Tịch thu sách ‘nhạy cảm chính trị’ gửi về từ nước ngoài!!!

Van Pham

Tại sao chế độ đảng cướp mafia HCM sợ sách báo & các mạng xã hội từ nước ngoài??? Bởi chế độ sống sót dựa trên dối trá, lừa bịp và bạo lực!!!

**************

Tịch thu sách ‘nhạy cảm chính trị’ gửi về từ nước ngoài!!!

Cục Hải quan Đà Nẵng vừa tịch thu 4 bưu kiện gửi từ nước ngoài về, trong đó có một số cuốn sách mà cơ quan này cho rằng nếu để lưu hành, sẽ tạo ra “nhận thức sai lệch về lịch sử cuộc chiến chống xâm lược của nhân dân Việt Nam, cũng như các vấn đề dân chủ, nhân quyền của Nhà nước Việt Nam hiện nay”.

Những cuốn sách bị tịch thu vì lý do “nhạy cảm chính trị” bao gồm: Cuốn “Where the ashes are – The Odyssey of a Vietnamese Family” của nhà báo, nhà văn, dịch giả nổi tiếng Nguyễn Quí Đức; cuốn “Chính Trị Bình Dân” của nhà báo Phạm Đoan Trang; cuốn “Huế 1968 – A Turning Point of the American War in Vietnam” của tác giả Mark Bowden, theo báo Tin Tức.

Tất cả ba cuốn sách trên đều được xuất bản tại Mỹ và được bán trên trang mạng Amazon.

Trong cuốn “Where the ashes are – The Odyssey of a Vietnamese Family”, nhà báo từng làm việc cho nhiều cơ quan truyền thống quốc tế ở Mỹ kể lại câu chuyện của chính gia đình ông trong thời Chiến tranh Việt Nam. Theo giới thiệu của Amazon, cuốn sách “cho chúng ta nhìn thấy cuộc chiến Việt Nam qua đôi mắt của một đứa trẻ, sự túng quẫn sau khi Cộng sản lên cầm quyền, và những chật vật, gian khổ của di dân”. Cuốn sách được tổ chức Words Without Border đề cử là một trong 8 cuốn sách cần đọc để hiểu về Việt Nam và cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

Cuốn “Huế 1968 – A Turning Point of the American War in Vietnam” là cuốn sách đầu tiên của tác giả Mark Bowden kể từ khi cuốn Black Hawk Down của ông trở thành cuốn sách bán chạy nhất trong danh sách uy tín của New York Times. “Huế 1968 – A Turning Point of the American War in Vietnam” kể về cuộc tấn mang tính bước ngoặt trong cuộc chiến Việt Nam, Tết Mậu Thân 1968.
Bìa sách cuốn “Chính Trị Bình Dân” của tác giả Phạm Đoan Trang.
Bìa sách cuốn “Chính Trị Bình Dân” của tác giả Phạm Đoan Trang.

Trong khi đó, “Chính Trị Bình Dân” là cuốn sách mà nhà báo Phạm Đoan Trang viết với mong muốn đánh tan định kiến tai hại “chính trị là xấu xa, thủ đoạn” đã bám rễ vào nhận thức của nhiều người dân Việt Nam. Tác phẩm được giới trí thức hoạt động xã hội đánh giá cao về cả nội dung, phong cách viết và mức độ cần thiết của nó trong bối cảnh hiện tại của Việt Nam.

“[Sách] Chính trị mà Việt Nam xuất bản sau năm 1975 phần lớn là viết về quan điểm của Đảng Cộng sản và dành cho các đảng viên. Còn xuất bản sách về chính trị thì hoàn toàn vắng bóng. Chính vì vậy, tôi đánh giá đây là một tác phẩm rất quan trọng. Nó mở ra một lối cho chính trị đi vào tầng lớp bình dân. Ai cũng có thể tiếp cận nó qua những câu chuyện bình dân và thực tế”. Blogger Phạm Lê Vương Các nhận định với VOA.

Tin cho hay các cuốn sách trên được gửi về Hà Lan, Ba Lan và Mỹ trong 4 bưu kiện, mỗi bưu kiện chỉ có một cuốn sách, tới các địa chỉ cá nhân ở Đà Nẵng và Huế.

Hải quan Đà Nẵng cho biết đã báo cáo lãnh đạo và phối hợp với cơ quan chức năng để có các bước xử lý tiếp theo.

Những cuốn sách bị tịch thu gồm: “Where the ashes are – The Odyssey of a Vietnamese Family”, “Chính Trị Bình Dân” và “Huế 1968 – A Turning Point of the American War in Vietnam”
VOATIENGVIET.COM
 

Chúa là Tình Yêu

 Chúa là Tình Yêu 

 

Elisabeth Nguyễn

 

Chúa là tình yêu. Thánh Gioan nói thế. 

Chúa yêu tôi, Ngài sinh ra tôi, ban Thần Khí vào tâm hồn tôi.

Ngài cho tôi thông phần siêu nhiên là bản tính Thiên Chúa.

Thật vậy, Đức kitô đã lấy thần lực của Người mà ban cho chúng ta tất cả những gì được sống và sống đạo đức, …….. Thiên Chúa đã ban tặng chúng ta những gì rất quý báu và trọng đại Người đã hứa, để nhờ đó anh em được thông phẩn bản tính Thiên Chúa, sau khi đã thoát khỏi cảnh hư đốn do dục vọng gây ra trong trần gian.(2Pr 1, 3a-4).

Như vậy bản chất của tôi sinh ra đã là Thánh. Thật hãnh diện quá đi chứ.

Anh em không còn phải là người xa lạ hay người tạm trú, nhưng là người đồng hương với các thánh và là người nhà của Thiên Chúa (Ep 2, 19).

Các bạn thấy hạnh phúc sung sướng chưa!?

Hãy ngẩng cao đầu mà ca tụng tôn vinh Thiên Chúa nhé. Còn niềm vui nào hơn khi chúng ta là đồng hương với các thánh, là người nhà của Thiên Chúa.

Đây là điều quan trọng  chúng ta phải sống sao cho xứng đáng với danh hiệu vinh quang này. Vì „

Tôi đã được tạo dựng bởi tình yêu…vì thế, trong bản chất cao quý của tôi,

không thụ tạo nào có thể làm tôi nên sung túc và được sáng suốt,

 ngoại  trừ một mình Thiên Chúa (Thánh Mechtild Magdeburg).

Thiên Chúa của tôi là một Thiên Chúa nội tại.

Ngài hiện diện trong tôi từ khi tôi được nhận Phép Thanh Tẩy.

Khi tới tuổi hiểu biết, được học hỏi về đức tin, tôi mới nhận ra Chúa là tình yêu.

Đúng thế, Chúa yêu tôi vô vàn, tình yêu đó hiện diện trong từng hơi thở,

trong từng nhịp tim, trong từng những sự việc xảy ra hằng ngày trong cuộc đời tôi và những người xung quanh.

… chúng ta biết được rằng chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta: đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta (1Ga 4,13)

Dĩ nhiên Ngài đã hiện diện trong vũ trụ thiên nhiên từ ngày Ngài khai thiên lập địa.

Ngài hiện diện trong núi cao, đồi thấp, sông dài, biển cả với hằng hà sa số thú vật trên đất, trên trời, trong nước, trên rừng… ân sủng của Ngài ẩn mình trong từng tàng cây, bông hoa, ngọn cỏ…trên những cánh đồng trải dài đến tận chân trời…

Ngài ban cho loài người được làm chủ và hưởng dùng tất cả tạo vật Ngài tạo dựng nên trong vũ trụ.

Ngài hiện diện trong mặt trời chiếu sáng, sưởi ấm ban ngày, trời trong cao xanh, lượn lờ bao đám mây… đôi khi những đám mây vui vẻ đùa giỡn tạo ra những hình thù thú vật thật diệu kỳ…

Lộng lẫy chốn cao vời, một khung trời trong vắt. Nhìn ngắm cả bầu trời: cảnh tượng xán lạn thay (Hc 43,1).

Ngài hiện diện trong mặt trăng ban đêm, luân chuyển mỗi tháng cho chúng ta trăng khuyết trăng tròn…

Cả vầng trăng cũng luôn đúng hẹn, làm dấu hiệu muôn đời chỉ rõ thời gian. Trăng đánh dấu các thời kỳ đại lễ, có khi khuyết, có lúc lại tròn (Hc43,6-7),

thật thơ mộng với ánh sáng dịu dàng… khiến không gian, thời gian tươi mát.

Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm (Tv 19, 18)

Ngài hiện diện trong sự thay đổi thật kỳ diệu của từng cây cỏ hoa lá qua từng mùa… khi đông đến với khí trời lạnh lẽo, những tàng cây khô trơ cành, tuyết trắng phủ đầy  mà vẫn ẩn chứa sức sống bên trong.

Người rải tuyết như chim sa, tuyết rơi xuống như cào cào, vẻ đẹp trắng ngần khiến mắt kinh ngạc. Thấy tuyết rơi lòng trí sững sờ (Hc 3,18). 

Mùa hè nóng cháy mà cây cỏ hoa lá vẫn tươi tắn, xanh um hiến dâng cho loài người bao nhiêu là rau trái hoa quả nuôi sống nhân loại.

Sau cơn nóng nực, sương xuống làm cho cảnh vật vui tươi

Mùa thu khí trời mát mẻ, gió nhẹ mơn man và lá cây đổi màu từ xanh ra úa vàng, hay đỏ rực thật đẹp, rồi lặng lẽ theo những làn gió rơi rơi lìa cành thật lãng mạng, thật thơ mộng. Mùa xuân ấm áp, nồng nàn, dịu dàng với muôn hoa nở rộ…

Kể sao cho xiết những gì muốn nói; tắt một lời: Ngài là tất cả (Hc 43,27).

Nhà thiên văn Hoa Kỳ, Allan Sandage (1926-2010). Ông là người tính toán độ giãn nở của vũ trụ và tính tuổi của nó bằng cánh quan sát các vì sao, đã thốt lên:

 Thuở thiếu thời tôi là một kẻ vô thần. Khoa học đã đưa tôi đến kết luận rằng thế giới này phúc tạp hơn tôi tưởng. Tôi chỉ có thể giải thích mầu nhiệm hiện hữu bằng cách nại vào ĐẤNG SIÊU NHIÊN.

Bất cứ ai nhìn ngắm thiên nhiên, ngắm muôn ngàn bông hoa nở với muôn màu muôn sắc muôn loài muôn vẻ hay chiêm ngưỡng bầu trời đêm với những chuyển động của ngàn ngàn tỷ tỷ thiên hà lấp lánh, đều không thể không lên tiếng ca ngợi quyền năng siêu nhiên của Đấng Tạo Hóa.

 Chúng ta, người Kitô hữu tin Ngài hiện diện trong tấm bánh từ hơn hai ngàn năm, tấm bánh nhỏ bé được các vị tư tế hiến dâng trong Thánh Lễ để nuôi sống linh hồn tôi và những ai tin vào Ngài..

Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy

 Chúa Giêsu nhắc nhở: Như Chúa Cha đã sai Tôi, và Tôi sống nhờ Chúa Cha như thế nào, thì kẻ ăn Tôi cũng sẽ nhờ Tôi mà được sống như vậy (Ga 6,57) 

Mục đích của Kitô hữu là sống hiệp nhất với Ngài. Ngài hiệp nhất những sự khác biệt, vì phải có cái khác biệt thì mới có hiệp nhất. Phải có ba ngôi mới có sự hiệp nhất thành Một Thiên Chúa.

Chỉ khi nào chúng ta chấp nhận và tôn trọng các sự khác biệt và sống với các khác biệt đó dưới sự hướng dẫn của Thần Khí Chúa, chừng đó chúng ta có hiệp nhất.

Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí

thì chúng ta cũng nhờ Thần Khí mà tiến bước (Gl 5,25)

nên tôi mới có thể vượt qua được những khó khăn, những vấn nạn, những khổ đau, những cám dỗ và biết tha thứ cho kẻ mất lòng ta.

Như vậy chúng ta mới đi đúng con đường mà Ánh Sáng Mầu Nhiệm của Chúa Ba Ngôi soi dẫn.

Thật vậy, chính ở nơi Người

mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu (Cv 17,27)

để được sống hạnh phúc ở đời này  và hưởng nước Thiên Chúa đời sau

Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống,

nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần (Rm 14,17).

Elisabeth Nguyễn

Tha thứ không phải là ban ơn cho người khác mà là tạo phúc cho chính mình

Tha thứ không phải là ban ơn cho người khác

mà là tạo phúc cho chính mình

Cuộc sống phức tạp với những va chạm, mâu thuẫn khiến ta khó tránh khỏi những lúc không hài lòng với nhau, gây tổn thương cho nhau. Tuy nhiên, người xưa vẫn dạy rằng “lùi một bước biển rộng trời trong”. Vậy sức mạnh nào có thể cho ta dũng khí để “lùi một bước” trong những va chạm như thế?

Vào một ngày cuối tuần, hai mẹ con tôi quyết định ra ngoài ăn tối để chào mừng sự kiện con gái tôi tốt nghiệp về nước. Trong một quán ăn nhỏ nhưng vô cùng ấm cúng và thanh lịch giữa Thượng Hải phồn hoa, mỹ lệ, một cô gái trẻ phụ trách mang đồ ăn tới cho chúng tôi.

Cô gái trẻ tập trung bê đĩa thức ăn, cẩn thận len qua lối đi chật hẹp trong quán. Nhưng khi vừa đến chỗ chúng tôi, đĩa cá hấp không may bị nghiêng và nước sốt cá đổ cả lên chiếc cặp da của tôi đặt trên ghế. Vừa tiếc chiếc cặp da đắt tiền, vừa bực mình vì cách làm việc vụng về và không chuyên nghiệp, tôi ngay lập tức nhăn mặt khó chịu và nổi giận, chuẩn bị la mắng cô bé ấy.

Thế nhưng khi tôi chưa kịp hành động gì thì con gái tôi đã nhanh chóng đứng dậy, ngay lập tức nở một nụ cười dịu dàng và tươi tắn nhìn cô gái. Vỗ vai cô phục vụ bàn, con bé nói để cô gái bình tĩnh trở lại và không quá lo lắng: “Chuyện nhỏ thôi, không sao đâu. Chị làm việc tiếp đi”.

Những đường nét trên khuôn mặt cô gái chuyển từ hoảng hốt, lo lắng sang ngỡ ngàng và lúng túng, cô bé nhẹ nhàng và lịch sự nói với chúng tôi: “Tôi thực sự xin lỗi. Tôi sẽ đi lấy khăn để lau”.

Nhưng con gái tôi lập tức đáp lại: “Không có vấn đề gì đâu. Chúng tôi mang về nhà lau sạch là được. Chị cứ tiếp tục công việc của mình đi, không cần phải đặt nặng tâm vào chuyện này đâu”.

Mọi cử chỉ, ngôn hành của con gái khiến tôi không thể lý giải được. Tôi cảm thấy mình như một quả khí cầu chứa đầy sự khó chịu, tức giận, oán trách, một quả khí cầu được bơm căng tới mức muốn phát nổ nhưng lại không thể nổ được. Tôi ngồi ăn tối trong hậm hực, kìm nén và tất cả những món ngon lành và đắt đỏ trên bàn bỗng trở nên đắng ngắt trong miệng tôi.

Rời khỏi quán ăn, con gái đề nghị chúng tôi đi bộ trở về nhà. Con gái một tay cần chiếc túi đã dính bẩn của tôi, một tay nắm tay tôi. Đã từ lâu tôi không cho mình những giây phút thanh thản để nhìn ngắm, để hòa mình vào nét cổ kính yêu kiều của Thượng Hải. Đã từ lâu tôi quẩn quanh trong những bức tường nơi làm việc, trong tính toán sổ sách và những lo toan cho cuộc sống của tôi, cho sự sung túc của cả gia đình. Những nụ cười của tôi cũng héo tàn dần, những cái nhăn mặt, nhíu mày ngày càng nhiều hơn.

Chúng tôi bước đi trên con phố dài rộng và không quá tấp nập. Con gái bắt đầu kể cho tôi nghe về cuộc sống ba năm là du học sinh tại Anh của nó. Từ nhỏ, con gái được cả nhà cưng chiều và bao bọc, chưa từng phải làm một công việc gì, cũng không bao giờ chịu đựng thua thiệt so với bạn bè trang lứa. Tuy vậy, nó lại luôn là một cô bé ngoan ngoãn và rất tự lập, luôn có những mục tiêu phấn đấu cho riêng mình, không muốn dựa dẫm vào tình thương của cha mẹ để hưởng thụ.

Ba năm du học tại London, con gái chỉ về nhà một lần duy nhất, vì con bé dành toàn bộ thời gian trong các kỳ nghỉ đi làm thêm, đi du lịch và khám phá. Lần trở về này, tôi hoàn toàn bất ngờ với vẻ hoạt bát nhanh nhẹn và trưởng thành của con. Nhưng có lẽ những điều con gái chia sẻ vào đêm hôm ấy đã thay đổi tất cả những quan niệm và tính cách bấy lâu nay của tôi, là điều tôi hoàn toàn không thể ngờ tới nhất.

Bước từng bước thong dong, con gái vừa nhìn những bông hoa hồ điệp đang trở màu vàng óng bên đường, vừa bắt đầu kể chuyện:

“Những ngày đầu trải nghiệm cuộc sống ở nước Anh thật sự là một thử thách lớn đối với con mẹ ạ. Con làm thêm tại một nhà hàng sang trọng, nơi luôn có những yêu cầu rất cao và quy định chặt chẽ dành cho nhân viên. Mỗi ngày, con đều phải rửa rất nhiều ly rượu, ly uống nước. Đó không phải loại như ở nhà mình, loại ly ấy rất mỏng và cao, chỉ cần lơ đãng một chút là có thể khiến chúng thành một đống thủy tinh vụn.

Thái độ nghiêm túc và tinh thần tập trung cao độ luôn luôn là yêu cầu và cũng là điều kiện hàng đầu. Có một lần, con vừa thả lỏng người một chút liền va vào một chiếc ly. Sau đó liên tục những tiếng xoảng, xoảng và cuối cùng, một hàng dài ly xếp trên bàn biến thành một đống vụn thủy tinh trên mặt đất.

Mẹ biết không, thời khắc đó con vô cùng hoảng loạn, sợ hãi và nghĩ mình sẽ chẳng còn cơ hội nào nữa. Nhưng người quản lý ca trực hôm ấy đã ngay lập tức chạy tới chỗ con, cô ấy lo lắng rằng con có thể bị mảnh vụn nào đó làm cho chảy máu. Cô ấy không những không trách móc, không quát mắng mà ngược lại còn nhờ những người khác tới giúp con dọn sạch đống thủy tinh ấy.

Lúc đó con đã bật khóc, nỗi hoảng sợ của con nhanh chóng chuyển sang sự cảm ân sâu sắc. Hành động ngày hôm đó của các đồng nghiệp đã giúp con có thêm can đảm để đối mặt với sai lầm của mình, một sự việc tồi tệ đã biến thành cơ hội để con nhận ra ý nghĩa to lớn của việc chân thành giúp đỡ và bao dung với sai lầm, với những thiếu sót của người khác.

Một lần khác, con không may đánh đổ cà phê lên chiếc váy trắng của một vị khách. Cô ấy đang ngồi đợi đối tác của mình, và không gì bất tiện hơn việc váy áo dính bẩn trong hoàn cảnh ấy. Nhưng cô ấy đã an ủi con bằng những lời rành rọt, dịu dàng: “Không vấn đề gì, cà phê mà, không khó giặt”. Và cũng giống như những gì ngày hôm nay con đã làm, cô ấy không một chút khó chịu, không một chút phàn nàn, chỉ lặng lẽ vào nhà vệ sinh và gột sạch chiếc váy.

Mẹ à, bởi vì người khác đã bao dung với lỗi lầm của con, cho con cơ hội sửa chữa nên con mới có thể trở thành một người tốt đẹp hơn, trưởng thành hơn, sâu sắc hơn như bây giờ. Vậy nên mẹ hay coi những người khác như con gái của mẹ, hãy tha thứ cho những sai lầm của họ mẹ nhé”.

Có người vẫn cho rằng tha thứ quả là việc khó khăn trong đời, nhất là khi bản thân đã phải chịu tổn hại, chịu thiệt thòi. Chính vì vậy, bản thân những người không thể tha thứ luôn mang theo rất nhiều oán giận, buồn đau dù sự việc thực sự làm họ tổn thương đã lui vào quá khứ.

Chúng ta cũng luôn có suy nghĩ rằng tha thứ là thái độ, là cách hành xử ta dành cho người khác, nhưng thực chất tha thứ là hành động ta làm cho chính mình, là cách ta đối đãi với bản thân mình.

Tha thứ không đồng nghĩa với việc chúng ta nói lời tha thứ nhưng trong tâm vẫn cất giữ rất nhiều trách móc, oán giận, ôm giữ sự không hài lòng, khó chịu mãi không thôi. Sự tha thứ thực sự xuất phát từ tấm lòng chúng ta, xuất phát từ sự thông cảm và biết suy nghĩ cho người khác, suy nghĩ vì người khác.

Có thể tha thứ cho những sai lầm của người khác khi chúng ta đặt mình vào vị trí, hoàn cảnh của họ, suy nghĩ theo những quan điểm sống, chuẩn tắc sống của họ. Ngược lại, không thể tha thứ là một biểu hiện của sự ích kỷ, hẹp hòi, chỉ thuận theo cảm xúc và suy đoán của bản thân mà không cho mình cơ hội hiểu người, lắng nghe người khác.

Tha thứ không phải là nhu nhược, bỏ cuộc, chấp nhận đầu hàng hay buông xuôi. Tha thứ là khi có dũng khí đặt mình vào vị trí người khác để bao dung họ, là lùi một bước để nhìn nhận sự việc một cách thấu đáo và từ những khía cạnh khác nhau.

Hơn nữa, khi ta có thể thật tâm tha thứ cho người khác, có thể vứt bỏ mọi khúc mắc trong tâm và đối diện với tất cả bằng tâm thái an hòa, thuần tịnh, cũng là ta đang chăm sóc và yêu thương chính mình, là tự cởi trói sợi dây vô hình đang thắt chặt trái tim và tâm hồn mình.

Dùng đức hạnh để xoa dịu tức giận, dùng từ bi để cảm hóa kẻ thù, đó mới là hành vi cao thượng nhất trên thế gian này.

Rốt cuộc thì ánh sáng của tâm thuần thiện, của tấm lòng bao dung chính là vũ khí hiệu quả nhất để hóa giải mọi oán hận trên cuộc đời, là phương thuốc hữu hiệu để chữa lành mọi vết thương, là cây cầu ngắn nhất đưa những trái tim đến với trái tim.

From Nguyen Tan Hung & Kim Bang Nguyen

AN NAM ĐẠI QUỐC HỌA ĐỒ QUA PHÂN TÍCH CỦA MỘT HỌC GIẢ MỸ

Hoang Le Thanh added 5 new photos — with Phan Thị Hồng.

AN NAM ĐẠI QUỐC HỌA ĐỒ QUA PHÂN TÍCH CỦA MỘT HỌC GIẢ MỸ

Tiến sĩ Trần Đức Anh Sơn

– “Đây là một bản đồ hiếm hoi về Việt Nam vào thế kỷ 19, là một trong những dẫn chứng ủng hộ cho tuyên bố của Việt Nam về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, nhưng ý nghĩa của nó còn vượt xa giá trị chứng lý của Việt Nam trong cuộc đấu tranh với Trung Quốc về chủ quyền trên quần đảo này”. 
Học giả HAROLD E. MEINHEIT (Hoa Kỳ).

* Tấm bản đồ nổi tiếng

An Nam đại quốc họa đồ là tờ bản đồ có kích thước 84 x 45 cm (ảnh 1), phụ bản của cuốn Dictionarium latino-anamiticum (Từ điển Latin-An Nam), do Oriental Lith. Press xuất bản ở Calcutta (Ấn Độ) vào năm 1838.

Tác giả cuốn từ điển này là Jean-Louis Taberd (1794 – 1840), Giám mục đại diện Tông tòa ở Nam Kỳ dưới triều vua Minh Mạng (1820 – 1841).

Đây là một bản đồ đặc biệt, trước tiên là bởi tên của nó. Bản đồ do một giám mục người Pháp thực hiện, nhưng tên của bản đồ được viết bằng 3 ngôn ngữ: 安南大國畫圖 (chữ Hán), AN NAM ĐẠI QUỐC HỌA ĐỒ (chữ Quốc ngữ) và TABULA GEOGRAPHICAIMPERII ANAMITICI (chữ Latin), trong khi tất cả địa danh trên bản đồ, kể cả các địa danh thuộc Trung Hoa, Lào và Campuchia, đều được viết bằng chữ Quốc ngữ, còn Chú dẫn (Legenda) thì sử dụng cả chữ Quốc ngữ, chữ Latin và chữ Pháp.

Điều đặc biệt thứ hai là trên bản đồ có vẽ hình một cụm đảo ở giữa biển Đông, nằm ở phía bắc vĩ tuyến 16oBắc, phía đông kinh tuyến 110oĐông, có dòng tiêu danh: “Paracel seu Cát Vàng” (Paracel hoặc Cát Vàng). Dòng chữ này đã khẳng định nhóm đảo Paracel theo cách gọi của người phương Tây chính là (nhóm đảo) Cát Vàng (hay Hoàng Sa) theo cách gọi của người Việt đương thời.

Ngoài dòng chữ “Paracel seu Cát Vàng” ghi trên An Nam đại quốc họa đồ, trong bài viết Note on the Geography of Cochin China (Ghi chép về địa lý Nam Kỳ) in trên The Journal of the Asiatic Society of Bengal (vol. 6, part II, p.745), xuất bản tại Calcutta vào năm 1837, Giám mục Jean-Louis Taberd còn chỉ rõ:

“The Pracel or Paracels is a labyrinth of a small islands, rocks, and sand-banks… The Cochin Chinese called them Cón Váng… In 1816, he (king Gia Long) went with solemnity to plant his flag and take formal possess of these rocks, which it is not likely any body wil dispute with him”.

[Pracel hay Paracels là một mê cung của những hòn đảo nhỏ, đá ngầm và bãi cát… Những người dân xứ Cochin China (Đàng Trong) gọi là Cồn Vàng… Năm 1816, vua (Gia Long) đã (cho người) đến long trọng cắm cờ và chính thức tuyên bố chủ quyền ở các bãi đá này, mà chắc chắn là sẽ không có một ai tìm cách tranh giành với ông].

Dòng chữ “Paracel seu Cát Vàng” ghi trên An Nam đại quốc họa đồ cùng với những chú giải trong bài nghiên cứu nói trên của Giám mục Jean-Louis Taberd đã khiến cho tờ bản đồ này trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, đặc biệt là trong những năm gần đây. Theo nhiều nhà nghiên cứu, đó chính là bằng chứng chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, được một giáo sĩ phương Tây công bố với thế giới từ nửa đầu thế kỷ XIX.

Tuy nhiên, học giới Việt Nam từ trước đến nay dường như chỉ mới chú ý đến khía cạnh “chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa” được phản ánh trên An Nam đại quốc họa đồ, mà bỏ qua những chi tiết quan trọng và thú vị khác có trên tờ bản đồ lừng danh này.

***

An Nam đại quốc họa đồ qua phân tích của một học giả người Mỹ.

Mới đây, The Portolan, tạp chí của Hội bản đồ Washington (Mỹ), số 97, ấn hành cuối năm 2016 (ảnh 2) đã đăng tải bài khảo cứu rất công phu về An Nam đại quốc họa đồ có tựa là The Bishop’s Map Vietnamese and Western Cartography Converge (Tấm bản đồ Việt Nam của vị Giám mục và sự hội tụ ngành bản đồ học phương Tây).

Tác giả bài khảo cứu này là Harold E. Menheit, cựu viên chức ngoại giao Mỹ, người đã dành phần lớn sự nghiệp của mình ở châu Á, trong đó có Việt Nam, hiện là thư ký của Hội bản đồ Washington.

*

Trong bài khảo cứu dài 13 trang với nhiều hình ảnh minh họa, học giả Harold E. Menheit đã phân tích và đánh giá toàn diện về An Nam đại quốc họa đồ. Mượn lời tự nhận xét của chính của Giám mục Jean-Louis Taberd về bản đồ này:

– “Mặc dù bản đồ này không phải là không sai sót, nhưng tôi nghĩ rằng nó là, và có thể… là tốt nhất và chi tiết nhất mà trước nay chưa hề xuất hiện”

Để làm đề dẫn cho bài khảo cứu của mình, Meinheit khẳng định:

– “Đây là một bản đồ hiếm hoi về Việt Nam vào thế kỷ 19, là một trong những dẫn chứng ủng hộ cho tuyên bố của Việt Nam về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa, nhưng ý nghĩa của nó đã vượt xa giá trị chứng lý của Việt Nam trong cuộc đấu tranh với Trung Quốc về chủ quyền trên quần đảo này”.

Theo ông, bản đồ này là một thành tựu nổi bật trong sự kết hợp giữa bản đồ hành chính truyền thống của Việt Nam với bản đồ học phương Tây. Không chỉ là một bản đồ hành chính đơn thuần, An Nam đại quốc họa đồ đã cung cấp một “bản chụp nhanh” (snapshot) về toàn xứ Đông Dương trong những thập niên đầu của thế kỷ 19, khi mà vương triều Nguyễn đã xác lập vị thế của mình trong một đất nước Việt Nam thống nhất, trước khi đương đầu với cuộc xâm lược của người Pháp.

Bài khảo cứu của Meinheit đề cập nhiều nội dung: lai lịch tấm bản đồ; thân thế của tác giả bản đồ là Giám mục Taberd và chính sách “cấm đạo” dưới triều Minh Mạng; quá trình mở rộng lãnh thổ Việt Nam và chính sách của triều Nguyễn đối với hai láng giềng là Campuchia và Lào; đánh giá của Taberd về kỹ thuật vẽ bản đồ của người Việt và nỗ lực sử dụng chữ Quốc ngữ để định danh và chú giải trên tấm bản đồ vẽ theo kỹ thuật phương Tây của mình; dịch các địa danh bằng chữ Hán sang chữ Quốc ngữ trên các bản đồ hành chính thời Nguyễn để định danh cho các địa điểm ở Việt Nam, Lào, Campuchia và vùng lãnh thổ phía nam Trung Hoa; định vị các khu vực cư trú của các sắc dân thiểu số ở Việt Nam lúc bấy giờ trên bản đồ này, như người Hrê ở phía tây Quảng Ngãi, người Stiêng ở miền đông Nam Kỳ và các bộ tộc thiểu số ở Tây Nguyên.

Meinheit đánh giá đây là “một bản đồ nhiều mục đích” (a map of many purposes) và cho rằng dù Giám mục Taberd đặt ra mục đích cao nhất là “phục vụ cho lợi ích khoa học”, thì dù muốn hay không bản đồ này cũng được các giáo sĩ phương Tây coi là một phương tiện trong hành trình truyền giáo ở Đông Dương.

Tiếp đến, bản đồ này đã được các nhà thực dân người Pháp coi là nguồn thông tin chính về địa lý và hành chính của toàn xứ Đông Dương, với độ chính xác và tin cậy cao nhất.

Do vậy bản đồ đã được tái bản tại Paris vào năm 1862, khi người Pháp ký với triều đình Huế bản Hòa ước Nhâm Tuất, buộc nhà Nguyễn công nhận sự hiện diện của người Pháp ở Nam Kỳ.

Sau đó, nó được tái bản theo chỉ thị của Prosper de Chasseloup-Laubat, Bộ trưởng Bộ Hàng hải và Thuộc địa Pháp, để phục vụ cho các doanh nghiệp thuộc địa ở Đông Dương.

Và bây giờ, “trong thế kỷ 21, bản đồ của Giám mục Taberd lại đảm nhiệm một vai trò chính trị mới trong các cuộc đụng độ triền miên bởi các tuyên bố về tranh chấp chủ quyền ở biển Đông” như nhận định của Harold E. Meinheit về An Nam đại quốc họa đồ.

Harold E. Meinheit cho rằng:

– “Các cuộc xung đột về chủ quyền lãnh thổ ở biển Đông đã mang lại một danh tiếng mới cho bản đồ của Đức Giám mục, mà hiện nay được coi là bằng chứng củng cố yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, đã bị Trung Quốc chiếm đóng từ năm 1974”.

Ông đã mô tả vị trí của quần đảo Paracel trên bản đồ, cùng với dòng chữ “Paracel seu Cát Vàng” khẳng định người Việt đã đặt tên cho quần đảo này là Cát Vàng từ rất sớm, đồng thời trích dẫn những đoạn quan trọng trong bài Note on the Geography of Cochin China của Giám mục Taberd in trên The Journal of the Asiatic Society of Bengal vào năm 1937, cũng như dựa vào hồi ký Le mémoire sur la Cochinchine của Jean-Baptiste Chaigneau xuất bản ở Paris năm 1820 để xác thực việc vua Gia Long đã cho người ra Hoàng Sa cắm cờ và tuyên bố chủ quyền vào năm 1816.

Đó chính là bằng chứng chứng minh yêu sách chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, và là một giá trị “không được tính đến” khi Giám mục Jean-Louis Taberd thực hiện bản đồ này.

Ngoài ra, theo Harold E. Meinheit, tấm bản đồ này còn có một giá trị vô cùng quan trọng là nó đã khẳng định cương vực lãnh thổ của một nước Đại Nam hùng mạnh dưới triều Minh Mạng, thống nhất từ Bắc chí Nam, quản lý từ vùng rừng núi phía tây đến vùng biển và các đảo xa về phía đông, và cho thấy “đế chế Việt Nam” (An Nam quốc seu Imperium Anamiticum) đã kiểm soát những phần lãnh thổ bên ngoài cương giới chính thức của Việt Nam đương thời, bao gồm một nửa Campuchia, các tiểu quốc thuộc Lào và phần lãnh thổ đáng kể trong lưu vực sông Mekong mà ngày nay thuộc vùng đông bắc Thái Lan.

Trong bức thư gửi kèm cuốn tạp chí The Portolan có in bài viết của mình cho người viết bài này, học giả Meinheit cho biết tại Hội chợ bản đồ quốc tế Chicago diễn ra vào tháng 10/2016, một ấn bản của An Nam đại quốc họa đồ (in năm 1838) đã được bán với giá 13.000 dollars Mỹ.

Có lẽ đó cũng là một “giá trị khác” mà Giám mục Jean-Louis Taberd cũng “không nghĩ đến” khi xuất bản tấm bản đồ này vào năm 1838.

Ts. Trần Đức Anh Sơn. Anh Son Tran Duc

***

Ảnh 1: An Nam đại quốc họa đồ do giám mục Jean-Louis Taberd xuất bản năm 1838. Bản đang lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Pháp ở Paris – Ảnh: Trần Đức Anh Sơn.

Ảnh 2: The Portolan, tạp chí của Hội bản đồ Washington (Mỹ), số 97, ấn hành cuối năm 2016 (ảnh 2) đã đăng tải bài khảo cứu rất công phu về An Nam đại quốc họa đồ có tựa là The Bishop’s Map Vietnamese and Western Cartography Converge (Tấm bản đồ Việt Nam của vị Giám mục và sự hội tụ ngành bản đồ học phương Tây).

Ảnh 3: Bài khảo cứu công phu của học giả Harold E. Meinheit “The Bishop’s Map – Vietnamese and Western Cartography Converge” (Tấm bản đồ của vị giám mục – Sự hội tụ của ngành bản đồ học Việt Nam và phương Tây).

Ảnh 4&5: Học giả Harold E. Meinheit và tác giả – Ts. Trần Đức Anh Sơn – tại Mỹ – Ảnh do Trần Đức Anh Sơn cung cấp

[Bài đăng trên Tuổi Trẻ ngày 10/2/2017]
https://tuoitre.vn/an-nam-dai-quoc-hoa-do-duoi-mat-hoc-gia-…

No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
Image may contain: text
Image may contain: 2 people, people standing
Image may contain: 2 people, people sitting and indoor
 
 

Chúc Mừng Năm Mới

Kính gởi quý đọc giả thân mến,

Chỉ còn vài ngày nữa đến Tết Mậu Tuất 2018.

Ban Biên Tập “Kẻ Đi Tìm” kính chúc bà con xa gần được nhiều Sức khỏe và luôn Bình An.

Hy vọng trong thời gian sắp tới đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta sẽ tìm thấy Dân Chủ-  Tự Do- Nhân Quyền thực sự.

Mong lắm thay.

Ban Biên Tập “Kẻ Đi Tìm”

Ngày 11 tháng 02 năm 2018

Hết khôn dồn đến dại

 

Hết khôn dồn đến dại

Mênh mông thế sự để gió cuốn đi số 32

Năm hết Tết đến mà cứ đổ đốn phơi ra những chuyện dại dột để cho người ta chửi! Trước đây thời mồ ma phong kiến thực dân đã từng có bài chửi mất gà chua ngoa hết cỡ mà lại có vần   vè hẳn hoi, hãy chỉ trích một đoạn: “… dưới âm phủ đội mũ mà lên, trên thiên đàng xếp hàng mà đi xuống, bay hãy vén mái tai, gài mái tóc đặng chống tai lên cho rõ, chống cửa ngõ cho cao, chặt hàng rào cho thấp để mà nghe tau chửi đây nè…”. Chỉ ăn cắp mấy con gà thôi “bay ăn mần răng mà hết chục rưỡi con gà?” mà đã phải nghe dân gian chửi trùm chửi lớp như vậy huống hồ “ăn của dân không chừa một thứ gì” mà bà cựu Chủ tịch nước buột miệng nói ra, thì không hiểu bài chửi mất gà nói trên phải biến tấu sao cho kịp với quy mô, quy trình của “ăn cắp quyền lực” của dân để tác oai tác quái! Cái việc bấn quá mất khôn hay tham quá hóa dại hoặc do thiểu năng về trí tuệ không tính được chuyện “khôn” chỉ dồn toàn chuyện “dại” vào thời buổi “thiên hạ xác rồi còn đốt pháo, nhân tình trắng thế lại bôi vôi” [Tú Xương] khiến bàn dân thiên hạ nổi cơn thịnh nộ.

Mà thật ra đã mất lòng dân thì nếu khôn cũng chỉ là khôn vặt với những thủ thuật, giải pháp của những tiểu nhân đắc chí trong những toan tính đen tối mà Nguyễn Trãi xưa kia từng chỉ ra miệng lưỡi chúng “nhọn hơn chông mác nhọn”, “đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc, cho hay đường lợi cực quanh co”. Cái khôn độc của một lũ quyền thần kéo bè kết cánh dìm chết người ngay, loại bỏ người tài. Ở đấy khái niệm “khôn” chẳng phải là sự khuyên răn giàu chất triết lý của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm “Ở đời có dại mới có khôn, Chớ dại ngu si, chớ quá khôn”! Thâm thúy hơn cả là sự thẳng thừng của dân gian bình về chuyện “dại-khôn” này trong câu ngạn ngữ quen thuộc “người dại cởi truồng, người khôn xấu mặt”. Đối tượng nhận lĩnh búa rìu của dư luận xã hội chính là những kẻ tự xưng là “cầm cân nảy mực” đã tự phơi bày sự liều lĩnh trong việc đưa ra những chủ trương, chính sách, giải pháp rối như mớ bòng bong, luẩn quẩn như gà mắc tóc.

Thì đó, sự “xấu mặt” trước thế giới văn minh bằng thủ đoạn bắt cóc người sau khi thương lượng, van xin không được thì ăn cướp để rồi “Việt Nam đang làm hỏng danh tiếng của mình” vì đã “lập lờ với sự thật” và “bội ước” mà Carl Thayer, người rất am hiểu về Việt Nam đã phải thẳng thắn vạch ra! Chắc là kẻ bày trò bắt cóc nghĩ rằng rồi thì “lời nói gió bay” thôi, cứ dấn lên đi “hy sinh đối ngoại vì mục tiêu đối nội” bằng mọi cách hạ gục đối thủ chính trị mà thiên triều không ưa! Chuyện này ê chệ quá lắm rồi tưởng cũng chẳng phải nói thêm, hệ lụy vẫn đang còn chờ phía trước. Nhất là khi bốc đồng lên mà nói giọng xách mé một cách thiếu khôn ngoan mang tính khiêu khích “tin là các nước văn minh không phải là nơi cư ngụ của tội phạm”!

Cũng chẳng cần phải nói thêm chuyện đáng xấu mặt vì đã dẫm đạp lên hiến pháp bởi Quy định 105, rồi dày xéo lên điều lệ đảng bằng Quy định số 102 tự phơi ra trước thế giới việc “khai trừ” thành quả mà văn minh nhân loại đã có được với nguyên lý tam quyền phân lậpdo các nhà khai sáng đưa ra nhằm chống lại chế độ chuyên chế, thanh toán nạn lạm quyền, để chính quyền không thể gây hại cho người bị trị và đảm bảo quyền tự do cho nhân dân! Đúng là có 1 không [0] 2! Đây chính là sự lột truồng cái thể chế chuyên chế toàn trị phản dân chủ được sao chép từ “chủ nghĩa chuyên chế mới” (neo-authoritarianism) của Tập Cận Bình, đúng hơn từ nhà “lý luận” Vương Hộ Ninh từng là quân sư của cả ba triều đại Giang, Hồ rồi nay là Tập đang chính thức được xem là cốt lõi của tư tưởng Tập Cận Bình.

Theo Ryan Mitchel [trong “China’s Crown Theorist”, Foreign Affairs, 04/12/2017] thì ngay khi sử dụng chủ nghĩa Marx, Vương cũng chỉ thường xuyên tập trung vào việc biện minh cho sự ổn định quyền lực của đảng hơn là hướng tới một xã hội đại đồng không tưởng, cái mà về danh nghĩa quyền lực đó phải xây dựng được. Không một quan niệm trừu tượng nào, cho dù đó là tự do, công lý, bình đẳng, xã hội hài hòa, lòng nhân đức Khổng giáo, thậm chí cả chủ nghĩa duy vật biện chứng… được Vương quan tâm nhiều như là những dữ kiện trần trụi về quyền uy, sự tuân phục và trật tự. Có hiểu điều này mới thấy sâu được vì sao có cái “Quy định một không hai”  phải cấp tập ban ra để tự lột truồng cái thể chế học theo khuôn mẫu Tàu thời Tập. Đối chiếu chuyện này với quyết định hèn hạ cúi đầu vâng chịu ngừng việc khoan dầu đã ký với Epson Tây Ban Nha trước áp lực và sự uy hiếp của Trung Quốc qua chuyến “tuần thú” hăm dọa của Phạm Trường Long, phó bí thư quân ủy TƯ Trung Quôc, mới càng thấm thía cái “dại ngu si” đang dẫn tới thân phận chư hầu của họa “bắc thuộc lần thứ hai” từng được cảnh báo

Quả thật chẳng có cái dại nào giống cái dại nào. Và cũng không phải là chuyện những “kẻ nên khôn đều có dại” như Tú Xương lưu ý. Mà cái dại vừa nói lại chính là cái dại mà cụ Trạng Trình đã cảnh cáo “chớ dại ngu si”. Cái dại này đang gây phẫn nộ trong công luận.

Chẳng thể kể hết những chuyện “dại ngu si” dồn dập phơi ra. Hãy tạm dẫn ra đôi chuyện đang làm “dậy sóng dư luận xã hội”: chuyện xây dựng nghĩa trang cho cán bộ cao cấp, chuyện tăng “đột biến” việc phong học hàm giáo sư, phó giáo sư “đợt vét” trước khi có “quy trình” mới, chuyện tầng tầng lớp lớp ăn theo U23 bóng đá tùy  thuộc vào cơn co giật của đám đông thậm chí cho rằng “thế nước đáng lên” để bốc đồng rằng “vận nước đã đến”, rồi chuyện kiến tạo tuyệt vời của lãnh đạo Thủ đô cho thả thiên nga xuống hồ Gươm đón Tết vào thời điểm “nhìn tổng thể thì đất nước chưa bao giờ được như thế này”!

Thật ra, “nghĩa tử là nghĩa tận”, người có hiểu biết chẳng muốn tham gia vào chuyện mồ mả với người chết, nhưng hiềm một nỗi, đây là làm “nghĩa trang cho cán bộ cao cấp” thì lại là chuyện chọc vào tổ ong bò vẽ. Sự mất lòng dân của cái thể chế đã ruỗng nát, tự phơi ra giữa thanh thiên bạch nhật sự thật xấu xa bấy lâu cố che cho kín. Thì nay trong cuộc thanh toán đối thủ chính trị xoay quanh cái ghế quyền lực đã phải tự lột truồng nhau ra là ngọn nguồn của việc “dậy sóng” chuyện xây nghĩa trang. Cho nên thật xúi quẩy cho cái gọi là “cán bộ cao cấp” mà hễ nhắc đến là gây liên tưởng đến cái việc “lột truồng” tủi hổ kia. Chính điều đó tạo nên sự phản cảm cho dù người ta vẫn hiểu rằng không nên “vơ đũa cả nắm”. Người có chút nhạy bén chính trị phải thấy cho ra tâm trạng quần chúng đang chất chứa dồn nén cái gì, bực dọc cái gì, kinh tởm cái gì chỉ chờ dịp để bục phát ra, như thùng thuốc nổ được châm ngòi. Đâu chỉ hôm nay, lời phẩm bình của giáo sư Ngô Bảo Châu dạo nào “trẻ con ăn không đủ no, áo không đủ ấm, sinh hoạt như lũ thú hoang, mà bỏ ra 1.400 tỷ để xây tượng đài thì hoặc là khốn nạn, hoặc là thần kinh” đã là một cảnh báo mạnh dạn, thẳng thắn nhưng đã khó lọt tai nhà cầm quyền. Chính vì thế mà dư luận nổi đóa lên qua lời thơ của Thái Bá Tân văng thẳng vào mặt:

“…dân đang thiếu đói,

                                            Trẻ đi học thiếu trường,

Người ốm thiếu bệnh viện,
Dân bản thiếu con đường,

Mà các ông, lãnh đạo,
Của giai cấp công nông,
Đòi xây nghĩa trang khủng.
Thì đờ mờ các ông.


Thôi, từ nay thôi nhé,
Thôi “vì nước, vì dân”,
Thôi cả chức “đầy tớ”
Nghe chối cả tỉ lần
”.

Chuyện mồ mả chưa yên thì lại nảy nòi ra cái trò ê chệ lạm phát học hàm giáo sư, phó giáo sư vừa được “Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước” công bố. Thật ra thì cái trò ê chệ này chẳng mới mẻ gì. Giá biểu của mỗi chức danh quy ra tiền để chạy, để đút, để “đấm mõm” những vị có giây mơ rễ má từ thấp đến cao trong chuyện phong học hàm này thì cơ quan thông tấn vỉa hè từ lâu đã từng cho biết khá tường tận. Số lượng tăng thêm chức danh giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ luôn tỷ lệ thuận với sự xuống cấp văn hóa, giáo dục, khoa học cùng với sự băng hoại của đạo lý xã hội.

Chỉ cần dẫn ra một chi tiết trong bức tranh tổng thể của chuyện phong tặng này nhằm đúng vào ông “Chủ tịch Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước” cũng cho thấy sự ê chệ ấy là đáng xấu hổ ra sao: Tháng 10/2016, với tư cách Chủ tịch HĐCDGSNN, ông Nhạ ký công nhận mình đạt chuẩn giáo sư chuyên ngành kinh tế. Luật sư Trần Vũ Hải phân tích rất rõ ràng: “Nếu đối chiếu quy định của pháp luật, ông Nhạ không phải là giáo sư vào thời điểm tháng 7/2016, nên không đủ tiêu chuẩn thành viên HĐCDGSNN, không có quy định Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đương nhiên là Chủ tịch HĐCDGSNN, chưa có quyết định của Thủ tướng Chính phủ (sửa đổi, bổ sung Quyết định 763/2014 QĐ-TTg) về việc bãi nhiệm ông Phạm Vũ Luận khỏi chức chủ tịch HĐCDGSNN khoá 2014-2019 và bổ nhiệm ông Phùng Xuân Nhạ vào chức vụ này. Như vậy việc ông Nhạ tự nhận chức chủ tịch HĐCDGSNN là trái pháp luật, HĐCDGSNN do ông Nhạ làm chủ tịch đang hoạt động trái luật, nội dung quyết định ông Nhạ ký công nhận ông Nhạ đạt chuẩn giáo sư là không hợp pháp”.  Chình vì vậy, vị luật sư này đưa ra khuyến nghị “nếu ông là người tự trọng (đức tính tất yếu của một nhà khoa học), ông nên từ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chủ tịch HĐCDGSNN và từ bỏ chức danh giáo sư”!

Cũng chẳng cần phải dẫn ra thêm bộ trưởng nào khác nữa cũng đáng xấu hổ không kém hoặc đưa thêm một vài minh họa khá tiêu biểu cho câu chuyện ê chệ này vì liền ngay sau đó báo Tuổi Trẻ đưa tin: Thủ tướng Chính phủ yêu cầu rà soát, bảo đảm chất lượng bổ nhiệm giáo sư, phó giáo sư! Cùng với tin này, Tuổi Trẻ giật tít đậm “Tránh bệnh háo danh” với tiểu mục “Chạy” bằng cấp, học vị, học hàm với nhận định “Nhưng bằng giả không đáng ngại so với “bằng thật học giả”. Gần đây dư luận công khai chuyện chạy bổ nhiệm, chạy bằng cấp, học học hàm học vị…chạy đua để thỏa mãn bệnh hiếu danh, để đánh bóng tên tuổi”.

Nếu đem so với thời Tú Xương “Đứa thì bán tước, đứa mua quan…Phen này ông quyết đi buôn lọng, vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng” thì sự “phổ biến” có tính “đại trà” này phải nhân lên cấp số nhân! Rồi sự đòi hỏi mang tính bức xúc của lời chúc năm mới “sao được cho ra cái giống người” của ông Tú thành Nam càng tăng thêm tính cập nhật trong thời điểm “nhìn tổng quát lại đất nước ta có bao giờ được thế này không? Triển vọng phát triển còn tốt lắm… Có lẽ nhìn lại chưa bao giờ quê hương ta đẹp như thế này” như giáo sư tiến sĩ Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Bắc Ninh ngày 13.1.2016 mà Vietnamnet đã đưa!

Chẳng thế mà rồi cả nước bốc đồng, lên cơn co giật trong chuyện sốt bóng đá do U 23 “làm nên lịch sử”. Người có chút mẫn cảm chính trị thì thay vì hùa theo cơn co giật bốc đồng đó, qua sự kiện của hàng vạn người chào đón đội U 23 Việt Nam, á quân của giải U 23 Châu Á trở về để   tìm cho ra cái gì tiềm ẩn, chất chứa bên trong sự bùng phát của sự cuồng nhiệt đáng trân trọng đó chứ không phải “quá giang”.

Đã quá lâu, lòng yêu nước và tinh thần quật khởi của người Việt Nam, đặc biệt là tuổi trẻ, bị dồn nén không được bộc lộ trước hành động xâm lược của Trung Quốc, bị méo mó vì sự lừa mị của nhà cầm quyền đang từng bước trở thành chư hầu che dấu trong tấm áo ý thức hệ, bị thui chột bởi sự trấn áp tàn bạo nhằm đảm bảo những cam kết “Thành Đô” nay có dịp được bung ra! Mà bung ra được vì người ta khai thác điều đó để làm loãng bớt đi sự ngột ngạt đang dồn ép môi trường xã hội tựa như không khi oi bức đang tích tụ trong sự vần vũ của những đám mây đen báo hiệu cơn bão. Có cái gì đó na ná giống như hiện tượng “chết đuối vớ được cọc”!

Thì chẳng phải trong buổi tiếp Việt Kiều về nước ăn Tết, ông Trọng khoái chí kể lại chuyện bóng đá của U 23 Việt Nam “đã tạo ra trong xã hội không khí hồ hởi rất là phấn khởi…mà chơi cũng ngang ngửa chứ có kém gì đời đâu, cho nên những chuyện nhỏ cộng hưởng lại, tất cả cái đó tạo ra cái niềm phấn khởi lan tỏa trong dân, trong đất nước ta”! Ông lại còn cẩn thận phán truyền “không được ngủ quên trên vòng nguyệt quế” cứ như thể với cúp á quân của giải U 23 châu Á là đất nước đang phơi phới đi tới bởi sự lèo lái của ông ta!

Câu chuyện “ăn theo” bóng đá được khai thác quá lộ liễu. Thậm chí không chút liêm sỉ và quá trơ trẽn khi nâng lên thành “thế nước đang lên, vận nước đang tới” nhờ thủ môn Bùi Tiến Dũng đẩy được hai quá penalty và quả sút trong tuyết của tiền vệ Nguyễn Quang Hải! Nếu thế thì ở phút cuối cùng của hiệp phụ thứ hai khi chân sút của đội bạn vừa được đưa vào sân đã làm tung lưới đội nhà e cũng đồng nghĩa với thế nước lại đi xuống và vận nước đã đi tong! Thì chẳng phải là Đội tuyển Việt Nam được đón về Hà Nội bằng một chuyến chuyên cơ do VietJet tặng mà màn biểu diễn hở hang đến mức không thể hở thêm được nữa được các tiếp viên Vietjet tặng không trên máy bay khiến các cầu thủ xấu hổ ngoành mặt đi. Màn diễn lố bịch, trơ trẽn đến nỗi người ta không gọi là hãng Vietjet mà nhạy bén đổi ngay thành Vietsex.

Để tô đậm thêm nội dung, người đưa tin trên mạng đã có mấy câu thơ minh họa thay vì đăng hình ảnh. in được mạn phép tác giả chép ra đây:

Mở mạng ra xem bỗng cúi gầm

Hay mình lác mắt mới trông nhầm

Tày bay cứ tưởng nơi hoan lạc

Người mẫu mà ngờ gái mại dâm.

Sấn sổ quàng vai, em rụt lại

Sượng sùng ngoảnh mặt, chị đương tầm

Ngỡ như nhà thổ đang mùa ế

Bỏ chạy không đành phải nín câm.

Và rồi trên mạng đã có lời bình đáng cân nhắc để dẹp đi cơn co giật quá thô bỉ từ chuyện ăn theo bóng đá được dẫn dắt và khuyến khích từ nơi cao nhất: “…Trước khi tấn công một đất nước, không kẻ ngoại xâm nào nghiên cứu lòng ái quốc bóng đá và số lượng cờ trên má hay trên mông người hâm mộ ở đó. Ai hèn vẫn hèn. Ai ngu vẫn ngu. Ai lười vẫn lười. Ai đê tiện vẫn đê tiện. Ai ăn cắp vẫn ăn cắp. Ai vơ vét vẫn vơ vét. Ai thích nhậu nhẹt hơn rèn luyện thân thể vẫn nhậu nhẹt. Ai chém gió vẫn chém gió. Ai đạo đức giả vẫn đạo đức giả. Ai nuốt lời vẫn nuốt lời. Ai xấu trai vẫn xấu trai. Kẻ độc tài vẫn độc tài. Lòng người chia rẽ vẫn chia rẽ. Thực phẩm bẩn vẫn bẩn. Tham nhũng vẫn tham nhũng. Bệ rạc vẫn bệ rạc. Lầm than vẫn lầm than. Trái bóng tròn vô can. Phép màu chỉ diễn ra trên sân cỏ. 90 phút yêu nước vô hại là đủ và cần chấm dứt, khi trái bóng ngừng lăn”.

Chuyện bóng đá đã qua đi thì khốn khổ thay lại nối tiếp vào chuyện thiên nga! Nhà cầm quyền Thủ đô chắc là “người Miền Bắc, giỏi lý luận” hiểu biết nhiều nên định chơi sang, học đòi giới quý tộc Anh thả thiên nga vào Hồ Hoàn Kiếm. Vì nuôi thiên nga là đặc quyền của vua chúa và giới quý tộc. Đến London, du khách có thể thấy thiên nga đen và trắng bơi ngay hồ nước ở Công viên St James’s Park, trước lối vào Điện Buckingham. Nhưng có lẽ ít du khách biết thiên nga từng bơi tung tăng ở nhiều đoạn sông Thames thuộc độc quyền quản lý của Hoàng gia Anh. Nữ hoàng Elizabeth II, ngoài các tước hiệu như Nguyên thủ Khối Thịnh vượng chung; Tổng tư lệnh Quân lực Hoàng gia; Người Bảo trợ cho Tín ngưỡng Anh Giáo…còn có một tước hiệu là Bà chủ các đàn thiên nga (Seigneur of the Swans). Đây là tước hiệu cho vua và nữ hoàng Anh Quốc có từ thời Trung cổ, khi quyền sở hữu loài chim “quý phái nhất trong các loài”, là biểu tượng của địa vị cao. Nói ngắn gọn thì chỉ các vị quý tộc mới có quyền nuôi thiên nga, còn gọi là ‘Swan Upping’ và đàn thiên nga của họ có dấu đồng gắn ở chân. Để có các dấu đồng (marks), nhà giàu phải đóng thuế khá cao và đây là cách loại trừ tầng lớp dưới “chơi sang”.

Thì “chơi sang” chứ sợ gì nào, duyệt y kế hoạch thả thiên nga xuống hồ Gươm theo đúng quy trình! Thế rồi các con khiếu quen hót ở chốn cao sang để kiếm chác thêm chút đỉnh ngoài những chức danh đã chi chít phủ kín tấm “cạc vi dít” đã vội vã cười toe toét tung hô từ góc độ “khoa học” về loại động vật quý hiếm này. Nhưng đùng một cái, báo Lao Động ngày 6.2.2018 đưa tin: Ông Trần Nhữ Giáp – Giám đốc Công ty Cổ phần Đầu tư công viên Vườn Chim Việt – đơn vị tặng 12 con thiên nga thả hồ Gươm vừa bị khởi tố về tội: “Vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ”. Bài báo cho biết thêm: “Áp dụng các tình tiết giảm nhẹ khác, Toà án nhân dân huyện Thanh Trì tuyên bố xử phạt Trần Nhữ Giáp 60 triệu đồng. Liên quan tới việc thả thiên nga tại hồ Gươm, sáng ngày 6.2, lãnh đạo Công ty TNHH MTV Thoát nước Hà Nội xác nhận 12 con thiên nga được thả xuống hồ Gươm đã được bắt lên và chuyển sang hồ Thiền Quang”.

Lý do chuyển địa điểm thả thiên nga được vị lãnh đạo này cho biết là do một số nhà khoa học phản đối. Sau khi thả thiên nga xuống hồ Gươm, các nhà khoa học cho rằng nơi đây là chốn linh thiêng, gắn liền với truyền thuyết rùa vàng, thả con gì cũng phải nghiên cứu thận trọng. Vậy thì “thế nước” và “vận nước” ra sao đây khi xảy ra chuyện xúi quẩy này? Khi dẫn ra tin quá bất ngờ kia, bloger Z nọ đã chu đáo đưa ra phương án gợi ý với lãnh đạo Hà Nội chọn để thay thiên nga vừa phải tắp lự chuyển đi ngay trong đêm khuya khoắt như sau:  Các phương án để lãnh đạo tp Hà Nội chọn lựa để “thả” vào Hồ Gươm:

Ảnh biếm họa của họa sĩ LAP

Để kết thúc câu chuyện hết khôn dồn ra dại này xin có đoạn “vĩ thanh” dẫn ra những lời thâm thúy trong một ngâm khúc của cụ Nguyễn Gia Thiều có liên quan đến hình ảnh và ngôn từ với đôi sự kiện đương đại. Nhà thơ ôm mối ngu trung, nặng nợ với triều đại Lê-Trịnh vì đã được thụ hưởng ân huệ suốt cả cuộc đời nằm trọn trong giai đoạn rối ren nhất của nước ta và cuối cùng là sự sụp đổ tất yếu của cái triều đại mà tác giả của kiệt tác được trích dẫn đã tôn thờ.

Đôi câu thơ tạo ra sự liên tưởng oái oăm mà tưởng như năm chó sắp đến với bức tranh “vân cẩu” không mấy sáng sủa khiến tâm trạng ai đó bị giằng xé bởi “cuộc thành bại hầu cằn mái tóc” mà mơ đến sự đổi thay “lớp cùng thông như đúc buồng gan”. Ngán một nỗi, “trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán, chết đuối người trên cạn mà chơi”. Cái viễn ảnh hiện ra trước mắt lại ứng vào việc ông Trọng đang dồn tâm sức “Lò cừ nung nấu sự đời, Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương”! Chắc ông không biết được rằng, chính cái lò ông nhóm lên để đốt được cả củi tươi ấy có gốc gác với “lò cừ nung nấu sự đời” mà theo tiếng Tầu thì “lò cừ” có nghĩa là cái lò to lớn dịch từ chữ “cự lô”. Trong bài phú của Giả Nghị có câu “Thiên địa vi lô hề, tạo hóa vi công” có nghĩa là “Trời đất như một cái lò, ông trời như người thợ đốt lò”!

Con người ở trong đời này bị nén trong lò tạo hóa đó, tùy theo người thợ trời nung nấu,  nói theo ngôn từ biện chứng ông sính dùng, thì đó là quy luật vận động của vũ trụ. Ông muốn làm ông trời để ban phát quyền sinh quyền sát đâu có được. Cái bức tranh “vân cẩu” ứng vào năm Mậu Tuất e không được thuận cho ông. Liệu rồi “đất bằng bỗng rắc chông gai, ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương”, bóng người mờ dần theo bóng mặt trời sắp tắt của buổi mạt triều có khiến cho người nuôi mộng làm vua với bao mưu ma chước quỷ được truyền dạy từ các thày Tàu có dẫn đến kết cục “bừng con mắt dậy thấy mình tay không” không nhỉ?

Cho nên buộc phải có ngay “chủ trương đặc biệt mở đường xử đại án” sau cái Tết Mậu Tuất này. Theo ông Chánh án Tòa án tối cao vừa công bố thì các phiên xử này sẽ tiến hành “dưới sự chỉ đạo rất quyết liệt của Ban Chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng, đứng đầu là Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng”. Vậy là rồi đây các “bản án bỏ túi”, theo cách gọi dân gian, sẽ dồn dập tung ra thì “bức tranh vân cẩu” không chỉ “vẽ người tang thương” mà còn “phong trần đến cả sơn khê, tang thương đến cả hoa kia cỏ này”! Vậy thì, “được lòng dân là được tất cả, mất lòng dân là mất tất cả” như ông Trọng với cơn cuồng nhiệt bóng đá đã thốt ra trong buổi tiếp Việt Kiều vừa rồi, một câu khá nhất trong những câu mà ông đã xuất thần nói ra, thì với những gì ông đang làm đã khiến lòng dân đang mất sạch. Mất sạch ra sao, xin hãy nghe lời nói đanh thép của bà Cấn Thị Thêu trước bà con Dương Nội vào sáng hôm nay 11.8.2017, ngày bà rời khỏi nhà tù, để hiểu về lòng dân mà ông Tổng Bí thư vừa nói:

Hôm nay, tôi đã thoát khỏi ngục tù cộng sản, ra khỏi nhà tù nhỏ, trở về nhà tù lớn, nơi mà có hàng triệu bà con dân oan đang ngày đêm phải rên xiết dưới ách thống trị của đảng cộng sản Việt Nam…… Phải cho chúng từ quan làm dân, để cho chúng không còn có cơ hội cướp bóc, đàn áp, đánh đập nhân dân. Phải bắt chúng chịu trách nhiệm về tất cả những tội ác mà chúng đã gây ra cho nhân dân chúng tôi. … Phải cho chúng tận mắt chứng kiến, nỗi đau tột cùng của những gia đình có người thân bị chúng đánh chết hoặc bị thương tích đầy người hoặc hoặc bị tù tội oan sai, để cho chúng biết rằng tội ác của chúng là không thể dung tha. Mong toàn thể bà con dân oan, hãy đoàn kết muôn người như một, để chúng ta có đủ sức mạnh đấu tranh, chống lại bọn quan tham cường hào ác bá…”.

Lời răn của Mạnh tử: “ý dân là ý trời” được thể hiện sống động trong giọng nói dõng dạc, trong nét mặt bình thản và bất khuất của người phụ nữ nông dân vừa ra khỏi nhà tù thì quả là “trời có mắt”! Nói về dân thì chắc ông Trọng khó nghe, tuy vậy “cái gương nhân sự chiền chiền” khiến ông không thể không lưu ý rằng, chính Tập Cận Bình trong ngày 20.7.2017 tại một hội nghị công tác chính trị, pháp luật của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã cảnh báo: “Đừng thấy anh hôm nay thoải mái vui vẻ, cẩn thận sau này phải thanh toán… Trên đầu ba thước có thần minh, nhất định phải có lòng kính sợ”. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà nhà độc tài theo “chủ nghĩa chuyên chế mới” dành toàn bộ tâm trí thực thi quyền uy, sự tuân phục và trật tự như đã phân tích ở trên đã phải thốt ra điều này.

Cái “dại ngu si” dù ăn sâu bám rễ vào đầu óc chặc cũng giật mình để “nhất định phải có lòng kính sợ” ý chí và sức mạnh của dân. Có được điều đó thì may ra mới nên khôn nhờ biết dại, để “nhờ biết dại mới nên khôn”!

_____

Bản chất của những tay đồ tể cộng sản là không bao giờ thay đổi.

Thuong Phan and 5 others shared Lê Công Định‘s post.

Lê Công Định

Tôi đọc đi đọc lại lá thư của Hoàng Phủ Ngọc Tường về sự kiện Mậu Thân 1968 ở Huế, và nhận ra vài điều sau đây (ngoài những điều nhiều người đã phân tích rõ):

1) Nhiều độc giả đọc nhanh nên dễ dàng nhận định và kết luận rằng lá thư đó vừa là lời sám hối của Hoàng Phủ Ngọc Tường, vừa là sự thừa nhận quân đội cộng sản Bắc Việt chính là thủ phạm của cuộc thảm sát Mậu Thân 1968 ở Huế.

Theo tôi hoàn toàn không phải như vậy. Hãy bình tâm đọc kỹ và lưu ý cách dùng từ của một tay viết giỏi vốn được các trường lớp tuyên truyền của cộng sản đào tạo và nhồi sọ nhiều chục năm.

2) Thật vậy, đây đơn thuần là lời xin lỗi về hành động mạo nhận thiếu trung thực trong cuộc phỏng vấn năm 1981 mà thôi, không có sự ân hận nào trong đó.

Tuy Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm thấy “thống thiết” trước cuộc tàn sát kinh hoàng đó, nhưng chỉ xem đó là sai lầm, chứ không phải tội ác. Sai lầm thì rút kinh nghiệm và cùng lắm là xin lỗi, chứ không ân hận hay sám hối như cảm xúc của thủ phạm khi nhận ra mình đã phạm tội ác tày trời.

3) Những “tang tóc thê thảm” mà nhiều gia đình Huế gánh chịu, theo Hoàng Phủ Ngọc Tường, là do hành động giết oan của “quân nổi dậy”, chứ không phải của bộ đội cộng sản Bắc Việt. Độc giả cần lưu ý điểm này.

Chúng ta đều biết, phía cộng sản vẫn gọi chiến dịch Mậu Thân 1968 là trận “tổng tiến công và nổi dậy”, tức là bộ đội chính quy Bắc Việt tiến công, còn người dân địa phương nổi dậy. Đó cũng chính là “học thuyết” quân sự của Lê Duẩn trong chiến tranh Việt Nam.

Vậy, tuy thừa nhận có cuộc thảm sát, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khéo léo đổ lỗi đó cho người dân địa phương ở Huế qua cách dùng chữ “quân nổi dậy”. Nói cách khác, người Huế giết người Huế, chứ không hề có bàn tay của quân đội cộng sản Bắc Việt ở đây.

4) Đoạn nói rằng sai lầm của quân nổi dậy là không thể chấp nhận từ góc độ lương tâm dân tộc lẫn quan điểm “chiến tranh cách mạng”, cho thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn biện minh và bảo vệ đến cùng sự vô can của quân đội cộng sản trong cuộc thảm sát Mậu Thân 1968 ở Huế, bởi họ không chủ trương như vậy trong cái gọi là “chiến tranh cách mạng”.

5) Tận phút cuối cùng vẫn tiếp tục che đậy tội ác của mình và đồng bọn đối với đồng bào Huế bằng một lá thư được viết với ngôn từ khôn khéo thượng thừa, khiến nhiều người lầm tưởng, cho thấy bản chất của những tay đồ tể cộng sản là không bao giờ thay đổi.

Do vậy, đừng trông mong vào sự thừa nhận và hối lỗi về cuộc thảm sát Mậu Thân từ nhà cầm quyền này trong tương lai. Hãy nhìn cách họ tổ chức ăn mừng nhân dịp 50 năm sự kiện bi thương ấy để biết lòng dạ họ thế nào. Nếu chế độ này còn kéo dài, tôi tin chắc rằng họ sẽ tiếp tục nhảy múa như những kẻ vô can.

NGÔI MỘ ĐỜI THƯỜNG !

Thuong Phan and Huỳnh Phi Long shared Vi Vu‘s post.
Image may contain: plant, flower, table, outdoor and nature

Vi Vu

 

NGÔI MỘ ĐỜI THƯỜNG !

Ngôi mộ cụ Alexander De Rhodes – người đã có công to lớn góp phần trong việc hoàn thiện chữ Quốc Ngữ cho Việt Nam chúng ta, mộ phần của người nằm khiêm tốn trong một nghĩa trang đơn sơ vắng lặng ở tp. Esfahan, Iran .

Cho dù là nơi tận cùng của vùng Tây Á xa xôi, chiến tranh ác liệt nhưng vẫn có rất nhiều người, đương nhiên trong đó có cả những người Việt Nam nghĩa đạo đã đến ngả mũ nghiên mình viếng thăm ngưỡng mộ .

Cụ xả thân phục vụ nhân loại bởi cụ là nhà truyền giáo kiệt xuất, là nhà văn hóa lớn, nhà ngôn ngữ vĩ đại, là bậc vĩ nhân đúng nghĩa mang tầm thế giới – không phải là hào quang danh vọng mà là sự khiêm nhường bởi đức tin chân lý sáng ngời, được phát ra từ đức độ cao vời .

Nếu mộ cụ bình dân hơn tất cả cái bình dân đời thường .

Thì 1.400 tỷ đồng hoang phí của dân để thỏa mãn cho nhu cầu dục vọng hóa thân, âu cũng chỉ là bất nhân bất nghĩa, vô tình vô nghĩa mà thôi . 

Thái độ hậu chiến và nhãn quan về tội ác chiến tranh…

Phan Thị Hồng is with Hoang Le Thanh and 5 others.

Mượn bài của ông Manh Kim

Đăng xong, nghĩ ăn Tết.
Quê tôi không có mạng, càng tốt.

Nguyễn Đắc Xuân nhất mực cho rằng những “mất mát” đó là “ngoài ý muốn” và Mậu Thân vẫn là một “chiến thắng lịch sử”.

Trích từ bài đăng của Fb Manh Kim:

Việc ông Hoàng phủ Ngọc Tường có mặt ở Huế hay không thật ra không quan trọng. Ông có mặt hay không thì chiến dịch thảm sát vẫn xảy ra theo đúng kế hoạch sắp sẵn từ trước. Ông có mặt hay không thì danh sách nạn nhân cần được “tiêu diệt” cũng đã nằm trong túi áo đám sát thủ được phân công đi giết người. Ông có mặt hay không thì đống xương trắng của hàng trăm nạn nhân ở Khe Đá Mài vẫn trơ những hốc mắt kinh ngạc bàng hoàng như thể họ muốn hỏi, vào ngày đó; và muốn được trả lời, sau 50 năm, rằng “Tại sao tôi bị giết?”.

Việc không có mặt ở “hiện trường”, có thể được xem như là yếu tố “ngoại phạm” và là bằng chứng “vô tội”, thật ra là vô nghĩa. “Gây án” với lịch sử, dính dáng trực tiếp hay gián tiếp với lịch sử, không thuộc sự phán xét của một quan tòa. Nó thuộc sự đánh giá của dân tộc và sự phán xét của tòa án lương tâm. Tôi cảm nhận được sự dằn vặt của các ông trước những chỉ trích và cáo buộc dính dáng cuộc thảm sát. Tuy nhiên, 50 năm qua, ông Tường (và em trai của ông), cũng như ông Nguyễn Đắc Xuân, đã làm gì để sự thật được đưa ra ánh sáng? Các ông có biết ai là kẻ trực tiếp ra lệnh chiến dịch thảm sát, nếu có, tại sao không “tố giác”; nếu không, tại sao không kêu gọi một cuộc điều tra thủ phạm chóp bu thật sự, thay vì khổ sở thanh minh cho cá nhân mình?

Nếu các ông không có tội thì ai là kẻ có tội và tại sao các ông “chịu tội” thay? Với tư cách những người hoạch định và tham gia chiến dịch, các ông biết những gì? Các ông đã kể lại những gì và còn che giấu những gì? Chưa lần nào, trong bất kỳ bài viết nào khi “hồi tưởng” sự kiện Mậu Thân, các ông giải thích vì sao có những hố chôn tập thể mà nạn nhân đều bị trói ngoặt bằng dây kẽm gai…

Tôi không lên án sự chọn lựa chỗ đứng lịch sử của các ông trong thời điểm đó. Thái độ và sự chọn lựa cách thức để nhìn lại mình của các ông hàng chục năm qua mới là điều cần quan tâm. Tôi không chỉ trích sự chọn lựa quá khứ. Tôi chỉ thắc mắc sự chọn lựa hiện tại và cách nhìn hiện tại khi nhắc lại quá khứ. Hàng chục năm qua, các ông vẫn chỉ gỡ tội cho cá nhân mình chứ không phải giải oan cho hàng ngàn nạn nhân, tiếp tục nhất mực rằng những “mất mát” đó là “ngoài ý muốn” và Mậu Thân vẫn là một “chiến thắng lịch sử” – như lời lặp đi lặp lại của Nguyễn Đắc Xuân.

Thái độ hậu chiến và nhãn quan về tội ác chiến tranh của những người như Nguyễn Đắc Xuân đã khiến những kẻ hậu sinh như tôi xin được mạn phép thưa rằng, cho tôi gạt qua sự kính trọng cần có đối với người cao niên để thay bằng một cảm giác đối ngược.

Xuất khẩu lao động chỉ là sự đánh tráo khái niệm của cụm từ “mua bán nô lệ”

 Nguyễn Hiếu‘s post.
 
 
 

 
 
-3:32
 

 

 
 
 
 
17,304 Views
 

Nguyễn Hiếu is with Nguyễn Hiếu.

Xuất khẩu lao động chỉ là sự đánh tráo khái niệm của cụm từ “mua bán nô lệ” mà Cộng sản Việt Nam muốn che đi sự yếu kém trong điều hành đất nước ,khi con người được xuất khẩu như một món hàng thì giá trị của con người không còn là con người mà họ phải sống dưới quyền một con người ,đó là nô lệ !

Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam ,người Việt được xuất khẩu như những món hàng ,người dân Việt phải phải cúi đầu đi làm thuê cho các nước lân bang mà ở đó thậm chí như Lào ,Campuchia ,Malaysia ..người dân Việt phải bán sức lao động làm lao nô mà ở đó họ phải chịu nhiều tủi nhục ,bị hành hạ ,bị ngược đãi ,bóc lột lao động trong quá trình làm việc sinh sống ở nước ngoài như tịch thu hộ chiếu và giấy tờ tùy thân, bị ép làm việc quá thời gian, quá sức mà không được trả lương ,bị phân biệt đối xử và bạo lực thể xác, tinh thần…

Nhưng với những lãnh đạo họ không dám nhìn nhận sự thật đó ,họ không dám nhìn nhận thực đó ,họ luôn sống mị dân bằng những tuyên truyền với những “khẩu hiệu” mỹ miều tốt đẹp ,họ cho người dân ăn bánh vẻ ,tự sướng …điều này nó càng làm cho đất nước tụt hậu ,kém phát triển mà thôi ..!

“Condition Of Slavery”

Vài suy nghĩ về ông Võ Nguyên Giáp – Huỳnh Thục Vy

 
Image may contain: 1 person, smiling, sitting, sunglasses and outdoor
Nhà văn Mai Tú Ân is with Phạm Thành and 2 others.

 

Vài suy nghĩ về ông Võ Nguyên Giáp – Huỳnh Thục Vy

Vị tướng được những người cộng sản xem là “khai quốc công thần” cuối cùng đã trở thành người thiên cổ vào ngày 4 tháng 10 vừa qua. Vậy là, biểu tượng sống về công lao “giành độc lập” và lý tưởng “cách mạng”, tượng đài hữu danh vô thực về một thời “hào hùng” của những người cộng sản đã trở về với cát bụi.

Ông ta đã thực sự rời bỏ cuộc chơi, đã từ giã cõi nhân sinh điên đảo này. Không ai biết ông sẽ đi về đâu nhưng ông đã để lại di sản đầy đau đớn và nhiễu nhương, để lại cho tất cả chúng ta một Việt Nam với tiếng ai oán khắp nơi. Thôi thì cũng cầu chúc ông ra đi trong thanh thản, dù ông đã lặng thinh một cách vô cảm trước những người đã ra đi một cách bi thương khác.

Là người đã có công khai sinh ra một Việt Nam cộng sản, thiết nghĩ không cần bàn đến chuyện ông có lý tưởng hay không lý tưởng và sự cần thiết hay không của những cuộc chiến tranh vô nghĩa mà ông đã đóng vai trò lãnh đạo quân sự tối cao, ông phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về sự im lặng của mình trước những trang lịch sử bất công, gian trán và đau thương mà người Việt Nam đã trải qua.

Không ít người ca ngợi ông là một trí thức lớn, là nhà văn hoá. Tôi không muốn bàn những chuyện ấy nữa vì đã có nhiều tài liệu lịch sử có sẵn cho việc tìm hiểu, nghiên cứu về ông Giáp. Chỉ xin hỏi: Ông đã làm gì khi luật sư Nguyễn Mạnh Tường kêu gọi dân chủ pháp trị để rồi sau đó bị thất sủng? Nếu là một trí thức lớn thực sự, lẽ ra ông phải biết dân chủ pháp trị cần cho một quốc gia như thế nào trước cả cụ Tường bởi thực tế cho thấy chủ nghĩa cộng sản đã tàn phá quốc gia như thế nào? Nếu không nhận ra khiếm khuyết của một chế độ độc tài cộng sản, ông có xứng đáng với danh xưng một đại trí thức? Và cứ cho là ông không biết gì về độc tài-dân chủ, nhưng khi luật sư Tường lên tiếng về xã hội dân chủ, ông không có động tĩnh gì, đó có phải là biểu hiện của một nhân cách lớn?

Lại nữa, ông đã ở đâu, đã làm gì khi những Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Hữu Loan bị đấu tố, bị đoạ đày? Ông có chút tủi nhục, cảm thương hay phẫn nộ nào không khi hàng triệu người miền Nam bỏ nước ra đi trong tức tưởi khi Việt Nam cộng hoà bị cưỡng chiếm để rồi hàng nghìn người trong số họ đã vùi thân ngoài biển cả? Ông nghĩ gì khi tướng Trần Độ đã dũng cảm lên tiếng rồi bị đàn áp? Ông đã làm gì khi cụ Hoàng Minh Chính đã tỏ thái độ đối kháng để rồi bị bỏ tù? Ông đã đứng bên lề bao biến cố đau thương của đất nước. Đó có phải là vị trí xứng đáng của một trí thức hay không?

Dù là ai, một người vừa mới qua đời nên được cầu nguyện cho sự ra đi bình an. Tôi đã rất phân vân khi viết những dòng này. Có nên viết những lời cay đắng cho một người đã chết không? Có nên kể tội họ khi họ đã mãi mãi không còn khả năng biện bạch? Nhưng quả tình, tôi không viết những dòng này nhắm vào tướng Giáp, tôi viết cho những người còn sống, cho những người còn bị ám thị bởi cái ảo ảnh hào quang mà những người cộng sản đã tạo ra. Đa số thanh niên Việt Nam hiện nay sống trong sự lừa gạt đó mà không biết, và cũng không có ý chí vượt thoát ra.

Ông Giáp, vị “đại tướng quân” trong mắt nhiều thanh niên Việt Nam, là người góp công to lớn để tạo dựng và bảo vệ chế độ độc tài tàn bạo này. Ông đã sống quá xa cái tuổi “cổ lai hy” và ra đi trong tình thương yêu của gia tộc, trong sự ngưỡng vọng của nhiều người. Nhưng ông có biết đâu, một người có công gây dựng nên một tập đoàn tội ác như ông lại ra đi thanh thản và vinh quang, trong khi chính những nạn nhân vô tội của chế độ thì lại hứng chịu thảm trạng bi đát của gia đình để rồi phải ra đi trong uất ức, tủi nhục.

Đó chính là một Đặng Ngọc Viết hiền lành, siêng năng bị chính quyền cướp đất, phẫn uất cùng cực đến mức phải ra tay giết chết một quan chức tỉnh Thái Bình rồi tự sát bằng một viên đạn vào tim. Đó là một Thomas Nguyễn Tự Thành-một thuyền nhân bị cưỡng bách hồi hương về Việt Nam từ Thái Lan, bị sách nhiễu và phong toả kinh tế liên tục bởi chính quyền cộng sản đến nỗi uất ức quá phải tự vẫn bằng cách thắt cổ vào ngày 3 tháng 10, trước ngày ông Giáp chết một ngày. Tại sao ông lại được vinh danh khi chính ông là một phần nguyên nhân của những cái chết đau đớn ấy?

Tất nhiên, ông Giáp không còn là lãnh đạo đất nước từ lâu, các chính sách, hành động của chính quyền này ông không tham gia. Nhưng chính cái quá khứ “oai hùng” và cái hiện tại vô trách nhiệm của ông tạo nên tính chính đáng cho chế độ tàn ác này. Chế độ này vẫn lấy ông ra làm cái bệ đỡ để biện minh cho những hành động bán nước hại dân của họ. Ông là cái phao cứu sinh khi những người lãnh đạo cộng sản đối diện với sự căm phẫn của người dân vì sự tham quyền cố vị của họ. Không hiểu vì tuổi già làm tiêu hao ý chí, vì sự sợ hãi làm xói mòn lương tâm, hay vì danh lợi của con cháu làm tiêu tan tinh thần trách nhiệm, mà cho đến những năm cuối đời ông Giáp vẫn lặng thinh trước hiện tình đất nước vật vã dưới chế độ độc tài, vẫn để cho nhà cầm quyền tiếp tục lợi dụng ông cho chế độ bất nhẫn của họ. (Chỉ có một lần ông lên tiếng yếu ớt cho vấn đề Bauxite Tây nguyên)

Giá như ông lên tiếng cổ vũ cho Nhân quyền Tự do thì tiếng nói của ông đã tác động mạnh mẽ đến lương tâm tuổi trẻ và có thể xoay chuyển ý thức của biết bao người dân đang bị ám thị. Một ông Giáp đại tướng quân chắc chắc có khả năng thức tỉnh quần chúng, làm rúng động đảng cộng sản hơn hẳn một Lê Công Định, Phạm Hồng Sơn, Huỳnh Ngọc Tuấn, Phạm Thanh Nghiên hay Phương Uyên chứ? Thế nhưng, ông đã chọn cách sống trong sự co rút và chết trong cờ xí, kèn trống của chế độ cộng sản, hơn là cách sống trong sự phản tỉnh và chết như một chiến sĩ tự do. Đáng lẽ tuổi già phải là giới hạn cuối cùng của sự sợ hãi, nhưng ông đã để nó đi cùng ông sang tận thế giới bên kia.

Có người nói: chúng ta không ở vị trí của ông nên không thể hiểu hết những gì ông phải đối mặt. Đúng! Chúng ta không hiểu hoàn cảnh và vị trí của ông. Nhưng chúng ta có thể hiểu được hoàn cảnh của những bạn sinh viên vì biểu tình yêu nước mà bị nhà trường đuổi học và mất cả tương lai không? Chúng ta có từng đặt mình vào vị trí Phương Uyên, cô bé sinh viên phải chịu biết bao nhiêu sợ hãi, tổn thương tinh thần khi bị bắt và giam giữ, chỉ vì cô bé biểu thị lòng yêu nước? Rồi nhiều người đối kháng khác nữa, chỉ vì lên tiếng cho Dân chủ tự do mà phải chịu những bản án nặng nề, mất cả hạnh phúc trăm năm, con cái bơ vơ- thất học. Hoàn cảnh của ông Giáp có ngặt nghèo hơn hoàn cảnh của những người kể trên hay không? Hay để dễ hình dung hơn, tình huống của ông có khó khăn hơn tình huống của tướng Trần Độ, của cụ Hoàng Minh Chính hay không? Tôi cho rằng, vấn đề là ở lương tâm và bản lĩnh!

Ông đã ra đi để lại tất cả, một chế độ độc tài dai dẳng, những mảnh đời oan khuất, những cuộc đàn áp tiếp diễn, những cái chết oan khiên… Nhưng những dòng này không phải để kể tội ông. Quả thật, thế giới này tồn tại trong trạng thái tương đối của mọi giá trị. Nhưng vẫn có cách để phân biệt những trí tuệ và nhân cách lớn CHÂN THẬT với sự tô vẽ KHÔNG THẬT. Cầu cho ông ra đi được bình an và xin gởi tới ông sự cảm thương cho một kiếp người đa đoan trong thế giới vô minh này; nhưng sự tôn kính thì tôi xin giữ lại cho những con người sống với tương tâm, trách nhiệm và ý chí và chết với nỗ lực lên tiếng cho sự thật. Việt Nam còn rất nhiều người để chúng tâm thành tâm ca ngợi và kính ngưỡng, nhưng đó không phải là ông.

Huỳnh Thục Vy

Bản lên tiếng về quyền được nói và nghe sự thật

RFA
2018-02-09
 
Hình minh họa. Một người phụ nữ khóc than trên xác người chồng được tìm thấy cùng với xác của 47 người khác trong một mộ tập thể ở gần Huế hôm 11/4/1969.

Hình minh họa. Một người phụ nữ khóc than trên xác người chồng được tìm thấy cùng với xác của 47 người khác trong một mộ tập thể ở gần Huế hôm 11/4/1969.

 AP
 

Một văn bản có tên Bản Lên Tiếng Về Quyền Được Nói và Nghe Sự Thật được công khai trên mạng Internet vào ngày 9 tháng 2 kêu gọi các tổ chức cùng cá nhân trong và ngoài nước ký tên.

Văn bản này đưa nhận định về hàng loạt những diễn biến gần đây liên quan đến các bản án xét xử người bất đồng chính kiến tại Việt Nam.

Cụ thể đề cập đến các phiên toà xử các nhà hoạt động là blogger bác sĩ Hồ Văn Hải, Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển, Trần Hoàng Phúc, Hoàng Đức Bình và Nguyễn Nam Phong. 6 nhà hoạt động này lần lượt bị truy tố theo Điều 88 và 257, 258 Bộ luật hình sự Việt Nam.

Bản Lên Tiếng phản đối 3 phiên toà của 6 bị cáo trên đã diễn ra không công bằng, có ý đồ lấp liếm sự thật khi ngăn cản không cho luật sư biện hộ thực hiện công tác bào chữa.

Bản Lên Tiếng cũng chỉ trích hoạt động ăn mừng cuộc tấn công miền Nam và thảm sát đồng bào năm Mậu Thân 1968.

Ngoài việc đưa ra nhận định, Bản Lên Tiếng tuyên bố đòi hỏi nhà cầm quyền phải tôn trọng quyền được nói và được nghe sự thật của nhân dân; yêu cầu huỷ bỏ Điều 79, 88 và 258 của BLHS Việt Nam, trả tự do cho những tù nhân lương tâm đã bị kết án; kêu gọi trả lại toàn bộ sự thật liên quan đến cuộc chiến Mậu Thân 1968.

Nhóm ký tên đầu tiên gồm 30 tổ chức độc lập trong và ngoài nước cùng hơn một chục nhân sĩ, trí thức tham gia.