Mấy ngày nay, Luật Magnitsky được giới truyền thông Hoa Kỳ và quốc tế nhắc nhở đến khá nhiều vì nó gắn liền với những tiết lộ về cuộc tiếp xúc giữa con trai lớn của Ông Donald Trump với một nữ luật sư người Nga hồi tháng 6 năm ngoái. Con trai của Ông Trump muốn lấy thông tin bất lợi về Bà Hillary Clinton, đối thủ của bố mình trong cuộc tranh cử Tổng Thống Hoa Kỳ. Còn cô luật sư người Nga thì muốn Ông Trump, nếu đắc cử, xoá bỏ Luật Magnitsky.
Rõ ràng, chế độ độc tài ở Nga xem Luật Magnitsky là mối quan ngại hàng đầu.
Tác động của Luật Magnitsky
Luật Magnitsky, ban hành năm 2012, không chỉ gây rúng động hàng ngũ các “cận thần” của Tổng Thống Vladimir Putin mà còn đe doạ chính triển vọng “hạ cánh an toàn” của Ông ta.
Năm 2013, Tổng Thống Obama chế tài 18 “cận thần” ấy theo Luật Magnitsky. Đầu năm 2017, trước khi rời nhiệm sở, Tổng Thống Obama chế tài thêm 5 “cận thần” nữa của Ông Putin. Các “cận thần” này không chỉ là giới chức chính quyền mà còn đứng tên làm chủ nhiều đại công ty — đó là phương tiện tham nhũng và rửa tiền của giới lãnh đạo Nga. Họ không được đặt chân đến Hoa Kỳ, tài sản của họ ở Hoa Kỳ bị niêm phong và các ngân hàng Hoa Kỳ không được giao dịch với họ hay công ty của họ.
Nhiều quốc gia khác đang theo gương Hoa Kỳ. Càng nhiều quốc gia có Luật Magnitstky thì các giới chức bị chế tài càng khó chuyển của ra khỏi Nga, và của nào đã chuyển thì có nguy cơ bị niêm phong. Triển vọng “hạ cánh an toàn” ngày càng khép lại, kể cả cho Ông Putin, mà khối tài sản thu gom từ tham nhũng được ước lượng là trên 200 tỉ Mỹ kim.
Tổng Thống Putin muốn xoá bỏ Luật Magnitsky bằng mọi cách là điều không đáng ngạc nhiên.
Cách khai dụng Luật Magnitsky
Mới đây, một bác nữ ở tuổi cao niên gửi email cho tôi, lo lắng: “Ts. Thắng ơi. Mỗi ngày CSVN càng gia-tăng đàn-áp, bắt-bớ. Nó không hề sợ Luật Magnitsky gì hết.”
“Dĩ nhiên là chính quyền Việt Nam không sợ Luật Magnitsky vì nó chỉ như một cây cung với mũi tên. Nếu không có người sử dụng thì đó chỉ là vật vô tri vô giác và vô ích. Chính quyền sẽ chỉ sợ khi có rất nhiều người dân biết bắn cung,” tôi trả lời.
Ngày hôm sau, bác ấy hồi âm vắn tắt: “Cám ơn Ts. Thắng, hy vọng toàn dân Việt chúng ta biết xử-dụng cung và tên.”
Muốn khai dụng Luật Magnitsky thì phải có cả người giương cung và người lắp tên. Giương cung nghĩa là vận động Hoa Kỳ chế tài các kẻ vi phạm nhân quyền hoặc tham nhũng lớn. Lắp tên nghĩa là thu thập thông tin về các kẻ vi phạm, bao gồm vai trò trong hành vi đàn áp, các thông tin cá nhân để nhận diện, và thông tin về tài sản đã hay sắp chuyển ra khỏi nước.
Kinh nghiệm về áp dụng Luật Magnitsky đối với Nga
Luật Magnitsky nguyên thuỷ ra đời là do công lao của nhiều người và nhiều tổ chức. Nhưng có công nhất là Ông Bill Browder, một doanh nhân người Mỹ. Cách đây hơn chục năm, công ty của Ông đứng đầu về vốn đầu tư nước ngoài ở Nga. Năm 2009 Luật Sư Magnitsky, đại diện pháp lý cho công ty này, khám phá vụ tham nhũng lớn dính líu đến các cận thần của Tổng Thống Putin. Để bịt miệng, chính quyền Nga dựng chuyện bắt giam, tra tấn và bỏ tù Ls. Magnitsky. Không bao lâu sau, vị luật sư này chết trong tù. Đi tìm công lý cho cộng sự viên của mình, Ông Browder từ đó dành thời gian, công sức và tài lực để vận động Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Luật Magnitsky.
Khi Luật Magnitsky được ban hành năm 2012, Ông Browder đã dùng chính uy tín và uy thế của mình để vận động Hành Pháp Obama lập tức chế tài các giới chức Nga liên can đến cái chết của Ls. Magnitsky. Ông Browder chính là người giương cung. Ông được nhiều nhà đấu tranh nhân quyền và kể cả một số viên chức chính quyền bất mãn ở Nga cung cấp các mũi tên: thông tin cá nhân của các giới chức liên can, đường dây tham nhũng và rửa tiền của họ, của cải mà họ đã chuyển ra ngoại quốc…
Ông Browder đã chuẩn bị sẵn cung tên ngay khi dự thảo luật vừa mới được đưa vào Quốc Hội Hoa Kỳ. TNS Ben Cardin (Đảng Dân Chủ, Tiểu Bang Maryland), đồng tác giả của Luật Magnitsky, dùng các thông tin từ Ông Browder để lập danh sách chế tài “trừ bị”. Giới đấu tranh nhân quyền ở Hoa Kỳ gọi đó là “Cardin’s list” – danh sách của TNS Cardin. Toàn thể 18 giới chức Nga bị chế tài đợt đầu đều đã nằm trong danh sách này.
Cuối năm ngoái Quốc Hội Hoa Kỳ thông qua Luật Magnitsky Toàn Cầu để nới rộng luật nguyên thuỷ, vốn tập trung vào Nga mà thôi, ra toàn thế giới. Ông Browder đang vận động Quốc Hội Canada và Anh Quốc thông qua Luật Magnitsky. Đầu năm nay, Ông Browder giới thiệu tôi với cộng đồng người Canada gốc Ukraine và gốc Bắc Âu, để cùng hợp tác vận động. Thực hiện sự hợp tác này, Nhóm Thanh Niên Canada Vì Nhân Quyền cho Việt Nam đã tổ chức Ngày Vận Động Nhân Quyền Cho Việt Nam tại Quốc Hội Canada ngày 12 tháng 6 vừa qua.
Áp dụng Luật Magnitsky lên Việt Nam
Một chi tiết lý thú là cộng đồng người Mỹ gốc Việt đã góp phần đáng kể cho sự ra đời của Luật Magnitsky Toàn Cầu. Cách đây 7 năm, Dân Biểu Cao Quang Ánh (Cộng Hoà, Louisiana), khi còn tại vị ở Hạ Viện Hoa Kỳ, đưa ra dự thảo luật Chế Tài Vi Phạm Nhân Quyền Ở Việt Nam, mô phỏng theo Luật Magnitsky. Tuy không thành công, dự thảo luật này là khởi điểm của Luật Magnitsky Toàn Cầu.
Khi gặp phái đoàn cử tri từ Maryland nhân Ngày Vận Động Cho Việt Nam năm 2014, TNS Ben Cardin cho biết là Ông ủng hộ luật chế tài đối với Việt Nam, nhưng không nghĩ là nó sẽ được thông qua. Ông đề nghị nới rộng nó ra toàn cầu để tăng triển vọng thành công. Vận động cho Luật Magnitsky Toàn Cầu đã trở thành trọng tâm của các Ngày Vận Động Cho Việt Nam năm 2015-2016. Và nỗ lực vận động này đã thành công.
Tương tự như Ông Browder, BPSOS chuẩn bị sẵn cung và tên từ khi Luật Magnitsky Toàn Cầu còn là dự thảo trong Quốc Hội. Năm 2014, BPSOS bắt đầu huấn luyện đội ngũ nhân sự ở Việt Nam về báo cáo các vụ vi phạm nhân quyền theo đúng thủ tục và tiêu chuẩn quốc tế. Các báo cáo này bao gồm thông tin về các giới chức chính quyền liên can. Khi luật được ban hành cuối năm 2016, chúng tôi đã có sẵn danh sách 168 giới chức chính quyền Việt Nam để vận động chế tài. Đến nay con số này đã tăng lên gần 180 nhân vật.
Công thức “nhóm kết nghĩa”
Mục đích của chúng tôi không là trừng phạt cho bõ ghét. Luật Magnitsky Toàn Cầu có thể đẩy lùi phần nào sự áp chế đè nặng lên các cộng đồng đang bị bách hại ở Việt Nam với điều kiện các cộng đồng ấy biết khai dụng nó.
Muốn khai dụng nó, mỗi cộng đồng phải biết cách tạo ra tên mà còn cần người sẵn sàng giương cung để họ lắp tên. Công thức “nhóm kết nghĩa” đáp ứng nhu cầu này. Công thức này rất đơn giản, chỉ cần có lòng. Cứ dăm ba người ở hải ngoại, thân quen và tin nhau, là có thể lập nhóm kết nghĩa. Họ có thể là các bác cao niên trong cùng khu phố, một nhóm sinh viên cùng trường đại học, hoặc anh chị em và bố mẹ con cái trong một gia đình. Mỗi nhóm như vậy chọn một cộng đồng hay một tổ chức xã hội dân sự nhất định ở trong nước để kết nghĩa một cách bền chặt và dài lâu.
Vai trò của mỗi nhóm kết nghĩa gồm có: (1) giúp tài chính và hướng dẫn cộng đồng hay tổ chức được kết nghĩa phát triển khả năng báo cáo vi phạm; và (2) chuyển những báo cáo vi phạm của họ đến chính quyền Hoa Kỳ. Chúng tôi có chương trình huấn luyện cho cả 2 bên.
Kết luận
Kế hoạch quốc tế vận của chúng tôi, khởi đầu năm 2012, gồm 2 mục tiêu: (1) Tạo áp lực quốc tế để Việt Nam phải cam kết về nhân quyền để đánh đổi viện trợ và mậu dịch; (2) Vận động các biện pháp chế tài khi Việt Nam vi phạm các cam kết ấy. Khi Luật Magnitsky Toàn Cầu được ban hành, giai đoạn 5 năm “chuyển thế” đã hoàn tất – chuyển thế vì chế độ độc tài sẽ trở thành bị động khi các cấp chỉ huy, để tránh bị chế tài, phải nguỵ trang hành vi đàn áp, còn người dân thì chỉ cần nói lên sự thật và điểm mặt chỉ tên. Trong 5 năm kế đến mục tiêu của chúng tôi là phát triển nội lực – khởi đầu là khả năng báo cáo vi phạm và điểm mặt chỉ tên — cho người dân ở khắp đất nước qua công thức “kết nghĩa” với các nhóm người Việt ở khắp thế giới tự do.
Trở lại với bác cao niên kể trên, tôi muốn kể thêm rằng bác ấy là thành viên của “nhóm kết nghĩa” ở Thành Phố Seattle, Tiểu Bang Washington. Nhóm này đang kết nghĩa với 2 chùa Phật Giáo bị bách hại. Bằng những việc làm đơn giản, cụ thể nhưng đều đặn và trường kỳ, bác đang góp phần cho một tương lai mà toàn dân biết sử dụng cung-tên.
Dụ ngôn cỏ lùng là một trong những dụ ngôn hiếm hoi được chính Chúa giải thích rõ ràng. Giải thích của Chúa giúp ta có những hiểu biết hữu ích cho đời sống đạo.
Dụ ngôn nhắc nhớ ta về sư hiện diện của ma quỷ. Ma quỷ hiện hữu. Chúng luôn có mặt để gieo rắc sự xấu. Chúa đã chuẩn bị những thửa ruộng tốt. Những thửa ruộng đó là thế giới, là Giáo hội, là tâm hồn mỗi người. Chúa đã gieo những hạt giống tốt. Hạt giống đó là Lời Chúa, là ơn Chúa, là những thiện chí, những ý hướng cao đẹp trong tâm hồn con người. Nhưng ma quỷ lén gieo vào những hạt cỏ xấu.
Chúa gieo vào thế giới hạt giống khát vọng hoà bình. Đẹp biết bao nếu mọi dân tộc nắm tay nhau xây dựng một thế giới huynh đệ tươi thắm tình người. Nhưng buồn thay, cánh đồng hoà bình tươi xanh đã bị những ngọn cỏ tham vọng, ích kỷ, ác độc làm hoen ố. Lịch sử thế giới được ghi bằng những trang buồn vì không ngày nào không có chiến tranh.
Thế giới sẽ đẹp biết bao nếu tất cả trí thông minh, tất cả tài nguyên, tất cả năng lực đều góp phần xây dựng. Nhưng buồn thay, rất nhiều trí thông minh, rất nhiều tài nguyên, rất nhiều năng lực đã tiêu tốn trong việc huỷ hoại, tha hoá, nô lệ hoá con người.
Ngay trong bản thân mỗi người, không thiếu những sáng kiến, những hoạt động ban đầu xem ra tốt đẹp, nhưng dần dà bị vẩn đục vì những biến tướng nặng mùi trần tục như khoe khoang, tìm hư danh, tìm lợi lộc.
Đó là những hạt cỏ xấu ma quỷ lén lút gieo vào ruộng lúa tốt.
Tuy nhiên, dụ ngôn cho thấy sự kiên nhẫn và lòng bao dung của Chúa. Chúa đợi cho đến ngày tận thế mới thu lúa cùng với cỏ lùng. Chúa kiên nhẫn đợi chờ vì hi vọng những người tội lỗi ăn năn sám hối. Chúa bao dung tha thứ không nỡ phạt người tội lỗi tức khắc. Chúa yêu thương, tin tưởng người xấu sẽ có ngày nên tốt. Nếu phạt ngay những người tội lỗi thì ta đâu còn cơ may được chiêm ngưỡng ông thánh trộm lành. Nếu Chúa thẳng tay thì ta đâu có thánh nữ Madalêna, Tông đồ của các Tông đồ, thánh Augustinô, Tiến sĩ lừng danh, thánh Phaolô, vị Tông đồ dân ngoại. Nếu Chúa chấp tội thì bản thân ta sẽ là người bị phạt đầu tiên, vì trong ta cũng đầy những tội lỗi, những sự xấu. Trong tâm hồn ta cỏ lùng vẫn mọc xen với lúa tốt.
Sau cùng, dụ ngôn cho ta hiểu tất cả là hồng ân của Chúa. Có sự lành để ta hiểu biết và yêu mến sự tốt lành của Thiên Chúa. Có sự dữ để ta gớm ghét tránh xa và càng thêm gắn bó với sự lành. Có sự lành để ta được hưởng niềm an ủi ngọt ngào của Chúa. Có sự dữ để ta phấn đấu vượt qua, chứng minh lòng trung tín của ta với Chúa. Có thuận lợi tiến bước trên đường thánh thiện. Có khó khăn để ta rèn luyện thêm nhân đức.
Mọi sự đều nên tốt cho kẻ lành. Thật vậy, việc cấm đạo là sự dữ. Nhưng nhờ đó mà Giáo hội có được những chứng nhân anh hùng. Đau khổ và bệnh tật là những khiếm khuyết trong cuộc sống, nhưng lại giúp con người được thông phần đau khổ với Chúa. Thánh Nữ Têrêsa đã nhìn thấy tất cả là hồng ân của Chúa. Sự lành cũng như sự dữ. Hạnh phúc cũng như đau khổ. Thành công cũng như thất bại. Tất cả đều góp phần rèn luyện, vun đắp và thăng tiến người lành.
Trần Thảo (Danlambao) – Tờ Tiền Phong đưa tin nhà nước CSVN đang tiến hành thanh toán những khoản vay của nhân dân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Bên cạnh đó, Tiền Phong cũng đưa tin Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc thúc giục nhà nước phải sớm đưa ra chủ trương huy động tiền đô la Mỹ trong dân.
Cả hai bản tin đều thật là ý nghĩa. Nếu bạn móc xích hai bản tin lại với nhau, sẽ thấy được nhà nước CSVN đã nỗ lực động não, cuối cùng lại đưa ra được cái trò trẻ rất là ngô nghê.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, không thiếu những người dân hiền lành chất phác, đã lỡ trao duyên lầm tướng cướp. Tiền của, vàng bạc, công sức, thực phẩm, thuốc men v.v… tất cả đã được vun vén, cắt củm rồi trao vô tay cán bộ, với ước vọng góp phần vào việc chung. Những công khố phiếu được bán ra, những giấy nợ được trịnh trọng trao cho người dân với chữ ký của đại diện chính phủ kháng chiến v.v… Sau này, trong cuộc chiến xâm lược VNCH bởi cộng ản Bắc Việt, lại một lần nữa, những người dân chất phác nghe theo lời tuyên truyền của đảng, lại móc hầu bao, lại cân thêm gạo, lại mua thêm thuốc tây, đào hầm cất giấu cán bộ, ủng hộ “cách mạng”.
Nhưng đảng không phải là kẻ thật thà chung tình. Đảng sau khi đã nắm trọn quyền lực trong tay là bắt đầu lộ diện là tên sở khanh bạc hãnh nhất. Đảng chả thực tâm nhớ gì tới công ơn của những người một thời đóng góp máu xương. Những tấm bằng ghi công đóng góp cho kháng chiến của các mẹ, các chị được đảng cho in ra tá lả, phát cho mọi người mang về đặt lên bàn thờ gia tiên làm của quý. Tinh thần đền ơn đáp nghĩa của đảng chỉ có thế mà thôi!
Từ năm 1953 nghĩa là lúc cuộc kháng chiến chống Pháp chưa ngã ngũ, trận Điện Biên Phủ còn chưa khai diễn, nhưng lực lượng Việt Minh đã coi như nắm trọn quyền hành ngoài miền bắc, HCM đã nghe theo lệnh Trung Quốc, tiến hành cải cách ruộng đất. Ân nhân của Việt Minh là bà Nguyễn Thị Năm, tức là bà chủ của hiệu buôn Cát Hanh Long, người đã từng cúng vàng cho HCM để hoạt động, lại bị lũ khốn nạn HCM đem ra làm vật tế cờ đầu tiên cho cái gọi là cuộc cách mạng long trời lở đất! Sau khi vùi xác bà Năm đâu đó trong một cái hòm bằng gỗ tạp, những kẻ mặt người lòng thú lại tiếp tục truy sát những kẻ ngày xưa cho chúng ăn, đào hầm cho chúng nấp. Con số nhân dân vô tội chết trong cải cách ruộng đất thời gian 1953-1956 đã lên tới con số gần 200 ngàn người.
Tương tự như vậy, sau năm 1975, khi nước nhà thống nhất, những người dân chất phác ngày nào cung cấp lương thực, thuốc men, hầm trú ẩn cho mấy tên cán bộ mặt mày xanh lét vì sốt rét, nay mới biết rõ “chân diện mục” của mấy ông trời con “cách mạng”. Nhiều bà mẹ ôm trong lòng cả đống giấy chứng nhận gia đình liệt sĩ. Cái mâm cơm để cả chục cái chén và chục đôi đũa mà không có ai ngồi đó, ngoài một bà cụ già với mái lá hắt hiu. Nếu “mẹ VN anh hùng” chỉ có túp lều tuềnh toàng, gió lùa phất phơ thì không nói làm gì, những tên áo xanh, áo vàng chúng để yên cho, nếu mẹ mà có miếng đất trông ngon cơm thì thế nào chúng cũng lôi mẹ ra ngoài đường. Nếu mẹ mà chống cự như cái bà cựu biệt động thành ở ngoài Núi Thành, Quảng Nam kia, thì ba, bốn đứa sẽ a lát sô nhào vô, đứa túm chân, đứa túm cẳng mà khiêng mẹ ra ngoài đường cho xe xúc dễ dàng làm việc.
Với tinh thần đền ơn đáp nghĩa như thế của chế độ CSVN hiện nay, khiến ai cũng ngán ngẫm, đến nỗi ông nhà thơ Bùi Minh Quốc phải cay đắng thốt lên “Quay mặt vào đâu cũng phải ghìm cơm mửa. Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi.”
Tình hình như thế, chắc chắn không người dân nào mơ tưởng nhà nước CSVN lại có lòng tốt, muốn thanh toán những khoản vay mà chế độ đã mượn của dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chiến tranh xâm lược VNCH. Người dân chỉ mơ ước đừng có áo xanh, áo vàng, đừng có dân phòng, côn an với roi điện, dùi cui, chó săn lảng vảng trước cổng nhà. Người dân chỉ mơ sáng ngủ dậy không phải nhìn trước cửa nhà mình đầy rẫy những cứt đái, mắm tôm, sơn đỏ, những dấu ấn điển hình của lực lượng từng được cựu chủ tịch nước Trương Tấn Sang vinh danh là những chiến sĩ công an mà trách nhiệm và bổn phận của họ gắn liền với hạnh phúc của nhân dân!
Thế nên khi đọc được tin tức nhà nước CSVN thực hiện việc thanh toán những khoản vay của nhân dân trong hai kỳ kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp thì người dân mở hai mắt tròn vo, không tin là sự thật. Có người còn tự nhéo tay mình để biết chắc là mình không nằm mơ. Rõ ràng là mặt trời vẫn mọc ở phương đông và lặn ở phương tây, tại sao kẻ thủ ác, tên khốn nạn, đứa sở khanh lại tự nhiên hóa thành bồ tát như thế? Đố ai mà biết tại sao?
Cũng may, bên cạnh bản tin về vụ nhà nước thanh toán những khoản vay của nhân dân trong hai kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ lại có thêm một bản tin khác: Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc thúc giục nhà nước sớm đưa ra chủ trương huy động tiền đô la (usd) trong dân.
Thì ra là như thế! Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc sau khi điều nghiên kỹ lưỡng, đã biết số lượng vàng khối trong dân hiện đã vượt mức dự trù. Ban đầu chỉ nghĩ là khoảng 500 tấn, nào ngờ dân số tăng vọt, trẻ nít lại hay ỉa đùn, thế là số lượng vàng trong dân tăng vọt lên cả tỉ tấn. Con số quá lớn, kho nhà nước không có chỗ chứa. Thôi tạm để đó, huy động tiền tươi USD trước đã.
Mà niềm tin của dân đối với đảng, đâu có được ngon lành như mụ Nguyễn Thị Quyết Tâm bốc phét. Ngay như Hồ Chí Minh, một tượng vàng cách mạng, mà trong thời đại thông tin đa chiều, đã bị bóc mẽ, bây giờ mặt mày loang lỗ vết tích, nào là dâm tặc, nào là láu cá, nào là sở khanh, gian ác, tàn bạo, hay rờ và hôn miệng trẻ nít v.v…
Thế thì làm sao? Nguyễn Xuân Phúc đã tức tốc họp bộ sậu tham mưu, tìm nghị quyết khai thông bế tắc. Cuối cùng đã tìm ra giải pháp, đó là cố gắng tạo dựng lại niềm tin của dân, dĩ nhiên là tạm thời, sau đó qua sông có đoạn cầu cũng không sao, việc đó đảng đã có nhiều kinh nghiệm.
Vì thế mà có vụ nhà nước tính thanh toán những khoản vay của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Pháp và xâm lược miền Nam. Đây là chiêu trò mà TƯ đảng đã nghĩ nát óc mới tìm ra để cứu nguy. Trước hết phải dụ cho người dân tin rằng đảng không phải là sở khanh, chơi xong không dzông mà trả tiền đàng hoàng. Có như vậy thì đảng mới có thể chạm bàn tay nhớp nhúa của mình vào mớ tiền tươi usd của dân được chứ!
Chúc thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và bộ sậu của ông mã đáo thành công nhá!
Gần hai mươi năm trước, tôi hân hạnh được Đại Tá Phạm Văn Liễu gửi cho mấy tập hồi ký (Trả Ta Sông Núi) cùng lời yêu cầu viết một bài giới thiệu về tác phẩm của ông. Tôi thưa lại rằng mình rất vinh dự khi được nhờ cậy. Tuy nhiên, theo công tâm, tôi sẽ góp đôi lời về những trang sách mà tác giả đề cập đến những nhân vật quá cố (Ngô Đình Diệm & Hoàng Cơ Minh) với quá nhiều hằn học.
Ông không đồng ý như thế nên chút duyên nợ, về chữ nghĩa, giữa chúng tôi đã không có cơ thành tựu. Từ đó đến nay – thỉnh thoảng – tôi vẫn được đọc thêm những cuốn hồi ký khác, của nhiều nhân vật khác.
Phần lớn những người Việt Nam đi làm cách mạng, hồi đầu thế kỷ trước, đều có lúc phải sang Trung Hoa lánh nạn. Họ thường đi qua ngả Vân Nam vì địa danh này giáp giới với miền Bắc nước mình.
Phạm Văn Liễu cũng thế. Là một đảng viên Việt Quốc ông đã phải lưu lạc đến Côn Minh (thủ phủ của Vân Nam) khi còn là một thanh niên, ở tuổi đôi mươi. Ông kể lại rằng khi đang bơ vơ nơi đất lạ quê người thì may mắn được một phú gia người Hoa cho tá túc. Không những thế (và có lẽ vì cảm cái khí phách và nhân cách của chàng trai nước Việt) ông còn được vị ái nữ xinh đẹp, cùng cả gia đình, của vị đại gia này đem lòng thương mến.
Thiệt là quá đã!
Nếu tôi mà rơi vào hoàn cảnh tương tự thì cuộc đời cách mạng, tới đây, là … kể như rồi. Bôn ba làm chi, cho má nó khi. Làm rể người giầu – bất kể Tây/Tầu – là cơ hội hiếm, và (rất) không nên bỏ lỡ.
Quan điểm nhân sinh (nhỏ hẹp) của tôi, tất nhiên, cũng không được Phạm Văn Liễu đồng tình. Vì nghĩa lớn nên ông từ chối một cuộc sống ấm êm – bên cạnh mỹ nhân – và lại khoác áo lên đường, để lại biết bao là luyến thương (cùng sầu muộn) trong lòng người ở lại.
Tôi vốn hay thương vay khóc mướn nên cứ áy náy hoài về mối tình (dang dở) của vị tiểu thư Trung Hoa, và có cảm tình mãi với vùng đất mà cô sinh trưởng. Vì vậy nên ngay sau khi khi cầm được cái visa sang Tầu là tôi mua vé bay ngay đến Côn Minh.
Phi cơ hạ cánh giữa mưa. Nhìn núi đồi nhấp nhô và mờ nhạt xa xa khiến tôi cứ ngỡ như mình vừa đáp xuống phi trường Liên Khương, vào một chiều mưa nào đó (tưởng chừng) như vẫn chưa xa xôi lắm.
Cũng như Đà Lạt, Côn Minh ở độ cao hai ngàn mét nên khí hậu rất dịu dàng. Cây cỏ xanh tươi, đất trời mát rượi. Xa lộ dẫn vào thành phố khá tân kỳ. Đường rộng thênh thang. Hoa lá được chăm sóc kỹ càng, tử tế.
Tua tủa hai bên những con đường nhỏ là những ngõ hẻm sâu, vừa chỉ vừa lọt một chiếc xe đạp hay hai người đi bộ trái chiều. Cái gì chứ cảnh nghèo ở Á Châu thì tôi nhìn thấy hoài mà (ở Miên, ở Miến, ở Lào đều như vậy tuốt) nên không có hứng thú tiếp tục lần dò tiếp vào những ngõ ngách khai khai, tôi tối, và âm ẩm của Côn Minh.
Côn Minh. Ảnh chụp tháng 7/2017
Trở ra đường lớn thì không thiếu hàng quán tấp nập nhưng tôi không có thói quen ăn tiệm mình ên nên mua một phần cơm chỉ hai món (đậu đũa xào và thịt heo kho trứng) hết mười lăm nhân dân tệ, cỡ hai MK, và một chai rượu nhỏ cùng giá. Về lại nhà trọ, tôi ngồi nhai trệu trạo vì bụng không thấy đói và rượu thì quá dở: đã nhạt phèo mà lại còn có vị hơi ngòn ngọt nữa. Thiệt là vô duyên hết biết luôn!
Tôi không vào được gmail, face book, hay youtube. Mấy trang mạng quen thuộc cũng không luôn nên nghĩ rằng có lẽ vì mình thuê chỗ ở quá rẻ tiền nên wifi yếu. Thôi thì đành mua rượu uống nữa, dù là rượu dở, rồi lăn ra ngủ tiếp.
Sáng hôm sau tôi chạy ngay đi nơi khác, vào khách sạn có sao tử tế (Spring City Star Hotel) trên một con lộ lớn: No.636 Beijing Road, Panlong District 650051 China / Yunnan / Kunming.
Pass word của wifi ghi sẵn luôn trong thang máy. Thiệt là văn minh chưa từng thấy. Nhận phòng xong là tôi mở labtop liền.
Tưởng sao?
Cũng y như hôm qua thôi. No Gmail, no face book, no youtube … , dù những hình ảnh quảng cáo khách sạn hay vé máy bay (Agoda, Travelgenio, Jetcost, Expedia, Cheapoair …) vẫn xuất hiện đều đều, và thử bấm chơi thì đều chạy vo vo.
Tới lúc đó tôi mới chợt nhớ ra rằng (thôi chết mẹ rồi) mình đang ở trong đất Tầu. Côn Minh đâu phải là Vientiane, Phnom Penh, Yangon, hay Bangkok. Đây là thủ phủ của một tỉnh thuộc Trung Hoa Lục Địa, và bưng bít thông tin vốn là “chủ trương xuyên suốt” của mọi đảng CS mà. Thảo nào mà những người trẻ, ở nơi này, chả thấy mấy ai chăm chăm cầm cái smart phone như nhiều nơi khác!
Tự nhiên lại chợt nhớ đến Lưu Hiểu Ba, và câu nói lạc quan của ông khi còn tại thế: “Internet là món quà Chúa ban cho Trung Quốc. Nó là công cụ tốt nhất cho nhân dân Trung Quốc đang mơ ước vất đi sự nô lệ và đạt đến tự do.” Có lẽ vì món quà này qúi báu quá nên Đảng CS Trung Hoa phải nhất định “dằng lại” bằng mọi giá, kể cả cái giá là sự ngu dân để Nhà Nước dễ bề cai trị.
Thôi thì tạm quên Lưu Hiểu Ba, quên internet, và lại tiếp tục đi lòng vòng phố xá cho rộng tầm con mắt. Mắt tôi đụng toàn chữ Hán, đủ kích cỡ khác nhau nhưng đều đỏ rực như nhau – ngoại trừ tên mấy cái ngân hàng và khách sạn: China Construction Bank, Fudian Bank, Holiday Inn City Centre, Howard Johnson City of Flower Hotel …
Tôi hăm hở mở cửa bước vào văn phòng du lịch, với nụ cười tươi tắn, và một câu tiếng Anh thông dụng. Người đối diện đáp lại bằng tiếng Tầu. Tôi quay sang cô nhân viên ngồi kế, lập lại câu nói vừa rồi. Cô này cũng trả lời bằng tiếng Hoa, nghe từa tựa y như cô trước.
Coi như là hết thuốc!
Bây giờ thì tôi hiểu thế nào là một nhà tù lớn. Tuy không có chấn xong nhưng kẻ ở bên trong cũng hoàn toàn bị cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài. No English, no face book, no youtube, no Gmail … mà tôi thì chỉ có gmail và không dùng điện thoại – bất kể loại nào.
Theo dự tính thì sau Côn Minh là sẽ đến Bắc Kinh (vài bữa, hoặc mươi ngày) nhưng tôi đổi ý. Tôi sẽ trở lại Phnom Penh hay Bangkok vào chuyến bay sớm nhất – khuya nay – với bất cứ giá nào. Côn Minh hay Bắc Kinh thì có khác gì nhau. Cả xứ sở này chỉ là một cái ngục tù bao la, có tên gọi là Trung Hoa Vỹ Đại!
Không dùng những bài học tư tưởng chính trị để giáo dục người dân yêu nước; cũng không dùng súng ống và tay sai để cưỡng ép người dân yêu nước. Trái lại, nước Mỹ luôn dùng hành động thực tế để cảm hóa người dân mình yêu nước từ trong tâm…
1. Bảo vệ sinh mạng công dân
Năm 1988, trong thảm họa rơi máy bay Lockerbie, phần lớn hành khách là người Mỹ. Chính phủ Mỹ đã sử dụng hàng nghìn chuyên gia kỹ thuật, từ trong mấy triệu mảnh vụn của máy bay mà tìm ra thủ phạm là những phần tử khủng bố Libya.
Cuối cùng, nước Mỹ cứng rắn ép buộc chính quyền Tổng thống Gaddafi khi ấy giao nộp phần tử khủng bố. Chính phủ Mỹ đồng thời chi ra 2,7 tỷ đô-la tiền bồi thường cho nạn nhân vụ tai nạn này, gia đình mỗi nạn nhân nhận được 10 triệu đô-la (hơn 227 tỷ VNĐ).
Trong chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai (nổ ra vào tháng 3/2003), quân Mỹ huy động lực lượng quân sự lớn mạnh tấn công tầm xa trong sa mạc. Quân đội của nhà độc tài Saddam Hussein binh bại như núi đổ, nhếch nhác bỏ chạy. Lúc này, trong cát bụi mịt trời, một chiếc xe vận tải của quân Mỹ mất phương hướng, lạc vào trận địa của quân địch.
Người lái xe là một nữ quân nhân tên Lira, bị thương và bị địch bắt giữ làm con tin để uy hiếp quân Mỹ. Cô bị nhốt ở một nơi hẻo lánh bí mật và bị canh giữ sát sao. Vì để cứu Lira, quân Mỹ đã huy động đội đột kích Hải Báo tấn công mãnh liệt khiến quân địch mất phương hướng, hoảng loạn tan vỡ.
Chỉ trong thời gian mấy phút, quân Mỹ đã giải cứu thành công Lira. Cô nhanh chóng được đưa về hậu phương điều trị. Chiến tranh kết thúc, Lira cùng với hai binh sĩ Mỹ từng bị bắt giữ khác trở về quê nhà và được chào đón như những người anh hùng.
Bảo vệ sinh mạng công dân. (Ảnh dẫn theo tuoitre.vn)
2. Nâng đỡ người nghèo khổ
Thước đo nghèo khổ của nước Mỹ là thu nhập bình quân của cá nhân dưới 11.139 đô-la Mỹ (khoảng 253 triệu VNĐ) mỗi năm, không bao gồm trợ cấp về thực phẩm và nhà ở. Nếu dựa theo tiêu chuẩn này, Trung Quốc ít nhất có 1 tỷ người đang sống dưới mức nghèo khó. Nói là người nghèo khó, nhưng ở Mỹ họ đều được hưởng tiền trợ cấp và nhiều phúc lợi như: Điều trị miễn phí, con cái hưởng giáo dục miễn phí và bữa cơm trưa dinh dưỡng miễn phí.
Ở nước Mỹ, người dân có bệnh thì bệnh viện cần phải điều trị trước, sau đó mới gửi hóa đơn viện phí đến nhà bệnh nhân. Nếu bạn không gánh nổi khoản tiền trị liệu thì các tổ chức từ thiện hoặc chính phủ sẽ ‘ra mặt’ giải quyết. Trong trường hợp người nghèo khó chỉ vì không có tiền chi trả viện phí mà bệnh viện ngưng điều trị thì những người có liên quan sẽ bị chất vấn và nhận chế tài của pháp luật.
Chính phủ Mỹ đầu tư mạnh cho giáo dục đối với trẻ em từ 0 đến 5 tuổi. Chính phủ cũng cung cấp các lớp học trên mạng cho học sinh vùng nông thôn cũng như đầu tư 2 tỷ đô-la để xây dựng hệ thống giáo dục đào tạo trực tuyến trên Internet trong 2 năm tới, cung cấp phục vụ mạng lưới băng thông rộng và vô tuyến cho hơn 20 triệu học sinh.
Hình ảnh cảnh sát Mỹ tặng áo cho người vô gia cư. (Ảnh dẫn theo Pinterest)
3. Bảo vệ người yếu thế
Ca sĩ Madonna từng nhổ nước bọt vào mặt một bà cụ, lập tức tòa án Liên bang phán quyết cô phải bồi thường 5 triệu đô-la Mỹ (khoảng 113 tỷ VNĐ) cho bà lão.
Quan tòa nói, sở dĩ mức phạt nặng như vậy không phải bởi miếng nước bọt đó đã mang đến tổn thương lớn ngần nào cho bà cụ. Lý do là với những người có tiền như Madonna nếu chỉ phạt bồi thường 50 nghìn đô-la, lần sau cô ấy chắc chắn sẽ tái phạm. Có thể cô ấy cũng sẽ gây tổn thương cho hơn 10 người khác nữa.
Như vậy, các phán quyết đưa ra không chỉ bởi mức độ thương tổn người bị hại gánh chịu, mà còn vì muốn răn đe, ngăn ngừa các hành vi tái diễn tương tự.
Thành phố Seattle của nước Mỹ có một em bé tên Leo, mắc phải chứng bạch tạng mắt. Thị lực của em không được tốt, chỉ có thể nhận dạng bố mẹ bằng cách sờ tay lên râu, lên mặt. Một công ty kính mắt của Mỹ đã đặc biệt thiết kế một chiếc mắt kính cho Leo. Sau khi đeo lên, em đã vô cùng xúc động bởi cuối cùng cũng nhìn thấy gương mặt mẹ cha.
Sự vĩ đại của lòng lương thiện chính là ở chỗ chân thành, vô tư giúp đỡ những người yếu thế mà không cầu lợi lộc gì. Đảm bảo sự bình đẳng cho một sinh mệnh chính là điều khó làm được nhất trên thế gian này.
Ngày 29/12/2002, sau Lễ Tạ ơn, người dân khắp nước Mỹ đều bận rộn với việc mua sắm. Đây cũng là ngày bận rộn nhất trong năm của các siêu thị. Tại một siêu thị ở thành phố Pittsburg, bang Florida, một bé gái 5 tuổi tên Kerriana cùng mẹ và hai anh cùng đi trên một thang máy có tay vịn tự động đi xuống.
Ở lối ra của thang cuốn, chiếc dép nhỏ của bé Kerriana không may bị mắc kẹt ở giữa tấm sàn và bậc thang, cô bé theo bản năng đã cúi mình xuống dùng tay nhặt chiếc dép lên, kết quả tay phải cũng bị kẹp vào trong, cuối cùng ba ngón tay của bé bị kẹp đứt hoàn toàn.
Trong quá trình giải cứu con gái, mẹ của bé cũng bị gãy xương ngón tay. Kết quả, tòa án phán quyết siêu thị phải bồi thường cho bé Kerriana 11,2 triệu đô-la (khoảng 255 tỷ VNĐ), bồi thường cho người mẹ 3,8 triệu đô-la, tổng cộng là 15 triệu đô-la.
Nghị sĩ Donald M. Payne Jr., đến từ bang New Jersey phát biểu tại buổi mít-tinh ngày 17/07/2014 ở Toà Quốc hội Hoa Kỳ, lên án cuộc đàn áp Pháp Luân Công ở Trung Quốc. (Ảnh: Minghui.org)
4. Bảo vệ quyền trẻ em
Nước Mỹ coi trẻ em là tài sản quý báu của quốc gia, trẻ em được pháp luật che chở cẩn thận. Nếu bạn không có tiền gửi con ở nhà trẻ, chính phủ sẽ chi trả, hoặc không có tiền mua sữa bột, chính phủ cũng sẽ chu cấp. Ngoài ra còn có nhiều chính sách đặc biệt trợ cấp cho phụ nữ mang thai, sản phụ thu nhập thấp và trẻ em chưa đến 5 tuổi.
Các gia đình thu nhập thấp có thể nhận được bữa cơm dinh dưỡng sáng và trưa miễn phí. Nếu bạn không có tiền thuê nhà, chính phủ sẽ chi trả, hơn nữa quy định trẻ nhỏ cần phải có phòng ngủ riêng. Ở nước Mỹ, bạn sẽ không bao giờ bắt gặp hình ảnh trẻ em đi xin ăn.
Có một bà mẹ mải mê bận rộn việc nhà, nhất thời không để ý trông con. Đứa con chẳng may ngã xuống bể bơi chết đuối. Trong lúc người mẹ đang đau khổ không thôi thì bất ngờ nhận được giấy triệu tập của tòa án.
Lý do mà tòa án đưa ra vô cùng đơn giản, bà đã không làm hết trách nhiệm của một người giám hộ nên sẽ phải đối mặt với việc bị tuyên án. Điều đó cũng giúp cảnh tỉnh ý thức chăm sóc con trẻ cho hàng triệu người mẹ khác.
Người Mỹ quan niệm, một đứa trẻ trước hết thuộc về bản thân nó. Đứa trẻ đó mang theo vô số quyền lợi sống vốn có trong xã hội này. Không kể là bản thân nó có ý thức được hay không, không kể là nó có thể lớn lên thành người hay không, xã hội này có tầng tầng pháp luật để bảo vệ nó.
Nước Mỹ coi trẻ em là tài sản quý báu của quốc gia. Ảnh dẫn theo KeywordSuggest.org
5. Bảo vệ tự do ngôn luận
Ở Mỹ, không có một hãng truyền thông nào thuộc về chính phủ. Bởi vì pháp luật nước Mỹ quy định, không thể lấy tiền của dân chúng để dát vàng cho mình mà lừa mị, mê hoặc dân chúng.
Kênh truyền thông duy nhất mà chính phủ Mỹ bỏ vốn làm chủ là đài phát thanh VOA của Mỹ, nhưng nó không được phép phát sóng trên đất Mỹ. Trong con mắt của người Mỹ, dư luận nên phải là tự do, nhiều nguồn, muôn hình muôn vẻ, thậm chí là mâu thuẫn lẫn nhau.
Năm 1984, Đảng Cộng hòa tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc ở bang Texas, đã có một nhóm nhân sĩ phản đối đến tổ chức hoạt động kháng nghị. Một người đàn ông tên là Johnson đã nhóm lửa đốt lá cờ vốn được treo lên để chúc mừng đại hội này. Vì thế, Jonhson bị tuyên phán có tội.
Nhưng tòa án phúc thẩm hình sự bang Texas đã định tội đối với ông, cho rằng hành vi đốt cờ của Jonhson là thuộc về “ngôn luận mang tính biểu tượng”, được bảo hộ bởi điều khoản tự do ngôn luận trong Hiến pháp Mỹ.
Văn kiện đính chính thứ nhất trong Hiến pháp của Mỹ quy định: Quốc hội Mỹ không được lập ra pháp luật hạn chế tự do ngôn luận của công dân. Dựa theo quy định này, bất cứ cơ cấu chính phủ nào đều không thể hạn chế quyền tự đo ngôn luận của công dân.
Nước Mỹ bảo vệ quyền tự do ngôn luận của công dân. (Ảnh dẫn theo visadinhcuuytin.com)
6. Nước Mỹ có thật sự bị người giàu thao túng không?
Nhiều người cho rằng nước Mỹ bị giới quyền quý thao túng. Thật ra, 20% người có thu nhập cao nhất nước Mỹ đã đóng trả 67% tiền thuế. Những người có thu nhập vừa và thấp chiếm 49% căn bản không phải đóng thuế, hơn nữa còn được hưởng các đãi ngộ miễn phí về mặt giáo dục, vệ sinh, phòng cháy chữa cháy, y tế…
Điều quan trọng hơn cả là một nửa những người không đóng thuế này lại có quyền bỏ phiếu giống như những nhân vật thượng lưu như Bill Gates, Warren Buffett, Mark Zuckerberg, Clinton…
Sự khác biệt giữa các triệu phú Trung Quốc và Mỹ là rất lớn. Các triệu phú nước Mỹ phần lớn đều là tự gây dựng sự nghiệp làm giàu, còn triệu phú Trung Quốc phần nhiều đều là dựa vào mối quan hệ mà ăn nên làm ra. Triệu phú nước Mỹ trốn thuế là chuyện cực hiếm, còn đa số triệu phú Trung Quốc đều có hành vi này trong đời ít nhất một lần.
Các triệu phú nước Mỹ rất hiếm việc bỏ làm ăn kinh doanh để chạy theo chính trị, còn các triệu phú Trung Quốc phần đông đều vừa là thương nhân, vừa chính trị gia, hoặc là quan thương câu kết.
Triệu phú nước Mỹ phần lớn đều hứng thú với sự nghiệp từ thiện, còn triệu phú Trung Quốc phần đông lại hứng thú với việc tẩu tán tài sản ra nước ngoài. Triệu phú nước Mỹ không có một người di cư sang Trung Quốc, còn các triệu phú Trung Quốc phần đông đều thích di cư sang Mỹ.
Nước Mỹ có thật sự bị người giàu thao túng không? Ảnh dẫn theo xaluan.com
7. Nền tảng lập quốc của nước Mỹ
Điều được giảng trong “Tuyên ngôn độc lập” của Mỹ không phải là quần thể, quốc gia, thậm chí không hề giảng đến dân chủ. Điều được giảng là 3 quyền lợi lớn: quyền sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Ba quyền lợi này đều là quyền lợi của cá nhân, không phải là quyền lợi của quần thể hay quốc gia.
Chính nền tảng văn hóa ấy đã khiến một quốc gia lớn mạnh thật sự. Sự lớn mạnh của nước Mỹ vốn không chỉ vỏn vẹn là sự lớn mạnh về quân sự, kinh tế, lãnh thổ, mà điều căn bản nhất chính là sự lớn mạnh trong tư tưởng, tinh thần.
Nguyên tắc cơ bản của nước Mỹ là chủ nghĩa cá nhân. Nói cách khác, nước Mỹ được kiến lập trên nền tảng “mỗi cá nhân đều có quyền lợi không thể tước đoạt được”. Những quyền lợi này là vô điều kiện, là quyền mà mỗi cá nhân được có và được hưởng, là thuộc về cá nhân, chứ không thuộc về đoàn thể.
Những quyền lợi này có được ngay từ khi công dân Mỹ vừa mới sinh ra, chứ không phải do ai ban tặng. Mặt khác, những quyền lợi này có thể bảo vệ cá nhân, khiến họ không phải chịu đựng sự xâm hại của bất cứ ai. Chỉ có kiến lập trên cơ sở quyền lợi cá nhân, mọi người mới có thể có được một xã hội tự do chính nghĩa, tôn nghiêm và bình đẳng.
Nước Mỹ quả thực đang có được chế độ dân chủ tiên tiến nhất mà nhân loại từng phát minh ra cho đến nay. Họ có được kỹ thuật tân tiến nhất, đỉnh cao nhất về mặt quân sự, dân dụng, thương dụng, hàng không… trên thế giới. Họ cũng có tiềm lực sáng tạo lớn mạnh nhất và bảo vệ quyền sở hữu hoàn thiện nhất.
Ở Mỹ, đất đai đâu đâu cũng đều có thể trồng trọt, chỉ riêng sản lượng nông nghiệp một năm của bang California đã vượt quá tổng số sản lượng nông sản cả năm của Trung Quốc. Nước Mỹ là siêu cường quốc trên thế giới, chính là giống như đế quốc Anh đã từng xưng bá thế giới 300 năm. Nước Mỹ không phải là thiên đường, nhưng lại là nơi gần với thiên đường nhất nơi cõi người.
Nền tảng lập quốc của nước Mỹ . Ảnh dẫn theo KUSI News
8. Văn hóa Mỹ và Trung Quốc khác biệt ra sao?
Thời hiện đại bây giờ, ở Trung Quốc, nếu như bạn nói lời chân thật, người khác sẽ nói bạn ngốc. Mỗi người đều bị buộc phải đi cửa sau, mọi người đều bị buộc phải dùng mánh lới thủ đoạn, đào sâu vào lỗ hổng. Còn ở Mỹ, nói dối là một vấn đề nghiêm trọng. Người nói dối một khi bị đánh một vết đen vào hồ sơ lý lịch, sau này dù có làm việc gì cũng đều rất khó khăn.
Hai loại văn hóa khác nhau dẫn đến hai loại hết cục khác nhau: một bên thì dối trá lộng hành, không giảng quy tắc, đạo đức bại hoại, tố chất thấp kém; một bên thì chính khí tràn trề, có phong thái của bậc quân tử.
Rất nhiều người Trung Quốc đã bày tỏ sự ngưỡng mộ sâu sắc đối với xã hội Âu Mỹ. Trái ngược với những tuyên truyền một chiều của chính phủ Trung Quốc về một nước Mỹ xấu xí, bất ổn, thì người dân Mỹ vẫn có thể đường hoàng sống với những tiêu chuẩn rất cao mà ở đây chỉ tạm liệt kê ra vài điều nổi bật:
– Có thể tự do phê bình chính phủ;
– Làm việc không cần phải luồn lách quan hệ;
– Không ai dám cưỡng chế, sách nhiễu;
– Chỉ cần bản thân có thực lực là có thể thăng chức;
– Gần như không có thực phẩm độc hại, quang cảnh nước biếc trời trong;
– Vật giá rẻ, thu nhập cao, phúc lợi tốt;
– Chăm lo người già, trẻ em, khám bệnh, giáo dục phần lớn đều là do chính phủ gánh vác;
– Nếu như có quan chức không làm tròn trách nhiệm thì có thể bỏ phiếu phản đối;
– Quan niệm mọi người bình đẳng đều đã ăn sâu vào lòng người;
– “Con ông cháu cha” không dám ngông cuồng hống hách.
Người Mỹ bận bịu với việc liên kết thế giới thành một khối, từ thành lập Liên Hợp Quốc cho đến phát minh ra mạng Internet. Người Mỹ tin tưởng rằng chiến tranh của nhân loại bắt nguồn từ gián cách giữa hai bên. Nếu như các nước trên thế giới có thể hiểu rõ nhau hơn, tin tưởng lẫn nhau và cùng theo đuổi giá trị chung, tự khắc xung đột, chiến tranh sẽ giảm đi.
Còn người Trung Quốc thì lại bận rộn với việc phong tỏa mạng lưới nghiêm ngặt để chia cắt thế giới, lừa gạt người dân rằng hy sinh tự do là vì để không trở thành nô lệ mất nước.
Trung Quốc dùng những bài học tư tưởng chính trị để giáo dục người dân yêu nước. Bắc Triều Tiên là dùng súng ống và tay sai để cưỡng ép người dân yêu nước. Nước Mỹ thì trái lại luôn dùng hành động thực tế để cảm hóa người dân mình yêu nước từ trong tâm, thử hỏi ai hay ai dở?
Thật ra, bạn chỉ cần làm rõ hai câu hỏi dưới đây thì có thể cảm giác được ngay:
Thứ nhất, nước Mỹ là nước Mỹ của người dân Mỹ, Trung Quốc là Trung Quốc của ai? Thứ hai, tại sao các tham quan Trung Quốc o bế Bắc Triều Tiên như vậy nhưng lại không một ai di cư sang Bắc Triều Tiên, trái đều lại thi nhau di dân sang Mỹ?
Cách nay chừng hai thập kỷ, hai chữ “vô thần” luôn gợi lên trong tâm trí chúng ta một ý thức hệ chính trị đối nghịch với các niềm tin tôn giáo. Hệ thống chính trị này luôn phê phán, tuyên truyền bóp méo, kỳ thị, thậm chí là tìm cách xóa bỏ các tôn giáo. Trong bối cảnh xã hội hôm nay, vô thần không chỉ là khái niệm dành cho những người kỳ thị tôn giáo hoặc vô tín ngưỡng, mà còn diễn tả một tình trạng đáng lo ngại nơi người Kitô hữu: đó là những người mang danh là tín hữu, nhưng lối sống của họ ngược lại với những gì họ tuyên xưng. Đức Thánh Cha Phanxicô, trong bài giảng thánh lễ tại nhà nguyện thánh Mátta sáng 23-3-2017 đã nói đến những người tín hữu bịt tai trước lời mời gọi của Chúa và ngài gọi họ là những người tín hữu vô thần.
Đức Thánh Cha nói: “Khi chúng ta không chăm chú nghe Lời Chúa, chúng ta sẽ lánh xa Ngài và quay lưng lại với Ngài. Nếu chúng ta không lắng nghe Lời Ngài, chúng ta sẽ tìm nghe những lời khác… Khi khước từ Lời Chúa và khi cứng lòng, chúng ta sẽ trở thành những người công giáo bất trung, những người dân ngoại, và tệ hại hơn, những người công giáo vô thần, bởi vì chúng ta không yêu mến Thiên Chúa hằng sống” (Nguồn: Zenit, 24-3-2017). Theo vị Chủ chăn của Giáo Hội, khước từ Lời Chúa (mà ngài gọi là “điếc”) sẽ dẫn đến tình trạng thờ ngẫu tượng, tức là tôn thờ vật chất và những đam mê trần tục. Việc chối bỏ Lời Chúa cũng dẫn đến hậu quả là lầm lẫn trong nhận định, trong phân biệt giữa điều thiện và điều ác.
Người Kitô hữu có Lời Chúa là kim chỉ nam cho cuộc đời. Chúa Giêsu đã so sánh những ai nghe Lời Chúa và đem ra thực hành, sẽ giống như người xây nhà trên nền đá, luôn bền vững trước bão tố mưa sa. Ngược lại, những ai không thực hành Lời Chúa giống như người xây nhà trên cát, sẽ sập đổ khi nước lũ dâng tràn (x. Mt 7,24-27). Thiên Chúa vẫn luôn luôn ngỏ lời với chúng ta, qua Giáo Hội và qua những biến cố xảy đến xung quanh, nhất là qua Lời Chúa trong Thánh Kinh. Thiếu ánh sáng của Lời Chúa, chúng ta mất phương hướng và đi trong lầm lạc.
Trong thực tế, tình trạng những tín hữu vô thần khá phổ biến nơi các cộng đoàn Kitô hữu của chúng ta.
Có những người tin Chúa mà vẫn vô thần, vì họ không gặp gỡ Chúa và tâm sự với Ngài trong lời cầu nguyện. Vì thế, trong đời sống của họ thiếu những “khoảng lặng” để suy tư về hạnh kiểm của mình. Đối với họ, Thiên Chúa chỉ giống như một khái niệm. Đức Giêsu chỉ thuần túy là một nhân vật lịch sử xa xưa và giáo huấn của Người cũng chỉ là một mẫu gương luân lý. Người tín hữu không cầu nguyện giống như xác không hơi thở. Thánh Gioan Maria Vianey đã viết: “Lời cầu nguyện cần thiết cho người tín hữu, giống như mưa cần thiết cho đất trở nên màu mỡ”. Quả vậy, lời cầu nguyện là cầu nối giúp ta gặp gỡ Chúa, tiếp nghị lực siêu nhiên từ Ngài. Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI khẳng định: “Tin là sự gặp gỡ với một biến cố, một Con Người, Đấng đem lại cho đời sống chúng ta một chân trời mới và từ đó, một định hướng dứt khoát” (Thông điệp Thiên Chúa là Tình yêu, số 1). Sự gặp gỡ này thể hiện qua lời cầu nguyện. Đời sống nội tâm giúp ta càng ngày càng gắn bó với Chúa, nhận ra sự hiện diện của Ngài mọi nơi mọi lúc. Cảm nhận được sự hiện diện cao quý ấy, chúng ta sẽ mở rộng con tim, chăm chú lắng nghe và thực hiện lời Ngài. Ý thức được sự hiện diện của Chúa trong đời, chúng ta sẽ sống cao thượng hơn đối với những người xung quanh, sẽ dễ dàng tha thứ cho những xúc phạm. Xác tín có Chúa đồng hành trên mọi nẻo đường của cuộc sống, chúng ta sẽ nhìn mọi sự việc, mọi con người với cái nhìn mới, bao dung quảng đại và kiên nhẫn vị tha. Như thế, khi sống ở đời này, dù còn nhìn thấy Chúa mờ mờ như trong gương, lòng chúng ta đã kiên vững và được sưởi ấm, vì chúng ta tin vào sự hiện diện và tình thương yêu của Ngài trong giờ phút hiện tại. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi: “Tôi kêu mời mọi Kitô hữu ở khắp nơi, ngay lúc này, đi vào một cuộc gặp gỡ cá vị và mới mẻ với Đức Kitô, hay ít là mở lòng ra để cho Chúa Giêsu gặp gỡ mình” (Tông huấn Niềm vui Tin Mừng, số 3).
Có những người tin Chúa mà vẫn vô thần, vì ngôn hành của họ trong cuộc sống đời thường không tương ứng với đức tin mà họ tuyên xưng. Đối với họ, giáo lý Kitô giáo rất cao đẹp và đầy tính nhân văn, nhưng chỉ dừng lại ở lý thuyết, mà không được thể hiện trong cuộc sống. Nói cách khác, đời sống của họ không được xây dựng trên nền tảng đức tin, cũng không được đức tin soi dẫn. Lời Chúa mà họ nghe thường xuyên, chỉ giống như những thông tin trên các phương tiện truyền thông. Hậu quả là có những người mang danh công giáo mà vẫn gian dối, vẫn chia rẽ bè phái. Khi không ưng ý trong Giáo Hội thì họ phản ứng theo kiểu thế gian. Với một đức tin hời hợt và bề ngoài, khi phải lựa chọn, họ sẵn sàng nghiêng về phía lợi lộc vật chất và từ bỏ Luật Chúa; sẵn sàng gạt bỏ tiếng nói của lương tâm để nghe theo tiếng gọi của tiền bạc. Đây đó, vẫn có trường hợp cha mẹ công khai chối bỏ đức tin để con mình được vào học tại một số trường chuyên ngành hay làm việc ở một số cơ quan của nhà nước. Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Không phải tất cả những ai nói với Thầy:“Lạy Chúa, Lạy Chúa”, là được vào nước trời, nhưng chỉ có người thực hiện ý Cha Thầy ở trên trời, kẻ ấy mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Do ảnh hưởng của quan niệm xã hội ngày nay, nhiều cá nhân và hội đoàn có khuynh hướng phô diễn đời sống đức tin qua những sinh hoạt tôn giáo sầm uất, nhưng tiếc thay, chỉ dừng lại bề ngoài. Vì thế, họ coi nhẹ việc học giáo lý để củng cố đức tin và tình hiệp nhất giữa các thành viên của một hội đoàn đạo đức. Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nghiêm khắc lên án những người biệt phái và luật sĩ. Người ví họ như những mồ mả tô vôi, bên ngoài thì đẹp đẽ, bên trong thì thối tha. Chúa Giêsu đã nhắc lại giáo huấn của ngôn sứ Isaia, lên án những người chỉ tôn thờ Chúa bề ngoài như sau: “Dân nàytôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúngthì lại xa Ta (Mc 7,6).
Trong phần kết thúc bài giảng tại nhà nguyện thánh Mátta, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi mọi người hãy kiểm điểm lương tâm trước mặt Chúa qua những câu hỏi: “Tôi có chuyên tâm nghe Lời Chúa không?”; “Tôi có cứng lòng trước lời dạy của Chúa không?”; “Tôi có đánh mất lòng trung tín với Chúa và chạy theo tôn thờ những ngẫu tượng đang tràn lan trong cuộc sống hôm nay không?”; “Phải chăng tôi đã đánh mất niềm vui của cuộc gặp gỡ đầu tiên với Chúa Giêsu?” Thiết tưởng mỗi chúng ta cần suy tư nghiêm túc để trả lời những câu hỏi này.
Mến Chúa, yêu người, đó là hai điều răn trọng nhất của Kitô giáo. Nói đúng hơn, đó chỉ là một giới răn duy nhất, tức là tình yêu. Tình yêu ấy hướng về Thiên Chúa và hướng về tha nhân. Người tín hữu đúng nghĩa là người thực thi tình yêu, yêu Chúa và yêu người. Chúa Giêsu đã đưa ra tiêu chí cho tình yêu này: Mến Chúa trên hết mọi sự và yêu người như mình ta vậy. Thực hành được những tiêu chí này, chúng ta sẽ là người Kitô hữu đích thực. Thiếu những điều kiện trên, chúng ta có nguy cơ trở thành vô thần.
“Ngày hôm nay, ước gì anh em nghe tiếng Chúa! Người phán: “Các ngươi chớ cứng lòng”” (Tv 94, 8). Ước gì mỗi chúng ta hãy để cho Lời Chúa thẩm thấu tâm can, trở nên con người mới, để hình ảnh của Chúa luôn tỏa rạng nơi cuộc đời tín hữu chúng ta.
Bà Lê Mai Trang, Phó Chủ tịch UBND quận Thanh Xuân, Hà Nội. Ảnh Đất Việt
“… những người lạ đã nhắn tin lăng mạ, chửi bới tôi rất thậm tệ. Việc này không chỉ ảnh hưởng đến danh dự của tôi mà còn ảnh hưởng đến hình ảnh của UBND quận Thanh Xuân, bởi tôi đang là Phó Chủ tịch quận”.
Bà Lê Mai Trang-Phó Chủ tịch UBND Quận Thanh Xuân, đã búc xúc trình bày với báo giới như thế sau sự việc cùng một đồng nghiệp đỗ xe để ăn trưa tại đường Nguyễn Quý Đức và gây ra những “diễn biến phức tạp” khiến dư luận ồn ào sau đó.
Là con người, ai cũng muốn danh dự của mình được bảo vệ, nhân phẩm của mình được tôn trọng. Do vậy, khi nghe những lời lẽ xúc phạm, phản ứng khó chịu của bà Trang là điều hợp lý. Tuy nhiên, việc bà Trang cho rằng vì bà đang giữ chức Phó Chủ Tịch nên xúc phạm danh dự của bà cũng là xúc phạm đến hệ thống công quyền UBND quận Thanh Xuân là điều hết sức phi lý và khôi hài.
Vâng! Phi lý và khôi hài, bởi lẽ hình ảnh lãnh đạo và uy tín của chính quyền là hai điều hoàn toàn tách bạch nhau. Lãnh đạo cũng là con người. Mà đã là con người thì ai cũng có lỗi lầm, những hạn chế, những sai sót. Tuy nhiên, trong các quốc gia theo chế độ độc tài, người ta bảo vệ chính quyền bằng cách “thần thánh hóa lãnh tụ”, tôn sùng lãnh đạo. Do vậy, nói xấu lãnh đạo là bôi nhọ chính quyền. Thậm chí “để ngăn chặn hành vi gây mất uy tín, xúc phạm nhân phẩm, danh dự các lãnh đạo Đảng, Nhà nước, ĐBQH đề nghị bổ sung quy định vào bộ luật Hình sự.” Và trong thực tế tại tỉnh An Giang đã “có 3 người bị kỷ luật, trong đó 2 người còn bị Sở TT&TT phạt 10 triệu đồng vì “nói xấu” Chủ tịch UBND tỉnh An Giang.”
Trong bài “Bệnh sùng bái lãnh tụ”, tác giả Nguyễn Hưng Quốc có viết :
“Theo Max Weber, về phương diện chính trị, có ba kiểu quyền lực chính: truyền thống (traditional), pháp lý-duy lý (rational-legal) và sự lôi cuốn (charismatic). Tất cả các chế độ cộng sản đều ra đời sau các cuộc cách mạng cướp chính quyền bằng bạo lực, do đó, hai yếu tố đầu, truyền thống và pháp lý, coi như không có. Chỉ còn yếu tố cuối: Để thu hút sự ủng hộ của quần chúng, họ phải tự biến họ thành một sức lôi cuốn cực kỳ mạnh mẽ; và để có sức lôi cuốn như thế, họ phải đặt trọng tâm vào tuyên truyền; trong tuyên truyền, họ đặt trọng tâm vào chính sách thần thánh hoá đảng và các lãnh tụ của đảng. Hệ quả là tất cả các chế độ cộng sản đều có một đặc điểm giống nhau: sùng bái.”
Vì đi ngược với giá trị tự nhiên của con người nên “Bệnh sùng bái lãnh tụ” đã khiến những vị “đầy tớ nhân dân” phải gồng lên, mang một mặt nạ không phải là mình, kiêu căng, sống giả dối và thiếu chân thật. Thế nhưng, sự thật vẫn là sự thật, chúng hiện hữu một cách độc lập, bất chấp thái độ nhìn nhận của chúng ta.
Trong thời đại thế giới phẳng này, không thể nào “ngăn chặn hành vi gây mất uy tín, xúc phạm nhân phẩm, danh dự các lãnh đạo Đảng, Nhà nước” nếu các vị thực sự là những người tha hóa, mất đạo đức, thiếu nhân phẩm. Khi đó thì hình ảnh của những vị “lãnh tụ thần thánh” như một bức tường thành bị sụp đổ một cách thảm hại, bất chấp “Đại Biểu Quốc Hội đề nghị bổ sung quy định vào bộ luật Hình sự.”
Người giữ chức vụ cao trong xã hội được xem là người của công chúng. Do vậy mỗi khi vấp sai trái, họ phải chịu áp lực từ dư luận. Ở các nước tự do dân chủ và văn minh, người dân không đặt lãnh tụ, giới lãnh đạo “vào chính sách thần thánh hóa”. Vì thế, ngay cả khi người dân xúc phạm danh dự của giới cầm quyền thì điều đó cũng không có nghĩa là họ chống đối chính quyền.
Bà Park Geun-hye bị người dân tố cáo nhiều tội danh nghiêm trọng ngay trong khi bà còn giữ chức vụ Tổng Thống Hàn Quốc nhưng không một người dân Hàn Quốc nào bị buộc tội là “chống đối chính quyền”, ngược lại cựu Tổng Thống đã bị truất phế và có thể đối mặt mức án ít nhất là 10 năm tù.
Ngay sau khi lễ nhậm chức của Tổng Thống Donal Trump, có cả triệu người Mỹ xuống đường biểu tình, phản đối Tân Tổng Thống, nhưng không có đoàn biểu tình nào bị các lực lượng công vụ, cảnh sát đàn áp, bắt bớ chống chính quyền Mỹ.
Đằng khác, nếu thực sự muốn gìn giữ uy tín của chính quyền thì khi lãnh đạo đã bị tai tiếng, hãy lập tức xin từ chức, chứ không mượn sức mạnh chính quyển để củng cố hay làm cho hình ảnh của họ tốt đẹp hơn.
Ngày 22-06 vừa qua, lãnh đạo địa phương ở London, giám đốc điều hành hội đồng Kensington và Chelsea đã từ chức sau khi bị chỉ trích về cách chính quyền phản ứng với vụ cháy tháp chung cư Grenfell ở London.
Kinh Thánh cũng dạy rằng: “Ai không ở lại trong Thầy, thì bị quăng ra ngoài như cành nho và sẽ khô héo. Người ta nhặt lấy, quăng vào lửa cho nó cháy” (Ga 15,6). Cành Nho không sinh hoa quả thì phải bị chặt và quăng đi để cây Nho được tiếp tục phát triển tốt. Cành Nho không thể gào lên rằng: “Ai chặt tôi là xúc phạm đến cây Nho mà tôi đang gắn bó”.
Nếu chưa thể thành THÁNH thì hãy chấp nhận những giới hạn của bản thân để cố gắng trao dồi đạo đức mà sống cho ra một CON NGƯỜI. Bằng không, nếu cứ tự thần-thánh-hóa bản thân bằng những hào quang do quyền lực mang lại, thì giới lãnh đạo, cầm quyền sẽ tự biến mình thành những CON NGỢM mà thôi.
Ông Thorbjorn Jagland, Chủ tịch Hội đồng Nobel ngồi kế tấm ảnh của ông Lưu Hiểu Ba trong buổi trao giải Nobel Hoà bình năm 2010 ở Oslo.
Photo by AFP
thong diep gui ong luu hieu ba
00:47/06:15
Chỉ trong vòng vài phút sau khi thế giới được tin người đoạt giải Khôi nguyên Hoà bình Lưu Hiểu Ba qua đời, hàng loạt các hãng truyền thông lớn của thế giới, và các nhà đấu tranh, bất đồng chính kiến, người lên tiếng vì môi trường, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam cũng đồng loạt đăng bài viết chia sẻ về cuộc đời, cảm kích về sự nghiệp đấu tranh của ông.
Từ thế giới
Hãy yên nghỉ, chúng tôi ở đây, và Lưu Hiểu Ba cũng ở đây với chúng tôi. – Nghệ sĩ, nhà hoạt động nổi tiếng thế giới Ngải Vị Vị
Sau khi có tin về sự ra đi của ông Lưu Hiểu Ba, tin nhận được từ hãng thông tấn AP cho biết những người ủng hộ nhân quyền và các nhà hoạt động dân chủ đã bày tỏ sự đau buồn sâu sắc. Ông Vương Đan, một trong những người lãnh đạo phong trào phản kháng dân chủ năm 1989 tại Quảng trường Thiên An Môn tại Bắc Kinh, kêu gọi các chính phủ và người dân trên toàn thế giới phải lên tiếng để bà Lưu Hà, vợ của ông Lưu Hiểu Ba được rời Trung Quốc, nơi bà đang bị quản thúc tại gia.
Hãng thông tấn AP trích lời ông Vương viết, “Lưu Hiểu Ba, người thầy đáng kính của tôi, anh trai yêu dấu của tôi, bạn đã chịu quá nhiều khó khăn, hãy yên nghĩ.”
Thủ lĩnh phong trào dù vàng Hồng Kong, Hoàng Chi Phong (Joshua Wong) đăng trên trang tweeter của anh lời cam kết: “Chúng tôi sẽ tiếp bước con đường của ông, tranh đấu cho nền dân chủ của Hồng Kong và Trung Quốc.”
Nghệ sĩ, nhà hoạt động nổi tiếng thế giới Ngải Vị Vị đã viết: “Hãy yên nghỉ, chúng tôi ở đây, và Lưu Hiểu Ba cũng ở đây với chúng tôi.”
Đến Việt Nam
Từ Việt Nam, Facebooker Ngô Thanh Tú, từ Bình Thuận viết trên trang cá nhân của ông: “Cái chết của ông Lưu làm người dân Việt Nam nhớ đến thầy giáo Đinh Đăng Định, người đã nhiều lần lên tiếng phản đối việc xây dựng các nhà máy khai thác Bauxite ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Không chấp nhận tiếng nói trái chiều, nhà cầm quyến CSVN đã giam cầm thầy giáo Định trong những nhà tù khắc nghiệt nhất nhằm đè bẹp ý chí của ông.
Cũng như Lưu Hiểu Ba, bất chấp những lên án và kêu gọi thả thầy giáo Định, nhà cầm quyền CSVN quyết tâm giam cầm ông và chỉ thả khi ông mắc bịnh hiểm nghèo và chết không nhắm mắt (theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) một thời gian ngắn sau đó.”
Thầy giáo, tù nhân lương tâm Đinh Đăng Định cũng chính là nhân vật được nhà đấu tranh Nguyễn Chí Tuyến nhắc ngay đến khi được hỏi về ảnh hưởng của ông Lưu Hiểu Ba đối với phong trào đấu tranh dân chủ trong nước.
Một người dân bày tỏ thương tiếc trước di ảnh của ông Lưu Hiểu Ba.Photo by AFP
“Đối chiếu với những nhà bất đồng chính kiến ở Việt Nam, ví dụ như thầy Đinh Đăng Định, thầy cũng bị nhà cầm quyền Việt Nam bắt và bỏ tù. Đến lúc thầy gần chết thì người ta mới đưa ra khỏi nhà tù, về nhà một thời gian sau thì thầy chết.
Với ông Lưu Hiểu Ba thì nhà cầm quyền Trung Quốc đối xử với ông cũng chả khác gì.
Thế nhưng cái nguyện vọng cuối đời của ông ấy là ông ấy nói nếu chết thì ông ấy mong muốn được chết trên một đất nước tự do, tức là ông ấy không muốn chết trên đất nước Trung Quốc, không muốn chết trên chế độ bạo tàn của Cộng sản.”
Năm 2008, ông Lưu Hiểu Ba bị giam giữ. Một năm sau ông bị kết án 11 năm tù giam vì “kích động lật đổ chính quyền” sau khi ông cho ra đời tuyên ngôn mang tên “Hiến chương 2008”, kêu gọi việc xem xét và cải cách dân chủ hệ thống chính quyền của Trung Quốc.
Năm 2010, trong lúc đang trong tù giam, ông được trao giải Nobel Hoà bình. Do ông thể tham dự, giải thưởng đã được đặt trên một chiếc ghế trống, cùng với tấm ảnh chân dung của ông được phóng lớn treo bên cạnh.
Nói về thời khắc “nhận” giải thưởng Nobel Hoà Bình của ông Lưu Hiểu Ba, ông Nguyễn Chí Tuyến liên tưởng đến ngày trao giải Phụ nữ Quốc tế Dũng cảm năm 2017 cho blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh.
Hôm đó, bà cũng không thể có mặt vì đang bị giam giữ do bị cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ theo điều 88 Bộ Luật Hình sự Việt Nam.
Hình ảnh chung
Theo ông Nguyễn Chí Tuyến, Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là một trong những ví dụ điển hình cho thấy sự tương đồng về cách đối xử của nhà nước Trung Quốc và Việt Nam đối với những người bất đồng chính kiến.
“Tôi nhìn qua trường hợp của ông Lưu Hiểu Ba thì tôi thấy tất cả những gì của Việt Nam và Trung Quốc thì hoàn toàn không khác nhau gì mấy về tất cả thủ đoạn cũng như gọi là chiêu trò của Đảng cộng sản với người bất đồng chính kiến.”
Tôi nhìn qua trường hợp của ông Lưu Hiểu Ba thì tôi thấy tất cả những gì của Việt Nam và Trung Quốc thì hoàn toàn không khác nhau gì mấy về tất cả thủ đoạn cũng như gọi là chiêu trò của Đảng cộng sản với người bất đồng chính kiến. – Nhà hoạt động Nguyễn Chí Tuyến
Từ Hà Nội, nhà hoạt động Đường Văn Thái, cho biết blogger Mẹ Nấm và những nhà hoạt động đấu tranh khác đang bị giam cầm trong tù chính là hình ảnh của những Lưu Hiểu Ba ở Việt Nam.
“Điều đó là điều hiển nhiên. Như vừa rồi phiên toà xét xử Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh là một ví dụ rất điển hình. Cách đối phó cũng như cách hành xử với nhà bất đồng chính kiến của nhà cầm quyền Cộng sản thì như nhau cả thôi. Chẳng qua nó gọi là phiên bản F1, F2”
Nhà đấu tranh Trần Bang, từ Sài Gòn trả lời chúng tôi qua email cho rằng cách thức nhà nước Trung Quốc đối với ông Lưu Hiểu Ba ngay cả những ngày cuối đời không khác với phản ứng của nhà nước Việt Nam đối với những người bất đồng chính kiến, đấu tranh cho dân chủ nhân quyền trong nước.
“Đúng là có sự tương đồng giữ Trung Quốc và Việt Nam trong việc phản ứng với những người bất đồng chính kiến, đấu tranh cho dân chủ nhân quyền.
Nhiều nhà bất đồng chính kiến thường liên hệ rằng “nếu phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên Bắc Kinh thắng lợi thì Trung Quốc đã chuyển hoá sang dân chủ như Liên Xô, Đông Âu… thì độc tài Cộng sản Việt Nam cũng đã sập.”
Còn rất nhiều những lời chia sẻ của thế giới và của người Việt Nam gửi đến ông, người Trung Quốc đoạt giải Khôi nguyên Hoà Bình vì những nỗ lực thúc đẩy nhân quyền ngay trên đất nước của ông. Xin mượn câu nói của chính ông Lưu Hiểu Ba: “Vì không có thế lực nào có thể ngăn chặn được đòi hỏi của con người được có tự do và Trung Quốc cuối cùng sẽ trở thành một quốc gia được điều hành bởi luật pháp, nơi nhân quyền là trên hết” để kết thúc cho bài viết Thông điệp của thế giới và các nhà đấu tranh ở Việt Nam gửi về ông Lưu Hiểu Ba.