PHẢN KHÁNG PHI BẠO LỰC SẼ THAY ĐỔI BẤT CỨ CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI NÀO!

Có bao nhiêu trí thức sẵn sàng đoàn kết?

Ngày xưa Quản Trọng đề cử Thấp Bằng làm thừa tướng sau khi mình mất với Tề Công chỉ vì Thấp Bằng luôn hạ thấp mình với kẻ dưới.

Ngày nay cái dở của trí thức là chờ người tìm mình … đã vậy có khi người ta tìm mình mình lại chảnh chẳng thèm trả lời …. trí thức như vậy mong gì cho tương lai Việt Nam ??

Ôi …trí thức làm được như trí thức trong clip này được mấy người ??

 

 
 
-3:39
 

 

  
12,138 Views
 
Thức Followers is with Kimthoa le Dinh and 2 others.

 

PHẢN KHÁNG PHI BẠO LỰC SẼ THAY ĐỔI BẤT CỨ CHẾ ĐỘ ĐỘC TÀI NÀO!

Biểu tình ôn hoà với 3,5% dân số sẽ chuyển đổi dân chủ cho mọi chế độ độc tài toàn trị theo nghiên cứu từ thực tế mới nhất của các học giả Khoa Học Chính Trị hiện đại. Tại Serbia phong trào Otpor chỉ 70 nghìn thành viên, chưa đầy 1% dân số (7,6 triệu dân – 1998) là một minh chứng.

Trong 1 thể chế độc tài, nơi mà từng thế hệ người dân được lớn lên, được giáo dục trong mái trường XHCN, một xã hội giam cầm tư tưởng không chỉ bằng dùi cui, nhà tù mà còn là tự kiểm duyệt lẫn nhau thì chờ đến khi nào dân trí, dân khí toàn dân mới thay đổi ?

Với Việt Nam chúng ta có 3,5% x 90 triệu dân = 3,15 triệu dân mong muốn đất nước thay đổi, mong muốn tự quyết định thể chế, tự chọn lựa chính phủ. Chỉ ngần ấy người dân thức tỉnh là đủ. Vậy làm thế nào để có được những cuộc biểu tình như thế này? Điều kiện cần là làm sao ngần ấy người thể hiện cùng một chỗ, cùng một lúc?

Ngày 8/1 sinh nhật lãnh đạo tối cao Triều Tiên Kim Jong-Un, tờ Economist thực hiện một video phỏng vấn Popovic nhà hoạt động người Serbia về cách thức chuyển đổi dân chủ cho một chế độ độc tài:

1. Biết dân cần gì

2. Sẵn sàng hợp tác với người không hợp cạ

3. Không có phong trào tự phát nào mà thành công

4. Đoàn kết và bất bạo động

5. Chính phủ nước ngoài không có “bạn”, họ chỉ có quyền lợi

6. Họ sẽ gọi bạn là phản động, bất mãn, nghiện ngập, bán nước hoặc khủng bố…

7. Click like trên Facebook không thay đổi được gì

8. Đừng lật 1 chế độ độc tài để lập ra 1 chế độ độc tài khác

Nếu nghĩ dân chủ là thứ cho không, được miễn phí thì thật nguy hiểm. Dân chủ giống như tình yêu, phải xây dựng và vun đắp mỗi ngày.

Xem từ youtube https://youtu.be/QpDeCz2Daes

———-
Có dân chủ thì có tự do, có tự do thì có sáng tạo, có sáng tạo mới phát triển. Chỉ 2 phút để mỗi công dân góp phần đưa Việt Nam thay đổi sang dân chủ 1 cách ôn hoà, văn minh bắt đầu bằng 1 cuộc trưng cầu dân ý.

2 phút ký tên tại đây: www.civilrightvn.org

Trân trọng
nhóm THEO THỨC (thức followers) – theo sự ý thức, tri thức và thức tỉnh của mình.

 

Xin đừng quên Hoàng Đức Bình và Nguyễn Nam Phong!

Xin đừng quên Hoàng Đức Bình và Nguyễn Nam Phong!

Luật sư Hà Huy Sơn cho biết, toà án huyện Diễn Châu đã có quyết định xử hai anh vào sáng thứ 3, ngày 6/2/2018 tại toà án Nghệ An, Tp. Vinh.

Ngày 24/01/2018, tôi vào cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nghệ An thì được họ cho biết là hồ sơ hai anh Bình và Phong không được toà án Diễn Châu chuyển về cơ quan CSĐT để điều tra bổ sung. Vậy vì sao toà án lại chuyển đơn đề nghị được làm chứng của tôi về cơ quan CSĐT?

Ngày 30/01/2018 tôi gửi đơn đề nghị được làm chứng tại phiên toà lần 2. Hy vọng lần nầy họ chấp nhận đề nghị của tôi, chứ không đùn đẩy trách nhiệm như lần trước.

Kính mong quý cha và quý vị hiệp thông cầu nguyện cho hai anh và quan tâm theo dõi phiên toà!

 
Image may contain: 2 people, text
Image may contain: text

Nguyễn Đình Thục added 2 new photos — with Mua Xuan Tuong Lai and Bình Hoàng.

 

Xin đừng quên Hoàng Đức Bình và Nguyễn Nam Phong!

Luật sư Hà Huy Sơn cho biết, toà án huyện Diễn Châu đã có quyết định xử hai anh vào sáng thứ 3, ngày 6/2/2018 tại toà án Nghệ An, Tp. Vinh.

Ngày 24/01/2018, tôi vào cơ quan CSĐT Công an tỉnh Nghệ An thì được họ cho biết là hồ sơ hai anh Bình và Phong không được toà án Diễn Châu chuyển về cơ quan CSĐT để điều tra bổ sung. Vậy vì sao toà án lại chuyển đơn đề nghị được làm chứng của tôi về cơ quan CSĐT?

Ngày 30/01/2018 tôi gửi đơn đề nghị được làm chứng tại phiên toà lần 2. Hy vọng lần nầy họ chấp nhận đề nghị của tôi, chứ không đùn đẩy trách nhiệm như lần trước.

Kính mong quý cha và quý vị hiệp thông cầu nguyện cho hai anh và quan tâm theo dõi phiên toà!   

Ta là CÁT ta sẽ vể với BỤI

Thơ Bùi Giáng: Ta là CÁT ta sẽ vể với BỤI

 

Bùi Giáng (19261998), là nhà thơ, dịch giả và là nhà nghiên cứu văn học của Việt Nam. Các bút danh khác của ông là: Trung niên thi sĩ, Thi sĩ, Bùi Bàn Dúi, Bùi Văn Bốn, Vân Mồng…Ông nổi tiếng từ năm 1962 với tập thơ Mưa nguồn.


                    Người ta nói Bùi Giáng là nhà thơ điên. Qúi vị đọc bài dưới đây xem Ông có điên không! Phải chăng chỉ là Ông đã ngộ lý nhiệm mầu của Trời Đất

                   Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật

Thế cho nên tất bật đến bây giờ!
Ta cứ ngỡ xuống trần chỉ một chốc …
Nào ngờ đâu ở mãi đến hôm nay!

Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ
Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi
Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ
Khi trở về cát bụi cũng trắng tay

Cuộc đời ta phù du như cát bụi
Sống hôm nay và đâu biết ngày mai ?
Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi
Rồi cũng về với cát bụi mà thôi

Thì người ơi! Xin đừng ganh đừng ghét
Ðừng hận thù tranh chấp với một ai
Hãy vui sống với tháng ngày ta có
Giữ cho nhau những giây phút tươi vui

Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc
Vì đời ta đã sống trọn kiếp người
Với tất cả tấm lòng thành thương mến
Ðến mọi người xa lạ cũng như quen

Ta là Cát ta sẽ về với Bụi
Trả trần gian những cay đắng muộn phiền
Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy
Không còn buồn lo lắng chốn trần ai!

 

httpv://www.youtube.com/watch?v=jlR8c5e1974  

CÕI THƠ BÙI GIÁNG

httpv://www.youtube.com/watch?v=f8fT_3Ltbmo

httpv://www.youtube.com/watch?v=MqF-7f5dz8E

Thi sĩ Bùi Giáng, nhà thơ kỳ lạ


Nguồn: SỐNG ĐẸP

 

Trò chuyện với Hội Sinh viên Nhân quyền: “Xã hội này đã đến lúc cần thay đổi”

Trò chuyện với Hội Sinh viên Nhân quyền: “Xã hội này đã đến lúc cần thay đổi”

Tuấn Khanh
RFA
2018-01-31
 
Ngọc Kim và bức ảnh Trần Hoàng Phúc trong một lần vận động ở Anh Quốc

Ngọc Kim và bức ảnh Trần Hoàng Phúc trong một lần vận động ở Anh Quốc

 Courtesy Blog Tuan Khanh
 

Đối thoại với những người trẻ là một điều thú vị, vì đó là hành trình để nhận biết xem tương lai của một quốc gia rồi sẽ như thế nào.

Thật may mắn khi có được một cuộc đối thoại như vậy với Ngọc Kim, thư ký phân ban hải ngoại của Hội Sinh viên Nhân quyền (Hội SVNQ). Kim sinh năm 1992 và đang sống ở Anh Quốc, nơi có rất nhiều người trẻ tuổi ở miền Bắc Việt Nam đến du học.

Chỉ đến khi sinh viên Trần Hoàng Phúc bị bắt và áp vào cáo trạng “tuyên truyền chống Nhà nước” theo điều 88 BLHS, thì hình ảnh của Hội SVNQ mới xuất hiện rõ trong công chúng ở VN. Bằng một giọng Bắc nhỏ nhẹ và thận trọng, nhưng Ngọc Kim cũng không thể giấu được sự phấn khích của mình khi nói về Hội SVNQ và những ước mơ cho tương lai – ước mơ không phải cho riêng các bạn của Hội, mà ước mơ cho một Việt Nam cần-thay-đổi.

So với các bàn thắng bóng đá hay bữa tiệc bikini trên máy bay, thì bản ghi chép này thật nhàm chán. Nhưng nếu những nhà lãnh đạo Việt Nam dành chút thời gian để đọc và chân thành hiểu được những gì tuổi trẻ Việt Nam đang nghĩ, thì có lẽ họ cũng sẽ sớm nhận ra rằng khi một đất nước miệt mài với những cuộc vui và chỉ số hạnh phúc, cũng vô cùng giả tạo và nhàm chán, như chính bản thân họ vậy.

———————–

Tuấn Khanh: Hội Sinh viên Nhân Quyền (Hội SVNQ) của các bạn dường như còn khá mới mẻ đối với công chúng ở Việt Nam. Bạn có thể nói sơ qua về Hội của mình, cũng như cho biết Trần Hoàng Phúc đóng vai trò như thế nào đối với Hội?

Ngọc Kim: Vâng, ý tưởng thành lập một hội sinh viên độc lập thì đã có từ năm 2014. Khi đó, một bạn sinh viên tìm đến gặp một giáo sư vật lý và trình bày về ý tưởng thành lập một Hội sinh viên độc lập, và được vị giáo sư ủng hộ. Tuy nhiên ông không tiện ra mặt công khai vận động, mà chỉ âm thầm ủng hộ các bạn trẻ. Rồi các bạn sinh viên cùng chí hướng cũng đã âm thầm liên kết với nhau. Trong nhóm lúc đó, mỗi người có một khả năng nhưng thiếu người am hiểu về pháp luật. Cơ duyên đến khi sinh viên luật Trần Hoàng Phúc đến với nhóm.

Từ lâu, Phúc cũng có ý tưởng thành lập một Hội sinh viên độc lập như thế rồi, cho nên các bạn trong nhóm rất dễ làm việc với nhau. Từ đó Phúc là người lo cho Hội về phương diện pháp luật và phương pháp tổ chức hội đoàn, lập kế hoạch cho Hội hoạt động lâu dài. Ở thời điểm Phúc đang bị gán ghép những tội danh bất lợi, phía Hội chỉ có thể tiết lộ được đôi điều như vậy về Phúc mà thôi ạ.

Tuấn Khanh: Vì sao các bạn chọn cố vấn cho Hội SVNQ là bác sĩ Nguyễn Đan Quế? Việc mời một nhân vật hoạt động chính trị – đặc biệt là bị sự giám sát rất ngặt nghèo từ phía chính quyền, là ý tưởng như thế nào?

Ngọc Kim: Ý kiến chung của các bạn khi mời bác sĩ Nguyễn Đan Quế, không phải với tư cách ông là một nhà đối lập chính trị, mà là trong tư cách một nhà khoa học. Bác sỹ Nguyễn Đan Quế là một sinh viên xuất sắc dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Khi mới tốt nghiệp trường y, bác sỹ Quế được Liên Hợp Quốc trao học bổng đi tu nghiệp về ngành Y khoa Nội tiết (Endocrinology). Khi về nước, ông giữ chức Giám đốc Khu Nội khoa Bệnh viện Chợ Rẫy bệnh viện Chợ Rẫy.  Ông cũng làm giảng viên tại đại học Y-Dược TP.HCM, với mục tiêu lớn là cải cách nền học thuật Việt Nam. Hội SVNQ đã rất vinh dự khi đã mời nhà khoa học lớn này về làm cố vấn cho mình. Ngoài ra, tất cả các bạn trong Hội SVNQ đều tin rằng việc bác sĩ Nguyễn Đan Quế, một trí thức đối lập có tên tuổi tham gia cố vấn, còn làm tăng thêm uy tín của Hội sinh viên nhân quyền.

Hiện tại, Hội còn có một vị cố vấn đặc biệt nữa, đó là giáo sư quốc tế Nguyễn Đăng Hưng. Ông là giáo sư thực thụ tại đại học Liège, vương quốc Bỉ, được hoàng gia Bỉ trao tặng danh hiệu hiệp sĩ cho những đóng góp to lớn cho đất nước này. GS.Nguyễn Đăng Hưng được báo chí Bỉ vinh danh là 1 trong số 10 người làm thay đổi nước Bỉ, ông đã về nước và giúp nhà nước Việt Nam đào tạo ra nhiều nhân tài về cơ học, trong đó kể đến tiến sĩ Nguyễn Xuân Hùng. Hiện Gs .Hưng là cố vấn đặc biệt cho chuyên mục Cải cách học thuật .

Chính sách của Hội SVNQ là mời gọi nhiều nhân tài khoa học và những nhân tài trên nhiều lĩnh vực. Hội SVNQ luôn mở cửa chào đón những sinh viên có thực tài và có mong ước tốt đẹp cho xã hội và đề xuất được các chương trình để cải tạo đất nước

Tuấn Khanh: Thêm một điều tò mò nữa, nhờ các bạn giải thích là vì sao Hội SVNQ lại gắn với ý nghĩa “nhân quyền”. Theo nhận định của các bạn đời sống đại học và sinh viên hiện nay như thế nào, khiến có sự ra đời của Hội?

Ngọc Kim: Vâng, khi chọn danh từ “nhân quyền” như trong tên gọi, Hội SVNQ đã lường trước được nội hàm ý nghĩa rất rộng của từ “nhân quyền”. Nhân quyền, hay gọi cách khác là quyền con người, thì ai cũng có và cũng cần được trân trọng. Nhưng cách hiểu về nhân quyền của mỗi người khác nhau. Ví dụ, cách hiểu về nhân quyền của người phương Đông khác với người phương Tây, và cách hiểu về nhân quyền của giai cấp bị trị chắc chắn khác biệt cách hiểu của giai cấp thống trị. Trong bất kỳ xã hội nào, ai cũng muốn bảo vệ quyền-con-người của mình, cho nên luôn luôn có những xung đột về vấn đề nhân quyền. Do đó lý tưởng hoạt động vì nhân quyền của Hội SVNQ sẽ là một chặng đường rất dài.

Tuấn Khanh: Điều gì khiến cho các bạn tin rằng sinh viên Việt Nam hiện nay cần suy tư, và quan tâm đến nhân quyền?

Ngọc Kim: Tình hình nhân quyền ở Việt Nam hết sức phức tạp. Nhiều mảnh đời bất công trong xã hội không được ai bênh vực, hỏi nhà nước thì nhà nước lắc đầu làm ngơ không trả lời, hỏi người nước ngoài, thì người ta ở xa làm sao can thiệp kịp? Do đó, cần có những tổ chức bảo vệ nhân quyền thiết thực ở trong lòng xã hội, và tổ chức đó phải  độc lập. Sinh viên Việt Nam là một thành tố quan trọng trong ý nghĩa đó. Sinh viên Việt Nam cần quan tâm đến nhân quyền bởi vì tất cả sinh viên đều là con người, thậm chí những con người đó chuẩn bị ảnh hưởng rất lớn làm thay đổi xã hội. Nếu quyền của một sinh viên bị xâm phạm thì cũng tức là quyền của cả một xã hội đang bị xâm phạm. Bằng cách này hay cách khác, sinh viên nào quan tâm đến nhân quyền đều có thể tác động thay đổi vận mệnh dân tộc.

Tuấn Khanh: Có vẻ như các bạn đang đi tìm một tính độc lập của khối đại học, cũng như tinh thần độc lập của giới sinh viên so với sự thực tế giáo dục hiện nay. Các bạn có lưu tâm về vấn đề lịch sử và so sánh sự khác biệt tinh thần đại học hiện nay, so với trước năm 1975?

Ngọc Kim: Hiện nay, thời xã hội chủ nghĩa, có thể nói sinh viên đa số không có được tinh thần độc lập như các sinh viên thời Việt Nam Cộng Hòa trước 1975. Sinh viên trước 1975 độc lập trong suy nghĩ hơn và có nhiều sáng tạo hơn, trình độ cao hơn, khả năng ngoại ngữ vượt trội hơn. Thời Việt Nam Cộng Hòa, từ khi còn là học sinh các bạn đã được hưởng một nền giáo dục khai phóng và nhân bản, đến khi lên đại học thì các bạn sinh viên đã là những người giỏi giang, là tài sản của quốc gia. Còn bây giờ, kể từ sau 1975, nền giáo dục trói buộc con người, áp đặt học sinh phải nghĩ theo một con đường định sẵn, cho nên học sinh và sinh viên mái trường xã hội chủ nghĩa như bị rối loạn nhân cách, bằng chứng là rất nhiều người khó hòa nhập được với trào lưu chung của sinh viên quốc tế.

Phải nói thêm rằng giáo sư, giảng viên của khối đại học sau 1975 cũng không được như trước 1975. Không có tự do ngôn luận nên nhiều giáo sư, giảng viên đại học thời nay không có tư tưởng, cho nên đào tạo ra những sinh viên không có tư tưởng. Khi không có tư tưởng thì một người lao động chỉ là công nhân, khi có tư tưởng rồi thì anh mới là nhà báo, nhà văn, nhà chính trị… Nhưng nói cho cùng, cũng không thể trách là các thầy cô hèn nhát được, vì bất kỳ thầy cô nào suy nghĩ độc lập và dạy học sinh tư duy phản biện thì sẽ bị trù dập, thậm chí phải đối diện nhà tù. Không được các giáo sư khích lệ nên sinh viên cứ tư duy theo lối mòn, không dám độc lập suy nghĩ.

Sinh viên của hai giai đoạn này khác biệt nhau rất nhiều. Sự khác biệt lớn nhất nằm ở tư tưởng. Theo quan điểm của Hội, sinh viên thời chính quyền Sài Gòn – Việt Nam Cộng Hòa có tư tưởng và dám đấu tranh cho lý tưởng, nhưng sau năm 1975, tỉ lệ này trong sinh viên chỉ chưa đầy 1%.

Chính vì vậy khi thấy giáo sư Nguyễn Đăng Hưng là một con người tự do vào làm cố vấn, đã có không ít bạn trẻ nộp đơn để được tham gia Hội Sinh viên Nhân quyền. Tụi em rất vui và tin rằng nhiều bạn trẻ sẽ nhìn ra được rằng xã hội này đã đến lúc cần thay đổi.

Tuấn Khanh: Được biết các bạn là một Hội sinh viên sinh hoạt về các quyền và giá trị con người, theo cách của giới trí thức ôn hòa và bình thường theo hiến pháp/luật pháp, nhưng tại sao hiện nay các thành viên của các bạn phải đánh số như mật danh?

Ngọc Kim: Lý do là trải qua 6 tháng hoạt động đầu tiên, bị cơ quan an ninh điều tra theo dõi nên Hội phải áp dụng phương thức thay tên bằng mã số để đảm bảo an toàn cho các Hội viên. Nay thời gian nửa năm đã trôi qua, Hội đã lớn mạnh và mới đây đã dần xóa bỏ mã số cho tất cả các hội viên và chính thức sử dụng tên. Dĩ nhiên, tên này có thể là tên thật hoặc bí danh. Một khi Việt Nam sớm có luật tự do lập hội đoàn, thì tất cả các hội viên Hội sinh viên nhân quyền sẽ cùng thể hiện tên thật và công khai thực hiện các chương trình tái thiết đất nước của mình.

Tuấn Khanh: Cũng liên quan về việc sinh hoạt các quan điểm xã hội, cũng như ứng dụng tri thức căn bản truyền thông trong đời sống, nhưng một thành viên của các bạn là sinh viên Trần Hoàng Phúc đã bị kết tội theo điều 88 tức “tuyên truyền chống nhà nước”. Các bạn nhận định như thế nào về điều này?

Ngọc Kim: Cần nói rõ bạn Trần Hoàng Phúc là một sinh viên vô cùng năng động. Bạn Phúc có mặt bao quát trên nhiều lĩnh vực, giúp đỡ cho nhiều hội đoàn. Tháng 7 năm 2017, nhà cầm quyền dùng luật điều 88 để bắt Phúc, với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước”.  Nhưng đây là một tội danh hết sức mơ hồ. Nếu một điều nói thật mà nhà nước coi là chống nhà nước, thì nhà nước nên lại xem lại, là tại sao chỗ nào cũng có người chống nhà nước? Đó là vì nhà nước làm việc không theo sự thật. Bởi không có sự thật trong nhà nước cho nên nhà nước phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác và sẽ có những người bất mãn dùng truyền thông để nói lên sự khác biệt.  Trường hợp Trần Hoàng Phúc, theo như Ngọc Kim được biết, thì Phúc muốn dùng truyền thông để kiến tạo một xã hội tốt đẹp hơn.

Một đất nước văn minh phải có năm cột trụ: tam quyền phân lập, tức là lập pháp-tư pháp-hành pháp độc lập với nhau, cột trụ thứ tư là tự do báo chí, cột trụ thứ năm là công đoàn độc lập. Nhà nước muốn đập bỏ cột trụ thứ tư thì tức là đang đập bỏ một phần của nền văn minh nhân loại. Tất nhiên Hội SVNQ không nghĩ rằng mọi thành phần của nhà nước đều phản văn minh như vậy, mà rõ ràng, một phía bảo thủ nào đó, có lợi thế cầm quyền đang muốn ngăn cản quyền tự do báo chí mà thôi.  Trần Hoàng Phúc đấu tranh cho cột trụ thứ 4 của một nước văn minh là tự do báo chí, cho nên bạn ấy tất nhiên bị phía lực lượng phản văn minh muốn bỏ tù.

Tuấn Khanh: Tương tự như Hoàng Chí Phong ở Hồng Kông, Phan Kim Khánh hay Trần Hoàng Phúc đều là những sinh viên trẻ, có hoạt động phản biện và chủ trương ước mơ cho đất nước được thay đổi tốt đẹp hơn. Kim Khánh đã có một bản án, và Phúc cũng vậy và bị đặt ở phía kẻ có tội, các bạn nghĩa sao về điều này?

Ngọc Kim: Cùng bị kết tội chống đối chính quyền, nhưng Hoàng Chi Phong ở Hồng Kông có điều kiện dễ dàng hơn Phan Kim Khánh và Trần Hoàng Phúc ở Việt Nam. Hồng Kông có tự do ngôn luận và thượng tôn pháp luật, đặc trưng của các nước thuộc địa Anh quốc. Giới trẻ Hồng Kông hết thảy đều biết về Hoàng Chi Phong và ủng hộ Hoàng Chi Phong, cho nên Trung Quốc cũng không dám bỏ tù Hoàng Chi Phong với án nặng. Nhưng ở Việt Nam, báo in bị nhà nước kiểm soát gắt gao, họ muốn bưng bít về giới sinh viên bất đồng chính kiến, nên trong nước vẫn chưa nhiều người biết đến Trần Hoàng Phúc và Phan Kim Khánh, Ngọc Kim nghĩ rằng hiện chỉ mới khoảng 20% dân số biết đến những việc làm của hai sinh viên này mà thôi.

Tại Hồng Kông, ít nhất cũng khoảng 95% dân số nước này biết đến Hoàng Chí Phong. Sự ngưỡng mộ của dân chúng đối với Hoàng Chí Phong có ở mọi con phố ở Hồng Kông, làm cho nhà cầm quyền chỉ dám giam giữ người sinh viên này vài tháng đến nửa năm. Còn như Phan Kim Khánh, vì xã hội còn ít người biết đến cho nên tòa án độc tài bỏ tù anh đến 6 năm. Nhưng từ ngày 31/01, Trần Hoàng Phúc ra tòa, tình hình có thể sẽ khác bởi thông tin ngày càng lan tỏa, và hiện đã có nhiều người hơn, trên khắp cả nước biết đến Phúc. Bản án đặt lên Trần Hoàng Phúc có thể tạo những cột mốc mới đối với tình hình chính trị Việt Nam.

Và Ngọc Kim tin rằng, dù ở Hồng Kông hay Việt Nam, nếu Hoàng Chi Phong hay Phan Kim Khánh, Trần Hoàng Phúc bị kết tội thì cho thấy một điều rằng, ở mọi quốc gia, sinh viên độc lập là lực lượng mạnh mẽ nhất có thể thay đổi xã hội .

Tuấn Khanh: Cám ơn sự bộc bạch của các bạn, và xin hỏi một câu cuối, là khi chọn một sự khác biệt với nhà nước, đồng nghĩa với chọn đối diện áp lực. Lúc này áp lực mà các bạn đang đối diện thì như thế nào? Các bạn có ước mơ gì cho tương lai?

Ngọc Kim: Dạ, Hội chúng em bị an ninh nhà nước kiểm soát liên tục. Một bạn sinh viên chỉ like và share một status của fanpage Hội thôi mà đã bị công an tỉnh mời lên rồi đe dọa. Có bạn hội viên bị công an đến quấy nhiễu công ăn việc làm. Một bạn khác bị tình nghi tham gia Hội thôi mà đã bị tin tặc tổ chức cướp mất mật khẩu Icloud. Một bạn khác bị phá tài khoản Facebook và Gmail nhưng cuối cùng may mắn vẫn giữ được. Như em thì gia đình cũng bị ảnh hưởng và liên lụy, nhưng vì Kim tin việc Kim làm không có gì sai trái nên vẫn không thay đổi.

Không phải riêng Kim, mà tất cả các bạn đều mơ ước Hội sinh viên nhân quyền sẽ là Tổ chức độc lập của sinh viên Việt Nam: Tập hợp của những sinh viên có mong muốn cải cách học thuật, minh bạch giảng đường và thúc đẩy các giá trị nhân quyền trong giới sinh viên. Với một lý tưởng như vậy, chắc mọi người quan tâm có thể hình dung được phần nào diện mạo của Hội SVNQ trong tương lai.

Nhà nước vô lương tri khi tổ chức mừng chiến thắng 50 năm biến cố Mậu Thân

Thuong Phan shared Le Anh‘s post.
 
 
Image may contain: 5 people, people smiling, people standing

Le AnhFollow

 

Nhà nước vô lương tri khi tổ chức mừng chiến thắng 50 năm biến cố Mậu Thân

-LS. Lê Công Định:
“Tôi thấy thật sự là vô lương tâm và không thể hiện lương tri của con người bình thường, cho thấy họ không hoàn toàn có một ý định nào gọi là hòa giải và hòa hợp dân tộc cả…Tất nhiên là họ không bao giờ nhận lỗi về phía mình, nhưng lẽ ra họ cũng nên tổ chức một buổi lễ nào đó, gọi là cầu siêu cho các oan hồn bị chết một cách rất là đau xót trong bối cảnh chiến tranh”

-Nhà báo Võ Văn Tạo:
“Những thông tin tôi nắm được cách đây mấy chục năm đến giờ thì Hà Nội khi quyết định mở chiến dịch Mậu Thân là với quyết tâm giải phóng toàn bộ miền Nam, hoàn thành gọi là ‘cuộc kháng chiến chống Mỹ’ và chống lại chế độ Việt Nam Cộng Hòa ở Sài Gòn. Nhưng mà họ đã không lường được cái sức và phương pháp có nhiều cái sai, ngay trong ban lãnh đạo của Hà Nội thì không phải ai cũng thống nhất phương án này”

-Cư dân mạng 8X:
“Tết ở Huế không bao giờ vui cả. Chỉ là hào nhoáng bên ngoài thôi, chứ bên trong rất là buồn…Chính quyền vinh danh và ăn mừng chiến thắng Mậu Thân thì quá là bất nhẫn. Điều đó là điều không thể nào chấp nhận được”

Xem thêm: RFA

CHUYẾN TAXI CUỐI CÙNG CỦA ĐỜI NGƯỜI

CHUYẾN TAXI CUỐI CÙNG CỦA ĐỜI NGƯỜI

Hai mươi năm trước đây, tôi lái xe tắc xi để kiếm sống.  Một đêm có người gọi xe ở khu chung cư vào lúc 2 giờ 30 sáng.  Tôi đến nơi, các dẫy nhà đều chìm lẫn trong bóng đêm ngoại trừ ánh sáng mù mờ từ khung của sổ kéo màn kín.

Trong trường hợp này, các người lái xe thường nhấn còi một hay hai lần và chờ khoảng một phút, nếu không thấy động tĩnh gì là họ lái xe đi….

Nhưng tôi cũng biết rất nhiều người nghèo không có xe cộ gì cả và tắc xi là phương tiện di chuyển duy nhất mà họ trông cậy trong những hoàn cảnh đặc biệt hay trong những giờ giấc bất thường….  Trừ khi linh cảm có gì nguy hiểm ngăn cản, tôi thường ra khỏi xe và đi đến tận cửa, tự nhủ biết đâu có người đang cần tôi giúp…

Nghĩ như thế tôi bước tới gõ cửa. 
“Xin chờ một chút” giọng nói rõ ràng là của một người già nhưng vẫn có phần trong trẻo và tôi có thể nghe tiếng của các vật dụng dường như đang bị kéo đi trên sàn nhà…  Vài phút sau, cửa mở, một bà cụ khoảng 80 tuổi đứng ngay trước mặt tôi.  Cụ mặc chiếc áo đầm dài in hoa, đội cái mũ trắng xinh xắn với giải lụa gài chung quanh, trông giống y như một người nào đó từ cuốn phim của những năm 1940 chợt bước ra, với chiếc va ly vải bên cạnh.  Sau lưng cụ, căn phòng chung cư trống trải như quanh năm không có ai cư ngụ, tất cả bàn ghế đều được phủ kín bằng những tấm trải giường.  Liếc nhìn qua vai cụ, không có bất kỳ vật dụng nào trên quầy trong bếp hay trên tường cả, và sát chân tường trong góc phòng tôi có thể thấy mấy cái thùng giấy đầy những ly tách và khung ảnh sắp xếp gọn gàng, ngăn nắp. 

–          Phiền ông mang giúp tôi cái va ly này ra xe… 

Tôi đem chiếc va ly cất ở thùng xe phía sau và quay trở lại giúp bà cụ.  Cụ nắm cánh tay tôi và từng bước một, tôi dìu cụ xuống đường hướng về chiếc xe…  Cụ luôn miệng nói cám ơn…. “Không có chi, thưa cụ” tôi nói, “cháu coi những người lớn tuổi như là mẹ của cháu vậy.”  Cụ trả lời: “Ông tử tế lắm.” 
Sau khi giúp cụ yên ấm trên băng ghế sau, tôi ngồi vào ghế lái và nổ máy xe.  Cụ đưa cho tôi tờ giấy ghi địa chỉ nơi cụ muốn đến và hỏi tôi, rất nhỏ nhẹ:

–          Ông có thể chạy ngang qua dưới phố cho tôi một chút không… 

Liếc mắt vào tờ giấy ghi địa chỉ, tôi buột miệng:

–          Nếu lái xuống phố thì đường xa hơn và lâu hơn nhiều…. 

–          Cứ thong thả, ông à, không có gì vội vã cả, tôi trên đường tới hospice (nhà dành cho những người sắp từ giã cuộc sống) thôi… 

Tôi ngước mắt nhìn, qua tấm gương chiếu hậu, đôi mắt cụ long lanh trong bóng tối. 

–          Tôi không còn ai thân thích trên cõi đời này, và bác sĩ đã nói tôi cũng chẳng còn bao lâu nữa, hai hay ba tuần là nhiều…. 

Với tay tắt cái máy ghi khoảng cách và tính tiền, tôi hỏi một cách lặng lẽ: 

–          Thưa cụ muốn đi qua đường nào trước…… 

Trong hơn hai giờ kế tiếp, chúng tôi hầu như đi loanh quanh qua từng con đường trong các khu phố.  Cụ chỉ cho tôi toà nhà nhiều tầng mà một thời cụ đã làm người điều khiển thang máy.  Tôi lái xe qua một khu phố với những căn nhà nhỏ đã cũ nhưng xinh xắn, cụ nói với tôi ngày trước khi mới lập gia đình cụ đã ở trong khu này, và chỉ cho tôi căn nhà loang loáng dưới ánh đèn đêm….  Nhìn ánh mắt lưu luyến của cụ, tôi như thấy một trời quá khứ thương yêu đằm thắm của đôi vợ chồng trẻ. 

Cụ ra hiệu cho tôi ngừng xe trước nhà kho của cửa tiệm bán giường tủ, bàn ghế, nhẹ nhàng bảo tôi trước đây chỗ này là một vũ trường sang trọng và nổi tiếng, cụ đã từng hãnh diện đến đây khiêu vũ lần đầu khi là một thiếu nữ mười sáu tuổi…  Trong giọng nói cụ tôi thấy thấp thoáng hình ảnh một thiếu nữ trẻ trung sáng ngời với bộ dạ phục xinh đẹp và nụ cười tươi tắn hân hoan…..  Đôi khi, cụ bảo tôi đậu xe trước một toà nhà nào đó hay ở một góc phố khuất nẻo không tên…. và cụ im lặng thẫn thờ trong bóng tối như đắm chìm với cả một dĩ vãng xa xăm bao la và sâu thẳm…. 
Khi trời chập choạng trong ánh sáng đầu tiên của ban ngày, cụ nói với tôi khẽ khàng như một hơi thở nhẹ: 

–          Thôi, mình đi… 

Tôi lái xe trong im lặng đến khu nhà hospice.  Đó là một dẫy nhà thấp, kín đáo, ngăn nắp và gọn gàng.  Tôi vừa ngừng xe là đã có hai người xuất hiện với chiếc xe lăn như là họ đã chờ đợi từ lâu rồi.  Tôi bước xuống mở thùng xe phía sau để lấy chiếc va ly nhỏ của cụ mang tới để ngay cửa chính, xong quay trở ra đã thấy cụ đã được đỡ ngồi ngay ngắn trên chiếc xe lăn. 

–          Bao nhiêu tiền vậy cháu? 

Cụ vừa hỏi vừa mở cái bóp nhỏ… “Cháu không lấy tiền bác đâu.. ” tôi trả lời. 

–          Nhưng cháu phải kiếm sống chứ… 

–          Đã có những khách hàng khác, thưa bác… 

Gần như không tính toán so đo, tôi cúi xuống ôm lấy bờ vai cụ.  Đáp lại, cụ ôm tôi thật chặt: 

–          Cám ơn cháu đã cho cụ già này khoảng thời gian thật quý giá và đầy ý nghĩa. 

Tôi xiết chặt tay cụ và quay bước đi trong ánh sáng mờ nhạt của một ngày mới đến.  Sau lưng tôi có tiếng cửa đóng.  Tôi cảm thấy như cả một cuộc đời vừa được khép lại phía sau. 

Tôi không có thêm người khách nào khác trong buổi sáng đó.  Tôi chạy xe lanh quanh không có mục đích và dường như tôi cũng chẳng biết mình đi đâu nữa…  Suốt cả ngày hầu như tôi không thể nói được với ai lời nào cả….  Chuyện gì sẽ xẩy ra nếu cụ già gặp phải một người tài xế đang ở cuối buổi làm, nóng nẩy chỉ muốn chóng xong việc để còn về nhà…  Chuyện gì sẽ xẩy ra nếu tôi từ chối không nhận đón người khách là cụ, hay tôi không bước xuống gõ cửa mà chỉ ngồi trên xe nhận kèn một lần rồi lái xe đi…. 

Tự nhiên nghiệm trong quãng đời trẻ trung ngắn ngủi của mình, dường như là tôi chưa làm được chuyện gì có ý nghĩa hơn là chuyện tôi đã làm trong buổi sáng hôm ấy.  Chúng ta luôn luôn nghĩ rằng cuộc đời sẽ có những khúc quanh quan trọng, đánh dấu bằng những sự việc to lớn, dễ dàng ghi nhớ…  Nhưng thật ra, đẹp nhất vẫn là những phút giây nhỏ bé bất ngờ nhưng có xúc cảm mãnh liệt khiến ta phải bàng hoàng đến tê dại cả tâm hồn… 

Xin chia xẻ câu chuyện nhỏ này với các bạn, hy vọng vì thế cuộc đời chung quanh chúng ta sẽ ấm cúng và có ý nghĩa hơn.

Sưu tầm

****************************** *******

Lạy Chúa, xin ban cho con một con tim phổ quát, một con tim vọng ngân lại tất cả những khao khát của con người.
Một con tim không bao giờ muốn khép kín, muốn giam mình trong tháp báu ngọc ngà.
Một con tim rộng mở, biết sống theo những chiều kích của hoàn vũ bao la.

Một con tim biết rung động theo những tình cảm quảng đại nhất của thời buổi hôm nay.
Một con tim biết đón nhận mọi khổ đau, mau mắn cảm thông những nỗi cơ cực của những ai nghèo nàn và bất hạnh.
Một con tim biết cảm thấy hạnh phúc khi được chia sẻ niềm vui của người khác hơn niềm vui của chính mình.
Một con tim có khả năng hiểu biết tha nhân trong những vấn nạn và khó khăn của kiếp người.
Một con tim biết chia sẻ âu lo của người khác để mang lại cho họ niềm an bình thư thái.
Một con tim biết biến đổi khao khát và hi vọng của con người hôm nay thành như của chính mình.
Một con tim biết đập cùng một nhịp theo sự tiến hoá của thế giới trong một mối thiện cảm sâu xa cùng với nhân loại đang tiến bước khác. Amen!

 (Prière au coeur du monde, J. Galot, sj.)

Nguyễn Hùng Cường chuyển dịch

Langthangchieutim gởi

Ngày giỗ Ba

Huynh Thi Xuan Mai

 

Bài viết của nhân chứng sống biến cố Mậu Thân 68, cô Susan Nguyen, mời mọi người đọc qua.

Ngày giỗ Ba

Hôm nay ngày giỗ Ba! Mới đó mà cũng gần 50 năm rồi. Mỗi lần giỗ Ba, nhang khói ngập trời cả thành phố Huế. Gần 6000 anh linh, nạn nhân của một cuộc tàn sát đẫm máu, vất vưởng đâu đây trên những bãi cát vùng Diên Đại, Xuân Ổ, Xuân Đại, Phú Thứ. Những oan hồn lẫn khuất quanh sân trường Gia Hội, Kiểu Mẫu. Những người vô tội bị xử tử ngay tại nhà, trước mặt người thân. Những vị bác sĩ từ tâm người Đức bị sát hại sau chùa Từ Đàm, và hàng ngàn người dân vô tội ở vùng Phủ Cam bị lùa xuống khe Đá Mài.

Cả thành phố chìm ngập trong màu khăn sô trắng. Ôi! Tôi không muốn nhớ đến cảm giác hãi hùng ấy nhưng sao nó vẫn cứ khắc sâu trong tâm khảm. Phải chăng những anh linh ấy không siêu thoát được vì cái chết đau thương của họ đã bị lịch sử bóp méo? Thoang thoảng đâu đây như tiếng kêu gào ” Trả sự thật lại cho chúng tôi “.

Ba! Con sẽ không quên. Lịch sử sẽ không quên và mọi người trên thế giới này sẽ không quên dù ai đó cố tình đổi trắng thay đen để chạy tội cho cuộc tàn sát mọi rợ đó. Ngày đó, tuy còn nhỏ nhưng con đã biết nhận xét mọi chuyện. Gia đình mình gần như là nơi tụ tập của Uỷ Ban Truy Tầm Nạn Nhân Mậu Thân. Mỗi buổi sáng là 2 chiếc xe GMC đậu trước nhà để chở dân và nhân công đi tìm kiếm mồ chọn tập thể. Mấy dì trong ban tổ chức có chồng mất tích 68 như cô Tôn Thất Lang, dì Quýnh, dì An, dì Dương, dì Mại, mạ …lo sửa soạn vật dụng mà Chú Thuyên( phó quận trưởng quận Phú Vang) và mấy chú lính chở tới như những cây vải ny lông để bó hài cốt, dây cột, thẻ bìa carton trắng để ghi chi tiết nhận dạng cho mỗi thi hài. Sáng nào mấy Dì và tụi con cũng cắt, xếp những mảnh ni lông khoảng 2 thước để bó thi hài.

Ông Noại trong làng ra bắt đầu một ngày làm việc bằng ly rượu trắng nhỏ( ông là người phụ trách việc hốt cốt. Ông cẩn thận lượm từng mảnh xương nhỏ của mỗi thi hài nằm chồng lên nhau trong những cái hố chật hẹp. Có thi hài còn đủ áo quần( như hầm ba mình) nhưng cũng có những thi hài chỉ trần xì cái quần đùi, rất khó nhận diện. Mình nghe được nhiều mẫu chuyện cười ra nước mắt bởi ông và mấy chú bác.

Có một bà nhận được xác chồng nhưng không có đầu( bị xử tử). Bà đi theo và nói nhỏ với ông : Chú ơi! Chú có cái đầu mô dư cho con một cái. Ông nạt ngang: người mô thì đầu nấy, dư mô mà cho, nói tào lao! Vậy mà mấy hôm sau, đi vùng khác, ông lại tìm được một cái đầu lâu trong bụi rậm. Ông nhắn: Chôn chưa, về chú cho cái đầu nè. Bà ta tất tả mừng rỡ chạy về, gói đầu lâu chồng lên làm đám. Rồi còn có một chị trong xóm, đi tìm xác chồng nhưng không được vào trong( ngồi ở địa điểm tập trung an toàn và nghe nhận diện qua ô-pạc-lơ ( haut – parler). Chị xin làm thiện nguyện bằng cách vào rồi phụ gánh thi hài ra xe. Cứ 2 người gánh một thi hài đã được bọc nylon và bó dây kỹ lưởng. Đi được vài chục bước thì thi hài rớt ra, chị phải dừng để buộc lại, đi thêm vài chục bước thì thi hài rớt thêm lần nữa, lại buộc và đi, qua lần thứ ba lại rớt và xổ tung ra, chị phải nhặt gom lại và chợt thấy mảnh vải quần đùi của chồng mà chi tự tay may lấy. Chị dở ra xem lại và oà khóc nức nở, chị đã gánh đúng xác của chồng chị mà không biết.

Còn nhiều mẫu chuyện ” trời đất dun dủi ” như thế nữa nghe rất thương tâm. Cực khổ rứa đó mà ngày nào mạ cũng đi, sáng đi chiều tối về. Ngày nào cũng lê la bên mấy mồ chôn để mong nhận diện chồng. Ngày nào cũng hít thở mùi xác chết thối rửa trong cái nắng mùa hè vậy mà không bệnh hoạn chi hết. Sáng mua ít đồ ăn vất lại cho bầy con ở nhà tự xoay sở lấy, cả hàng quán cũng vất liều luôn. Mạ mua ít gói xôi hay vài trái bắp làm thức ăn trưa rồi dang nắng suốt ngày ở những vùng đất cát trắng ghê người ấy. Bác cũng đi theo để phụ mạ tìm người em trai duy nhất của mình. Thấy cực khổ quá nên bác khuyên mạ nên ở nhà để lo con rồi thỉnh thoảng thay phiên với bác cũng được. Thế nhưng,ở nhà một hôm thì bị thôi thúc, ruột gan không yên, cả ngày cứ ngửi thấy đâu đây mùi xác người chết. Trời đất phù hộ, lăn lóc với các hầm chôn người thì không cảm thấy gì hết. Mạ lại nhập vào cuộc kiếm tìm và nhờ vậy, khi tìm ra xác ba, cả mạ và Bác có thể lo chu toàn hơn. Hầm chôn xác ba gồm có 27 người toàn là người trong xóm ra ” trình diện học tập “. Từ đầu xóm đến cuối xóm đèn đuốc sáng rực vì phải làm rạp chứa đám bên ngoài nhà. Hai mươi bảy bà goá phụ với đám con nhỏ mồ côi cha khăn áo tang trắng nguyên cả xóm. Riêng hầm này may mắn biết được ngày mất vì có một chú lận cái đồng hồ lên tận nách nên không bị tước đoạt. Ngày xưa đồng hồ phải lên giây mỗi ngày vì vậy khi đồng hồ đứng là biết chết trước đó 1 ngày. Cả nhóm bị bắt ngày mùng 6 âm lịch thì bị giết ngày mùng 8 vì đồng hồ đứng ngày mùng 9 AL.

Giờ đây, con ở nơi phương xa hơn nửa vòng quả đất với mâm cơm chay đạm bạc, nén hương chân thành nguyện cầu Ba sớm siêu sinh miền Tịnh Độ.

Nam Mô Siêu Lạc Độ Bồ Tát Ma Ha Tát!

Ác ma Marx trong lời tiên tri

Tinh Hoa‘s post.
 
Image may contain: 1 person, smiling
Tinh Hoa

 

Ác ma Mars trong lời tiên tri

Vào thời niên thiếu, Marx là một giáo đồ Cơ Đốc; nhưng sau khi vào đại học, ông ta gia nhập giáo hội Sa-tăng (Satanist Church) do Joanna Southcott chủ trì, và trở thành một thành viên của giáo phái ma quỷ. Giáo hội Sa-tăng lấy một ngôi sao năm cánh đặt ngược làm ký hiệu. Người Trung Quốc ngày nay không nghĩ đến đó, rằng vì sao ĐCSTQ sùng bái ngôi sao năm cánh như vậy, giống như tôn thờ thần linh vậy. Đó không phải là tượng trưng cho chủ nghĩa dân tộc hay chủ nghĩa yêu nước, bởi vì “Tuyên ngôn của đảng cộng sản” tuyên bố: “Phải thủ tiêu dân tộc, không đề xướng chủ nghĩa yêu nước”. Sa-tăng giáo sùng bái ngôi sao năm cánh, và lấy ngôi sao năm cánh làm biểu tượng.

Marx không phải là người vô thần. Giáo hội Sa-tăng tin vào sự tồn tại của Thần, chỉ là họ thù hận Thần, muốn vượt qua Thần, leo lên trên cả Thần (ít nhất là ngồi ngang hàng với Thần). Do đó rất nhiều tác phẩm thơ ca của Marx đều phản đối Thần, sùng bái Sa-tăng. Thơ ca là một hình thức văn nghệ đặc thù, có thể biểu đạt thế giới nội tâm tác giả một cách chân thật nhất. Marx trong một số tác phẩm như “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” (Invocation of One in Despair), “Sự kiêu ngạo của con người” (Human Pride), kịch bản “Oulanem”, v.v. đều sung mãn khát vọng hủy diệt nhân loại, thậm chí kịch bản “Oulanem” còn công khai thừa nhận: “Và để hủy diệt, chỉ có thể là hủy diệt!”.

Cả đời Marx viết được hơn 100 cuốn sách, thế nhưng chỉ có 13 quyển được xuất bản. Tuyệt đại đa số đều được thu gom và cất giữ tại viện nghiên cứu Marx ở Moscow, chứ không công bố ra ngoài. Điều mà chúng ta biết chỉ là một bộ phận nhỏ mà thôi; một bộ phận nhỏ, mà đã khiến người Trung Quốc trợn mắt kinh ngạc.

Hai chữ “Sa-tăng” này, đối với người Trung Quốc, là không hề bỡ ngỡ. “Sa-tăng” (Tát Đán) chính là ma quỷ hoặc ác ma, trong văn hóa truyền thống Trung Quốc mang ý xấu, chỉ các sinh linh làm hại nhân loại. Giáo hội Sa-tăng tuyên truyền thù hận đối với Thần, và bởi vì họ tin Thượng Đế đã sáng tạo ra nhân loại, nên các thành viên Sa-tăng giáo cũng sung mãn cừu hận đối với nhân loại. Các tác phẩm thơ ca của Marx đã biểu đạt vô cùng minh xác điều này (như “Ta không còn lại gì ngoài thù hận!” trong “Câu ma chú của kẻ tuyệt vọng” hay “Ngay khi ta siết chặt vĩnh hằng và hét lên, Câu nguyền rủa thật lớn vào tai con người.” trong “Oulanem”, v.v.) Marx đã thừa nhận “Sa-tăng cấp cho ông ta một thanh kiếm, lại cấp ấn ký cho ông ta”.

Marx là một tín đồ Sa-tăng giáo, đây là sự thật không còn nghi ngờ gì nữa. Từ sinh hoạt, công tác, tính cách, gia đình, bạn bè đến thư từ cá nhân của Marx đều chứng tỏ sự thật kinh ngạc ấy.

Mikhail Bakunin (một người Nga theo chủ nghĩa vô chính phủ, cùng Marx sáng lập “quốc tế thứ nhất”, cũng là một giáo đồ Sa-tăng), người từng có thời là bạn thân của Marx, nói: “Người ta nhất định phải sùng bái Marx. Người ta ít nhất cũng phải sợ ông ta để có được sự khoan dung của ông ta. Marx là người tự đại cực độ, tự đại đến mức ghê tởm và điên cuồng”.

Sau khi gặp Marx, Engels đã miêu tả cảm tưởng về Marx như sau: “Ai là người theo đuổi mục tiêu dã man? Một con người đen tối đến từ Trier (nơi Marx sinh ra), một con quái vật đích thực. Ông ta không đi, cũng không chạy; ông ta dùng gót chân, nhảy lên một cách điên cuồng, tưởng như muốn chộp lấy cả bầu trời và vứt xuống đất. Ông ta duỗi hai tay ra không trung, với nắm đấm tà ác; sự cuồng nộ của ông ta rất bất bình thường, giống như hàng vạn ma quỷ đang chiếm hữu ông ta từ râu tóc”.

Sau khi Marx chết không lâu, người hầu gái cũ của Marx là Helen Demuth kể lại: “Ông ta (Marx) là một người rất kính sợ thần. Khi mắc trọng bệnh, ông ta một mình trong căn phòng, đầu cuốn dây băng và cầu khấn trước ngọn nến đang cháy”.
……………
Trích từ:
Giải mã «Các Thế Kỷ» của Nostradamus (17): Chúng ta lựa chọn như thế nào (chanhkien.org)
Ảnh: Ảnh: Cờ của Sa-tăng giáo (ký hiệu ngôi sao năm cánh đảo ngược). (chanhkien.org)

Tôi cũng chưa đi hết dặm đường,

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 5 Thường Niên năm B 04/02/2018

 Tin Mừng (Mc 1: 29-39)

Hôm ấy, vừa ra khỏi hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.

 Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.

 Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.

 &  &   &

“Tôi cũng chưa đi hết dặm đường,”

“Đời dài, mới hết nửa sầu thương.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch.

 Dài ngắn đời người, làm sao anh đi hết. Sầu thương nửa vời, tôi nghĩ chỉ thế thôi. Có nghĩ hoặc có đi, cũng khó lường con đường Chúa đã đi qua như thánh Máccô vẫn ghi lại ở trình thuật.

Trình thuật thánh Máccô ghi, là ghi về chốn miền Chúa đặt chân đến. Trước nhất, là xóm làng nhỏ bé ở đó có dân con của Ngài sẻ san hết mọi sự, mà vui sống. Dân làng tuy rất nhỏ, nhưng vẫn cùng nhau lao động trên vạt đất không do mình sở hữu, bởi thế nên cũng nghèo. Và, giá trị phần đất lao động cũng lại tuỳ khoảng cách nơi mình sinh sống. Và, tuỳ đường dài rong ruổi ngày nhóm chợ. Và, vụ mùa đạt được, hầu hết là lúa hạt, dầu ăn và nho trái. Sản phẩm đạt được, hầu hết là hạt giống, dầu ăn với nho trái để làm rượu. Thành viên gia đình lao động đều rất vất vả thời cao điểm. Và, cao điểm thời làm lụng lại là lúc để người người vui tươi gặp gỡ. Bởi thế nên, mới có câu: “Ta hãy đi nơi khác, đến làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa.” (Mc 1: 38)

 “Làng xã chung quanh”, là đất miền khá rộng, có dân cư tự mình quản cai, khai thác và xử lý. Quản trị hay xử lý, không là việc độc quyền của riêng ai. Cũng chẳng là trọng trách chỉ lo mỗi chuyện đạo. Ở nơi đây, luôn có các buổi tập họp dân quê để làm những việc như thế. Ở nơi đó, cần có các nhà lãnh đạo (tức các kỳ mục mà tiếng Hy Lạp gọi là Komarkes) và đám trung gian (tức ký lục biết đọc và biết viết gọi là komogrammateis). Không phải làng nào cũng có những vị cùng một kiến thức như thế; nhưng, nhiều làng gộp lại mới có được một vị. Các vị này còn phải lo cả chuyện chính trị ở địa phương. Các vị ấy có quyền lập văn bản chính thức, cùng đạt thỉnh nguyện thư gửi giới chức có trọng trách về luật. Là, người trung gian/môi giới, chứng nhân lẫn kế toán, vv…             

Có người hỏi: dân cư nơi ấy thế nào? Là dân làng không thay đổi, họ giống nhau ở nhiều điểm dù có khác biệt về văn hoá. Họ có mô hình hoặc mẫu mực văn hoá của dân quê. Đó là mẫu mực cuộc sống, chứ không phải sự việc do các nhà làm luật, ngôn sứ hoặc lĩnh đạo tôn giáo áp đặt lên mọi người mà họ  vẫn muốn. Dân con miền Galilê, không có chứng tích viết bằng ngôn từ mình tạo dựng. Nhưng, vẫn sống mật thiết với đất đai và loài thú. Sống, là sống theo khuôn khổ gia đình. Có, sinh hoạt liên hồi tiếp diễn. Sống, là biết theo đường lối rất uyển chuyển. Biết tin tưởng lẫn nhau cũng như đặt nặng tương quan với người khác. Đôi lúc họ cũng ngây thơ, sống thành nhóm/thành tổ trong căn hộ nghèo nàn. Sống trong sinh hoạt hỗ tương với thôn làng khác, gần gũi với súc vật.

Rất nhiều lúc, họ cũng trở nên thuần thành do công việc có khuôn khổ. Có kỳ vọng tuy khá thấp nhưng cũng tạo kinh ngạc lạ lùng. Họ vẫn im lặng chấp nhận, tin tưởng. Con cháu trong nhà chỉ biết chơi đùa nghịch ngợm nhưng vẫn biết nguyện cầu cùng Đức Chúa. Vẫn có bệnh tật, vẫn nghỉ ngơi, chung đụng với cha mẹ, nhà cửa cùng vật dụng, môi trường, cảnh trí nơi nào cũng ảnh hưởng lên chính họ. Chẳng ai còn bỏ làng xóm đi nơi khác nữa. Bởi, khi đã rời bỏ gia đình là có lỗi nặng với đất đai. Và dù có gần khu thị tứ, nhiều người cũng chẳng cải thiện được cuộc sống hoặc thích nghi được với cuộc sống mới.

Quê miền đồng nội Do thái, khác hẳn thôn làng mọi xứ sở. Ở nơi đó, có khác biệt từ thẩm quyền, đến mức độ hiệu năng và khoảng cách. Thôn làng nào cũng cần nước để sống sót. Nơi nào có nước mưa, nước nguồn để uống, thì cuộc sống sẽ khá hơn. Chẳng ai có ý nghĩ cứng ngắc như đá tảng về “quê miền đồng nội”, hoặc thôn làng người khác sống. Lại có thời, Hội thánh vẫn sáng giá ở đồng quê. Đồng hồ nhà thờ ở giữa làng, là dấu chứng Chúa hiện diện. Có thánh hội tạo ảnh hưởng lên nếp sống của giáo dân.

Về chuyện này, nay nghĩ đến chốn miền nhiều nơi thiếu linh mục trầm trọng. Nhiều làng mạc thu gọn một mối với giáo xứ. Nhiều xứ đạo hoàn toàn do giáo dân trông nom, lâu lâu mới có linh mục ghé viếng. Chính vì thế, dân quê mới thấy mình như đàn con bị bỏ chợ. Có nơi, con cháu trong làng chẳng thiết gì đến Giáo hội. Tuổi trẻ nay để mất cả phương hướng lẫn tình thương. Và, cuộc sống nói chung không theo mẫu mực Giáo hội định ra nữa. Và, khi thế hệ nối tiếp lớn lên, từng đoàn và từng đoàn người cứ thế rời bỏ giáo hội lẫn thôn làng yêu dấu ấy.

Làm sao Chúa lại chọn thôn làng xứ miền Galilê để đặt chân đến?

Trong đời người, bao giờ cũng có nơi để người người chọn chỗ mà lui tới và sinh hoạt. Và quanh đó, còn có thôn làng kề cận, vẫn chung vui. Thật ra, nhiều người cũng chẳng biết hoặc chẳng nghĩ mình sẽ làm được gì như vẫn làm ở phạm vi nhà mình. Thành thử, chuyện ta cần nghĩ, là không nên nghĩ đến câu hỏi rất khó trả lời. Bởi, câu hỏi vượt tầm tay mình hiểu biết. Bởi, đó là ý nghĩ mênh mông không biên giới, như bầu trời. Chỉ mỗi điều, là: ở nơi đó, người người đều có cảm giác như vào rừng. Vào chốn miền mà mọi người có khuynh hướng gọi tên “thung lũng đầy tiếng khóc”. Chốn miền cần hát vang kinh Kính Mừng. Nam nhân thường coi đó như nơi nguyện cầu, để rồi khi thần chết đến, Chúa sẽ giúp mình kềm chế nó. Các nữ lưu cũng biết điều đó nên chỉ đến đó khi nam nhân ép mình lui tới hoặc ở lại.

Nhưng vấn đề là hỏi rằng: Chúa về miền thôn dã, để làm gì? Câu trả lời rõ nhất, chính là xứ miền quanh Galilê có người lui tới. Ngài đi quanh khắp chốn, và đến bất cứ nơi nào Cha gửi tới. Tức, xứ miền Chúa Cha muốn mọi người trở thành con của Ngài. Và chốn ấy, là nơi có thể chẳng người con nào thích đến. Chẳng ai muốn bén mảng hoặc tới lui như làng mạc hoặc rừng hoang thôn dã ta thanh tẩy. Chỉ nơi đó và nơi đó thôi, Chúa mới sờ chạm mọi người và đổi thay con người họ. Về nơi hoang dã, tất cả rồi ra sẽ là con cái Chúa.

Sách Xuất Hành kể truyện Môsê cũng có đoạn nói về nơi dân dã, chốn hoang vu. Có bụi rừng cháy sáng. Có, Môsê hỏi tên bụi rậm để định nghĩa rừng thiêng hoang dã, nhưng không thành. Và, chẳng ai tìm ra được tên gọi ấy. Đó, là bài sai Môsê nhận lĩnh ra đi mà kể lại cho người Ai Cập biết dân con người của Chúa sẽ trở về nơi hoang dã. Thế nên, khi Môsê nói với chốn hoang sơ bụi rừng rằng ông có là gì đâu mà phải như thế? Và, Bụi Rừng đáp trả, không bằng định nghĩa lý lịch Môsê, nhưng bằng hứa hẹn: Ta sẽ về với con, nên chớ sợ. Bởi, con không là người một mình sống đời hoang dã. Bởi, Ta cũng đến đó với con thôi.

Hoang dã hôm nay, tuy không là chốn miền người người sinh sống với lao động. Mà là biểu tượng của chốn miền mình am tường và cưỡng chống nhưng vẫn đến dù không rõ mình còn muốn ở đó nữa hay không. Chúa kêu gọi người người từ chốn bụi rừng bừng cháy để vào nơi dân dã. Là, chốn duy nhất mà chất giọng và lời Chúa được mọi người nghe biết. Ở đó, chẳng có gì để mình và người người khả dĩ tạo lập chính con đường để mình đi.   

Hãy cứ đi và cứ vào nơi hoang dã, mà gặp Chúa! Và, như nhà thơ ngoài đời cũng đã diễn tả ý tưởng cùng lập trường, rất tương tự:

                        “Tôi đến đêm xưa, em vắng nhà,

                        Trăng vàng, mây bạc, sầu như hoa.

                        Tôi từ viễn phố rời chân lại,

                        Chỉ thấy sương nhiều như lệ sa.”

                        (Đinh Hùng – Đường Khuya Trở Bước)

Nhà thơ một đời ngâm nga lời ca trống vắng. Trăng vàng mây bạc cuốn lôi người “từ viễn phố, rời chân lại”, dù mưa sa. Kể ra, thì nếu chưa đi thì chưa biết chốn dã hoang bừng cháy nỗi niềm Chúa mong đợi mọi người. Trông và đợi người người ra đi. Đó, cũng là ý niệm Chúa đi “hết dặm đường” để dân con người người rày cảm kích.        

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Buồn ơi, ta xin chào mi,

Chuyện phiếm đọc trong các tuần thường niên năm B

 “Buồn ơi, ta xin chào mi”,
Khi người yêu ta đã bỏ ta đi.
Buồn ơi, ta xin chào mi!
Khi tình yêu, chấp cánh bay đi.”

(Nguyễn Ánh 9 – Buồn Ơi Chào Mi)

(Mc 14: 34)

  Trần Ngọc Mười Hai

Có một điều, là nhiều lúc bản thân bần đạo bầy tôi đây, cứ muốn nói lên đôi điều để bà con/thiên-hạ cảm-thông tâm-trạng “hơi bị buồn” của mình hoặc của người, tức: những chuyện tình buồn trong đời, thật rất khó. Khó nói và khó làm, là bởi vì tình buồn ấy đôi lúc cũng na ná giống như mọi thứ tình trong đời, thôi.

Chuyện buồn, mà bần đạo bầy tôi đây muốn nói và viết ra hôm nay, là những chuyện nhà Đạo cũng rất đời không tươi vui, nhộn-nhịp hoặc ào ào/nổi cộm, chút nào hết. Mọi sự, chỉ là chuyện thường tình xảy ra trong đời, mà thôi.

Nhưng, trước khi bàn-thảo những chuyện thường tình trong đời, tưởng cũng nên nghe thêm câu hát tiếp theo cho thật thấm, rồi sẽ tính. Câu hát buồn, mà nghệ sĩ lâu nay không ngại cất tiếng, rất như sau:    
“Buồn ơi, ta đang lẻ loi.
Buồn hỡi, ta đang đơn côi.
Buồn ơi, hãy đến với ta.
Để quên, chuyện tình xót xa.

Nếu, trên đường tình ta lẻ loi một mình.
Thì trên đường đời, ta có mi buồn ơi! …
Buồn ơi! thế nhân là thế.
Sao người yêu, vẫn mãi say mê.

Buồn ơi, yêu đương là thế.
Sao tình ta mãi mãi đam mê.
Người yêu, cho ta niềm đau.
Buồn hỡi, cho ta quên mau.

Buồn ơi, hãy đến với ta.
Để quên, chuyện tình xót xa…

(Nguyễn Ánh 9 – bđd)

Nghệ sĩ đời, vẫn hát ca về sợi “tình buồn” đến với mình bằng những câu như: “Buồn ơi, thế-nhân là thế…”, “yêu đương là thế…”, “Sao tình ta vẫn mãi đam mê?”… Trong khi đó, bậc thánh hiền nhà Đạo chỉ mới ghi lại lời Thày Chí Ái khi xưa thưa với Chúa Cha những lời trần tình buồn bã, tái tê khá lê thê như thể bảo:

“Tâm hồn Thầy buồn đến chết được.

Anh em ở lại đây mà canh thức.”

Ngài đi xa hơn một chút,

sấp mình xuống đất

mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy,

nếu có thể được.

Ngài nói: “Ápba, Cha ơi,

Cha làm được mọi sự,

xin cất chén này xa con.

Nhưng xin đừng làm điều con muốn,

mà làm điều Cha muốn.”

(Mc 14: 34)

 Sợi “Tình Buồn” của Thày Chí Ái, phải chăng là chén đắng, Cha trao ban? “Chén đắng” Cha ban, phải chăng là sợi tình buồn về người đời, chẳng màng chuyện thần thánh thiêng liêng vẫn rất “thần” như chuyện đời hôm nay, thiên-hạ, cứ bàn suốt?

Nói gì thì nói, có lẽ bạn và tôi, ta cứ để tai xem xét chuyện tình buồn của mình và của người như thế nào mà sao Đấng Chí Ái lại thở-than với Chúa Cha những tâm tình “Buồn đến chết được” như thế.

Thôi thì, ta hãy cứ nghe thử những lời tình buồn như sau:

“Có Thần/Phật hay không?

Thần/Phật sẽ không vì có người không tin mà không tồn tạikhông phải vì có người “khích tướng” mà hiển hiện ra cho con người thấy. Có một câu chuyện thế này:

Sau chiến-tranh châu Âu lần thứ nhất có một quốc gia muốn dùng khoa-học để tuyên-truyền thuyết vô-thần, bèn mời ba vị tiến-sĩ đến quảng-trường để thuyết-giảng.

 Vị đầu tiên, là một tiến-sĩ thiên-văn-học, sau khi giải-thích rất nhiều lý-do không có thần, ông bèn hô lớn: “Tôi đã dùng kính viễn vọng để quan-sát thiên-thể suốt hơn 20 năm qua, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy Thần, do đó tôi khẳng-địng là không có Thần”.

 Vị thứ hai là một tiến-sĩ y-học, sau khi giảng-giải rất nhiều về lý-do nhân-loại tuyệt-đối không tồn-tại linh-hồn, ông nói: “Tôi đã từng giải-phẫu trên 100 thi thể hơn 10 năm, tôi đã quan-sát kỹ các bộ-phận cơ-thể, nhưng chưa bao giờ thấy chỗ nào có linh-hồn trú-ngụ, do đó nhất-định không có sự tồn-tại của linh-hồn.”

 Vị thứ ba là một nữ tiến-sĩ luân-lý-học, bà nói: “Người ta chết đi cũng giống như ngọn đèn tàn, chết là hết, khi đã chết, thì coi như kết-thúc mọi chuyện, tuyệt-đối không có chuyện thiên-đường, địa-ngục và chịu tội muôn kiếp. Tôi đã từng đọc rất nhiều sách trên thế-giới, nhưng chưa có trang nào ghi chép về điều này.”

 Sau khi ba vị tiến-sĩ thuyết-giảng xong, người dẫn chương-trình tuyên-bố với mọi người:

 “Nếu như lý-do không có sự tồn-tại của Thần mà ba vị tiến-sĩ vừa thuyết-giảng có chỗ nào đó chưa đầy đủ hoặc nếu có chứng-cứ phản-bác lại, bất cứ ai cũng có thể đưa ra thảo-luận công-khai.”

 Một bà lão nông-dân nhà mùa nói với người dẫn chương-trình:

-Tôi có thể đưa ra vài câu hỏi không? Người dẫn chương-trình nói:

-Rất hoan-nghênh bà!

 Bà lão liền hỏi vị tiến-sĩ đầu tiên:

-Ông dung viễn-vọng kính quan-sát thiên-thể đã hơn 20 năm, vậy ông đã nhìn thấy gió bao giờ chưa? Hình-dạng của nó như thế nào?

Vị tiến-sĩ nói:

-Dùng viễn-vọng kính làm sao có thể nhìn thấy được gió cơ chứ?

Bà lão nói:

-Vậy trên đời này có gió hay không? Ông dùng viễn-vọng kính mà lại không nhìn thấy được gió, thế lẽ nào ông lại có thể dùng nó mà nhìn thấy được Thần hay sao? Ông quan-sát bằng viễn-vọng kính nhưng không nhìn thấy Thần, ông lại có thể nói là không có Thần sao?

 Vị tiến-sĩ thiên-văn-học không nói được lời nào. Bà lão chuyển sang vị thứ hai:

-Ông có yêu vợ của mình không?

Vị tiến-sĩ này trả lời:

-Có

Bà lão lại nói:

Xin cho tôi mượn con dao mà ông hay dùng để giải-phẫu, tôi muốn mở bụng của ông ra coi xem tình-yêu đôi với vợ của ông nó nằm ở chỗ nào. Ở gan, dạ dày hay ở ruột.

Nói xong, cả hội-trường cười ồ, rất lớn tiếng. Cứ tiếp tục, bà lão quê mùa kia lại nhìn sang nữ tiến-sĩ hỏi:

-Cô đã đọc quyển sách này chưa? Nó gọi là Kinh Thánh. Chẳng phải rõ ràng quyển sách này có nói mọi người sau khi chết đều chịu phán-xét sao? Cô đừng tưởng chết là hết, phải biết rằng việc sau khi chết còn nhiều và dài hơn lúc còn sống rất nhiều! Khi cô còn trong bụng mẹ, nếu có người nói với cô rằng: không lâu nữa, cô sẽ có mặt trên rta1i đất, có trời trăng sơn thuỷ, phải ăn cơm mặc quần áo, cô có tin không? Thế nhưng, hôm nay, cô không chỉ tin mà còn thực sự đã và đang sống trong thế-giới này. Thế-giới vĩnh-hằng cũng như thế, mà thôi. Sự sống không là cuộc chạy đua. Nó là một hành-trình để chúng ta từng bước chiêm-nghiệm ý-nghĩa sự sống. Điều quan-trọng không phải là phần thưởng khi chúng ta đến đích mà chính là những gì chúng ta cảm-nhận được trên từng chặng đường đi.” (Truyện kể rút từ mạng vi-tính)

 Nói thế, cũng hơi buồn. Bởi, nói như thế tức như thể bảo rằng: chẳng có thần-linh, Trời/Phật hoặc Đức Chúa ở trên cao chốn 9 tầng mây vi-vút ấy.

Nói như thế, tức còn bảo: không ai có thể minh-chứng hoặc tỏ-bày cách nào cho xứng-hợp để người đọc và người nghe thông-cảm. Chuyện “tình buồn” của ai đi nữa, cũng chỉ có thể cảm-thông hoặc cảm-nghiệm cách này hay cách khác, thôi. Và, ta cũng nên tìm bí kíp sống để “vui một đời người” dù có gặp những chuyện không vui, mới được.  

Nói thì nói thế, chứ nhiều người chung sống với nhau trong đời rất ư là thường tình. Thoạt khi gặp chuyện buồn thực lại vẫn bình-tâm, vững chí không thấy buồn/bực chút nào hết; hoặc, dù có buồn đi nữa, vẫn nhìn sự việc bằng cặp mắt tươi vui, yêu đời như truyện cười nhẹ ở bên dưới cũng buồn cười:

“Ông là người goá vợ. Bà là người goá chồng. Họ quen nhau trong nhiều năm vì là bạn học cùng lớp và đã tham gia nhiều buổi hội-ngộ khi trước. Ông nhìn bà một cách say đắm. Bà mỉm cười nhìn lại ông. Cuối cùng, ông lấy hết can đảm, hỏi bà:

-Em có bằng lòng làm vợ anh không?

Sau vài giây suy nghĩ, bà trả lời:

-Em…bằng lòng!!

Sáng hôm sau, thật tội cho ông, ông cố nhớ lại từng lời nói khi ông cầu hôn mà vẫn không nhớ là bà có nhận lời hay không?!?

Ông cầm điện-thoại lên gọi cho bà, vừa run vừa lo. Ông thuật lại mọi việc ông đã nhớ được vào ban đêm hôm trước. Cuối cùng, ông mạnh dạn hỏi:

-Khi anh hỏi em có muốn làm vợ anh không, Em trả lời ra sao?

Anh thật là vô tình. Em trả lời muốn với tất cả con tim của Em…

Lòng ông rộn rã, tim ông đập mạnh thêm…

Trong khi đó, bà nói tiếp:

-Em rất vui khi anh gọi. Thực ra em không nhớ ai đã hỏi cưới em! (Truyện kể rất dài trên mạng)

Phải chăng, “sợi buồn con nhện giăng tơ” là như thế? Có lẽ, giai-điệu nhạc nào đó theo nhịp“Valse” hoặc “Slow Rock”, cũng chẳng thể nào buồn hơn thế được. Có buồn không, đời người vẫn cứ vậy. Như thế và như vậy, tức bảo rằng: chẳng ai buồn nghĩ tới nó làm chi. Hãy cứ thế sống. Cứ thế vui chơi trong đời, như chẳng có chuyện gì buồn sầu/buồn bã xảy ra hết.

Nỗi buồn của ngôn-ngữ người đời thời nay, là: cái gì cũng bắt đầu bằng chữ “buồn” mang tính chất rất “buồn”, như: buồn bã, buồn bực, buồn thảm, buồn phiền, buồn rười rượi, vv… Nhưng, có những chuyện mà người nói vẫn cứ nói ra, mà chẳng thấy gì là buồn bã hết, thế mới buồn, như: buồn ngủ, buồn nôn, buồn tẻ, buồn tênh, buồn xo, buồn tình nhiều lúc đến thúi ruột thúi gan nhưng vẫn cười đến bể bụng.

Lại có những “chuyện buồn nhà Đạo” nghe qua thấy giống như “Chuyện Phiếm khá buồn”, tưởng ta cũng nên xem qua cho biết, như sau:  

 “Nghiên-cứu/khảo sát mới đây ở Anh quốc cho thấy đã có sự giảm sút đáng kể về số người theo Anh Giáo ở nước Anh, trong khi đó con số người Công giáo vẫn như cũ.

 Hơn phân nửa số dân sinh sống ở Anh quốc nay bảo rằng: họ chẳng thuộc đạo-giáo nào nữa hết. Trên đây, là dữ-kiện thống-kê do viện Khảo-sát NatCen Social Research ở Anh cho biết hôm 5/9/2017 vừa qua.

 53% trong số 3,000 người đứng tuổi được cơ-quan khảo-sát có tên là British Social Attitudes Survey phỏng-vấn đã cho biết là: nay, họ không theo đạo nào hết. Con số trên đây được coi là kết-quả phỏng-vấn của cơ-quan này mở ra vào năm 2016 đã lên cao so với con số 48% vào năm 2015.

 Cơ-quan khảo-sát nói trên còn cho biết là: dữ-liệu này, biểu-lộ tình-trạng bình-quân những người sống ở Anh vẫn tự cho rằng họ không theo một tôn-giáo nào hết đã đạt tình-trạng cao nhất từ trước đến giờ.

 Tính bình-quân những người có niềm tin đã từ từ gia-tăng kể từ khi viện khảo-sát bắt đầu thực hiện vào năm 1983, khi ấy 31% người được hỏi đều đã bảo: họ chẳng tin tưởng vào đấng nào hết. Mức giảm sút đây, đã thấy có nơi những người trước đây theo Anh giáo.       

 Bản khảo-sát lại cũng cho biết rằng: 15% người Anh vẫn tự coi mình là người thuộc Giáo-hội Anh-giáo cho đến bây giờ so với năm 2000 mức chênh lệc là 30%.

 Mức cân-đối về những người tự gọi mình là Công-giáo nay vẫn vậy. Tuy nhiên, số những người này nay chỉ còn chừng 10% so với 3 năm trước đây.” (X. CNS, UK religious numbers drop through the floor, The Catholic Weekly 17/9/2017 tr. 9)

Nếu bạn và tôi ta chỉ tính số lượng người đi Đạo hôm nay, thì như thế. Còn, hỏi rằng ân-sủng Chúa ban cho mọi người để họ vui sống đời đi đạo thì chất-lượng cuộc sống ấy như thế nào, thì: câu trả lời cho câu hỏi này, có lẽ cũng nên xét thêm bài viết của đấng bậc vị vọng ở đoạn khác, trích như sau:

“Chúa Tình Yêu trọn vẹn, Ngài không phê bình/lên án, bất cứ ai. Người bị kết tội, thật ra, chỉ vì đó là chọn lựa của chính họ. Chọn tha hoá, tách rời khỏi Tình Thương Yêu của Đức Chúa. Và, thánh Gio-an còn viết: “Ai tự mình làm điều xấu xa gian ác, ắt sẽ ghét bỏ ánh sáng”, và sẽ chọn những gì là tối tăm.

 Ai sống trung thực, biết tôn trọng phẩm giá con người, ắt không sợ ánh sáng. Chẳng có gì phải giấu diếm. Chẳng có gì phải hổ ngươi, có mặc cảm. Người sống trung thực, sẽ là “muối trong đời. Là, thành luỹ ở đồi cao. Là, nến ngọn chiếu sáng, đặt trên đèn. Nhờ có thế, người người thấy được điều tốt lành từ nơi họ, sẽ cùng họ tiến về cùng Chúa.             

 Tuy thế, cũng có loại hình tối tăm khác, trong đó con người vẫn lặn ngụp. Tối tăm, là những tủi nhục rất tăm tối, trong tình đời. Là sự việc tốt lành mình muốn sẻ san, nhưng chưa dám. Là, làm việc gì vì người, và cho người, vẫn chưa dám. Chưa, vì sợ ngườ ingười lên án. Phê bình. Sợ bị từ chối. Sợ, người đời chế giễu, mỉa mai. Cũng tựa như trường hợp không người nào dám đến ủi an/đỡ đần cô gái trẻ mới vừa phát giác ra mình đã mang thai, mà không chồng. Hoặc, không có cưới hỏi, ở nhà thờ. Và tự thân, cô cũng chẳng dám chuờng mặt cùng chòm xóm. Với thành viên gia đình. Với thành phần của Hội thánh Chúa, nữa. 

Tệ hơn nữa, là trường hợp của những người “đồng tính luyến ái”. Bị người đời khinh chê/ghét bỏ. Đành lủi thủi trong tối tăm, tách biệt. Tách, hết mọi người. Biệt, cả với bạn bè, người thân.

 Đó, mới chỉ là hai trong số các trường hợp cụ thể, dễ nhận thấy. Ở đây nữa, tác nhân của tối tăm/sự dữ, lại là người ngồi mát ăn bát vàng. Chỉ biết những chê bai, lên án, bình phẩm. Chính những người, cũng đang trong cảnh tranh tối/tranh sáng của những tối tăm/sự dữ, những thành kiến, huý kỵ, ghét ghen. Thông thường, đây là triệu chứng của những hãi sợ và bất an. Trong nội tâm.

 Bài đọc Lời Chúa hôm nay còn gợi nhớ người đọc về mọi sự tốt lành của ta/ở trong ta. Đó là ân huệ Chúa tặng ban. Quà Chúa ban, chẳng có gì để mình phải vênh váo, và kể công. Tốt lành của ta/ở trong ta, chính là tốt lành/trọn hảo do Ngài toả chiếu ngang qua ta, mà thôi.

 Nay, ta hãy ngước nhìn về Đức Chúa, Đấng đang nâng cao chính mình Ngài, trên thập tự trong vinh quang. Hãy nhìn vào Tình Yêu cao cả Chúa luôn ban. Tình yêu ấy, vẫn sáng rực ở trên đó. Hãy mở lòng mình, với Tình Yêu. Và, để cho Tình Ngài thấm nhập thân mình, hầu đem lại sự sống cho mọi người. 

Ánh sáng nơi ta phải sáng rực chiếu sáng mọi người. Chiếu sáng, như Chúa vẫn dặn dò. Ngài dặn kỹ, nơi Bài Giảng về Phúc Thật, ở trên núi. Rực sáng, để người người thấy điều tốt lành, ta đang làm. Có như thế, người người sẽ được đưa dẫn về với Tình Yêu Thương cao cả, của Đức Chúa. Đấng vẫn ban cho ta nhiều ân sủng, mới được thế.” ( X. Lm Frank Doyle sj, Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật thứ 3 Mùa Chay năm 3 18/3/2013.)  

Nói gì thì nói, cuối cùng thì tình buồn thế kỷ, nay vẫn là chuyện đời người được thể hiện qua thơ/văn hoặc truyện ngắn cũng nhè nhẹ nhưng không buồn. Thơ và văn, là văn thơ làm đoạn kết rất như sau:

“Ta cứ tưởng trần gian là cõi “thật”

Khi tóc bạc trên đầu trôi dạt mãi.

Cội-nguồn ơi, chiếc lá lại rơi về,

Đường về khép bóng trần-gian.

Lợi-danh gói một hành-trang vô-thường.

Ngoảnh nhìn cuộc đời như giấc mộng,

Được/mất bại/thành bỗng hoá không.

Phú quí vinh hoa như mộng ảo.

Sắc/tài danh lợi tựa phù du.

Tất bật hơn thua rồi cũng bỏ.

Thong dong tự tại vậy mà vui.

Đêm qua mộng lại thật gần.

Đừng lay tôi nhé hồng-trần mong-manh!

 Ta về giữ mộng trinh-nguyên.

Bờ hun hút lạnh nắng xuyên hình hài.

Thân như bóng chớp chiều ta.

Cỏ cây hoa lá xuân qua rụng rời.

Sá chi suy thịnh cuộc đời.

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

 Ta cứ tưởng trần-gian là cõi “thật”.

Thế cho nên tất bật đến bây giờ!

 Ta cứ ngỡ xuống trần chỉ một chốc.

Nào ngờ đâu ở mãi đến hôm nay.

Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ.

Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi.

Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ.

Khi trở về cát bụi cũng trắng tay.

 Cuộc đời ta phù-du như cát bụi.

Sống hôm nay và đâu biết ngày mai?

Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi.

Rồi cũng về với cát bụi mà thôi.

Thì người ơi! Xin đừng ganh đừng ghét.

Đừng hận-thù tranh-chấp với một ai.

 Hãy vui sống với tháng ngày ta có.

Giữ cho nhau những giây phút tươi vui.

Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc.

Vì đời ta đã sống trọn kiếp người.

Với tất cả tấm lòng thành thương mến.

Đến mọi người xa lạ cũng như quen.

 Ta là Cát ta sẽ về với Bụi.

Trả trần-gian những cay đắng muộn phiền.

Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy.

Không còn buồn lo lắng chốn trần-ai!”

  Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ suy-tư nghĩ-ngợi

Chuyện buồn vui cuộc đời

Rất hôm nay. 

Trung Quốc cấp visa 5 năm cho người ‘gốc Hoa’: Bước đi bành trướng mới?


Hành khách đông đúc tại nhà ga Hồng Kiều ở thành phố Thượng Hải, Trung Quốc, vào những ngày cuối năm âm lịch.

Hành khách đông đúc tại nhà ga Hồng Kiều ở thành phố Thượng Hải, Trung Quốc, vào những ngày cuối năm âm lịch.

Chính sách mới của Bắc Kinh đã nhận được nhiều bình luận trái chiều từ giới nghiên cứu quốc tế, trong khi một số học giả Việt Nam cho đây là một động thái “khôn ngoan, chiến lược”, nằm trong cốt lõi của “chủ nghĩa bành trướng Trung Hoa” và sẽ không dừng lại.

Đây là một chủ trương tôi nghĩ là khôn ngoan, thậm chí là một tính toán hết sức chiến lược để thu hút nhân tài của người Hoa ở khắp nơi trên thế giới.
TS. Trần Công Trục

Thông báo của Bộ Công an Trung Quốc được tờ báo nhà nước China Daily đăng tải cho hay bên cạnh số Hoa kiều đã có quốc tịch ở nước sở tại, mọi công dân nước ngoài khác, cho dù không phải là công dân Trung Quốc trước đây nhưng chỉ cần có bố, mẹ, ông, bà, cụ, kỵ, bất kể bao nhiều đời, là người Trung Quốc và có giấy tờ chứng minh, thì sẽ được xem là người “gốc Hoa” và được hưởng chính sách ưu đãi thị thực trên.

Tranh giành nhân tài

Nhận định về chính sách mới này, một chuyên gia về Trung Quốc ở Việt Nam, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ, cho rằng đây là một trong những chính sách chiến lược nhằm thu hút nhân tài của Bắc Kinh.

Ông nói: “Đây là một chủ trương tôi nghĩ là khôn ngoan, thậm chí là một tính toán hết sức chiến lược để thu hút nhân tài của người Hoa ở khắp nơi trên thế giới”.

ABC News dẫn lời một số doanh nghiệp nước ngoài ở Trung Quốc cho biết họ hoan nghênh chính sách mới về visa vì tiết kiệm được thời gian và tiền bạc so với trước đây, khi họ liên tục phải xin gia hạn thị thực trong thời gian làm việc hay kinh doanh ở Trung Quốc.

Ngoài ra, một số ý kiến khác cho rằng chính sách mới là một phần trong chiến lược “quyền lực mềm” nhằm giúp Trung Quốc tiếp cận được với nguồn lực nhân tài trên thế giới để thực hiện mục tiêu trở thành cường quốc về khoa học và kỹ thuật, nhưng đồng thời cũng tạo ra một “cuộc tranh giành nhân tài” trên toàn cầu.

Chủ nghĩa bành trướng Trung Hoa

Tuy nhiên, một số học giả quốc tế khác lại tỏ ra thận trọng khi nhận định về chính sách thị thực mới.

Tiến sĩ Chongyi Feng của trường Đại học Kỹ thuật Sydney, Úc, nói với ABC News rằng ông nghi Bắc Kinh sẽ có sự “phân biệt” trong việc cấp visa cho người nước ngoài gốc Hoa, trong đó những người bị xem là “bất đồng chính kiến” sẽ bị loại ra khỏi chính sách ưu đãi này.

TS. Feng nói: “Nếu đây là một chính sách mới, thì nên được áp dụng cho tất cả mọi người, chứ không nên chỉ nhắm vào những người được gọi là ‘yêu nước’, hoặc các lãnh đạo cộng đồng [Hoa kiều] đang tham gia vào sự phát triển của đất nước Trung Quốc”, theo ABC News.

Nó là chính sách nằm trong cốt lõi của chủ nghĩa bành trướng của người Trung Quốc. Tuy nhiên, thế giới và các nước cụ thể có những bước tiến làm ảnh hưởng tới quốc gia của họ, trong đó có Việt Nam.
TS. Hà Hoàng Hợp

Trong khi đó, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS), cho rằng chính sách mới của Bắc Kinh “không có gì mới”, nếu đặt trong bối cảnh lịch sử mối quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam.

Ông nói:

“Trước năm 1975, người Trung Quốc đã áp dụng cách đó và nhiều cách khác để nhằm che chở và bảo vệ người gốc Hoa, bất kể họ là công dân hay không là công dân Trung Quốc. Đấy là một chính sách không có gì mới. Nó là chính sách nằm trong cốt lõi của chủ nghĩa bành trướng của người Trung Quốc. Tuy nhiên, thế giới và các nước cụ thể có những bước tiến làm ảnh hưởng tới quốc gia của họ, trong đó có Việt Nam”.

Lịch sử cận đại đã chứng kiến làn sóng di cư của hàng chục triệu người Hoa ra các nước trên thế giới để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Việt Nam cũng là điểm đến của một số nhỏ trong làn sóng này.

TS. Hà Hoàng Hợp cho biết thêm:

“Sau năm 1975, đã xảy ra rất nhiều chuyện làm cho người Hoa phải bỏ đất nước này mà đi. Đặc biệt ở miền Bắc, chính quyền miền Bắc rất cảnh giác với người gốc Hoa, đến nỗi để xảy ra chuyện năm 1979, một trong những nguyên nhân khiến cho lãnh đạo Trung Quốc, lúc bấy giờ là Đặng Tiểu Bình, đưa quân vào đánh, xâm lược các tỉnh miền Bắc của Việt Nam trong bốn mươi mấy ngày với lý do trừng phạt Việt Nam vì phân biệt đối xử đối với người Hoa”.

“Sau khi có bình thường quan hệ giữa hai nước vào năm 1991, người ta cũng có cách để làm sao vừa đảm bảo sự phát triển giữa quan hệ con người với con người, giao lưu văn hóa, tác động về mặt xã hội, hợp tác phát triển, mà vẫn đảm bảo được lợi ích quốc gia của các phía”.

TS. Hà Hoàng Hợp cho rằng việc cấp visa 5 năm chỉ là một bước nhỏ trong tham vọng bành trướng của Bắc Kinh. Ông dự đoán trong tương lai, Trung Quốc sẽ tiếp tục có những bước đi mạnh hơn nữa để thực hiện tham vọng này.