Có khoảng 180 chục triệu cuốn sách đủ loại ở miền Nam nằm trong vùng định chế sách bị tiêu hủy,

 Dung Dang‘s photo.

 

 
Image may contain: one or more people, people sitting and shoes

Dung Dang is with ViVi Hung Vo and 3 others.

Có khoảng 180 chục triệu cuốn sách đủ loại ở miền Nam nằm trong vùng định chế sách bị tiêu hủy, vẫn có một số sách không nhỏ trên thoát nạn do sự cất dấu của những người có lòng với văn học và do cả óc trục lợi của một số người. Dù cho có trục lợi đi nữa thì cũng vẫn là một điều đáng làm vì gián tiếp giúp cho sinh mệnh chữ nghĩa miền Nam vẫn có cơ hội sống lại.

Chính trong cái khung cảnh sinh hoạt sách báo miền Nam bị vây khốn khó khăn như thế đã làm nảy ra một nghề mới: Nghề bán sách dạo, sách bán ở vỉa hè. Nghề này từ nay thay thế công việc của ông Khai Trí cũng như cho khoảng 2500 nhà sách trên toàn miền Nam đã phải tự động đóng cửa sau 1975. Nó tiêu biểu cho nghề buôn bán chui dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. Xã hội tạo ra một lớp người làm ăn bất hợp pháp. Cái gì cũng thành chui cả. Sách chui, gạo chui, thuốc tây chui, đi chui và ngay cả việc đi tu cũng trở thành tu chui. Sách càng bị cấm, càng nhiều người tìm đọc.

Có lẽ người có lòng nhất với sách vở miền Nam là ông Khai Trí. Từ người bán sách lẻ lề dường, ông xây dựng nên cơ nghiệp là nhà sách Khai Trí, số 60- 62 đường Lê Lợi. Tôi đã đứng bên kia đường Lê Lợi sau 1975 để chứng kiến cảnh hôi sách, đốt sách của nhà Khai Trí. Cảnh tượng ấy còn như in vào đầu tôi. Sách của nhà Khai Trí vứt tung tóe, bừa bãi trên mặt đường phố Lê Lợi trong nỗi bất lực của nhiểu người miền nam cách đây 40 năm.

Tôi không biết lúc bấy giờ ông Khai Trí đứng ở đâu… Nhưng cái cảnh ấy nó bộc lộ hết cái bản chất bạo tàn của những kẻ chiến thắng.

Khi cơ sở nhà sách Khai Trí bị tịch thâu. Theo nhà văn Nhật Tiến, một lần nữa, ông Khai Trí lại ra ngồi lề đường, trải một tấm nhựa ni lông bán vài cuốn sách thiếu nhi còn sót lại. Đây lại là một hoạt cảnh đau lòng và ngược đời bầy ra trước mắt. Từ một chủ nhân bề thế, uy tín mà trong kho chứa hàng triệu cuốn sách, nay ông trở thành người bán sách dạo đầu đường.

Cảnh tượng này giúp ta nhớ lại như hoạt cảnh đấu tố trong Cải cách ruộng đất.

(Trích: “Hiện trạng văn học miền Nam sau 1975 ở miền Nam…” của Nguyễn Văn Lục.)

HÌnh: Chợ trời sách miền nam trên đường Đặng Thị Nhu Q1 năm 1979

 

Số lượng người Việt Nam bỏ chạy khỏi đất nước đang ngày càng nhiều

 Nguyen Lan Thang‘s post.
 Bài cũ nhưng vẫn còn giá trị thời sự.
 
Image may contain: 5 people, people standing and outdoor

Nguyen Lan ThangFollow

 

Số lượng người Việt Nam bỏ chạy khỏi đất nước đang ngày càng nhiều, nếu tính chục năm gần đây thì có lẽ còn nhiều hơn cả số thuyền nhân vượt biển năm xưa. Bạn bè tôi, người thân tôi, người mà tôi quen biết cứ lần lượt từng người âm thầm ra đi. Ai có tiền thì định cư dạng đầu tư, ai có học hành thì định cư dạng du học, còn ai chỉ có sức thì cũng chạy bằng được suất đi lao động nước ngoài… Một cuộc bỏ chạy vĩ đại.

Tôi có thằng em họ bên đằng nhà dì. Nó học giỏi lắm, thuộc loại nhân tài đất nước. Nó sang Úc cũng mấy năm rồi. Hồi nó đến trường đại học bên đó, chả có ai là người Việt. Giờ nó đi dạy đại học đàng hoàng, vợ con ổn định, nhà cửa xênh xang, cuộc sống thanh bình, chỉ lo đi làm chứ không phải bon chen gì với bất cứ ai. Và chỗ nó ở giờ có hàng trăm người Việt thuộc dạng nhân tài nước Việt sang đó.

Đảng cộng sản Việt Nam, các người làm gì mà dân cứ bỏ đất nước mà chạy đi. Đối đãi với chính dân mình, chính những người thuộc dạng gia đình công thần xây dựng chế độ mà còn bố láo thì đòi đi hoà giải hoà hợp với ai…?

Ê, TUỲ TÌNH HÌNH LÀ SAO ?!? CƯỚP ĐÚNG QUY TRÌNH À !

 Emily Page-Le‘s post.
 
Image may contain: 1 person
Emily Page-Le is with Emily Page-Le.

 

Ê, TUỲ TÌNH HÌNH LÀ SAO ?!? CƯỚP ĐÚNG QUY TRÌNH À !

Mới đây vừa cho phép áp dụng Ngân hàng phá sản thuộc diện kiểm soát đặc biệt và bây giờ thì tuỳ tình hình để bồi thường.

Nói toạc ra cho dân dễ hiểu đây là “Hệ thống cướp tiền dân 1 cách hợp pháp”. Nghĩa là khi các Ngân hàng khai phá sản thì tiền dân gửi vào có Nguy cơ mất trắng là rất cao. Dân gửi dù là 100 triệu hay 1 tỷ (hễ trên 75 triệu thì phải đợi các bố xem xét rồi mới chi để bồi thường).

Tiền đã vào túi các bố rồi, chờ duyệt và chi trả cho dân thì đến bao giờ ?

Lạy các bố:

“Mấy đời cộng sản nó điên
Tự móc tiền túi chi đền cho dân
Bòn rút cho sướng tấm thân
Đô la, biệt thự phần nào nấy lo

Bà con thức tỉnh dùm cho
Khôn thì rút hết tiền vàng trong băng
Nhất là cổ phiếu ngân hàng
Nhanh chân bán hết đổi vàng, đổi đô

Giữ của như giữ cơ đồ
Đừng chờ mất trắng hoá rồ, hoá điên !

CHÚNG ĐI BUÔN TRÊN THÂN XÁC DÂN NGHÈO.

Nguồn:  Van Pham
CHÚNG ĐI BUÔN TRÊN THÂN XÁC DÂN NGHÈO.

Sau một cơn mưa bão tại thành phố Đà Nẵng, Quảng Nam, Nha Trang, Phú Yên ….. vừa qua có nhiều nơi trở nên tan hoang, hàng ngàn ngôi nhà đã bị đổ nát hoặc bị ngập chìm trong nước và có hàng trăm người bị chết, bị thương và mất tích.

Xin mời nghe nhạc phẩm: Chúng đi buôn – Phan Văn Hưng…

Image may contain: house and outdoor

TOÀN LÁO CẢ!

VanHieu Nguyen shared Quoc Thai Ly‘s post.
 Sống trong chế độ XHCN ưu việt,  TOÀN LÁO CẢ.!
 
Image may contain: 1 person, smiling, text
Image may contain: 1 person
Image may contain: 1 person, suit and text
Image may contain: 1 person, smiling
Image may contain: 1 person, text
+8

Quoc Thai Ly to Thích BBC Vietnamese

 

Xin chia sẽ Share rộng …. Thanks

TOÀN LÁO CẢ!
Đỗ Duy Ngọc – tháng 11/2017

Không biết lịch sử ghi lại các triều đại phong kiến đúng sai như thế nào, cũng chẳng có cách nào để kiểm chứng. Thế nhưng, thời đại ta đang sống hoá ra toàn láo cả. Rồi lịch sử thời hiện đại sẽ viết sao đây?

Thằng doanh nhân bán đồ giả làm giàu, cứ tưởng nó giỏi, hoá ra chẳng phải thế. Nó chỉ là kẻ “ Treo dê bán chó”, mua 30.000 bán 600.000 không giàu sao được, thế rồi lúc giàu lên, hàng ngày lên mạng truyền thông dạy đạo đức, dạy bí quyết, dạy cách cư xử.

Kẻ thì đem hoá chất trộn vào thức uống, khiến người ta nghiện chất độc, tạo thành thói quen nguy hiểm cho người dùng. Thế rồi khi có nhiều tiền, anh ta in sách dạy người ta tư duy, dạy cho tuổi trẻ cách sống. Nuôi đội ngũ nhà văn nhà báo tung hô mình như thánh sống, tuyên bố như đấng khải đạo.
Một ông chuyên làm thép, nghĩ toàn chuyện xây dựng những công trình có hại cho dân, nhưng lúc nào cũng mặc áo lam, đeo tràng hạt, nói toàn chuyện Phật pháp.

Một tập đoàn làm nước mắm giả, toàn hoá chất, bỏ biết bao tiền để quảng cáo lừa dân, bỏ tiền đầy túi. Một tập đoàn khác mua hoá chất quá hạn để sản xuất nước uống, lừa những kẻ phát hiện sai sót của sản phẩm mình để đưa họ vào tù, lại chuyên nói lời có cánh… Kẻ buôn gian bán lận lại dạy cho xã hội đạo đức làm người. Thời đại đảo lộn tất!

Hài thế, mà vẫn không thiếu kẻ tôn sùng, xem các ông ấy như tấm gương sáng để noi theo. Khi vỡ lở ra, chúng toàn là kẻ nói láo. Tất cả đều chỉ tìm cách lừa đảo nhau.

Toàn xã hội rặt kẻ nói láo, ca sĩ nói láo theo kiểu ca sĩ, đạo diễn nói láo theo kiểu đạo diễn, diễn viên nói láo theo kiểu diễn viên. Ừ thì họ làm nghề diễn, chuyên diễn nên láo quen thành nếp, lúc nào cũng láo. Thế nhưng có những kẻ chẳng làm nghề diễn vẫn luôn mồm nói láo.

Thi gì cũng láo, từ chuyện thi hát đến thi hoa hậu, chỉ là một sắp đặt láo cả. Ngay chuyện từ thiện cũng rặt chi tiết láo để mua nước mắt mọi người. Cứ có chuyện là loanh quanh láo khoét. Kẻ buôn lớn láo, kẻ bán hàng rong ở bên đường cũng lừa đảo, láo liên tục. Mỗi ngày mở truyền hình toàn nghe nói láo từ tin tức cho đến quảng cáo, rặt láo. Nhưng cả nước đều hàng ngày nghe láo mà chẳng phản ứng gì lại cứ dán mắt mà xem.

Thằng đi buôn nói láo đã đành, vì họ lừa lọc để kiếm lời. Thế mà cô hiệu trưởng nhà trẻ, anh hiệu trưởng trường cấp ba, ông hiệu trưởng trường đại học cũng chuyên nói láo. Thực phẩm cho các cháu có giòi, cô hiệu trưởng chối quanh. Các cháu học sinh đánh nhau như du côn, làm tình với nhau trong nhà trường, anh hiệu trưởng bảo là không phải, tảng bê tông rớt chết sinh viên, ông hiệu trưởng bảo là tự tử. Thế rồi tất cả đều chìm, đều im im ỉm. Người ta đồn tiền hàng đống đã lót tay bộ phận chức năng để rồi để lâu cứt trâu hoá bùn.

Mấy ngài lãnh đạo lại càng nói láo tợn. Chỉ kể vài chuyện gần đây thôi, chứ kể mấy sếp nhà ta phát biểu láo thì thành truyện dài nhiều tập. Từ chuyện quốc gia đại sự cho đến chuyện hưng vong của tổ quốc, toàn chuyện quan trọng đến vận mệnh quốc gia thế nhưng dân toàn nghe láo. Kẻ thù mang tham vọng, âm mưu để biến nước ta thành chư hầu, chuyện này rõ như ban ngày, ai cũng thấy, ai cũng hiểu, thế mà các quan toàn nói tào lao, láo lếu.

Đến chuyện Formosa, khi biển nhiễm độc, cá chết, các quan bày lắm trò láo để mị dân, lấp liếm tội ác của thủ phạm, tuyên bố, họp báo, trình diễn ăn hải sản, ở trần tắm biển… tất cả đều rặt láo.

Đến chuyện BOT với các trạm đặt không đúng chỗ cho đến mở rộng phi trường Tân Sơn Nhất, các quan ở Bộ Giao thông lại được dịp nói láo, tuyên bố rùm beng để bênh vực những tập đoàn và cá nhân vi phạm.

Khi vụ thuốc giả của VN Pharma nổ ra, cả một hệ thống truyền thông của Bộ Y tế kể cả các quan chức cấp bộ đều tuyên bố láo, tìm mọi cách che dấu tội ác của những tên buôn thuốc giả.

Rừng Sơn Trà quý hiếm, các ông vì tư lợi cá nhân, ra lệnh xây cất, chấp nhận nhiều dự án khai thác, các nhà chuyên môn, nhân dân phản ứng dữ quá, các ông bắt đầu chiến dịch nói láo, chạy quanh tìm kế hoãn binh.

Đến chuyện cá nhân của các quan thì lại càng nói láo tợn… Ông bí thư xây biệt phủ như cung điện của vua chúa ở xứ nghèo phải sống nhờ trợ cấp của chính phủ cho đến ông giám đốc môi trường xây biệt phủ mênh mông ở xứ lắm rừng, rồi đến ông lãnh đạo ngành ngân hàng với những dãy nhà hoành tráng trên miếng đất hàng ngàn thước vuông. Tất cả đều cho rằng do sức lao động cật lực mà có. Kẻ thì do nuôi gà, trồng cây, anh thì bảo chạy xe ôm đến khốc cả người, người thì nhờ bán chổi, trồng rau, kẻ khác thì bảo nhờ tiền của con dù con chẳng làm gì ra tiền và có đứa thì mới mười chín tuổi.

Lương thì chẳng bao nhiêu mà quan nào cũng vi la trong và ngoài nước, nhà nghỉ trên núi, nhà mát dưới biển, lâu đài, nhà to ở nước ngoài. Con cái ăn chơi như các công tử, tiểu thư quý tộc. Các bà vợ thì như các mệnh phụ, chỉ xài đồ dùng ở nước ngoài, đi shopping các mall lớn ở nước ngoài như đi chợ. Thế nhưng các ngài luôn phát biểu yêu dân, thương nước, yêu tổ quốc, đồng bào, và luôn nhắc nhở đất nước còn nghèo phải học tập ông này, cụ nọ để có đạo đức sáng ngời. Các lãnh đạo xem rừng như sân nhà mình, phá nát không còn gì. Một cây có đường kính 1m phải mất trăm năm mới hình thành, lâm tặc chỉ cần 15 phút để đốn hạ. Hàng trăm chiếc xe chạy từ rừng chở hàng mét khối gỗ chỉ cần đóng cho kiểm lâm 400.000 đồng một chiếc là qua trạm. Rừng không nát mới lạ. Khi rừng không còn, lệnh đóng rừng ban ra, các lãnh đạo địa phương toàn báo cáo láo với chính phủ và có nơi tìm cách tiếp tục vét cú chót bằng cách làm trắng những cánh rừng còn lại. Rừng bị tận diệt vì nạn phá rừng, rừng còn bị huỷ diệt bởi những dự án thuỷ điện. Tất cả đều có sự tiếp tay của các quan và ban ngành chức năng của địa phương. Rừng không còn, lũ về gây tang thương chết chóc, đê vỡ khiến nhà cửa tài sản trôi theo dòng nước, các quan cho là xả lũ đúng quy trình.

Bão chưa tới, lũ chưa về, các quan tỉnh đã ngồi với nhau viết báo cáo thiệt hại để xin trợ cấp. Một anh từng là tổng biên tập tờ báo lớn, sau khi thu vén được hàng triệu đô la bèn đưa hết vợ con qua Mỹ, sắm nhà to, xe đẹp còn anh thì qua lại hai nước, lâu lâu viết bài biểu diễn lòng yêu nước thương dân, trăn trở với tiền đồ tổ quốc, khóc than cho dân nghèo, kinh tế chậm lớn, đảng lao đao… Còn biết bao chuyện láo không kể xiết.

Ngay cả thầy tu, các bậc tu hành cũng làm trò láo để quảng cáo chùa của mình, để thêm nhiều khách cúng bái, để thùng phước sương thêm đầy, để nhà thờ của mình thêm tín hữu. Chúa, Phật đành bỏ ngôi cao mà đi khi thấy những kẻ đại diện mình đến với mọi người bằng những điều xảo trá.

Chúng ta đang ở một thời đại láo toàn tập, láo từ trung ương đến địa phương, láo từ tập đoàn cho đến công ty, láo từ một tổ chức cho đến cá nhân. Láo mọi ngành nghề, láo toàn xã hội. Tất cả đều bị đồng tiền sai khiến, bị danh lợi bám quanh. Hơn nữa vì sự thật bi đát quá, đành láo để khoả lấp, hi vọng sẽ an dân. Nhưng thời đại bùng nổ thông tin, dân biết hết nên chuyện láo trở thành trơ trẽn.

Nghe láo quen, chúng ta lại tự láo với nhau và chuyện láo trở thành bình thường, láo để tồn tại, để phấn đấu, để thêm lợi thêm danh, và rồi láo đã trở thành một nếp sống.

Trẻ con học người lớn nói láo rồi tiếp tục những thế hệ nói láo. Ở nhà trường nghe cô thày nói láo, ra đời nghe thiên hạ nói láo, về nhà lại được nghe nói láo từ cha mẹ, mở máy nghe, nhìn cũng rặt điều láo.

Một nền văn hoá láo đã nẩy sinh và phát triển.
Hỏi sao trẻ con không láo và tương lai lại tiếp tục láo. Nghĩ cũng buồn!

Ngày cuối tháng 11/2017
Đỗ Duy Ngọc

Bàng hoàng mỗi ngày có 315 người Việt chết vì các bệnh ung thư

Bàng hoàng mỗi ngày có 315 người Việt chết vì các bệnh ung thư

Tại Việt Nam, số trường hợp mắc mới ung thư tăng nhanh từ 68.000 ca vào năm 2000 lên 126.000 năm 2010 và dự kiến sẽ vượt qua 190.000 ca vào năm 2020. Mỗi năm có khoảng 115.000 người chết vì ung thư,

Theo số liệu từ viện K Trung ương, ung thư vú chỉ có 50% ca bệnh phát hiện sớm. Còn ung thư đại trực tràng tỷ lệ này khoảng 32%. Đặc biệt, một số bệnh ung thư có tỷ lệ phát hiện muộn cao như ung thư gan, ung thư dạ dày, ung thư phổi, ung thư vòm họng…

Tỷ lệ chữa khỏi chỉ đạt hơn 1/3 số ca bệnh, trong khi ở một số nước phát triển, tỷ lệ này lên tới 2/3. Việc phát hiện ung thư ở giai đoạn muộn là một trong những lý do khiến tỉ lệ tử vong do ung thư ở nước ta tăng cao dù kỹ thuật điều trị ung thư tại Việt Nam không thua kém gì các nước trên thế giới.

Câu Chuyện Buồn Ngày Tạ Ơn – ThanksGiving Day…

No automatic alt text available.
Image may contain: text
Image may contain: food

Van Pham added 3 new photos.

 

Ngày mai 24-11-2017, nước Mỹ sẽ đón ngày Lễ Tạ Ơn, xin gởi đến ACE bài viết dưới đây. Một số người trách sao ngày vui lại đăng chuyện buồn như vậy? Nhưng ý nghĩa ngày Lễ Tạ Ơn là gì, khi chúng ta chưa kịp “Cảm Ơn” đã vội quên đi những khốn khổ ngày nào?!!!
***************

Câu Chuyện Buồn Ngày Tạ Ơn – ThanksGiving Day…

Tạp Ghi Huy Phương.

Năm rồi, tôi mất hai người bạn. Không phải họ chết thành ma chôn trong nghĩa địa hay thiêu ra tro gửi cho gió ngàn bay. Những người này còn sống, nhưng đối với tôi cũng như gia đình họ, xem như họ đã đi qua một thế giới khác! Năm nay, trong bữa ăn sum họp cuối tháng 11 tại Hoa Kỳ, những người chồng, người cha này không có mặt, vì vậy tôi muốn dành câu chuyện này cho những ngày cận kề của lễ Tạ Ơn.

Phải nói đây là hai người bạn khá thân của tôi, đều sang Mỹ khoảng năm 1990 hay trễ hơn, qua một thời gian tù đày dưới chế độ Cộng Sản khá lâu, thời gian đủ để bù đắp cho họ một cái visa để họ và cả gia đình vào định cư tại Mỹ. Đến Mỹ, một người định cư ở miền cực Đông, chiều chiều có thể hóng gió từ Đại Tây Dương, người kia ở miền cực Tây, buổi sáng cuối tuần, thường rửa chân trên biển Thái Bình, nên chúng ta tạm gọi họ, người này là người bạn miền Đông và người kia là người bạn miền Tây.

Sang đến đây, anh bạn miền Đông tâm sự: “Không có nước Mỹ, thì giờ này con trai tôi đang ôm bình cà-rem ở chợ Cồn, làm sao mà trở thành kỹ sư như hôm nay!” Người bạn miền Tây thường nói nghĩ đến những ngày đạp xe đi giao mối cà phê giữa Sài Gòn nắng gắt, bữa đói bữa no, giờ hạnh phúc được nước Mỹ giang vòng tay đưa cả gia đình anh đến Mỹ. Sang Mỹ trong vòng hơn mười năm, anh nào cũng khá giả, có một ngôi nhà tươm tất, và mới chục năm trở lại đây, về hưu, ai cũng có đồng lương cao. Tôi không nghĩ là vì hưu cao, người ta có thể sống ung dung, dư dả ở ngoài nước Mỹ, nhưng đó có thể là một lý do tài chánh đã ảnh hưởng đến quyết định trở về Việt Nam của họ. Nếu họ còn độc thân, trơ trọi, mà còn cha mẹ già nơi đất quê hương, sự trở về của họ chắc cũng có lý do thông cảm.

Người bạn miền Đông của tôi, sau khi đi tù về, người vợ đã ra đi, bỏ lại bầy con dại, mà đứa nhỏ nhất mới lên ba tuổi. Trong những ngày ấy, một người đàn bà khác đã nhận kê vai gánh vác cuộc đời vô vọng rách nát của anh. Sang đến Mỹ, anh thành công trong thương mãi, về chiều, có một số lương hưu lớn, có thể sống dư dả đến cuối cuộc đời.

Anh bạn miền Tây của tôi, chân ướt chân ráo đến Mỹ, bắt đầu với một cuộc đời khá vất vả, nhưng may mắn sau đó, làm công nhân trong một hãng lớn, tiếng tăm của nước Mỹ. Các con của anh, ngày nay đều là những người thành đạt.
Đến tuổi về hưu, gia đình họ đều đổ vỡ sau những chuyến đi Việt Nam.

Nơi quê hương ngày trước, người bạn miền Đông gặp một người đàn bà tuy không phải thuộc loại nhan sắc, hay còn tuổi xuân sắc, nhưng chắc chắn là đẹp hơn, trẻ hơn vợ nhà, và lời lẽ hẳn là ngọt bùi, khêu gợi lại những thứ tình yêu thời trẻ dại. Sau một thời gian đắn đo, suy nghĩ, anh xẻ đôi căn nhà hạnh phúc ngày trước, quyết định làm lại cuộc đời bằng cách trở lại quê hương, sống với người đàn bà kia.

Bây giờ bạn bè cũ ở Việt Nam, sáng sáng gặp anh nhúm lửa, pha vợt cà phê đầu ngày, dọn bàn ghế cho khách ngồi theo nghề của nàng, và mỗi ngày, như lời tỏ bày chân thật, cần đến một viên viagra.

Người bạn miền Tây, đến tuổi “tri thiên mệnh” mới gặp người tri kỷ, mới ngộ ra được, thế nào là tình yêu. Để bù vào số tuổi, anh có số tiền. Họ là những người trong giới yêu thích văn nghệ, và người anh gặp hẳn là một nàng Thơ ngày xửa ngày xưa, thế là anh ra đi không trở lại. Tình yêu đâu phải dễ kiếm, thì ra lâu nay, cái thứ anh tưởng là tình yêu, chỉ là một thứ tình nào đó, mãi cuối cuộc đời anh mới được gặp mặt cái gọi là Tình Yêu (viết hoa) đích thực!

Thì ra lâu nay những người bạn của tôi không tìm thấy hạnh phúc. Người ta định nghĩa “hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí!” Những người bạn tôi đang sống ở một đất nước mà loài người cơ cực, ai cũng mong tìm đến. Những người bạn tôi đang có một mái ấm gia đình, đời sống cao hơn no đủ là dư dả, vợ không ngoại tình, con không hư hỏng& nhưng như vậy, chưa đủ cho tiêu chuẩn của một thứ gọi là hạnh phúc.

Trong một chừng mực nào đó, có lẽ hai người bạn của tôi tâm đắc với câu nói của George Sand: “Chỉ có một thứ hạnh phúc trên đời, là yêu và được yêu!” Và như vậy, lâu nay họ chẳng hề yêu ai và chưa bao giờ được yêu! Phải chăng thực sự, bạn tôi yêu sắc dục, và được yêu lại vì có tiền. Tôi cũng không ngờ rằng, đến lúc xế chiều, mà ngọn lửa tình yêu của hai người bạn tôi, bùng phát mạnh mẽ đến như vậy!

Lý Ngư trong Nhục Bồ Đoàn, một tác phẩm cổ bên Tàu về sắc dục, đã viết: “Theo lời các nhà nho xưa, thì cái vật dưới eo phụ nữ chính là cánh cửa sinh ra ta, mà cũng là cánh cửa chôn ta!”.

Hai người bạn tôi không thể đem một người đàn bà khác không là vợ mình từ Việt Nam sang định cư tại Mỹ, trước sự chê trách của dư luận và sự quay mặt của gia đình, vậy tốt hơn là trở lại Việt Nam.

Tôi hy vọng rằng, một ngày kia, dù thế nào, hai người bạn tôi cũng không trở lại Mỹ, với một tấm thân tàn tạ để kiếm một chỗ trong bệnh viện hay đủ thuốc men dùng cho một giai đoạn hấp hối.

Đã hai năm, rồi tôi nghĩ đến ngày Lễ Tạ Ơn hôm nay trên đất Mỹ, có hai gia đình quạnh quẽ, buồn phiền và chắc bạn bè, thân thuộc cũng không ai nỡ nhắc lại tên của người bạn tôi đang ở xa. Tôi biết họ cũng như tôi, đã có những ngày tù đày nơi rừng thiêng nước độc, đã có một người vợ khốn khổ, tảo tần xuôi ngược, đã có những đứa con bất hạnh bơ vơ. Chúng ta tin tưởng gì ở một người lính thất trận, một người đã ngồi trong nhà tù tập trung, đã được thoát ra, còn bất cố liêm sỉ trở lại chốn xưa, vì một thứ gì đó dưới cái eo của đàn bà. Hai người bạn tôi đã quên rất nhiều thứ, trong đó có giá trị của gia đình, đạo lý và những điều ân nghĩa.

Tôi còn nhớ câu nói của MC Nguyễn Ngọc Ngạn: “…Một phần nữa vì người MC lâu đời của Thúy Nga là một cựu tù nhân chính trị, đã viết nhiều sách phê phán chế độ trong nước.” Tôi không đánh giá cao phẩm chất tất cả những người gọi là “cựu tù nhân chính trị!” Hai người bạn tôi, một người ở miền Tây, một người ở miền Đông, sau thời gian đến Mỹ, ai cũng có viết báo, in sách và đã không tiếc lời lên án chế độ Cộng Sản Việt Nam!

HAPPY THANKSGIVING

 

 

 

 

 

 

 

Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh. Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giêsu. ( 1 Thê-xa-lô-ni-ca , chương 5, câu 18)

Bộ trưởng Ngoại giao Vương quốc Thuỵ Điển, bà Margot Wallström, đã gặp các nhà hoạt động xã hội dân sự Việt Nam…

Nguồn:  Hoang Le Thanh shared Lê Công Định‘s post.
 
Image may contain: 9 people, people smiling, people standing and indoor

Lê Công ĐịnhFollow

Sáng nay, tại Hà Nội, Bộ trưởng Ngoại giao Vương quốc Thuỵ Điển, bà Margot Wallström, đã gặp các nhà hoạt động xã hội dân sự Việt Nam, trong chuyến đi thăm Bangladesh, Myanmar và Việt Nam.

Bên cạnh những buổi làm việc với giới chức của nhà nước, việc gặp gỡ các nhà hoạt động xã hội dân sự luôn có trong chương trình công du của các chính khách và nhà ngoại giao phương Tây đến Việt Nam.

Trong khi nhà nước luôn bác bỏ và không công nhận sự hiện hữu của các tổ chức xã hội dân sự, thì cơ quan ngoại giao phương Tây luôn thừa nhận và tìm cách kết giao với họ. Tất nhiên điều đó khiến nhà cầm quyền tức tối vì cảm thấy bị bẽ mặt, nên luôn ngăn cản, quấy phá và câu lưu.

Từ xưa đến nay xã hội là nơi con người thuộc nhiều giai tầng khác nhau về quyền lợi cùng sinh sống. Xã hội không chỉ của giới cai trị, mà còn của đại đa số tầng lớp bị trị. Vì vậy, nếu chỉ công nhận và lắng nghe những ai nói thuận tai mình, thì nhà cầm quyền sẽ luôn phải lao tâm, lao lực phản ứng lại giới bất đồng chính kiến với mình, nhưng sẽ vĩnh viễn không bao giờ có thể dập tắt tiếng nói của họ.

Do vậy, giải pháp khôn ngoan là phải thừa nhận sự khác biệt, công nhận sự tồn tại của các tổ chức xã hội dân sự, dù nhà cầm quyền thích hay không, bởi đó là tiến trình phát triển đương nhiên của xã hội hiện đại.

Cuối buổi trò chuyện sáng nay với các nhà ngoại giao Thuỵ Điển, tôi nói mình rất ngạc nhiên vì sao giới chức cầm quyền Việt Nam có thể đối thoại với mọi tổ chức và chính quyền khác nhau trên thế giới, kể cả kẻ thù xưa và nay của họ, nhưng lại không thể đối thoại thẳng thắn với chính công dân của mình.

Tôi khẳng định rằng, dù bất đồng chính kiến, chúng tôi vẫn chia sẻ với nhà nước Việt Nam kế hoạch cải cách kinh tế và ước vọng phát triển đất nước. Tuy nhiên, điều khác biệt vẫn là ở chỗ người dân chúng tôi không chỉ sống bằng tiền bạc, mà chúng tôi còn cần tự do và nhân quyền.

3 GIỜ VỚI LS NGUYỄN MẠNH TƯỜNG

Nguồn:  Thuong Phan shared Mac Văn Trang‘s post.
 
Image may contain: 2 people
Image may contain: 1 person, closeup
Mac Văn Trang added 2 new photos.

 

3 GIỜ VỚI LS NGUYỄN MẠNH TƯỜNG 

Các bạn ở Viện KHGDVN cần đọc bài này để biết, ở Viện vào những năm 70 TK20, một trí thức lớn đã âm thầm ngồi làm việc ở đó. Nhưng lúc ấy và đến nay, Viện hầu như chẳng quan tâm gì về ông. Năm 1997, khi Bộ GD báo về Cụ Nguyễn Mạnh Tường mất, Viện Đại học nháo nhác, tưởng ông Bùi Tường mất! May mình biết, đưa giấy sang Viện KHGD…Một trí thức lớn mà âm thầm, lẩn khuất giữa những viện nghiên cứu. Đời thật trớ trêu!

Tác giả: Hòa Khánh (Quê Mẹ)

FB Loc Pham: Luật sư Nguyễn Mạnh Tường (1909-1996), người Việt Nam duy nhất đậu hai bằng Tiến sĩ Luật khoa và Tiến sĩ Văn chương năm 23 tuổi ở Đại học Montpellier (Pháp). Ông tham gia kháng chiến chống Pháp đến khi hòa bình lập lại (1954) thì trở về Hà Nội và làm giáo sư trường Đại học Văn khoa (nay là Đại học Quốc gia Hà Nội). Ngày 30 tháng 10 năm 1956 tại một phiên họp của Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội, LS Nguyễn Mạnh Tường, với tư cách thành viên của Mặt trận Tổ quốc, đã đọc một bài diễn văn phân tích sâu sắc những sai lầm trong cải cách ruộng đất và đề ra phương hướng để tránh mắc lại sai lầm. Vì phát biểu này, LS Nguyễn Mạnh Tường đã bị tước hết mọi chức vụ và danh vị nghề nghiệp và phải sống khó khăn thiếu thốn như một “kẻ bị khai trừ” (tên cuốn sách tự thuật của ông xuất bản năm 1992 tại Pháp). Ông mất năm 1996 tại Hà Nội, hưởng thọ 87 tuổi.)
.
Lâu nay, tôi cứ đinh ninh là luật sư Nguyễn Mạnh Tường đã mất. Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, tên tuổi của ông bặt đi. Có tin đồn là ông đã chết đâu đó ở một góc khuất tối tăm nào ở Hà nội.
Thế rồi, bỗng dưng tôi lại nghe là ông vẫn còn sống, hơn nữa, đang có mặt tại Paris : ông được phép sang Pháp ba tháng để thăm viếng một số bạn bè cũ của ông.

Được sự giới thiệu của một người quen, tôi và một anh bạn đã được luật sư Nguyễn Mạnh Tường tiếp trọn cả buổi chiều ngày thứ hai 27.11.1989.
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường năm nay đúng 80 tuổi. Dáng người tầm thước, lưng hơi gù, da dẻ nhăn nheo, nhưng sức khoẻ khá tốt, đi đứng vững vàng, đặc biệt trí tuệ còn rất minh mẫn. Suốt hơn ba tiếng đồng hồ chuyện trò, chúng tôi không hề bắt gặp ở ông một dấu hiệu nào của sự đãng trí vốn thường xuất hiện ở người cao niên. Ông nói năng lưu loát, đôi khi hùng hồn. Ông nhớ chính xác chi tiết những sự kiện cũ hoặc mới. Cách lý luận rành mạch.

Điều chúng tôi thích nhất ở ông là sự thành thật. Ở vào hoàn cảnh của ông, thành thật cũng có nghĩa là can đảm. Hơn ba chục năm bị đày đoạ, luôn luôn sống trong tâm trạng phập phồng chờ đón những thảm kịch thảm khốc nhất, ông không khiếp sợ đến nổi phải tự biến mình thành một con vẹt chỉ biết lải nhải lập lại những câu nói đã thành khẩu hiệu của chế độ hoặc co rút lại trong câm lặng, từ khước đối thoại để tránh khỏi nguy cơ bị hớ hênh, bị chụp mũ,.

Luật sư Nguyễn Mạnh Tường là một người đầu tiên tôi gặp, từ chế độ công sản, vẫn giữ được cái sĩ khí của một người trí thức, “uy vũ bất năng khuất”. Ông không hề từ chối bất cứ câu hỏi nào của chúng tôi dù những câu hỏi đó bắt ông phải công khai bày tỏ thái độ với cái chế độ đã, đang, và có lẽ sẽ tiếp tục dập vùi ông.

Chúng tôi xin phép ghi âm buổi nói chuyện với một sự thiếu tự tin rõ rệt. Chúng tôi nghĩ là ông sẽ từ chối. Nhưng, không. Ông đã vui vẻ chấp nhận. Để bảo đảm sự trung thực, những chi tiết dưới đây, chúng tôi đều dựa vào bản ghi âm này.

Tưởng cũng nên nhắc lại, trước năm 1945, luật sư Nguyễn Mạnh Tường là một trí thức xuất sắc nhất của Việt Nam với thành tích đến nay tại Việt Nam dường như chưa có ai theo kịp : 22 tuổi đậu hai bằng tiến sĩ quốc gia tại Pháp, một bằng về luật và một bằng về văn chương. Về nước, ông hành nghề luật sư và dạy học. Ở cả hai lãnh vực, ông đều thành công và tạo được một uy tín to lớn.

Chúng tôi hỏi luật sư Nguyễn Mạnh Tường :
– Luật sư có thể cho biết luật sư đã tham gia phong trào Việt Minh và sau đó, tham gia kháng chiến như thế nào ?
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đáp :
– Thật ra tôi không hề tham gia Mặt trân Việt Minh. Bao giờ tôi cũng là một người yêu nước, ưu tư đến việc giành lại độc lập cho đất nước. Tuy nhiên tôi tự xác định cho mình một vị trí là làm một người trí thức. Mà người trí thức, muốn độc lập, thì không nên tham chính. Do đó tôi đã từng từ chối nhiều lời mời ra làm bộ trưởng của nhiều chính phủ. Người trí thức phải đứng về phía dân chứ không đứng về phía chính quyền. Người trí thức chỉ nên đứng ở lãnh vực thuần lý chính trị (politique spéculative). Nghiên cứu, thúc đẩy các trào lưu.

Cách mạng tháng Tám làm tôi rất vui mừng. Tôi mong muốn đóng góp vào việc xây dựng đất nước trong hai lãnh vực sở trường của mình : luật học và nghiên cứu văn học.

Năm 1946, một hôm, ông Nguyễn Hữu Đang, người sau này tham gia Nhân văn Giai phẩm và bị cộng sản kết án 15 năm tù, đến văn phòng luật sư của tôi nói là Cụ Hồ mời tôi đến gặp Cụ có việc cần. Nguyễn Hữu Đang chở tôi đến cái chỗ sau này gọi là Phủ Chủ tịch. Ở đó Vũ Đình Huỳnh, Vụ trưởng Vụ Lễ tân, ra tiếp và đưa vào gặp Cụ Hồ. Cụ gọi tôi là Ngài. Cụ nói : “Như Ngài đã biết, chính phủ vừa ký kết với Pháp một bản tạm ước. Theo bản tạm ước ấy, sắp tới, giữa ta và Pháp sẽ có một hội nghị quan trọng. Xin Ngài giúp soạn giùm cho một bản lập trường của chính phủ (thèse gouvernemental) để sử dụng như một cương lĩnh chỉ đạo cuộc hội nghị”. Tôi đáp : “Công việc này quan trọng quá, xin Cụ nhờ một người nào giỏi và có kinh nghiệm hơn tôi”. Cụ Hồ nói : “Tôi đã hỏi ý kiến nhiều người và ai cũng bảo là chỉ có Ngài mới có thể làm được thôi”. Cuối cùng tôi nhhận lời, về nhà, đóng cửa văn phòng luật sư, vận dụng tất cả kiến thức về luật pháp quốc tế cũng như những điều khoản căn bản của tạm ước để soạn bản lập trường. Đến khi đem trình, được Cụ Hồ chấp thuận và do đó, buộc tôi phải tham dự Hội nghị Đà Lạt.
Chúng tôi hỏi:
– Luật sư giữ vai trò gì tại Hội nghị này ?
– Tôi là trưởng ban văn hóa và là uỷ viên trong ban chính trị.
– Cuộc hội nghị thành công tốt đẹp ?
– Vâng, về cuộc hôi nghị này, đã có nhiều ngườ viết. Chỉ có một điều ít ai biết là, kết thúc cuộc hôi nghị, hai bên đã tổ chức một bữa tiệc chung. Trong bữa tiệc ấy, tên tuỳ viên của thuỷ sư đô đốc Argenlieu đến cạnh tôi, nói là thuỷ sư đô đốc muốn gặp tôi để nói chuyện. Tôi bảo là tôi không phải trưởng đoàn do đó không có tư cách gì để gặp gỡ thuỷ sư đô đốc cả. Tên tuỳ viên lại bảo đây là sự gặp gỡ thân mật có tính cách cá nhân thôi chứ không phải để bàn bạc điều gì quan trọng cả. Nghe thế, tôi đứng dậy, rời bàn tiệc ra ngoài hành lang gặp Argenlieu. Lúc ấy trong bàn tiệc ai cũng thấy cả. Và cuộc nói chuyện cũng rất vu vơ, thăm hỏi xã giao về công ăn việc làm thôi. Thế nhưng, về Hà Nội bỗng dưng lại có tin đồn là Nguyễn Mạnh Tường thông đồng với giặc, là Nguyễn Mạnh Tường bán nước…
Chúng tôi hỏi:
– Luật sư có biết tin đồn đó xuất phát từ đâu không ?
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cười:
– Thì cũng phải có người phát thì nó mới động chứ. Tin đồn đó là cả một chiến dịch được tổ chức hẳn hoi. Anh Hoàng Xuân Hãn lúc ấy phải đến gặp hình như là Võ Nguyên Giáp thì phải, bảo Tường làm cái gì mà người ta lại tung tin đồn là nó bán nước, theo giặc ghê quá vậy. Nguy cho nó lắm. Mà nguy thật, chỉ cần một phát súng, một mũi dao là xong đời chứ gì. Từ khi anh Hãn can thiệp, tin đồn ấy mới lắng xuống rồi biến mất.
Chúng tôi hỏi:
– Có thể coi đó là nguyên nhân khiến cho về sau cộng sản bạc đãi luật sư chăng ?
– Không phải. Cộng sản, những người tham dự hội nghị cùng với tôi, họ biết thực hư, đầu đuôi thế nào hết chứ. Đâu có phải vì tin đồn ấy mà ngườ ta bạc đãi tôi. Đối với trí thức, nói chung cộng sản dùng thì dùng, nhưng bảo là họ có mến yêu không thì tôi… không dám nói là có.
Chúng tôi hướng câu chuyện vào vấn đề chúng tôi quan tâm nhất và có lẽ nhiều người cũng quan tâm đến nhất:
– Theo các tài liệu được phổ biến tại miền Nam trước đây cũng như ở ngoại quốc, luật sư có tham gia vụ Nhân văn Giai phẩm vào những năm 56, 57 ?
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đáp nhanh:
– Thật ra tôi không hề tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm. Mãi sau này khi người ta kết án nhóm Nhân văn Giai phẩm, tôi mới biết đó là một tổ chức chống đảng với những tên tuổi như Trần Dần, Trần Duy, Hoàng Cầm… gì đó.
– Thế nhưng luật sư cũng có mấy bài viết cùng chung lập trường với họ.
– Vâng, tôi có cả thảy hai bài viết mà ông Hoàng Văn Chí có đăng lại trong quyển Trăm hoa đua nở trên đất Bắc ấy mà. Nguyên là, một hôm ông Nguyễn Hữu Đang và ông Trần Thiếu Bảo, chủ nhà xuất bản Minh Đức đến gặp tôi để xin bài. Cả hai đều quen biết với tôi từ trước. Chuyện gặp ông Nguyễn Hữu Đang tôi có kể qua lúc nãy. Còn ông Trần Thiếu Bảo thì tôi gặp ở Thái Bình thời kháng chiến chống Pháp. Lúc ấy, ông Bảo cũng làm nhà xuất bản. Tôi có đưa cho ông ấy xuất bản quyển “Một cuộc hành trình”, quyển sách đầu tiên của tôi bằng tiếng Việt.
– Đó là một quyển hồi ký ?
– Không. À mà cũng có thể gọi là nửa hồi ký, nửa nghị luận. Đại khái tôi kể chuyện cuộc đời mình, từ một người trí thức tham gia kháng chiến chống Pháp giành độc lập cho đất nước như thế nào…
– Xin trở lại vụ Nhân văn Giai phẩm…
– Vâng, thì cái bài đăng trên Giai phẩm mùa thu năm 1956 là thế. Còn bài viết về vụ cải cách ruộng đất thì là thế này: đó là bài tôi nói chuyện trong một cuộc hội nghị của Mặt trận Tổ quốc. Các anh cũng biết là vụ cải cách ruộng đất đã thất bại nặng nề đến nổi ông Trường Chinh đã phải mất chức Tổng bí thư đảng cơ mà. Lúc đó có phong trào sửa sai ghê lắm. Trong cái cuộc vận động sửa sai như thế, ông Tố Hữu rồi ông Trường Chinh rồi ông Xuân Thuỷ đã lần lượt gọi tôi đến nhà riêng của các ông ấy để yêu cầu tôi, trong hội nghị của Mặt trận Tổ quốc, trình bầy cho mọi người biết thế nào là dân chủ. Các ông ấy nói là sau sai lầm của cải cách ruộng đất, chúng ta phải cố làm sao cho chế độ xã hội chủ nghĩa trở thành một chế độ thực sự dân chủ. Nghe thế, tôi mừng quá nên nhận lời ngay. Thế rồi hội nghị được tổ chức. Tôi thuyết trình trọn cả ngày, ba giờ buổi sáng, ba giờ buổi chiều. Thuyết trình xong, người ta khen ghê lắm. Ông Trường Chinh, Ông Xuân Thuỷ, ông Dương Bạch Mai sau đó lại yêu cầu tôi viết lại bài nói chuyện đó để đưa mấy ông xem.
– Thế, trong hội nghị, luật sư chỉ nói miệng chứ không đọc bài viết đã soạn sẵn ?
– Không, thì giờ đâu. Chính mấy ông ấy bảo thì tôi mới viết lại chứ. Tôi đánh máy bài viết thành hai bản, nộp hết cho mấy ông. Thế mà, không biết tại sao, bài viết đó lại lọt ra nước ngoài, bọn báo chí ngoại quốc làm ầm ỉ lên thế mới chết chứ.
– Luật sư có nhớ chắc là không hề đưa bài viết ấy cho ai khác ?
– Chắc chắn. Cả hai bản đánh máy tôi đều nộp hết cho ông Trường Chinh và ông Xuân Thuỷ. Tôi chỉ giữ lại bản nháp viết tay thôi.
– Thế thì luật sư có thể đoán được là tại sao, từ nguồn nào, bài viết của luật sư lại lọt ra nước ngoài được không ?
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cười lắc đầu:
– Chịu thôi. Ở đời vẫn có những bí mật mật như thế đó, các anh ạ.
Chúng tôi lại hỏi:
– Thế sau khi bài viết bị tiết lộ ra ngoài thì cộng sản đối xử với luật sư như thế nào ?
– Thì còn đối xử như thế nào nữa. Kiểm điểm rồi đuổi việc thôi.
– Luật sư có thể cho biệt nội dung của nhửng cuộc kiểm điểm ấy được không ạ ?
– Được chứ. Thì ở đâu cũng giống nhau thôi. Cứ khăng khăng buộc tội tôi chống đảng.
– Khi buộc tội như vậy người ta dựa vào nôi dung bài thuyết trình của luật sư hay dựa vào sự kiện bài tham luận được chuyển ra nước ngoài ?
– Dựa vào nội dung bài thuyết trình mới chết chứ. Còn chuyện tại sao bài ấy lọt ra nước ngoài thì tôi có biết đâu. Và cũng không ai ghép tội tôi được : bằng chứng đâu ?
– Nhưng nội dung bài thuyết trình, như luật sư cho biết là được soạn theo yêu cầu của ông Trường Chinh, Xuân Thuỷ, Tố Hữu mà…
– Thì đấy…
– Tại sao luật sư không nói cho họ biết điều đó ?
– Có. Tôi có nói chứ. Nhưng ai nghe ? Người ta bảo cán bộ yêu cầu tôi phát biểu về nội dung khái niệm dân chủ chứ đâu có yêu cầu tôi chống lại đảng ?
– Thế luật sư có chống lại đảng không ?
– Ít ra, trong cuộc thuyết trình tại Hội nghị của Mặt trận Tổ quốc cũng như trong bài viết lại mà tôi nộp cho ông Trường Chinh, ông Xuân Thuỷ… thì tuyệt đối không có một câu, một chữ nào chống đảng cả. Tôi chỉ phê phán những sai lầm trong cải cách ruộng đất thôi. Mà những sai lầm ấy thì quá hiển nhiên, ngay cả đảng cũng nhìn nhận mà, chứ đâu phải mình tôi.
– Luật sư có đi tham gia cải cách ruộng đất ?
– Có. Hồi ấy tất cả mọi cán bộ đều phải về các địa phương để tham gia cải cách ruộng đất cả. Tôi cũng phải đi
– Luật sư về địa phương nào ?
– Phủ Nho Quan
– Công việc của các cán bộ cụ thể là làm gì ?
– Để phụ với nhân dân tổ chức các cuộc cải cách ruộng đất thôi.
Trầm ngâm một lát, luật sư Nguyễn Mạnh Tường kể tiếp :
– Chính trong những đợt đi xuống điạ phương ấy tôi mới thấy rõ, thấy hết sự tàn bạo của nó.
Lại im lặng. Chúng tôi cũng im lặng chờ đợi. Giọng của luật sư Nguyễn Mạnh Tường trầm trầm, buồn buồn :
– Đầu tiên, về Phủ Nho Quan, chúng tôi được học tập là theo lệnh từ trên, tại điạ phương này có cả thảy 80% dân chúng thuộc thành phần địa chủ. Tôi điếng cả người. Phẩn nộ thấy ngay cách làm việc như vậy là rất trái khoa học. Khoa học nào cũng phải sử dụng phương pháp quy nạp, phải căn cứ trên quá trình điều tra thực tế cẩn thận, từ thực tế mà đúc kết thành nhận định. Đằng này thì mấy ông từ Trung ương cứ tưởng tượng ra các chỉ tiêu rồi ra lệnh xuống bắt các địa phương phải thực hiện. Cán bộ địa phương muốn hoàn thành công tác thì phải kích thôi. Có nhiều gia đình nghèo xơ nghèo xác, ở trong một căn nhà hẹp có hai gian, tài sản đâu chỉ được một hai mẫu ruộng, thế mà cũng bị khép vào thành phần địa chủ. Để cho đủ số lượng ấy mà ! Tội lắm. Oan ức nhiều không sao kể hết được.
– Luật sư có tham gia vào cuộc xử án nào không ?
– Không. Người ta đâu có cần luật sư. Mình đi cốt là để rèn luyện quan điểm, rèn luyện lập trường thôi chứ đâu phải để xử án hay để biện hộ cho ai.
– Thế thì ai làm chánh án, luật sư trong các vụ đấu tố ?
– Chẳng có chánh án, luật sư gì cả. Phiên toà được tổ chức ở một bãi sân rộng đâu đó trong làng. Mấy anh thuộc thành phần bần cố nông ngồi ngất ngưởng trân bàn để luận tội, còn mấy người bị gọi là địa chủ thì bị xích cổ, trói chân, trói tay quỳ mọp giữa sân…
– Có cả chuyện xích cổ ư ?
– Có. Suốt “phiên toà”, hết bần cố nông này lên tiếng chửi thì bần cố nông khác lên chửi tiếp. Xong rồi thì đến lượt hành hình địa chủ, vậy thôi.
– Luật sư có bao giờ can thiệp vào những vụ đấu tố dã man như vậy không ?
– Có mà muốn chết à ? Không. Có chảy nước mắt thì cũng ráng mà giấu đi.
– Có địa chủ nào được quyền tự biện hộ, tự thanh minh cho mình không ?
– Không. Lúc đó ai cũng hồn kinh phách tán cả rồi, mặt mũi xanh rờn, đứng còn không nổi nữa thì nói gì đến chuyện tự biện hộ. Mà ai cho ? Cứ bị khép vào thành phần địa chủ là coi như đã chết.
– Luật sư có phỏng đoán được số lượng những người bị giết chết trong đợt cải cách ruộng đất ở miền Bắc vào hồi ấy là bao nhiêu không ?
– Không. Chỉ biết được ở cái điạ phương mình về thôi.
– Cụ thể, ở Phủ Nho Quan là bao nhiêu người bị giết chết ?
– Tôi không nắm con số. Nhưng nhiều, nhiều lắm. Hơn nữa, sau các đợt cải cách ruộng đất còn có các đợt chỉnh phong trong hàng ngũ cán bộ cũng làm cho nhiều người bị oan ức lắm.
– Nội dung các cuộc chỉnh phong là sao ?
– Là trừng phạt những đảng viên, những cán bộ có quan hệ ít nhiều với điạ chủ, với phản động. Thậm chí, có nhiều người lúc trẻ là đảng viên Quốc dân đảng, từ năm 45, 46, đã theo kháng chiến rồi vào đảng cộng sản, vậy mà người ta còn truy quá khứ ra để hành tội.
– Sau mấy chục năm, nhìn lại, luật sư đánh giá thế nào về cải cách ruộng đất ?
– Dĩ nhiên là nó sai rồi. Không những sai, nó còn ác, cực ác nữa. Tôi nghĩ nó không có chút gì Việt Nam cả. Người Việt Nam, trong suốt lịch sử mấy ngàn năm, chưa bao giờ tàn bạo đến như vậy. Nó là dấu ấn của Mao…
– Dấu ấn trực tiếp hay gián tiếp ?
– Tôi không biết. Ngay thời kháng chiến chống Pháp, tôi có gặp Đại sứ Trung Quốc trên các chiến khu. Bận một bộ đồ trắng toát, cưỡi ngựa, trông oai quyền ghê lắm. Ông ấy tên Lã Quý Ba. Người ta nói ông ấy chính là kẻ chỉ huy, vạch kế hoạch cho các phong trào cải cách ruộng đất tại Việt Nam.
– Nhưng Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền kia mà ?
– Thì đấy. Ngay cái chuyện bắt chước Liên Xô, bắt chước Trung Quốc đã sai rồi thì những chuyện khác theo đó sai theo…
Chúng tôi trở lại chuyện Nhân văn Giai phẩm :
– Xin luật sư kể tiếp về những hình phạt đối với luật sư ?
– Kiểm điểm rồi đuổi việc. Tôi có kể khi nãy.
– Cụ thể, trước đó, luật sư làm gì ?
– Tôi làm giám đốc Đại học Luật, phó giám đốc Đại học Sư phạm, chủ nhiệm Câu lạc bộ trí thức và nằm trong ban chấp hành của 10 tổ chức quần chúng ở miền Bắc.
– Đó là những tổ chức gì ?
– Uỷ ban Hoà bình thế giới; Hội hữu nghị Việt Xô; Hội hữu nghị VIệt Pháp; Hội Luật gia Việt Nam…
– Luật sư có bị bắt, có bị giam cầm gì không ?
– Không. Chỉ bị đuổi ra khỏi tất cả những nơi đang làm việc. Và độc ác nhất là bị cô lập hoàn toàn. Các anh cứ tưởng tượng suốt mấy chục năm trời, không ai dám đến gặp tôi cả. Họ sợ bị liên luỵ đến bản thân, đến gia đình của họ. Có khi, đi ngoài đường, nhìn thấy tôi từ xa, là bạn bè, học trò cũ của tôi phải tránh đi chổ khác. Tôi cũng không trách gì họ. Vì sự an toàn của họ, họ phải làm thế thôi. Nhưng đau xót lắm.
– Trong thời gian suốt mấy chục năm trời như vậy, luật sư làm gì để sống ?
– Không làm gì cả. Xin việc gì người ta cũng không nhận. Thoạt đầu, cứ bán dần đồ đạc trong nhà mà ăn tiêu. Bán bàn ghế, giường tủ, rồi bán quần áo, giầy dép… cuối cùng phải bán đến cả sách vở tôi dành dụm thu thập sắm trong hai mươi năm. Bán theo giá bán giấy ký thôi. Rẻ mạt. Nhưng cần sống thì phải bán. Cứ mỗi lần bán sách là mỗi lần tôi có cảm tưởng như có ai lấy dao găm đâm vào tim của mình. Rồi tất cả đồ đạc cạn dần, cạn dần. Tôi lại sống bằng sự bố thí của anh em, bạn bè. Lâu lâu người này cho cái đồng hồ, người khác cho một ít tiền.
– Những người giúp luật sư thuộc thành phần nào ?
– Một số là học trò cũ của tôi; một số là những bạn bè cuả tôi lúc tôi còn ở Pháp và một số khác nữa là những người hoàn toàn xa lạ vì nghe tiếng tôi, thương cho hoàn cảnh của tôi, từ Pháp thỉnh thoảng cho một ít quà.
– Họ là người Việt Nam hay người Pháp ?
– Người Việt có, người Pháp có.
Thấy cuộc nói chuyện đã khá thân mật, chúng tôi dè dặt nêu ra câu hỏi khác, một câu hỏi thú thật chúng tôi rất tò mò :
– Ba mươi lăm năm sống dưới chế độ cộng sản, luật sư nhận xét gì về cái chế độ này ?
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường đắn đo một lát rồi đáp :
– Mình nên khách quan. Người cộng sản họ vừa có công lại vừa có tội.
– Luật sư nghĩ gì khi có người gọi chế độ cộng sản tại Việt Nam là một nhà nước công an trị (état policier) ?
– Đồng ý thôi. Điều đó thì rõ quá.
– Có người còn phân tích thêm, cái nhà nước công an trị ấy tồn tại bằng ba cơ chế : thứ nhất là công an khu vực; thứ hai là hộ khẩu; thứ ba là chế độ quản lý lương thực. Luật sư nghĩ sao ?
– Đúng. Từ khi bị thất sủng, tôi vô cùng thấm thía những cái chuyện đó. Không đi làm được, sống bằng cách bán đồ đạc hoặc bằng sự bố thí của người khác mà phải mua lương thực tự do giá cao gấp trăm lần giá chính thức thì khó khăn ghê lắm. Có lúc tưởng không vượt qua được. Còn chuyện hộ khẩu và công an khu vực thì khỏi phải nói. Những chuyện ấy bây giờ vẫn còn đấy nhé
– Luật sư qua Pháp đã gấn hai tháng nay, luật sư có theo dõi tình hình tại các nước Đông Âu không ?
– Có chứ.
– Luật sư nghĩ sao ?
– Mừng. Mừng lắm.
– Tình hình Việt Nam hiện nay thì sao ?
– Khó khăn lắm.
– Phong trào đổi mới rồi sẽ tới đâu ?
– Chưa biết được. Nhưng có điều chắc chắn là sẽ không có gì đổi mới cả nếu chưa có dân chủ, trước hết là chưa tôn trọng luật pháp . Vì luật pháp không anh minh cho nên có kêu gào đầu tư đến mấy cũng không có ai dám liều lĩnh đầu tư cả. Kinh tế vẫn kiệt quệ mải.
– Tại sao cộng sản lại cho một người như luật sư sang Pháp ?
– Tôi nộp đơn xin xuất cảnh đúng vào thời điểm họ tuyên bố đổi mới. Chứ nếu bây giờ, chưa chắc đã đi được.
– Luật sư nộp đơn xin xuất cảnh từ lúc nào ?
– Năm ngoái. Hai tháng sau thì cầm được giấp phép của Việt Nam Nhưng nộp vào Toà đại sứ Pháp thì phải chờ đúng tám tháng.
– Luật sư có ý định ở lại Pháp luôn không ?
– Không. Tháng 12 tới tôi sẽ về lại. Trong thần thoại Hy Lạp có chuyện một vị thần chỉ mạnh mẽ khi đứng trên mặt đất, hễ ai nhấc lên khỏi mặt đất thì thành ra yếu ngay. Tôi nghĩ một người trí thức hay một văn nghệ sĩ cũng vậy. Phải ở trong nước, giữa những thử thách mới tìm ra được sức mạnh.
– Có một số anh em trí thức yêu nước, muốn về Việt Nam để canh tân đất nước, luật sư nghĩ là có nên hay không ?
– Không. Cứ ở đây làm việc. Đừng về. Về sẽ bị kẹt.
– Tại sao ?
– Tôi có nhiều kinh nghiệm về chuyện này. Thế hệ của tôi, bao nhiêu người tài giỏi, Trần Đại Nghĩa, Trần Hữu Tước… Về nước họ có làm được gì đâu ? Thì cũng có một vài đóng góp đấy, nhưng tôi nghĩ, hoàn toàn không tương xứng với khả năng của họ. Đó là chưa kể đến những người kém may mắn hơn. Như tôi chẳng hạn. Có làm gì được đâu ?
– Lâu nay, luật sư có viết lách gì không ?
– Có. Mấy chục năm qua, tôi hoàn thành được bốn công trình nghiên cứu. Môt là “Lý luận giáo dục” (ở châu Âu từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18); hai là “Eschylle và bi kịch cổ đại Hy Lạp”; ba là “Virgile và anh hùng ca latin”; bốn là dịch vở kịch của Eschylle.
– Luật sư viết bằng tiếng Việt hay tiếng Pháp ?
– Tất cả đều bằng tiếng Việt. Dụng ý của tôi là để cho người Việt đọc. Tôi mượn những vấn đề trên để cho người Việt đặc biệt là những người lãnh đạo hiểu thế nào là con người, thế nào là dân chủ, tự do, thế nào là quan hệ giữa chính trị và văn nghệ, v.v…
– Những quyển sách ấy có được in ra chưa ?
– Chưa. Tôi có gửi lên Ban khoa giáo Trung ương. Người ta khen là nghiên cứu công phu. Nhưng đến nay không ai chịu in cả. Người ta bảo là không có giấy.
Nhìn đồng hồ thấy đã hơn 6 giờ chiều. Mùa đông trời tối sớm. Chúng tôi cám ơn luật sư Nguyễn Mạnh Tường để chấm dứt câu chuyện đã kéo dài hơn ba giờ liền. Và hỏi :
– Thưa luật sư, chúng tôi ghi âm buổi nói chuyện hôm nay với mục đích giữ làm kỷ niệm. Tuy nhiên không biết luật sư có đồng ý cho phép chúng tôi công bố những điều luật sư phát biểu chăng ?
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cười dễ dãi :
– Các anh cứ tự nhiên. Những điều tôi nói toàn là sự thật cả.
– Sắp về lại Việt Nam, luật sư không sợ sao ?
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường cười to :
– Các anh nhớ là tôi đã 80 tuổi rồi. Tính theo tuổi ta là 81 đấy.
Chúng tôi ra về, lòng phơi phới vui. Vui vì được gặp một người lâu nay mình ngỡ đã chết. Vui hơn nữa, vì thấy Nguyễn Mạnh Tường, cái tên tuổi mình từng kính phục từ thưở bùng nổ vụ Nhân văn Giai phẩm ở miền Bắc, sau bao nhiêu đoạ đầy, vùi dập, vẫn giữ nguyên cái sĩ khí của một người trí thức uy vũ bất năng khuất. Ở Việt Nam giờ đây, còn được bao nhiêu người như thế nhỉ ?

Trẻ sơ sinh tử vong đồng loạt ở Bắc Ninh là ‘do nhiễm khuẩn’

Ngành nào trong chế độ này cũng đều không thể tin… vì họ đã gây ra những chuyện động trời,khiến không niềm tin không còn tồn tại!!!
****************

Trẻ sơ sinh tử vong đồng loạt ở Bắc Ninh là ‘do nhiễm khuẩn’

Nhiễm khuẩn bệnh viện có thể là nguyên nhân khiến cho bốn trẻ sơ sinh tử vong đồng loạt ở tỉnh Bắc Ninh, theo kết luận ban đầu của Hội đồng Chuyên môn Sở Y tế Bắc Ninh được công bố vào chiều ngày 21/11, báo chí trong nước đưa tin.

Kết luận ban đầu của Viện Khoa học Kỹ thuật hình sự dựa trên kết quả giám định pháp y cũng cho thấy bốn trẻ tử vong là do ‘sốc nhiễm khuẩn’, theo báo mạng VnExpress.

Bốn bé sơ sinh này, được cho đều là trẻ sinh non, yếu, nhẹ cân và mang bệnh bẩm sinh, đã tử vong vào sáng ngày 20/11 tại Bệnh viện Sản nhi Bắc Ninh, sau khi được chăm sóc trong lồng ấp và được cho thở máy.

Vụ việc đã khiến Bộ trưởng Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến phải về Bắc Ninh thị sát tình hình và có buổi làm việc với giới hữu trách Y tế của tỉnh này trong ngày 21/11. Một Hội đồng Chuyên môn bao gồm các bác sỹ Nhi và Sản khoa đầu ngành cùng với giám đốc Sở Y tế Bắc Ninh đã được thành lập để điều tra về vụ việc.

Ngoài 4 trẻ đã tử vong, 7 trẻ khác ở Bệnh viện Sản Nhi Bắc Ninh cũng đã được xác địch bị nhiễm trùng huyết và đã được chuyển về Bệnh viện Nhi Trung ương và Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội, ngay chiều tối 20/11 cùng với bốn trẻ khác cũng đang được điều trị tại bệnh viện này.

Theo công bố của bà Tô Mai Hoa, Giám đốc Sở Y tế Bắc Ninh, tại buổi họp báo chiều ngày 21/11, thì bốn trẻ tử vong này “đã nhiễm khuẩn sau 3-5 ngày điều trị tại bệnh viện” và “Nguyên nhân nhiễm khuẩn sơ sinh có thể liên quan nhiễm khuẩn bệnh viện”.

Hiện kíp trực trong ngày 20/11 đã bị Bệnh viện Sản Nhi Bắc Ninh đình chỉ để tường trình và phục vụ điều tra còn buồng cách ly bé sơ sinh tại đây cũng đã bị đóng cửa để khử khuẩn.

Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến đã nhìn nhận đây là một vụ việc ‘bất bình thường’ vì bốn bé sơ sinh chết ‘trong cùng một ngày, cùng một khoa’.

Trao đổi với VOA, Bác sỹ Nguyễn Thị Ngọc Phượng, người từng là Giám đốc Bệnh viện Từ Dũ, nói rằng “nhiễm khuẩn bệnh viện cũng có thể có”.

“Có những loại vị trùng thường xuyên có trong bệnh viện. Trẻ non tháng là rất dễ nhiễm bệnh, dễ chết,” bà giải thích, “Có một thắc mắc là tại sao các bé cùng tử vong trong một buổi sáng.”

“Cũng có khả năng là các cháu đã bị nhiễm trùng dài ngày rồi nhưng không được điều trị đúng mức đến mức các cháu yếu quá và bị chết cùng một lúc,” bà nói thêm.

Bà Phượng cũng nhận định rằng nếu để xảy ra tình trạng nhiễm khuẩn thì lỗi là “ở bệnh viện”.

“Lãnh đạo bệnh viện, lãnh đạo khoa phải có trách nhiệm,” bà nói. “Có tai biến nghiêm trọng như vậy thì là lỗi hệ thống chứ không phải lỗi cá nhân.”

Tuy nhiên bà cũng mong dư luận đừng quá khắt khe đối với những người làm ngành y ở Việt Nam.

“Đã làm trong ngành Y khoa thì không ai muốn bệnh nhân mình bị tai biến. Đây là điều mình phải thông cảm cho người làm trong ngành.”

Bà nói rằng bên Mỹ cũng có những sơ suất trong ngành y làm ảnh hưởng đến sức khỏe và tính mạng của bệnh nhân.

Bà nói thêm:
“Xin dư luận đừng quá sức buộc tội những người làm trong ngành. Ngành y tế Việt Nam cũng phải nói là làm việc rất nặng nhọc. Cứ mỗi lần xảy ra tai biến như thế thì cả xã hội lên án.”

“Nếu áp lực nặng nề quá thì chắc là ngành y ai cũng ngán ngẩm lắm (không dám vào)”.

Nhiễm khuẩn bệnh viện có thể là nguyên nhân khiến cho bốn trẻ sơ sinh tử vong đồng loạt ở tỉnh Bắc Ninh, theo kết luận ban đầu của Hội đồng Chuyên môn Sở Y…
VOATIENGVIET.COM