ngọn hải đăng, điệu này, chắc họ nhìn thấy mình qúa. Tôi nhủ thầm, bỗng nghe ” Xầm ” một cái, chiếc thuyền nghiêng về một bên, bất động, ông Nhất la lên :

– Mắc cồn rồi !!!

Tiếng máy rú lên, hạ xuống, rồi lại rú lên, chiếc thuyền không nhúc nhích, ông Nhất nói lớn.

– Bà con làm ơn xuống bớt đi, bị mắc cạn rồi, xuống cho nhẹ bớt… xuống đẩy phụ thuyền lui lại một chút, mấy người to con đó, xuống đi, lẹ lẹ một chút đi, làm ơn mà !!!

Chẳng một ai dám xuống cả, giữa đêm đen bảo nhẩy xuống giữa biển mênh mông, làm sao có đủ can đảm. Tôi lại không biết bơi, không dám nhẩy xuống nước, thì làm sao dám hô hào kêu gọi mọi người, đang bận rộn tìm phương cách gỉải cứu chiếc thuyền ra khỏi chỗ này, nên không có hề ý tưởng thất vọng bi quan gì cả. Tiếng ông Nhất lại la lên :

– Bà con giúp một tay đi chớ, tụi nó ra bắt cả lũ bây giờ, lẹ lên.

Vài người thanh niên làu bàu văng tục nhẩy xuống nước, chắc họ không biết bơi, có người leo qua mạn thuyền trượt xuống nước, tôi hỏi :

– Nước có sâu không vậy ?
– Tới đây nè !

Người thanh niên khoác tay, quơ ngang cần cổ, tôi lần theo mạn thuyền cũng trèo xuống, thuyền chạy trên một bãi cồn cát ngay giữa cửa biển trong khi mực nước xuống thấp và chiếc thuyền chở nặng với sức trớn phóng nhanh đã đâm sâu vào giữa vùng cát nên bị mắc cạn, chúng tôi hè nhau đẩy tới, đẩy lui, tiếng máy rú lên, nhưng chiếc thuyền chỉ lắc qua lắc lại.

– Xuống hết đi bà con, nặng qúa, giúp một tay đi bà con ơi !!!

Thêm được một vài người nữa nhẩy xuống, người đẩy, người dùng chân moi cát, người lắc, làm được chuyện gì thì cứ làm. Khoảng 15 phút sau chiếc thuyền không còn nhúc nhích được nữa, nó lệch nghiêng qua một bên, lặng im như đài tưởng niệm được xây cứng bằng xi măng, mức nước xuống tới ngực, tiếng máy thuyền chậm dần hậm hực rồi tắt lịm. Tôi hỏi như một phản xạ :
– Sao vậy ?
Ông Nhất nói :
– Chạy gì nổi, chờ nước lên rồi đẩy ra chạy tiếp.

Niềm lo lắng và thất vọng bao trùm lên mọi người, tiếng lẩm bẩm, tiếng chửi, tiếng than và tiếng cầu kinh nổi rân rang trên thuyền. Mọi người đều chờ đợi, đợi con nước mau mau về tới, đợi tầu tuần tra ra cứu? hay họ ra bắt? sao cũng được, không thể làm khác hơn được, niềm lo lắng và thất vọng kéo dài từng giây phút khiến sự chấp nhận số phận đã an bài. Tôi miên man nghĩ đến những sự việc đen tối sẽ sẩy ra, tương lai rồi sẽ ra sao ? Ở nhà chắc đang mừng rỡ khi nghe ông Đông về báo tin tất cả đã ra cửa biển an toàn, hay đã được tầu buôn ngoại quốc vớt lên rồi. Bầu trời vẫn tối đen, có một chút mờ ảo của ánh trăng đã bị mây mù và hơi nước của biển che lấp không nhìn rõ những sự vật xung quanh, bộ quần áo trên người ướt sũng nhưng không thấy lạnh , vì nhiệt độ nóng bức hay bởi sự chán nản khiến chẳng ai quan tâm ? Lậy trời đừng để tôi bị bắt, nếu bị vào tù chắc chắn vợ và con tôi khổ lắm, họ đang lao đao sống ẩn núp mọi nơi, việc học của các con bị gián đoạn,

Ồ mà không sao, đâu cần đến trường học những thứ đó, ráng chịu khó một thời gian rồi sẽ được học những điều giá trị hơn, sống một cuộc sống đúng nghĩa hơn. Tội nghiệp vợ tôi phải vất vả với các con nơi vùng đất xa lạ với miếng cơm giấc ngủ hằng ngày, những người thân thích nay đã không còn ở đó nữa, họ đã đi vùng kinh tế mới, vượt biên hay trong lao tù cả rồi, bằng hữu thì phần lớn đã ra nước ngoài, phần còn lại cũng lao đao vất vả không kém gì mình, chắc rồi lại phải dắt díu nhau trở về nhà mà thôi, nơi còn có cha mẹ anh em đang hy vọng cầu mong con mình đã tìm được một chỗ an thân, trở về với đắng cay, về với khổ nhục lưu đầy, về bên những con người cùng mầu da, cùng tiếng nói nhưng luôn tìm cách đầy đọa trấn áp nhau, có còn lối nào thoát thân nữa không? Nếu như giờ này vợ con tôi cũng có mặt trên chiếc thuyền này thì sẽ ra sao ? cả nhà sẽ vào chung trong một nhà tù? lại càng đau lòng và ân hận hơn.

Tôi thở một hơi dài an ủi may chỉ có 1 mình, định mệnh đã xếp đặt tôi không thể tham lam, không thể thất hứa những hẹn ước mà ngay ban đầu đã dành cho nhau, cả nhà đều đặt ưu tiên cho tôi lên hàng đầu, phải bằng mọi cách vượt thoát càng nhanh càng tốt, phần còn lại sẽ giải quyết sau, hoàn cảnh chỉ có thế !!!

Ngồi chờ con nước lên, chờ niềm hy vọng và hạnh phúc mong manh sẽ tới. Có tiếng nước vỗ vào mạn thuyền, lúc đầu nhè nhẹ rồi mạnh dần, ông Nhất gọi lớn :

– Bà con phụ đẩy thuyền một chút đi, nước lên rồi.

Rồi kêu người quay bánh trớn cho nổ máy, vài người thanh niên nhẩy xuống, đẩy qua đẩy lại, chiếc thuyền nhúc nhích có vẻ nhẹ hơn đêm qua, rồi bất chợt chiếc ghe bật qua nằm thẳng, mấy người thanh niên vội leo nhanh lên thuyền khi nghe tiếng máy rú lên, chiếc thuyền lúc lắc vài cái và trôi tuột ra phía sau, mọi người vui mừng reo lên chuyện trò nhốn nháo, ông Nhất quay mũi thuyền tránh bãi cồn và tống ga nhắm hướng chân trời phóng tới…, phía xa trước mặt một vẫng sáng mờ lạt đang tỏ dần, báo hiệu bình minh sắp ló dạng, cái lưỡi ánh sáng của ngọn hải đăng vẫn gắng gượng quét trên đầu chúng tôi, và thật hân hoan, tôi ưỡn ngực hít sâu một luồng gió mát đầy phổi, thật sảng khóai, nhẹ nhõm…

Đợt thủy triều kéo về đất liền, tạo thành những lằn nước cuộn tròn lăn về phía chúng tôi, thuyền bơi theo dòng ngược ra khơi như những con cá hồi vượt dòng thác trở về nơi ra đời, chống chỏi mệt mỏi, mỗi lần thuyền cưỡi lên lằn sóng rướn mình qua bên kia, nó dập mũi xuống múc lên một mẻ đầy nước biển, cũng may, mặt boong thuyền đã được đóng kín và cửa vào khoang thuyền cũng có bệ cao ngăn chặn nước tràn vào. Bầu trời mỗi lúc một tỏ hơn, tôi đứng trước cửa khoang, nhìn ra ngoài mặt biển, chung quanh vẫn chỉ một mầu nước thâm đen, không một bóng thuyền nào khác ngoài tiếng động cơ máy nổ rầm rộ và tiếng ói mửa bên trong lại vang lên. Đây là lần đầu tiên tôi được đi trong một chiếc thuyền nhỏ trên biển, tận hưởng những lằn sóng ngoạn mục nhào lên lặn xuống, vậy mà tôi lại không bị say sóng không một mảy may khó chịu, ngược lại, còn có phần thích thú là đằng khác, không hề nghĩ rằng sự nguy hiểm có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.

Niềm lo lắng đêm qua vừa tan biến, niềm vui mới chưa ngập lòng thì bỗng :

– Sao nước vô nhiều vậy nè bà con ơi, tát nước, tát nước, lẹ lên, lẹ lên.

Nhiều tiếng hốt hoảng la lên, tôi hoảng hồn nhìn vào khoang thuyền, nuớc ngập làm ướt chỗ ngồi, nhìn qua bệ gắn máy tầu, phía dưới nước dâng ngang lườn máy, chiếc motor bơm nước cũng nằm phía dưới đó, người ta nhốn nháo la ó loạn xạ :

– Tát nước, mở máy bơm nước !! bể thuyền rồi, máy bơm không chạy !!
– Máy đang bơm mà ? bơm tay nữa đi, cái bơm gắn trên tường kia kìa…

Cái máy bơm bằng điện chắc bi hư rồi, nên không làm việc được, vài người thay nhau đẩy cần bơm tay qua lại, nước phun ra ngoài, nhưng được một lúc thì ai cũng nản vì mệt mỏi, chiếc thuyền chở nặng chìm xuống mặt nước sâu hơn, và mỗI lần cưỡi sóng ngoi lên, là một lần múc đầy nước trên mui thuyền, chả khác gì con cá voi mỗi lần trồi lên là phun nước phè phè ra ngoài, đồ ói mửa như mật xanh mật vàng, lênh láng bồng bềnh trong khoang thuyền bám vào quần áo mọi người đang ngồi thu gối nước ngập ngang mông, mùi tanh hôi nồng nặc tỏa khắp căn phòng như cái hầm gỗ, mọi người cùng hít thở cái không khí vẩn đục đó, người không say sóng cũng bị ói mửa theo là vì vậy.
Bình thường nhìn qua khung cửa nhỏ trên vách thấy cảnh vật phía dưới thật xa, nhưng giờ thì thấy nước biển lấp ló phía ngoài, tựa hồ muốn trào vào trong, trong thuyền còn có một cái gầu múc nước, giờ chuyền nhau múc nước tạt ra ngoài cửa sổ, chị Nguyệt ngồi tựa lưng vào cửa sổ nhỏ bên trái, múc từng ca nước hắt ra ngoài, miệng túm tím như đang ăn trầu, khuôn mặt thản nhiên không vướng chút âu lo, bởi chị đã quen và từng sống trên sông nước lâu năm. Lê Văn Thành người có nước da ngâm đen ngồi sau lưng cửa khoang, nụ cười luôn nở trên môi, anh dùng một can nhựa 20 lít đã được cắt rộng miệng và cũng thản nhiên múc nước trong khoang đổ ra ngoài, anh nói nói cười cười kể chuyện luôn miệng nhưng tôi không nghe rõ được điều gì, một hình ảnh thể hiện tâm tánh của con người bình tĩnh, thản nhiên đối phó trước sự hiểm nguy trước mặt, thật dễ cảm mến, cũng kể từ lúc đó tôi quen biết anh.
Không ai biết được nước từ đâu vào, mọi người lần mò tìm kiếm khe hở trong lòng thuyền, từ chỗ những mảnh ván ghép vào nhau được trét kín bằng giây gai trộn Chai keo, cho đến những lỗ bắt đinh ốc dưới đáy thuyền, cũng không thấy mạch nước phun lên, lạ qúa ? chắc chắn phải có chứ !! vì tát hoài mà nước mỗi lúc một nhiều hơn. Có người đề nghị :

– Vứt đồ không cần thiết cho nhẹ bớt đi.
– Vứt bớt mấy can dầu dư kia đi.

Thật là điên, vứt dầu đi thì làm sao vượt biển được nữa, nhưng đã qúa trễ, người ta quăng tất cả những gì có thể quăng được xuống biển khi vừa nghe xong lời đề nghị. Như một quyết định có sẵn, như một mệnh lệnh vừa được ban ra, kể cả mấy can dầu lẻ nằm ngang phía sau mạn thuyền, không ai kịp ngăn cản cũng đã bồng bềnh nhấp nhô trên sóng nước trôi xa.

Một người lớn tuổi ôn tồn nói :
– Bà con thấy rồi đấy, máy bơm hư rồi và nước vô nhiều qúa, nếu tiếp tục đi nữa chắc chìm thuyền luôn không ai có sức tát nổi, mấy can dầu cũng bị vứt xuống biển rồi, làm sao đi tới nơi, bà con muốn tiếp tục đi nữa hay quay về ?
Nghe tới đây nhiều người la lên :
– Thôi dzề đi bà con ơi !!!

Tiếng la ó, tiếng chửi thề, tiếng than khóc vang lên, nhưng mọi người dường như hài lòng với đề nghị này, họ đã nhận thấy sự nguy hiểm đang đến gần, việc quay trở lại bây giờ là đúng lúc, vì thuyền không ở xa bờ là bao nhiêu. Trong trường hợp này bắt buộc ông Nhất phải chấp nhận, quay tay lái đánh một vòng ngược lại. Tôi buồn rầu cúi mặt nghĩ đến chặng đường gian nan sắp tới mà lòng đầy thất vọng, mắt chằm chằm nhìn đôi bàn tay của anh Thành vẫn nhịp nhàng múc nước trong khoang đổ ra ngoài, như một lời cảnh báo, cùng là một lời vỗ về an ủi. Thuyền nhắm thẳng ngọn hải đăng trở về, ánh vừng hồng ngại ngùng tỏa sáng sau lưng…

Cửa Thạnh An, nơi khởi hành đêm qua, giờ chẳng biết đâu nữa, từ xa nhìn vào chỉ thấy một bờ giống nhau, cứ chạy thẳng vào đấy rồi tìm nhánh sông chui vào, thâp thoáng 2 bên có bóng thuyền chạy ra biển, chắc tầu đánh cá, chẳng ai để ý đến chúng tôi cả, và cũng không thấy bóng dáng tầu tuần duyên.

Thấy được nhánh sông, ông Nhất tiến sâu vào đấy, chạy được một lúc, có một bờ đất rộng nhiều cây lớn mọc, phía xa có bóng nhà dân, ông Nhất cho thuyền ghé xát vào bờ rồi la to :
– Chạy đi bà con, chạy lẹ đi kẻo bị bắt đó.

Thế là mọi người vội vã ùa nhau nhẩy lên bờ, tiếng la của trẻ con, tiếng khóc của phụ nữ, tiếng than của đàn ông tạo thành một âm thanh ồn ào hỗn độn, mọi người tủa ra mọi phía, mạnh ai người đó chạy. Ông Nhất nhìn tôi ngầm hỏi ý, rồi quay lưng định nhẩy luôn lên bờ, tôi gọi dật lại :

– Bác Nhất ! đừng đi bác ơi ! ai lái thuyền về bây giờ đây ?
– Đem thuyền về bây giờ là bị bắt cho coi, thua rồi thì bỏ tiếc chi nữa, anh cũng chạy mau đi ?
– Bác làm ơn giúp một phen cho chót đi, lên bờ chưa chắc là thoát, tôi còn giữ giấy tờ ghe chở hàng, ráng chạy về đi, bỏ mất lấy gì đi được nữa.

Tôi năn nỉ một tràng, vừa nghe, ông Nhất vừa khom mình luồn vô buồng lái, mở máy chạy tiếp. Coi vậy mới biết ông ta là người tốt, không có ý phản bội, cũng còn có trách nhiệm và giữ lời hứa, hay tại ông ta không còn lối nào thoát, trên ghe vẫn an toàn hơn trên đất chứ ?, kinh nghiệm lần trước cho ông thấy lớ ngớ trên đất lạ, bị phát hiện vượt biên là bị bắt ngay, phải có vài chỉ vàng trong túi để hối lộ chính quyền địa phương kịp thời.

Mọi dấu tích của sự vượt biên phải được phi tang lập tức, tôi chui vào khoang thuyền kiểm soát, một cảnh hỗn độn bừa bãi bầy ra trước mắt như một bãi rác sau cuộc ăn chơi vui thú, nào giấy báo gói xôi, nào lá chuối lá dừa gói bánh, nào bao nylon gói rác, gói đồ ói mửa, quần áo dơ bẩn bám đầy dầu mỡ, dây dợ, chai lọ…tất cả lềnh bềnh dạt qua dạt lại trong khoang thuyền, mùi tanh hôi của nôn mửa vẫn còn đó làm tôi lợm giọng, khó thở. Dang rộng tay, tôi vội vã gom tất cả những thứ đó quăng nhanh ra sông, phải làm sạch sẽ càng nhanh càng tốt, thời gian thật cần thiết, lật mấy tấm ván lên để kiểm soát phần phía dưới, ở đó cũng bừa bãi chẳng khác gì phía trên. Trời ơi ! quần áo dầy dép bao bì rác rưới ở đâu mà nhiều thế ?

Ngồi chật ních bó gối một chỗ trong khoang, cho nên những thứ gì không cần dùng nữa, tiện nhất là nhét xuống phía dưới, nhét vô kẽ thuyền, hoặc chỗ dựa lưng là xong. Đầu ống tube của máy bơm nước được bao chung quanh bằng một tấm lưới sắt dùng để ngăn lọc đất cát hay rác vụn, giờ bị bít kín bởi giấy báo và bao nylon, thảm nào máy không thể bơm nước ra ngoài, may quá bơm chưa bị hư, tôi gỡ bỏ tất cả những rác bẩn đó và nước dược bơm ra ào ào ngay lập tức, chốc lát sau, trong khoang cạn khô và chẳng tìm đâu ra một chỗ hở hay vết nứt khiến nước ngập tràn như thế, tôi nói với ông Nhất :

– Kỳ qúa, không biết nước vô chỗ nào ? bây giờ thì chẳng còn giọt nước nào cả !!!

Sau này, khi nâng tầu lên bờ sửa chữa mới biết rằng, cái ống tube được gắn kín trong hầm phía sau, làm trục đõ cho cần lái thuyền qúa ngắn, bình thường thì không có chuyện gì xẩy ra, nhưng khi chở qúa nặng, thuyền chìm sâu xuống nước, sức đẩy của nước bị tống lên theo lõi ống tube phun vào trong, thuyền càng chạy nhanh, đuôi thuyền càng rị xuống thấp, sức ép của nước phun vào càng nhanh.

Thuyền đi lạc lối loanh quanh, xuyên qua nhiều lạch nhỏ, băng qua bao nhánh lớn, thỉnh thoảng gặp thuyền qua lại, ông Nhất hỏi thăm đường về SàiGòn, lần này thuyền chỉ đi vào ban ngày, ban đêm tìm chỗ neo thuyền ngủ lại, đường về ít bị để ý hơn lúc đi.

Thế nhưng vào một buổi chiều khoảng 4-5 giờ, trên một bờ đất lở, có một đám người đứng gìm súng hô gào, gọi vẫy chúng tôi cặp vào bờ. Cột thuyền vào hàng cọc đã neo sẵn vài chiếc thuyền nơi đó, tôi và ông Nhất cùng leo lên, họ hỏi thẻ Chứng Minh Nhân Dân cùng Giấy Thông Hành, họ chỉ chúng tôi ngồi chung với đám người đang ủ rũ trên cây gỗ mục nằm sát ven hàng rào, cạnh hàng cây bụi tre. Mọi người ngồi đấy đã hơn nửa tiếng đồng hồ mà chẳng nghe gọi đến tên, chẳng nghe chất vấn hay tra khảo chi cả, một nguời trong “trạm kiểm soát ” lững thững ra mé sông, nhẩy lên từng chiếc ghe – thuyền, nhìn ngó quanh quất, rồi lại trở lên.

Một ông lớn tuổi ngồi trong đám lên tiếng :

– Thôi ! góp chút đỉnh caphê thuốc lá cho nó đi, có tiền không ?

Thiệt chán qúa ! ” gia tài ” tôi chỉ còn độc nhất 20 đồng trong túi, còn phải mua đồ ăn dọc đường nữa chứ ! ông Nhất chỉ còn khoảng 15 đồng ( lương nhân viên lúc này khoảng 27 đông VN một tháng ), tôi trao 10 đồng cho người đàn ông đại diện cho cả nhóm, số còn lại dấu đi, ông Nhất cũng nộp 10 đồng, gom góp chẳng biết được bao nhiêu, chặp sau ông ta từ trong văn phòng ra nói :

– Chưa đủ, nộp thêm nữa, họ làm khó dễ qúa bà con.

Lại một vòng ” lạc quyên ” nữa, tôi đành móc hết cho xong, kẻo lỡ họ ra lục soát thấy còn dấu tiền thì…không biết nói sao đây ?

Gió chiều lồng lộng thổi, bầu trời ngả mầu xám xịt như cơn giông đang kéo đến, mặt sông gợn sóng bồng bềnh dập vào mạn thuyền, những chiếc thuyền nhẹ tâng lúc lắc, uốn éo theo làn sóng nước va dập vào nhau, gió cuộn hơi nước mát lạnh thổi ập đến chúng tôi, chưa lúc nào tôi thấy lạnh như lúc này, có lẽ vì đói, mệt và chán nản, chúng tôi phải ngồi chịu trận ở đó cả tiếng nữa, không biết lý do tại sao lại phải ngồi đây ? (cũng may là không có lý do ). Cuối cùng thì chúng tôi cũng nhận lại được giấy tờ, lục đục kéo nhau trở về thuyền. Hầu như tất cả những chiếc thuyền này đều đi chở thuê, nhưng hôm nay đều trống rỗng, không chở hàng hóa trên thuyền, cho nên bị ” phạt ” ngồi hơi lâu, bình thường nếu có hàng chuyên chở thì phải tự động vào nộp ” mãi lộ ” sẽ được đi ngay.

Đường trở về bao giờ cũng thấy ngắn hơn, tránh né tất cả những gì có thể đem lại phiền phức, lần mò hỏi thăm đường đi thường xuyên, nên chúng tôi đã về được bến Sài Gòn dễ dàng và nhanh hơn dự tính, nắp khoang thuyền cũng như mái che buồng lái, vẫn phủ mờ một lớp muối mỏng trắng xóa dưới ánh mặt trời, mặc dù thỉnh thoảng tôi đã phải múc nước sông lên dội cho muối trôi đi, cột ống khói và những đinh-ôc bằng kim loại, đều bị hoen rỉ đổ mầu vàng nâu vì muối ăn mòn. Đến bến Hàm Tử, chạy ngay về chỗ cũ, nơi ông chủ nhà đã giao kết chấp chứa cho neo thuyền sau nhà ông, đúng vào những ngày cuối năm, mọi người đang sửa soạn đón Tết Tân Dậu 1981. Chúng tôi cột thuyền xong, bước xuyên qua phòng khách băng ra đường, đón xe ôm về nhà, để lại sự kinh ngạc của ông chủ nhà, đang ngơ ngác nhìn chiếc thuyền còn phủ mờ một làn muối trắng, dấu tích của cuộc vượt biên thất bại vừa qua.

Và cũng kể từ hôm đó, tôi không còn dịp gặp lại ông Nhất nữa.

Nguyễn Quyết Thắng

Image may contain: ocean and water
Image may contain: ocean, water, outdoor and nature
 
 

Tuyên giáo Hà Nội và giọng điệu vừa ăn cướp vừa la làng

Tuyên giáo Hà Nội và giọng điệu vừa ăn cướp vừa la làng

CTV Danlambao – Đất của dân chúng vào cướp, dân bảo vệ đất sở hữu của mình thì chúng gọi là sự việc là “vụ gây rối“, “tình hình vi phạm pháp luật”. Đó là thái độ của Ban tuyên giáo Thành ủy Hà Nội với thông báo về việc nhà cầm quyền cướp đất của dân tại Đồng Tâm.

Nguyên văn từ báo lề đảng:

“Ban tuyên giáo Thành ủy Hà Nội phát đi thông tin chính thức về tình hình vi phạm pháp luật tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức… Cụ thể như sau: Trong thời gian gần đây, trên địa bàn xã Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức) đã xảy ra tình trạng vi phạm trên đất quốc phòng.”

Ai mới thật sự là những kẻ vi phạm? Cũng từ báo Tuổi Trẻ:

“Mặc dù các cơ quan chức năng của TP đã áp dụng nhiều biện pháp như tuyên truyền, vận động, thuyết phục, đối thoại, trả lời và giải quyết nhiều kiến nghị của người dân, nhưng tình hình ngày càng trở nên nghiêm trọng.”

Nếu đọc kỹ câu trên chúng ta sẽ thấy rõ ai là kẻ cướp đất. Nếu người dân tự dưng xông vào cướp đất của Bộ Quốc phòng thì nhà cầm quyền chắc chắc sẽ bắt giam từ lâu. Chỉ khi nào nhà cầm quyền cướp đất của dân, dân không đồng ý nên mới có chuyện “tuyên truyền, vận động, thuyết phục, đối thoại, trả lời và giải quyết nhiều kiến nghị của người dân”.

Do đó, rõ ràng là nhà cầm quyền đã muốn chiếm đoạt đất đai, thương lượng để lấy trắng đất của dân không được nên mới xông vào cướp. Vậy thì ai mới là những kẻ “gây rối”, là những kẻ đã “vi phạm pháp luật”?

Thế nhưng, chính những tên tội phạm vi phạm pháp luật này đã dùng quyền hạn có được từ ngày cướp chính quyền để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự đối với người dân về hành vi “gây rối trật tự công cộng”

Theo đám tuyên láo Hà Nội thì người dân đã không hiểu biết pháp luật nên đã có hành vi cản trở và bắt giữ những kẻ đã… xông vào cướp đất của dân.

Tuyên láo còn đưa ra giọng điệu quen thuộc là người dân “không để các đối tượng xấu lợi dụng, kích động dẫn đến vi phạm pháp luật”!

Những kẻ kích động làm cho người dân nổi giận và đứng lên phản kháng không ai khác hơn chính là những kẻ muốn cướp đất của dân! Cần gì phải có ai kích động mới có thái độ khi đất của mình bị cướp.

Tóm lại, dưới sự cai trị của đảng, mọi hành động bảo vệ đất đai của người dân đều bị xem là vi phạm luật pháp, gây rối và những kẻ ăn cướp lại là những kẻ đưa người bị cướp ra tòa.

18.04.2017

CTV Danlambao

danlambaovn.blogspot.com

Trận chiến cuối cùng của Niềm Tin!

Trận chiến cuối cùng của Niềm Tin!

FB Michael Lê

17-4-2017

Người dân Đồng Tâm, Mỹ Đức, đã không còn tin vào ai cả, họ chỉ tin cụ Kình (tóc bạc), nhưng cụ đã bị CA bắt. Ảnh chụp từ clip ngày 10-3-2017.

Hôm qua tôi xem video clip trực tiếp anh Trịnh Bá Phương phỏng vấn một người dân ở Đồng Tâm. Anh Phương chuyển một vài câu hỏi của đài BBC, và cố gắng trấn tĩnh người được phỏng vấn. Anh nhắc đi nhắc lại rằng cả nước và cả truyền thôngthế giới đang dõi theo rất sát, mong bà con hãy bình tĩnh, vững tâm và kiên trì.

Giọng người đàn ông trong clip (nghe giọng thì đoán là một nam trung niên, độ tuổi 30-40) tỏ ra vô cùng căng thẳng, xúc động, kể cả sợ hãi. Anh ấy luôn miệng nói rằng người dân chỉ mong cấp lãnh đạo trung ương “đèn giời soi xét”; mong “Đảng và lãnh đạo” lắng nghe nỗi lòng của dân và xuống giải quyết, chứ dân không hề muốn làm loạn.

Có một điều tôi thấy rõ: người dân đã cố nhẫn nhịn (có thể vì sợ) cả chục năm qua khi đội đơn khắp nơi không ai giải quyết, khi từng mảnh đất ruột thịt đang bị cướp dần. Nhưng, khi cụ Kình, một bô lão được mọi người trong xã kính yêu, một người dày công với chế độ, bị lừa gạt, bị đối xử dã man và bị bắt; lại có thêm một thanh niên vô tội trong xã bị đánh trọng thương… thì cơn uất của người dân như giọt nước tràn ly, không kềm được nữa.

Giọng người đàn ông trả lời phỏng vấn như muốn òa khóc, như vô cùng đau đớn kinh hoàng khi nhắc đến hai “người làng mình” bị hành hung này.

Số người trong xã bị bắt cũng khá đông, hình như 15 người. Khi có hai người dân được thả về sớm, mang theo thông điệp điều đình của chính quyền Hà Nội (vì đích thân ông Chung giải quyết vụ xung đột này) thì người dân đã làm gì?

Thật ngạc nhiên, người dân đã… bắt giam luôn hai người làng của mình, lý do là cho rằng họ đã đầu hàng, đã phản bội, đã tiếp tay cho “chính quyền” để lừa gạt người dân lần nữa!

Đây rõ ràng là “trận chiến cuối cùng của Niềm Tin”. Đáng mừng thay, cái tình làng nghĩa xóm của người dân – đặc biệt trong trường hợp này là người dân miền Bắc gần 1 thế kỷ dưới chế độ XHCN – vẫn chưa tắt mất.

Đất đai nhà cửa mất có thể gầy dựng lại được, có thể nhịn nhục chờ thời cơ được, nhưng cái tình đồng bào thương nhau, tin nhau, đùm bọc nhau, động thân đồng phận với nhau hàng ngàn năm qua… không gì có thể thay thế được!

Bỗng nhớ ngọn lửa cách mạng ở Tu-ni-di Phi Châu bùng lên, là do một người bán hàng rong, vâng, chỉ là anh bán hàng rong, bị bức tử trên đường phố!

“Dân vi quý. Xã tắc thứ chi. Quân vi khinh”. 

Đồng bào Việt Nam ơi. Mất nhau là mất tất cả!

____

Clip anh Trịnh Bá Phương phỏng vấn người dân Đồng Tâm:

LS Nguyễn Danh Huế

17-4-2017

Tôi đã từng gặp một khách hàng có 15 năm đi khiếu kiện về đất đai. Sau khi nghiên cứu hồ sơ tôi đã khuyên họ không nên đi khiếu kiện nữa vì họ sai, chính quyền đã xử lý đúng. Họ đã nghe tôi.

Từng tiếp cận hàng trăm vụ việc về đất đai nhưng thật buồn là trường hợp tôi kể trên đây là rất hiếm nếu không muốn nói là duy nhất. Đa phần người dân khiếu kiện là có cơ sở, còn cái sai của chính quyền về đất đai thì nhiều vô kể.

Bạn đang yên ổn làm ăn, bỗng một hôm căn nhà hay mảnh đất của bạn bị lọt vào “tầm ngắm” của một kẻ mang cái tên mỹ miều “dự án…”. Người ta trả một cái giá rẻ mạt và đương nhiên bạn không thể chấp nhận cái giá rẻ mạt ấy. Rồi bỗng dưng điện, nước thường xuyên bị cắt, dân “xã hội” vật vờ đầy khu nhà bạn, thậm chí mắm tôm, cứt pha dầu nhớt thường xuyên được ném vào nhà. Hàng xóm nhiều người mệt mỏi và nhắm mắt nhận tiền đền bù để bỏ đi cho xong chuyện. Gia đình bạn vẫn kiên quyết bám trụ ở lại.

Rồi chính quyền, đoàn thể ra sức vận động để gia đình bạn nhường đất cho “dự án phát triển kinh tế của địa phương” nhưng gia đình bạn phần vì không thể chấp nhận cái giá đó và phần vì biết đi đâu và sẽ làm gì nếu mất đất. Rồi… người ta cho lực lượng công an hùng hậu đến cưỡng chế, bố bạn kiên quyết giữ đất đã chống trả rồi bị bắt, bị đi tù về tội “chống người thi hành công vụ” hay “gây rối trật tự công cộng”. Đất mất, người tù tội, gia đình tan nát… câu chuyện đó bạn có tin đang có ở thế kỷ 21 hay không?

Chưa có một cuộc điều tra xã hội học nào về cuộc sống của người dân sau khi bị thu hồi đất có cuộc sống ra sao nhưng chỉ cần nhìn vào chất lượng các căn nhà tái định cư dành cho người bị thu hồi đất ngay chính giữa thủ đô thì ắt hẳn ai cũng sẽ có câu trả lời. Những dự án toà nhà văn phòng hay khu chung cư cao cấp với những cái tên rất Tây đang tạm thời che lấp đi cái thảm trạng mang cái tên rất Việt: Nông dân mất đất.

Chính sách pháp luật về đất đai đang có rất nhiều bất cập và không loại trừ việc nó được can thiệp bởi những bàn tay của những con quỷ. Chính sách bất cập lại cộng thêm chính quyền nhiều nơi còn bóp cho méo mó thêm thì người bị thu hồi đất đương nhiên sẽ lãnh hết mọi bất công. Khiếu kiện về đất đai ngày một tăng đã gây bất ổn cho xã hội và tiềm ẩn một nguy cơ bất ổn lớn hơn trong tương lai rất gần. Ai cũng biết, chính quyền biết nhưng những ai làm luật đều hiểu đã quá muộn để sửa sai vì đơn giản: Sai nhiều đến mức không thể khắc phục.

Thu hồi đất để phát triển các dự án là cần thiết nhưng không vì thế mà bắt một nhóm người hay một cộng đồng phải gánh chịu bất công. Muộn còn hơn không, Việt Nam lúc này cần những nhà lãnh đạo có tâm, có lực để dũng cảm nhìn vào sự thật để sửa sai ngay, như thế may chăng còn chút hy vọng để tháo ngòi một quả bom đã kích hoạt!

Hà Nội: Cái khó trong vụ Đồng Tâm

Hà Nội: Cái khó trong vụ Đồng Tâm

Blog RFA

J.B Nguyễn Hữu Vinh

17-4-2017

Những viên CSCĐ đã bị dân Đồng Tâm bắt giam. Ảnh: Facebook

Vài ngày nay, thông tin qua mạng xã hội nóng lên bởi sự việc tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Tp Hà Nội. Những người nông dân giữ đất đã đồng tâm bắt hàng chục chiến sĩ cảnh sát cơ động nhốt lại, đòi nhà cầm quyền thả những người và đáp ứng các yêu sách của mình.

Có lẽ trong lịch sử cầm quyền của Cộng sản tại Việt Nam, trừ thời gian chiến tranh, còn lại khi đã cướp được chính quyền và thâu tóm được quyền lực về tay mình đến nay thì đây là lần đầu tiên, người Cộng sản Việt Nam gặp phải trường hợp một đoàn công an đông đúc với đủ loại trang thiết bị bị bắt giữ bởi người dân như vụ này.

Đã gần 3 ngày trôi qua, những thông tin ít ỏi về vụ việc vẫn tạo sự nóng bỏng trên mạng xã hội. Hơn thế, việc báo chí im thin thít rồi chờ đợi để copy lại vài dòng tin từ Công an một cách sợ hãi, dè dặt… đủ nói lên sự lúng túng và sợ hãi từ nhà cầm quyền.

Tức nước vỡ bờ

Điều cần nói, là vụ việc ở xã Đồng Tâm, thuộc huyện Mỹ Đức là vụ việc vốn tồn tại cả chục năm nay và vẫn cứ im lìm chìm đi giữa muôn vụ việc khác khắp nơi trên đất nước. Chẳng mấy ai và ngay cả hệ thống mạng xã hội chú ý đến vụ việc này.

Vì trên đất nước “bình an, hạnh phúc, ổn định và đáng sống” này vẫn hàng ngày hàng giờ bị nạn cướp đất đai, tài sản của người dân hoành hành bằng công an, cưỡng chế… Cái phương châm “đất đai sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý” có lẽ là một phát minh có tính lịch sử của những người cộng sản. Bởi đó là cái bùa hộ mệnh cho những hành động cướp bóc của người dân bất chấp đạo lý, bất chấp lương tâm và đơn giản là nghĩa đồng bào. Tất cả đất đai, ruộng vườn đều có thể bị cướp, dù đó là đất do chính họ hoặc cha ông họ khai khẩn từ đời nào thì cũng vậy, miễn là nhà nước nhảy vào “Quản lý”, thế là xong.

Vụ việc ở Đồng Tâm, nếu ai quan tâm chỉ cần vào Google với từ “Xã Đồng Tâm, Mỹ Đức” thì sẽ rõ. Ngay từ cách đây nhiều năm, báo chí đã nêu rõ việc chiếm cướp đất đai trắng trợn của người dân nơi đây của hệ thống Bí thư, cán bộ xã. Báo chí nhà nước kêu gào rồi cũng đành im vì chẳng ai làm gì được.

Ở Mỹ Đức, một chiêu bài được dùng để hù dọa và bịp người dân khá thành công là “Quốc phòng, an ninh”. Trong vụ Đồng Chiêm, nửa đêm nhà cầm quyền nổi hứng kéo gần ngàn quân đang đêm vào đập phá cây Thánh Giá trên Núi Thờ ở Giáo xứ Đồng Chiêm. Để lấp liếm tội ác này, nhà cầm quyền Hà Nội cho rằng cây Thánh Giá này “ảnh hưởng đến Quốc phòng, an ninh”. Một lý do rất… hài hước.

Nhưng, ở đây, sự lập lờ “Quốc phòng, an ninh” đã bị người dân bóc mẽ, họ đã không chấp nhận sự mập mờ đó. Nhưng mọi con đường kiện tụng, khiếu nại hết cửa nọ, đến cửa kia vẫn cứ quay về điểm xuất phát mới có… 10 năm.

Và người dân cứ vậy mà chấp nhận sự hà hiếp, đè nén và cướp đoạt của đám “đầy tớ nhân dân” bằng bao nhiêu trò thi thố nơi đây.

Thế rồi, bỗng dưng những thông tin và hình ảnh dồn dập làm nóng mạng xã hội về việc người dân Đồng Tâm đã tổ chức chống trả lại lực lượng đến cướp đất của họ và nhất loạt đồng lòng bảo vệ đất đai, tài sản của mình.

Thế rồi khi nhà cầm quyền giở con bài quen thuộc là dùng bạo lực để cướp đất đai, thì họ đã bắt giữ luôn cả một xe công an và cán bộ nhốt lại đòi nhà cầm quyền phải thả những người bị bắt.

Điều này làm cả xã hội sửng sốt.

Bởi điều đơn giản là ai đã từng sống trong chế độ cộng sản, thì mới hiểu được ý nghĩa của việc này như thế nào.

Với một nhà cầm quyền, mà “chính quyền sinh ra trên họng súng”, lấy bạo lực làm đầu thì đây là một việc “động trời” và ngang với những “tội tầy đình”.

Xưa nay, ở Việt Nam dưới thời Cộng sản, chỉ có việc nhà cầm quyền, công an, cán bộ muốn bắt ai là bắt, giữ ai là giữ, đánh đập ai là đánh đập, bỏ tù ai là bỏ tù chứ làm gì có ai dám bắt giữ cán bộ, công an bao giờ.

Xưa nay, nhà nước “của dân, do dân và vì dân” vốn “bình đẳng trước pháp luật” nhưng chỉ có cán bộ được bắt giữ, trấn áp người dân bằng mọi cách mà không bao giờ hề hấn gì, hoặc cùng lắm thì “cảnh cáo”, chết người thì vài ba năm tù… thế là xong. Còn người dân, những “ông chủ” nếu động vào đầy tớ của mình thì lập tức cả hệ thống vào cuộc và những tội lỗi tầy trời đã được dành sẵn, nhẹ nhất là “gây rối trật tự công cộng”, “chống người thi hành công vụ” còn nặng hơn thì “lật đổ chính quyền nhân dân”…

Tất cả đều có thể. Bởi chưng cả hệ thống từ lập pháp, tư pháp và hành pháp đều dưới một cây gậy của đảng “lãnh đạo tuyệt đối”. Và mọi hành vi đe dọa đến quyền lực của đảng, đều là “Chống lại Tổ quốc, chống lại dân tộc, và chống lại nhân dân” chứ không hề là chống đảng – Điều kỳ diệu của ngôn ngữ Việt thời đại Cộng sản là vậy.

Vậy điều gì đã thúc đẩy những người nông dân tay không nơi đây có những hành vi “động trời” “vuốt râu chó sói” này?

Có lẽ câu trả lời chỉ có thể là: Nhà cầm quyền đã đẩy họ đến cuối đường hầm bằng sự lộng hành và tàn bạo, đã mưu đồ tước đoạt nốt chút tư liệu sản xuất cuối cùng của họ, nghĩa là đẩy họ và con cháu, giống nòi họ vào chỗ chết.

Và đúng theo nguyên lý của Chủ nghĩa Mác – Lenin, thì “ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”. Hẳn nhiên, những người nông dân ở đây đã đấu tranh cả chục năm nay bằng nhiều hình thức khác nhau, đã nói lên sự áp bức ở đây dai dẳng như thế nào.

Rồi cũng đúng theo nguyên lý của Mác – Lenin, thì sức “nén càng mạnh, thì sức bật càng cao”. Chỉ có điều này mới có thể giải thích được hành động hôm nay của người nông dân xã Đồng Tâm, Mỹ Đức, Hà Nội.

Cái khó

Nếu như ở những vụ việc khác, nhà cầm quyền Hà Nội sẽ giải quyết đơn giản hơn.

Thông thường là sự trấn áp bằng bạo lực một cách tàn bạo nhất có thể để đảm bảo chắc chắn phần thắng về nhà cầm quyền. Để làm được điều đó, hệ thống truyền thông được huy động vào cuộc. Bầy kền kền này được giao nhiệm vụ rỉa rói con mồi bằng mọi cách, kể cả bịa đặt, dựng chuyện, vu cáo và bóp méo… trước con mắt người dân nhằm chuẩn bị dư luận.

Và rồi một đêm đẹp trời hoặc một ngày mà tất cả mọi nẻo đường bị chặn, máy phá sóng và mọi sự liên lạc bị cắt đứt… là lúc bạo lực lên tiếng.

Hẳn nhiên, người dân tay không làm sao có thể trụ được với hệ thống lực lượng chuyên nghiệp được trang bị tận răng và nuôi nấng bằng tiền của chính những người dân này.

Và kết quả là máu, là bắt bớ, tù tội.

Thế nhưng, cũng có những lúc khi con bài bạo lực không tiện thi thố, thì con bài hòa hoãn được sử dụng. Phương cách “rút củi đáy nồi’ để hạ nhiệt đám quần chúng vốn thiếu sự hướng dẫn, lãnh đạo và nhất là thiếu đoàn kết, sau đó thì trở mặt khởi tố, đàn áp…

Nhiều vụ việc, người dân cứ tưởng những lời vàng ngọc từ những cán bộ chức cao, vọng trọng và uy thế thì sẽ được thực hiện như đinh đóng cột. Nhưng, chỉ cần người dân tin vậy rồi hạ nhiệt, rồi chia rẽ… là lúc các cán bộ lau mép, trở mặt và hệ thống nhà tù, công an, tòa án được khởi động theo lệnh của đảng.

Có lẽ, một trong những cách được sử dụng nhiều nhất, là việc đổ riệt cho một thế lực nào đó nếu có thể gán ghép được, hoặc là tôn giáo, hoặc là thế lực thù địch nước ngoài, hoặc là kẻ xấu lợi dụng… Để rồi sử dụng những biện pháp trấn áp dù bất nhân mấy thì vẫn “có lý” trước dư luận người dân.

Hay ít nhất, thì cũng như trường hợp em Nguyễn Văn Hóa ở Kỳ Anh, Hà Tĩnh vừa qua. Một thanh niên 22 tuổi được nhà nước tặng cho những “thành tích” đáng nể. Đó là đã vận động được hàng ngàn người tham gia biểu tình chống Formosa, và đó là những người dân “nhẹ dạ, cả tin”… đại khái là dốt nát không chịu tin vào đảng sáng suốt.

Thế nhưng, ở đây thì hơi khó cho nhà cầm quyền.

Bởi người dân ở đây thuần nông, họ chân chất xưa nay vốn tin lời và nghe theo đảng, đã vi đảng mà hy sinh từ tính mạng cho đến tài sản. Không hề có yếu tố tôn giáo, “thế lực thù địch” hoặc “đối tượng xấu” ở đây.

Duy nhất để kích động họ, đó là hệ thống quan chức cộng sản tham nhũng và cướp bóc của họ thành một hệ thống từ trên xuống dưới bao che nhau.

Ở đó, theo báo chí cộng sản, thì đất vàng được các quan xã ẵm hết, người dân không ruộng cày.

Ở đó, một tên bí thư Huyện ủy có thể huy động cả họ hàng hang hốc được kéo nhau ra làm quan nhằm vơ vét tài nguyên và mồ hôi nước mắt người dân. Vì thế chúng liên kết hết sức hữu cơ và rất “có hệ thống, đúng quy trình”.

Vì vậy, cái cớ để vu cáo nhằm lấy cớ đàn áp là không nhiều.

Trong khi đó, vấn đề lại là ở chỗ chính sách đất đai, đường lối cướp bóc của dân lành là nguyên nhân, thì nhà cầm quyền lại không thể gỡ được. Bởi gỡ ra lấy gì để tồn tại?

Tạm kết

Có thể rồi nhà cầm quyền Hà Nội sẽ chọn một trong mấy cách trên đây, vốn đã thành “cẩm nang” chống lại nhân dân trong những trường hợp này.

Hẳn nhiên là họ sẽ “thắng lợi” khi dập tắt được sự phản kháng tức thời của người dân. Rồi lại bài cũ với một số người không ngoan ngoãn vâng lời để chịu cướp đất là đắc tội chống lại nhà nước…

Nhưng, hậu quả thì sẽ không như ý muốn của họ, đó là điều dễ nhìn thấy.

Bởi thời nay đã khác xưa cả điều kiện lẫn nhận thức của người dân.

Khi người dân đã thể hiện sự không sợ hãi, thì đừng nên đẩy họ vào chỗ cuối đường hầm.

Thế nhưng, mấy ai đã hiểu và làm được điều đó?

Và tôi chợt thấy văng vẳng bên tai, bài ca những người Cộng sản luôn gào thét:

“Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian!
Vùng lên hỡi ai cực khổ bần hàn!
Sục sôi nhiệt huyết trong tim đầy chứa rồi.
Quyết phen này sống chết mà thôi.
Chế độ xưa ta mau phá sạch tan tành…”

(Quốc tế ca)

Hà Nội, ngày 17/4/2017

J.B Nguyễn Hữu Vinh

VÌ SAO CÔNG AN THUA DÂN?

VÌ SAO CÔNG AN THUA DÂN?

Đào Hiếu

Nguyễn Trần Sâm

17-4-2017

Những CSCĐ bị dân bắt. Ảnh: FB

Như báo chí đã đưa tin, chiều 15 – 4, gần 30 người của chính quyền, trong đó có cả những viên cảnh sát cơ động, đã bị dân Đồng Tâm (Mỹ Đức, HN) bắt nhốt tại “nhà văn hóa” xã. Mục đích việc làm này của dân chúng là đòi chính quyền phải trả tự do cho những người bà con của họ đã bị chính quyền câu lưu trước đó vì hành động được gọi là “vi phạm đất đai”.

Một câu hỏi lớn được đặt ra: Vì sao những công an viên này lại để cho dân “bắt” được họ? Phải chăng vì họ không đủ năng lực và phương tiện để đè bẹp lực lượng quần chúng không có vũ khí trong tay, hay chí ít là thoát khỏi bàn tay của những người dân này?

Muốn trả lời câu hỏi này thì phải nghĩ đến những câu hỏi khác. Giả dụ viên chỉ huy của đội cảnh sát cơ động (nghe nói là trung đoàn?) ra lệnh xả súng vào đám dân hoặc không nổ súng nhưng dùng báng súng, lưỡi lê hoặc dùi cui đánh tới tấp vào đám dân dám chống lại mình, còn các chiến sỹ công an thì nhất loạt tuân lệnh, thì liệu đám dân đó có bắt nổi một công an viên nào không?

Dĩ nhiên là không! Khi đó thì đám dân kia chỉ có thịt nát xương tan hoặc ít ra là bị đau nhừ tử, chứ làm sao còn có thể bắt công an làm tù binh được nữa!

Như vậy, việc có hàng chục chiến sỹ công an thuộc “lực lượng mạnh” bị dân bắt nói lên rằng chỉ huy của họ đã không dám ra cái lệnh đó, hoặc/và các chiến sỹ cũng không dám thực thi một mệnh lệnh như vậy.

Vậy lý do để chỉ huy không dám ra lệnh và thuộc cấp không dám thực thi nếu có lệnh là gì? Câu trả lời là: Họ vẫn còn tính người và tình người. Họ không đang tâm bắn vào hoặc đánh đập tàn nhẫn những người dân tay không tấc sắt. Họ biết rõ đó là những người vô tội và nghèo khổ, đã chịu bao oan trái do những kẻ có thế lực gây ra. Nghĩa là chúng ta vẫn còn có thể hy vọng vào những con người này. Đa số vẫn còn lương tâm. Và nhiều người trong số đó cũng có bà con, anh em hoặc xóm giềng là những người dân nghèo đáng thương. Họ từng nhiều lần chứng kiến cảnh khổ của những người thân. Và họ đã nhận ra rằng chính nghĩa không ở phía họ, nếu họ ra tay đàn áp.

Xưa nay vẫn vậy. Một khi hàng ngàn người dân bị dồn đến bước đường cùng thì họ sẽ nổi dậy. Ban đầu, những nhóm lẻ tẻ sẽ bị đàn áp. Những đám dân khác sẽ sợ và im tiếng. Nhưng khi không còn gì để mất thêm thì con người sẽ hết sợ. Họ sẽ nổi dậy đông hơn. Sẽ tiếp tục có đàn áp, nhưng rồi “một người rơi, mười người tiến”, và sẽ đến lúc có hàng triệu người đứng dậy. Sẽ đến lúc lực lượng đàn áp không thể thực thi nhiệm vụ đàn áp được nữa. Dù ban đầu, những kẻ có vũ trang này chưa nhận ra được chính nghĩa, nhưng rồi trong những cuộc cọ xát, những chiến dịch đàn áp, dần dần họ sẽ nhận ra lẽ phải. Khi đó, những mệnh lệnh đàn áp sẽ không được thực thi nữa. Lực lượng đàn áp sẽ quay súng!

Đó là quy luật!

Thật không may cho nhà cầm quyền nào không nhận thức được quy luật này, một quy luật mà chính những thủy tổ của CNCS cũng từng nói đến nhiều lần.

Vào thời kỳ trước sau năm 1980, cả nước đói khổ, dân tình ca thán. Những bài vè chế giễu nhà cầm quyền xuất hiện khắp nơi. Có cả những bài như “sấm ký”. Đó là những dấu hiệu của sự suy sụp. Nhưng vào thời đó chưa có đàn áp. Dân chưa bị đánh, chưa bị quy thành “các thế lực thù địch”. Một số người nói: Chắc sắp tiêu! Nhưng tôi nói: Đã có gần đủ các dấu hiệu, nhưng còn thiếu đàn áp dân.

Còn bây giờ thì đã có! Khắp nơi, hàng ngàn người dân bị đàn áp sau khi bị dán nhãn “các thế lực thù địch”!

Và không chỉ có vậy. Giai đoạn cuối của thời kỳ đàn áp dân đã đến. Lực lượng đàn áp đã bỏ chạy. Không chỉ ở xã Đồng Tâm huyện Mỹ Đức. Việc đó cũng đã xảy ra hơn một lần ở những nơi khác, nhất là quanh Formosa Hà Tĩnh!