Khoảng Cách

Khoảng Cách

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

 

 

tuongnangtien

RFA

Tôi không tán thành chủ trương quay lại Đảng Lao động và tư tưởng HCM của GS Tương Lai, nhưng tôi tôn trọng và hoan nghênh quyết định của ông (nhất là quyết định cắt đứt quan hệ với ĐCSVN).

Tiến Sĩ Nguyễn Quang A

Tôi than thở với hai ông anh (Bùi Xuân Bách & Phạm Nguyên Trường) là sao mình sống ở Hoa Kỳ rất lâu mà vốn liếng Anh Ngữ vẫn vô cùng nghèo nàn và hạn hẹp, dùng để đi chợ thì dư nhưng đi dậy thì e thiếu. Cả hai vị này đều là những dịch giả thế giá, và đều trả lời y hệt: “Chú lười bỏ mẹ, không chịu mở tự điển tra cứu thường xuyên thì làm sao mà khá được.”

Thì ra thế!

Thế là tôi lật đật mở đại một trang của cuốn Cambridge, đang nằm chình ình rước mặt, và thấy hạn từ generation gap  được ghi nhận như sau: “Lack of understanding between older and younger people that results from different experiencesof life. (Thế hệ già và thế hệ trẻ khó hiểu nhau do kinh nghiệm sống khác nhau).

Khó hiểu nhau về chuyện gì?

Merriam – Webster, xem ra, có vẻ ngắn gọn nhưng trọn

nghĩa hơn: “Sự khác nhau về quan điểm, giá trị ..v..v giữa thế hệ già và thế hệ trẻ. (The differences in opinions, values, etc., between younger people and older people).

Thì cũng ngó qua cho biết, ra vẻ là mình cũng có tra cứu (vậy thôi) chứ tôi vẫn nghĩ rằng giữa ông tằng, ông tổ, ông cố, ông nội, và ông bố tôi – có lẽ – chả có một khoảng cách nào đáng kể. Quan niệm sống của tất cả các ông (cũng như các bà) chắc đều rất giản dị, và giống y như nhau thôi: Trai thời trung hiếu làm đầu. Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình. Đại khái là như thế!

Tôi còn tin rằng, từ Âu sang Á, nơi nào cũng như rứa cả. Sử sách, suốt Thời Trung Cổ, có thấy trang nào đề cập đến sự dị biệt (hay xung đột) ý tưởng giữa thế hệ này với thế hệ khác đâu. Nói chi đến những giai đoạn xa lắc (xa lơ) trước nữa – vào Thời Đồ Đồng, Đồ Đá, Đồ Sắt, Đồ Nhôm … gì đó.

Tôi ra đời sau thế chiến thứ II. Có lẽ bắt đầu từ thế hệ của tôi mới phát sinh ra lắm chuyện rất lôi thôi, và vô cùng phiền hà, về …  khoảng cách. Sau những năm tháng ấu thơ rất an bình dưới Chế Độ Đệ I Cộng Hoà, tuổi thanh xuân của tôi cũng được bảo bọc rất kỹ trong những phố thị (“phồn vinh giả tạo”) của nền Đệ II Cộng Hòa – ở miền Nam.

Tuy thế, đúng ngày sinh nhật thứ hai mươi (khi đang theo học ban Triết của trường Đại Học Văn Khoa Đà Lạt) tôi quyết định uống thuốc ngủ quyên sinh – sau khi kẻ lên tường một dòng chữ ngắn ngủi (“Je vais sur un chemin qui ne mène null part.”) thay cho lời trăn trối! Bố tôi ngồi cả buổi nhìn chằm chằm vào bức tường này nhưng vẫn không tìm ra được “thông điệp” nào từ “qúi tử,” dù ông cũng đọc được tiếng Tây.

Cả bố lẫn mẹ tôi đều là những thường dân chất phác. Cả đời họ chỉ biết cặm cụi với công việc để tôi có cơm ăn, áo mặc và có cơ hội đến trường nên làm sao hiểu được những “vấn nạn siêu hình” đã dằn vặt thằng con: Loài người từ đâu đến, và sẽ đi về đâu, chúng ta hiện hữu để làm gì ?

Tôi không tìm ra được ý nghĩa nào ráo trọi trong cuộc sống. Tôi đi trên đi trên trên một con đường chả dẫn đến đâu cả (“Je vais un chemin qui ne mène null part,” theo như cách nói của ông triết gia nào đó) nên muốn chấm dứt cuộc tồn sinh thừa thãi của mình, vậy thôi.

Vâng, chỉ có “vậy thôi” nhưng tôi biết giải thích sao với hai đấng sinh thành về ý muốn tự hủy vào lúc tuổi đôi mươi. Giữa chúng tôi – rõ ràng – có một khoảng cách đáng kể, và cũng đáng buồn. May mà cái thứ “công tử” miền Nam như tôi cũng ít thôi. Chứ không thì vùng đất này chả phải đợi đến tháng 4 năm 1975 mới hoàn toàn thất thủ!

Ở bình diện quốc gia cũng thế. Đôi khi, cũng có những khoảng cách khá xa tạo ra sự dị biệt – và xung đột – đáng tiếc trong nhận thức giữa thế hệ người già và người trẻ. Xin đan cử một thí dụ:

Vào ngày 2 tháng 9 năm 2017 vừa qua, Giáo sư Tương Lai “tuyên bố dứt bỏ mọi liên hệ với đảng Nguyễn Phú Trọng thao túng, để tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam, đảng của Hồ Chí Minh.”

Lời tuyên bố thượng dẫn được không ít người, cùng thế hệ với ông, tán thưởng. Tác giả Nguyễn Đăng Quang cho biết:

“Lão tướng Nguyễn Trọng Vĩnh đánh giá quyết định của Gs Tương Lai là đúng đắn và đúng thời điểm. Cụ nói: ‘Quyết định chính trị là tùy theo quan điểm, nhận thức và hoàn cảnh của mỗi người. Tôi tôn trọng và tán thành quyết định của anh Tương Lai khi tuyên bố từ bỏ và đoạn tuyệt với ĐCSVN của Nguyễn Phú Trọng. Song tôi đặc biệt đánh giá cao việc anh ấy vẫn nguyện tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao động Việt Nam…’

Một vị cựu Đại sứ khác, nguyên Ủy viên Trung ương ĐCSVN viết trong email gửi Gs Tương Lai, xin trích: ‘Tôi xúc động không thể không viết ngay mấy dòng vắn tắt gửi GS để bày tỏ sự đồng tình hoàn toàn của tôi đối với những điều GS trình bày trong 2 văn bản này (tức Tuyên bố ra Đảng và Bản tường trình của Gs Tương Lai viết gửi Đảng ủy Phường Tân Phong, Quận 7, Tp HCM) và sự ngưỡng mộ của tôi đối với GS, người chiến sỹ cộng sản, người trí thức, người công dân chân chính và tài năng!”

Tương tự, nhà báo Lê Phú Khải cũng bầy tỏ sự đồng tình:

“… những người thiết tha bảo vệ đất nước , thiết tha muốn dân chủ hoá đất nước, trong đó có tôi, đã vui mừng đón nhận giáo sư Tương Lai. Xã hội bao giờ cũng phát triển theo quy luật tiệm tiến, đột phá chỉ là bất ngờ…”

Quan niệm “tuần tự nhi tiến” của nhà báo Lê Phú Khải, cũng như quyết định “tiếp tục chiến đấu với tư cách đảng viên Đảng Lao Động Việt Nam, đảng của Hồ Chí Minh” của GS Tương Lai – buồn thay – không được những người thuộc thế hệ kế tiếp nhiệt tình chia sẻ. Xin ghi lại ý kiến tiêu biểu của vài vị, theo thứ tự (abc) alphabetique:

–  Phạm Chí Dũng: “Tôi tôn trọng quan điểm của giáo sư Tương Lai, nhưng tôi thấy khó chia sẻ suy nghĩ trở về đảng Hồ Chí Minh của ông.” Top of Form

– Phạm Thanh Nghiên: “Chẳng có đảng nào là đảng ‘của ông Hồ’ hay ‘của ông Trọng’ đâu ông Tương Lai ạ. Nó đích thị chỉ là một, tên gọi của nó là đảng cộng sản Việt Nam, thủ phạm gây ra mọi tội ác với nhân dân Việt Nam trong suốt mấy chục năm kể từ ngày ra đời 3-2-1930 đến nay. Hồ, Duẩn, Linh, Mười, Mạnh, Trọng… chỉ là những kẻ luân phiên nhau cầm đầu cái đảng ấy để làm khổ người dân VN thôi ông ạ.”

– Phạm Hồng Sơn: “Ai là người có thẩm quyền chính trị cao nhất đã để cho đất tư từ hàng ngàn năm biến hết thành đất ‘sở hữu toàn dân’, đã tiến hành cuộc ‘cách mạng long trời lở đất’ ở nông thôn cách đây hơn nửa thế kỷ mà vẫn khiến lòng người hôm nay bấn loạn, hãi hùng, rồi cũng chính người ấy lại đưa tay chấm nước mắt tiếc thương nhưng vẫn giữ trọn ngai vàng cho tới lúc chết?

Ai là người vừa là Chủ tịch nước kiêm Chủ tịch đảng cầm quyền trong lúc ông Thủ tướng Phạm Văn Đồng hạ bút ký một công hàm công nhận lãnh hải Trung Quốc bao phủ cả hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa? Chắc chắn 54 năm chưa phải là thời gian quá lâu để mọi người quên mất người đó là Hồ Chí Minh …

Cái đau xót và đau buồn chính là việc những người bị trị, những người đang mất tự do, bị áp bức, những người không muốn đi theo cái ác lại vẫn quì lạy, sùng kính một con người đã đưa họ từ những xiềng xích thô kệch, rỉ sét sang những gông xiềng êm ả, tinh vi, bền chắc hơn, đã khai sinh ra một chế độ suy đồi mà họ đang ta thán, đã là một ông trùm của các thủ đoạn dân chủ giả hiệu vẫn được duy trì cho tới hôm nay, đã là một chuyên gia về các kỹ thuật mị dân lão luyện tới mức khiến cho cả một dân tộc đa phần vẫn cứ an tâm, ngáo ngác, trông đợi tự do trong gông cùm và thờ kính chính kẻ đã quàng vào họ bộ gông cùm mới.

– Vũ Quang Thuận: “Thằng đó nó khốn nạn lắm. Nó lừa dân mình. Dân mình ngu si không biết lại còn tung hô, dựng nó lên thành thánh.”

Ông bà chúng ta thường nói: “Khôn đâu đến trẻ khoẻ đâu đến già.” Câu nói này, nghe lại vào ngày hôm nay, e chỉ còn đúng được (cỡ) chừng phân nửa. Bởi thế, và nghĩ cho cùng, khoảng cách trong lòng người Việt hôm nay – không chừng – lại là một điều may. May là lớp sóng sau đã đè lớp sóng trước.

“Nhưng nói gì thì nói tôi vẫn cảm phục lòng nhiệt huyết, thái độ thẳng thắn, tinh thần trách nhiệm với non sông đất nước của Giáo sư Tương Lai.” Tôi lại vừa nghe nhà thơ Nguyễn Tường Thụy nói thế, và cũng đồng ý như vậy.

Tôi sinh cùng năm với ông Thụy. Nói một cách hơi kiểu cọ thì chúng tôi là những kẻ thuộc thế hệ bắc cầu, với hy vọng (mỏng manh) làm được cầu nối để cho hai lớp người – trước/sau – dễ gần gụi và thông cảm với nhau hơn. Đất nước đang đối diện với cả nạn ngoại xâm lẫn nội xâm. Đoàn kết là điều tối cần thiết.

TT Trump: Dự thảo luật di trú không cho phép ‘di dân dây chuyền’

TT Trump: Dự thảo luật di trú không cho phép ‘di dân dây chuyền’

Hình minh họa. (AP)

WASHINGTON, DC (NV) – Tổng Thống Donald Trump hôm Thứ Sáu cảnh cáo rằng “di dân dây chuyền-chain immigration”, một từ ngữ thường được dùng để nói về việc các công dân hay thường trú nhân bảo trợ người thân, hay một số thành phần di dân cùng tụ tập vào một nơi cư trú, sẽ không được đưa vào bất cứ dự luật di trú nào.

Bản tin hãng thông tấn Reuters cho biết vào sáng sớm Thứ Sáu, Tổng Thống Trump gửi tweet ra nói rằng  “di dân dây chuyền sẽ không được cho phép là một phần của bất cứ luật di trú nào!”.

Lời cảnh cáo được đưa ra sau khi Tổng Thống Trump làm nhiều người phía Cộng Hòa tuần này rất ngạc nhiên khi ông thương thảo với giới lãnh đạo đảng Dân Chủ tại Quốc Hội về tương lai chương trình DACA, nhằm bảo vệ thành phần di dân bất hợp pháp trẻ tuổi, vào Mỹ khi còn nhỏ.

Các tổ chức đòi kiểm soát vấn đề di dân ở Mỹ như  “Federation for American Immigration Reform” và “NumberUSA” thường xuyên lên án “chain migration”, gọi đây là tiến trình nhận vào “vô hạn định” những người không có nghề nghiệp chuyên môn chỉ vì có liên hệ gia đình và khiến người ngoại quốc coi việc sang Mỹ là “quyền” của họ.

Các nhóm ủng hộ di dân lại cho rằng việc di dân theo gia đình giúp hội nhập dễ dàng hơn vào xã hội Mỹ. (V.Giang)

Nhân quyền là trọng tâm trong đàm phán thương mại VN-EU

Nhân quyền là trọng tâm trong đàm phán thương mại VN-EU

RFA

 
Thủ tướng Nguyễn Tân Dũng (bên trái), Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Jean-Claude Juncker (bên phải), Cao ủy Thương mại EU Cecilia (phải) và Bộ trưởng Thương Mại Vũ Huy Hoàng dự lễ ký kết thúc đàm phán hiệp định tự do thương mại EU - Việt Nam tại Brussels hôm 2/12/2015

Thủ tướng Nguyễn Tân Dũng (bên trái), Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Jean-Claude Juncker (bên phải), Cao ủy Thương mại EU Cecilia (phải) và Bộ trưởng Thương Mại Vũ Huy Hoàng dự lễ ký kết thúc đàm phán hiệp định tự do thương mại EU – Việt Nam tại Brussels hôm 2/12/2015

 AFP
 

Nhân quyền là vấn đề trọng tâm trong đàm phán thương mại giữa Việt Nam và Liên Minh Châu Âu- EU. Ông Bernd Lange, Chủ tịch Ủy ban Thương mại quốc tế của Nghị viện châu Âu nói với các nhà báo vào ngày15  tháng Chín, tại Hà Nội.

Thỏa thuận mậu dịch tự do Việt Nam và EU được ký vào năm 2015, và có thể được phê chuẩn vào năm tới.

Tuy nhiên trong thời gian gần đây Việt Nam gây nên nhiều quan ngại cho các tổ chức nhân quyền, về thành tích nhân quyền của mình trong việc bắt bớ những blogger và nhà báo tự do.

Ông Bernd Lang nói tiếp rằng nếu Việt Nam không giải quyết đầy đủ các quan ngại về nhân quyền thì e rằng chuyện thương thảo giữa đôi bên sẽ gặp rắc rối.

Ngoài ra còn một vấn đề nữa đã gây ra rạn nứt trong quan hệ Việt Nam và EU là việc Hà Nội đã bị nước Đức cáo buộc bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh, một cựu quan chức ngành dầu khí đang xin qui chế tị nạn tại Đức. Ông Thanh bị cáo buộc dinh líu tới những vụ bê bối tham nhũng tại Tập Đoàn Dầu Khí Quốc Gia.

Ông Bernd Lang còn cho biết trong chuyến đi Việt Nam ông đã gặp Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, các viên chức thương mại Việt Nam , và cả những nhóm xã hội dân sự.

Báo chí Việt Nam không đề cập gì đến quan ngại về nhân quyền mà người đại diện của EU nêu ra tại Hà Nội, nhưng lại đưa tin về chuyến thăm Thụy sĩ của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ.

Theo thông tin từ trang web của chính phủ Việt Nam, các quan chức Việt Nam và Thụy sĩ đồng ý với nhau rằng sẽ phải nổ lực nhiều hơn để hoàn tất việc ký kết thỏa thuận thương mại tự do giữa Việt Nam và khối bốn quốc gia châu Âu bao gồm Thụy sĩ, Na Uy, Băng Đảo, và Lichteinsten.

Hiện nay EU là một đối tác thương mại rất quan trọng của Việt Nam, việc đạt được thỏa thuận thương mại tự do rất cần thiết cho hàng hóa Việt Nam vào được thị trường EU, nhất là trong hoàn cảnh Thỏa thuận thương mại đối tác xuyên Thái Bình Dương đã bị Mỹ rút ra, không thực hiện được.

Câu chuyện về MỘT SONG NGUYỀN VỪA NẰM XUỐNG

Chúng con trân trọng kính chuyển đến

Quý Cha, quý Tu sĩ và quý Song nguyền khắp nơi

Câu chuyện về 

MỘT SONG NGUYỀN VỪA NẰM XUỐNG 

Thương nhớ, 

nhưng tràn ngập NIỀM VUI TRONG CHÚA. 

Do AC Vũ Tiến Xuân & Yến, 

Chủ nguyền CT/TTHNGĐ Sydney- Úc châu, vừa chia sẻ. 

Xin cùng hiệp dâng lời TẠ ƠN THIÊN CHÚA 

Và Cầu nguyện cho Linh hồn MARY MACKILLOP TRẦN THUÝ HẰNG 

mau về hưởng HẠNH PHÚC MUÔN ĐỜI BÊN CHÚA. 

Văn phòng Điều hành 

CT/TTHNGĐ Hải ngoại. 

———————————

Bắt đầu thư được chuyển tiếp:

Vào Thứ Năm, tháng 9 14, 2017,  Vu Xuan  đã viết:

Trọng kính cha sáng lập, Quý Cha.

Anh chị Quyết Điệp cùng quý anh chị.

Thay mặt cho tang quyến và Chương Trình tại Sydney, chúng con chân thành cám ơn Cha Sáng lập, Quý cha và Quý anh chị khắp nơi đã gửi lời phân ưu đến tang quyến cũng như CT tại Sydney của chúng con.

Qua cái chết của Chị Thuý Hằng, con muốn chia sẻ vài Cảm Nghiệm Ân Sủng mà Thiên Chúa đã ban qua Chương Trình của chúng ta.

Qua các khóa Căn Bản tại Sydney trong nhiều năm qua, nhiều cặp vợ chồng không cùng một tôn giáo khá nhiều. Tạ ơn Chúa, giờ đây tất cả các cặp trong tình trạng ấy vợ chồng và con cái đã học đạo và được rửa tội, cùng chia sẻ một niềm tin Công Giáo.

Anh chị Sang-Hằng, hai vợ chồng cùng là Phật Giáo là cặp đầu tiên chúng con nhận cho tham dự khóa #631 tháng 4/2015.

Sau một thời gian tham gia sinh hoạt Ct sau khóa, anh chị càng cảm nghiệm được Tình Chúa, Tình Người nên hơn một năm qua đã có ý định xin học giáo lý để trở lại đạo Công Giáo. 

Đặc biệt chị Thuý Hằng rất ước ao được rửa tội sớm, khi biết mình bị chứng bệnh nan y thì lòng ước ao của chị càng nồng cháy hơn nữa. Nhưng về phần gia đình thì không được vui… vì tất cả là Phật Giáo thuần thành!!!

Chúng con an ủi chị, không lo vì Chúa biết lòng mến của chị, chị đã được rửa tội bằng lửa mến, nên chắc chắn Chúa sẽ đưa chị về hưởng phúc Thiên Đàng.

Ý Chúa nhiệm mầu mà cũng có thể nói đây là một ơn riêng Chúa ban cho chị, tất cả anh chị em chúng con và gia đình đều cảm nghiệm điều đó. 

Ngày 18.07.2017 chị phải vào bệnh viện cấp cứu vì chứng ung thư đã đến thời kỳ cuối! Sau khi khám nghiệm bác sĩ chuẩn đoán chị chỉ còn tỉnh táo trong vòng tối đa 2 ngày, sau đó sẽ đi vào hôn mê cho đến khi chết khoảng 2 tuần sau, tức khoảng cuối tháng 7. Vì 5 cục bướu trong đầu chị đã qúa lớn…

Anh chị em trong CT luôn đến bên chị và tha thiết cầu nguyện, chị cũng xin Chúa cho sống thêm thời gian nữa để sắp xếp mọi chuyện trong gia đình cho được ổn thỏa, chứ không xin Chúa chữa lành bệnh. Chị cũng chia sẻ cảm nghiệm, chị thấy cái đau của chị như vậy còn không chịu nỗi, làm sao Chúa có thể ghánh hết những đau khổ của loài người! Chị xin cho chị lãnh phần đau khổ của thân xác mình chứ không muốn Chúa phải chịu thêm sự đau đớn của chị nữa. Thật tuyệt vời!

Dự đoán của bác sĩ như vậy là đến ngày thứ năm 20/7 chị sẽ đi vào hôn mê, lúc này ước muốn được rửa tội càng thêm mãnh liệt, nhưng gia đình thì chần chừ không muốn Thuý Hằng trở lại đạo Công Giáo (chính họ thừa nhận như vậy). 

Con người thì đoán thế nhưng Thiên Chúa có chương trình riêng của Ngài, chị không đi vào hôn mê như dự đoán của bác sĩ, chị vẫn tỉnh táo và vui đùa với anh chị em khi đến thăm, vững tin và phó thác, không tỏ chút sợ sệt cái chết.

Sáng ngày 22.07 các chị của Thuý Hằng vào chùa, tìm danh sách của gia đình và Pháp Danh, điều ngạc nhiên là trước đây chính Thuý Hằng đưa gia đình vào chùa để ghi tên và xin Pháp Danh, nhưng trong danh sách tên ai cũng có nhưng lại không có tên của Thuý Hằng! Gia đình mới nói nó thuộc về con Chúa không thuộc về con Phật, vì họ tin nếu chết đi phải có một nơi chốn để đi về, nếu không sẽ trở thành cô hồn đi lang thang… Vậy là gia đình vui vẻ chấp nhận để Thuý Hằng được rửa tội làm con của Chúa, mà lại xin được rửa tội càng sớm càng tốt vì sợ Hằng chết mà chưa được rửa tội.

Lại thêm một ngạc nhiên khác, khi gia đình quyết định như thế và đang tính mời cha đến rửa tội cho Hằng thì Cha Tuyết (cựu Linh Nguyền của CT/ cha sáng lập và cha Luận biết ngài) nghe tin Hằng bị bệnh thì vào bệnh viện thăm, không có ý định vào rửa tội cho Hằng, cha đến sau lưng Hằng, khi quay lại Hằng thấy cha Tuyết, mừng quá, Hằng nói ngay cha rửa tội cho con… Cha Tuyết liền điện thoại báo cho chúng con biết sẽ rửa tội cho Hằng ngay, vào bệnh viện gấp vì Hằng nhờ chúng con làm cha mẹ đỡ đầu. Chúng con báo cho vài anh chị em, mọi người mau mắn vào bệnh viện và vì cha Tuyết không chuẩn bị trước, nên phải nhờ một vài anh chị trên đường vào bệnh viện tìm cho khăn, nến… để dùng vào nghi thức rửa tội. Đúng 1.30pm chiều 22/07/2017 nghi thức rửa tội cho Thuý Hằng được cử hành ngay trong bẹnh viện.

Những ngày sau đó Hằng cũng không đi vào hôn mê, nên ngày thứ ba 29/07 bác sĩ cho xuất viện về nhà…

Từ khi xuất viện về nhà, cả tháng trời liên tiếp tối nào anh chị em trong CT cũng chia nhau đến tư gia thăm hỏi và cầu nguyện với Hằng, có khi mời được cha thì có thánh lễ hoặc đưa Mình Thánh Chúa cho Hằng, anh chị em ý thức được đây là dịp truyền giáo rất tốt nên mọi người vui vẻ tham gia. Các chị trong gia đình đã nói “Hội Thánh này linh thiêng lắm” (họ gọi chúng con là hội thánh)…

Và Thuý Hằng có một ước nguyện là trước khi chết làm một việc gì đó để tạ ơn Thiên Chúa, và cũng là việc truyền gíao nữa, nên một số anh chị em đã tổ chức một buổi dạ tiệc với Chủ đề: “Tạ Ơn Người, Tạ Ơn Đời. Nếu Một Ngày Tôi Còn Sống” vào tối ngày 09.09.2017 với gần 800 người tham dự, trong đó có hơn 200 người không cùng tôn giáo… buổi tiệc gây quỹ được $60,000 (sáu chục ngàn) gửi về cho giáo hội quê nhà để hổ trợ cho việc xây dựng Trung Tâm Thánh Mẫu La Vang. Cũng cần nói thêm, trước đó Hằng thấy các cha truyền giáo bên Châu Phi dâng Thánh lễ dưới các gốc cây, Hằng cũng đã gửi một số tiền sang giúp xây dựng được một nhà nguyện, tuy nhỏ, đơn sơ nhưng tấm lòng thật lớn lao.

Nhưng rất tiếc trước buổi tiệc 2 ngày thì Thuý Hằng lại phải trở vào bệnh viện để cấp cứu nên không thể hiện diện tham dự được, gia đình cũng cầu xin cho Hằng nếu có chết thì sau buổi tiệc hãy chết, Chúa đã nhận lời. Đúng vào thới gian có buổi tiệc thì Hằng lên cơn đau và bắt đầu đi vào hôn mê… trong thời gian này gia đình của Thuý Hằng đã làm những việc chúng con thật cảm động và không ngờ, có khi chúng con vào thăm thì thấy các chị của Thuý Hằng dùng Lời Nguyện Tắt của CT mà cầu nguyện cho Hằng, mình cứ nghĩ khi không có mặt mình thì họ sẽ dùng kinh sách nhà Phật. Nhưng không, gia đình đọc hoàn toàn các Kinh mà chúng con đã in sẵn để trong chỗ Hằng… 

7.00pm tối ngày 11.09.2017, Thuý Hằng đã ra đi bình an trong vòng tay yêu thương của gia đình và các Song nguyền trong CT.

Tang lễ của Hằng hoàn toàn do anh chị em trong CT đảm trách. 

Xin cho chúng con làm vinh danh Chúa qua cái chết của Mary Mackillop Trần Thuý Hằng.

Xin Quý Cha và quý anh chị cũng cầu nguyện cho khóa #710 của chúng con vào tuần tới, hiện ghi danh là 29 cặp, trong khóa này cũng có nhiều gia đình vợ chồng không cùng tôn giáo, có cặp Phật Giáo, có cặp Tin Lành… Xin Chúa đổ tràn Ơn Thánh trên anh chị em tham dự khóa.

Amen.

Chúng con, 

Vũ Tiến Xuân & Yến.

Quyển Sách Cao Siêu Nhất

14 Tháng Chín

Quyển Sách Cao Siêu Nhất

Người ta thường mượn câu chuyện sau đây để nói đến tinh thần hy sinh, chấp nhận trong cuộc sống.

Có một người kia cứ phàn nàn trách Chúa vì đã gửi đến cho mình một thập giá quá nặng… Chúa bèn đưa người đó đến một cửa hàng có các thập giá đủ cỡ để người đó chọn lựa.

Người đó hăm hở bước vào cửa hàng và dựng cây thập giá của mình vào tường. Người đó tự nhủ trong lòng: “Ðây là chuyện cả đời người, ta phải hết sức cẩn thận”.

Thế là anh ta đi rảo khắp hết mọi lối đi của cửa hàng và thử hết cây thập giá này đến cây thập giá khác. Nhưng không có một cây nào làm anh vừa lòng. Cây thì quá dài, cây thì quá ngắn. Cây thì quá nhẹ, cây thì quá nặng… Anh lại tiếp tục tìm kiếm. Cuối cùng, anh đã tìm được cây thập giá mà anh cho là ưng ý nhất. Anh mang đến với Chúa và nở nụ cười mãn nguyện: “Lạy Chúa, đây chính là cây thập giá mà con hằng tìm kiếm. Con xin vác lấy”. Khi anh vừa hí hửng ra khỏi cửa hàng, thì Chúa mỉm cười nói với anh: “Ta rất vui mừng vì con đã chấp nhận cây thập giá. Ðây cũng chính là cây thập giá mà con đã vác vào và dựng ở tường của cửa hàng”.

Hôm nay Lễ Suy Tôn Thánh Giá, Giáo Hội mời gọi chúng ta đào sâu Mầu Nhiệm Thập Giá trong đời sống Ðức Tin của chúng ta. Thánh Gioan Maria Vianney, cha sở họ Ars bên Pháp, đã nói: “Thập giá là quyển sách cao siêu nhất… Chỉ có những ai yêu mến, nghiền ngẫm quyển sách này, những người đó mới thật sự là người thông thái”.

Thập giá Chúa Giêsu là quyển sách cao siêu nhất, bởi vì, đó là dấu chứng cao cả nhất của Tình Yêu. “Không có tình yêu nào cao quý hơn mối tình của người thí mạng vì người mình yêu”. Từ một khí cụ độc ác đê hèn nhất của con người đã có thể nghĩ ra để hành hạ người khác, Chúa Giêsu đã biến nó thành dấu chứng của Tình Yêu: Tình Yêu vâng phục đối với Chúa Cha và Tình Yêu dâng hiến cho nhân loại…

Suy tôn Thánh Giá Chúa, chúng ta hãy cảm tạ Chúa vì đã cho chúng ta được đi vào Mầu Nhiệm Tình Yêu của Chúa. Trong Mầu Nhiệm ấy, cuộc sống của chúng ta không còn bị đè bẹp dưới sức nặmg của những đau khổ nữa, nhưng luôn mang lấy một ý nghĩa: đó là ý nghĩa của Tình Yêu.

Trích sách Lẽ Sống

Thông điệp của Chiến dịch vận động nhân quyền UPR 2017

Thông điệp của Chiến dịch vận động nhân quyền UPR 2017

Cát Linh, RFA
2017-09-14
 
 
 

Nghị sĩ Đức, ông Martin Patzelt, cầm chiếc áo thun có in hình blogger, tù nhân lương tâm Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh tại Nhà thờ Thái Hà, Hà Nội ngày 22 tháng 3 năm 2016.

Nghị sĩ Đức, ông Martin Patzelt, cầm chiếc áo thun có in hình blogger, tù nhân lương tâm Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh tại Nhà thờ Thái Hà, Hà Nội ngày 22 tháng 3 năm 2016.

 AFP
 

Ngày sinh nhật của tù nhân lương tâm, blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh, thứ Sáu 15 tháng 9 cũng sẽ là ngày khởi động của Chiến dịch Vận động Nhân quyền UPR giữa kỳ, còn gọi là Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát năm 2017 và kéo dài đến ngày 10 tháng 10 năm 2017.

RFA có cuộc phỏng vấn với đại diện của Voice, cô Đinh Thảo, người có mặt trong phát đoàn vận động nhân quyền Việt Nam tham dự UPR và sẽ trình bày trước Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại Geneva, Thuỵ Sĩ ngày 19 tháng 9.

RFA: Chiến dịch vận độn nhân quyền UPR năm nay sẽ có gì đặc biệt so với lần tổ chức trước?

Đinh Thảo: Có thể thấy sự khác biệt lớn là năm 2014 thì phái đoàn đông hơn là cái thứ nhất. Cái thứ hai nữa đó là một cuộc vận động chính thức. Chính thức đây có nghĩa là Cơ chế Kiểm điểm định kỳ phổ quát nhân quyền của Liên Hiệp Quốc là cơ chế 4 năm rưỡi một lần. Lần năm 2014 là lần thứ hai của Việt Nam, là lần kiểm điểm chính thức.

Lần vận động lần nà là mid-term (giữa kỳ), nó không hẳn là chính thức, mà nó là bước đệm để chuẩn bị cho kỳ kiểm điểm vào tháng 1 năm 2019.

RFA: Mục đích chính của Chiến dịch vận động nhân quyền UPR năm nay là tập trung vào vấn đề gì?

Đinh Thảo: Có hai vấn đề lớn sẽ tập trung. Thứ nhất là vào năm 2014, Việt Nam có chấp nhận 182 khuyến nghị từ hơn 180 quốc gia khác nhau. Lần này VOICE có chuẩn bị một báo cáo để khi đi vận động ở các quốc gia, sẽ cập nhật cho họ biết sự tiến bộ cũng như thụt lùi về mặt nhân quyền theo như những gì họ hứa hẹn ở năm 2014.

Mục đích thứ hai là trong quá trình vận động, Voice sẽ tiếp cận những nhóm NGO khác nhau, cả báo chí, chứ không riêng chính phủ, mục đích thu hút sự chú ý từ nơi mình đến và cộng đồng quốc tế đến tình hình nhân quyền Việt Nam nói chung. Đặc biệt là đến tình hình các tù nhân lương tâm ở Việt Nam.

RFA: Trường hợp cụ thể nào hay tù nhân lương tâm nào sẽ được nhắc đến?

Đinh Thảo: Lần trình bày này sẽ vận động cho tù nhân lương tâm Việt Nam nói chung. Tuy nhiên sẽ sử dụng 5 trường hợp nổi bật.

Câu chuyện của blogger Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh sẽ là câu chuyện điển hình được nói tới và đặc biệt là có thành viên trong gia đình tham gia. Ngoài ra phái đoàn sẽ đề cập tới trường hợp của luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Thu Hà; blogger Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh; anh Trần Huỳnh Duy Thức; chị Trần Thị Nga.

Đó là những trường hợp sẽ được dùng để đại diện cho tù nhân lương tâm Việt Nam nói chung.

RFA: Chúng tôi được biết là bạn sẽ có một phần phát biểu trước Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc vào ngày 19 tháng 9. Bạn có thể chia sẻ những nội dung chính được trình bày ngày hôm đó?

Đinh Thảo: Ngày hôm đó tại Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc là một phiên General Debate, là thảo luận chung. Thông qua những đối tác mà VOICE có thì phái đoàn đã xin được tham dự phiên debate đó, và cũng xin để có được một phần nói chuyện rất ngắn, khoảng 1.30 phút hoặc 2 phút trở lại chứ không có thời gian để nói nhiều điều. Cho nên việc mình có thể nói chuyện trước Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc thì mang tính biểu tượng hơn nội dung truyền tải. Vì thời gian ngắn nên nội dung cô đọng và thông điệp trực tiếp.

Tôi sẽ đại diện cho phái đoàn cũng như những người ở Việt Nam để lên án chính phủ Việt Nam việc họ không thực hiện những cam kết, trách nhiệm quốc tế của họ, đặc biệt đối với cơ chế UPR. Vì họ đã chấp nhận 182 kiến nghị, trong đó có những kiến nghị rất tốt để cải thiện nhân quyền tuy nhiên họ dường như không thực hiện nhiều. Tệ hại hơn là có nhiều điều họ làm ngược lại so với những gì đã hứa hẹn, như đàn áp bắt bớ giới bất đồng chính kiến. Từ đầu năm đến giờ họ bắt 16 người bất đồng chính kiến cho đến đàn áp những người dân Đồng Tâm, giáo xứ Đông Yên, Song Ngọc, rồi khu vực xung quanh Formosa.

Đó là những điều họ làm hoàn toàn ngược lại cho nên bài nói chuyện của tôi sẽ tập trung lên án việc họ không thực hiện được trách nhiệm quốc tế mà họ đã hứa hẹn với Liên Hiệp Quốc.

Theo ghi nhận chúng tôi có được từ VOICE, ngày khai mạc của Chiến dịch vận động nhân quyền UPR sẽ diễn tại Berlin, thứ Sáu 15 tháng 9.

Đại diện phái đoàn vận động nhân quyền Việt Nam UPR giữa kỳ lần này gồm có bà Lê Thị Minh Hà, vợ của ông Nguyễn Hữu Vinh và hai đại diện của Voice là bà Anna Nguyễn và bà Đinh Thảo.  Chuyến đi vận động diễn ra ở Đức, Thuỵ Sĩ, Thuỵ Điển, Nauy, Bỉ và Cộng hoà Séc.

Trong thời gian diễn ra (từ ngày 15 tháng 9 đến ngày 10 tháng 10), sẽ có những nội dung được tường thuật trực tiếp. Người quan tâm trong và ngoài nước có thể theo dõi tại một số địa chỉ sau:

Human rights council, session 36th: http://webtv.un.org/live-now/watch/36th-regular-session-of-human-rights-council/4473498400001

Website của VOICE: www.vietnamvoice.org

Facebook của VOICE: https://www.facebook.com/vietnamvoicevn/

Facebook của Việt Nam UPR: https://www.facebook.com/vietnamUPR/

 

Việt Nam trong danh sách tội phạm nhân quyền bị đề nghị trừng phạt bằng Luật Magnitsky


Lời kêu gọi trong bức thư kèm một tập tài liệu chuyển tới Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Tài chính Mỹ phản ánh công trình điều tra, thu thập dữ kiện hàng chục tháng trời của 23 tổ chức NGO bảo vệ nhân quyền và chống tham nhũng quốc tế do Human Rights First điều phối.

Thông tin được cung cấp cho chính phủ Mỹ hôm nay kêu gọi trừng phạt các cá nhân phạm tội ở các nước: Việt Nam, Azerbaijan, Bahrain, Trung Quốc, Cộng hòa Dân chủ Congo, Ai Cập, Ethiopia, Liberia, Mexico, Panama, Nga, Ả Rập Xê Út, Tajikistan, Ukraine, và Uzbekistan.

Luật Magnitsky cho phép chính phủ Mỹ từ chối visa nhập cảnh và áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế như đóng băng tài sản tại Mỹ hoặc đang trung chuyển qua Mỹ của những người ngoại quốc vi phạm nhân quyền và tham nhũng nghiêm trọng, những người mà theo mô tả của Human Rights First “nằm trong số các phạm nhân tệ hại nhất trên hành tinh này.”

Thư gửi cho Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Tài chính Mỹ nói: “Những trường hợp chúng tôi chọn ra xuất phát từ từng khu vực trên thế giới và bao gồm những câu chuyện khủng khiếp về tra tấn, cưỡng chế biệt tích, giết hại, tấn công tình dục, hối lộ và tham nhũng.”

Trong số 23 tổ chức tham gia nỗ lực vận động này có Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch, Phóng viên Không Biên giới, và BPSOS Ủy ban Cứu Người Vượt biển, một tổ chức của người Mỹ gốc Việt chuyên vận động cho nhân quyền Việt Nam có trụ sở tại Mỹ.

Những nạn nhân từ từng nước được nêu tên trong hồ sơ nhân quyền 15 quốc gia là những nhà hoạt động nhân quyền, thành viên các nhóm tôn giáo thiểu số hay các sinh viên biểu tình chống bất công.

Trường hợp bị vi phạm nhân quyền tiêu biểu được nêu lên trong hồ sơ nói về Việt Nam là bà Trần Thị Hồng, vợ của mục sư Nguyễn Công Chính, người mà theo hồ sơ cáo giác là bị tra tấn và khủng bố tinh thần suốt 2 tháng sau khi tiếp xúc với phái đoàn Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ vào cuối tháng 3 năm 2016 để cầu cứu can thiệp về vi phạm nhân quyền tại Việt Nam.

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, Tổng Giám Đốc kiêm Chủ Tịch BPSOS, cho biết:

“Chúng tôi chọn hồ sơ này đưa vào danh sách chung là vì nó mới xảy ra, các cơ quan Liên hiệp quốc đều biết và chính Bộ Ngoại giao Mỹ cũng biết rất rõ. Chồng bà Hồng là mục sư Nguyễn Công Chính lúc đó bị án tù 11 năm. Bà Hồng đã gặp phái đoàn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ để cầu cứu cho chồng bị bệnh nặng và bị tra tấn trong tù. Chỉ vì tiếp xúc với Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mà bà bị tra tấn, đánh đập, khủng bố. Bà còn là thành viên sáng lập của Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam.”

Cá nhân bị đề nghị chế tài là đại tá Vũ Văn Lâu, Giám Đốc Công An Tỉnh Gia Lai, người có liên quan trực tiếp tới các hành vi vi phạm nhân quyền nêu ra trong hồ sơ của bà Trần Thị Hồng.

Nhà hoạt động Nguyễn Đình Thắng giải thích:

“Chúng tôi có 8 danh sách tổng cộng 180 nhân vật. Chúng tôi chỉ chọn một trường hợp này để đóng góp vào danh sách chung để vận động chung. Song song với cuộc vận động chung với 22 tổ chức khác, chúng tôi có cuộc vận động riêng, nhắm riêng vào Việt Nam và thúc đẩy cả danh sách 180 giới chức chính quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Chúng tôi cũng có một số hồ sơ về tham nhũng lớn tuy không chọn để đưa vào danh sách chung gồm 15 hồ sơ.”

Bước tiếp theo, Tiến sĩ Thắng cho biết, 23 tổ chức hoạt động nhân quyền đồng ký tên trong chiến dịch chung lần này chia nhau gặp các dân biểu, nghị sĩ Mỹ để vận động họ ủng hộ cho danh sách vừa kể, theo dõi xem bên hành pháp chính quyền Trump xử lý thế nào, có thực thi đúng đắn và báo cáo kết quả cho Quốc hội hay không.

Luật Magnitsky Toàn cầu là công cụ trừng phạt sâu rộng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ đối với các hành vi vi phạm nhân quyền và tham nhũng trên thế giới.

Được thông qua bởi cả Hạ lẫn Thượng viện Hoa Kỳ, luật này được ký ban hành vào tháng 12 năm ngoái, lấy tên nhà hoạt động Sergei Magnitsky, người bị chính quyền Nga cầm tù và sát hại vào năm 2009 sau khi phanh phui những sai phạm trên quy mô lớn của nhà cầm quyền.

Luật Magnitsky Toàn cầu được mở rộng dựa trên Đạo luật Magnitsky 2012 vốn chỉ áp dụng chế tài các cá nhân và các tổ chức ở Nga.

Sự sụp đổ của các nước Cộng Sản Đông Âu

Sự sụp đổ của các nước Cộng Sản Đông Âu

Phạm Văn Tuấn

Những sự kiện này bắt đầu từ Ba Lan vào năm 1989, và tiếp tục ở Hungary, Đông Đức, Bungary, Tiệp Khắc và România.

Romania là nước Đông Âu duy nhất lật đổ chế độ Cộng sản của mình bằng bạo lực

Nổi tiếng nhất là sự sụp đổ của Bức tường Berlin, biểu tượng của việc thống nhất nước Đức vào năm 1990.

Việc Liên Xô bị giải thể vào cuối năm 1991 dẫn đến kết quả là Nga và 14 quốc gia tuyên bố độc lập của khỏi Liên Xô

1- Ba Lan 

Ba Lan là một lãnh thổ bằng phẳng nằm tại miền trung của châu Âu, rộng bằng nước Mễ Tây Cơ và có dân số là 37 triệu người. Từ 1,000 năm về trước và qua thời Trung Cổ, Ba Lan đã là một vương quốc quan trọng cho tới cuối thế kỷ 18, xứ sở này đã bị xóa tên trên bản đồ, bị chia ba giữa ba cường quốc là Nga, Áo và Phổ. Nhưng rồi người dân Ba Lan đã vùng lên, giành độc lập vào năm 1918.           

Vào tháng 9-1939, đất nước Ba Lan lại bị dẫm nát bởi quân đội nước ngoài: quân đội Quốc Xã Đức tiến vào từ hướng tây và quân đội Xô Viết từ hướng đông. Ba Lan đã là bãi chiến trường, là địa điểm của rất nhiều trại tập trung mà xấu xa nhất là trại Auschwitz, chuyên việc tận diệt các kẻ chống đối, các tù binh, các người Do Thái.           

Sau Thế Chiến Thứ Hai, Ba Lan đã lấy lại được phần đất đã mất trước kia do Quốc Xã Đức chiếm, nhưng từ năm 1948, các người cộng sản đã nắm được chính quyền, tạo nên một thể chế cộng sản theo kiểu mẫu Liên Xô. Tới năm 1956, không lâu sau khi ông Nikita Khrushchev tố cáo các tội ác khủng khiếp của Stalin, do tinh thần quốc gia tiềm ẩn, do lòng bất khuất và do nỗi bất mãn về kinh tế, người dân Ba Lan đã nổi dậy tại tỉnh Poznan. Các bạo loạn trong xứ đã làm cho Bộ Chính Trị phải thay đổi và ông Wladyslaw Gomulka được đưa ra lãnh đạo Đảng. Ông Gomulka liền bỏ chương trình tập thể hóa các nông trại, cho nới lỏng một số luật lệ và cải thiện liên lạc với Nhà Thờ Công Giáo. Nhưng trong cuộc nổi dậy của các công nhân tại Gdansk vào tháng 12-1970, các công nhân này đã bị đàn áp một cách tàn nhẫn, ít nhất có 44 người bị giết. Ông Gomulka sau đó bị thay thế bởi ông Edward Gierek, một người tìm cách hòa hoãn với khối tây phương. Nhưng tình trạng kinh tế tuột dốc đã gây nên nhiều làn sóng phản đối mới vào năm 1976.

            Năm 1978, người dân Ba Lan lại vui mừng vì vị Tổng Giám Mục miền Cracow trở nên Đức Giáo Hoàng John Paul II. Sự kiện này đã đóng một vai trò gián tiếp trong việc khai tử chế độ Cộng Sản tại Đông Âu bởi vì trong các năm dài sống dưới chế độ cộng sản, người dân Ba Lan vẫn duy trì niềm tin Công Giáo Catholic, họ lấy lại can đảm để đương đầu với các kẻ cầm quyền độc ác.

Ngày 14 tháng 8 năm 1980, Công Đoàn Đoàn Kết (Solidarity Trade Union) ra đời và ông Lech Walesa, một người thợ điện, là lãnh tụ của phong trào đòi Dân Chủ cho đất nước Ba Lan. Hoạt động của Công Đoàn kể trên đã chấm dứt sự nghiệp chính trị của ông Edward Gierek và ông Wojciech Jaruzelski thay thế. 15 tháng phát triển của Công Đoàn Đoàn Kết cũng là “điềm báo tử” cho chế độ Cộng Sản tại Ba Lan. Với số đoàn viên lên tới 10 triệu, Công Đoàn Đoàn Kết đã là một tổ chức có thực lực để đòi hỏi các cuộc bầu cử tự do và một chính quyền hợp pháp không cộng sản. Vào ngày 13-12-1981, dưới áp lực của Liên Xô lúc đó do ông Leonid Brezhnev lãnh đạo, Tướng Jaruzelski phải công bố tình trạng quân luật, giải tán Công Đoàn Đoàn Kết, bắt giam các lãnh tụ và các người hoạt động cho Công Đoàn, ra lệnh hủy bỏ mọi hình thức cởi mở mới được ban hành, tuy nhiên những mệnh lệnh này chưa thực sự tiêu diệt được Công Đoàn Đoàn Kết.

            Khi ông Mikhail S. Gorbachev lên nắm quyền tại Liên Xô, khi các áp lực Xô Viết tại Ba Lan giảm đi, Công Đoàn Đoàn Kết đã lấy lại được khí thế cũ. Mùa xuân năm 1989, Công Đoàn đã được chính thức công nhận và đã thắng gần hết các ghế đại biểu trong các cuộc bầu cử.

Tháng 8-1989, Ba Lan là nước đầu tiên có một thủ tướng không cộng sản kể từ năm 1948, đó là ông Tadeusz Mazowiecki, một nhà trí thức Catholic và cũng là một người bạn thân của ông Lech Walesa. Chính phủ mới này tập trung vào việc cải tổ kinh tế nên đã đưa ra nhiều biện pháp khắc khổ để khắc phục nạn lạm phát và đưa đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tới mùa hè năm 1990, sau khi các người cộng sản bị gạt sang một bên rồi, nội bộ của Công Đoàn Đoàn Kết lại bị tách ra làm hai: phe khuynh hữu với ông Lech Walesa và phe khuynh tả với ông Mazowiecki nhưng cuối cùng ông Lech Walesa đã thắng trong cuộc bầu cử Tổng Thống năm 1990.

            Vào tháng 10 năm 1991 là cuộc bầu cử Quốc Hội tự do đầu tiên nhưng trong các năm sau, nước Ba Lan đã có rất nhiều đảng phái, có 5 thủ tướng, gặp nạn lạm phát và cảnh thất nghiệp cao, hàng ngàn nông trại trên bờ phá sản. 

2- Đông Đức

Nước Đức là quốc gia giàu có và đông dân nhất châu Âu, hiện nay gồm 77.5 triệu người. Nước Đức có lịch sử chính trị từ thời Vua Charlemagne, giống như nước Pháp, nhưng các lãnh địa đã bị chia rẽ và chỉ hợp lại thành một quốc gia thống nhất vào năm 1871. Sau đó Thủ Tướng Otto Bismark và các nhà lãnh đạo khác đã cố công theo đuổi các chính sách bành trướng lãnh thổ, dẫn tới Thế Chiến Thứ Nhất vào năm 1914. Sau khi thất trận, nước Đức lại cố gắng vươn lên rồi dân tộc Đức vì bị thất vọng về kinh tế suy kém, đã trông nhờ vào nhà độc tài Adolf Hitler.

Vào năm 1945, nước Đức Quốc Xã thất trận nên lãnh thổ Đức bị phân chia thành bốn khu vực chiếm đóng bởi Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô. Ba khu vực phia tây được phối hợp lại năm 1949 thành nước Cộng Hòa Liên Bang Đức hay nước Tây Đức rồi không lâu sau đó, Liên Xô cũng tạo nên nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức (the German Democratic Republic) hay còn gọi là nước Đông Đức.

            Trong nửa thời gian đầu, Đông Đức ở dưới quyền cai trị cứng dắn của ông Walter Ulbricht, với đường lối thù nghịch Tây Đức và cao điểm của sự đối đầu là việc xây dựng nên Bức Tường Bá Linh. Vào nửa giai đoạn sau dưới quyền của ông Erich Honecker, Đông Đức đã dịu bớt sự căng thẳng vì chính sách hòa hoãn “Ostpolitik” giữa hai miền nước Đức của ông Willy Brandt.

            Giống như nước Đức bị chia cắt vào năm 1949, thành phố Bá Linh cũng bị phân chia và một khu vực của thành phố này thuộc về Đông Đức. Tuy nhiên, đường ranh giữa hai khu vực Đông và Tây Bá Linh vẫn là khe hở của Tấm Màn Sắt và các người sống dưới chế độ cộng sản Đông Đức thường trốn qua Tây Đức bằng khe hở này. Ngày 13 tháng 8 năm 1961, để chặn đứng những người vượt biên, chính quyền Đông Đức đã cho dựng nên Bức Tường ngăn cách Đông và Tây thành phố Bá Linh. Tại bức tường cao xây bằng bê-tông trên có hàng rào kẽm gai này, binh lính Đông Đức được lệnh bắn bỏ những người tìm cách leo qua tường, tìm tự do. Theo ước lượng vào năm 1992, đã có hơn 200 người dân Đông Đức bị bắn chết.

            Tại Đông Đức về kinh tế, người dân giàu có hơn tất cả các dân tộc theo xã hội chủ nghĩa khác, nhưng họ vẫn bất mãn khi so sánh với mức sống của người dân anh em Tây Đức, bất mãn khi không được phép đi ra nước ngoài. Vào mùa hè năm 1989, hàng ngàn người Đông Đức đã vượt sang nước Hungari và tràn vào các tòa đại sứ của Tây Đức tại hai thành phố Prague và Warsaw. Hàng triệu người trên thế giới đã chứng kiến cảnh tượng này trên màn ảnh vô tuyến truyền hình: đây là cảnh “bỏ phiếu bằng chân” của những người sống trong chế độ cộng sản! Tới tháng 9-1989, số người biểu tình tại các thành phố của Đông Đức đã gia tăng rất cao, họ hát câu “chúng tôi muốn ở lại” và đòi hỏi chính quyền cộng sản phải thay đổi đường lối cai trị. Ông Erich Honecker vì thế phải từ chức, thay thế bằng ông Egon Krenz và các nhà lãnh đạo Đông Đức phải ra lệnh mở Bức Tường Bá Linh. Trong vài ngày, hàng triệu người dân Đông Đức đã vượt qua khu Tây Bá Linh. Một câu chuyện vui kể lại rằng khi ông Erich Honecker tỉnh dậy, thấy khu Đông Bá Linh không còn bóng người nhưng vẫn còn thắp đèn sáng, ông bèn tới Bức Tường Bá Linh và thấy một mẩu giấy ghi rõ câu : “ai đi sau cùng nhớ tắt đèn”.

            Kể từ khi ông Egon Krenz quản trị Đông Đức, xứ sở này trong nhiều tháng vẫn chìm vào trong các rối loạn chính trị. Tháng 3 năm 1990, đã có các cuộc bầu cử tự do đầu tiên và Công Đoàn Dân Chủ Thiên Chúa Giáo (the Christian Democratic Union), một đảng phái mới được thành lập của những người Dân Chủ Thiên Chúa Giáo Tây Đức, đã chiếm được 41% số phiếu. Trong khi đó tại Tây Đức, Thủ Tướng Helmut Kohl không ngừng theo đuổi chương trình thống nhất nước Đức vì vậy vào tháng 3-1990, tại thành phố Bonn đã diễn ra các cuộc thảo luận “Hai cộng Bốn”, gồm 2 nước Đông và Tây Đức với 4 nước chiến thắng trong Thế Chiến Thứ Hai là Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô rồi vào ngày 12-9-1990, cả 6 nước kể trên đã ký tên vào “Hiệp Ước ổn định cuối cùng đối với nước Đức” (the Final Settlement with Respect to Germany) và sự kiện này chính thức chấm dứt Thế Chiến Thứ Hai.

            Hiệp ước Ổn Định kể trên đã mở đường cho việc thống nhất nước Đức, và bắt đầu từ nửa đêm ngày 2-10-1990, nước Đông Đức không còn hiện hữu nữa mà trở thành 5 tiểu bang mới của Cộng Hòa Liên Bang Đức.

            Kể từ ngày thành lập 7-10-1949, xứ sở cộng sản Đông Đức với dân số 16 triệu người và diện tích bằng tiểu bang Tennessee, với tên gọi là Cộng Hòa Dân Chủ Đức, đã cáo chung sau khi tồn tại được 40 năm và 360 ngày! 

3- Tiệp Khắc

Tiệp Khắc là quốc gia nằm giữa châu Âu, gồm ba xứ hợp lại là Bohemia, Moravia và Slovakia. Từ nhiều thế kỷ, Tiệp Khắc vẫn theo đuổi nền dân chủ cho tới khi bị Đức Quốc Xã tấn công vào năm 1938. Sau khi nước Đức bị thua trận, một chính quyền Cộng sản theo Stalin được thiết lập tại Tiệp Khắc từ tháng 2-1948 tới đầu thập niên 1960. Vào lúc này và do nền kinh tế suy sụp, các người cầm quyền cộng sản đã tìm cách cải tổ kinh tế và nới lỏng các kiểm soát chính trị. Tiến trình cải cách đã đi tới cao điểm gọi là “Mùa Xuân Praha” (the Prague Spring) của năm 1968 do nhân vật cộng sản cải cách lãnh đạo tên là Alexander Dubcek.

Ông Alexander Dubcek (1921-92) chào đời vài tháng sau khi cha mẹ của ông từ thành phố Chicago, Hoa Kỳ, trở về xứ Slovakia. Ông Dubcek đã trải qua tuổi trẻ tại Liên Xô. Đầu năm 1968, ông Dubcek công bố một chương trình cải tiến gọi là “Xã Hội Chủ Nghĩa với bộ mặt con người” (Socialism with a human face). Trong thời gian 8 tháng dễ thở này, từ tháng 1 tới ngày 20-8-1968, ông Dubcek là hình ảnh của hy vọng cho người dân Tiệp Khắc. Liên Xô, dưới quyền lãnh đạo của ông Leonid Brezhnev, coi các cải tiến tại Tiệp Khắc là “quá nguy hiểm” cho thể chế cộng sản, nên đã đàn áp phong trào “Mùa Xuân Praha” bằng 500,000 quân thuộc Minh Ước Warsaw (the Warsaw Pact).

            Warsaw là liên minh quân sự được thành lập năm 1955 để đối đầu với khối Nato. Các thành phần ban đầu của Minh Ước Warsaw gồm 8 nước: Tiệp Khắc, Đông Đức, Ba Lan, Hungari, Romania, Bulgaria, Albania và Liên Xô. Hành động quân sự duy nhất của liên minh này là cuộc xâm lăng Tiệp Khắc vào tháng 8-1968 trong đó Romania không tham gia. Vào đầu thập niên 1960, nước Albania không tham dự vào liên minh Warsaw rồi chính thức rút lui vào năm 1968. Minh Ước Warsaw bị giải thể vào tháng 7-1991.

            Năm 1987, khi bị hỏi về sự khác biệt giữa “Mùa Xuân Praha” của ông Dubcek và các chương trình “Glasnost” và “Perestroika” của ông Gorbachev, người phát ngôn thuộc Bộ Ngoại Giao Liên Xô đã trả lời rằng: “19 năm”!

            Sau khi ông Alexander Dubcek bị bắt về giam tại Liên Xô và phong trào “Mùa Xuân Praha” bị dẹp tan, một nhân vật cộng sản cứng dắn mới lên nắm quyền tại Tiệp Khắc, đó là ông Gustav Husak. Từ nay, tất cả những người có khuynh hướng cải tiến đều bị thanh trừng, hầu như mọi người dân Tiệp Khắc đều thu mình lại để được an toàn, thế nhưng vẫn còn một số ít người rất can đảm, cả nam lẫn nữ, đã tập hợp lại một cách lỏng lẻo để tạo nên một nhóm chống đối các kẻ đàn áp: “Nhóm Hiến Chương 77” (The Charter 77).

            Vào khoảng đầu tháng 1 năm 1977, một nhóm 242 người bất đồng chính kiến gốc Tiệp và Slovak, đã họp lại và ký tên vào một bản Tuyên Ngôn (manifesto) qua đó họ liệt kê các đòi hỏi căn bản về Nhân Quyền (basic human rights). Mặc dù đã được viết bằng những từ ngữ thận trọng, bản Hiến Chương 77 đã gây nên các hành động giận dữ của chính quyền Cộng Sản Tiệp Khắc: các người ký tên trong đó có ông Vaclav Havel, đều bị bắt, bị lưu đầy, bị xách nhiễu nhưng những nhân vật anh hùng này đã là hạt nhân cho phong trào phản kháng 12 năm về sau tại Tiệp Khắc.

            20 năm sau ngày quân đội của Hiệp Ước Warsaw xâm lăng Tiệp Khắc, đã có vào khoảng 20,000 người biểu tình đòi dân chủ, chống lại chế độ Cộng Sản vào ngày 21-8-1988 trước sự ngỡ ngàng của công an và đảng cộng sản cầm quyền. Đây là cuộc phản đối lớn nhất kể từ năm 1969 và cảnh sát đã phải dùng hơi cay để giải tán, 400 người bị bắt.

Tại thành phố Prague, cuộc biểu tình phản đối đã diễn ra từ ngày 15 tới ngày 20-1-1989 và cảnh sát cộng sản đã phải dùng dùi cui, hơi cay, vòi nước và chó dữ để dẹp biểu tình. Trong số người bị bắt lại có ông Vaclav Havel. Ngày 21-2, ông Havel bị tuyên án 8 tháng tù vì có hành vi “chống nhà nước và xã hội chủ nghĩa”. Nhiều người bất đồng chính kiến khác cũng bị tuyên án tương tự. Rồi 2,000 thanh niên đã tham gia biểu tình đòi dân chủ vào ngày 1-5-89, họ cũng bị đàn áp. Tới ngày 17-5-89, ông Havel được thả khỏi nhà tù vì đã “học tập tốt” theo lời của chính quyền cộng sản, nhưng thực ra là do sự chỉ trích của khối Tây Phương. Rồi 35,000 người bất đồng chính kiến, phản đối chế độ Cộng Sản, đòi hỏi Dân Chủ, đã ký tên vào một thỉnh nguyện thư yêu cầu phải “thay đổi tận gốc không khí xã hội và chính trị”.

            Các biểu tình phản kháng vẫn tiếp tục diễn ra tại Prague vào các ngày 28-8, 17-11, 20-11, 27-11-1989 rồi tới ngày 29-11, chính quyền cộng sản phải công nhận hủy bỏ vai trò lãnh đạo của đảng Cộng Sản. Ngày 10-12-1989, một chính quyền liên bang mới được thành lập và chủ tịch Husak từ chức. Ông Alexander Dubcek được bầu làm chủ tịch của Quốc Hội Liên Bang ngày 28-12 rồi ngày hôm sau, ông Vaclav Havel được bầu làm Tổng Thống của nước cộng hòa.

            Ông Havel đã thăm viếng Moscow vào hai ngày 26, 27-2-1990 và ký với ông Gorbachev một thỏa ước theo đó 73,500 quân Xô Viết phải rút khỏi Tiệp Khắc vào tháng 7 năm 1991. Nước Tiệp Khắc vào giai đoạn này đã gặp rất nhiều vấn đề khó giải quyết, chẳng hạn làm sao loại bỏ “giới cầm quyền cũ Nomenclatura” (nhóm cựu đảng viên C.S.)  ra khỏi các chức vụ cao, làm sao tháo gỡ được hệ thống kinh tế chỉ huy phức tạp và nặng nề và làm sao giải quyết êm đẹp các căng thẳng quốc gia với xứ Slovakia, rồi cuối cùng, nước Tiệp Khắc bị chia làm hai xứ riêng rẽ vào tháng 1-1993: đó là hai nước cộng hòa Tiệp (Czech) và Slovak

4 . Hungari              

Hungari là một quốc gia tại miền trung của châu Âu với diện tích nhỏ hơn tiểu bang Indiana và dân số 10 triệu người. Người Hungari có nguồn gốc từ bộ lạc du mục thiện chiến Magyar, từ châu Á tới châu Âu vào thế kỷ thứ 9 để rồi lập nên một vương quốc quan trọng. Khi đế quốc Áo-Hung bành trướng vào thế kỷ 19, Hungari là một miền đất tự trị, phát triển cho tới cuối Thế Chiến thứ nhất, khi đó hai phần ba diện tích bị cắt xén thành nước Tiệp Khắc, một phần của Nam Tư và một phần của Romania. Ngày nay, những người dân gốc Hungari vẫn còn sinh sống tại các quốc gia kể trên và đông đảo nhất tại vùng Transylvania thuộc nước Romania.              

Vào thập niên 1930, nhà độc tài Adolf Hitler đã hứa sẽ trả lại các miền đất mà Hungari bị mất vì Hiệp Ước Trianon, cho nên vào năm 1941, Hungari đã giúp Hitler tấn công Nam Tư và tham gia vào khối Trục. Tới năm 1943, Hitler không coi Hungari là một nước đồng minh, đã chiếm đóng nước này vào tháng 3-1944 rồi sau đó, nửa triệu người Do Thái sinh sống tại Hungari đã bị chở tới các trại tập trung đặt trên nước Đức và bị giết trong các phòng hơi ngạt.              

Sau khi Đức Quốc Xã thua trận, các người cộng sản Hungari đã chiếm chính quyền với sự giúp đỡ của quân đội Liên Xô. Ông Mathias Rakosi là lãnh tụ đảng Cộng Sản và cũng là người đứng đầu chính quyền Hungari, đã cai trị xứ sở này như một nhà độc tài. Chính sách cai trị khắc nghiệt của ông Rakosi đã khiến cho nền kinh tế Hungari đi dần tới chỗ kiệt quệ và dân chúng đều bất mãn.  

Năm 1953, ông Imre Nagy làm Thủ Tướng, Rakosi làm chủ tịch đảng Cộng Sản. Ông Nagy đã nới lỏng các kiểm soát, cho dân chúng Hungari đôi phần tự do hơn để cải thiện đời sống nhưng các cải tiến này đã bị ông Rakosi và các đảng viên cộng sản khác chống đối. Ông Nagy bị loại khỏi chính quyền và bị khai trừ khỏi đảng vào năm 1955. Các chính sách khắc nghiệt của ông Rakosi một lần nữa lại được áp đặt lên xứ sở Hungari khiến cho các thanh niên, các nhà văn… đều phản đối, nhất là về phạm vi nhân quyền và tự do tư tưởng, vì thế ông Rakosi bị loại khỏi chức vụ chủ tịch đảng Cộng Sản vào giữa năm 1956 nhưng các chính sách khắc nghiệt vẫn còn được duy trì khiến cho đã xẩy ra một cuộc nổi dậy, chống đối, tại thành phố Budapest.  

Cuộc cách mạng này đã lan ra khắp nước Hungari. Nhân dịp này nhiều tù nhân chính trị đã được trả tự do trong đó có cha Joseph Cardinal Mindszenty là người đứng đầu nhà thờ công giáo Catholic tại Hungari, đã bị giam cầm từ năm 1949. Cuộc nổi dậy của người dân Hungari đã khiến cho ông Imre Nagy lại trở nên Thủ Tướng và ông Nagy đã tuyên bố Hungari là một quốc gia trung lập, nhưng chính quyền này chỉ tồn tại được vài ngày, vì vào tháng 11 năm đó, quân đội Liên Xô đã tràn vào nước Hungari, đàn áp cuộc cách mạng. Số người bị giết trong cuộc tàn sát này từ 6,500 tới 32,000 người. Khoảng 250 người tích cực trong cuộc cách mạng kể trên, kể cả ông Imre Nagy, đã bị Liên Xô hành quyết vào năm 1958. 200,000 người Hungari đã bỏ xứ, chạy trốn.              

 Sau cuộc Cách Mạng năm 1956, Liên Xô đã kiểm soát chặt chẽ xứ Hungari và ông Janos Kadar là lãnh tụ đảng Cộng Sản mới, lãnh chức Thủ Tướng từ năm 1956 tới 1958 rồi từ năm 1961 tới 1965. Vào thập niên 1960, ông Kadar đã nới lỏng các kiểm soát về kinh tế, văn hóa và xã hội khiến cho chế độ cộng sản Hungari được coi là tiến bộ nhất. Năm 1987, ông Karoly Grosz được chọn làm Thủ Tướng rồi làm lãnh tụ đảng, thay thế ông Kadar. Vào cuối thập niên 1980 này, quyền lực của đảng Cộng Sản Hungari bị suy giảm, các đảng phái khác bắt đầu hoạt động trở lại. Vào tháng 6-1989, đảng Cộng Sản Hungari phải thảo luận với các đảng phái đối lập. Họ đã xét lại cuộc cách mạng năm 1956 và tuyên bố rằng vụ xét xử ông Imre Nagy và các đồng chí vào năm đó bị coi là bất hợp pháp và cuộc nổi dậy năm 1956 không bị coi là “phản cách mạng”. Ông Nagy và các đồng chí cũ được phục hồi danh dự và chôn cất long trọng vào tháng 6-1989.              

Mùa hè năm 1989, Hungari đã mở cửa biên giới với nước Áo khiến cho hàng ngàn người Đông Đức đã tràn qua các nước tây phương. Ngày 10-3-1990, Hungari đã ký với Liên Xô một thỏa ước về rút toàn bộ 52,000 quân Xô Viết ra khỏi lãnh thổ Hungari vào tháng 7-1991và xứ sở này chuyển sang chính thể dân chủ đa đảng, có Quốc Hội và Tổng Thống. Đảng Cộng Sản Hungari mặc dù đã cải tổ nội bộ, kể từ tháng 4-1990 chỉ chiếm được 11 % số phiếu bầu. Cũng từ năm 1990, Hungari đã theo đuổi các chính sách cải tổ kinh tế, tư hữu các xí nghiệp và trả lại đất đai cho nông dân.   
 

5. Albania             

Albania là quốc gia nghèo nhất của châu Âu, có diện tích vào khoảng tiểu bang Alabama với dân số hơn 3 triệu người. Albania tiếp giáp với các nước Nam Tư, Macedonia, Hy Lạp và biển Adriatic.              

Qua nhiều thế kỷ bị nước ngoài đô hộ, người dân Albania vẫn giữ được bản tính dân tộc nên đã giành được độc lập vào năm 1920 rồi tới Thế Chiến Thứ Hai, quốc gia nhỏ bé này bị Phát Xít Ý xâm lăng vào tháng 4-1939, rồi bị sát nhập vào nước Ý. Trong thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai, có ba lực lượng kháng chiến chính trong xứ Albania: a) tổ chức Cộng Sản gọi là Mặt Trận Giải Phóng Quốc Gia NLF (the National Liberation Front) do Enver Hoxha lãnh đạo, b) lực lượng bảo hoàng gọi là Phong Trào Hợp Pháp (Legality) do Abas Kupi điều khiển, c) phong trào quốc gia gọi tên là Balli Kombetar do Midhat Frasheri chủ trương. Cả ba nhóm quân sự này vừa đánh quân đội Đức Quốc Xã chiếm đóng, vừa đánh lẫn nhau.              

Năm 1944, lực lượng Đức Quốc Xã bị đánh bật ra khỏi Albania và các người Cộng Sản kiểm soát được đất nước. Ông Hoxha đã thiết lập nên tại Tirana một chính quyền cộng sản và lãnh đạo đất nước với chức vụ Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản từ năm 1953. Ông Enver Hoxha (1908-1985), đã cai trị xứ Albania cho tới khi chết. Ông ta ủng hộ các chính sách của Joseph Stalin, nhà độc tài của Liên Xô. Từ nay, mọi ruộng đất đều bị tập trung thành các nông trại tập thể, các người chống đối đều bị cầm tù, các tài sản tư nhân bị tịch thu, mọi cơ sở tôn giáo đều bị đóng cửa, các hoạt động văn hóa và trí thức đều phải theo đường lối xã hội chủ nghĩa. Ông Hoxha đã cô lập xứ Albania, không cho giao tiếp với các quốc gia khác. Chính sách giới hạn mọi tự do cá nhân tại Albania đã khiến cho xứ sở này trở thành quốc gia nghèo đói nhất châu Âu, trong khi đó các đảng viên cộng sản vẫn tự hào rằng Albania là quốc gia duy nhất trên thế giới theo đúng các giáo điều Mác Xít Lê Nin Nít!              

Khi Albania giành được độc lập vào năm 1944, đảng Cộng Sản Nam Tư đã giúp đỡ các đảng viên cộng sản Albania tổ chức lại Mặt Trận Giải Phóng NLF nhưng tới năm 1948, sự rạn nứt đã xẩy ra giữa Nam Tư và Liên Xô khiến cho Nam Tư bị trục xuất khỏi Khối Cominform, một tổ chức gồm các đảng cộng sản châu Âu do Liên Xô lãnh đạo. Vào lúc này, Albania theo Liên Xô nên đã tuyệt giao với Nam Tư.              

Vào đầu thập niên 1960, đã xẩy ra một dạn nứt khác giữa Liên xô và Trung Cộng do khác biệt về cách giảng giải các giáo điều Cộng sản. Trung Cộng đả phá Liên Xô vì đã tìm cách sống chung với các quốc gia tây phương và Albania ủng hộ lập trường của Trung Cộng. Vào năm 1961, Albania đoạn giao với Liên Xô. Từ đó Trung Cộng cung cấp mọi trợ giúp cho Albania kể cả trợ giúp kỹ thuật. Tới cuối thập niên 1970, các nhà lãnh đạo cộng sản Albania lại chỉ trích Trung Cộng là đã không theo đúng các giáo điều Cộng Sản, đã liên lạc với Nam Tư và Hoa Kỳ. Trung Cộng bèn phản ứng lại bằng cách cắt hết viện trợ cho Albania.              

Năm 1985, ông Enver Hoxha chết sau khi đã cai trị Albania hơn 40 năm, đã bắt mọi người dân Albania phải thành kính tôn sùng lãnh tụ. Ông Ramiz Alia, nguyên là chủ tịch nước từ năm 1982, đã kế tiếp ông Hoxha làm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản.              

Từ năm 1989, vì các quốc gia cộng sản Đông Âu bắt đầu tan rã nên xứ Albania cũng bị ảnh hưởng. Các cuộc biểu tình đã xẩy ra tại thủ đô Tirana, một sự việc không hề có trong 46 năm trường, một phần là do sự giảm bớt bóp nghẹt của cơ quan công an mật vụ Sigurimi. Vào mùa xuân năm 1990, chủ tịch Ramiz Alia công bố một chương trình “dân chủ hóa”, cho phép nông dân được quyền canh tác trên các mảnh đất tư hữu, chấp nhận việc du lịch ra nước ngoài và cho phép dân chúng thực hành tôn giáo tại gia đình. Một cải tiến khác của Albania là trả tiền thưởng cho các công nhân làm việc chăm chỉ, để sản xuất ra nhiều mặt hàng hơn. Thế nhưng, những cải cách này chưa thực sự mang lại các kết quả tốt.  

Vào tháng 7-1990, 5,000 người Albania đã xuống đường, phản đối chính quyền Cộng Sản, đập phá các tòa đại sứ để yêu cầu được ra các nước ngoài. Nhiều người liều mạng băng qua biên giới Nam Tư và Hy Lạp mà không có giấy tờ, để tìm tự do và tránh các hiểm nghèo kinh tế. Các xáo trộn vẫn tiếp tục tới cuối năm 1990 khiến cho đảng cộng sản cầm quyền phải đồng ý để các đảng phái chính trị khác tham gia vào các cuộc bầu cử đa đảng, diễn ra vào tháng 3-1991. Sau cuộc bầu cử này, đảng cộng sản thắng nhiều phiếu bởi vì các lực lượng đối lập đã không được tổ chức cẩn thận. Các bạo loạn chống cộng sản vẫn diễn ra tại Albania khiến cho một chính phủ mới được thành lập, bao gồm bên trong 9 nhân vật độc lập.  

Cuộc bầu cử kế tiếp diễn ra vào tháng 3-1992 và lần này, Đảng Dân Chủ Albania đối lập (the Albanian Democratic Party) đã thắng lớn trên toàn quốc. Ông Sali Berisha, một y sĩ giải phẫu tim, 47 tuổi, trở nên Tổng Thống không cộng sản đầu tiên vào tháng 4-1992. Sau khi trở thành nhà lãnh đạo của xứ Albania, ông Sali Berisha đã thực hiện nhiều chuyến công du ra các nước ngoài để xin trợ giúp, ngõ hầu ổn định xứ sở Albania quá nghèo đói.    

6. Bulgaria              

Bulgaria là một quốc gia thuộc vùng Balkan, lãnh thổ nhiều đồi núi này có diện tích vào khoảng tiểu bang Tennessee và dân số 9 triệu người, tiếp giáp với các nước Hy Lạp và Thổ Nhĩ kỳ ở phía nam, Nam Tư và Macedonia ở phía tây, Romania ở phía bắc và Biển Đen (the Black Sea) ở phía đông. Thủ đô của Bulgaria là thành phố Sofia, được người La Mã xây dựng nên vào thế kỷ thứ 2. Người Bulgaria có nguồn gốc pha trộn của các bộ lạc Slavic và Bulgars, và bộ lạc sau này từ Trung Á tới xâm chiếm bán đảo Balkan vào thế kỷ thứ 9. Bulgaria bị cai trị bởi các người nước khác và cuối cùng bị chinh phục bởi đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman. Năm 1878, nước Bulgaria giành được độc lập nhờ sự trợ giúp của người Nga vì thế người Bulgaria thường có thiện cảm với dân Nga.              

Năm 1912, với hy vọng giành lại miền đất đã mất vì Hiệp Ước Berlin, Bulgaria cùng với các nước khác thuộc vùng Balkan tham gia vào trận chiến đánh đuổi quân đội Ottoman ra khỏi châu Âu và đây là Cuộc Chiến Balkan thứ nhất. Sau khi Thổ Nhĩ Kỳ thua trận, các nước chiến thắng lại tranh chấp nhau và vào năm 1913, Bulgaria tấn công Serbia và Hy Lạp trong Cuộc Chiến Balkan thứ hai. Vì bị thua trong cuộc chiến này, Bulgaria bị mất phần đất đã giành được trong cuộc chiến trước.              

Trong Thế Chiến Thứ Nhất, Bulgaria đứng về phe Đức vì hy vọng chiếm lại các phần đất đã mất nhưng đã thất bại. Tới Thế Chiến Thứ Hai, Bulgaria là đồng minh của Đức và Ý. Ngày 8-9-1944, quân đội Liên Xô xâm chiếm Bulgaria và các người cộng sản đã giành được chính quyền. Từ đây, các người dân bị phe cộng sản coi là chống đối đã bị giết, bị gửi đi các trại tù cải tạo, quyền tư hữu của dân chúng bị hủy bỏ, mọi tự do trong xứ bị giới hạn. Năm 1946, lãnh tụ cộng sản Georgi Dimitrov trở nên nhà cai trị xứ Bulgaria. Năm 1947, Bulgaria phê chuẩn Hiến Pháp giống như Hiến Pháp của Liên Xô rồi tới năm sau, 1948, các người cộng sản kiểm soát được hoàn toàn đất nước này. Ông Dimitrov chết vào năm 1949, năm sau ông Vulko Chervenkov lên nắm quyền. Từ năm 1950, nền kỹ nghệ của Bulgaria đã gia tăng nhưng mực sống của người dân xuống thấp dần.              

Năm 1954, ông Todor Zhivkov (1911-   ) trở nên lãnh tụ đảng Cộng Sản và đã cầm quyền từ năm này tới tháng 11-1989. Trong số các lãnh tụ cộng sản Đông Âu, ông Zhivkov là kẻ tham quyền cố vị lâu thứ hai, chỉ đứng sau ông Enver Hoxha của xứ Albania. Ông Zhivkov là lãnh tụ cộng sản đầu tiên bị xét xử công khai vào tháng 9-1992 vì lạm quyền và thâm lạm của công rồi bị kết án 7 năm tù quản thúc. Hai lãnh tụ khác là ông Nicolae Ceausescu bị xử bắn ngay sau một phiên tòa quân sự vào năm 1989 và ông Erich Honecker, cựu chủ tịch Đông Đức, bị kết án vào cuối năm 1992.              

Vào năm 1962, ông Zhivkov trở nên chủ tịch nước Bulgaria, đã theo đường lối thân Liên Xô. Trong thời gian Bulgaria sống dưới chế độ cộng sản, người dân phải chịu đựng mọi thiếu thốn về các nhu yếu phẩm căn bản và các dịch vụ sơ đẳng, khiến cho một số nhân viên chính quyền cộng sản cũng phải căm hờn đường lối bóp nghẹt của Liên Xô. Năm 1965, ông Zhivkov thoát nạn sau một cuộc đảo chính quân sự không thành.              

Tới cuối thập niên 1980, các chính sách cởi mở tại Liên Xô đã ảnh hưởng đến xứ Bulgaria. Vào tháng 10-1989, các nhóm phản đối chính quyền cộng sản đã xuất hiện tại thành phố Sofia nhân một cuộc hội nghị quốc tế về môi trường được tổ chức tại đây, bởi vì sự hiện diện của một số đại biểu ngoại quốc đã khiến cho giới cấm quyền cộng sản phải nhẹ tay trong việc đàn áp. Rồi tới ngày 3-11 năm đó, 4,000 người đã biểu tình trước Quốc Hội, đây là cuộc phản kháng lớn nhất kể từ năm 1947.              

Người dân trong nước Bulgaria đã biểu tình phản đối chính quyền cộng sản Zhivkov, đòi hỏi dân chủ và một số tự do căn bản. Cuộc phản kháng đã bắt đầu từ bên trong nội bộ đảng Cộng Sản, do Bộ Trưởng Ngoại Giao là ông Petar Mladenov. Do áp lực từ Liên Xô, ông Zhivkov phải rút lui khỏi chính quyền vào tháng 11-1989 và ông Mladenov trở nên chủ tịch đảng và chủ tịch nước.  

Từ tháng 1-1990, do các bất mãn từ dân chúng, đảng Cộng Sản bị bớt dần độc quyền và chịu chấp nhận hệ thống chính trị đa đảng. Tháng 4 năm đó, đảng Cộng Sản Bulgaria đổi tên thành Đảng Xã Hội rồi cũng vào tháng 4, Quốc Hội bầu lại ông Mladenov làm chủ tịch nước. Tháng 6-1990, các cuộc bầu cử tự do, đa đảng, được tổ chức lần đầu tiên tại Bulgaria sau 44 năm. Đảng Xã Hội đã chiếm được nhiều phiếu nhất, sau đó là đảng Liên Hiệp Các Lực Lượng Dân Chủ UDF (Union of Democratic Forces). Tới tháng 7, các sinh viên lại biểu tình, phản đối ông Mladenov, họ dựng nên các căn lều trong “Vùng Không Cộng Sản” (a Communist free zone) thuộc thành phố Sofia. Tháng 8-1990, ông Zhelyu Zhelev thuộc lực lượng UDF được Quốc Hội bầu làm Tổng Thống xứ Bulgaria và đây là vị nguyên thủ loại “không cộng sản” đầu tiên, kể từ năm 1944. Từ năm 1991, đảng Cộng Sản Bulgaria tự hủy diệt dần dần.   

Nguồn bài đăng

MỘT TIN MỪNG KHÓ GIỮ


MỘT TIN MỪNG KHÓ GIỮ

Sau lúc đem ra một số lời giáo huấn về đời sống cộng đồng, Chúa đã nhấn mạnh đến bổn phận tha thứ.  Bài Phúc âm tự nó đã rõ ràng.  Tuy thế cũng cần phải nói rõ thêm một vài điều.  Ta biết rằng danh từ “bảy mươi bảy lần” của Phúc âm có nghĩa là vô cùng.  Hơn nữa còn phải đọc thêm dụ ngôn người đầy tớ tàn nhẫn để tìm ra bài học chính yếu mà Chúa Giêsu muốn dạy ta, mà không dừng lại ở các chi tiết của câu chuyện để tìm cho cái chi tiết ấy một ý nghĩa.  Bài học chính yếu để sự tha thứ của loài người liên quan với sự tha thứ của Thiên Chúa.  Các chi tiết của câu chuyện tả lại cho chúng ta một khía cạnh của triều đình Đông phương vào thời Chúa Kitô, nhất là những gì liên quan đến quyền tùy nghi quyết định của nhà vua trên thường dân.  Chúa Giêsu đi từ một sự thực có sẵn trong óc của mọi người để xây dựng câu chuyện và rút ra một bài học: Chúa Cha ở trên trời sẽ hành động giống như ta suy nghĩ và hành động với các anh chị em khác.  Lúc suy nghĩ về sự tha thứ Phúc âm, ta thấy Thiên Chúa có tham vọng nâng chúng ta lên ngang hàng với sự cao cả riêng Ngài.  Sau đây là một vài điểm dùng làm mốc để suy nghĩ.

1) Không nên giam hãm một ai trong sự xúc phạm đã qua.  Khi chúng ta phải tha thứ, thì thường là liên quan đến một sự xúc phạm nằm trong quá khứ.  Nhưng kẻ xúc phạm, tác giả của sự xúc phạm, đang sống trong hiện tại.  Con người ấy trong giây phút hiện tại không cùng là một con người như lúc xúc phạm nữa.  Do đó chúng ta phải nhìn người ấy một cách khác.  Tha thứ là chấp nhận kẻ khác như họ đang sống bây giờ, chứ không phải là xua đuổi họ, như họ đã đối xử trong quá khứ.

2) Người ta sẽ bảo rằng: nếu kẻ ấy lại quay làm thiệt hại ta như trước, nếu kẻ ấy tái phạm ta phải đối xử như thế nào?  Phúc âm trả lời: vẫn tha thứ.  Điều này không có nghĩa là ta khỏi phải đề phòng.  Tuy nhiên Phúc Âm cấm ta không được làm hại họ, hơn nữa lòng ta còn phải đi xa tới chỗ lấy ân đền oán.  Có lẽ sẽ bảo là muốn làm được như thế phải có chí anh hùng.  Thiên Chúa đã hành động với chúng ta như thế nào?  Chúng ta là những người có tội hay sa đi ngã lại mà Thiên Chúa vẫn luôn luôn tha thứ khi có dấu hiệu mảy may là chúng ta hối cải.  Thiên Chúa không ngớt mong muốn điều lành cho chúng ta.

3) Người ta thường nói: tha thứ thì được mà bỏ quên thì không.  Sự tha thứ mới là đối tượng của giới răn chứ đâu phải là sự bỏ quên.  Bỏ quên lỗi của kẻ khác nằm ngoài quyền hạn của ý chí và phải chăng đó là điều đáng mong ước?  Khi chúng ta nhớ lại một ân huệ đã lãnh nhận, chúng ta có thể lợi dụng đó để khơi dậy lòng biết ơn và đó là điều rất tốt.  Khi nhớ lại một sự thiệt thòi đã chịu, chúng ta lợi dụng đó để tha thứ một lần nữa và làm cho sự tha thứ càng lớn mạnh.  Trong cả hai trường hợp trí nhớ có thể giúp chúng ta làm điều thiện.  Khả năng nhớ lại đặt chúng ta gần với tư tưởng của Chúa vì Người thu gọn tất cả quá khứ của thế giới trong cái hiện tại vĩnh viễn nhưng là để yêu mến.

4) Sự tha thứ mà Phúc âm đề xướng là một món quà cho không, ngay cả với những người không xứng đáng.  Điều này cũng có nghĩa là phải cầu nguyện, để kêu cầu ơn Chúa là sức mạnh phi thường và linh thiêng khiến lòng người có khả năng lướt thắng chính mình, đến nỗi thực hiện được những công việc quá sức loài người.

Achille Degeest (Trích trong “Lương Thực Ngày Chúa Nhật”)

***********************

Hãy tha thứ

Tha đi anh.

Hãy để sự hiềm khích và báo thù cho người hèn mọn.

Vết thương và nọc độc của lời hằn thù

Không xứng với con cái Ánh sáng…

Tha đi anh.

Hãy tìm sự cao thượng, tha thứ là đó.

Tìm sự cao thượng, là sống với đại nhân:

những người có lòng quảng đại,

những người có tư cách và can đảm. 

Hãy tha thứ,

Hãy để mạch nước hằng sống tuôn trong anh,

để nước chảy và rửa để luyện lòng trí anh.

Như vậy, anh sẽ được bình an.

Như vậy, nắm tay anh sẽ dịu dần

Và anh sẽ thấy tay anh mở ra

để gặp gỡ và tha thứ. 

Một tay có thể mang gánh nặng của người khác ,

Một tay có thể gạt lệ người khiêm tốn,

Một tay thắm đượm tình anh em,

Tay con người đưa để bắt tay nhau

Và giống tay Chúa. 

Hiền Hoà chuyển dịch

Venezuela – Ảo tưởng của nền kinh tế Xã hội Chủ nghĩa

Venezuela – Ảo tưởng của nền kinh tế Xã hội Chủ nghĩa

 

Venezuela trong những ngày đầu mùa thu thực sự nằm trong mớ hỗn loạn, không thể kiểm soát. Thị trường thiếu hụt trầm trọng lương thực, nhu yếu phẩm, những đoàn người xếp hàng trước cửa các siêu thị trống trơn; lạm phát phi mã; giết người, cướp bóc, tội phạm tăng vọt; các cơ sở y tế cạn kiệt thuốc men; tỷ suất tử vong tăng vọt cả ở người lớn lẫn trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh,…

khung hoang venezuela
(Ảnh minh họa qua: hamptoninstitution.org)

Kết cục thảm hại của nền kinh tế này đã được các nhà kinh tế học dự đoán từ nhiều năm trước, ở thời điểm mà giá dầu còn đang cao ngất ngưởng và đang mang lại cho Venezuela hàng núi ngoại tệ.

Những chính sách kinh tế thiển cận của Tổng thống tiền nhiệm Hugo Chavez và được thiết kế bởi Tổng thống đương thời Nicolas Maduro đã khiến Venezuela chết mòn trong nhiều năm, để rồi đẩy đất nước này rơi vào tình trạng khủng hoảng không lối thoát.

Venezuela từng là một quốc gia phồn thịnh nhất Nam Mỹ

Venezuela, một đất nước có nguồn tài nguyên khoáng sản vô cùng phong phú như kim cương, bauxite, vàng, nickel, khí đốt gas tự nhiên và đặc biệt là dầu mỏ và có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển các ngành sản xuất. Đất nước này là thành viên của OPEC và là quốc gia từng có thế lực xếp trên nước Nga về ảnh hưởng dầu khí trên thị trường giao dịch Commodities.

Cho đến đầu thập niên những năm 80, Venezuela vẫn là một trong bốn nước thuộc khu vực Mỹ Latin được đánh giá là nước có thu nhập cao (an upper-middle-income economy). Trong giai đoạn 1960-1980, GDP bình quân đầu người của Venezuela đã tăng 82%. Cũng trong thời gian này, Venezuela là một đất nước ổn định với nền dân chủ tả khuynh và ít bị ảnh hưởng xáo trộn chính trị so với các nước trong khu vực Mỹ Latin – nơi mà chủ nghĩa độc tài quân phiệt lên ngôi, sự bất ổn và các cuộc nội nổi loạn thường diễn ra.

Hugo Chavez cùng học thuyết Chavismo đã giết chết Venezuela như thế nào?

Chế độ Chavez bắt đầu từ năm 1998 khi ông đắc cử Tổng thống với tỷ lệ phiếu bầu 56,4%. Việc đầu tiên ông Chavez hướng tới sau khi đắc cử là sửa đổi Hiến pháp theo hướng kéo dài nhiệm kỳ, tập trung quyền lực, là mô hình kiểu mẫu cho sự độc tài, toàn trị.

Thực hiện các chương trình xã hội thu hút sự ủng hộ của người nghèo

Song song với việc đó, ông đưa ra các chương trình xã hội hướng tới đại bộ phận dân nghèo như trợ cấp y tế, thuốc men, nhà ở thu nhập thấp, giáo dục miễn phí,… Các chương trình xã hội này trên thực tế đã làm giảm thiểu đáng kể tỷ lệ đói nghèo của Venezuela, và kéo một bộ phận lớn dân nghèo ủng hộ chính quyền Chavez.

Tôn giáo ở Venezuela

ton giao o Venezuela
(Đồ họa: Trí thức VN)

Nhưng đáng tiếc, dường như đây chỉ là cái cớ để Chavez tiến một bước xa hơn, đó là việc tước đoạt quyền sở hữu tư nhân, hợp thức hóa bằng mỹ từ “quốc hữu hóa”, “sở hữu toàn dân”. Những mỹ từ này và chương trình phúc lợi đã thuyết phục nhiều người ủng hộ chính sách “quốc hữu hóa” bởi việc giúp họ được hưởng lợi từ khối tài nguyên quốc gia.

Quốc hữu hóa, đuổi các nhà đầu tư nước ngoài, kiểm soát mọi nguồn thu

Để chu cấp cho các chương trình xã hội tốn kém, Chavez từng bước kiểm soát các nguồn thu quốc gia, trực tiếp điều hành tất cả các hoạt động kinh tế theo hướng tập trung.

Bước đầu khi lên nắm quyền, Chavez thực thi chính sách ngừng sở hữu tư nhân các công ty dầu mỏ,  trục xuất các nhà đầu tư ngoại quốc, tập trung quyền
khai thác về cho Công ty Dầu khí Quốc gia (PDVSA) để nhà nước có thể điều hành trực tiếp nguồn thu dầu mỏ.

Dưới sự điều hành của Chính phủ, hoạt động khai thác dầu mỏ trở nên kém hiệu quả, dẫn đến sản lượng suy giảm, chi phí tăng cao.

Năm 1998, Venezuela khai thác được 3,3 triệu thùng dầu/ngày nhưng tới năm 2012 chỉ còn 2,4 triệu thùng/ngày. Bên cạnh đó, ngành dầu khí không được tái đầu
tư, công nghệ, máy móc cũ nát, giá thành đội lên. Khi giá dầu thấp xuống mức trên 25 USD/thùng, Venezuela phải đương đầu với khó khăn vô cùng lớn vì giá thành khai thác đã rất cao.

 Thu hẹp thành phần kinh tế tư nhân, thu hẹp ngành nghề sản xuất

Nhiều thành phần kinh tế dần dần biến mất trên cơ cấu nền kinh tế Venezuela khi hàng loạt ưu đãi cho khối doanh nghiệp nhà nước. Sau khi chính phủ quốc hữu hóa các ngân hàng thương mại thì khu vực doanh nghiệp tư nhân phải chịu lãi suất vay cao hai chữ số (tới 82% năm 2002) trong khi doanh nghiệp nhà nước được vay với mức lãi suất gần như zero.

Nền kinh tế Venezuela phải nhập cảng gần như hoàn toàn hàng hóa để phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước. Từng là một nước nông nghiệp, có đất đai trù phú, thiên nhiên ưu đãi, nhưng nông nghiệp dưới thời Chavez càng ngày càng thu hẹp. Venezuela không thể tự nuôi sống mình, lương thực phụ thuộc hoàn toàn bên ngoài. Sản lượng nông nghiệp năm 2012 chỉ chiếm 3% GDP.

Cơ chế phân phối sản phẩm tập trung, nuôi dưỡng tham nhũng, nhóm lợi ích

Các chương trình xã hội tốn kém, các cơ sở sản xuất bị quốc hữu hóa, phương thức phân phối sản phẩm xã hội tập trung là mảnh đất tuyệt vời nuôi dưỡng tham nhũng. Gia đình, họ hàng của Chavez, của các quan chức chính phủ xuất hiện tại mọi vị trí béo bở của nền kinh tế. Ước tính tham nhũng đã lấy đi ít nhất 15% thu nhập quốc gia này.

Liên tục phá giá đồng tiền không theo quy luật cung cầu

Dựa hoàn toàn vào nguồn thu ngân sách bấp bênh từ dầu mỏ, nhưng chi tiêu chính phủ không ngừng gia tăng. In thêm tiền là biện pháp chính quyền thường xuyên làm khi ngân khố kiệt quệ.

Đồng boliviar liên tục bị phá giá. Năm 2010, 1 USD trị giá 8 đồng bolivar và tỷ giá chợ đen ngày 1/8/2017 đã là 12,191 đồng bolivar/USD.

Lạm phát với tốc độ phi mã khiến không ai dám giữ đồng bolivar, không ai dám sản xuất gì để cung cấp cho thị trường nội địa. Bởi lẽ, đồng tiền cầm trên tay có thể mất ngay giá trị chỉ sau một đêm. Tiền bán hàng chẳng đủ để mua nguyên vật liệu đầu vào.

Kích thích sản xuất và xử lý lạm phát bằng các mệnh lệnh hành chính:

Nhằm kích thích các doanh nghiệp sản xuất và nhập cảng hàng hóa, Tổng thống đương thời Maduro chọn lọc ra một số công ty để cung cấp vốn ngoại tệ với mong muốn là họ sẽ dùng ngoại tệ này tiếp tục nhập cảng hàng hoá.

Nhưng lợi ích – chi phí riêng tư mới là động lực của nhà kinh doanh. Thay vì nhập hàng để bán theo mức giá nhà nước quy định và chắc chắn sẽ bị lỗ, họ đem đô la ra thị trường chợ đen bán kiếm lời.

Còn đối phó với tình trạng lạm phát, Chính phủ thay thế vai trò của Ngân hàng Trung ương tuyên bố “không có lạm phát.” Kể từ năm 2015, Venezuela đã ngừng tuyên công bố tỷ lệ lạm phát trên các phương tiện truyền thông đại chúng.

Nhưng lạm phát đã trở thành siêu lạm phát (hyperinflation) với tốc độ phi mã lên tới 3 chữ số. Những biện pháp quản lý kinh tế bằng mệnh lệnh cũng hình thành quan hệ “xin – cho” và đi kèm là vấn nạn tham nhũng.

Chạy theo chính sách đối ngoại cực đoan

Không chỉ dừng lại ở chính sách kinh tế cực đoan, Chavez còn chạy theo những đường lối đối ngoại cực đoan.

Cùng với đồng minh là Cuba, Venezuela tham vọng trở thành lãnh đạo khối châu Mỹ La tinh với ý thức hệ Cộng Sản Chủ Nghĩa cuối mùa tạo nên thế lưỡng lập với các quốc gia trong thế giới Tự Do mà chính sách toàn cầu hoá (globalization) đang khai mở các nền dân chủ nhân bản hơn tại các nước trong thế giới thứ ba bằng các hiệp định kinh tế (WTO, APEC, v.v…) thuận lợi hơn trong việc sản xuất và xuất cảng hàng hoá và dịch vụ.

Tư tưởng này trở nên cực đoan hơn ở thời kỳ Maduro khi gần đây Venezuela tuyên bố rời bỏ hoặc bị loại khỏi hầu hết các khối liên kết kinh tế đã tham gia nhiều năm như OAS, Mercosure,…

Venezuela của ngày hôm nay

Venezuela của ngày hôm nay đang trong khủng hoảng nghiêm trọng. Giới chuyên gia nhận định, mức độ suy thoái của Venezuela còn lớn hơn cả Hy Lạp vào thời điểm khủng hoảng đỉnh cao về đồng Euro. Đây là mức khủng hoảng lớn hơn cả khủng hoảng Mỹ (1929-1933), hơn khủng hoảng của Nga (1990-1994), Cuba (1989-1993), và Albania (1989-1993).

GDP của Venezuela sụt giảm 35% so với thời điểm 2013, GDP trên đầu người giảm 40% còn hơn 4000 USD, bằng mức trước những năm 1980. Tại thời điểm năm 2014, GDP được Ngân hàng Thế giới (WB) kiểm kê tính toán là 509,97 tỷ USD, đến năm 2015 thì sụt giảm chỉ còn 239,50 tỷ USD (giảm đi 270,47 tỷ USD). Đến năm 2016 ước lượng GDP là 333,7 tỷ USD; trong khi GDP (PPP) theo sức mua tương đương là 468,6 tỷ USD.

Lạm phát cao phi mã ngất ngưởng, ước tính 1.600% vào cuối năm 2017. Lạm phát phi mã đã làm giảm 79% giá trị thực tế của khoản tiền trong hệ thống ngân hàng từ 41 tỷ USD xuống còn 3,3 tỷ USD, nếu tính theo tỷ giá thị trường chợ đen. Đồng bolivar hiện không còn được chấp nhận giao dịch trên thị trường New York, London, Tokyo, Hồng Kông, hay Nam Mỹ nữa.

Trái phiếu của Venezuela từng có giá ở cấp mức AAA (Moody’s đánh giá năm 1976), và cấp mức AA (S&P đánh giá vào năm 1977-1982), nhưng nay thì bị xếp hạng Caa3 (CCC-) cho đến CCC và không còn khả năng đi vay trên thị trường tài chính. Lãi suất trái phiếu dài hạn khoảng 20% nhưng lãi suất ngắn hạn lại lên tới 70-80%.

Dự trữ ngoại tệ của Venezuela chưa đến 11 tỷ đôla, tài sản dễ bán (hoán chuyển thành tiền mặt) chỉ chiếm khoảng 1/5. Dự trữ vàng nay chỉ còn 187,5 tấn (thời kỳ cao nhất lên đến 373 tấn vàng hồi quý IV năm 2011).

Venezuela hiện là quốc gia nợ nần nhiều nhất thế giới bởi không có quốc gia nào có khoản nợ lớn hơn cả GDP, hơn cả kim ngạch xuất nhập khẩu.
Và đáng buồn hơn, lượng dầu thô (dễ khai thác) của Venezuela có thể đã cạn phân nửa do bị khai thác quá mức để trả nợ và tài trợ thiếu hụt ngân sách. Sản lượng dầu khai thác của quốc gia này đã giảm 10% vào năm ngoái và không có khả năng tăng trong 2017. Sản xuất dầu thô giảm 17% so với năm 2013, nếu tính thêm yếu tố giảm giá thì mức giảm tương đương với 2200 USD/ người/năm. Doanh thu từ thuế phi dầu mỏ năm 2016 giảm 70% theo giá trị thực so với năm 2012 và năm 2016.

Nền kinh tế sụp đổ kéo theo mức sống người dân cũng suy sụp đổ theo. Lương thực, nhu yếu phẩm thiếu thốn trầm trọng. Trong hệ thống phân phối của nhà nước, các kệ hàng trống trơn. Chợ đen phát triển như nấm nhưng người dân chẳng có tiền để mua. Lương thực tế đã giảm từ 265 USD/tháng xuống chỉ còn 36 USD/ tháng. Thiếu lương thực, thuốc men khiến người dân Venezuela giảm cân trung bình 8,7 kg/người, số bữa ăn trung bình cũng giảm 30-50%. Tỷ lệ tử vong ở người lớn tăng 10 lần và trẻ sơ sinh là 100 lần.

Trong khi đó bạo lực và bạo động tiếp tục gia tăng. Hàng trăm người đã chết trong các cuộc biểu tình từ đầu năm. Tỷ lệ giết người ở Venezuela đứng thứ hai thế giới (90 người bị sát hại/100.000 dân), chỉ sau El Salvador. Theo đánh giá của tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI), Venezuela cũng là quốc gia tham nhũng nhất Châu Mỹ.

Kết quả gần 20 năm cầm quyền, Hugo Chavez, sau này là Nicolas Maduro đã để lại di sản là một đất nước Venezuela yếu ớt, què quặt trong tình trạng hỗn loạn, tham nhũng, cướp bóc, bạo lực, lực lượng lao động ỷ lại, luôn trong tâm thế thù địch với phần còn lại của thế giới.

Tâm Như – Liên Hương

Bước đường cùng!

Bước đường cùng!

Tạp ghi Huy Phương

August 20, 2017

Một người homeless ở góc đường Bolsa- Brookhurst, Little Saigon. (Hình Huy Phương)

“Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!”(Kiều)

Một đài phát thanh địa phương vừa mở ra chương trình hội thoại với gợi ý “hiện nay, vùng Little Saigon nhếch nhác vì có quá nhiều người không nhà mang bảng “homeless” đứng ở các góc đường, như vậy có nên cho tiền những người này không?”

Khoảng 80% thính giả gọi vào đều lên án những người này là chây lười, hút xách, cờ bạc, rượu chè, trộm cắp… và đi đến kết luận là nhất định không cho tiền những người này. Không cho tiền họ thì “tệ nạn” này sẽ chấm dứt, cho tiền là khuyến khích những người này tiếp tục “xuống đường” tạo nên một hình ảnh không đẹp mắt cho thủ đô tị nạn Little Saigon này.

Tôi thật xót xa khi điều này làm tôi liên tưởng đến các bà nội trợ thường căn dặn con cái, thu vén thực phẩm ngoài vườn để tránh chuyện ban đêm chuột ra ăn, thức ăn nhiều thì chuột càng sinh sôi nảy nở kéo nhau đến đây càng nhiều.

Nhiều người nghĩ đến mỹ quan của khu phố Little Saigon, nơi có hàng trăm nghìn người Việt, vì nếu hôm nay chúng ta thấy nhiều người không nhà hiện diện ở đầu đường thì chúng ta cảm thấy “mất mặt” chăng?

Trước hết, sở dĩ vùng Little Saigon càng ngày càng có nhiều người không nhà, đủ sắc dân đến đây đứng ở chỗ đèn xanh đèn đỏ, hay trước những khu chợ Việt Nam, ngửa bàn tay ra xin bố thí, vì họ nghĩ rằng cộng đồng người Việt mình dễ dãi, có lòng trắc ẩn, biết thương người nên họ có thể kiếm được chút tiền hơn là những khu vực khác.

Người Việt lại có tình đồng hương, biết đùm bọc nhau và người nghèo lại thường sĩ diện không dám chường mặt ra đứng đường, thậm chí cũng không dám chen chân đến chỗ Home Depot đợi người thuê mướn để sống tạm qua một ngày. Vậy mà trong một phóng sự mới đây trên trang địa phương báo Người Việt chúng ta lại thấy nhiều người Việt tỏ ra kỳ thị người Việt, nói rằng gặp người Việt đứng đường là họ nhất quyết không cho tiền.

Nước Mỹ cũng chưa phải là một đất nước hoàn hảo, cũng có kẻ sướng, người khổ, có băng đảng trộm cướp, nhưng cảnh sát chưa bao giờ nghĩ đến chuyện bài trừ, bắt bớ, nhốt tù những người không nhà đứng đường cho “đẹp mặt” xã hội của họ, trong khi chính phủ chưa đem lại sự no ấm cho tất cả mọi người. Ngay những người con yêu ưu tú của đất nước là những cựu chiến binh trở về từ những chiến trường xa nước Mỹ, trong đó có Việt Nam của chúng ta, chính phủ cũng bất lực chưa giải quyết nỗi cho đời sống của họ, để họ phải ra nằm đường.

Một sự thật phũ phàng, là theo một thống kê mới nhất, nước Mỹ hiện nay có 49,933 người vô gia cư là cựu chiến binh, chiếm 8.6% tổng người không nhà ở Mỹ.

Nhiều người nói nước Mỹ là một đất nước có chương trình an sinh xã hội tốt để giúp người nghèo có housing, thực phẩm, thuốc men, nên không ai chết đói. Nếu như vậy thì đã không có người xuống đường ăn xin như chúng ta đã thấy. Chúng ta thử hỏi một viên chức xã hội, nếu chúng ta không có một cái địa chỉ nhà, không có điện thoại, không có nổi một thẻ căn cước… chúng ta có đủ tiêu chuẩn để xin trợ cấp xã hội hay không?

Chúng ta sợ khuôn mặt khu phố của chúng ta mất vẻ mỹ quan khi có nhiều người homeless hiện diện trên đường, trong khi chúng ta cũng muốn che dấu đi những tệ nạn trong cộng đồng: gian lận, lường gạt, bội tín, trộm cắp… mà không muốn cho ai biết.

Chúng ta lấy cái đạo đức tốt đẹp, may mắn của cô con gái nhà lành để lên án những thiếu nữ sa chân vào vũng bùn dơ. Những người vô gia cư đã khởi đầu những bước đi như chúng ta, lương thiện, có học hành, có bằng cấp, có một mái ấm gia đình, có người còn được gọi là những anh hùng, nhưng giờ đây bị lâm vào hoàn cảnh rủi ro khắc nghiệt phải cầm tấm bảng homeless ra đứng đầu đường.

Có những người Việt Nam đã đến Mỹ, nuôi giác mộng bình an, hạnh phúc như chúng ta, nhưng rồi bị số phận vật ngã, không gượng đứng dậy được, bị dòng nước định mệnh cuốn trôi, chúng ta lấy tư cách gì để lên án họ.

Có người than phiền bị những người vô gia cư lừa, như chuyện lấy cùng một lý do nào đó để than khổ và sau đó lập lại chuyện đó với một người khác, nhưng nếu chúng ta so sánh một kẻ cùng đường lừa bạn $5, với một bậc khoa bảng, có nhà bạc triệu trên đồi, có xe hơi lộng lẫy, lừa bạn qua một dịch vụ chuyên môn bạc nghìn, thì ai đáng lên án hơn ai?

Cũng có người yêu cầu giao tiền cho các tổ chức cộng đồng, tổ chức tôn giáo chứ không trao cho những người vô gia cư. Nhưng chúng ta nghĩ xem, cả hai cộng đồng người Việt ở đây đã có kế hoạch nào giúp đồng bào chưa? Chúng ta bỏ thùng “công đức” mỗi ngày rằm, mồng một, góp tiền cho nhà thờ, nhưng có nhà thờ hay ngôi chùa nào đêm nay mở cửa cho những người homeless vào ngủ qua đêm chưa? Có những chủ khu phố đổ dầu nhớt hay đóng đinh nhọn trước cửa tiệm mình để tránh những người không nhà đến ngủ. Liệu cái cộng đồng giàu có, xe cộ, phố xá nhộn nhịp, mang ơn nước Mỹ này đã giúp gì cho những kẻ bần cùng của xã hội này chưa? Liệu một vài tháng, mời người không nhà đến ăn một tô phở hay một bữa cơm chay đã đủ gọi là biết “chia cơm, xẻ áo” cho người khác chưa?

Liệu bạn có đồng ý cho một người homeless bẩn thỉu, hôi hám xin dùng phòng vệ sinh cửa tiệm hay nhà bạn, nói gì chuyện tắm rửa. Vậy trách gì họ râu tóc, áo quần hôi hám, bẩn thỉu! Và nếu họ có đủ tiền, muốn ăn một tô phở, là chủ tiệm bạn có vui lòng mời họ vào tiệm như đã tiếp đón những người khách lành lặn, sang trọng hay không?

Đứng trước một người vô gia cư đang cầm cái bảng “I’ll Work For Food,” có lẽ chúng ta cũng chẳng cần biết họ là ai, lý do để họ trở thành homeless, mà ngay lúc đó họ đang cần một đô la. Cho họ một đô la chúng ta không nghèo đi chút nào, mà người bất hạnh kia cũng không giàu có hơn lên, nhưng có điều chắc chắn, là cả hai, lòng người cho và người nhận đều cảm thấy vui.

Một phóng viên báo chí có làm một cuộc điều tra cho biết những người homeless đứng đầu đường kiếm “khá bộn” tiền vì sự hảo tâm của người qua đường. Khá bộn là bao nhiêu sau những giờ chạy lui chạy tới trên những giải phân cách giữa hai con đường xuôi ngược?

Bạn có dịp nào để đến thăm một khu tập trung những người vô gia cư chưa? Họ dựng lều hay kiếm băng đá góc cây, đắp trên mình một tấm bạt nhầu nát, cạnh mỗi người là một chiếc xe đẩy hàng lấy từ các siêu thị, chất đầy “gia tài,” chăn chiếu, áo quần, thức ăn, ve chai lọ.

Hoàng tử William của nước Anh đã có lần “vi hành,” trà trộn sống thử 24 tiếng đồng hồ với những người homeless để hiểu đời sống của họ ra sao. Ông có cái cảm giác sợ hãi, bất an, suốt đêm không ngủ. Có trò chuyện với họ anh mới thấu hiểu được cái khổ của đói lạnh, và sự nguy hiểm rình rập, chưa kể nỗi đau tinh thần, bệnh tật không có thuốc men. Những người khốn khổ này rất dễ dàng đi vào con đường nghiện ngập ma túy hay rượu, những chuyện có thể giúp họ quên đi số phận phiền não của mình.

Lên án người thì dễ, nhưng mở lòng cưu mang giúp đỡ họ mới là khó.

From : Do Tan Hung & Nguyen Kim Bang

CÂU TRUYỆN TRẺ CON DI DÂN LẬU

CÂU TRUYỆN TRẺ CON DI DÂN LẬU

…Không ai có thể vào nước Mỹ bất hợp pháp rồi đòi được hợp thức hoá vì lý do nhân đạo…

TT Trump hôm tuần rồi đã ra quyết định chấm dứt chương trình DACA.

DACA, viết tắt từ “Deferred Action for Childhood Arrivals” là danh từ văn hoa của chương trình chấp nhận những trẻ em vị thành niên, di dân lậu, hầu hết bị bố mẹ là dân Trung Mỹ hay Nam Mỹ, đẩy qua Mỹ qua ngã biên giới Mễ, làm “mỏ neo” để ở lại Mỹ, rồi sau đó có thể lấy lý do đoàn tụ gia đình, bảo lãnh cho cả gia đình qua Mỹ theo. Đây là chương trình của TT Obama tung ra tháng 6/2012 qua một sắc lệnh của Hành Pháp, không thông qua quốc hội, đúng vài tháng trước bầu cử tổng thống tháng 11/2012, với mục tiêu lộ liễu là thu hút phiếu dân Mỹ La-Tinh.

Trên căn bản, theo DACA, việc trục xuất các trẻ em di dân lậu được “hoãn lại” (deferred) nếu chúng làm đơn xin ở lại và được chấp nhận. Chúng sẽ được ở lại hợp pháp trong thời gian hai năm, có quyền đi làm, hưởng trợ cấp,… Chương trình này áp dụng cho tất cả trẻ em đến Mỹ khi còn dưới 16 tuổi, đã ở Mỹ liên tục từ giữa năm 2007, đang đi học, có việc làm, hay ở trong quân đội Mỹ. Sắc lệnh đã giúp cho khoảng 800.000 trẻ em vị thành niên di dân lậu tránh không bị trục xuất về nguyên quán. Trong số đó, có khoảng 200.000 đang sinh sống tại Cali, 100.000 tại Texas, số còn lại phần lớn tại New York, Illinois, và Florida. Những đứa trẻ phạm tội nặng, lãnh án, không được chấp nhận và có thể bị trục xuất, và cho đến nay, chỉ có khoảng 3.000 đứa bị bác tuy không ai rõ bao nhiêu đã bị trục xuất.

Thời hạn hai năm được gia hạn gần như tự động mỗi khi hết hạn, vô hạn định. Do đó, DACA trên thực tế chỉ là hình thức ân xá trá hình.

TT Obama biết rõ quyết định ân xá trá hình này sẽ không thể được quốc hội thông qua vì cả hai khối CH và DC đều sẽ chống. Ông bèn né quốc hội, ra sắc lệnh. Quyết định của TT Obama bị ngay khối CH cũng như những chuyên gia Hiến Pháp và các quan tòa chỉ trích. Nhưng không ai dám thưa kiện gì vì ở xứ Mỹ này, trẻ em là húy kỵ không ai dám đụng tới.

TT Obama tưởng cách này xài được, năm 2014, ra thêm một sắc lệnh hoãn trục xuất tương tự, áp dụng cho di dân thành niên. Vì áp dụng cho người lớn không còn húy kỵ nữa nên bị ngay vài tiểu bang kiện, rồi bị một tòa liên bang, một toà phá án liên bang và cả Tối Cao Pháp Viện phán là vi Hiến và không được thi hành.

Hiến Pháp Mỹ ghi rất rõ rệt, được xác nhận qua nhiều vụ kiện, chỉ có quốc hội mới có quyền ra luật về di dân, tổng thống không có quyền. Ở đây, phải nói cho rõ, sắc lệnh của TT Obama trên thực tế là một luật mang tính vĩnh viễn bị TCPV bác. Khác xa với sắc luật về di dân Trung Đông của TT Trump, chỉ là một biện pháp tạm thời có hiệu lực ba tháng trong khi chờ đợi thủ tục mới, được TCPV chấp nhận 9-0.

TT Trump bây giờ ra quyết định chấm dứt việc nhận đơn xin vào chương trình DACA ngay tức khắc, nhưng chấp nhận cho những người đang hưởng quy chế hoãn được tiếp tục hưởng quy chế đó cho đến ngày hết hạn, những người mà quy chế hoãn trục xuất sẽ hết hạn từ Tháng Chín này tới Tháng Ba 2018 có một tháng ngay từ bây giờ tới 8 tháng 10, 2017 để xin triển hạn thêm hai năm nữa. TT Trump ấn định hạn kỳ sáu tháng cho quốc hội tìm ra giải pháp hợp hiến giải quyết dứt khoát và trọn vẹn vấn đề, nếu không thì ông có thể sẽ ra sắc lệnh tối hậu chấm dứt hay gia hạn DACA.

Những người chống TT Trump chằm hăm tìm lý cớ đả kích đã chộp lấy cơ hội để sỉ vả Trump lấy quyết định “tàn ác” có hậu quả trục xuất đám trẻ này, mà cố ý lờ đi quyết định của TT Trump chỉ mang ý nghiã tạm hoãn, có giá trị sáu tháng trong khi chờ đợi quốc hội lấy quyết định tối hậu, và cho dù hết hạn hoãn, vẫn không ai bị trục xuất ngay.

Quyết định này hiển nhiên là giải pháp có tính dung hoà hai ý kiến cực đoan, không chấm dứt ngay và trục xuất hết đám trẻ này, nhưng cũng không duy trì sắc lệnh bất hợp pháp DACA. TT Trump cũng bán cái cho quốc hội để nếu quốc hội không giải quyết được thì sẽ khó đổ lỗi cho ông khi ông ra sắc lệnh tối hậu.

 Cũng phải nói rõ là TT Trump không phải có toàn quyền chấm dứt hay duy trì DACA tùy hỷ.

Thứ nhất, sở dĩ TT Trump phải lên tiếng ngày thứ ba vừa qua vì đó là thời hạn cuối do 10 tiểu bang ấn định (Arkansas, Alabama, Idaho, Kansas, Louisiana, Nebraska, South Carolina, Tennessee and West Virginia, với Texas cầm đầu). Nhóm tiểu bang này đe dọa sẽ khởi kiện chính quyền liên bang về sắc lệnh DACA vào ngày thứ ba nếu TT Trump không thu hồi sắc lệnh đó.

Các chuyên gia đều biết có nhiều triển vọng tòa sẽ ra lệnh thu hồi ngay sắc lệnh DACA vì bất hợp Hiến giống như sắc lệnh năm 2014. Chính vì vậy mà chính quyền Trump đã giải thích quyết định của TT Trump có tính nhân đạo phần nào để giúp mấy đứa trẻ được ở lại, vì nếu ông không quyết định như vậy, các tiểu bang sẽ khởi kiện, tòa có thể chấm dứt ngay DACA và tất cả gần một triệu đứa trẻ có thể bị trục xuất ngay. Tuy nhiên, hiện nay, chưa ai rõ các tiểu bang có chấp nhận quyết định của TT Trump và sẽ khởi kiện hay không.

Thứ nhì, từ nhiều năm trước, trước khi tranh cử, ông Trump đã nhiều lần lên tiếng kêu gọi chấp nhận cho đám trẻ đó ở lại vì lý do nhân đạo. Nhưng đến khi tranh cử thì bị áp lực của khối cử tri cực hữu của ông, nên phải hứa sẽ thu hồi DACA, dù trong thâm tâm, ông có ý muốn ân xá đám trẻ. Bây giờ, ông phải trực diện với thực tế, vật lộn với hai chiều hướng trái ngược này, phải lựa chọn giữa quyết định gia hạn tức là gián tiếp ân xá chúng, hay chấm dứt tức là trục xuất hết đám trẻ con này. Một lần nữa, TT Trump khám phá ra vấn đề không giản dị và dễ nói như khi đi tranh cử.

TT Obama khi tranh cử cũng y chang, hứa ân xá hết trong năm đầu. Trực diện với thực tế, trong 8 năm, kể cả hai năm đầu khi cả Thượng Viện và Hạ Viện đều nằm trong tay DC, ông đã không làm gì hết, ngoại trừ ra một sắc lệnh bất hợp Hiến.

Nan đề di dân là khúc xương khó nuốt nhất của nước Mỹ hiện nay. Chỉ vì tuyệt đại đa số dân Mỹ chống lại việc ân xá di dân lậu trong khi không thể nào trục xuất hết hơn một chục triệu người đó.

Như cột báo này đã trình bày, vấn đề di dân lậu có những chuyện “râu ria” ngoài lề rất nhức đầu. Ngoài vấn đề nhân đạo, còn những chuyện tuân thủ luật lệ quốc gia, phiếu cử tri trong các vụ bầu bán địa phương, nhu cầu kinh tế khi di dân lậu là nguồn nhân lực rẻ tiền quan trọng nhất trong các ngành canh nông và dịch vụ của vài tiểu bang miền Tây, những vấn đề phạm pháp, rồi những vấn đề tài chánh (ai trả tiền?) như gia cư, trợ cấp, phiếu thực phẩm, giáo dục, bảo hiểm y tế, …

Một yếu tố phải nói là cực kỳ quan trọng mà phe cấp tiến cũng như TTDC đã không đủ lương thiện để bàn tới, là gần một triệu thanh niên DACA này cũng là gần một triệu phiếu cử tri đi bầu bán trong tương lai, chưa nói đến bạn bè, thân hữu, bà con của chúng, rồi mai sau này, đám con cháu của chúng. Một nhân mười hay hai chục, tức là một triệu đứa trẻ sẽ thành một chục hay hai chục triệu cử tri. Đảng DC loay hoay muốn ân xá để thu hút phiếu dân gốc Nam Mỹ, thay thế phiếu dân da trắng trung lưu và lao động mà đảng này đang mất. Đảng CH dĩ nhiên tìm mọi cách ngăn cản. Đây mới là mấu chốt thực sự của nan đề di dân, chứ ba cái ông bà chính khách nói chuyện nhân đạo hay tàn ác chỉ là chuyện vớ vẩn che mắt thiên hạ.

Trong quốc hội, dĩ nhiên là tất cả dân biểu, nghị sĩ DC đều chống lại việc chấm dứt chương trình DACA. Phe này, khuyến khích bởi TT Obama, đã xúm lại tố thu hồi DACA là một hành động vô nhân đạo và tàn ác.

Bên CH, một vài nghị sĩ và dân biểu CH của những tiểu bang nhiều dân gốc Nam Mỹ như Cali và Arizona, phản đối quyết định của TT Trump cũng vì lý do sợ mất phiếu cử tri gốc Nam Mỹ. Nhóm cực hữu trong CH chỉ trích TT Trump không dứt khoát chấm dứt DACA ngay. Đại đa số không lên tiếng, tức là gián tiếp chấp nhận quyết định thu hồi DACA của TT Trump.

Một khối không nhỏ, cầm đầu bởi chủ tịch Hạ Viện Paul Ryan không muốn TT Trump lấy quyết định liên quan đến chương trình này, với lý do hoàn toàn khác xa đòi hỏi ân xá trọn vẹn của DC. Họ coi chương trình DACA như một sự lạm quyền của Hành Pháp Obama, do đó, bây giờ không muốn TT Trump bắt chước, lấy một quyết định mà không qua quốc hội, do đó, muốn TT Trump không đụng đến quyết định của TT Obama, trao lại quyền quyết định chấm dứt hay duy trì DACA cho quốc hội, để quốc hội quyết định trong khuôn khổ một luật quy mô giải quyết nan đề di dân lậu một cách trọn vẹn và lâu dài.

Khối này hiện nay đã chấp nhận quyết định của TT Trump vì trên căn bản TT Trump chấp nhận ý kiến của họ, trao cho quốc hội trách nhiệm giải quyết trọn gói vấn đề một cách hợp Hiến, có nghiã là ông sẵn sàng chấp nhận mọi giải pháp của quốc hội, cho dù là ân xá hay trục xuất, tuy cũng là một cảnh báo quốc hội chỉ có tối đa sáu tháng thôi.

Có thể sáu tháng quá ngắn khi ta thấy ba đời tổng thống từ Clinton đến Bush con và Obama đã không có giải pháp cho vấn nạn di dân lậu, nhưng đây là quyết định khôn ngoan nhất của TT Trump: bán cái cho quốc hội, nếu quốc hội không làm được thì ông mới ra tay, khi đó đừng trách ông đấy!

Một tin hành lang mới xuất hiện: CH đang thăm dò ý kiến biểu quyết sắc lệnh DACA thành luật hợp pháp vĩnh viễn nếu phe DC chấp nhận chi tiền xây tường biên giới để cản di dân lậu trong tương lai.

Lập luận chính của phe bênh vực DACA là mấy đứa trẻ vô tội này là những đứa mê nước Mỹ, chạy qua Mỹ vì coi nước Mỹ như một thiên đàng trong mộng (phe ta gọi chúng là “dreamers”), đã và đang đóng góp tích cực cho xứ này. TTDC dẫn chứng vài trường hợp đáng phục về sự thành công cá nhân của vài thanh niên thuộc thành phần DACA.

Nói mấy đứa trẻ 6-7 tuổi liều mạng bỏ gia đình chạy qua Mỹ vì mê xứ Mỹ nghe ngớ ngẩn đế độ tiếu lâm. Chúng biết gì mà mê hay không mê? Thật ra, chúng chỉ là bị bố mẹ lùa qua Mỹ làm “mỏ neo” thôi. Dĩ nhiên là đã không có bất cứ ông bà cấp tiến hay cơ quan ngôn luận dòng chính nào dám bàn đến chuyện “mỏ neo”, cố ý coi nhưng không có chuyện đó trong khi ai cũng biết đó mới là lý do chính tại sao đám trẻ bị bố mẹ chúng lùa qua Mỹ.

Trong gần một triệu đứa trẻ trong nhóm DACA, chỉ một thiểu số nhỏ thành công, đóng góp vào xã hội Mỹ như đã nêu trên. Hơn một nửa khối trẻ em đó bị bố mẹ đẩy qua khi chưa tới 6 tuổi, bây giờ vẫn còn đi học, trung hay tiểu học, chưa đóng góp gì. Một thiểu số khác đi vào đường tội lỗi, băng đảng. Nói chung đại đa số là một gánh nặng tài chánh và xã hội cho nước Mỹ này.

Phe cấp tiến bi kịch hoá vấn đề bằng cách tô vẽ những đứa trẻ này như đích thực là Mỹ con, bây giờ đuổi chúng đi những xứ mà chúng không biết gì, kể cả ngôn ngữ, là hành động “tàn ác” như TT Obama mới phán. Nghe muốn khóc. Chỉ có điều là lập luận này quên mất một yếu tố quan trọng hàng đầu: trục xuất chúng cũng là trả chúng về lại cho gia đình và bố mẹ chúng! Tuyệt đại đa số mấy đứa trẻ này là vị thành niên, trả chúng về cho gia đình và bố mẹ sao lại có thể gọi là tàn ác, phi lý và vô nhân đạo?

Phe bênh vực cũng viện dẫn đuổi nhóm trẻ này về nước sẽ khiến chúng lâm nguy, có thể sẽ đưa chúng vào đường tội lỗi,… Một lập luận hơi lạ. Một triệu đứa trẻ đó ở Mỹ đơn thân, tách xa gia đình và bố mẹ, sống trong các viện mồ côi của quan chức thiện nguyện hay Nhà Nước Mỹ thì sẽ thành thiên tài đóng góp lớn cho Mỹ, nhưng trả chúng về với gia đình là chúng sẽ thành băng đảng hết.

Những lập luận kiểu trả chúng về với gia đình là tàn ác, hay biến chúng thành băng đảng, đối với kẻ này, nghe hao hao giống như chủ trương lấy Nhà Nước thay thế gia đình của chủ nghiã cộng sản hoang tưởng cực đoan của Pol Pot. Dân tỵ nạn ta phải hiểu rõ quan điểm của cộng sản và xã hội chủ nghiã đối với nền tảng gia đình hơn ai hết. Ấy vậy mà vẫn không thiếu ông bà tỵ nạn VC lập lại lập luận của phe cấp tiến và TTDC thiên tả Mỹ. Thật là lạ!

Rồi phe cấp tiến cũng nhắc lại việc đuổi những đứa trẻ này sẽ gây “thiệt hại lớn” cho kinh tế Mỹ, thiệt hại đâu gần 500 tỷ đô vì mất đi cả mấy trăm ngàn tay làm.

Bỏ qua chuyện lạ là phe cấp tiến bây giờ bất thình lình lo cho kinh tế tư bản Mỹ, thực sự, hiện nay chỉ có vài chục ngàn thanh niên DACA đang có việc làm. Cho dù hết 800.000 đều là nhân lực trong tương lai, thì con số này vẫn chẳng có nghiã gì so với kinh tế Mỹ với cỡ 150 triệu tay làm, chưa tới 0,6%. Hơn nữa, không có cách nào vài trăm ngàn thanh niên này có thể cung cấp 500 tỷ đô cho kinh tế Mỹ.

Nếu chúng có thể đóng góp tới 500 tỷ đô cho kinh tế Mỹ, tại sao không trả chúng về nguyên quán để chúng đóng góp ít ra cũng vài chục tỷ cho quê hương của chúng?

Lập luận có cả ngàn thanh niên DACA đang làm việc tích cực cũng quên mất yếu tố những thanh niên này có thể đã chiếm một số job của dân Mỹ chính gốc, một yếu tố không thể quên khi ta nhìn vào việc ứng viên Trump đã thắng cử tại các tiểu bang kỹ nghệ vùng Đại Hồ.

Các đại công ty hô hào ân xá đám trẻ bất hợp pháp. Ai cũng biết các công ty này luôn luôn cổ võ cho việc nhận di dân vì đây là khối lao động rẻ tiền hơn dân lao động Mỹ nhiều. Nhìn cho kỹ, các đại công ty chỉ muốn khai thác nhân công rẻ thôi. Đây là bài toán kinh tế sơ đẳng của các tài phiệt, chẳng liên quan gì đến chuyện nhân đạo hay pháp luật.

Bất kể tất cả các biện giải trên, yếu tố căn bản vẫn là sự hiện diện của những đứa trẻ này ngay từ đầu đã là hậu quả của những hành động phạm pháp: chúng bị bố mẹ chúng đẩy qua hoàn toàn bất hợp pháp vì một mục đích bất hợp pháp là làm mỏ neo. Chấp nhận chúng cũng là mạc nhiên chấp nhận ý đồ gian trá và phạm pháp nguyên thủy của bố mẹ chúng. Việc trả chúng về nguyên quán cho bố mẹ chúng hoàn toàn hợp tình, hợp lý và hợp pháp.

Căn bản hơn nữa, sắc lệnh của TT Obama hoàn toàn bất hợp pháp, bất hợp Hiến như đã bàn ở đầu bài.

TTDC và phe cấp tiến khua chiêng trống về chuyện nhân đạo trong khi trên thực tế, toàn bộ câu chuyện DACA nằm trọn trên hai hành động phạm pháp: sự hiện diện bất hợp pháp của đám trẻ và sắc lệnh bất hợp Hiến DACA.

Nước Mỹ là một thùng cháo hổ lốn nhưng lại theo chế độ dân chủ hỗn độn nhất. Trong cái mâu thuẫn đó, nước Mỹ chỉ có thể tồn tại nhờ một hệ thống Tư Pháp mạnh nhất, nghiã là mọi chuyện phải tuyệt đối tuân thủ theo luật lệ hiện hành. Không ai có thể vào nước Mỹ bất hợp pháp rồi đòi được hợp thức hoá vì lý do nhân đạo hay bất cứ lý do nào khác. Cũng không ai đứng trên luật pháp, có thể tự ý ra luật bất kể luật gì, kể cả TT Obama.

xxx

Quyết định về DACA của TT Trump, như tất cả các quyết định khác của TT Trump đã bị phe ta và TTDC đả kích đến đinh tai nhức óc luôn, và cộng đồng tỵ nạn chúng ta cũng ồn ào bàn tán theo. Trước khi quý độc giả lên tiếng bày tỏ quan điểm cá nhân của mình về câu chuyện DACA, kẻ này xin thưa cùng quý vị một câu chuyện đáng suy gẫm.

Giả dụ quý độc giả là một gia đình thành công. Nhờ may mắn cũng như chịu vất vả, ăn nên làm ra, tậu được căn nhà lớn khang trang. Chẳng may quý độc giả lại có một gia đình hàng xóm không thành công lắm. Nhà nhỏ, con lại đông, cuộc sống khó khăn. Ông hàng xóm quyết định giúp hai ba đứa con của mình leo rào qua nhà quý độc giả.

Quý độc giả có hai lựa chọn. Một là vỗ tay hoan nghênh mấy đứa nhỏ đó, mời chúng ở lại luôn để có dịp bày tỏ lòng nhân đạo, nuôi nấng chúng vĩnh viễn, rồi mời cả nhà ông hàng xóm qua nuôi luôn cho tiện việc sổ sách. Hai là mang mấy đứa nhỏ đó qua trả lại cho ông hàng xóm và sẽ bị TT Obama gọi là “tàn ác”. Quý độc giả tự vấn lương tâm xem mình sẽ làm gì?

Ở đây, kẻ này cũng hỏi ý kiến của mấy ông bà chuyên gia lo làm việc thiện nguyện giúp định cư di dân, xem chính mình có chịu nhận mấy đứa con hàng xóm không, hay chỉ giỏi hô hào “người khác” nhận thôi, còn nhà mình thì lo đi gắn hệ thống báo động.

Đặc biệt là với các hội thiện nguyện Việt, kẻ này xin yêu cầu đừng so sánh cộng đồng tỵ nạn ta với đám di dân lậu bất hợp pháp tại vì chúng ta qua đây tỵ nạn hoàn toàn hợp pháp, với luật tỵ nạn do quốc hội biểu quyết và tổng thống ký trước khi được đặt chân xuống đất Mỹ. Chúng ta không phải là di dân lậu và họ không phải là chúng ta! Cái gian ý của những người cổ võ cho đám di dân bất hợp pháp là xí xóa, không bao giờ dám nhắc đến cái cụm từ “bất hợp pháp”, cùng lắm thì dùng xảo ngữ “di dân không giấy tờ”. Chỉ là một hành động lập lờ đánh lận con đen thiếu lương thiện. (10-09-17)

Vũ Linh