Trận hải chiến Hoàng Sa dưới mắt một người còn sống sót

 

Trận hải chiến Hoàng Sa dưới mắt một người còn sống sót

Phó Thịnh Đường

Lời Giới ThiệuTất Ngưu là người bạn cùng lớp (Khóa 20) trường Hàng Hải Thương Thuyền (HHTT) – Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ, Việt Nam. Chúng tôi tốt nghiệp vào lúc nước nhà thất điên bát đảo, kiệt quệ trong khói lửa chiến tranh. Mộng tìm việc làm trên các thương thuyền tan theo mây khói. Cùng một số bạn cùng khóa chẳng hạn như Nguyễn Văn Kết, Trần Minh Trung, Phạm Tánh Dược, Nguyễn Chánh Nghĩa,… chúng tôi đành lên đường nhập ngũ tòng chinh. Một số anh em cùng với tôi đã gia nhập Hải Quân và Quân Vận VNCH với hy vọng có cơ hội áp dụng những kỹ thuật hải hành hấp thụ được ở trường HHTT. Thế rồi trong một trận hải chiến, chiến hạm bị đánh đắm. Lênh đênh trên biển cả ba đêm, bốn ngày không thực phẩm và nước uống, Tất Ngưu đã chết đi rồi sống lại.

Là người may mắn được xem bài tường thuật trong quyển nhật ký được cẩn thận giữ gìn hơn 32 năm qua, tôi đã xin và được anh cho phép đăng tải nguyên văn.

Xin nói thêm là đối với một người đã một lần chết đi rồi sống lại như anh, danh lợi chỉ là chuyện phù phiếm. Anh đang có một cuộc sống bình dị, thoải mái, không màng đến vinh hoa phú quý. Đăng tải bài tường thuật này là việc ngoài ý muốn của anh, nhưng bởi sự yêu cầu khẩn khoản của tôi, anh đã đồng ý.  Dẫu sao đây cũng là một dịp để xác nhận chiến công của những chiến sĩ vô danh và các đồng đội mà anh còn nhớ tên trong đó có Trung Sĩ Trọng Pháo (TSTP) Xuân, Hạ Sĩ Nhất Vận Chuyển (HS1VC) Tây, Hạ Sĩ vận Chuyển (HSVC) Sáu, và còn nữa…

Cũng nhân tiện chúng tôi thuộc khóa đàn em Hàng Hải Thương Thuyền (HHTT) xin được cảm kích chiến công của HQ Tr/úy Cơ Khí (CK/HHTT) Huỳnh Duy Thạch là đàn anh (thuộc khóa 13 HHTT), nguyên Cơ khí Trưởng của Hộ Tống Hạm Nhựt Tảo HQ10 đã đi theo chiến hạm vào lòng đại dương.

Xin độc giả dành cho anh Tất Ngưu và các đồng đội của anh sự tri ơn thành thật nhất. Riêng tôi, xin “thẩm quyền nước Việt” trao đến các anh bằng Tưởng Lục cao quý nhất, Anh Dũng Bội Tinh, và Đệ Nhất Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, và hằng mong Thượng Đế, Trời, Phật luôn theo sát phò hộ các anh.

Phó Thịnh Đường (nguyên Hải Quân Thiếu Úy Hàng Hải Thương Thuyền)

Florida, Spring 2006

____

TRẬN HOÀNG SA

Nhật Ký của Tất Ngưu

Sài Gòn ngày 30 tháng 5 năm 1974,

Tôi đã sống lại một kiếp sống thứ hai. Phải, tôi đã thoát chết, đã kinh nghiệm một cái sống khi tôi không còn một tia hy vọng trong trí não. Nhưng thật sự tôi đang còn đây, và tôi sẽ thuật lại một trận chiến hãi hùng đầy cam go, và một cuộc sống lênh đênh trên mặt biển liên tục bốn ngày ba đêm trên một con bè với một túi thực phẩm chỉ gồm kẹo và nước uống.

“Te-Tít … Te-Tít … Te-Tít …Te-Tít … Te-Tít … Nhiệm sở vận chuyển.”

xem đầy đủ trong :

Trận hải chiến Hoàng Sa dưới mắt một người còn sống sót

 

Các nước trên thế giới đã rất kinh tởm cô gái đẹp ngủ quên

Chuong Tieng and Quân Hoàng shared Hoang Thi Loan‘s post.

 

 

 

 

 

 

 

 

Hoang Thi Loan

Các nước trên thế giới đã rất kinh tởm cô gái đẹp ngủ quên
BẰNG CHỨNG LÀ 
Cam tịch thu giấy tờ của hơn bảy mươi nghìn người VN chờ Trục xuất 
Thái lan Cấm không cho người Việt đến làm thuê
Singapor không cho đàn bà V N nhập cảnh 
Canada đuổi du học sinh về nước 
Nhật Trục xuất du học sinh
Hàn quấc Đài loan cấm nhập thêm công dân Việt vào làm mướn 
Cô gái đẹp cộng sản giờ chỉ còn đường qua Trung quốc

Ha ha –
Nước VN thiếu gì trai trẻ
Sao vội đi làm bé Ba Tàu

Việt Nam tiếp tục bị xếp hạng là quốc gia không có tự do

Việt Nam tiếp tục bị xếp hạng là quốc gia không có tự do

RFA
2018-01-16 
Bà Trần Thị Nga, một nhà hoạt động xã hội bị bắt bỏ tù. Ảnh chụp phiên tòa xử bà Nga ngày 21/12/2017.

Bà Trần Thị Nga, một nhà hoạt động xã hội bị bắt bỏ tù. Ảnh chụp phiên tòa xử bà Nga ngày 21/12/2017.

 AFP
 

Việt Nam không phải là một quốc gia tự do. Đó là xếp hạng của Tổ chức theo dõi tự do và dân chủ, Freedom House, có trụ sở tại Hoa Kỳ, công bố trong báo cáo thường niên 2018, vào ngày 16 tháng Một, năm 2018.

Theo tổ chức này, tại Việt Nam, quyền tự do được xếp hạng 6/7, trong đó hạng 7 là những quốc gia mất tự do nhất. Tương tự, quyền chính trị của người dân được xếp hạng 7/7 tức là không có quyền hạn chính trị nào. Lĩnh vực khá nhất của Việt Nam là các quyền dân sự được xếp hạng 5/7.

Theo báo cáo của Freedom House, năm 2017 là năm mà nền dân chủ gặp khủng hoảng trên toàn thế giới, trong đó có cả Hoa Kỳ quốc gia được xem là mẫu mực của dân chủ. Cụ thể chính phủ của tổng thống Donald Trump xâm phạm những chuẩn mực đạo đức, cũng như làm giảm tính minh bạch của họ.

Theo báo cáo mới công bố, trong tổng số 195 quốc gia được khảo sát chỉ có 88 quốc gia được gọi là tự do, chiếm 45% các quốc gia trên thế giới; Số có phần nào tự do là 58, tức 30% và số không có tự do là 49 nước, chiếm 25% .

Các quốc gia được xếp hạng tệ nhất là Syria, Bắc Hàn, và một số nước khác vùng Trung Đông, Trung Á và châu Phi.

Tại châu Á có những sự kiện sau đây được Freedom House nêu ra như là minh chứng cho sự thoái trào của nền dân chủ, đó là các nghị sĩ ở Hong Kong bị bãi chức, các thủ lĩnh đối lập bị bỏ tù, Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục tăng cường sự kiểm sóat đối với truyền thông, Chính phủ Cam Pu Chia giải tán đảng đối lập.

Dân biểu Úc lên tiếng về tình trạng nhân quyền Việt Nam

Dân biểu Úc lên tiếng về tình trạng nhân quyền Việt Nam

RFA
2018-01-16
Blogger Mẹ Nấm, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh tại phiên toà phúc thẩm Tòa án tỉnh Khánh Hoà ngày 30 tháng 11 năm 2017.

Blogger Mẹ Nấm, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh tại phiên toà phúc thẩm Tòa án tỉnh Khánh Hoà ngày 30 tháng 11 năm 2017.

AFP
 

Ông Chris Hayes, một dân biểu Úc vừa  gửi thư cho Ngoại trưởng Úc Julia Bishop, yêu cầu bà thúc giục chính quyền Hà Nội trả tự do cho ba nhà hoạt động Việt Nam là cô Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, bà Trần Thị Nga và anh Nguyễn Văn Oai.

Trong bức thư gửi cho bà ngoại trưởng vào ngày 16 tháng 1 năm 2018, dân biểu Úc Chris Hayes nói rõ là một công dân Úc được sống trong tự do, dân chủ và thể chế tam quyền phân lập, ông quan ngại trước tình trạng đàn áp, bắt bớ và bị kết tội với những điều luật mơ hồ ngày càng nhiều ở Việt Nam.

Ông Chris Hayes mong mỏi bà ngoại trưởng Úc mạnh mẽ thúc giục chính quyền Việt Nam trả tự do cho ba nhà hoạt động trên.

Thư của dân biểu Chris Hayes nhắc đến Cô Nguyễn Ngọc Như Quỳnh với bút danh “Mẹ Nấm” bị chính quyền Việt Nam bắt giữ từ tháng 10 năm 2016 và bị Tòa án Nhân dân tỉnh Khánh Hòa tuyên án 10 năm tù giam tại phiên tòa sơ thẩm hôm 29 tháng 6 năm 2017 với tội danh tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, theo điều 88 BLHS.

Trước phiên xử phúc thẩm Mẹ Nấm vào tháng 11 năm 2017, luật sư bào chữa cho bà là luật sư Võ An Đôn đã bị kỷ luật xoá tên khỏi danh sách Đoàn Luật sư tỉnh Phú Yên.

Một nhà hoạt động xã hội khác cũng được ông nói tới là bà Trần Thị Nga bị chính quyền bắt giữ vào tháng 1 năm 2017 và bị Tòa án tỉnh Hà Nam tuyên án 9 năm tù giam tại phiên sơ thẩm vào tháng 7 năm 2017 và tuyên y án vào phiên phúc thẩm hôm 22 tháng 12 năm 2017. Bà cũng bị kết tội vi phạm điều 88 BLHS Việt Nam.

Dân Biểu Úc Chris Hayes cũng nói tới trường hợp mới nhất là nhà hoạt động Nguyễn Văn Oai, vừa bị tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An y án 5 năm tù giam và 4 năm quản chế tại phiên xử phúc thẩm hôm 15 tháng 1 năm 2018.

Tại phiên sơ thẩm hôm 18 tháng 9 năm 2017 diễn ra tại Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An, anh Nguyễn Văn Oai bị truy tố tội Không chấp hành án theo Điều 304 Bộ luật Hình sự và tội Chống người thi hành công vụ theo Điều 257 BLHS.

Anh Nguyễn Văn Oai là thành viên của nhóm Thanh niên Công giáo và Tin Lành ở vụ xử “âm mưu lật đổ chính quyền” hồi 2013 tại Việt Nam. Anh bị chính quyền Việt Nam bắt giữ vào tháng 1 năm 2017.

Sự thật về cuộc gặp Mao Trạch Đông – Stalin

Sự thật về cuộc gặp Mao Trạch Đông – Stalin

Nghiên Cứu Quốc Tế

 17/01/2017 by The Observer

Biên dịch:  Nguyễn  Hải Hoành

Mao Trạch Đông cả đời chỉ ra nước ngoài có hai lần. Lần thứ nhất là tháng 12/1949 đi Liên Xô gặp Stalin ký “Hiệp ước Hữu hảo đồng minh hỗ trợ Trung Quốc-Liên Xô”. Lần ấy Mao Trạch Đông ở Liên Xô 59 ngày. Lần thứ hai là hạ tuần tháng 10/1957 đi Liên Xô dự Hội nghị các đảng Cộng sản toàn thế giới và cùng Khrushchev duyệt cuộc diễu hành tại Quảng trường Đỏ nhân ngày lễ kỷ niệm 40 năm Cách mạng Tháng Mười.

  1. Trả lại sự thật cho lịch sử

Năm 2007, Đài Truyền hình trung ương Trung Quốc (TQ) và các đài địa phương từng mấy lần đưa tin về cuộc đời của nhà ngoại giao lão thành Vương Gia Tường [Đại sứ TQ đầu tiên tại Liên Xô], trong bản tin có nhấn mạnh: tháng 12/1949 Mao Trạch Đông sau khi đến Liên Xô bị Stalin đối xử lạnh nhạt nên ông muốn về nước sớm; sau khi Mao Trạch Đông tiếp các nhà báo và công bố bài “Trả lời nhà báo”, Stalin mới gặp Mao bàn các vấn đề quan trọng.

Sự thật lịch sử không phải như thế. Sau khi Mao Trạch Đông và đoàn tùy tùng đến Moskva (16/12/1949), ngay ngày hôm đó Stalin đã hội kiến Mao Trạch Đông tại điện Kremlin. Ông bắt tay Mao và chân thành nói: “Hoan nghênh đồng chí đến thăm Liên Xô. Tôi không ngờ đồng chí lại trẻ và khỏe mạnh thế này. Đồng chí thật giỏi, có cống hiến rất lớn cho cách mạng TQ và nhân dân TQ, đích thực là người con tốt của nhân dân TQ! Chúc các đồng chí giành được thắng lợi vĩ đại, chúc nhà nước của các đồng chí tiến lên không ngừng!”

Sau đó Stalin nói: “Đồng chí đến đây không dễ dàng, chúng ta có thể thoải mái trò chuyện với nhau. Đồng chí có ý kiến và nguyện vọng gì không ?”

Mao Trạch Đông đáp: “Lần này chúng tôi đến trước hết để chúc thọ đồng chí, sau đó là để thăm đất nước vĩ đại của các đồng chí…”

Ngày 21/12/1949, Mao Trạch Đông dự lễ chúc thọ Stalin 70 tuổi.

Ngày 24, Stalin và Mao Trạch Đông hội đàm lần thứ nhất. Cuộc hội đàm kéo dài 5 tiếng đồng hồ.

Ngày 25, Stalin gọi điện thoại đến biệt thự Mao Trạch Đông ở, trước tiên hỏi thăm điều kiện ăn ở của Mao Trạch Đông, sau đó ngỏ ý muốn đến thăm Mao, nhưng cán bộ bảo vệ và y tế không cho ông đi đâu cả, vì thế ông rất lấy làm tiếc! Mao Trạch Đông cảm ơn và khuyên Stalin không cần đến thăm. Cuộc trao đổi điện thoại này do người phiên dịch của Mao Trạch Đông là Tôn Duy Thế phiên dịch.

Ngày 26, Stalin và Mao Trạch Đông hội đàm lần thứ hai, cũng kéo dài 5 giờ.

Trong hai lần hội đàm, Mao Trạch Đông dùng nhiều sự thực lịch sử chứng minh Đảng Cộng sản TQ có sức mạnh giải phóng toàn TQ [lúc bấy giờ một số vùng ở miền Nam TQ và Tây Tạng vẫn còn chưa được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của Quốc Dân Đảng], có năng lực quản lý nước TQ mới. Sau khi hoàn thành cuộc cách mạng dân chủ mới, TQ sẽ tiến hành cách mạng XHCN. Trong quá trình đó nếu gặp những chỗ chưa hiểu, sẽ mời ông anh cả Liên Xô giúp đỡ chúng tôi. Nhưng quyền tự chủ là thứ không thể từ bỏ. Chúng tôi có chủ quyền không thể nghi ngờ đối với bất cứ mảnh đất nào của TQ.

Nội dung hội đàm cũng đề cập vấn đề quá trình quanh co lắt léo của ĐCSTQ trong việc lãnh đạo cách mạng ở TQ và mối quan hệ giữa cách mạng TQ với Quốc tế cộng sản [vì Quốc tế Cộng sản từng có thời ủng hộ những người chống Mao trong ĐCSTQ]. Stalin nói: “Rốt cuộc các đồng chí đã giành được thắng lợi, mà người chiến thắng thì không bị xét xử. Mọi cái thuộc về người chiến thắng thì đều đúng cả.”

Trong hội đàm, Stalin từng tỏ ý lo ngại về năng lực lãnh đạo của ĐCSTQ và từng đề nghị nên chăng tạm thời để TQ và Liên Xô cùng quản lý vùng Đông Bắc TQ [nơi có nhiều cơ sở công nghiệp nặng do Nhật để lại].

Qua hội đàm, Stalin rất khâm phục tài cán của Mao Trạch Đông và hiểu thêm về ĐCSTQ. Tình hữu nghị và lòng tin giữa hai bên được tăng cường một bước. Trong hội đàm, Stalin trước tiên ngỏ ý “Nên dùng một hiệp ước để củng cố mối quan hệ giữa hai nước.”

Hai bên đồng ý rằng việc soạn thảo và ký kết hiệp ước cùng các hiệp định liên quan tới hợp tác kinh tế kỹ thuật, thương mại, thanh toán…  nên giao cho một phái đoàn chuyên môn của mỗi nước tiến hành giải quyết cụ thể.

Trong thời gian chờ đợi phái đoàn Chính phủ TQ do Thủ tướng Chu Ân Lai đến Liên Xô, Mao Trạch Đông đã đi thăm Leningrad và một số nhà máy.

Sau ngày Mao Trạch Đông đến Liên Xô, các Ủy viên Bộ Chính trị ĐCSLX Molotov, Mikoyan, Bộ trưởng Ngoại giao Vesinski đã nhiều lần tới thăm Mao Trạch Đông.

Trong nửa tháng đầu, Chủ tịch Mao chủ yếu hội đàm nội bộ với Stalin, thời gian còn lại bận giải quyết các công việc trong nước, không công bố tin về các hoạt động của mình. Điều đó đã gây ra lắm tin đồn phỏng đoán nhảm nhí trong giới truyền thông phương Tây. Họ đưa tin “Mao Trạch Đông bị Stalin giam lỏng rồi!”, “Mất tích rồi!” v.v… Trước tình hình đó, Chủ tịch Mao tiếp thu đề nghị của Đại sứ TQ Vương Gia Tường, ngày 2/1/1950 tiến hành trả lời các câu hỏi của nhà báo.

Trong trả lời nhà báo, Mao Trạch Đông nói: “Thời gian tôi ở lại Liên Xô có phần phụ thuộc vào nhu cầu thời gian dùng để giải quyết các vấn đề có liên quan tới lợi ích của nước TQ mới. Trong đó có vấn đề ký Hiệp ước Hữu hảo đồng minh hỗ trợ Trung Quốc-Liên Xô và hiệp định thương mại, hiệp định viện trợ kinh tế kỹ thuật và hiệp định vay vốn v.v…”.

Sau khi bài “Trả lời nhà báo” được công bố, các lời đồn đại của phương Tây đã tự nhiên biến mất. Tức giận trước sự việc báo chí tư sản phương Tây đơm đặt tin tức về chuyến thăm Liên Xô của mình, Mao Trạch Đông nói: “Logic của bọn đế quốc và tất cả các bọn phản động là gây rối, thất bại, rồi lại gây rối, lại thất bại, cuối cùng đi đến chỗ diệt vong”.

Những sự thật kể trên cho thấy, trước khi Mao Trạch Đông trả lời giới nhà báo, người đứng đầu hai nước đã quyết định sẽ tiến hành những công việc quan trọng như ký Hiệp ước Hữu hảo đồng minh hỗ trợ Trung-Xô, chứ không phải như một số người TQ cho tới nay vẫn nói xằng là “Sau khi công bố bài Trả lời giới nhà báo, Stalin mới gặp Mao Trạch Đông bàn vấn đề ký Hiệp ước, còn trước đó Stalin phớt lờ Mao Trạch Đông”.

Cũng do cuộc đàm phán giữa hai bên ngày càng đi sâu vào các vấn đề có tính thực chất nên Mao Trạch Đông tràn đầy niềm tin vào sự hợp tác Trung-Xô. Ông chưa bao giờ tỏ ra nản chí hoặc có ý muốn về nước sớm.

  1. Ký hiệp ước Hữu hảo Đồng minh hỗ trợ Trung – Xô

Ngày 20/1/1950, phái đoàn Chính phủ TQ gồm hơn 20 người do Thủ tướng Chu Ân Lai dẫn đầu đến Moskva.

Ngày 22, Stalin tiếp Mao Trạch Đông cùng phái đoàn TQ do Chu Ân Lai đứng đầu. Stalin tuyên bố: “Hôm nay nhà lãnh đạo hai nước chúng ta chính thức hội đàm”. Mao Trạch Đông nói: “Đồng chí Stalin từng nói phải chăng vấn đề quan hệ TQ-Liên Xô nên được cố định bằng hình thức hiệp ước. Chúng tôi cũng cho rằng dùng hình thức hiệp ước để cố định mối quan hệ giữa hai nước TQ-Liên Xô là một việc tốt. Nội dung hiệp ước nên bao gồm sự hợp tác chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, ngoại giao v.v…”

Stalin nói: “Tôi đồng ý bàn vấn đề hiệp ước, ngoài ra còn các vấn đề về con đường sắt Trường Xuân, cảng Lữ Đại [Lữ Thuận và Đại Liên], vấn đề thương mại, vay vốn, vấn đề hợp tác hàng không dân dụng cũng phải bàn bạc”.

Stalin và Mao Trạch Đông nhất trí đồng ý để hai bên lập các tổ chuyên đề trực tiếp bàn với nhau từng vấn đề.

Về “Hiệp ước đồng minh”, phía Liên Xô đồng ý đàm phán trên cơ sở bản dự thảo hiệp ước do phía TQ đưa ra.

Trong thời gian đàm phán, Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai có hôm phải thức đến 3 giờ sáng để nghiên cứu các điều khoản trong Hiệp ước và các hiệp định kèm theo.

Nước CHND Trung Hoa sau khi thành lập đã tuyên bố không thừa nhận tất cả các hiệp định quốc tế do nước TQ cũ ký với các nước ngoài. Nhưng vấn đề độc lập của Ngoại Mông Cổ là một ngoại lệ [mời tham khảo: Stalin và đàm phán Xô-Trung về việc Mông Cổ độc lập]. Nhân dân TQ tôn trọng kết quả cuộc bỏ phiếu tự quyết năm 1945 của nhân dân Mông Cổ nhất trí đồng ý độc lập. Thủ tục cuộc bỏ phiếu tự quyết đó do Chính phủ Quốc dân [do Tưởng Giới Thạch đứng đầu] thực hiện, nước CHND Trung Hoa thừa nhận cuộc bỏ phiếu này. Liên Xô tỏ ý ủng hộ lập trường đó của TQ.

Qua hơn nửa tháng đàm phán, hai phía TQ và Liên Xô đạt được sự đồng thuận về các điều khoản của “Hiệp ước đồng minh” và các hiệp định đính kèm. Đã đến lúc ký các thỏa thuận đó.

Tối ngày 14/2/1950, Stalin và Mao Trạch Đông dự lễ ký “Hiệp ước Hữu hảo đồng minh hỗ trợ Trung Quốc-Liên Xô” [tiếng Nga dịch là Hiệp ước hữu nghị, liên minh và tương trợ Liên Xô-TQ]. Đồng thời còn ký các hiệp định về vấn đề đường sắt Trường Xuân và cảng Lữ Đại, vấn đề vay vốn…

Ngày 15, Stalin và các nhà lãnh đạo Liên Xô dự buổi chiêu đãi long trọng do Sứ quán TQ mời.

Ngày 16, Stalin mở đại tiệc tại điện Kremlin tiễn Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai về nước.

Ngày 4/3/1950, Mao Trạch Đông và những người cùng đi về tới Bắc Kinh, kết thúc thắng lợi chuyến thăm Liên Xô lần thứ nhất.

Chuyến thăm Liên Xô kể trên đã thu được thành công lớn.

Điều thứ nhất của “Hiệp ước đồng minh” quy định: “Khi một trong hai bên ký Hiệp ước này bị xâm lược, bên kia phải toàn lực viện trợ”. Điều đó đã giúp TQ đang ở trong vòng vây của đế quốc Mỹ giành được sự bảo đảm an ninh.

Các hiệp định kinh tế, thương mại và vay vốn tạo điều kiện giúp TQ phục hồi nền kinh tế quốc dân của mình. TQ nhận được khoản vay đầu tiên trị giá 300 triệu dollar Mỹ với lãi suất chỉ có 1%, thời gian trả nợ là 10 năm. Trong ba năm, Liên Xô sẽ giúp TQ xây dựng mới và cải tạo 50 nhà máy.

Ngoài ra còn có hiệp định viện trợ quân sự. Trong đó có quy định trong năm 1950 Liên Xô giúp TQ xây dựng 6 trường hàng không, trong một năm đào tạo được 1.000 phi công lái máy bay phản lực tuyển từ học sinh trung học, nhằm giúp TQ xây dựng đội ngũ không quân đầu tiên.

Sau đó, hiệp định “ngày 4 tháng 6” năm 1950 quy định phía Liên Xô sẽ bán cho TQ mấy chục tàu chiến kiểu mới nhằm giúp TQ xây dựng lực lượng hải quân hiện đại, tạo điều kiện giải phóng Đài Loan.

Mao Trạch Đông rất coi trọng “Hiệp ước hữu hảo đồng minh Trung-Xô” , coi đó là một văn bản có tính lịch sử quan trọng. Vì thế ông đã chỉ định cán bộ chuyên trách dùng bút lông chép lại toàn văn Hiệp ước này và đưa vào hồ sơ lưu trữ quốc gia.

  1. Vài chuyện nói thêm

Lâu nay tại TQ có dư luận cho rằng Stalin và Quốc tế Cộng sản luôn can thiệp vào cuộc cách mạng của TQ, và dường như họ chưa đưa ra một ý kiến nào có lợi cho TQ.

Tình hình thực tế là ĐCSTQ được thành lập dưới sự giúp đỡ của Lenin và Quốc tế Cộng sản. ĐCSTQ là một chi bộ của Quốc tế Cộng sản, một bộ phận của phong trào cộng sản quốc tế. Trước khi Trung ương ĐCSTQ tiến vào khu Xô viết Giang Tây, kinh phí hoạt động của Đảng đều do Liên Xô cung cấp. Năm 1937, Quốc tế Cộng sản còn cung cấp cho ĐCSTQ một khoản kinh phí lớn.

Trong mấy chục năm liền, Quốc tế Cộng sản và Liên Xô đã đào tạo cho TQ mấy nghìn cán bộ chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật.

Có dư luận nói đầu năm 1949 khi quân đội của ĐCSTQ đánh chiếm bờ Bắc sông Trường Giang, Stalin còn không cho tấn công sang bờ phía Nam, để TQ ở vào tình trạng Nam Bắc phân tranh [tức chính quyền Quốc Dân Đảng vẫn tồn tại ở phần đất phía Nam Trường Giang].

Thực tế là lúc ấy Stalin xét thấy Quân Giải phóng TQ còn chưa có máy bay tàu chiến, nếu vượt qua con sông lớn hiểm yếu này sẽ có thể bị thiệt hại nặng, cho nên ông kiến nghị ĐCSTQ tạm thời đàm phán hòa bình với Quốc Dân Đảng, tranh thủ thời gian củng cố hậu phương vừa mới giải phóng, đồng thời chuẩn bị tốt công tác vượt sông lớn.

Sau khi Quân Giải Phóng chiếm Nam Kinh, Stalin lập tức kiến nghị ĐCSTQ nhanh chóng thành lập quốc gia mới nhằm ngăn ngừa khả năng Liên Hợp Quốc thi hành chính sách ủy trị đối với vùng chưa giải phóng. ĐCSTQ đã tiếp thu kiến nghị đó, ngày 1/10/1949 thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngày 2/10, Liên Xô là nước đầu tiên công nhận nhà nước mới này.

Năm 1952, TQ chuẩn bị tiến sang giai đoạn cách mạng XHCN, khi nghiên cứu chính sách đối với giai cấp tư sản dân tộc trong nước, ĐCSTQ có xin ý kiến Stalin. ĐCS Liên Xô và Stalin cho rằng: khác với giai cấp tư sản Nga, giai cấp tư sản TQ có cơ sở kinh tế yếu kém, về chính trị cũng không phản động như giai cấp tư sản Nga; vì thế đã kiến nghị ĐCSTQ trong giai đoạn cách mạng XHCN nên thi hành chính sách cải tạo hòa bình đối với giai cấp tư sản TQ. ĐCSTQ đã tiếp nhận kiến nghị đó.

Lịch sử chứng minh các kiến nghị kể trên của Stalin nêu ra với ĐCSTQ đều đúng đắn.

Nhân đây xin nói thêm, trong thời kỳ Cách mạng Tháng Mười Nga, ĐCS Liên Xô đã thi hành chính sách cực đoan đối với các nhà tư bản và địa chủ phú nông Nga: tước đoạt về kinh tế, tiêu diệt về thể xác, và đày con em họ sang Siberia.

Nguồn: 毛泽东同斯大林会见的真情实况   姜明礼   2008年3月3日

Tài liệu tham khảo:

– Nhật ký Uông Đông Hưng [cán bộ bảo vệ Mao Trạch Đông];

– Lịch sử ĐCSTQ;

– Lịch sử ĐCS Bôn-sê-vích Nga (bản 1959);

– Hồi ký của Fedorenko cán bộ phiên dịch người Nga do Stalin cử giúp TQ trong thời gian Mao Trạch Đông thăm Liên Xô [sau là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao LX].

Hai phiên tòa và giọt nước mắt quan chức

Hai phiên tòa và giọt nước mắt quan chức

 BBC

Nhà báo Mạc Việt HồngGửi bài từ Warsaw, Ba Lan

  • 16 tháng 1 2018

Trịnh Xuân Thanh

Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES

Ông Trịnh Xuân Thanh trong một lần ra trước Toà án Hà Nội

Sự kiện nổi bật nhất đầu năm Việt Nam có lẽ là phiên xử ông Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh và 20 đồng phạm thuộc Tập đoàn Dầu Khí và…phần họ khóc.

Vụ án gây chú ý không chỉ bởi con số hàng ngàn tỉ thất thoát, mà còn vì đây là lần đầu tiên một Ủy viên Bộ Chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam bị đem ra xét xử.

Về phía Trịnh Xuân Thanh, những lùm xùm xung quanh nghi vấn ‘bắt cóc’ khiến không chỉ dư luận trong nước mà quốc tế, nhất là nước Đức cũng để tâm theo dõi.

Hai ‘nhân vật chính’ hiện được Viện Kiểm sát đề nghị mức án 14-15 năm tù và chung thân.

Ông Thăng mong muốn sẽ nhận được bản án nhân văn để có thể về chết bên người thân, được là ‘ma tự do’ không phải làm ma trong tù

Khác với các vụ án xử những người bất đồng chính kiến, phiên tòa được báo chí trong nước tường thuật khá chi tiết, đầy đủ.

Bản quyền hình ảnhHOANG DINH NAMImage captionMột thời danh giá: ông Đinh La Thăng (phải) khi làm Bộ trưởng Giao thông và ông Tom Enders, CEO của Airbus Group đón chiếc Airbus A350XWB đáp thử xuống Nội Bài 22/11/2014.

Bên cạnh dàn luật sư hùng hậu, các bị cáo cũng có thời gian tương đối dài rộng để tự bào chữa.

Ông Thăng nhiều lần khóc

Theo tờ Tuổi Trẻ, trong phần tự bào chữa dài hơn một tiếng rưỡi, ông Đinh La Thăng đã nhiều lần khóc.

Ông kể phải dậy từ 5 giờ sáng để ra tòa trong tiết trời lạnh; rằng ông có hai con gái, một cháu phát triển không bình thường cần có sự chăm sóc của bố mẹ; về người cha già yếu gần 90 tuổi và bản thân ông cũng bệnh tật, phải uống thuốc từ nhiều năm nay.

Ông Thăng cũng trích lời tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, rồi ví ông Trọng với cố Chủ tịch Hồ Chí Minh và qua đó mong muốn sẽ nhận được bản án nhân văn để có thể về chết bên người thân, được là ‘ma tự do’ không phải làm ma trong tù.

Bị cáo Thăng cũng xót xa vì chắc sẽ không có cơ hội về được về đưa tiễn cha mình, khi ông ấy qua đời.

Ngay sau đó, đến lượt Trịnh Xuân Thanh khóc than về thân phận sẽ làm ‘con ma tù’ của mình và xin lỗi các lãnh đạo tập đoàn Dầu Khí.

Hai người đàn ông nước mắt lã chã ở tòa khiến nhiều người so sánh với hình ảnh trái ngược của hai người phụ nữ kiên cường mặc dù bị tuyên án hết sức nặng nề.

Phiên tòa của hai chị diễn ra cách đó chỉ có vài tháng.

Hai người mẹ nuôi con nhỏ

Bản quyền hình ảnhFB NGUYỄN TUYẾT LAN/NGUYỄN NGỌC NHƯ QUỲNH

Buổi gặp ngắn ngủi trước tòa đã thành buổi gặp cuối cùng

Người thứ nhất là blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, người mẹ đơn thân đang nuôi hai con nhỏ. Chị đã trải qua cả hai phiên xử sơ thẩm và phúc thẩm với bản án 10 năm tù giam

Người thứ hai là nhà hoạt động Trần Thị Nga – người mẹ của hai bé trai 7 tuổi và 4 tuổi – với bản án 9 năm tù giam.

Khác với hai ông Thăng và Thanh, hai người phụ nữ này hoàn toàn đơn độc trước tòa, người thân không được phép vào dự, luật sư bào chữa hầu như bị vô hiệu hóa.

Họ hầu toà trong vòng vây dầy đặc của những người mặc sắc phục, sau nhiều ngày bị biệt giam và không nhận được bất kỳ một tin tức gì từ gia đình.

Mặc dù hoàn cảnh riêng tư éo le và bị khủng bố tinh thần trong quá trình giam giữ cũng như xét xử, nhưng người ta không nhìn thấy dù chỉ một giọt nước, một giây yếu lòng hay một lời than vãn, xin xỏ nào từ hai người phụ nữ.

Báo chí và bộ máy truyền thông khổng lồ của nhà nước Việt Nam đã không có được bất kỳ một cơ hội nào, dù nhỏ nhất để hạ uy tín của các bị cáo, dù đó chính là điều mà những người làm tuyên truyền mong muốn.

Chính nghĩa đổi ngôi?

Nói cho công bằng, ông Thăng và Thanh không phải là những đấng nam nhi hy hữu đã khóc ở tòa án. Trước đó không lâu, cựu giám đốc công ty dược phẩm Pharma trong vụ ‘thuốc chữa ung thư giả’ cũng đã nức nở ngay sau khi nghe tuyên án.

Vụ OceanBank diễn ra hồi tháng 9/2017, những đại gia ngành Ngân Hàng một thời ‘ngồi trên tiền’ cũng mếu máo vì người có mẹ ung thư, người có con đang nằm viện…

Bản quyền hình ảnh FB LUONG DAN LY

Nhà hoạt động Thúy Nga có hai con trai 5 và 7 tuổi

Lịch sử Việt Nam từng ghi nhận nhiều người tù cộng sản bất khuất thời tiền cách mạng, hay ở xà lim Côn Đảo trong giai đoạn trước năm 1975. Nhiều người chết trong tù, có những tử tù ra pháp trường vẫn hiên ngang, dám làm dám chịu, sống chết vì lý tưởng.

Những hình ảnh như vậy ở người cộng sản không còn nữa, kể từ khi họ nắm quyền. Không ít ông ‘quan cách mạng’ ngày nay trở thành những nhà tư bản khệnh khạng, tận dụng mọi cơ hội để vơ vét, sa đà trong ăn chơi, hưởng lạc, phung phí tài nguyên quốc gia.

Nhiều người ‘thét ra lửa’ khi đương chức, nhưng lại ‘nhũn như chi chi’ trước vành móng ngựa.

Bản quyền hình ảnhHUMAN RIGHTS WATCHImage caption15 vụ bắt giữ tù nhân chính trị mà Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch) cho là cần phải được chú ý ở Việt Nam

Sự run rẩy của ‘các đồng chí bị lộ’ trước tòa đã xóa nhòa đi hình ảnh của cha ông họ trước kia, những người mà sự dũng cảm của họ đã góp phần làm nên thắng lợi.

Nhưng chính nghĩa trong một xã hội luôn tồn tại.

Như một định luật, nó dường như chỉ chuyển từ lực lượng này sang lực lượng khác, từ tay nhóm người này qua tay những người khác.

Nó nằm đâu đó, trong lời tuyên bố dõng dạc của Nguyễn Ngọc Như Quỳnh rằng, nếu làm lại từ đầu, chị vẫn chọn con đường mà mình đã đi.

Nó ánh lên trên gương mặt sáng ngời của cô gái trẻ Phương Uyên khi cô khảng khái khẳng định, chỉ chống đảng cộng sản, không chống lại đất nước, dân tộc.

Nó nằm trong bản án dài 16 năm tù của doanh nhân Trần Huỳnh Duy Thức, khi ông chấp nhận không chịu lùi bất kỳ một phân nào để đổi lấy tự do.

Và còn rất nhiều những tù nhân lương tâm khác nữa.

Họ cũng có mẹ già, con dại; nhiều người đã không được nhìn mặt người thân của mình lần cuối vào phút lâm chung.

Hình ảnh kiên trung, bất khuất, sự hy sinh vì lý tưởng của họ chính là điều mà dân tộc Việt Nam đang thiếu hụt.

Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, chủ biên tạp chí Đàn Chim Việt Online tại Warsaw, Ba Lan.

Ngày 17 tháng 1 THÁNH AN-TÔN Viện phụ

Ngày 17 tháng 1 THÁNH AN-TÔN Viện phụ

Trang Chủ » Hạnh Các Thánh » Ngày 17 tháng 1 THÁNH AN-TÔN Viện phụ

* Gương Thánh Nhân:

Sinh năm 251 tại Cai Rô, miền thượng Ai Cập, thánh An tôn là con một gia đình giàu có, đạo đức, Ngay từ nhỏ, thánh nhân đã được cha mẹ dạy dỗ sống đời đức hạnh. Khi lên 18 tuổi thì cha mẹ ngài qua đời, để lại một gia tài to lớn.

Một hôm, ở thánh đường, thánh nhân nghe đọc lời kinh thánh: ” Nếu con muốn nên trọn lành hãy về bán hết của cải mà phân phát cho người nghèo khó rồi theo Ta”. ( Mt .19,21). Ngài nghĩ là lời đó Chúa muốn nói với mình, nên về bán hết gia tài cha mẹ để lại, phân phát cho người nghèo, chỉ để lại chút ít cho người em gái, rồi vào sa mạc ăn chay, hãm mình, cầu nguyện và làm việc cực nhọc hằng ngày để sinh sống. Thánh A-ta-na-xi-ô đã viết về ngài: ” Anh tự làm lấy mà ăn vì anh đã nghe nói rằng: Ai không làm thì đừng có ăn. Tiền làm ra, anh đem mua bánh ăn một phần; phần còn dư lại, anh phát cho kẻ nghèo.

Anh cầu nguyện liên lỉ, vì anh nghe nói phải cầu nguyện riêng không ngừng. Anh chăm chỉ đọc sách đến nỗi không để rơi lời Kinh Thánh nào, nhưng nhớ hết, đến nỗi sau này anh có thể dùng trí nhớ thay cho sách vở. Mọi người trong làng, mọi kẻ hẳn hoi đến thăm anh. Thấy anh sống như vậy, họ gọi anh là bạn của Chúa. Người thì yêu anh như con cái, kẻ lại thương anh như anh em”

Mặc dầu sống giữa sa mạc hoang vu hiu quạnh, thánh nhân luôn bị ma quỷ cám dỗ. Chúng cám dỗ ngài về những ham mê xác thịt, tiền của, danh vọng, nhất là bỏ đời tu luyện khắc khổ mà trở về thế gian. Nhưng chúng càng cám dỗ dữ dội chừng nào, ngài càng tăng gia ăn chay cầu nguyện nhiều chừng nấy. Và nhờ ơn Chúa ngài luôn luôn chiến thắng . Dầu vậy, thánh nhân cũng phải rời sa mạc hai lần. Lần thứ nhất vào năm 311, do cuộc bắt đạo của A-la-xi-mô-nô. Ngài đi khích lệ các tù nhân và khuyến khích mọi người trung thành làm chứng cho Chúa. Lần thứ hai ngài rời sa mạc trở lại thành A-lê- xăn-tri, để phụ giúp Đức Giám mục A- na-ta-xi-ô chống lại lạc giáo. Ngài rảo khắp thành thị làng mạc, rao giảng kêu gọi mọi người trung thành sống theo giáo huấn của Hội thánh. Đi tới đâu, dân chúng cũng tuôn đến nghe ngài, vì ngài giảng rất hùng hồn thông suốt, khiến nhiều người lầm lạc ăn năn hoán cải. Còn những kẻ đạo đức trí thức thì hết sức ngạc nhiên về tài trí thông minh của ngài. Họ không ngờ ngài sống trong sa mạc, thiếu liên lạc tiếp xúc với các nền văn hoá cũng như không có sách vở học hỏi mà thấu suốt hết mọi vấn đề, nhất là về phương diện thiêng liêng nhân đức. Họ không biết rằng ngài đã học biết Chúa nhiều hơn qua các cảnh vật thiên nhiên do Thiên Chúa tạo dựng. Đối với người có đức tin và lòng sốt mến, thiên nhiên là cuốn sách vĩ đại giúp họ nhìn biết Thiên Chúa và các tài năng, đức tính của Người.

Sau khi giúp Đức Giám mục giải quyết lạc giáo xong, thánh nhân trở lại đời sống ẩn dật, khắc khổ nơi sa mạc. Từ đó, nhân đức thánh thiện của ngài vang dội khắp nơi. Nhiều người đạo đức đến xin làm môn đệ ngài. Thế là nhờ Thánh An tôn mà phong trào ẩn tu đã phát triển mạnh mẽ. Và nhiều người đã nên thánh nhờ lời giáo huấn và gương sáng đời sống của ngài. Lúc đó, ngài đã gần 100 tuổi. Ngài biết sắp từ giã cõi trần, nên hằng ngày lo dọn mình trở về cùng Chúa. Ngài qua đời năm 356, hưởng thọ 105 tuổi.

* Quyết tâm: Noi gương thánh An-tôn, sẵn lòng từ bỏ mọi sự giàu sang, vui sướng ở đời, sống âm thầm thân mật với Chúa trong việc ăn chay cầu nguyện hằng ngày, hầu đủ sức chống trả mọi chước cám dỗ của ma quỷ, xác thịt, thế gian.

* Lời nguyện: Lạy Chúa, Chúa đã cho thánh An-tôn viện phụ sống một đời phi thường trong sa mạc để phụng sự Chúa. Xin Chúa nhậm lời người nguyện giúp cầu thay, mà cho chúng con biết quên mình, để một niềm yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng con. Amen.

GPVL

Ngày 17 tháng 01   

THÁNH ANTÔN ẨN TU
          (521-357)

Đời sống thánh Antôn là tấm gương chiến đấu liên lỉ và can đảm với thù tặc Satan, xứng đáng cho mọi người công giáo noi theo.

Antôn chào đời vào năm 251, tại làng Cosma thơ mộng, một làng đẹp nhất miền Ai Cập thượng. Cha mẹ ngài thuộc dòng tộc quý phái; lại giầu lòng đạo đức. Cả hai kiên tâm giáo hoá con cái về học vấn lẫn tu đức. Mà vì nền giáo dục quá nghiêm khắc, cậu Antôn ít được ra khỏi nhà hay chơi đùa với các bạn đồng tuổi. Suốt đời niên thiếu hầu như cậu chỉ biết có dinh thự gia đình và nhà nguyện của làng.

Năm 18 tuổi, sau khi cha mẹ từ trần, Antôn ở với em gái. Hai anh em theo gương cha mẹ, hết lòng yêu thương nhau, và giúp nhau sống đạo đức. Cũng vào kỳ này, Antôn nghĩ nhiều đến việc dâng mình cho Chúa. Một hôm đi dự lễ, Antôn nghe đọc lời Phúc Âm Chúa phán với người giầu có: “Nếu con muốn nên trọn lành, con hãy trở về bán hết gia tài, đem tiền cho kẻ khó rồi đến đây theo Cha, con sẽ được kho tàng trên trời”. Tưởng như Chúa nói với mình, Antôn nhất định áp dụng đến triệt để, và nhất quyết theo Chúa. Thánh nhân về nhà chia vườn đất cho người nghèo trong làng, bán đồ đạc lấy tiền bố thí cho người túng bấn. Ban đầu ngài còn để lại chút ít lấy cái độ thân và nuôi em, nhưng khi suy đến lời Chúa: “Con đừng bận tâm đến ngày mai”. Ngài lại đem bán tất cả những cái còn lại lấy tiền cho kẻ khó. Xong việc, ngài dâng cô em vào một cộng đồng Trinh nữ, và quyết chí bỏ thế gian.

Thời ấy ở Ai Cập chưa có mấy nhà dòng sống kiểu cộng đồng, vì những nhà đầu tiên đã bị phân tán trước ngọn gió bách hại. Đàng khác, đời sống ẩn tu dường như ít ai nghĩ đến. Sau nhiều ngày lang thang, Antôn tình cờ gặp một vị ẩn sĩ tuổi tác, Antôn liền xin dựng lều gần ông để tập sống đời ẩn tu. Đầu tiên vị ẩn sĩ trẻ tuổi này phân phối thời gian để học Thánh kinh, cầu nguyện và làm việc tay chân hầu phát triển cả thể xác lẫn tinh thần. Ngài không quên tìm cách ăn chay hãm mình, và dành thời giờ viếng thăm các đồng bạn chung quanh. Với ơn Chúa và thiện chí, không bao lâu ẩn sĩ trẻ tuổi ấy đã nên gương mẫu cho anh em cùng lý tưởng. Cảm phục nhân đức và đời sống khắc khổ của Antôn, các tu sĩ đã tặng người một tên đệm: “Đêicôla” nghĩa là kẻ thờ phượng Chúa.

Ngài đã chiến đấu, nhưng từ nay ngài càng phải chiến đấu hơn nữa với trăm ngàn cám dỗ của Satan. Chúng chịu làm sao được khi nhìn thấy tâm hồn thánh thiện của đầy tớ Thiên Chúa. Nhất nữa vì thánh nhân là người đã phát động phong trào tu hành phồn thịnh tại Ai Cập; Palestina và Arập. Sức chiến đấu can đảm của thánh nhân trong 25 năm trời, chứng minh đầy đủ câu châm ngôn: “Chúa không bao giờ để chúng ta bị cám dỗ quá sức chúng ta”.

Quả vậy, ma quỷ dùng chiến lược tấn công ngài như xưa chúng đã tấn công Chúa. Chiến lược thứ nhất chúng dùng vinh hoa thế gian và đau khổ đời tu hành. Chiến lược thứ hai là lạc thú tình dục với mọi hình thức khêu gợi. Và chiến lược thứ ba là lòng kiêu ngạo, coi mình như đã vượt mức thánh thiện. Và đây là chiến thuật đối phó của thánh nhân. Sẵn sàng nghênh chiến với Satan bằng tinh thần suy niệm và cầu nguyện liên lỉ, bằng hy sinh và đánh tội. Chính vì thế, ngài cầu nguyện và đọc sách thâu đêm, ăn chay đánh tội hằng ngày. Mỗi ngày ngài chỉ ăn một tấm bánh nhỏ với muối và nước lạnh sau khi mặt trời đã lặn. Chiến đấu với cám dỗ này thánh nhân lại chuẩn bị chống lại mưu độc khác.

Chưa lấy thế làm đủ, thánh Antôn còn muốn sống đời khổ hạnh hơn: ngài bỏ lều, xuống một hầm kín và chật chội. Không muốn một ai viếng thăm, trừ một thầy bạn, thỉnh thoảng tiếp tế đồ ăn cho ngài. Thánh nhân trốn xa người thế nhưng không thoát khỏi quyến rũ, hành hạ của Satan. Quả thế, trong hầm tối tăm này, thánh nhân có khi phải nhức óc vì những tiếng gầm thét, tru tréo của Satan mặc hình thức thú vật hoặc phải chết lử vì những trận đòn hung ác. Nhưng thánh Antôn vẫn kiên tâm, vì tin rằng Chúa hằng ở với ngài. Lần kia, sau trận đòn nhừ tử, thánh nhân tỉnh dậy thưa với Chúa: “ Lạy Chúa, vừa rồi Chúa ở đâu. Tại sao Chúa không giúp con ngay phút đầu?”. Lập tức có tiếng phán: “Cha vẫn ở đây, để chứng kiến con chiến đấu. Cha thấy con chiến đấu dũng cảm lắm, con hãy tin vào Cha, Cha sẵn sàng tiếp ứng con!”

Năm 35 tuổi, thánh nhân muốn rút lui vào hẳn sa mạc, với một số lương thực vừa đủ sáu tháng. Không một chút do dự trước những khối bạc lượng vàng ma quỉ bầy ra để quyến rũ, thánh nhân băng qua sông Nil, trèo lên một ngọn núi cao gần Atphite Ngài ở đó suốt 20 năm, không tiếp đón ai, trừ mấy người bạn hằng năm hai lần đem của ăn tới cho ngài.

Nhưng “hữu xạ tự nhiên hương”, dù thánh Antôn có ý tránh xa thế tục, thì hương thơm nhân đức lại lôi kéo nhiều khách thập phương đến thăm ngài. Ban đầu thánh nhân còn tìm lẽ nọ bầy kế kia để thoái thác, nhưng được ít lâu vì số người đến mỗi ngày một đông, lại nhất định tìm mọi cách để gặp mặt, nên thánh Antôn buộc lòng phải ra đón tiếp họ. Mục đích đoàn khách thập phương là đến thăm viếng và xin ngài dậy đường nhân đức. Và ngài cứ ở đây đón tiếp họ cho đến năm 305 mới nhận rõ ý Chúa là muốn ngài bỏ đời ẩn tu, đi lập các tu viện. Ngài lập nhiều tu viện, thu nhận nhiều môn đệ. Hằng năm ngài lần lượt đi thăm các cộng đồng tu sĩ và huấn dụ về đời sống thiêng liêng. Ngài theo kinh nghiệm bản thân, bầy tỏ cho các tu sĩ những mưu mô xảo quyệt của Satan. Và, theo ngài, khí giới chiến đấu hữu hiệu hơn cả là cầu nguyện, ăn chay, làm dấu thánh giá và thái độ coi khinh chúng.

Thêm vào đời sống tu hành khắc khổ, thánh Antôn còn mong mỏi được phúc tử đạo. Vậy năm 327, khi được tin Hoàng đế Maximinô Daia ra chỉ bách hại công giáo, và tại Alexanđria sắp có cuộc xử tử một số tín hữu kiên trung, thánh nhân liền nhất định xuống khích lệ anh em đồng đạo và mong được cùng chết vì Chúa Kitô. Vì thế, ngài cùng với một số tu sĩ xuôi dòng sông Nil, đáp thuyền vào tận thành phố. Rồi ngài ngang nhiên tiến thẳng vào toà án, khuyến khích tín hữu giữ vững đức tin, không kể gì đến các quan và dân ngoại. Ngài can đảm sống gần các vị tử đạo cho đến phút cuối cùng trên đấu trường. Nhưng ý Chúa không muốn ban cho thánh Antôn triều thiên tử đạo, Chúa muốn ngài thành một tấm gương can đảm chiến đấu và cầu nguyện ăn chay cho đại gia đình tu trì. Tuy nhiên thánh nhân vẫn lưu lại đô thị cho đến khi ngọn lửa bách hại tắt hẳn mới trở gót về cộng đồng tu sĩ.

Và từ đấy cho đến cuối đời, thánh Antôn không được sống an tịnh như ý muốn. Ngài dựng lều trên sườn núi Gôtzin (Gokzin) và suốt ngày tiếp đón mọi thứ người: các tu sĩ, các tín hữu và cả lương dân. Năm 342, ngài đến thăm thánh Phaolô Thêbê và tận tình giúp đỡ trong an táng thánh Phaolô. Bấy giờ tiếng khôn ngoan và nhân đức thánh Antôn vang lừng khắp kinh thành nên đã được thánh tổ phụ Athanasiô mời về thành để cùng chung lực chống lại các tà giáo, nhất là bè rối Ariô. Cũng thời này, thánh Antôn được Chúa cho phép làm phép lạ: Ngài chữa nhiều bệnh nhân, trừ người bị quỷ ám và biết trước số phận nhiều linh hồn bên kia thế giới. Ngoài ra, thánh Antôn còn được ơn nói tiên tri như lời thánh tổ phụ Gioan Christon làm chứng.

Sống được 105 tuổi, thánh Antôn biết mình kiệt sức và giờ về thiên quốc sắp tới, ngài liền hội các tu sĩ lại quanh giường, khuyên bảo lần sau cùng. Ngài cũng dậy các môn đệ đừng ướp xác và làm ma chay theo kiểu người Ai Cập. Sau cùng thánh nhân giơ tay chúc lành cho tất cả các tu sĩ và phó linh hồn trong tình yêu vô biên của Chúa ngày 17-1 năm 356.

Đến năm 561 dưới triều Hoàng đế Justiliô, người ta đem xác ngài về táng trong nhà thờ thánh Gioan Tẩy giả thành Alexanđria. Lòng sùng kính đối với thánh nhân bắt đầu từ các giáo đoàn Trung Đông và Tiểu Á. Phong trào tốt lành ấy mỗi ngày một lan rộng sang các nước Âu châu, và càng phổ cập hơn trong thế giới công giáo khi Giáo hội chính thức tôn phong ngài lên bậc Hiển thánh.

Tinmung

Anh chị Thụ & Mai gởi

Cứ Ðể Yên Như Thế

    Cứ Ðể Yên Như Thế

    Trong một tác phẩm có tựa đề “Quyển Phúc Âm thứ 5”, một tác giả người Italia là ông Mario Pomilio có tưởng tượng ra một mẩu chuyện như sau: Sau thời kỳ bách hại tại Roma, các tín hữu bắt đầu xây cất nhà thờ. Ðâu đâu người ta cũng thấy mọc lên nhà thờ. Tên của Ðức Mẹ và các Thánh được đặt cho các nhà thờ. Nhưng người ta vẫn chưa thấy có nhà thờ nào mang tên của Ngôi Lời. Thấy thế thánh Gioan mới đến báo cáo với Chúa Giêsu. Chúa Giêsu bèn ra lệnh cho thánh Phêrô khởi công xây cất một nhà thờ dâng kính cho Ngôi Lời.

    Con người đã có một thời được mệnh danh là người xây dựng vĩ đại của Giáo Hội mới đi rảo khắp nơi để thu tập vật tư. Thánh Mathêô đã cung cấp đá. Thánh Marcô mang vôi đến. Thánh Luca tặng những cây trụ lớn. Còn Thánh Gioan thì cúng đá cẩm thạch để làm bàn thờ và vàng để làm nhà tạm..

    Với tất cả những vật liệu cần thiết, Thánh Phêrô hớn hở bắt tay vào việc xây cất. Nhưng thời gian trôi qua, công sức đã tiêu hao quá nhiều mà người thợ xây Phêrô mới chỉ hoàn tất được việc đặt nền móng cho ngôi nhà thờ. Thấm mệt, vị thủ lãnh các tông đồ mới cầu xin Chúa: “Lạy Chúa, xin ban thêm cho con đủ sức để hoàn thành ngôi Nhà Thờ”.

    Chúa Giêsu mới trả lời: “Cứ để yên như thế. Ngươi hãy nhớ rằng cứ mỗi người đi ngang qua công trình này đều có thể mang đến một viên gạch, một ít vôi để xây tường và thế hệ này qua thế hệ khác, những cột trụ Ðền Thờ sẽ được dựng lên”.

    Có hai sự kiện xem ra tương phản nhau: tại Tây Phương, nhiều nhà thờ bị đóng cửa hoặc đem ra bán đấu giá, vì giáo dân không đủ cấp số hoặc không còn người lui tới nhà thờ. Trong khi đó thì tại Việt Nam, nhu cầu sửa chữa hoặc xây nhà thờ mới mỗi ngày một gia tăng.

    Có thể có hai quan niệm sống đạo đằng sau hai sự kiện ấy. Nhiều người Tây Phương cho rằng sống đạo là sống Công Bình và Bác Ái, chứ không nhất thiết phải đến nhà thờ. Trong khi đó thì có người lại trách cứ rằng nhiều người Việt Nam chỉ giữ đạo hình thức, họ thích biểu dương tôn giáo, họ thích rước sách, họ đọc kinh làu làu, họ siêng năng đến nhà thờ, nhưng họ xem thường những đòi hỏi của Công Bình và Bác Ái

    Kỳ thực, giữ đạo trong nhà thờ mà không sống đạo bên ngoài nhà thờ là một thiếu sót, nếu không muốn nói là một thái độ giả hình mà Chúa Giêsu đã lên án gắt gao. Nhưng sống Công Bình và Bác Ái mà không múc lấy sức sống từ việc gặp gỡ Chúa nơi nhà thờ cũng là một thiếu sót. Người Kitô đích thực múc lấy sức sống từ Ðức Kitô và diễn đạt sức sống ấy qua cuộc sống thường ngày. Có nhà thờ để cầu nguyện nhưng cũng có chợ đời để gặp gỡ Chúa. Người Kitô hướng về Trời cao, nhưng vẫn còn bám lấy cõi Ðất. Người Kitô đến nhà thờ, mà để quay trở lại cuộc sống. Và cuộc sống cũng sẽ trở nên cằn cỗi, nếu nó không được nuôi dưỡng bằng lương thực Thần Linh.

    “Hãy trở nên những viên đá sống động”. Ðó là ơn gọi của người Kitô chúng ta. Hãy trở thành những viên đá sống động không chỉ để xây dựng ngôi nhà thờ bằng gỗ đá, nhưng là để xây ngôi Ðền Thờ của cuộc sống. Cuộc sống có trở thành Ðền Thờ để gặp gỡ Chúa qua những gặp gỡ với tha nhân, qua những xây dựng Hòa Bình và yêu Thương, thì Ðền Thờ gỗ đá mới sống động.

    Trích sách Lẽ Sống

Anh chị Thụ & Mai gởi

Diện tích nước Việt cổ lớn gấp 10 lần ngày nay

Dien Hong Tran and Hai Tran shared Anh Chi‘s post.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.

Anh Chi added 5 new photos — with Dung Nguyen and 21 others.

Diện tích nước Việt cổ lớn gấp 10 lần ngày nay

Vùng đất phía Bắc của người Bách Việt từng lên đến tận phía Nam sông Dương Tử (hay Trường Giang), tới khu vực Hồ Động Đình (tức tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc của Trung Quốc ngày nay). Việc này không chỉ được ghi nhận lại trong các truyền thuyết mà còn nằm trong những chứng tích của lịch sử.

Truyền thuyết

Theo Lĩnh Nam Chích Quái thì ông nội của Lạc Long Quân là Đế Minh (cháu 3 đời của Thần Nông) sinh ra con cả là Đế Nghi. Khi Đế Minh đi tuần thú phương Nam thì gặp và cưới con gái bà Vụ Tiên sinh ra Lộc Tục. Ngay từ tấm bé Lộc Tục đã thể hiện rất thông minh và đoan chính.

Đế Minh rất ngạc nhiên trước tư chất thông minh và tài trí của Lộc Tục nên muốn chọn làm người nối ngôi, thế nhưng Lộc Tục lại muốn nhường ngôi cho anh mình là Đế Nghi.

Cuối cùng Đế Minh quyết định truyền ngôi cho con trưởng Đế Nghi làm vua phương Bắc, và cho Lộc Tục làm vua phương Nam, lấy sông Dương Tử làm giới tuyến. Ông tế cáo trời đất trên Thiên đài rằng: “Trước đất trời nguyện rằng: Nam, Bắc cương thổ có khác. Nam không xâm Bắc. Bắc không chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao thương”.

Từ đấy phía Bắc sông Dương Tử do Đế Nghi cai quản, phía Nam sông Dương Tử do Lộc Tục cai quản. Lộc Tục khi lên ngôi Vua lấy hiệu là Kinh Dương Vương, năm 2879 TCN đặt quốc hiệu là Xích Quỷ, biên giới phía Bắc tới Động Đình Hồ, phía Nam giáp với nước Hồ Tôn, phía Tây giáp với Ba Thục, phía Đông giáp với biển Nam Hải.

Như vậy theo sự phân chia vào thời đấy thì biên giới phía Bắc của người Việt lên đến Động Đình Hồ (phía Nam sông Dương Tử), bao gồm cà các tỉnh của Trung Quốc ngày nay như Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Tây, Quảng Đông, v.v.

Nếu tính diện tích thì Bắc giáp Động Đình Hồ vĩ tuyến 29 Bắc, phía Nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành sau này) vĩ tuyến 11 Nam, phía Tây giáp Ba Thục (tỉnh Tứ Xuyên) kinh tuyến 105 Đông, phía Đông giáp bể Nam Hải, kinh tuyến 118 Đông. Tổng cộng diện tích của Xích Quỷ khoảng 2.900.000 km2.

Khi vua Kinh Dương Vương mất, con trai là Lạc Long Quân lên nối ngôi, lập ra nhà nước Văn Lang. Khi ấy, biên giới của Bách Việt vẫn được vẹn toàn.

Trong khi đó, dù hậu nhân sau này đã mở mang bờ cõi về phía Nam, nhưng lại mất đi phần đất phía Bắc, nên diện tích Việt Nam bây giờ là 331.698 km2 (tính cả diện tích trên biển), chỉ bằng khoảng 1/10 so với trước kia.

Hai Bà Trưng khôi phục giang sơn

Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng vào năm 40 SCN đã giành được thắng lợi và lấy lại nguyên vẹn lãnh thổ nước Việt cổ.

Hai Bà Trưng cùng các nữ tướng quả cảm của mình đánh đuổi quân Hán đến tận Động Đình Hồ, một nữ tướng là Trần Thiếu Lan đã tử trận tại sông Thẩm Giang. Đây là con sông nối với Hồ Động Đình. Sách thời nhà Nguyễn có ghi chép rằng: “Các sứ thần triều Lý, Trần, Lê đi sứ sang Trung Quốc, khi qua nơi đây đều có sắm lễ vật đến cúng miếu thờ bà Trần Thiếu Lan.”

Khi giành được giang sơn, Hai Bà Trưng giao cho nữ tướng Phật Nguyệt chức Tổng trấn khu hồ Động Đình – Trường Sa. Năm 1979, giáo sư Trần Đại Sỹ tìm thấy tại thư viện bảo tồn di tích cổ ở tỉnh Hồ Nam (tỉnh thủ phủ phía Nam Động Đình Hồ, Trung Quốc) có ghi chép trận đánh Động Đình Hồ như sau: “Quang Vũ nhà Hán sai Phục ba tướng quân Tân tức hầu Mã Viện. Long nhượng tướng quân Thận hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng đình. Mã Viện, Lưu Long bị bại. Vua Quang Vũ truyền Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga mi, một tay nhổ núi Thái sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường giang, hồ Ðộng đình, oán khí bốc lên tới trời”

Giáo sư Trần Đại Sỹ từng tới Trung Quốc để tìm hiểu về lịch sử cuộc chiến giữa Hai Bà Trưng và quân Hán, thấy rất nhiều tỉnh đều thờ Vua Bà, nhiều nhất là tỉnh Hồ Nam (khu vực Động Đình Hồ), nhưng không ai còn nhớ Vua Bà là ai.

Khi ông đến đến Côn Minh, giáo sư sử học Đoàn Văn ở đây cho hay: “Trong truyền thuyết dân gian nói rằng hồi đầu thế kỷ thứ nhất có trận đánh giữa quân vua Bà với quân Hán tại Bồ lăng. Nay Bồ lăng nằm trên lãnh thổ Tứ Xuyên, chỗ ngã ba sông Trường giang và Ô giang.”

Giáo sư Trần Đại Sỹ đến bến Bồ Lăng thuộc huyện Bồ Lăng, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc để tìm hiểu. Tại đây giáo sư được Sở du lịch hướng dẫn đến miếu thờ 3 vị thần, tướng của Vua Bà. Nhưng bản thân họ cũng không biết Vua Bà và 3 vị tướng này cụ thể là ai, chỉ cho biết vua Bà là người nổi lên chống tham quan thời Hán, cả vùng đó đều có đạo thờ Vua Bà.

Miếu thờ có rất nhiều câu đối, nhưng cuộc cách mạng văn hóa của Trung Quốc đã hủy gần hết các câu đối này. May mắn là ba câu đối vẫn còn tồn tại tới ngày nay.

Phía trước cửa miếu có câu đối rằng:

Khẳng khái, phù Trưng, thời bất lợi,
Ðoạn trường, trục Ðịnh, tiết… can vân.
Nghĩa là:

Khẳng khái phù vua Trưng, ngặt thời của Ngài không lâu.
Ðuổi được Tô Ðịnh, nhưng đau lòng thay, phải tự tận…
khí tiết ngút từng mây.
Phía trong miếu có câu đối:

Giang thượng tam anh phù nữ chúa,
Bồ Lăng bách tộc khốc thần trung.
Nghĩa là:

Trên sông Trường giang, ba vị anh hùng phò tá nữ chúa,
Tại bến Bồ lăng, trăm họ khóc cho các vị thần trung thành.
Những tư liệu này cho thấy biên giới người Việt thời Hai Bà Trưng phía bắc tới Động Đình Hồ (phía Nam sông Dương Tử), phía Tây tới tận Ba Thục (tức tỉnh Tứ Xuyên ngày nay).

Trải qua ngàn năm Bắc thuộc, người Việt dồn dần xuống phía Nam để tránh sự cai trị hà khắc, khiến khu vực phía Bắc người Hoa Hạ ngày càng đông hơn.

Năm 938, Ngô Quyền lãnh đạo người Bách Việt đánh bại quân Nam Hán, làm chủ lại các vùng đất của nước Việt. Tuy nhiên một dải đất lớn phía Bắc là Nam Hải, Tượng Quận, Quế Lâm đã bị bỏ qua, và diện tích nước Việt nhỏ hơn trước. Sau này dù bờ cõi đã được mở rộng về phía Nam, nhưng diện tích ngày nay chỉ bằng hơn 1/10 so với trước đây.

Truyền thuyết không cách xa sự thực

Trong bài viết có tựa đề “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam” trên diễn đàn Lý Học Đông Phương, vốn là bài diễn văn tiếng Pháp của giáo sư Trần Đại Sỹ đọc trong dịp khai giảng niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp – Á, được dịch giả Tăng Hồng Minh đăng tải, giáo sư Trần Đại Sỹ đã nhắc tới nhiều luận điểm khẳng định biên giới cổ của Việt Nam nằm ở hồ Động Đình. Những luận điểm này được đích thân giáo sư Trần Đại Sỹ khảo cứu và viếng thăm thực địa, trong đó nổi bật là:

1 – Núi Ngũ lĩnh trong truyền thuyết về Đế Minh xác thực nằm ở Trường Sa, Hồ Nam. Ngoài ra tại tỉnh này còn có rất nhiều các di tích được nhắc tới của tộc Việt như: hồ Động Đình, núi Tam Sơn, sông Tương, Thiên đài, Tương đài, cánh đồng Tương.

2 – Thiên đài mà Đế Minh tế cáo trời là có thật, nằm gần bên bờ Tương Giang. Trên đỉnh này có một ngôi chùa nhỏ, bên trong còn có nhiều chứng tích về Hai Bà Trưng và trận Động Đình. Ngoài ra giáo sư Trần Đại Sỹ còn tìm thấy một tài liệu mang tên “Thiên đài di sự lục” tại thư viện Hồ Nam, trong đó miêu tả rõ rằng Thiên đài thờ vua Đế Minh và vua Kinh Dương.

3 – Cánh đồng Tương là nơi mà Lạc Long Quân và Âu Cơ đã hẹn nhau tái hội mỗi năm một lần là có thật. Giáo sư Trần Đại Sỹ kết luận rằng cánh đồng Tương chính là vùng trũng phía Tây Ngạn, giới hạn phía Bắc là hồ Động Đình, Nguyên Giang. Phía Nam là Linh Lăng, Hành Giang. Phía Tây là vùng Chiêu Dương, Lãnh Thủy. Nhưng nay cánh đồng Tương chỉ còn khu vực tứ giác: Tương Giang, Nguyên Giang, Liên Thủy, Thạch Khê Thủy.

Cùng với một số luận điểm vững chắc khác, giáo sư Trần Đại Sỹ đi đến kết luận rằng:

Biên giới cổ của nước Việt Nam, với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam, phía Bắc quả tới hồ Ðộng Đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên.

Vậy là diện tích nước Việt cổ thực sự lớn gấp 10 lần ngày nay.

Trần Hưng

http://m.trithucvn.net/…/dien-tich-nuoc-viet-co-lon-gap-10-…

TRỞ VỀ CÁT BỤI

TRỞ VỀ CÁT BỤI

 

 

 

 

GIÃ TỪ CĂN PHÒNG NURSING HOME.

( Viết thay chị Hồng Thủy khi nghe tin mẹ chị qua đời. Jan 09, 2018 )
Mẹ tôi vừa qua đời,
Giã từ căn phòng trong nursing home quen thuộc, 
Giã từ người bạn chung phòng không quen biết, 
Hai người chung phòng nhưng chưa bao giờ nói chuyện, 
Dù chỉ một câu, 
Vì cả hai cùng già cùng mất trí như nhau.


Những lần tôi đến thăm,
Trong căn phòng nhỏ, 
Bức màn chia hai người, 
Hai thế giới xa lạ. 
Mẹ tôi ngồi trong chiếc xe lăn gục đầu như tượng đá,
Bà kia cũng ngồi trong chiếc xe lăn, 
Mắt nhìn mông lung về bức tường trước mặt, 
Thỉnh thoảng cười cười chẳng ai hiểu vì đâu. 
Mấy năm trời bên nhau, 
Họ đã cùng thời gian ăn ngủ, 
Cùng thở chung một bầu không khí, 
Cùng trải qua những đêm yên lành 
Những khi thức giấc, 
Hay những khi ốm đau khó ở…. 

 

 

 

 

Hôm nay mẹ tôi qua đời,
Chiếc giường vắng người, 
Tôi thấy bà bạn chung phòng của mẹ, 

 

 

 

 

 

Vẫn ngồi trong chiếc xe lăn lặng lẽ,

Đôi mắt vô hồn, 
Nụ cười ngu ngơ, 
Bà đâu biết rằng người bạn bên giường kia vừa mới đi xa. 

Ôi những người gìà, 
Như mẹ tôi, 
Như bà bạn chung phòng, 
Sống trong nursing home những ngày cuối đời, 

 

 

 

 

 

 

 

Chiếc lá cuối mùa tàn tạ, 
Sẽ rụng rơi, 
Và trở về cội nguồn cát bụi. 

Nguyễn Thị Thanh Dương.
 

(Jan. 09, 2018)

httpv://www.youtube.com/watch?v=MqLScBs9qXg

Bạn Chết Lặng Khi Nghe Ca Khúc Này – Cát Bụi Cuộc Đời 

Hồng phúc cho dân tộc Việt Nam rồi còn gì?

 Minh Tran‘s post.
Hồng phúc cho dân tộc Việt Nam rồi còn gì?
Đời sống19 tuổi có biệt phủ nguy nga, thật kỳ lạ! Loading… “Biệt phủ đứng tên sở hữu của con gái cán bộ. Nhưng con gái mới 19 tuổi đã có biệt phủ nguy nga như vậy thì thật là kỳ lạ!” – đại biểu Nguyễn Anh Trí. Chiều 9-11, …
CANHBAOVN.COM
 

Trò đánh người, bắt người trái pháp luật nhưng quy chụp cho nạn nhân

From:  Trần Bang‘s post.
Image may contain: 1 person, outdoor

Trần Bang

 

Trò đánh người, bắt người trái pháp luật nhưng quy chụp cho nạn nhân – người bất đồng chính kiến ôn hoà “ gây rối trật tự công cộng” này đã quá cũ.

“Chị Lý Thị Tuyết Mai, vợ thầy giáo Vũ Văn Hùng cho chúng tôi biết, cán bộ điều tra Kim Minh Đức thông báo thầy giáo Vũ Văn Hùng đã có lệnh tạm giam 2 tháng. Người này cũng hứa sẽ đưa giấy cho gia đình vào thứ hai tuần tới.

Ngày 4/2018. Thầy Vũ Hùng đi dự buổi họp mặt kỷ niệm ngày thành lập Hội Giáo chức Chu Văn An. NAn ninh đã gây sức ép cấm nhà hàng phục vụ nên buổi gặp măt phải giải tán.

Sau đó thầy Hùng đi ra bến xe bus để về thì bị hai tên bám theo gây sự và đánh. Thầy Hùng có phản ứng sau đó lên xe về. Đến khi đang đi bộ về gần tới nhà ở Khu dân cư mới Đa Sĩ, phường Kiến Hưng, Quận Hà Dông thì bị công an bắt, đưa về giam ở Công an phường Thanh Xuân Bắc, rồi chuyển đi trại tạm giam quân Thanh Xuân. Tại địa điểm bị bắt và tại đồn Thanh Xuân Bắc, thầy giáo Vũ Hùng đều bị đánh. Thầy bị tạm giữ với tội danh tưởng tượng là “gây rối trật tự công cộng”.

Ngày 12/1 là ngày hết 3 lệnh tạm giữ, chị Tuyết Mai đến thăm chồng. Qua nhiều lần yêu cầu, chị được gặp chồng 5 phút, nói chuyện qua cửa kính. Chị Mai cho biết tình thần của thầy Hùng rất vững vàng. Tại đây, chị được điều tra viên thông báo như trên.

Thầy Vũ Văn Hùng là cựu tù nhân lương tâm. Thầy bị bắt ngày 18/9/2008, bị cáo buộc tội tuyền truyền chống nhà nước và bị kết án 3 năm tù giam và 3 năm quản chế.

Việc bắt thầy Vũ Hùng tạm giam cho thấy nhà cầm quyền đã đi tới sự vô sỉ, bạo ngược tới một nấc thang mới.

Thông tin thầy Vũ Hùng bị bắt tạm giữ 9 ngày rồi bây giờ tạm giam đã vấp phải làn sóng phản đối mạnh mẽ trong công luận. Nhiều anh chị em hoạt động xã hội dân sự ngày từ đầu đã luôn bên cạnh hỗ trợ, tư vấn cho chị Tuyết Mai, giúp chị Mai thuê luật sư cho Vũ Hùng. Luật sư bảo vệ quyền lợi cho thầy Vũ Hùng là Ngô Anh Tuấn. Ls Ngô Anh Tuấn cũng là luật sư bào chữa cho Trần Thị Nga trong vụ án năm vừa qua.

( Blogger Nguyễn Tường Thụy đăng RFA )