VIỆT KHANG & TRÚC HỒ

Image may contain: 7 people, people smiling

Trinity Hồng Thuận is with Đoàn Phi and 6 others.

VIỆT KHANG & TRÚC HỒ

Nhạc sĩ Việt Khang vừa đặt chân đến Hoa Kỳ được vài ngày, thì như là theo một chỉ thị chung nào đó, trên mạng bắt đầu rộ lên những đánh phá, những câu chuyện được thêu dệt, hay những status “vạch lá tìm sâu”, nhằm gieo rắc sự nghi ngờ, tạo thêm những chia rẻ trong cộng đồng người Việt trong và ngoài nước, trước một sự kiện đáng ra là một tin vui chung.

Đây cũng không phải là lần đầu tiên chúng ta nhìn thấy những chiêu trò này. Nếu tinh ý thì sẽ thấy rằng mỗi lần có những chiến dịch, những phong trào đấu tranh được phát động, hay khi chúng ta đạt được những thành quả dù nhỏ như việc áp lực được nhà nước CSVN trả tự do cho một tù nhân lương tâm nổi trội nào đó, thì y như rằng sẽ có những thành phần bất lương tìm đủ mọi cách để gây xào xáo.

Trước đây từ những bài viết về việc “Trúc Hồ trục lợi hàng triệu đô trên nhạc của Việt Khang nhưng lại gởi về cho anh chỉ vài trăm đô”, với những bài phỏng vấn Việt Khang giả được dựng lên như thật từ những cá nhân rêu rao rằng mình rất quan tâm đến hoàn cảnh Việt Khang. Cho đến bây giờ khi Việt Khang đã đặt chân đến Hoa Kỳ, thì cũng chính những cá nhân tự xưng là “nhà báo”, “nhà đấu tranh” đó lại là những người tiếp tục tung ra những bài viết, những status về việc Việt Khang “bỏ vợ bỏ con để đi Mỹ”, Việt Khang “vô ơn bạc nghĩa” như thế nào, hay Việt Khang “sẽ bị tổ chức này, nhóm nọ lợi dụng” ra sao… Và mục đích của họ chỉ là để làm sao làm nản lòng người nhạc sĩ yêu nước vừa được đến xứ tự do.

Trúc Hồ “trục lợi” Việt Khang ra sao?

Hôm nay trong buổi tâm tình với nhạc sĩ Việt Khang, anh và nhạc sĩ Trúc Hồ đã chia sẻ rất nhiều về những tình cảm gắn bó và sự hỗ trợ của nhạc sĩ Trúc Hồ với anh trong những năm vừa qua. Từ khi anh còn trong hoàn cảnh khắc nghiệt trong tù và phải tìm mọi cách để gởi các bài nhạc ra ngoài, để anh Trúc Hồ có thể hòa âm và phổ biến. Đến khi anh ra khỏi nhà tù nhỏ và nhạc sĩ Trúc Hồ vẫn tiếp tục bôn ba đi gõ cửa khắp nơi để tìm cách giúp anh thoát ra ngoài, để anh có thể tự do sáng tác và đưa những giòng nhạc thiết tha với vận mệnh đất nước được bay xa.

Theo nhạc sĩ Việt Khang cho biết, trong những năm qua anh và nhạc sĩ Trúc Hồ thường xuyên trao đổi, có nhiều lần anh muốn lên tiếng đính chính cho anh Trúc Hồ, nhưng đều bị anh Trúc Hồ gạt phăng ra, vì đối với anh Trúc Hồ, sự an toàn của Việt Khang là trên hết. Anh Trúc Hồ muốn Việt Khang giữ im lặng, để không ảnh hưởng đến quá trình vận động mà anh Trúc Hồ đang thực hiện để giúp anh.

Nhạc sĩ Trúc Hồ cũng kể lại chặng đường nhiều cam go khi vận động cho nhạc sĩ Việt Khang, mà đặc biệt trong hơn một năm qua, có những lúc tưởng chừng như đã thành công nhưng cuối cùng lại thành công cốc. Ngay cả lúc tưởng như chắc chắn khi nhạc sĩ Việt Khang đã cầm vé máy bay trên tay, nhưng rồi phải đối mặt với sự tráo trở của CSVN. Cuối cùng, với sự đấu tranh rất quyết liệt của Thượng nghị sĩ John McCain và cô phụ tá là Luật sư Thục Minh, hai anh em đã có thể gặp nhau bằng xương bằng thịt.

Một tình cảm thật đáng quý và đầy tính nhân bản giữa hai tâm hồn nghệ sĩ yêu quê hương. Những lời kể chân tình và những giọt nước mắt của hai người đàn ông làm cho người nghe cũng phải khóc theo.

Tinh thần và tình cảm của Trúc Hồ – Việt Khang bỗng dưng biến những đánh phá, ồn ào ngoài kia thành những trò hề. Điều quan trọng còn lại đó là những tâm hồn chân thật, trong sáng, cuối cùng đã đến được với nhau.

Mong những tâm hồn yêu nước của người Việt trong cũng như ngoài hãy cùng đến với nhau như vậy. Hãy xóa bỏ những nghi ngờ, và tuyệt đối làm ngơ, không vô tình tiếp tay cho những thành phần bất hảo. Trong một xã hội tự do, công chúng đồng loạt ghê tởm và xa lánh là cách làm xẹp những nỗ lực phá hoại hữu hiệu nhất.

Nhà hoạt động Trương Minh Tam đi tị nạn chính trị ở Hoa Kỳ

 

Nhà hoạt động Trương Minh Tam đi tị nạn chính trị ở Hoa Kỳ

Ông Trương Minh Tam. (Hình: Facebook Trương Minh Tam-Ngày Mới)

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Nhà hoạt động Trương Minh Tam vừa từ phi trường quốc tế Nội Bài lên đường đi tị nạn chính trị ở Hoa Kỳ.

Chiều 31 Tháng Giêng, sau khi đã quá cảnh ở Đài Bắc, Đài Loan, ông Tam công bố tin ông đi tị nạn trên trang Facebook cá nhân với sự sắp đặt của nhân viên Tổ Chức Di Trú Quốc Tế (IOM).

Dường như ông Tam rời khỏi Việt Nam không phải với hộ chiếu trong tay, vì ông viết rằng “nhân viên IOM trao cho tôi túi IOM – chiếc túi chứa đựng toàn bộ số phận tương lai của tôi và nó có giá trị như một tấm visa đặc biệt để vào Hoa Kỳ khi trong tay tôi không có bất kỳ giấy tờ gì chứng minh tôi là tôi.”

Ông Tam cũng viết thêm: “Tôi lần đầu đáp xuống phi trường Đài Bắc. Cơn mưa nhẹ nhàng thanh thản và tôi đứng ngắm nó. Phía sau lưng tôi là Việt Nam, tôi đã rời nó không biết ngày nào trở về. Nhưng lòng tôi lúc này như cơn mưa. Tôi băn khoăn nhưng tôi không hận thù về quá khứ.”

“Tôi không sao quên quá khứ khi tôi đã từng bị bốn nhân viên công vụ của nhà nước Việt Nam làm nhục tôi ở trại giam Hoả Lò và công an Hà Tĩnh khi tôi là người đồng tính. Tôi không quên nhưng tôi chỉ nhớ để hiểu rằng tôi đang sống giữa nhân gian này thật nhỏ bé, bất lực, khổ đau, hạnh phúc… Nhưng điều đó ăn nhậu gì khi tôi vẫn sống đây với tất cả sự bình thản như khói như mây!”

Bộ hồ sơ do IOM trao cho ông Trương Minh Tam. (Hình: Facebook Trương Minh Tam-Ngày Mới)

Hồi Tháng Năm, 2016, ông Trương Minh Tam (sinh năm 1970), thành viên của phong trào Con Đường Việt Nam, bị công an bắt giam sáu ngày cùng lúc với Chu Mạnh Sơn. Hai ông này bị cáo buộc “xúi giục hàng ngàn người đi biểu tình vì môi trường hôm 1 Tháng Năm, 2016.”

Thời điểm đó, ông Tam cho hay chính quyền phải thả ông sau vài ngày giam giữ vì “không có đủ bằng chứng để truy tố, cũng như một phần do áp lực từ công luận.”

Tháng Tư, 2016, ông Tam được ghi nhận xuất hiện tại Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, để đưa tin về vụ cá chết hàng loạt tại vùng biển miền Trung trước thời điểm Hà Nội công bố thảm họa này do công ty Formosa gây ra.

Hồi năm 2017, ông Tam bị báo điện tử VOV của Đài Tiếng Nói Việt Nam đưa cáo buộc “nhận tiền của các tổ chức phản động để thu thập thông tin, phát tán hình ảnh trên mạng Internet nhằm kích động người dân, gây phức tạp tình hình an ninh chính trị.”

Báo Công An Nghệ An hồi Tháng Mười Một, 2017 viết: “Trương Minh Tam thường xuyên được tổ chức Con Đường Việt Nam – một tổ chức ngoại vi của Việt Tân hỗ trợ, trả lương khoảng $400/tháng để hoạt động theo chỉ đạo của chúng. Trương Minh Tam và những người khác đã hoạt động dưới sự chỉ đạo của tổ chức phản động, móc nối, cấu kết với nhiều đối tượng cực đoan, kích động quần chúng tổ chức các cuộc tuần hành, biểu tình phản đối Formosa ở Nghệ An và Hà Tĩnh thời gian qua.” (T.K.)

Thế nào là “thông minh kiểu Việt Nam và Trung Quốc”?

Thế nào là “thông minh kiểu Việt Nam và Trung Quốc”?

Nhiều người Việt Nam và Trung Quốc có cùng một suy nghĩ giống nhau, đó là hay cười nhạo người Tây phương ngu ngốc, không hiểu chuyện đời, “não không có nếp nhăn”, và bản thân họ lấy làm tự mãn. Vậy rốt cuộc thông minh theo kiểu người Việt Nam và Trung Quốc là như thế nào?

Gần đây, một kênh truyền thông New Zealand đã đăng một bài viết nói về “thông minh kiểu Trung Quốc” và nhận được sự chú ý của đông đảo người sử dụng internet. Tác giả bài viết tự nhận là người Hoa, đã nhận định rằng “thông minh kiểu Trung Quốc” chính là không màng trắng đen hay thị phi, không cần biết thật giả hay đúng sai, có sơ hở liền lách vào, có tiện nghi liền chiếm lấy. “Thông minh kiểu Trung Quốc” chính là không màng chính nghĩa hay tà ác, bất cứ lúc nào cũng có thể vì bảo hộ bản thân mình mà làm trái lương tâm. “Thông minh kiểu Trung Quốc” chính là để cho người khác phải phó xuất và gặp nguy hiểm, còn bản thân mình những gì mười phần có lợi sẽ giành lấy hết. Kỳ thực, “thông minh kiểu Trung Quốc” chính là không nói đến thành tín, ức hiếp người thiện lương, chính là các giá trị đều đã đảo lộn, không xét đến quy tắc…

Nhiều người Việt có người thân là Việt Kiều ở Mỹ, có thể đã nghe câu chuyện về việc hàng hóa sau khi mua ở Mỹ có thể được trả và lấy lại tiền mà không cần phải giải thích lý do. Vì vậy, nhiều người khi chuẩn bị tham dự một sự kiện nào đó, liền đến “mua” một bộ quần áo, sau khi tham dự sự kiện xong rồi, lập tức mang trả lại quần áo để lấy tiền về.

Hệ thống bán hàng ở Mỹ còn có một chính sách đáng chú ý, gọi là Price Match. Với chính sách này, nếu bạn mua một sản phẩm sau đó chứng minh được sản phẩm này bán giá rẻ hơn giá tại cửa hàng nào khác, thì có thể được mua sản phẩm với mức giá tương đương mức giá mà bạn tìm thấy. Do vậy, có một số người, khi đi mua hàng với giá đắt hơn những nơi khác, họ không hề mặc cả, mà lại chọn những màu sắc hay kích cỡ (mà ở các cửa hàng khác không có), sau đó khi tìm được cửa hàng nào có mức giá rẻ hơn thì sẽ mang hóa đơn quay lại nơi mua hàng để được giảm giá.

Những người này dương dương tự đắc với hành vi của bản thân, đi đến đâu cũng tự cho rằng bản thân mình thông minh, thậm chí còn đặt câu hỏi sao những người khác quá “ngu ngốc”, không biết lợi dụng “kẽ hở” này.

Coi việc chiếm tiện nghi của người ta là “thông minh”, coi gian xảo là có “năng lực lớn”… mọi giá trị dường như đều đảo lộn.

Bài viết của tác giả người Hoa trên truyền thông New Zealand còn liên hệ đến tỷ phú Warren Buffett. Rất nhiều nhà đầu tư hỏi về tiêu chí chọn đầu tư cổ phiếu của ông Warren Buffett, và thông thường ông hay nhấn mạnh rằng ông rất coi trọng sự thành tín của giám đốc điều hành công ty, nếu không phải công ty làm ăn chân chính, ông nhất định sẽ không lựa chọn đầu tư. Với ông, lợi nhuận không phải là yếu tố hàng đầu, mà là chữ tín.

Một người Hoa đưa đứa con nhỏ mới 3 tuổi đến Mỹ du lịch và ở tại nhà người thân. Người nhà đã đưa cho người Hoa này một chiếc ghế ngồi ô tô dành cho trẻ nhỏ và nói: “Ở đây quy định trẻ nhỏ khi đi xe nhất định phải dùng loại ghế này, tôi đưa cho anh dùng, nhưng vì là ghế đi mượn, nên anh phải giữ gìn cẩn thận, vì chúng ta sẽ phải trả lại cho người ta.” Hai tuần sau khi không dùng xe ô tô nữa, chiếc ghế này đã được đem đến trả lại cửa hàng. Người bán hàng không hỏi lý do tại sao, chỉ đơn giản là đưa đủ số tiền cho người trả hàng. Người nhà liền tự hào nói: “Các cửa hàng ở Mỹ đều như vậy, nếu mua hàng trong vòng 2 tuần thì đều có thể mang hóa đơn đến và trả lại, do đó chúng tôi thường đến đây ‘mượn’ một số đồ đạc. Nhiều người Đại lục thậm chí còn mượn cả TV. Anh nói xem, người Mỹ có ngốc hay không chứ? Trả lại hàng vô điều kiện đúng là sơ hở quá lớn, vậy mà họ còn chẳng biết điều đó!”

Một năm sau, người Hoa này đến Nhật Bản, một số bạn bè đồng hương ở Nhật đã tiếp đón và dùng ô tô để đi lại. Người Hoa này hỏi: “Tokyo đất chật người đông, có phải là rất khó đỗ xe không?”

Đồng hương trả lời: “Không nghiêm trọng đến như vậy đâu, chính phủ quy định cần có chỗ để xe trước rồi sau đó mới được phép mua xe, vì vậy mà không có nhiều xe như anh nghĩ đâu.”

“Ồ, vậy tức là anh có một bãi đỗ xe riêng sao? Chắc là phải đắt đỏ đến mức cắt cổ có đúng không?”

“Anh nghĩ là ai cũng ngốc giống người Nhật Bản sao! Muốn mua xe thì trước tiên đi thuê một chỗ ở bãi đỗ xe, sau khi mua xe xong thì trả lại chỗ đó, vậy chẳng phải là vấn đề được giải quyết hay sao?”

Hai ngày sau, một số bạn bè người Nhật đến đưa người Hoa này đi chơi, họ đi bộ hoặc là đi bằng tàu điện ngầm. Những người bạn Nhật phân trần rằng: “Tokyo mua xe thì dễ, nhưng tìm chỗ đỗ xe thì không dễ dàng gì. Do đó, anh chịu khó đi tàu điện ngầm vậy nhé.”

Người Hoa này lập tức truyền cho anh ấy cách để giải quyết vấn đề. Không ngờ rằng anh ấy đã không “ngộ đạo” mà còn dửng dưng nói: “Nếu muốn lợi dụng sơ hở, thì có nhiều cách lắm. Ví dụ như mẹ tôi sống ở quê, nếu muốn thì có thể dùng hộ khẩu cũ là mua được xe. Nhưng thực tế thì tôi định cư ở Tokyo, không có chỗ đỗ xe mà lại mua xe, vậy thì những người hàng xóm sẽ nhìn tôi như thế nào? Lái xe đi làm, tôi phải đối diện với đồng nghiệp ra sao? Cấp trên và những người đàng hoàng sẽ không làm như vậy.”

Cơ chế trả lại hàng vô điều kiện ở Mỹ và những quy định đầy lỗ hổng ở Nhật, đều được xây dựng trên cơ sở “tín nhiệm”. Nếu sự “tín nhiệm” sụp đổ, thì xã hội cũng sẽ có thể sụp đổ. Do đó, ở xã hội Tây phương, người ta có thể tha thứ cho các chính trị gia làm sai, nhưng không thể tha thứ cho những chính trị gia nói dối.

Nếu như chúng ta “giả đổi thành thật, thật cũng giả”, mỗi người đều hư hư thực thực, thì toàn xã hội sẽ vận hành trên cơ sở “hoài nghi”. Tư duy ảnh hưởng đến hành vi, mà hành vi của mỗi cá nhân sẽ ảnh hưởng rộng ra đến dịch vụ kinh doanh và vận hành xã hội.

Khi đi tàu điện ngầm tại Rome bạn sẽ phát hiện rằng có máy bán vé nhưng không có soát vé. Chắc hẳn bạn sẽ thấy lạ lắm phải không? Làm thế này làm sao kiểm soát được xem hành khách lên tàu có mua vé hay không? Vận hành tàu điện ngầm thế này chẳng phải sớm muộn gì cũng bị lỗ hay sao?

Đây chính là cách nghĩ quen thuộc của chúng ta, luôn liên tưởng mọi chuyện theo kiểu khôn vặt hoặc vì tham lợi nhỏ cho bản thân mình. Đối với người Ý mà nói, nếu chúng ta hỏi câu hỏi này thì thật kỳ lạ. Đi xe có thể không mua vé chăng? Đi xe làm sao có thể không mua vé cho được? Cách nghĩ, cách tư duy của hai bên quả có sự khác biệt lớn.

Nếu như bạn thực sự muốn biết có thể đi tàu mà không cần mua vé hay không, thì câu trả lời là có thể, hoàn toàn có thể lên tàu đi một vài trạm, nhưng phải đảm bảo không để cho giới quản lý ở Ý biết được, nếu biết họ nhất định sẽ phạt bạn. Và sau này nếu bị phạt nhiều lần, có thể tạo thành tiếng xấu ở nước ngoài, thật sự là cái được không bõ cho cái mất!

Xây dựng tín nhiệm không dễ, nhưng điều này lại thực sự quan trọng! Mức độ tín nhiệm lẫn nhau càng cao, thì quản lý sẽ càng nới lỏng hơn. Nếu như đi đúng đường, thì sẽ không sợ phải đi xa!

Nguồn: Linkhay.vn

Ông Trời không đoạt mạng ai. Công an đoạt mạng người dễ như ngồi bàn nhậu.”

V Phung Phung shared Hoa TD‘s post.
 
Image may contain: text
Hoa TD

 

“Không riêng Luân, nhiều người đi cung cũng được điều tra viên đưa cho tờ giấy trắng, gạ ký. Chẳng mấy ai đủ gan từ chối. Phần vì sợ, phần vì nhẹ dạ. Ký khống, coi như đã giúp kẻ tống giam mình quyết định số phận và sinh mạng mình. Nhiều bản án tử hình được tuyên dễ dàng từ những bản ký khống mà ra. Thế mới biết, trên đời to nhất, ghê gớm nhất là công an. Chứ không phải ông Trời. Dứt khoát là thế. Ông Trời không đoạt mạng ai. Công an đoạt mạng người dễ như ngồi bàn nhậu.”

Phạm Thanh Nghiên – Những mảnh đời sau song sắt, tr. 84  

Giấc mơ Việt Nam.

Huỳnh Phi Long shared Le Anh‘s post.

 

Image may contain: 1 person, smiling, text

Le AnhFollow

Giấc mơ Việt Nam.

Nguyễn Thủy Tiên

“CHỈ CÓ SÚC VẬT MỚI CÓ THỂ QUAY LƯNG LẠI NỖI ĐAU KHỔ CỦA ĐỒNG LOẠI MÀ CHĂM LO RIÊNG CHO BỘ LÔNG CỦA MÌNH!” (Karl Marx)

Tôi đã thấy:

Có những thân phận người dân vì quá nghèo không thuê nổi một chiếc xe oto để đưa xác người thân về họ đành chở người thân bằng xe máy.

Nhưng đảng sẵn sảng bỏ ra 1400ty để xây dựng nghĩa trang cho cán bộ cấp cao
Và tôi đã nhìn thấy:

Những trẻ em vùng cao, cơm không có ăn, áo không có mặc trong mùa đông giá lạnh.

Nhưng đảng sẵn sàng phê duyệt xây dựng những tượng đài trăm tỷ, nghìn tỷ. Sẵn sàng bắn pháo hoa vào những lẽ kỷ niệm hàng trăm tỷ chỉ để “biết đâu khi ngắm pháo hoa người ngheo quên cái đói cái nghèo”

Tôi đã nghe:

Hàng chục nghìn tỷ đã bỏ ra để đào tạo ra hàng nghìn giáo sư tiến sỹ nhưng…
Tiến sỹ nước mình không có công trình nào đóng góp cho nhân loại, sự phát triển của đất nước, một đất nước không chế tạo nổi ốc vít vì chi phí quá cao.

Trong khi đó người nông dân lại tự chế tạo được máy bay, tàu ngầm các thiết bị mang tính thực tiễn cao trong cuộc sống. Vậy hàng chục nghìn tỷ bỏ ra để làm gì?

Tôi đã đọc

Chưa có đất nước nào chăm sóc, bảo vệ trẻ em tốt như nước ta 
Nhưng trẻ em thất học còn quá nhiều, bị lạm dụng tình dục nhưng những kẻ tội phạm vẫn được bao che.
………..
Tôi mơ, một giấc mơ tôi tin la có thật, những người có lương tri đồng lòng đứng lên để đòi lại quyền lực thật sự về phía nhân dân.

Tôi có một giấc mơ
(Manh Kim)

Tôi mơ lòng tự ái dân tộc xen lẫn tự hào dân tộc được dồn hết vào việc phát kiến canh tân đất nước

Tôi mơ Việt Nam có thể “trả thù lịch sử” bằng việc “dội bom” xuống khắp Trung Quốc bằng hàng hóa và dịch vụ từ những công ty có tên “Hai Bà Trưng”, “Trần Hưng Đạo”, “Lý Thường Kiệt”… (như cách Nhật từng “trả thù” Mỹ sau Thế chiến thứ hai bằng chiến dịch “oanh tạc” hàng hóa khiến báo chí Mỹ phải khóc lên rằng “Nước Mỹ đang bị xâm lược”!)

Tôi mơ Việt Nam có thể trả được mối hận Hoàng Sa bằng việc có một công ty khổng lồ mang tên “Hoàng Sa” đặt tại Bắc Kinh thuê mướn hàng ngàn công nhân Trung Quốc
Tôi mơ Việt Nam có những “đại gia” có khả năng và tài kinh lược thu tóm được những siêu thị lớn nhất Thái Lan, Philippines hoặc Indonesia…

Tôi mơ Việt Nam có một hãng hàng không có thể đặt tất cả các hãng hàng không khu vực “dưới chân mình” như cách Singapore Airlines đạt được

Tôi mơ có những doanh nhân làm ăn lương thiện không chỉ vun đắp kinh tế quốc gia mà còn xây dựng tinh thần trách nhiệm cộng đồng

Tôi mơ Việt Nam có những giáo sư đại học được thỉnh giảng ở Harvard, Princeton,… theo cách như các giáo sư Việt Nam trước 1975 từng được
Tôi mơ Việt Nam xây dựng được nền giáo dục nhân bản, khai phóng và tự do

Tôi mơ Việt Nam có một nền y tế đủ tử tế và một nền y học đủ mạnh để tạo ra những nghiên cứu đột phá chấn động

Tôi mơ Việt Nam có một nền kỹ nghệ tự lực tự cường

Tôi mơ bàn ăn Việt Nam có thực phẩm sạch, người dân sống trong bầu không khí sạch và những đứa trẻ được tắm trên dòng sông sạch

Tôi mơ Việt Nam có một nhân vật có thể mang lại những phát kiến kỹ thuật làm thay đổi xã hội – một người thôi cũng được. Tôi mơ Việt Nam có một tiến sĩ làm thay đổi được nhận thức lẫn tư duy xã hội – một tiến sĩ thôi cũng được. Tôi mơ Việt Nam có một sử gia mang lại ánh sáng lịch sử cho thế hệ trẻ – một sử gia thôi cũng được

Tôi mơ người dân không còn lo lắng tìm cách bỏ nước mà đi và những người xa nhà đều trở về để cùng nắm tay kiến thiết quê hương

Tôi mơ những con người máu đỏ da vàng từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau đều cùng ngồi lại với nhau bằng tinh thần hòa ái

Tôi mơ nước mắt những bà mẹ già và những cô vợ trẻ sẽ khô đi, khi người thân họ được thả ra khỏi những nhà tù nhuộm đen lương tâm

Tôi mơ Việt Nam luôn có nụ cười, những nụ cười suốt chiều dài chữ S – những nụ cười rạng rỡ của một “VIỆT NAM MỚI”

FB Nguyễn Thủy Tiên

BÁN LƯỢC CHO SƯ!

 BÁN LƯỢC CHO SƯ!

Ở một công ty nọ, để thử việc nhân viên, họ đưa ra tiêu chí: mỗi nhân viên thử việc đều phải bán được 1000 chiếc lược cho một nhóm khách hàng được chỉ định – là các nhà sư – trong vòng một tuần.

Thử thách kỳ quái này khiến cho hầu hết người xin việc đều nghi ngờ: Bán lược cho nhà sư ư? Sao có thể làm được?

Đa số đều từ bỏ, chỉ có ba người dám chấp nhận thử thách. Một tuần thử thách kết thúc, người thứ nhất bán được một chiếc, người thứ hai bán được 10 chiếc còn người thứ ba đã bán hết sạch.

1000 chiếc, cùng một hoàn cảnh, song kết quả lại khác xa, công ty bèn mời ba người thuật lại quá trình bán hàng của mình.

Người thứ nhất kể, anh ta đến một ngôi chùa, phải chịu các nhà sư mắng mỏ mà vẫn nhẫn nại, cuối cùng, một hoà thượng động lòng, mua cho anh ta một chiếc lược.

Người thứ hai kể, anh ta lên một ngôi chùa trên núi, do gió núi mạnh, khiến cho tóc của thiện nam, tín nữ lên chùa rối tung hết cả. Anh ta liền tìm đến sư trụ trì chùa và nói “Người dâng hương tóc tai bù xù, trông không được thành kính với Đức Phật lắm, Trước mỗi toà hương, nhà chùa nên đặt một chiếc lược cho thiện nam tín nữ chải tóc”. Thấy có lý, sư trụ trì liền mua lược giúp anh ta, vì chùa có 10 toà hương nên anh ta đã bán được 10 chiếc lược.

Còn người thứ ba tìm đến một ngôi chùa có tiếng, hương khói quanh năm không dứt. Anh ta nói với phương trượng: “Phàm những người dâng hương ai cũng có lòng thành, chùa ta nên có vật phẩm tặng lại để khuyến khích người đời làm việc thiện. Tôi có một số lược, ngài có thể dùng thư pháp hơn đời của mình, khắc lên đó ba chữ “Lược Tích Thiện” làm tặng phẩm”. Phương trượng nghe có lý liền mua cho anh ta 1000 chiếc.

Công ty nọ đánh giá ba người đến thử việc tiêu biểu cho ba mẫu người điển hình:

* Người thứ nhất thuộc mẫu bán hàng cổ điển, có ưu điểm chân thành, nhẫn nại.

* Người thứ hai có năng lực quan sát, suy đoán sự vật, dám nghĩ, dám làm.

* Còn người thứ ba, anh ta nghiên cứu, phân tích nhu cầu của đám đông, có ý tưởng táo bạo, có kế hoạch khả thi nên đã mở ra một nhu cầu mới của thị trường. Điều kỳ diệu là sau khi “Lược Tích Thiện” của anh ta ra đời, một đồn mười, mười đồn trăm, người đến chùa dâng hương ngày càng nhiều, hương khói trong chùa ngày càng thịnh. Phương trượng bèn ký hợp đồng dài hạn với anh ta. Về phía công ty, thu hoạch lớn nhất không phải là có được hợp đồng lớn mà có được người tài năng. Nhờ có trí tuệ hơn người đó mà anh ta đã được công ty quyết định tuyển dụng và quyết định bổ nhiệm làm giám đốc marketing.

Như vậy, hiểu được nhu cầu của khách hàng, phân tích tính quy luật của sự hình thành và tác động chuyển hoá nhu cầu tiềm tàng thành sức mua chính là chìa khoá để mang lại thành công.

 TU-PHUNG gởi

Cộng sản tấn công Huế

Cộng sản tấn công Huế

Trần Gia Phụng (Danlambao) – Do quyết định sửa đổi âm lịch của nhà cầm quyền Bắc Việt Nam (BVN), ngày mồng Một Tết Mậu Thân ở BVN theo âm lịch mới là ngày 30 tháng Chạp ở Nam Việt Nam (NVN). Trong ngày nầy, bài thơ của Hồ Chí Minh dùng làm lệnh tổng tấn công của cộng sản (CS) vào các thành phố ở NVN, đã được đài phát thanh Hà Nội truyền đi suốt ngày, nhưng các đơn vị bộ đội CS ở NVN, vẫn không nổi dậy cùng một lần vào tối hôm đó, mà có nơi sớm, có nơi trễ.

  1. Toàn cảnh

Cuộc tấn công diễn ra sớm nhứt tại Nha Trang đúng 0 giờ đêm Giao thừa rạng mồng Một Tết Mậu Thân theo lịch NVN, tức đêm 29 rạng 30-1-1968. Sau đó nửa giờ xảy ra tại Quảng Nam, Bình Định… Tại Quảng Nam, CS pháo kích vào trại định cư Trà Kiệu, ở phía Nam thành phố Đà Nẵng khoảng 30 cây số. Cộng sản rút lui trễ nhất tại Huế vào ngày 25-2-1968. 

Như vậy cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân của CS diễn ra trong gần một tháng. Trong suốt tháng nầy, CS tấn công 44 địa điểm tại các thị trấn, tỉnh lỵ và thành phố sau đây:

Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín (Tam Kỳ), Quảng Ngãi. (Vùng I Chiến thuật) 

Bình Định, Bình Thuận, Tuyên Đức (Đà Lạt). (Vùng II Chiến thuật) 

Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, Biên Hòa, Long Bình, Bình Dương, Bà Rịa. (Vùng III Chiến thuật) 

Phong Dinh (Cần Thơ), Vĩnh Long, Kiến Hòa, Định Tường, Kiên Giang, Vĩnh Bình (Trà Vinh), Gò Công, Bạc Liêu. (Vùng IV Chiến thuật) 

Trong số những nơi bị CS tấn công, hai địa điểm quan trọng nhứt mà CS nhắm tới là hai thành phố Sài Gòn và Huế. 

Sài Gòn là thủ đô của VNCH. Bộ máy chính quyền trung ương đóng tại đây. Sài Gòn còn là nơi tập trung trụ sở các tòa đại sứ, các cơ quan truyền thông trong và ngoài nước. Cộng sản quyết tấn công Sài Gòn mạnh mẽ để gây tiếng vang lớn trên thế giới. 

Vì tầm quan trọng của mặt trận Sài Gòn, CS tung vào đây bộ chỉ huy cao cấp nhứt như Nguyễn Văn Linh (bí thư mặt trận Sài Gòn), Võ Văn Kiệt (phó bí thư), Trần Văn Trà (chỉ huy phó Lực lượng võ trang Mặt trận Dân tộc Giải phóng (MTDTGP), Mai Chí Thọ, Lê Đức Anh… (Chính Đạo, Mậu Thân 68: thắng hay bại, Houston: Nxb. Văn Hóa, 1998, tr. 173).

Cộng sản mở cuộc tấn công Sài Gòn vào lúc 2 giờ sáng mồng 2 Tết, tức rạng ngày 31-1-1968, đánh vào Dinh Độc Lập, tòa đại sứ Hoa Kỳ, đài Phát thanh Quốc gia, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng tham mưu, Trung tâm Huấn luyện Quang Trung, và nhiều vị trí vùng phụ cận. 

Lúc đó, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu về Mỹ Tho nghỉ Tết tại quê vợ. Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ đã nhạy bén chỉ huy chận đứng được mũi đánh chiếm đài Phát thanh Quốc gia của CS (Chính Đạo, Mậu Thân, sđd. tr. 183), vì nếu CS chiếm được đài nầy, phát thanh trên toàn quốc lời kêu gọi tổng khởi nghĩa, thì tai hại về ngoại giao và nội trị không thể nào lường được. 

Tuy bị bối rối lúc đầu, nhưng quân đội VNCH phản ứng kịp thời, làm chủ tình hình ngay trong ngày mồng 3 Tết. Các đơn vị CS thất bại, phải lần lượt rút ra khỏi vòng đai thành phố Sài Gòn trong vòng một tuần lễ. 

  1. Huế trước Mậu Thân

Thành phố bị CS chiếm lâu nhứt và bị thiệt hại nặng nhứt về nhân mạng cũng như tài sản là thành phố Huế. Huế là tỉnh lỵ của tỉnh Thừa Thiên, cách sông Bến Hải, ranh giới Bắc và Nam Việt Nam, khoảng 80 cây số về phía nam. Các khuynh hướng chính trị của dân chúng Huế lúc đó có thể sơ lược như sau:

Huế là kinh đô của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn (1802-1945). Vị vua cuối cùng của nhà Nguyễn, vua Bảo Đại (trị vì 1925-1945), bị Việt Minh áp lực và phải thoái vị vào tháng 8-1945. Tuy vậy, ảnh hưởng của triều Nguyễn ở Huế vẫn còn khá mạnh, do con cháu của hoàng gia cũng như con cháu của những quan lại triều đình cũ còn sống ở Huế khá đông. Hội đồng Nguyễn Phúc tộc, hậu thân của Tôn nhơn phủ, dưới sự lãnh đạo tinh thần của cựu hoàng thái hậu, tức Đức bà Từ Cung, thân mẫu của cựu hoàng Bảo Đại, vẫn tiếp tục sinh hoạt. Vào thời điểm năm 1968 (mậu thân) những người nầy hy vọng cựu hoàng Bảo Đại, lúc đó cư ngụ ở Pháp, có thể đóng một vai trò quan trọng đáp ứng giải pháp hòa giải giữa các bên lâm chiến ở Việt Nam.

Huế là trung tâm Phật giáo lâu đời với những ngôi chùa danh tiếng như Báo Quốc, Từ Đàm, Thiên Mụ, Từ Hiếu, Tường Vân… Chùa Báo Quốc còn là một Phật học viện lớn nhứt và lâu đời nhứt miền Trung, nơi đào tạo nhiều tu sĩ Phật giáo sau nầy đi hoằng pháp và trụ trì các chùa trên toàn VNCH. Các tăng sĩ Phật giáo xuất thân từ các chùa ở Huế như hòa thượng Thích Tịnh Khiết, thượng tọa Thích Trí Quang, Thích Thiện Minh, Thích Trí Thủ, giữ những chức vụ cao cấp trong Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, được thành lập theo Hiến chương ngày 4-1-1964, và được chính phủ thừa nhận bằng sắc luật số 14/5 ký ngày 14-3-1964. Một số lãnh tụ Phật giáo tranh đấu thường khuyến khích sinh viên học sinh biểu tình chống chính phủ, đòi hỏi hòa bình, trung lập. 

Huế cũng là nơi có Tòa Tổng giám mục, một địa phận Ky-Tô giáo La Mã được thành lập vào năm 1850. Đại chủng viện Kim Long, thường được gọi là chủng viện Xuân Bích, do các linh mục tu hội Saint Sulpice (phiên âm là Xuân Bích) giảng dạy, chuyên đào tạo các linh mục. Tổng thống Ngô Đình Diệm, gốc người Quảng Bình nhưng sinh sống từ nhỏ tại làng Phủ Cam, một vùng Ky-Tô giáo La Mã nổi tiếng ngoan đạo ở cố đô. 

Huế là địa bàn hoạt động khá mạnh của các đảng Việt Quốc và Đại Việt. Đại Việt đã từng tổ chức chiến khu Ba Lòng (Quảng Trị), gần Huế để chống chế độ tổng thống Ngô Đình Diệm vào các năm 1954-1955.

Huế là chốn cựu đô, nên hệ thống giáo dục ở đây lâu đời và rộng rãi. Ngoài trường Quốc Học được thành lập từ năm 1898, các trường trung học khác cũng khá lâu đời và đông học sinh, kể cả các tư thục. Hơn nữa, phải kể thêm các trường do các tu sĩ đảm trách như hệ thống trường Bồ Đề của Phật giáo, và các trường Ky Tô giáo La Mã như trường Thiên Hựu (Providence), trường Bình Linh (Pellerin), và trường Jeanne d’Arc (nữ trung học của dòng Thánh Phaolô thành Chartres.) 

Tại Huế, tổng thống Ngô Đình Diệm thành lập viện đại học năm 1957. Viện đại học nầy là trung tâm văn hóa thu hút sinh viên khắp các tỉnh miền Trung về đây theo học. Sinh viên càng ngày càng đông, và thường tham gia cũng như tổ chức các cuộc biểu tình tại Huế chống chính phủ từ 1963 đến 1967. 

Cũng tại Huế, “Hội đồng Nhân dân Cứu quốc” ra đời năm 1964 trong đó có một số giáo sư và giảng viên Viện đại học Huế như Lê Khắc Quyến, Tôn Thất Hanh, Lê Tuyên, Cao Huy Thuần, Hoàng Văn Giàu… Báo Lập Trường của nhóm nầy ủng hộ những quan điểm hòa bình và trung lập của một số lãnh tụ Phật giáo tranh đấu miền Trung. Hội đồng nầy được xem là đã góp tay vào việc kích động các cuộc biểu tình dữ dội tại Huế chống Hiến chương Vũng Tàu của Nguyễn Khánh năm 1964.

Những cuộc biểu tình ở Huế thường do Tổng hội sinh viên Huế tổ chức. Sinh viên luôn luôn hăng hái và bồng bột. Trong giới sinh viên, có thể có sự trà trộn các phần tử thân cộng, hay CS trá hình, mà sinh viên lúc đó không nhận chân được. Cao độ của các cuộc biểu tình nầy là cuộc đốt phá Phòng Thông tin Hoa Kỳ (U.S.I.S. = United States Information Services) tại Huế ngày 1-6-1966 trên đường Lý Thường Kiệt. 

Trong vụ “biến động miền Trung” sau đó, một số nhà lãnh đạo Phật giáo ở Huế chống đối chính phủ bằng cách kêu gọi Phật tử đưa bàn thờ Phật xuống đường để cản trở lưu thông trong thành phố. Tuy nhiên, hành động quá khích nầy không được đồng thuận trong giới Phật tử, nên it người hưởng ứng tuy bề ngoài rầm rộ. 

Trật tự tại Huế và các tỉnh miền Trung được vãn hồi vào cuối tháng 6-1966 khi chính phủ trung ương gởi Thủy quân lục chiến và Cảnh sát dã chiến tăng viện, thẳng tay dẹp tan các cuộc rối loạn. Sau sự kiện nầy, một số trí thức, thanh niên, sinh viên lo sợ bị chính quyền VNCH bắt giam, đã “nhảy núi”, bỏ trốn lên rừng chạy theo CS. Những người nầy sẽ có mặt trong đoàn quân CS tấn công Huế vào dịp Tết Mậu Thân.

Cũng sau vụ “biến động miền Trung”, chuẩn tướng Phan Xuân Nhuận, tư lệnh Sư đoàn I Bộ binh thuộc Quân đoàn I tại Vùng I Chiến thuật quân đội Việt Nam Cộng Hòa, bị thuyên chuyển. Đại tá Ngô Quang Trưởng, thuộc Sư đoàn Nhảy dù, được bổ nhiệm thay thế. 

Bộ tư lệnh Sư đoàn I BB đóng ở Mang Cá, phía bắc hoàng thành Huế. Ngày 4-2-1967, đại tá Trưởng được vinh thăng chuẩn tướng. Chính trong thời gian chuẩn tướng Trưởng đang chỉ huy Sư đoàn I BB, thì CS mở cuộc tấn công vào thành phố Huế nhân dịp Tết Mậu Thân (1968).

Do tình hình Huế phức tạp sau vụ “biến động miền Trung”, phía CS hy vọng Huế đủ chín mùi cho một cuộc tổng khởi nghĩa nếu cuộc tổng tấn công xảy ra. Từ đó, CS chuẩn bị khá kỹ lưỡng mặt trận Huế không khác gì mặt trận Sài Gòn.

  1. Cuộc tổng tấn công

Trước Tết Mậu Thân, chỉ huy đặc khu Trị-Thiên-Huế (tức Quảng Trị, Thừa Thiên và thành phố Huế) của CS là thiếu tướng Trần Văn Quang. Trần Văn Quang cử Lê Minh, bí thư tỉnh uỷ đảng Lao Động (Cộng Sản) tỉnh Thừa Thiên-Huế, phụ trách mặt trận Trị-Thiên. 

Minh chia mặt trận Trị-Thiên thành 3 khu vực: mặt trận Quảng Trị giao cho Hồ Tú Nam phụ trách; mặt trận Phú Lộc (phía nam Thừa Thiên) giao cho một cán bộ tên Chi chỉ huy; còn mặt trận Huế, quan trọng nhất, do Lê Minh đích thân đảm nhận. Minh lại chia Huế thành hai điểm để tấn công: phía bắc Huế (tả ngạn sông Hương), và phía nam Huế (hữu ngạn sông Hương Huế)

Cánh quân phía bắc Huế do một người tên Thu chỉ huy, Trần Anh Liên làm chính uỷ. Lực lượng gồm có trung đoàn 6 (gọi là E-6, gồm có 3 tiểu đoàn), thêm 1 tiểu đoàn đặc công, 1 đại đội pháo và du kích hai quận Hương Trà và Hương Điền. Cánh quân nầy xuất phát đúng vào tối Giao thừa (29-1-1968) từ rừng núi tây Huế, chia làm 4 mũi đánh vào cửa Chính Tây (nằm về tay trái hoàng thành từ Kỳ đài nhìn vào), cửa An Hòa (cửa Tây Bắc), Kỳ đài (cột cờ trước Ngọ môn), sân bay Tây Lộc và đồn Mang Cá. Cộng quân làm chủ ngay được cửa Chính Tây, cửa An Hòa và Kỳ đài, nhưng thất bại ở sân bay Tây Lộc và đồn Mang Cá. Đồn Mang Cá lúc đó là nơi đặt bộ Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh do chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng đứng đầu. Đồn Mang Cá là điểm tựa vững vàng để quân đội VNCH cũng như Đồng minh tổ chức phản công trở lại.

Qua cửa Chính Tây, CS tiến chiếm Đại nội. Cộng sản dùng bờ thành Đại nội để bảo vệ Kỳ đài, nơi đó, ngày 31-1 (mồng 2 Tết), CS treo một lá cờ lớn của MTDTGPMNVN. (Don Oberdorfer, TET, New York: A Da Capo Paperback, 1971, tr. 230.) Theo tài liệu của CS thì đây là cờ của Liên Minh các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ và Hòa Bình Việt Nam (Chính Đạo Mậu Thân, sđd. tr. 126). Trong bài tham luận trình bày tại Huế ngày 15-12-2007, tác giả Nguyễn Đắc Xuân, theo tài liệu của đảng bộ Huế, cũng cho rằng đây là cờ Liên minh. Không ai lạ gì việc những người trong nước đều phải nói theo đảng CS. 

Tuy nhiên, cần chú ý rằng ngày 31-1, tức là ngày CS treo cờ ở Kỳ đài, Liên minh nầy chưa được thành lập, làm sao có cờ ? Ở những nơi khác, Sài Gòn hay bất cứ thành phố nào ở miền Nam, không ai thấy hay biết gì về lá cờ Liên minh. Liên minh nầy chỉ là một mặt trận chính trị, giống như Mặt trận Tổ Quốc của Hà Nội, không thể được quân đội cộng sản treo cờ. 

Từ Kỳ đài, CS tiến quân theo mé bờ tả ngạn sông Hương (tức bờ phía bắc), chiếm đồn Cảnh sát chợ Đông Ba, bắt tay với một cánh quân CS khác cũng của E-6, làm chủ hoàn toàn khu vực Đông Ba, Gia Hội.

Cánh quân phía nam Huế, hay bên hữu ngạn sông Hương, tức bên có tòa tỉnh trưởng, các trường Đồng Khánh, Quốc Học, do Thân Trọng Một chỉ huy, Nguyễn Vạn làm chính uỷ. Lực lượng gồm có trung đoàn E-9 của sư đoàn 309, trung đoàn 5 (4 tiểu đoàn), 1 tiểu đoàn pháo, và 4 đội đặc công. (Chính Đão, Mậu Thân…,sđd. tr. 108-110. Chính Đạo trích dẫn từ tài liệu của Thành uỷ CS Huế, Huế, Xuân 1968.)

(Võ Hương An trình bày.)

Cánh quân nầy dự định xuất phát tối Giao thừa (29-1), nhưng vừa xuất phát thì bị phi cơ thám thính Mỹ phát hiện và bị pháo kích, phải lẩn tránh, nên tiến chậm. Sáng mồng 1 Tết (30-1) cánh quân nầy mới tiếp tục tiến về phía thị xã Huế. 

Sau 4 ngày giao tranh, CS chiếm gần hết vùng hữu ngạn thành phố Huế cho đến lao xá Thừa Phủ (gần sát tòa tỉnh trưởng Thừa Thiên). Cộng sản thả khoảng 2,000 tù nhân đang bị giam trong lao xá. Những người nầy liền được CS võ trang để tiếp tay cho CS. 

Quân đội VNCH chỉ còn giữ đài Phát thanh, tiểu khu Thừa Thiên, bản doanh MACV (Hoa Kỳ) đặt ở khách sạn Thuận Hóa, và Bến tàu Hải Quân, bên bờ nam sông Hương (hữu ngạn). Nếu đi từ phía chợ Đông Ba (tả ngạn), theo cầu Trường Tiền qua bờ phía hữu ngạn, đi thẳng là đường Duy Tân dẫn đến An Cựu. Ngay tại chân cầu, đầu đường Duy Tân, phía tay mặt là đài Phát thanh, phía tay trái, cách khoảng trên 500 thước là Bến tàu Hải quân (gần khách sạn Hương Giang). 

Đi thẳng từ cầu Trường Tiền về An Cựu, dọc theo đường Duy Tân (trước 1975) phía bên trái, cách cầu khoảng 500 thước là Tiểu khu Thừa Thiên và khách sạn Thuận Hóa, nơi đóng trụ sở của MACV, viết tắt của chữ Military Assistance Command, Vietnam, tức Bộ Chỉ huy Hỗ trợ Quân sự tại Việt Nam.

  1. Tổng khởi nghĩa thất bại

Về phương diện chính trị, ngay sau khi chiếm vùng tả ngạn (phía bắc Huế, vùng Thành nội, chợ Đông Ba…), ngày mồng 2 Tết (31-1), CS liền tổ chức cầm quyền. Uỷ Ban Nhân Dân (danh xưng của CS) trong Thành nội gồm hai quận, do Nguyễn Hữu Vấn (giáo sư âm nhạc), làm chủ tịch quận 1, và Nguyễn Thiết (sinh viên Đại học Luật khoa), làm chủ tịch quận 2. Phía hữu ngạn, CS không lập kịp các uỷ ban nhân dân, chỉ chú tâm vào việc lùng bắt và kiểm soát tù hàng binh.

Ngày mồng 3 Tết (1-2-1968), đài phát thanh Hà Nội loan báo thành lập tổ chức Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ Và Hòa Bình tại Huế do Lê Văn Hảo, giáo sư Đại học Văn khoa Huế, làm chủ tịch, và Hoàng Phủ Ngọc Tường làm tổng thư ký. (Chính Đạo, Mậu Thân…sđd. tr. 131. Thụy Khê, “Nói chuyện với Hoàng Phủ Ngọc Tường về biến cố Mậu Thân ở Huế”, phỏng vấn trên đài RFI, 12-7-1997, đăng lại trên tạp chí Hợp Lưu, California, số 36, tháng 8-9-1997, tt. 197-200.) 

Cần phân biệt ở đây, Lê Văn Hảo làm chủ tịch Liên Minh Các Lực Lượng Dân Tộc, Dân Chủ…tại Huế. Còn trên toàn miền Nam, Liên Minh nầy do Trịnh Đình Thảo làm chủ tịch. Đài phát thanh Hà Nội cũng thông báo ngày 14-2-1968, Lê Văn Hảo được đưa lên làm chủ tịch chính quyền cách mạng Huế. Phó chủ tịch là bà Đào Thị Xuân Yến (còn gọi là bà Tuần Chi), và Hoàng Phương Thảo (Thường vụ Thành uỷ CS). (Chính Đạo, Mậu Thân,sđd. tr. 131.)

Nguyễn Đắc Xuân, khi còn là sinh viên sống tại Huế, đã từng tổ chức đoàn “Phật Tử Quyết Tử” vào năm 1966 để chống chế độ “Thiệu Kỳ”, rồi bỏ trốn theo CS, nay trở lại Huế, phụ trách đội “Công tác Thanh niên”. Xuân được CS giao nhiệm vụ tổ chức “đoàn Nghĩa binh”, gồm những quân nhân Cộng Hòa bị kẹt trong vùng CS tạm chiếm, gọi là “Quân nhân Sư đoàn 1 ly khai”.

Ngày 4-2-1968 (mồng 6 Tết), đoàn nầy ra thông cáo đả kích chế độ “Thiệu Kỳ”, nhưng sau đó đoàn bị CS phân tán ngay, vì sợ các quân nhân trong đoàn nầy quay lại chống CS. Nguyễn Đắc Xuân còn tổ chức đội “Nghĩa binh Cảnh Sát”, giữ nhiệm vụ ngăn chận không cho dân di tản khi quân đội VNCH và Đồng minh phản công.

Những đơn vị an ninh của CS hoạt động mạnh sau khi cộng quân tạm chiếm Huế. Những đơn vị nầy do một người tên Lê (Tư) điều khiển chung, còn Tống Hoàng Nguyên phụ trách tả ngạn, và Nguyễn Đình Bảy (Bảy Khiêm) lo phía hữu ngạn. Những đơn vị nầy truy lùng và bắt giết tất cả những nhân viên chính quyền VNCH và nhân viên làm việc tại các cơ quan Hoa Kỳ, hoặc những người cộng tác với Cơ quan tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA: Central Intelligence Agency). Chính những đơn vị an ninh nầy là tác giả của những cái chết thê thảm tại Huế, nhứt là lúc CS chuẩn bị rút lui.

Trái với dự đoán của CS, tuy dân chúng bị ép buộc phải dự những cuộc hội họp, mít tinh do CS tổ chức, nhưng dân chúng không hưởng ứng cuộc tổng khởi nghĩa do CS đề ra. Rõ nét nhứt là dân chúng không đi theo du kích CS, mà bỏ chạy qua các vùng do quân đội VNCH kiểm soát ở khu vực Mang Cá, hay trường Kiểu Mẫu gần trường Đại Học Sư Phạm, hoặc khu vực phi trường Phú Bài, cách Huế khoảng trên 10 cây số về phía nam. 

Đặc biệt, chỉ trừ những quân nhân về thăm nhà bất ngờ bị du kích CS bắt được, hầu hết các quân nhân nghỉ Tết ở Huế đều kiếm cách liên lạc hay gia nhập các đơn vị tác chiến gần nhứt để cầm súng chống CS, chứ không gia nhập hay chạy theo du kích CS. Các đơn vị hành chánh nhỏ cũng kiếm cách phòng thủ để chận đứng sự thâm nhập của du kích CS.

Như thế, cuộc tổng khởi nghĩa theo dự tính của CS hoàn toàn thất bại và không xảy ta.

(Toronto, 12-2-2018)

Trần Gia Phụng

danlambaovn.blogspot.com

Tác giả Mỹ: ‘Có một sự kiểm duyệt kỳ dị ở Việt Nam’

Tác giả Mỹ: ‘Có một sự kiểm duyệt kỳ dị ở Việt Nam’

Bởi   AdminTD

Thomas Bass, tác giả “The Spy Who Loved Us” và “Censorship in Vietnam: Brave New World”. Courtesy photo

Những chỉ trích của tướng Võ Nguyên Giáp đối với dự án khai thác bauxite của Trung Quốc và tình yêu nước Mỹ của điệp viên Cộng sản Phạm Xuân Ẩn bị cắt bỏ hoàn toàn khỏi một cuốn sách của một nhà văn Mỹ, qua sự kiểm duyệt của chính quyền Việt Nam.

Cả tướng Giáp và ông Ẩn đều chỉ trích Đảng Cộng Sản, theo nhà văn Thomas Bass – hiện là giáo sư Báo Chí và Văn Chương Anh tại Đại học Albany, New York; và những điều đó đều biến mất khỏi tác phẩm của ông (“The Spy Who Loved Us” – Người Điệp Viên Yêu Chúng Ta) khi nó được dịch sang tiếng Việt và xuất bản ở trong nước dưới cái tên “Điệp viên Z21 – Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ.”

Đây là cuốn sách thứ 2 trong 3 cuốn về Việt Nam của nhà văn chuyên viết về văn hóa và lịch sử. “The Spy Who Loved Us” được xuất bản năm 2009 bằng tiếng Anh và 5 năm sau được ra mắt trong nước, bằng tiếng Việt, với tựa đề “Điệp viên Z21 – Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ.”

Sự méo mó của phiên bản tiếng Việt về điệp viên Phạm Xuân Ẩn so với nguyên bản tiếng Anh đã khiến tác giả tìm hiểu và viết thêm một cuốn sách khác: “Censorship in Vietnam: Brave New World” (Kiểm duyệt ở Việt Nam: Thế giới can đảm mới).

Tướng Giáp cũng biến mất

Hãy bắt đầu với “The Spy Who Loved Us”. Đầu những năm 1990, nhà văn Bass gặp người điệp viên Phạm Xuân Ẩn, nổi tiếng với vỏ bọc một phóng viên của tạp chí Time trong thời gian chiến tranh Việt Nam, nhiều lần trong suốt thập kỷ ‘90 cho đến những năm 2000.

Trong những lần nói chuyện riêng tại nhà ông Ẩn ở thành phố HCM có cảnh sát túc trực bên ngoài, ông Ẩn cho nhà văn người Mỹ biết ông được đọc 2 bức thư của tướng Giáp viết trước khi mất để phản đối vụ khai thác mỏ bauxite của Trung Quốc ở Tây Nguyên.

“Tướng Giáp gần như biến mất (khỏi cuốn sách). Ông ấy không được sủng ái vì có thể ông ấy được cho là quá thân phương Tây và có quan điểm chống lại khai thác bauxite của Trung Quốc và bởi vì ông ấy chỉ trích Đảng Cộng Sản. Nên vào thời điểm ông ấy qua đời, ông bị coi là ‘political hot potato (vấn đề chính trị gây tranh cãi) theo cách nói của người Mỹ.” Theo lời Giáo sư Bass.

Những phần ông Ẩn, người bị nằm dưới sự theo dõi của chính phủ Việt Nam trong thời gian gặp gỡ ông Bass và nhiều vị khách nước ngoài khác tới thăm, đưa ra quan điểm về Đảng Cộng sản và tham nhũng cũng bị cắt bỏ khỏi cuốn sách.

“Phạm Xuân Ẩn chỉ trích nặng nề Trung Quốc và vai trò của họ trong nền văn hóa Việt Nam. Tất cả những cái đó biến mất khỏi cuốn sách. Và tất nhiên bất cứ chỉ trích nào đối với Đảng Cộng sản đều bị kiểm duyệt trực tiếp. Và những thảo luận của ông về ý định đưa dân chủ hay bất cứ dạng quyền lực chính trị nào vào Việt Nam cũng bị trực tiếp cắt bỏ.” Vẫn theo lời tác giả Thomas Bass.

“Ẩn không được phép yêu nước Mỹ”

Mặc dù hoạt động tình báo cho chính phủ Cộng sản Bắc Việt nhưng Phạm Xuân Ẩn lại “cởi mở với văn hóa Mỹ và đề cao sự tự do của nền dân chủ Mỹ,” theo nhà văn Bass, người mất 10 năm để viết về ông Ẩn trong cuốn “Người điệp viên yêu chúng ta.”

Ông Bass phân tích: “Phạm Xuân Ẩn không được phép yêu nước Mỹ. Ông ấy không được phép ngưỡng mộ nước Mỹ hay tôn trọng nước Mỹ theo bất cứ cách nào. Tất cả những cái đó bị cắt bỏ. Cắt hết.”

Phạm Xuân Ẩn, người được coi là một trong những điệp viên giỏi nhất trong lịch sử thế giới, theo lời của giáo sư Bass, được đào tạo đầu tiên bởi điệp viên người Mỹ lừng danh, Edward Lansdale, và sau đó theo học tại một trường ở California nên ông ấy “rất yêu văn hóa Mỹ.”

Đó là lý do vì sao Thomas Bass đặt tên cho cuốn sách là “Người điệp viên yêu chúng ta,” và “chúng ta” ở đây là Mỹ.

Sau khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975, ông Ẩn đã rất hy vọng được chuyển sang Mỹ sinh sống nhưng bị Bộ Chính trị ngăn cản. Đó là phần bị kiểm duyệt trong một cuốn sách khác về Phạm Xuân Ẩn do Larry Berman, một giáo sư người Mỹ của Đại học tiểu bang Georgia, viết.

Theo những tài liệu của WikiLeaks, cuốn sách của Berman có tên “Perfect Spy” (Điệp viên hoàn hảo) cũng bị kiểm duyệt gắt gao và quyết định có nên xuất bản cuốn sách của Berman hay không đã lên đến tận Thủ tướng chính phủ. Nhưng ông Berman phủ nhận điều đó, theo giáo sư Bass.

Theo ông Bass, những nỗ lực kiểm duyệt này “nhằm làm bình thường hóa hình ảnh ông Phạm Xuân Ẩn.”

“Có những nỗ lực để loại bỏ sự hài hước dí dỏm trong ông ấy, loại bỏ tình yêu nước Mỹ của ông ấy hay công việc làm báo của ông ấy. Những nỗ lực nhằm loại bỏ tất cả những điều đó để làm cho ông ấy trở thành một đảng viên Cộng sản tốt mà thực tế ông ấy chưa bao giờ là vậy.”

Nhưng nhà văn Bảo Ninh đã nhận ra những kiểm duyệt trong cuốn sách của ông Bass xuất bản ở Việt Nam. “Bảo Ninh biết chính xác đoạn nào đã bị can thiệp,” ông Bass nói.

Kiểm duyệt ‘kỳ dị’

Kiểm duyệt đang trở nên tệ hại hơn ở Việt Nam, theo giáo sư Bass. Ông cho rằng điều này đang làm hủy hoại nền văn hóa Việt Nam bởi nó “làm thụt lùi lịch sử và thời gian.”

Sự kiểm duyệt ở Việt Nam thật là “kỳ dị” khi chính quyền kiểm duyệt tất cả mọi thứ, ông Bass nói.

Sau khi phiên bản tiếng Việt cuốn sách của ông ra mắt với cái tên “Điệp viên Z21 – Kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ,” một cái tên mà ông nói “không biết họ lấy đâu ra và dường như Z21 là bí danh của ông Ẩn,” giáo sư Bass quyết định quay về Việt Nam để tìm gặp những người đã “kiểm duyệt” sách của ông và tìm hiểu quá trình kiểm duyệt ở Việt Nam diễn ra như thế nào và tại sao phải mất đến 5 năm để biên dịch cuốn sách của ông.

Cuốn sách của ông bị cắt đến hơn 400 đoạn và nhiều cái tên đã biến mất khỏi cuốn sách, trong đó nhà báo Bùi Tín, hiện đang sinh sống ở Paris, Pháp, đã hoàn toàn không còn trong đó nữa.

Nhã Nam và Hồng Đức là hai công ty chịu trách nhiệm xuất bản cuốn sách này.

VOA đã không nhận được phản hồi yêu cầu bình luận về việc kiểm duyệt cuốn sách của giáo sư Bass trong quá trình xuất bản.

Nhã Nam là một nhà xuất bản độc lập và trong con mắt của tác giả Bass là “tốt” nhưng vì “họ hoạt động trong nền văn hóa Việt Nam nên không có lựa chọn nào khác là phải kiểm duyệt sách.”

Hình bìa tác phẩm “Censorship in Vietnam: Brave New World” của giáo sư Thomas Bass. Ảnh: VOA

“Ông Thomas Bass là một nạn nhân tại vì ông đã bị kiểm duyệt khá nhiều với những cuốn sách của ông in ở Việt Nam. Khi người ta cắt gọn bản thảo thì ông không còn nhận ra cuốn sách của mình nữa.” Đó là nhận định của Tiến sỹ và nhà báo độc độc lập Phạm Chí Dũng, một trong 5 người mà ông Bass gặp gỡ và đưa những nhận định của họ vào cuốn sách thứ 3 của ông về kiểm duyệt ở Việt Nam ra mắt năm 2017 với tên “Censorship in Vietnam: Brave New World” (Kiểm duyệt ở Việt Nam: Thế giới can đảm mới)

Sau khi tìm hiểu để viết cuốn sách “Kiểm duyệt ở Việt Nam”, giáo sư Bass nhận thấy “Việt Nam có một mạng lưới chỉ để làm những công việc kiểm duyệt” nhưng ông “không thể biết có bao nhiêu người đã tham gia kiểm duyệt cuốn sách” của mình.

Nhà văn Phạm Thị Hoài, người giúp giáo sư Bass xuất bản phiên bản tiếng Việt không bị kiểm duyệt của cuốn “Người điệp viên yêu chúng ta” bên ngoài Việt Nam qua mạng internet, cho rằng cuốn sách thứ 3 của ông là “chân dung truyền thần sinh động về bộ mặt kiểm duyệt ở Việt Nam” và nó “thật đến mức khó chịu.”

Nhà văn bị cấm xuất bản ở Việt Nam và đang sinh sống ở Berlin, Đức, cho rằng cuốn sách này “bao quát hiện tượng kiểm duyệt, phác họa cấu trúc và các hình thái của kiểm duyệt, tìm hiểu bối cảnh của kiểm duyệt và miêu tả chi tiết kiểm duyệt diễn ra như thế nào.

“Vấn đề kiểm duyệt ở Việt Nam đã tồn tại từ rất lâu và đó là một vết hằn của chế độ, đặc biệt là chế độ độc tài, chế độ một đảng. Việc này cho tới nay không những không giảm đi mà lại còn có chiều hướng gia tăng.” Nhận định của ông Phạm Chí Dũng.

Chế độ kiểm duyệt đã ăn sâu vào bản chất của chế độ này và gần đây còn có một hiện tượng đáng lo nữa là không những kiểm duyệt hệ thống báo chí quốc doanh và văn học nghệ thuật quốc doanh mà chính quyền còn lấn sang kiểm duyệt đối với các nhà mạng của nước ngoài có hoạt động ở Việt Nam, theo nhà báo Phạm Chí Dũng.

Giáo sư Bass nhận định “Việt Nam thực chất đã hủy nền văn hóa của họ và hạn chế rất lớn đến sức tưởng tượng và tiềm năng văn hóa thông qua sự kiểm duyệt. Tôi nghĩ nó ảnh hưởng tệ hại tới nền văn hóa Việt Nam.”

Có bao nhiêu người trên thế giới đang chú ý đến sự kiểm duyệt. Nó là một vấn đề đang trở nên nghiêm trọng. Nó là một vấn đề đối với bất kỳ nền văn hóa nào và khu vực nào trên thế giới.

Giáo sư Bass hy vọng cuốn sách về “Kiểm duyệt ở Việt Nam” sẽ là một chút đóng góp của ông vào việc lưu tâm đến mọi người rằng “kiểm duyệt” là một lực lượng nguy hiểm không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới.

Blogger Mẹ Nấm bị chuyển trại tù xa nhà trong ngày cận Tết

Blogger Mẹ Nấm bị chuyển trại tù xa nhà trong ngày cận Tết

Hai người con của blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh cầm bảng ghi những dòng chữ bày tỏ cảm xúc khi hay tin mẹ bị đày đi trại tù khác ở Thanh Hóa, rất xa nhà. (Hình: FB Nguyễn Thị Tuyết Lan)

NHA TRANG, Việt Nam (NV) – Blogger Mẹ Nấm – Nguyễn Ngọc Như Quỳnh – người đang bị CSVN cầm tù với bản án 10 năm, đã bị chuyển trại tù từ Khánh Hòa ra trại tù số 5 ở miền núi tỉnh Thanh Hóa, cách nhau hơn 1,100 km, đúng vào ngày 27 Tháng Chạp, khi Tết Mậu Tuất cận kề.

Bà Nguyễn Thị Tuyết Lan, mẹ của blogger Mẹ Nấm đến trại tù tỉnh Khánh Hòa để thăm nuôi theo lịch thì mới biết con gái bị chuyển trại chứ bà không hề được báo trước.

 

Bà Nguyễn Thị Tuyết Lan cho hay trên trang facebook cá nhân rằng sáng Thứ Hai, 12 Tháng Hai, 2018, (tức ngày 27 tết) bà mang các thứ đã chuẩn bị trước đó đến nhà tù tỉnh Khánh Hòa thăm con gái Nguyễn Ngọc Như Quỳnh nhưng con gái bà đã bị đày tới nhà tù khét tiếng dữ dằn, trại tù số 5 tại huyện miền núi Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, nơi từng giam cầm nữ Luật Sư Lê Thị Công Nhân, cô Phạm Thanh Nghiên và nhiều nữ tù nhân lương tâm nổi tiếng khác.

“Tôi nhận được tin Quỳnh đã bị đày ra tận trại 5, Thanh Hóa. Không một văn bản giấy tờ, công an trại giam Khánh Hòa chỉ thông báo bằng miệng khi tôi đến. Hôm nay đã là 27 Tết rồi, họ có cần phải tàn ác thế với gia đình chúng tôi?” Bà Tuyết Lan viết trên trang facebook.

Trước đó một tuần, cũng ngày Thứ Hai, 5 Tháng Hai, 2018, bà Tuyết Lan đi thăm Quỳnh nhưng công an không một lời thông báo. “Họ cố tình chờ đến sát Tết, sau khi đã đưa mẹ của Nấm Gấu đi thật xa chúng nó rồi mới cho gia đình tôi được biết.” Bà Tuyết Lan viết.

Phẫn uất vì sự cư xử độc ác của nhà cầm quyền, bà Tuyết Lan cho hay bà đã lớn tuổi, vừa phải nuôi nấng hai cháu nhỏ, lại còn phải săn sóc bà mẹ già trong khi phải thăm nuôi con gái trong tù và lại còn bị đày đi rất xa nhà. “Chính quyền này biết rõ điều đó hơn ai hết, nhưng họ vẫn cố tình đầy Quỳnh ra tận ngoài Bắc sau khi đã giáng lên cả gia đình chúng tôi bản án 10 năm tù.”

“Trại 5 Thanh Hoá khét tiếng về sự heo hút, mới đây tôi đọc báo còn thấy tin nó bị cô lập trong dòng nước lũ, với sức khỏe của con tôi hiện nay làm sao để chống chọi và chịu đựng được ở một nơi như thế? Chẳng phải họ đang muốn giết con tôi mà không cần dùng dao súng, muốn nó chết dần trong tù đày khổ ải hay sao? Bản án 10 năm không đủ khiến họ hả hê, nước mắt chia lìa mẫu tử không khiến họ cảm thấy một chút dao động, vào ngày 27 Tết họ tiếp tục đâm thêm nhát dao cho chúng tôi bằng chết,” bà Tuyết Lan viết trên Facebook.

Blogger Mẹ Nấm tại phiên tòa phúc thẩm ngày 30 Tháng Mười Một, 2017, khi bị tuyên y án 10 năm tù. (Hình: Getty Images)

Blogger Mẹ Nấm nổi tiếng với những bài viết sắc xảo về các vấn đề thời sự tại Việt Nam trên trang facebook cá nhân. Bà tham gia vận động nhân quyền, tranh đấu cho tự do ngôn luận suốt nhiều năm qua không ngừng nghỉ nên đã từng bị công an CSVN cô lập, khủng bố, hành hung rất nhiều lần. Bà từng biểu tình một minh mỗi khi hay tin có một người nào tham gia vận động dân chủ hóa đất nước bị bỏ tù. Cả bà cũng không thoát.

Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, năm nay 39 tuổi, là thành viên điều hành của nhóm “Mạng Lưới Blogger Việt Nam,” thành viên của các tổ chức “Người Việt Yêu Nước” và “Tuyên Bố Công Dân Tự Do.” Bà tích cực tham gia bày tỏ chống đối công ty gang thép Formosa xả chất thải độc hại làm chết một vùng biển rộng lớn suốt 4 tỉnh miền Trung. Bà cũng từng soạn tổng kết một tài liệu tố cáo công an CSVN đã tra tấn nhục hình bức cung chết hàng chục người mỗi năm.

Bà bị bắt ngày 10 Tháng Mười, 2016, rồi bị kết án 10 năm tù hồi năm ngoái mà có luật sư phát biểu một thứ bản án “nặng hơn án giết người” của người khác. Năm 2012, Trung Tá Công An CSVN Nguyễn Văn Ninh chỉ bị kết án có 4 năm tù dù ông ta dùng gậy cao su đánh chết ông Trịnh Xuân Tùng ở bến xe Giáp Bát, Hà Nội, chỉ vì ông ta cự cãi chuyện đội mũ bảo hiểm.

Các tù nhân lương tâm thường bị chế độ Hà Nội đày đi rất xa nơi sinh sống của gia đình họ, gây khó khăn và tốn kém rất lớn cho sự thăm viếng. Tù nhân bị kết án ở miền Bắc thì bị đày xuống miền Trung hay miền Nam. Tù nhân miền Nam thì bị đày ra Bắc hay miền Trung.

Sau khi bị y án 10 năm tù qua phiên xử phúc thẩm cuối Tháng Mười Một, năm 2017, cũng như sau phiên xử sơ thẩm mấy tháng trước đó, Liên Âu, chính phủ Mỹ cũng như các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế lên án mạnh mẽ việc bỏ tù blogger Mẹ Nấm.

Gần 40 trí thức trên thế giới, nhiều người rất nổi tiếng đã cùng đứng tên trên một lá thư kêu gọi chế độ Hà Nội trả tự do cho bà cũng như bà Trần Thị Nga (bị kết án tù 9 năm) và các tù nhân lương tâm khác. Chế độ Hà Nội không coi những can thiệp như thế có tác dụng trừ phi có sự trao đổi đem lại lợi lộc gì cho họ.

Năm 2010, bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được Tổ Chức Theo Dõi Nhân Quyền (HRW) trao giải Hellman Hammett vì những hoạt động bảo vệ quyền tự do ngôn luận. Năm 2015, Tổ Chức Bảo Vệ Quyền Dân sự trao cho cô Giải Thưởng Của Năm. Bà cũng được Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trao tặng giải “Những Người Phụ Nữ Quốc Tế Can Đảm” trên thế giới vào Tháng Ba, năm 2017, khi đang ở trong tù. (TN)