Nếu nợ công là 431 tỷ USD, ai trả nợ cho DNNN thua lỗ?

Nếu nợ công là 431 tỷ USD, ai trả nợ cho DNNN thua lỗ?

Một câu hỏi đặt ra là những khoản nợ nần khổng lồ của các DNNN, các dự án ‘đắp chiếu’ thua lỗ và các đại án gây thất thoát hàng nghìn tỷ đồng ai sẽ chịu trách nhiệm và lấy tiền ở đâu để bù đắp, trả nợ.

Theo một phân tích của Tiến sĩ Vũ Quang Việt, cựu Vụ trưởng Vụ thống kê của Liên Hiệp Quốc, vào năm 2011, nợ công việt Nam về thực chất đã tăng đến 106% GDP, nếu tính cả nợ của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Vào thời điểm đó, con số báo cáo của Chính phủ về nợ công quốc gia chỉ vào khoảng 50% GDP.

Đầu năm nay, tại hội nghị tổng kết ngành tài chính, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đưa ra cảnh báo rằng “nợ công nếu tính đủ đã vượt trần chứ không chỉ sát trần”. Người đứng đầu Chính phủ cũng dẫn lời chuyên gia nhận định nếu không chấm dứt tình trạng này thì sự sụp đổ nền tài khóa quốc gia là không thể tránh khỏi.

Tiến sĩ Vũ Quang Việt dẫn số liệu được cho là tin cậy cho thấy nợ Chính phủ năm 2015 là 115 tỷ USD bằng 59,5% GDP và ước tính nợ Chính phủ năm 2016 lên tới ít nhất 131 tỷ USD, bằng 63,9% GDP.

Theo phân tích của Tiến sĩ Vũ Quang Việt, nợ của khoảng 3.200 DNNN theo điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2014 là 4,9 triệu tỷ đồng (231 tỷ USD), gấp nhiều lần con số 1,5 triệu tỷ đồng mà Bộ Tài chính đưa ra chỉ cho một số tập đoàn và công ty lớn. Ước tính thêm cho thấy năm 2016, nợ của DNNN là 324 tỷ USD, bằng 158% GDP.

Như vậy, cộng cả nợ chính phủ và nợ doanh nghiệp nhà nước sau khi trừ đi phần Chính phủ bảo lãnh trùng lặp, tổng số nợ năm 2016 là 431 tỷ USD, bằng 210% GDP.

Như vậy, cả nước làm ra 100 đồng nhưng có tới 210 đồng là vay nợ và nợ công tính theo đầu người Việt Nam sẽ rơi vào khoảng 100 triệu đồng.

Vô mánh lớn , 1,900 cây trụ điện luôn !

From facebook:   Son Dang‘s post.
 

Vô mánh lớn , 1,900 cây trụ điện luôn !
——————-

Bão mạnh nhưng liệu có thể quật ngã gần 1.900 trụ điện ở tỉnh Khánh Hòa? Liệu chất lượng các trụ điện có vấn đề?

Bão mạnh nhưng liệu có thể quật ngã gần 1.900 trụ điện ở tỉnh Khánh Hòa? Liệu chất lượng các trụ điện có vấn đề?
 
XALUANVN.COM 
 
 

Nữ thương gia Việt bị bắt ở Malaysia vì hối lộ sĩ quan hàng hải

Nữ thương gia Việt bị bắt ở Malaysia vì hối lộ sĩ quan hàng hải

Một nữ thương gia Việt Nam vừa bị cơ quan chống tham nhũng của Malaysia bắt giữ vì cáo buộc hối lộ cho các sĩ quan hàng hải nước này để được thả các tàu cá bị Malaysia tịch thu.

Straits Times dẫn các nguồn tin Malaysia cho biết người phụ nữ Việt 41 tuổi (không nêu danh tính) bị bắt tại văn phòng của Ủy ban chống tham nhũng Malaysia (MACC) ở Kuantan vào ngày 15/11.

Trước đó, người phụ nữ này được triệu tập đến văn phòng MACC để trả lời các nhà điều tra về khoản tiền hối lộ trị giá 213.000 đôla Mỹ trong vụ án xảy ra hồi đầu năm nay.

Tin cho hay số tiền đã được trả trong 5 lần giao dịch cho các nhân viên của Cơ quan Thực thi Hàng Hải Malaysia (MMEA).

Vụ hối lộ được cho là để đảm bảo cho nhiều tàu cá của Việt Nam bị MMEA tịch thu trong vùng biển Malaysia được thả ra.

Một cuộc điều tra đang được tiến hành để xác định chủ sở hữu của các các tàu đã được thả ra. Một số tàu được cho biết đã dùng số hiệu đăng ký giả khi bị cơ quan chức năng Malaysia bắt giữ.

Ủy ban chống tham nhũng Malaysia còn cho biết họ cũng đang tìm hiểu về mối liên hệ giữa nghi phạm và các nhân viên làm việc cho cơ quan công quyền của Malaysia.

Ông Datuk Seri Azam Baki, Phó Ủy ban chống tham nhũng Malaysia, xác nhận vụ bắt giữ nhưng từ chối đưa thêm chi tiết.

Trong phiên tòa lúc 9 giờ sáng 16/11, tòa án Malaysia ra lệnh giam bị cáo người Việt trong 7 ngày để phục vụ cho việc điều tra.

Tin cho hay nữ thương gia Việt đã sống ở Malaysia 17 năm và có 4 đứa con.

Malaysia đang đẩy mạnh công tác trấn áp hoạt động đánh bắt trái phép trong vùng biển nước này. Tính đến nay, Malaysia đã phá hủy gần 300 tàu thuyền nước ngoài bị bắt, trong đó có nhiều tàu của Việt Nam.

Cực lực phản đối an ninh chà đạp lên pháp luật.

 From facebook:  Trần Bang shared A Nguyen Quang‘s post.
 

Cực lực phản đối an ninh chà đạp lên pháp luật.

Nhận lời mời của EU tôi đến phái đoàn EU họp với các đại điện của các sứ quán EU. Ngày 2-12-2017 sẽ có đối thoại nhân quyền VN-EU. Mình cũng chẳng biêt họ mời những ai, đến nơi thì gặp Chí Tuyến, Đoan Trang, Bùi Hằng. Họ trao đổi về vấn đề đối thoại. Mỗi người góp một ý về thực trạng và khuyên họ nên tiếp cận vấn đề một cách xây dựng để VN thực hiện các cam kết của mình với quốc tế. Chả có gì to tát.

Thực ra, mình đi từ lúc 5:30 (họp 9:30) vì mình đưa cậu con trai ra sân bay. Ba bố con đi được 10 m thì thấy 1 kẻ khả nghi, sau đó ra đến xe thì thấy 2 người đèo nhau đi. Chả biết có phải an ninh không.

9:20 mình đến Lotte và họp đến 11:30. Ra về đến trước sứ quán Australia thì 4 kẻ mặc thường phục (quen nhẵn mặt rồi) tống mình lên xe. Xe chạy về đồn CA Gia Thuỵ lúc 12:19 rồi tay trung tá Khôi (người đã định hỏi cung mình 15 tiếng hôm 1-2/9/2015 ở Nội Bài) xuất hiện.

Ông Khôi đòi mình kể cho ông nghe ai tham dự, ai nói những gì,..vv. Họ muốn biến mình thành kẻ chỉ điểm hay sao? Quá vớ vẩn.
Mình bảo các cậu chà đạp lên pháp luật, tôi mới có tư cách chất vấn các cậu. Cậu không có tư cách để hỏi và tôi không trả lời bất kể câu hỏi nào.
Cứ lằng nhằng thế. Ông ta độc thoại, đôi khi mình ngứa tiết mắng lại. Chẳng hạn, ông ta cứ nhắc đi nhắc lại luật an ninh quốc gia, còn doạ người ta có thể quy mình làm gián điệp. Mình bảo các cậu chả hiểu an ninh quốc gia là gì cả và chính các cậu phá hoại an ninh quốc gia đó.
Đến 14:30 ông Khôi ra đi, không biết có phải để báo cáo lãnh đạo của ông ta hay không.

Uống 2 chai nước trắng của Cocacola, chả ăn uống gì nên đi tiểu 2-3 lần, lúc nào cũng 2 cậu kè kè (lúc 12:19 mình vào WC khoá cửa, chúng nó đạp tan cái cửa, may lúc đó mình vừa xong và vừa đứng lên và cái cánh cửa không đụng vào mình). 
Đến 16:48 một cậu bảo thôi bác về nhà nghỉ ngơi.
Không rõ Chí Tuyến, Đoan Trang và Bùi Hằng có gặp sự cố gì không?
(Đây là lần thứ 14 mình bị câu lưu kể từ phiên xử Basam đầu năm ngoái).
Thật quá khốn nạn.

Nền giáo dục Việt Nam: Vẫn lạc đường sau 35 năm

Nền giáo dục Việt Nam: Vẫn lạc đường sau 35 năm

Cát Linh, RFA
2017-11-15 
Các em học sinh trong ngày khai giảng.

Các em học sinh trong ngày khai giảng.

 Courtesy photo
 

Chỉ vài ngày nữa, Việt Nam sẽ kỷ niệm 35 năm ngày Nhà giáo Việt Nam, ngày lễ  ‘tôn sư trọng đạo’ được ra đời từ ngày 28 tháng 9 năm 1982 sau khi có quyết định của chính phủ lấy ngày 20 tháng 11 hàng năm là ngày Nhà giáo Việt Nam.

Nhân sự kiện này, hãy cùng nhìn lại nền giáo dục Việt Nam sau 35 năm.

Nền giáo dục đi lạc đường

Trong chuyến xe hành trình của một người, giáo dục là vết khắc đầu tiên và kéo dài không bao giờ chấm dứt cho đến khi người ấy đặt chân đến ga cuối cùng.

Còn đối với một quốc gia, hơn năm trăm năm trước, dưới thời Lê Thánh Tông, đã có câu nói nổi tiếng được khắc trên tấm bia ở Văn Miếu “… Các bậc hiền nhân tài giỏi là yếu tố cốt tử đối với một chỉnh thể. Khi yếu tố này dồi dào thì đất nước tăng tiến mạnh mẽ và phồn vinh. Khi yếu tố này kém thì quyền lực đất nước bị suy giảm. Những người tài giỏi là một sức mạnh đặc biệt quan trọng đối với đất nước”.

Chỉ bấy nhiêu đã đủ để thấy uy lực và tầm quan trọng của giáo dục ảnh hưởng lên sự phát triển và thịnh vượng của một quốc gia như thế nào? Có lẽ thế mà những người quan tâm đến vận mệnh của giáo dục, cũng là vận mệnh của đất nước, thời nào cũng có.

mang cap den truong
mang cap den truong Courtesy of phunuonline.com.vn

Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, Việt kiều Bỉ, là người tâm huyết với nền giáo dục nước nhà từ rất lâu. Từ năm 1976, 1977, ông đã quay về Việt Nam làm giảng viên thỉnh giảng cho các trường đại học ở Hà Nội. Hơn 20 năm ông gọi là thời gian “can qua những trở ngại, nghịch cảnh để đóng góp tiếng nói vào sứ mệnh phát triển giáo dục”, giờ đây, khi nói về nền giáo dục Việt Nam, lời nói đầu tiên của ông là quá chậm trễ cho sự thay đổi.

“Ngồi bình thản bình yên tôi nhìn lại, tôi phải thấy rằng muốn là một chuyện mà thực tế thay đổi được hay không là một chuyện khác. Tôi phải đi đến kết luận ngay ngày hôm nay là thay đổi quá chậm, nền giáo dục của Việt Nam vẫn còn ngụp lặn trong cái tụt hậu.”

Chậm trễ đến đâu? Vì sao không thể sửa? Câu trả lời của Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng là “vì đó không phải là sai lầm”

“Nếu chúng ta sai lầm, chúng ta có thể sửa đổi được. Nhưng vấn đề của chúng ta hiện nay là chúng ta đi lạc đường. Nền giáo dục của Việt Nam là nền giáo dục lạc đường. Mình chủ quan mình cho mình là con đường tốt hơn hết, rực rỡ hơn hết, nhưng mình đâu dè đây là ngõ cụt.”

Ngồi bình thản bình yên tôi nhìn lại, tôi phải thấy rằng muốn là một chuyện mà thực tế thay đổi được hay không là một chuyện khác. Tôi phải đi đến kết luận ngay ngày hôm nay là thay đổi quá chậm, nền giáo dục của Việt Nam vẫn còn ngụp lặn trong cái tụt hậu. – GS Nguyễn Đăng Hưng

Triết lý giáo dục sai lầm

Ở nơi gọi là ngõ cụt ấy, theo Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, đang tồn tại rất nhiều những thành viên xã hội không thể gánh vác những yêu cầu của một nền kinh tế ngày càng hoà nhập với thế giới. Nền giáo dục Việt Nam không thể khoác lên chiếc áo vừa vặn với tốc độ phát triển của thế giới. Điều này ông gọi là ‘sự đi lạc đường’ ngay từ trong tư duy và triết lý giáo dục.

“ Cái tư duy giáo dục của ta, triết lý giáo dục của ta sai lạc. Ta không coi chuyện giáo dục là tạo những thực thể, những con người tự do. Tự do thì mới có sáng tạo, mà sáng tạo thì mới làm khoa học kỹ thuật, làm công nghiệp. ngay cả làm quản trị kinh doanh, phải có những con người có đầu óc độc lập. Cách đào tạo của mình đi lạc đường mình tạo ra những con vẹt, những lò xo, tạo những con người làm việc máy móc thì không thể thích ứng cho nền kinh tế phát triển.”

Ông nhấn mạnh điều này khởi nguồn từ tư duy của những các nhà giáo dục, của chương trình giáo dục, của những giáo sư đang dạy cho các sinh viên bị đóng khung trong đường hướng sai lạc từ mấy chục năm qua.

Với mong muốn nghe thêm nhận định về nền giáo dục Việt Nam, chúng tôi liên lạc với Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Trần Ngọc Thêm, vì qua các tài liệu ghi nhận được từ báo trong nước, chúng tôi được biết ông từng đưa ra ý kiến rằng “Giáo dục hỏng chính là do triết lý giáo dục sai lầm”.

Tuy nhiên, với lý do đây là vấn đề đang được ông nghiên cứu nên không thể đưa ra câu trả lời ngay lúc này. Thế nhưng, liên quan đến những tiến bộ nếu có của giáo dục Việt Nam, ông có nhận định thoáng hơn. Ông nói rằng “có sự thay đổi”.

“Trong thời gian vừa qua có rất nhiều cố gắng để thay đổi. Có thay đổi, nhưng tốt lên hay không thì là chuyện khác. Tôi nghĩ thay đổi theo hướng tốt lên thì nó hơi chậm.”

Không chú trọng đào tạo đạo đức

Một đánh giá khác nghiêng về góc độ nhân văn được chia sẻ từ Thạc sĩ Nguyễn Minh Hiệp, Giám đốc thư viện Đại Học Khoa Học Tự Nhiên, thuộc Đại Học Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh. Bày tỏ với chúng tôi, ông nói rằng mặc dù trong nghề giáo nhưng ông không hài lòng với giáo dục Việt Nam, vì không có tiêu chí để đào tạo rõ ràng. Điều mà theo ông, quan trọng hơn cả là đạo đức của con người.

“Khi dạy dỗ, từ chương trình tiểu học cho đến khi lớn hơn, không chú trọng đến vấn đề gọi là nhân văn, mà đào tạo thực dụng. Cho nên khi con người được đào tạo lên rồi thì chỉ có khuynh hướng thực dụng, còn vấn đề đạo đức rất thấp.”

Một minh chứng thực tế được Thạc sĩ Nguyễn Minh Hiệp dẫn dụ, đó là chương trình giáo dục Việt Nam vô tình đã dạy cho một đứa trẻ nói dối.

“Ví dụ bắt tả 1 con chó ở nhà em, đứa bé đó nói nhà em không có nuôi chó nên không tả được. Nhưng cũng phải tả, phải làm cho được.

Hay 1 đứa bé học ở trên Tây Nguyên, nói là tả gia đình đi biển, thì nó nói thẳng là thưa cô em không biết biển là gì hết, chưa bao giờ đi. Nhưng em phải bịa ra để nói. Còn trong lịch sử thì…nhiều cái giả dối quá.”

…Hay 1 đứa bé học ở trên Tây Nguyên, nói là tả gia đình đi biển, thì nó nói thẳng là thưa cô em không biết biển là gì hết, chưa bao giờ đi. Nhưng em phải bịa ra để nói. Còn trong lịch sử thì…nhiều cái giả dối quá. – Thạc sĩ Nguyễn Minh Hiệp

Đó là giáo dục phổ thông. Cao hơn nữa là cấp bậc đại học. Với Thạc sĩ Nguyễn Minh Hiệp, đào tạo cấp bậc đại học, tiến sĩ hiện nay chẳng khác nào tạo nên những cây kiểng đắt tiền với mục đích làm đẹp.

“Ví dụ như trường tôi người ta đến người ta đề nghị trong 4 năm đào tạo mấy trăm tiến sĩ. Vị hiệu trưởng trường tôi thành thật nói rằng 20 năm rồi trường tôi không thể đào tạo được số đó thì làm sao trong 4 năm được?”

Nói một cách khác, theo Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, giáo dục chính là sinh hoạt của con người, mà mọi chuyện trên thế gian này, xấu tốt, độc, ác đều phát xuất từ con người mà ra. Chính vì vậy, ông cho rằng những gì con người làm ra mà không đúng thì có thể làm theo cách khác.

“Vấn đề là căn bệnh đã quá lây lan, đã vào cốt tuỷ rồi. Cho nên không thể nào chữa trị ngoài da, không thể bằng cách uống thuốc, phải cắt đi tế bào hư hao để thay đổi bản chất, cắt đi những tệ hại, những ung nhọt thì mình mới có thể thay đổi được. Nếu cần phải khai thông con đường mới vì không cắt được. Cắt là chết.”

Ai sẽ là người khai thông con đường mới ấy? Ai sẽ là kiến trúc sư trưởng như cách gọi của giáo sư Nguyễn Đăng Hưng để kiến thiết lại con đường mang tên giáo dục ở Việt Nam? Mặc dù Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng cho rằng điều này phải bắt đầu từ những người lãnh đạo can đảm và tin tưởng vào sự thay đổi, nhưng ông vẫn nói rằng rất khó để ông tìm thấy sự lạc quan khi nhìn về tương lai.

Quảng Bình xây nơi trú bão hơn $8.1 triệu, ngư dân không dám vào

Quảng Bình xây nơi trú bão hơn $8.1 triệu, ngư dân không dám vào
 
Rất ít tàu thuyền vào khu neo đậu Cửa Phú để tránh bão. (Hình: Thanh Niên)

QUẢNG BÌNH, Việt Nam (NV) – Chính quyền tỉnh đầu tư hàng trăm tỷ đồng để xây khu tránh bão Cửa Phú, xã Bảo Ninh, thành phố Đồng Hới, nhưng ngư dân lại không dám đưa tàu thuyền vào tránh trú vì… sợ mang họa hư hại tàu.

Dự án khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá Cửa Phú do Ban Quản Lý Dự Án Quản Lý Thiên Tai WB5, thuộc Sở Nông Nghiệp-Phát Triển Nông Thôn tỉnh Quảng Bình làm chủ đầu tư, với tổng vốn xây dựng 186 tỷ đồng (hơn $8.1 triệu), khởi công xây dựng từ đầu năm 2015 và hoàn thành hồi Tháng Bảy, 2017, giao cho Ban Quản Lý Cảng Cá Nhật Lệ quản trị, vận hành.

Tuy nhiên, theo báo Thanh Niên, đến nay có những hạng mục thi công dở dang đã có biểu hiện hư hỏng, xuống cấp do chưa được hoàn thiện. Cụ thể, các hạng mục nhà vệ sinh, nhà điều hành, một đoạn đường, bể composite, lề bê tông… với tổng giá trị 1.2 tỷ đồng (khoảng $52,868) vẫn chưa hoàn thành.

Một nhà hoạt động tại Việt Nam ‘bị câu lưu’

Một nhà hoạt động tại Việt Nam ‘bị câu lưu’

 

Nguoi-viet.,com

Nhà báo tự do Phạm Đoan Trang (phải) và cuốn sách “Chính Trị Bình Dân” vừa phát hành trên Amazon. (Hình: Facebook Phạm Đoan Trang)

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Sau cuộc gặp phái đoàn EU tại đại sứ quán Thụy Điển ở Hà Nội hôm 16 Tháng Mười Một, nhà báo tự do Phạm Đoan Trang, tác giả cuốn sách “Chính Trị Bình Dân” bị công an CSVN “câu lưu.”

Bà Trang cùng một số nhà hoạt động khác, trong đó có cựu tù nhân lương tâm Bùi Thị Minh Hằng, được mới đến đại sứ quán Thụy Điển để trao đổi về tình hình nhân quyền tại Việt Nam. Đây là cuộc họp nhằm chuẩn bị cho phiên Đối Thoại Nhân Quyền hằng năm giữa Việt Nam và EU, dự trù diễn ra đầu Tháng Mười Hai tới đây.

Bà Hằng cũng bị câu lưu nhưng được trả tự do vào chiều cùng ngày.

Theo Facebook Trịnh Kim Tiến, “Nhà báo Phạm Đoan Trang bất chấp những nguy hiểm có thể xảy đến để có mặt tại Hà Nội. Chị xác định rằng mình có thể bị bắt ngay sau cuộc họp, dù đôi chân đang rất đau nhưng chị vẫn cố gắng đến trao đổi với các đại sứ quán với mong muốn thúc đẩy nhân quyền cho Việt Nam. Những nội dung mà nhà báo Phạm Đoan Trang truyền đạt trong cuộc họp gồm có ba phần chính: Báo cáo tình hình môi trường và vi phạm nhân quyền, liên quan đến thảm họa Formosa; báo cáo về tình hình tự do tôn giáo; tuyên bố và kiến nghị của một số tổ chức xã hội dân sự độc lập.”

Đến 11 giờ đêm cùng ngày, ông Dương Đại Triều Lâm, thành viên Mạng Lưới Blogger Việt Nam, cho hay bà Trang vẫn đang “làm việc” tại Phòng An Ninh Điều Tra của Công An Hà Nội.

Bà Trang được ghi nhận từng tham dự khóa học 10 tháng về chính sách công ở Hoa Kỳ nhưng “từ chối lời đề nghị ở lại Mỹ.” Bà về nước vào Tháng Giêng, 2015 và dấn thân làm nhà hoạt động. Được biết trước khi bị câu lưu hôm 16 Tháng Mười Một, bà đang chuẩn bị xuất bản tiếp cuốn “Chính Trị Phi Bạo Lực.”

Đến nửa đêm 16 Tháng Mười Một, một số nhà hoạt động bày tỏ sự lo lắng trên mạng xã hội vì bà Trang bị suyễn kinh niên và một chân gần như bị liệt mà bà từng cáo buộc là vì những trận đòn của an ninh.

Website Luật Khoa Tạp Chí hồi Tháng Mười nhận định cuốn “Chính Trị Bình Dân” do Nhà Xuất Bản Giấy Vụn ở Hoa Kỳ ấn hành, “đáng được xếp vào hàng những tài liệu hiếm hoi bàn về chính trị Việt Nam một cách nghiêm chỉnh kể từ năm 1975 trở lại đây, dù không thể phát hành tại Việt Nam.”

Trang này dẫn lại một đoạn trong cuốn sách: “Luật pháp ở nước CHXHCN Việt Nam chỉ là công cụ để nhà nước quản lý, hay là chỉ dùng cho dân. Công an – với vai trò lực lượng bảo vệ chế độ – thường được ưu ái, được luật pháp ưu tiên bảo vệ. Việt Nam dưới thời Cộng Sản là một chế độ ‘rule by law,’ nơi không tồn tại ‘rule of law.’” (T.K.)

‘Đại biểu’ của người dân Việt Nam đòi ‘huy động 500 tấn vàng trong dân’

‘Đại biểu’ của người dân Việt Nam đòi ‘huy động 500 tấn vàng trong dân’

 

Vàng của người dân đang được các đại biểu do dân bầu lên đòi “huy động 500 tấn vàng trong dân.” (Hình: Đầu Tư)

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – “Trong dân hiện đang có khoảng 500 tấn vàng và hơn $10 tỷ, đề nghị Ngân Hàng Nhà Nước có chính sách huy động.”

Đó là ý kiến của ông Lê Công Nhường, “đại biểu” cho người dân Việt Nam tại Quốc Hội của tỉnh Bình Định, được báo Tuổi Trẻ ghi lại trong phiên chất vấn Thống Đốc Ngân Hàng Nhà Nước Lê Minh Hưng tại Quốc Hội CSVN hôm 16 Tháng Mười Một.

Không chỉ ông này, mà ông Nguyễn Sơn, “đại biểu” của tỉnh Hà Tĩnh, cũng đặt câu hỏi về việc huy động vàng và ngoại tệ trong dân.

Thống Đốc Lê Minh Hưng trả lời: “Giải pháp khả thi nhất là kiên định điều hành kinh tế vĩ mô, tạo được lòng tin người dân và doanh nghiệp vào đồng Việt Nam, trực tiếp đầu tư bằng đồng nội tệ. Việc này cần lộ trình chuyển hóa phù hợp. Nhiều năm qua thì vấn đề vàng điều hành rất thành công, trước đây tốn nhiều ngoại tệ để mua vàng nhưng nay đã hạn chế, chuyển hóa được một phần rất lớn từ vàng cho nền kinh tế. Với ngoại tệ dù trần lãi suất 0% nhưng thực tế ngoại tệ đã được chuyển qua tiền đồng Việt Nam để đầu tư. Như vậy nếu kiên định đường lối điều hành kinh tế vĩ mô thì sẽ vẫn bảo đảm nguồn lực.”

Việc Quốc Hội CSVN tiếp tục nóng sốt chuyện huy động 500 tấn vàng trong dân diễn ra trong bối cảnh báo Dân Trí ghi nhận Bộ Trưởng Tài Chính Đinh Tiến Dũng thừa nhận rằng “Nợ công tăng cao, áp lực trả nợ lớn cần phải có lộ trình giảm dần bội chi, đảm bảo an toàn nợ công.”

Vài ngày trước phiên chất vấn tại Quốc Hội, công luận xôn xao chuyện vợ của “nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô,” người được ghi nhận “đã hiến 5,147 lượng vàng cho chính phủ Cách Mạng Lâm Thời Việt Nam” nhưng khi chết vẫn chưa đòi được nhà cho mượn. Khi mất, bà Hoàng Thị Minh Hồ, vợ của ông Bô, chỉ được chính quyền “tổ chức tang lễ cấp cao” và cử hai phó thủ tướng đến viếng.

Hồi Tháng Năm, 2016, ông Nguyễn Thành Long, chủ tịch Hiệp Hội Kinh Doanh Vàng Việt Nam (VGTA), từng bị nhiều chỉ trích khi đề nghị thành lập Sở Giao Dịch Vàng Quốc Gia để phát hành chứng chỉ vàng hoặc trái phiếu vàng nhằm huy động vàng trong dân.

Báo Người Lao Động thời điểm đó cho biết: “Các chứng chỉ vàng sẽ được phát hành dưới danh nghĩa Ngân Hàng Nhà Nước thông qua một số ngân hàng thương mại. Song song đó, một sàn giao dịch vàng quốc gia được thành lập để người dân có thể trao đổi, mua bán hoặc cầm cố các chứng chỉ này.”

Hồi Tháng Chín, báo VietNamNet tường thuật: “Tổng lượng vàng từng gửi tại các ngân hàng vào năm 2012 lên tới khoảng 160 tấn nhưng đến nay đã ‘bốc hơi’ khỏi hệ thống ngân hàng, chỉ còn lại 2.86 tấn gửi dưới dạng giữ hộ.”

Báo này dẫn lời ông Nguyễn Ngọc Cảnh, vụ trưởng Vụ Quản Lý Ngoại Hối, nói nguyên do chính là người dân đã rút vàng ra giao dịch, chuyển hóa thành tiền để đưa vào đầu tư, sản xuất kinh doanh, tiêu dùng… Vị này cũng nói đây là “kết quả của hướng đi hợp lý của chính phủ trong huy động nguồn lực vàng.” (T.K.)

Anh & Tôi – Thơ Bùi Giáng – Nhạc Phạm Trung

httpv://www.youtube.com/watch?v=gFrHxsrYOzM&feature=youtu.be

Anh & Tôi – Thơ Bùi Giáng – Nhạc Phạm Trung

Tháng 11 nhớ đến các linh hồn.

Xin chia sẻ bài hát phổ từ thơ của thi sỹ Bùi Giáng.

Ta là cát ta sẽ về với bụi

Trả trần gian những cay đắng muộn phiền

Hồn ta đi về nơi cao xanh ấy

Không còn buồn lo lắng chốn trần ai

Kính mến,

P.Trung

BÀN VỀ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN Ở VN

From facebook: Christina Le

BÀN VỀ CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN Ở VN
(Nguyễn Hưng Quốc)

Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay như một đám lục bình chỉ nổi bập bềnh trên mặt nước. Sự tồn tại của nó chỉ dựa vào sự trung thành của công an. Do đó, một mặt, đảng cộng sản đưa ra sự khuyến dụ đối với công an: “Còn đảng, còn mình”; mặt khác, họ ngoảnh mặt làm ngơ trước hai tệ nạn do công an gây ra: tham nhũng và trấn áp dân chúng một cách dã man.

Trước đây, trên thế giới, có 15 quốc gia chính thức theo chủ nghĩa cộng sản và 11 quốc gia tự nhận là cộng sản hoặc theo khuynh hướng cộng sản. Mười lăm quốc gia ở trên là: Albania, Bulgaria, Czechoslovakia, Đông Đức, Hungary, Mông Cổ, Ba Lan, Romania, Liên Xô, Yugoslavia, Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam. Mười một quốc gia ở dưới là: Angola, Benin, Congo, Ethiopia, Mozambique, Zimbabwe, Grenada, Nicaragua, Campuchia, Afghanistan và Nam Yemen. Tổng cộng, từ hai bảng danh sách ấy, có cả thảy 26 nước cộng sản hoặc có khuynh hướng theo cộng sản. Từ đầu thập niên 1990, tất cả các chế độ cộng sản ấy đều lần lượt sụp đổ. Hiện nay, trên cả thế giới, chỉ còn năm nước mang nhãn hiệu cộng sản: Trung Quốc, Cuba, Bắc Triều Tiên, Lào và Việt Nam.

Chưa có dấu hiệu nào cho thấy chủ nghĩa cộng sản ở năm quốc gia này sẽ sụp đổ sớm. Trong năm nước, có ba nước có quan hệ chặt chẽ với nhau: Trung Quốc, Việt Nam và Lào. Có lẽ Lào chỉ thay đổi được thể chế chính trị nếu, trước đó, Việt Nam cũng thay đổi; và Việt Nam có lẽ chỉ thay đổi nếu trước đó Trung Quốc cũng thay đổi. Như vậy, quốc gia có khả năng châm ngòi cho bất cứ sự thay đổi lớn lao nào là Trung Quốc.

Tuy nhiên, ngay cả khi Trung Quốc và Việt Nam chưa thay đổi và chưa từ bỏ chủ nghĩa cộng sản, giới nghiên cứu cũng phát hiện những dấu hiệu suy tàn âm thầm của chủ nghĩa cộng sản bên trong hai quốc gia này.

Ở đây, tôi chỉ tập trung vào Việt Nam.

Nhìn bề ngoài, chế độ cộng sản tại Việt Nam vẫn mạnh. Hai lực lượng nòng cốt nhất vẫn bảo vệ nó: công an và quân đội. Dân chúng khắp nơi bất mãn nhưng bất mãn nhất là nông dân, những người bị cướp đất hoặc quá nghèo khổ. Có điều nông dân chưa bao giờ đóng được vai trò gì trong các cuộc cách mạng dân chủ cả. Họ có thể thành công trong một số cuộc nổi dậy nhưng chỉ với một điều kiện: được lãnh đạo. Trong tình hình Việt Nam hiện nay, chưa có một tổ chức đối kháng nào ra đời, hy vọng nông dân làm được gì to lớn chỉ là một con số không. Ở thành thị, một số thanh niên và trí thức bắt đầu lên tiếng phê phán chính phủ nhưng, một, số này chưa đông; và hai, còn rất phân tán. Nói chung, trước mắt, đảng Cộng sản vẫn chưa gặp một sự nguy hiểm nào thật lớn.

Thế nhưng, nhìn sâu vào bên trong, chúng ta sẽ thấy quá trình mục rữa của chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu và càng ngày càng lớn. Như một căn bệnh ung thư bên trong một dáng người ngỡ chừng còn khỏe mạnh.

Sự mục rữa quan trọng nhất là về ý thức hệ.

Khác với tất cả các hình thức độc tài khác, chủ nghĩa cộng sản là một thứ độc tài có… lý thuyết, gắn liền với một ý thức hệ được xây dựng một cách có hệ thống và đầy vẻ khoa học. Thật ra, chủ nghĩa phát xít cũng có lý thuyết, chủ yếu dựa trên sức mạnh và tinh thần quốc gia, nhưng không phát triển thành một hệ thống chặt chẽ và có ảnh hưởng sâu rộng như chủ nghĩa cộng sản. Còn các chế độ độc tài ở Trung Đông chủ yếu gắn liền với tôn giáo cộng với truyền thống quân chủ kéo dài (thường được gọi là độc tài quốc vương, sultanistic authoritarianism) hơn là lý thuyết. Nhiều nhà nghiên cứu nhấn mạnh: các chế độ cộng sản không thể tồn tại nếu không có nền tảng ý thức hệ đằng sau.

Ý thức hệ cộng sản một thời được xem là rất quyến rũ vì nó bao gồm cả hai kích thước: quốc gia và quốc tế. Ở bình diện quốc gia, nó hứa hẹn giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân; ở bình diện quốc tế, nó hứa hẹn giải phóng giai cấp vô sản và tạo nên sự bình đẳng và thịnh vượng chung cho toàn nhân loại. Ở bình diện thứ hai, chủ nghĩa cộng sản, gắn liền với một ước mơ không tưởng, rất gần với tôn giáo; ở bình diện thứ nhất, đối lập với chủ nghĩa thực dân, nó rất gần với chủ nghĩa quốc gia. Trên thực tế, hầu hết các nước cộng sản trước đây đều cổ vũ và khai thác tối đa tinh thần quốc gia trong cả quá trình giành chính quyền lẫn quá trình duy trí chế độ. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa quốc gia dễ thấy nhất là ở các nước thuộc địa và cựu thuộc địa như Việt Nam.

Sau năm 1991, tức sau khi chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, ý thức hệ cộng sản cũng bị phá sản theo. Thực trạng nghèo đói, bất công và áp bức dưới các chế độ cộng sản ấy đều bị vạch trần và phơi bày trước công luận. Sự hứa hẹn về một thiên đường trong tương lai không còn được ai tin nữa. Tính hệ thống trong chủ nghĩa Marx-Lenin cũng bị đổ vỡ. Nền tảng ý thức hệ của các chế độ cộng sản bị tan rã tạo thành một khoảng trống dưới chân chế độ.

Để khỏa lấp cái khoảng trống ấy, Trung Quốc sử dụng hai sự thay thế: chủ nghĩa Mao và Nho giáo (trong chủ trương tạo nên một xã hội hài hòa, dựa trên lòng trung thành). Việt Nam, vốn luôn luôn bắt chước Trung Quốc, không thể đi theo con đường ấy. Lý do đơn giản: Đề cao chủ nghĩa Mao là một điều nguy hiểm cả về phương diện đối nội lẫn đối ngoại; còn với Nho giáo, một là Việt Nam không am hiểu sâu; hai là, nó đầy vẻ… Tàu, rất dễ gây phản cảm trong quần chúng. Bế tắc, Việt Nam bèn tạo nên cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng ông Hồ Chí Minh lại không phải là một nhà lý thuyết. Ông chỉ là một người hành động. Ông viết nhiều, nhưng tất cả đều rất thô phác và đơn giản. Hơn nữa, ở Việt Nam hiện nay, cũng không có một người nào giỏi lý thuyết để từ những phát biểu sơ sài của Hồ Chí Minh xây dựng thành một hệ thống sâu sắc đủ để thuyết phục mọi người. Thành ra, cái gọi là tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn không trám được khoảng trống do sự sụp đổ của ý thức hệ Marx-Lenin gây ra. So với Trung Quốc, khoảng trống này ở Việt Nam lớn hơn gấp bội.

Mất ý thức hệ cộng sản, chính quyền Việt Nam chỉ còn đứng trên một chân: chủ nghĩa quốc gia.

Nhưng cái chân này cũng rất èo uột nếu không muốn nói là đã lung lay, thậm chí, gãy đổ.

Trên nguyên tắc, Việt Nam vốn có truyền thống yêu nước rất cao. Bao nhiêu chế độ ra đời từ giữa thế kỷ 20 đến nay đều muốn khai thác và tận dụng lòng yêu nước ấy. Tuy nhiên, với chế độ cộng sản hiện nay, việc khai thác vốn tài sản này gặp rất nhiều khó khăn. Lý do là lòng yêu nước bao giờ cũng gắn liền với sự căm thù. Không ai có thể thấy rõ được lòng yêu nước trừ phi đối diện với một kẻ thù nào đó của đất nước. Hai kẻ thù chính của Việt Nam, trong lịch sử mấy ngàn năm, là Trung Quốc; và gần đây nhất, là Mỹ. Nhưng Việt Nam lại không dám nói quá nhiều về hai kẻ thù này. Với Mỹ, họ cần cả về phương diện kinh tế lẫn phương diện chiến lược. Đề cao truyền thống chống Mỹ, do đó, là điều rất nguy hiểm. Đề cao truyền thống chống Trung Quốc lại càng nguy hiểm hơn: Trung Quốc có thể đánh hoặc ít nhất đe dọa VIệt Nam bất cứ lúc nào.

Bởi vậy, Việt Nam, một mặt, phải hạ giọng khi nói về truyền thống chống Mỹ và phải né tránh việc nhắc nhở đến truyền thống chống Trung Quốc. Hai hành động này có lợi về phương diện đối ngoại nhưng lại có tác hại nghiêm trọng về phương diện đối nội: chính quyền hiện ra, dưới mắt dân chúng, như những kẻ hèn, hèn nhát và hèn hạ. Từ một chế độ được xây dựng trên thành tích chống ngoại xâm, chế độ cộng sản tại Việt Nam lại bị xem như những kẻ bán nước, hoặc bán nước dần dần bằng cách hết nhượng bộ điều này sang nhượng bộ điều khác trước sự uy hiếp của Trung Quốc.

Trước sự sụp đổ của cả hai nền móng, ý thức hệ cộng sản và chủ nghĩa quốc gia, đảng Cộng sản Việt Nam bèn chuyển sang một nền tảng khác: kinh tế với phương châm ổn định và phát triển. Nội dung chính của phương châm này là: Điều cần nhất đối với Việt Nam hiện nay là phát triển để theo kịp các quốc gia khác trong khu vực cũng như, một cách gián tiếp (không được nói công khai), đủ sức để đương đầu với Trung Quốc. Nhưng để phát triển, cần nhất là phải ổn định về chính trị, nghĩa là sẽ không có thay đổi về thể chế và cũng không chấp nhận đa đảng.

Phương châm ấy, thật ra, là một sự bịp bợm: Nó chuyển vấn đề từ chính trị sang kinh tế với lý luận: nếu vấn đề quan trọng nhất của Việt Nam hiện nay là vấn đề kinh tế thì mọi biện pháp sửa đổi sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi kinh tế. Với lập luận này, chính quyền có thể trì hoãn mọi yêu cầu cải cách chính trị.

Tuy nhiên, nó hoàn toàn không thuyết phục, bởi, ai cũng thấy, lãnh vực kinh tế là mặt mạnh nhất của chủ nghĩa tư bản và cũng là mặt yếu nhất của chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa cộng sản. Tất cả các quốc gia dân chủ ở Tây phương đều có hai đặc điểm nổi bật: về chính trị, rất ổn định và hai, về kinh tế, rất phát triển. Ở Việt Nam, người ta cố thu hẹp phạm vi so sánh: các cơ quan truyền thông chính thống chủ yếu tập trung vào các nước Đông Nam Á, đặc biệt Thái Lan với một thông điệp chính: đa đảng như Thái Lan thì lúc nào cũng bị khủng hoảng. Nhưng ở đây lại có hai vấn đề: Một, dù liên tục khủng hoảng về chính trị, nền kinh tế của Thái Lan vẫn tiếp tục phát triển, hơn hẳn Việt Nam; hai, ngày nay, do xu hướng toàn cầu hóa, tầm nhìn của dân chúng rộng rãi hơn nhiều; chính quyền không thể thu hẹp mãi tầm nhìn của họ vào tấm gương của Thái Lan được.

Về phương diện lý luận, chiêu bài ổn định và phát triển, do đó, không đứng vững. Về phương diện thực tế, những sự phá sản của các đại công ty quốc doanh và đặc biệt, khối nợ nần chồng chất của Việt Nam khiến dân chúng càng ngày càng thấy rõ vấn đề: các chính sách kinh tế của Việt Nam không hứa hẹn một sự phát triển nào cả, nếu không muốn nói, ngược lại, chỉ lún sâu vào chỗ bế tắc.

Thành ra, có thể nói, tất cả các nền tảng chế độ cộng sản Việt Nam muốn nương tựa, từ chủ nghĩa Marx-Lenin đến chủ nghĩa quốc gia và lập luận ổn định để phát triển, đều lần lượt sụp đổ. Chế độ cộng sản Việt Nam hiện nay như một đám lục bình chỉ nổi bập bềnh trên mặt nước. Sự tồn tại của nó chỉ dựa vào sự trung thành của công an. Do đó, một mặt, đảng cộng sản đưa ra sự khuyến dụ đối với công an: “Còn đảng, còn mình”; mặt khác, họ ngoảnh mặt làm ngơ trước hai tệ nạn do công an gây ra: tham nhũng và trấn áp dân chúng một cách dã man. Nhưng chính sách này chỉ càng ngày càng biến công an thành một đám kiêu binh và càng ngày càng đẩy công an cũng như chính quyền trở thành xa lạ với dân chúng. Sự xa lạ này càng kéo dài và càng trầm trọng, đến một lúc nào đó, trở thành đối nghịch với quần chúng.

Một nhà nước được xây dựng trên một đám kiêu binh, trong thời đại ngày nay, không hứa hẹn bất cứ một tương lai nào cả.

(Nguyễn Hưng Quốc)