Hạnh phúc và cuộc đời

Hạnh phúc và cuộc đời

Cao-Đắc Tuấn (Danlambao) – Tóm Lược: Hạnh phúc được coi là mục tiêu chính yếu của cuộc đời nhưng có nhiều vấn đề trong việc đi tìm hạnh phúc. Các cuộc thăm dò và xếp hạng các quốc gia trên thế giới cho biết người dân trong mỗi quốc gia đánh giá trị cuộc sống của họ thế nào. Nhiều nghiên cứu và tìm tòi về hạnh phúc qua triết lý, khoa học, và tôn giáo cho thấy có một số điểm tương đồng. Qua những nghiên cứu này, chúng ta có thể thiết lập một hệ thống lý thuyết và thực hành căn bản trong việc mưu cầu hạnh phúc. Hầu hết các học thuyết này giới hạn với cá nhân và không đề cập đến hạnh phúc của một xã hội hoặc dân chúng trong một quốc gia. Tuổi trẻ cần phải chuẩn bị cho cuộc đấu tranh chống chế độ cộng sản tại Việt Nam khi đi tìm hạnh phúc bằng cách phát huy những cảm xúc tích cực và tiêu hủy những cảm xúc tiêu cực.

*

Hạnh phúc thường được coi là mục tiêu của cuộc sống. Quốc gia nào với chính quyền có trách nhiệm đều muốn dân mình hưởng hạnh phúc. Bản Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ có câu: “Chúng tôi tin những sự thật này hiển nhiên, rằng mọi người sinh ra bình đẳng, rằng họ được Thượng đế ban cho những Quyền không thể tách rời được, rằng những quyền này gồm có Sự Sống, Tự Do và mưu cầu Hạnh Phúc.” Nước Bhutan nhấn mạnh tầm quan trọng của hạnh phúc khi chính quyền dùng Tổng hạnh phúc quốc gia (Gross National Happiness, GNH) là mục tiêu của chính quyền xác định trong Hiến pháp (Wikipedia 2018a).

Một cách tổng quát, hạnh phúc thường được định nghĩa là sự sung sướng, toại nguyện hoặc thỏa mãn về cuộc sống, sự an bình và thoải mái trong đời, mức độ thoải mái chủ quan, hoặc đạt được những mong ước và có những vui thú (Argyle 2009, 1, 8). Những yếu tố khách quan về sự thỏa mãn gồm có: tiền bạc, sức khoẻ, việc làm, các mối liên hệ xã hội (thí dụ, hôn nhân, tình bạn), sự nhàn rỗi, nhà cửa, và giáo dục (Argyle 2009, 44-46). Hài hước cũng là một yếu tố của hạnh phúc và là trạng thái trí tuệ tốt đẹp (Argyle 2009, 54). 

Người ta thường nghĩ rằng những thành công vật chất trong đời như tiền bạc, địa vị sẽ đem lại hạnh phúc. Tuy nhiên, những nghiên cứu khoa học, triết lý, và các cuộc thăm dò ý kiến cho thấy mối liên hệ ngược lại: chính hạnh phúc đem lại thành công và nhiều kết quả tốt đẹp khác. Trong vài nghiên cứu, “hạnh phúc và ý nghĩa cuộc đời được chấm quan trọng hơn nhiều so với tiền bạc, đạo đức, và ngay cả lên thiên đàng” (Argyle 2009, 1). Do đó, trong cuộc sống, hạnh phúc không xoay quanh thành công, mà ngược lại: chính thành công xoay quanh hạnh phúc như trái đất xoay quanh mặt trời (Achor 2010, 37-38).

  1. Chỉ số hạnh phúc:

Vì hạnh phúc là mục tiêu quan trọng trong cuộc sống người dân, có nhiều nghiên cứu hoặc thăm dò dân chúng trên thế giới để xếp hạng quốc gia trên thế giới bằng cách dùng những chỉ số hoặc điểm trung bình đánh giá hạnh phúc của người dân trong mỗi quốc gia. Những bảng xếp hạng này thường chỉ có giá trị tương đối vì các cuộc thăm dò dựa vào một số phần trăm rất nhỏ trong dân số mỗi quốc gia. Ngoài ra, quan điểm và tiêu chuẩn về hạnh phúc của mỗi người khác nhau; do đó, khó có một kết luận chính xác. Dù sao, kết quả các bảng xếp hạng này cho chúng ta một cái nhìn tổng quát về người dân trên thế giới đánh giá trị cuộc sống của họ thế nào.

Một bảng xếp hạng dựa vào Happy Planet Index (HPI), tạm dịch Chỉ số hành tinh hạnh phúc (CSHTHP), thường gây lẫn lộn (Xem, NEF 2012; 2016). Tổ chức NEF công bố bảng xếp hạng khoảng 140 quốc gia trên thế giới vào năm 2012 và 2016 (Xem, NEF 2012; 2016). Việt Nam xếp hạng 2 trong bảng xếp hạng năm 2012 và hạng 5 trong bảng xếp hạng 2016. Kết quả này khiến nhiều người, nhất là dân Việt Nam và nhóm cầm quyền cộng sản (NCQCS) tại Việt Nam, ngạc nhiên.

Thực ra bảng xếp hạng dựa vào HPI gần như không có giá trị gì hết. HPI “không thực sự cho biết quốc gia nào hạnh phúc nhất, hoặc có nền an sinh (well-being) cao nhất, mà chỉ cho biết mức độ hữu hiệu một quốc gia tiêu thụ những tài nguyên sinh thái (ecological resources) để hỗ trợ một mức độ hạnh phúc nào đó” (Rampell 2009). HPI, do đó, không phải là chỉ số cho thấy người dân tại một quốc giả cảm thấy hạnh phúc. Ngoài ra, ngay cả trong việc tính toán HPI, có nhiều chỉ trích, nhất là việc dùng diện tích sinh thái (ecological footprint) trong công thức cho HPI (Xem thí dụ như, Lewis 2010; Pearce 2013). Tóm lại, bảng xếp hạng theo CSHTHP không dính líu gì đến mức độ hạnh phúc người dân trong một quốc gia theo ý nghĩa thông thường về cuộc sống.

Có hai bảng xếp hạng liên hệ trực tiếp đến mức độ hạnh phúc của người dân trong một quốc gia. Bảng thứ nhất do cơ quan United Nations Sustainable Development Solutions Network của Liên Hiệp Quốc (LHQ) (Wikipedia 2018b), sau đây gọi là bảng xếp hạng Sustainable Development Solutions Network (SDSN). Bảng thứ nhì do Ruut Veenhoven, một nhà nghiên cứu về hạnh phúc tại các quốc gia, thành lập (Veenhoven 2014), sau đây gọi là bảng xếp hạng Ruut Veenhoven (RV). Bảng xếp hạng SDSN và RV có kết quả từng quốc gia khác nhau, nhưng theo tương đối và tổng quát, hai bảng xếp hạng này khá giống nhau. Tôi ghi các kết quả này vào Excel spreadsheet và tính hệ số tương quan (correlation coefficient) giữa hai bảng xếp hạng. Hệ số tương quan của hai bảng là 0.87 cho thấy thứ hạng các quốc gia không chênh lệch nhiều lắm. Theo tôi, bảng xếp hạng SDSN được cập nhật hóa hơn và phản ảnh theo sát thời gian hiện nay hơn. Phần sau đây chỉ thảo luận về bảng xếp hạng SDSN. Độc giả muốn biết thêm về bảng xếp hạng RV có thể tham khảo thêm (Xem, thí dụ như, Veenhoven 2014).

Bản báo cáo về hạnh phú thế giới của SDSN (Helliwell, Layard, và Sachs 2017) trình bày chi tiết cách thức tính toán chỉ số (điểm) hạnh phúc các quốc gia trên thế giới. Bảng xếp hạng dựa vào kết quả thăm dò khoảng 1.000 người dân trong mỗi quốc gia. Mỗi người tự đánh giá cuộc đời của mình theo thang điểm Cantril bằng cách trả lời câu hỏi: “Bạn hãy tưởng tượng một thang với bực thang đánh số từ 0 dưới cùng tới 10 ở trên đỉnh. Đỉnh thang tiêu biểu cuộc sống tốt đẹp nhất có thể được cho bạn và bực dưới cùng tiêu biểu cuộc sống tệ nhất có thể được cho bạn. Ở bực thang nào bạn cho rằng bạn đang đứng tại thời điểm này?” (Helliwell, Layard, và Sachs 2017, 9). 

Hính 1 cho thấy kết quả bảng xếp hạng SDSN cho 155 quốc gia (Helliwell, Layard, và Sachs 2017, 20-22; Wikipedia 2018b) và RV cho 158 quốc gia (Veenhoven 2014). Trong bảng xếp hạng SDSN, Việt Nam đứng hạng 94 xa dưới trung bình. Trong bảng xếp hạng VR, Việt Nam đứng hơn trung bình một ít. ác bảng xếp hạng, chỉ số, hoặc số điểm này không hoàn toàn chính xác và có “những kết quả rất đáng ngờ, nhất là về các so sánh quốc tế” (Argyle 2009, 2). Tuy nhiên, các cuộc thăm dò này cũng cho thấy kết quả tương đối và phản ảnh phần nào thực tế.

Hình 1: Thứ hạng và điểm về hạnh phúc tại vài quốc gia

Dựa vào những thống kê về Tổng Sản Lượng Nội Địa trên đầu người (Gross Domestic Product per capita) (Wikipedia 2018c), tôi tính hệ số tương quan (correlation coefficient) giữa điểm số đánh giá cuộc sống (chỉ số hạnh phúc) của SDSN và GDP mỗi đầu người (mức độ giàu có) để xem hai thông số này liên hệ với nhau thế nào. Kết quả là hệ số tương quan = 0.7; nghĩa là khá cao, nhưng không liên hệ mật thiết lắm.

Những bảng xếp hạng, chỉ số, hoặc hệ số tương quan chỉ cho thấy một khía cạnh nào đó. Các con số này không trả lời được những câu hỏi phức tạp hơn. Thí dụ, mức giàu có dẫn đến hạnh phúc, hay hạnh phúc dẫn đến mức giàu có? Chúng ta có thể không có được câu trà lời rõ rệt, nhưng có thể có được một sự hiểu biết sâu xa về vấn đề giúp phần nào trong việc tìm câu trả lời. Để làm được việc đó, chúng ta cần xem xét hạnh phúc dưới lăng kính tỉ mỉ và đa chiều hơn. Thí dụ, xem xét hạnh phúc qua nhiều quan điểm.

  1. Hạnh phúc qua các quan điểm:

Có nhiều tài liệu, sách vở, và nghiên cứu về hạnh phúc và cách đạt hạnh phúc trong cuộc đời hoặc các môi trường sống trong xã hội như gia đình, nơi làm việc. Tài liệu về hạnh phúc thường xoay quanh các chủ đề chính như lý thuyết về hạnh phúc, cách sống để đạt hạnh phúc, và liên hệ giữa hạnh phúc với con người và cuộc đời. Trong phần sau đây, tôi sẽ chỉ trình bày một cách sơ lược về những thảo luận về hạnh phúc qua các quan điểm chính yếu: triết học, khoa học (y khoa, tâm lý học, xã hội học), và tôn giáo.

  1. Hạnh phúc qua triết học:

Hạnh phúc là đề tài đã khiến nhiều triết gia tốn bút mực từ bao thế kỷ. Một triết gia từng nói, “Nếu triết học không giúp chúng ta hạnh phúc, hoặc kém hạnh phúc, thì triết học có ích lợi gí?” (Lenoir 2016, 10). 

Socrates (469-399 TCN (Trước Công Nguyên)) tin rằng hạnh phúc là cái mà ai cũng muốn và không phải là những gì bên ngoài như quần áo, danh vọng, sắc đẹp, mà là sự thỏa mãn kiến thức qua trí tuệ sáng suốt và đức tính. Ông lý luận rằng cuộc sống không đúng đắn dẫn đến bất hạnh trong khi sống đúng đắn đưa đến hạnh phúc (POH a; Cahn và Vitrano 2008, 3). Tương tự, Plato (428-347 TCN) tin rằng sự đúng đắn (có nghĩa là có đạo đức tốt và có đức hạnh) cần thiết cho hạnh phúc. Theo Plato, tâm thần có ba phần riêng rẽ: suy luận là phần có nhiệm vụ lý luận và suy nghĩ chín chắn, tâm linh là phần cảm xúc, giúp con người hành động theo lệnh từ suy luận, và thèm muốn là phần không có lý trí, lôi kéo chúng ta vào việc thỏa mãn các thú vui (Vitrano 2014, 40). Plato chủ trương rằng ba phần đó hoạt động cùng với nhau để đem lại thăng bằng cho linh hồn và đưa đến hạnh phúc. Thí dụ, suy luận và tâm linh hợp tác để khắc chế thèm muốn (tlđd., 40). Một người không đúng đắn lúc nào cũng đòi hỏi những cái sai lạc, lúc nào cũng cảm thấy ngập lội trong ham muốn (tlđd, 41).

Aristotle (384-322 TCN) đặt ra câu hỏi: “Mục đích tối thượng của sự hiện hữu của con người là gì?” Aristotle trả lời rằng hạnh phúc là mục đích tối thượng của cuộc sống và nếu đạt được, chỉ có thể đạt được khi cuộc đời kết thúc. Theo Aristotle, hạnh phúc được định nghĩa là “một hoạt động của tâm hồn theo đức hạnh ” (POH b). Hạnh phúc là sự thực hành của đức tính (Cahn và Vitrano 2008, 31; POH b). Do đó, con người không thể có hạnh phúc nếu còn sống hoặc chưa có cuộc sống đạo đức tạo bởi những đức tính như can đảm, rộng rãi, công lý, và tình bằng hữu (POH b). Ta nên để ý Aristotle dùng từ ngữ eudaimonia để diễn tả hạnh phúc (Achor 2010, 40; SEP 2014). Từ ngữ Hy Lạp eudaimonia được dịch sát nghĩa là sống thánh thiện, và có ý nghĩa phát huy con người (human flourishing). Thực ra, Aristotle không có ý gán ghép ý tưởng thần thánh, mà chỉ ngụ ý sống thoải mái, tốt đẹp (SEP 2014).

Chủ nghĩa khoái lạc (hedonism) – tối đa hóa thú vui và tối thiểu hóa đau buồn – được diễn giảng hàng ngàn năm trước đây bởi Aristippus (435 – 366 TCN) và thảo luận chi tiết bởi Epicurus (342-270 TCN) (Peterson 2006, 78). Chủ nghĩa khoái lạc đóng góp vào hạnh phúc lâu dài kém hơn eudaimonia (Peterson 2006, 79). Epicurus phân tích hạnh phúc dựa vào niềm vui thích (pleasure). Một cuộc đời hạnh phúc trước tiên là một cuộc đời mang lại niềm vui thích. Thế nào là niềm vui thích? Thưởng thức kem, thỏa mãn đòi hỏi sinh lý, say sưa coi phim, nghe nhạc, học các điều mới lạ, chơi thể thao, v.v… Tuy nhiên, vì niềm vui thú chỉ tạm thời và thay đổi, nó không thể là cái hướng dẫn duy nhất cho cuộc sống (Lenoir 2016, 19-21). 

Ngoài các lý thuyết về hạnh phúc của các triết gia Hy lạp trên, có nhiều lý thuyết khác chú trọng vào các khía cạnh của hạnh phúc. Lucius Seneca (3 BC – AD 65), triết gia sinh tại Tây Ban Nha, lý luận rằng “hạnh phúc thực sự được xây dựng trên đức tính” (Cahn và Vitrano 2008, 43, 51). Lý thuyết mong ước (desire theory) cho rằng hạnh phúc là việc đạt được cái bạn muốn, cho dù cái đó có dính líu đến thú vui hay không (Peterson 2006, 82). Lý thuyết cuộc sống lành mạnh chủ quan (subjective well-being), thỏa mãn cuộc sống (life satisfaction) (Peterson 2006, 84). Immanuel Kant (1724-1804) tin rằng hạnh phúc phải theo lý trí và không có chút ô uế cá nhân. 

John Stuart Mill (1806 – 1873), triết gia Anh, “nhấn mạnh rằng các sự vui thú khác nhau theo định lượng và các sự vui thú cao cả, như niềm vui trí thức, tưởng tượng, và cảm xúc đạo đức, là nguồn gốc của hạnh phúc thực sự, trong khi các sự vui thú thấp kém chỉ là sự hài lòng” (Cahn và Vitrano 2008, 121). Arthur Schopenhauer (1788-1860), triết gia Đức vào thế kỷ thứ 19, tin rằng bản chất con người khiến ta hạnh phúc hoặc không hạnh phúc (Lenoir 2016, 51-52). Thí dụ, một người cảm thấy hạnh phúc khi nhìn lá vàng rơi vào mùa thu. Một người khác, đối diện cùng cảnh tượng, không thấy một chút cảm xúc gì hết, và có thể còn cảm thấy khó chịu.

Những triết gia hiện đại có nhiều tranh cãi về đề tài hạnh phúc. Tôi không muốn đi sâu vào khía cạnh này. Độc giả có thể tra cứu và tìm hiểu thêm qua các tài liệu và sách vở về triết lý hạnh phúc (Xem, thí dụ như, Cahn và Vitrano 2008, Vitrano 2014)

Nói tóm lại, các triết gia, thời xưa và thời nay, hầu như chỉ đồng ý về một điểm: hạnh phúc là mục tiêu quan trọng nhất trong cuộc đời. Ngoài ra, họ không đồng ý với nhau về nhiều điểm. Các điểm tranh cãi chính gồm có: (1) liên hệ giữa hạnh phúc và đạo đức, đức tính; (2) khác biệt giữa hạnh phúc và vui thú; (3) Cách thức đạt được hạnh phúc. Tuy nhiên, những khác biệt này thường không phản ảnh sự đả kích kịch liệt mà chỉ phản ảnh những chú trọng khác nhau. Ngoài ra, đạo đức thường được coi là yếu tố quan trọng trong hạnh phúc

  1. Hạnh phúc qua khoa học:

Khoa học đóng một vai trò quan trọng trong việc nghiên cứu và tìm hiểu về hạnh phúc. Những ngành khoa học đóng góp trong việc tìm hiểu về hạnh phúc gồm có ngành sinh hóa, y khoa về trí não và tâm thần, ngành tâm lý học, và các ngành khác như khoa học điện toán, vật lý, hóa học. “Khoa học hiện đại cho thấy khả năng tự nhiên của chúng ta về hạnh phúc bị ảnh hưởng bởi sự thừa hưởng di truyền và bởi những bài tiết hóa học trong cơ thể ta” (Lenoir 2016, 67). Trong bài này, tôi sẽ chỉ chú trọng về ngành tâm lý học và y khoa (về bộ não và tâm thần).

  1. a) Tâm lý học tích cực (positive psychology):

Một trong những ngành khoa học đang thịnh hành trong việc tìm hiểu hạnh phúc là ngành tâm lý học tích cực. Đại khái, tâm lý học tích cực là một ngành khoa học nghiên cứu về cuộc đời từ lúc mới sinh ra tới lúc chết, với đề tài về những sự việc khiến đời đáng sống (Peterson 2006, 4).

Tâm lý học tích cực chú trọng vào phát huy những cảm xúc tích cực (có lợi hoặc tốt đẹp) và tiêu diệt hoặc kiềm hãm những cảm xúc tiêu cực (bất lợi hoặc xấu xa). Cảm xúc tích cực đóng vai trò quan trọng trong hạnh phúc. Có nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy cảm xúc tích cực đem lại sung sướng, hài lòng, sức khỏe, và sống lâu. Seligman (2013, 11, 133) xác định sáu đức tính cho nhân cách tích cực: hiểu biết và kiến thức, lòng can đảm, tình yêu thương và nhân bản, công lý, sự điều độ, và duy linh và siêu việt.

Nhiều nhà nghiên cứu tâm lý tích cực đưa ra công thức hạnh phúc: H = S + C + V. Ý nghĩa của các biến số này như sau: H là mức độ hạnh phúc, S là điểm sinh hóa di truyền của bạn, C là các điều kiện, trường hợp, hoặc hoàn cảnh bạn; và V là những hoạt động tự ý hoặc cố tình của bạn (Haidt 2006, 91). Sonja Lyubomirsky, một học giả tâm lý học nổi tiếng, khẳng định các con số này theo phần trăm như sau: S = 50%, C = 10%, và V = 40% (Lyubomirsky 2008, 20). Tuy có tài liệu cho biết S = 25%, C = 10% – 15%, và V = 60% – 65% (Ricard 2007, 170), tôi sẽ dùng các con số của Lyubomirsky. Ba con số này cho thấy số phần trăm của những sự khác biệt giữa các mức độ hạnh phúc của con người do bởi điểm sinh hóa di truyền (S), điều kiện hoặc hoàn cảnh (C), và những hoạt động tự ý hoặc cố tình (V) mỗi người. 

Điểm quan trọng của các con số trên là tiềm năng của V = 40% trong vòng khả năng kiểm soát của chúng ta (Lyubomirsky 2008, 22). Chúng ta sinh ra với bản chất di truyền và nếu không luyện tập, thường khó thay đổi bản chất này. Một người bi quan sống bình thường khó thay đổi để trở thành lạc quan. Tuy nhiên, nếu cố gắng luyện tập chúng ta có thể thay đổi hành vi, lối sống, thói quen, và huấn luyện để gia tăng hạnh phúc, và có thể thay đổi phần nào bản chất di truyền. Ngoài ra, chúng ta còn có 40% để phát huy và tăng cường thêm những cảm xúc. Với 40% này, chúng ta có dịp đạt được hạnh phúc cao nếu biết cách sống và áp dụng những phương pháp tăng cường hạnh phúc. Rất nhiều sách vở, lớp học, chương trình giúp con người gia tăng hạnh phúc trong đời.

Lyubomirsky (2008) liệt kê những hoạt động hạnh phúc mà chúng ta có thể thực hiện trong khả năng 40% trên. Bà đưa ra 12 hoạt động hạnh phúc. Thí dụ, biểu lộ lòng biết ơn, xây đắp niềm lạc quan, tránh né suy nghĩ quá nhiều và so sánh trong xã hội, thực hành các hành động tử tế, thực hành tôn giáo và tâm linh, và chăm sóc cơ thể bạn. 

Argyle (2009, 200-214) trình bày nhiều cách giúp phát huy hạnh phúc: phương tiện tạo phát tâm trạng, biến cố hoặc việc xảy ra trong cuộc sống, và chăm lo hạnh phúc. Thí dụ của các phương tiện tạo phát tâm trạng: Phim truyện, tưởng tượng, âm nhạc, tương tác xã hội (tlđd., 200). Những biến cố hoặc sự việc trong đời (đi du lịch, hôn nhân, sinh con, ra trường) có thể đem lại hạnh phúc lâu dài hoặc tạm thời (tlđd., 203-207). Các cách phát huy hạnh phúc thường có tính chất huấn luyện, tập cho con người có thói quen và hoạt động đều đặn để duy trì tâm trạng khoan khoái, thoải mái, và yêu đời. Thí dụ, nghe nhạc hàng ngày, chạy bộ đều đặn, mỉm cười với mọi người, học một thú tiêu khiển, đi uống cà phê với bạn bè, v.v… (tlđd., 208-213).

Achor (2010) đưa ra 7 nguyên tắc để đạt hạnh phúc. Thí dụ, hoạt động nhắm vào đạt hạnh phúc để luyện tập óc não, dùng trí tuệ thay đổi quan điểm, luyện tập óc não nhắm vào cơ hội, luyện tập và chuẩn bị đối phó với nghịch cảnh hoặc thất bại. 

Hanson (2013, 60-63) đưa ra một hệ thống tiếp thu (internalize) những kinh nghiệm tích cực trong tâm trí. Hệ thống này gồm có 4 bước hoặc giai đoạn: (1) cố có một kinh nghiệm tích cực bằng cách ghi nhận, để ý, hoặc cố tình tạo ra một kinh nghiệm tích cực nào đó (thí dụ, lắng tai nghe một ca khúc êm ái, đi thăm viếng cảnh thiên nhiên); (2) phong phú hóa (enrich) kinh nghiệm tích cực đó (thí dụ, nghe đi nghe lại một ca khúc ưa thích, ngắm cảnh tượng thiên nhiên thật lâu); (3) hấp thụ kinh nghiệm tích cực đó, cố tình khiến kinh nghiệm đó chìm sâu và trở thành một phần của bạn (thí dụ, cố tìm hiểu lới ca, nhịp điệu, và suy nghĩ về cách lựa chọn từ ngữ của nhạc sĩ); (4) kết nối vật liệu tích cực và tiêu cực để làm nổi bật kinh nghiệm tích cực và giảm thiểu hoặc xóa bỏ hoàn toàn những kinh nghiệm tiêu cực. Bạn có thể không cần bước 4, vì ba bước đầu cũng đủ. Ngoài ra, bước 4 thường nguy hiểm vì bạn đang cố xóa bỏ kinh nghiệm xấu bằng cách đối diện nó trực tiếp qua một kinh nghiệm tốt tương ứng, nhưng không có gì bảo đảm là kinh nghiệm tốt sẽ thắng.

  1. b) Bộ não và trí tuệ:

Những phương pháp gia tăng hạnh phúc qua những hành động nhắm vào cảm xúc tích cực thường đòi hỏi bạn có nỗ lực theo đuổi việc đó. Như trình bày ở trên, chúng ta không lựa chọn được hoặc khó làm gì với các bản chất di truyền hoặc sự việc xảy ra theo hoàn cảnh, nhưng chúng ta có khoảng 40% cho hoạt động tự ý hoặc cố tình trong việc thay đổi mức độ hạnh phúc. Câu hỏi là chúng ta có thể hoạt động tự ý hoặc cố tình đi ngược lại với bản chất di truyền hay không? 

Thí dụ, giả sử hà tiện là một đặc tính di truyền và bản chất bạn là hà tiện, chỉ muốn dành dụm tiền bạc cho bạn và gia đình. Bạn có thể tập luyện để trở thành rộng rãi và đem tiền giúp vào các quỹ từ thiện được không? Sẽ có người cho rằng nếu bản chất bạn là hà tiện, thì bạn sẽ không cân nhắc việc đem tiền giúp vào các quỹ từ thiện mà sẽ tìm một hành động tích cực khác. Tuy nhiên, mục đích chính của tâm lý học tích cực là bạn phải cố tìm một hành động tích cực, dù ban đầu bạn không thích lắm, và phát huy hoạt động đó. Ngoài ra, nhiều nghiên cứu khoa học gần đây cho thấy trí tuệ có thể thay đổi cấu trúc bộ não, và do đó tạo nên ảnh hưởng lâu dài nếu trí tuệ được dùng một cách có kỷ luật. Nói một cách dễ hiểu, chúng ta có thể sửa đổi “tính tình” hoặc bản chất mình, hoặc gia tăng và phát huy những đặc tính chưa được khai phá, để có cuộc sống hạnh phúc hơn. 

Thực vậy, khoa học đã chứng minh bộ não con người không cố định mà thay đổi (Xem, thí dụ như, Argyle 2009, Hanson và Mendius 2009, Klein 2006, Schwartz và Begley 2002). Biến tính thần kinh (neuroplasticity) là “khả năng bộ não thay đổi khắp cuộc đời một người. Thí dụ, hoạt động thần kinh liên hệ với một nhiệm vụ nào đó có thể được chuyển sang vị trí khác, tỉ lệ chất xám có thể thay đổi, và các khớp hoặc dây nối thần kinh có thể mạnh mẽ lên hoặc yếu đi theo thời gian (Wikipedia 2018d). Sự thay đổi được tạo ra từ nhiều lý do: cảm giác với môi trưòng, tập thể dục, thuốc điều trị, thiền định, tập luyện nhận thức, và tập luyện trí tuệ. Với mục tiêu trong việc phát huy hạnh phúc, tập luyện trí tuệ là cách thức dễ dàng và hữu hiệu nhất.

Ngoài việc các tế bào não tăng trưởng theo tuổi tác và các yếu tố sinh học khác, các phần của bộ não cũng thay đổi theo trí tuệ. Do đó, “bạn có thể dùng trí tuệ để thay đổi bộ não bạn cho tốt hơn” (Hanson và Mendius 2009, 6). Những khía cạnh chính yếu của khoa học não và trí tuệ về hạnh phúc gồm có: (1) Chúng ta có một “hệ thống hạnh phúc” trong trí não; (2) Chúng ta được chương định (programmed) cho các cảm xúc tốt đẹp; và (3) Bộ não con người có thể thay đổi cho dù trưởng thành (Klein 2006, xv). Những mạch (circuits) trong bộ não chúng ta thay đổi mỗi khi ta học hỏi thêm điều mới lạ và những liên kết mới được rèn luyện trong hệ thống tế bào thần kinh cùa chúng ta (Klein 2006, xvi). Những phần trong bộ óc có nhiều phần liên hệ đến sự phát triển đáp ứng về hưởng thụ, thưởng phạt, kích thích, cảm xúc, và biểu lộ tình cảm gồm có: vùng não dưới (hypothalamus), hạch hạnh nhân (amygdala), vỏ não trước (frontal cortex) (Argyle 2009, 14-15).

Để đạt hạnh phúc, chúng ta phải vận dụng trí tuệ hoạt động nhắm vào các mục tiêu phát huy những cảm xúc tích cực hoặc đem lại những kết quả tốt đẹp cho cuộc sống. Những hoạt động trí tuệ này không chỉ là tạm thời, trong giai đoạn ngắn, mà nên được kéo dài mãi mãi suốt đời. Những người chưa có những hoạt động trí tuệ này cần phải trải qua một thời kỳ huấn luyện để thay đổi trí tuệ. “Khi trí tuệ thay đổi, bộ não cũng thay đổi theo” (Hanson và Mendius 2009, 5). Những hoạt động trí tuệ này nhiều khi dẫn đến những kinh nghiệm mà bạn chưa từng bao giờ trải qua, và có thể bạn cho rằng bạn không thích hoặc không có khiếu về các hoạt động trí tuệ đó. Nên nhớ “hoạt động trí tuệ” không nhất thiết là hoạt động dùng trí não, nhưng là những hoạt động, trí não hoăc tay chân, đem lại những cảm xúc tích cực nào đó. Thí dụ, đi bộ dọc theo một con rạch với nước trong veo chảy róc rách là một hoạt động tay chân, nhưng việc đó đem lại một cảm xúc thanh bình và sảng khoái.

Ngoài ra, những kinh nghiệm tích tụ trong cuộc sống sẽ chạm trổ bộ não của bạn, và do đó uốn nắn trí tuệ bạn. Bạn sẽ không ý thức hầu hết tiến trình uốn nắn này (Hanson và Medius 2009, 67). Hoạt động tinh thần uốn nắn cơ cấu thần kinh theo nhiều cách. Thí dụ, khi các tế bào thần kinh (neurons) bắn hoặc kích động (fire) cùng lúc, chúng củng cố các khớp, hoặc dây nối, thần kinh (synapse) hiện có và tạo thêm synapses mới. Những synapses nào không hoạt động nhiều sẽ dần dần bị mất đi (Hanson và Mendius 2009, 72).

Một trong những phương pháp giúp cho sự thăng bằng trí tuệ và giúp cho bộ não trở nên tốt đẹp là thiền định (meditation). Thiền định đem lại những hậu quả tốt đẹp cho cơ thể và trí tuệ chúng ta. Những hậu quả tốt đẹp này gồm có: gia tăng chất xám trong các phần của bộ não; gia tăng các chức năng tâm lý về chú ý, lòng từ bi, và cảm thông; làm giảm cortisol liên hệ tới sự căng thẳng trong cuộc sống; tăng cường hệ thống miễn nhiễm; và giúp trong nhiều tình trạng y học (Hanson và Mendius 2009, 85).

  1. Hạnh phúc qua tôn giáo:

Sư hiểu biết của tôi chỉ dựa vào sách vở và tài liệu, và không phải do thực hành tôn giáo. Do đó, phần trình bày có thể thiếu sót. Rất mong độc giả thứ lỗi.

Các tài liệu gốc về Ki-tô giáo và Phật giáo thường được viết bằng ngôn ngữ lúc hai tôn giáo này được truyền bá lúc bấy giờ. Kinh thánh trong Ki-tô giáo được dịch từ tiếng Hebrew và qua nhiều ngôn ngữ khác như Hy lạp. Việc chuyển dịch một số từ ngữ sang tiếng Anh và tiếng Việt nhiều khi không được chính xác và không lột rõ hoàn toàn ý nghĩa. Thí dụ, “compassion” có nhiều nghĩa và có thể được dịch sang tiếng Việt là lòng thương người, nhân ái, từ bi, cảm thông, trắc ẩn. Thực ra, “compassion” cũng không hẳn chính xác khi được dịch từ tiếng Phạn Sankrit hoặc Nam Phạn Pali (Karuṇā) trong Phật giáo (Wikipedia 2018e) hoặc tiếng Hebrew (hamal, rachuwm) hoặc Hy Lạp (splanchnisomai) trong Ki tô giáo (Xem, Bible Study Tools). Trong bài này, tôi sẽ dùng lòng trắc ẩn và cảm thông (Ki-tô giáo), lòng từ bi và cảm thông (Phật giáo) cho compassion.

Hầu như tôn giáo nào cũng nhắm vào hạnh phúc con người, tuy từ ngữ “hạnh phúc” đôi khi không nêu ra rõ rệt. Vì giới hạn chiều dài bài, tôi không thể thảo luận mọi tôn giáo, mà chỉ có thể đề cập đến Ki-tô giáo và Phật giáo. 

  1. a) Ki tô giáo:

Khi những tín đồ Ki-tô giáo muốn học hỏi về hạnh phúc, họ đọc Kinh thánh, nhất là các sách Phúc âm (Wadell 2016, 2). Nhiều học giả và những nhà nghiên cứu thần học, kể cả Đức Giáo Hoàng Francis, Đức Giáo Hoàng thứ 266 của Công giáo, diễn giải rằng hạnh phúc được nhắc nhở và gói ghém đầy rẫy qua lời của Đức Chúa Trời và Chúa Giê-su với nhiều từ ngữ liên hệ đến hạnh phúc. 

Đại khái, hạnh phúc có thể được diễn tả bằng sự hân hoan, mừng rỡ, vui thích, khoái cảm, và hưởng phước lành. Alcorn (2015, 38-44), linh mục và tác giả về Kinh thánh và thần học, tin rằng nỗi hân hoan (joy), từ ngữ dùng nhiều trong Kinh thánh, có cùng ý nghĩa với niềm hạnh phúc (happiness) mặc dù nhiều học giả khác diễn giải ngược lại và còn coi niềm hạnh phúc tệ hơn hân hoan. Ngoài ra, hưởng phước lành (blessed) cũng đồng nghĩa với hạnh phúc (Alcorn 2015, 185-195; Pope 2017, 41).

Theo nhiều học giả, Kinh thánh cho thấy Đức Chúa Trời muốn chúng ta hạnh phúc. “Đức Chúa Trời cho thấy rõ rằng tìm hạnh phúc – hoặc niềm vui, thích thú, thú vui – qua tội lỗi thì sai lầm và vô ích. Nhưng tìm hạnh phúc trong Ngài thì tốt đẹp và đúng” (Alcorn 2015, 19). Saint Augustine (354-430) coi hạnh phúc là niềm hân hoan về chân lý. Augustine tin hạnh phúc không nằm với con người. Tìm kiếm Đức Chúa Trời là con đường đi đến hạnh phúc (Wadell 2016, 7-16). C.S. Lewis (1898-1963), một học giả gốc Ái Nhĩ Lan nổi tiếng, viết, “Nếu bạn sống cho chính bạn, trong dài hạn, bạn sẽ chỉ thấy hận thù, nỗi cô đơn, tuyệt vọng, cơn giận dữ, sự suy đồi, và mục nát. Nếu bạn đi tìm Đức Chúa Trời và bạn sẽ thấy được Ngài, và với Ngài. bạn đều hưởng được mọi việc” (Muehlenberg 2014).

Nhưng thế nào là đi tìm Đức Chúa Trời? Ai cũng hiểu từ ngữ “đi tìm Đức Chúa Trời” là một ẩn dụ cho việc thực hành theo ý Đức Chúa Trời qua lời giảng dạy của Chúa Giê-su, hoặc noi gương Chúa Giê-su. Augustine tin rằng “[y]êu kính Đức Chúa Trời hết lòng và trung thành là cuộc đời hạnh phúc vì Đức Chúa Trời là sự hoàn hảo và là điều thiện cao quý và tuyệt diệu nhất” (Wadell 2016, 12). Thomas Aquinas (1225-1274) tuyên bố rằng người hạnh phúc là người có được sự tốt đẹp cao quý nhất, và sự tốt đẹp đó chỉ có thể tìm thấy được ở Đức Chúa Trời (tlđd., 20). Aquinas “kết nối hạnh phúc với cuộc sống môn đệ, cuộc sống đi theo, học hỏi từ, và noi theo gương Chúa Giê-su” (tlđd.,, 24).

Đức Giáo Hoàng Francis (Pope 2017, 41) giảng dạy, “Chữ ‘hưởng phước lành,’ có nghĩa ‘hạnh phúc,’ xuất hiện chín lần trong Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giê-Su, bài giảng vĩ đại đầu tiên của Người (Matthews 5:1-12). Chữ đó như là một điệp khúc nhắc nhở chúng ta về lời kêu gọi của Đức Chúa Trời đi tới trước cùng với Người trên con đường dẫn đến hạnh phúc, cho dù có nhiều thử thách.” Bài Giảng Trên Núi của Chúa Giê-su (Matthew 5:1-12), do đó, gói ghém “kim chỉ nam” cho việc tìm hạnh phúc. Theo đó, chúng ta phải có thái độ ôn hòa, khao khát cho công chính, có lòng thương xót con người, chấp nhận mọi ngược đãi gây ra vì việc làm công chính của mình. “Chúng ta phải chịu nghèo, tang tóc, ngược đãi, và những nỗi khổ đau tương tự, thì chúng ta mới thấy được Đức Chúa Trời và hạnh phúc. Như Chúa Giê-su nói nhiều lần, chúng ta phải tự chối bỏ chính mình” (Muehlenberg 2014).

Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng than khóc, chịu nghèo túng, chấp nhận sỉ nhục. Đức Chúa Trời muốn chúng ta hưởng hạnh phúc qua những hành động hoặc thực hiện những công việc tốt đẹp như hôn nhân, ăn mừng, tiệc tùng, cười đùa, nhảy múa, ca hát, và hưởng các thú vui (Alcorn 2015, 225-232; 295-303). Kinh thánh đầy rẫy những hình ảnh vui thú, tiệc tùng, nhảy múa. Thí dụ như, “Và David nhảy múa trước Đức Chúa Trời” (2 Samuel 6:12-14), “Bò hoặc cừu hoặc rượu mạnh, bất cứ gì con thèm. Và con sẽ ăn trước Đức Chúa Trời và hoan hỉ” (Deuteronomy 14:24-26), “Bánh mì tạo ra cho tiếng cười, và rượu khiến đời vui lên” (Ecclesiastes 10:19), “Mọi người hãy vỗ tay! La hét với những ca khúc hân hoan náo nhiệt tới Đức Chúa Trời” (Psalm 47:1).

Đi tìm hạnh phúc là một cuộc hành trình phát huy những đức hạnh và tiêu diệt tội lỗi. “Cuộc đời tín đồ Ki-tô giáo là một cuộc hành hương, một cuộc tìm kiếm khám phá dần dần với nơi đến là sự gần gũi thiêng liêng mãi mãi với Đức Chúa Trời” (Wadell 2016, 86). Để hoàn tất cuộc hành trình, chúng ta phải có được những đức hạnh. “Chúng ta ai cũng có khuynh hướng thiện, nhưng có khuynh hướng thiện không đủ vì nó không bảo đảm chúng ta sẽ thực sự làm việc thiện, nhất là khi việc đó tốn kém hoặc khó khăn” (tlđd., 94-95). Chúng ta phải hành xử thiện theo một cách nào đó qua thời gian, khiến việc đó trở thành một thói quen (tlđd.),

Những đức hạnh nào cần thiết cho cuộc hành trình đi tìm Đức Chúa Trời? Có nhiều đức hạnh, nhưng sau đây là những đức hạnh quan trọng nhất: lòng cao thượng (magnanimity), lòng can đảm (courage), lòng trắc ẩn và cảm thông (compassion) (tlđd., 99-110). Một người cao thượng là người có tinh thần cho các hành vi cao quý, thí dụ như yêu thương, phục vụ, trung thành, hy sinh, và rộng rãi (tlđd., 99-100). Lòng can đảm không để nỗi sợ hãi điều khiển mình, và cho chúng ta sức mạnh để làm liều cho dù tự đặt mình vào nguy hiểm cho những việc thực sự quan trọng (tlđd.,, 102-103). Lòng trắc ẩn và cảm thông giúp chúng ta hiểu được nỗi đau khổ của người khác. “Đối với tín đồ Ki-tô giáo, lòng trắc ẩn và cảm thông không phải là một đức hạnh không bắt buộc mà là một cách hoàn hảo để noi gương Đức Chúa Trời” (tlđd., 109).

Ngoài những đức hạnh chính yếu trên, Kinh thánh vạch ra thực hành những đức hạnh khác. Thí dụ, tự kềm chế (Proverbs 25:28; 2 Peter 1:5-6); dâng hiến cuộc đời cho hạnh phúc người khác (Luke 6:31; Isaiah 58:10-11; Philippians 2:3-4); thí dụ “Đừng làm việc gì vì ưa tranh cãi hay vì tự cao, nhưng hãy khiêm nhường xem người khác cao hơn mình. Đừng chỉ quan tâm đến lợi ích của riêng mình, mà cũng quan tâm đến lợi ích của người khác nữa” (Philippians 2:3-4); bày tỏ lòng biết ơn; thí dụ, “cám ơn trong mọi trường hợp” (1 Thessalonians 5:18).

Một điểm chắc chắn là chỉ có chúng ta, với nỗ lực bản thân trong việc đi tìm hạnh phúc qua việc đi theo Đức Chúa Trời, mới có thể có hạnh phúc. Chúng ta không thể có hạnh phúc qua những phương tiện vật chất. “Hạnh phúc không thể mua được.” (Pope 2017, 18). Ngoài ra, trong việc “đi tìm Đức Chúa Trời,” chúng ta không nên trì hoãn. Chúng ta phải có can đảm hành động ngay tức khắc.”Hôm nay là thời gian cho hành động và thời gian cho lòng can đảm” (Pope 2017. 15). 

  1. b) Phật giáo:

Nhiều học giả coi Phật giáo không phải là một tôn giáo, và là một ngành triết lý sâu xa về con người và cuộc đời. Phật giáo khuyến khích con người không dựa duy nhất vào niềm tin và không đòi hỏi tin vào Thượng Đế (Hanson và Mendius 2009, 8). “Ý tưởng về Thượng Đế và ý tưởng về linh hồn là dấu hiệu của ngu si. Các ý tưởng này sai lầm và rỗng tuếch” (Dalai Lama và Carrière 2001, 58).

Phật giáo nói đến hạnh phúc một cách rõ rệt và vạch ra những phương pháp để đạt hạnh phúc (Dalai Lama và Chodron 2017, 4-5). Một tiền đề của Phật Giáo về hạnh phúc là “mục đích của sự hiện hữu con người là đi tìm hạnh phúc” (Dalai Lama và Cutler 2009, 16, 62). “Hạnh phúc thực sự đến từ sự thanh thản của tâm trí. Cách duy nhất để đạt được hạnh phúc là có lòng vị tha và từ bi” (Dalai Lama và Chan 2014, 229). 

Hạnh phúc thực ra là trạng thái trí tuệ (state of mind). Nói cách khác, chính trí óc, không phải các yếu tố bên ngoài, tạo ra hạnh phúc (Dalai Lama và Cutler 2009, 20; Haidt 2006, 87). Thí dụ, tiền bạc, một yếu tố bên ngoài, tự nó không đem lại hạnh phúc. Chỉ vì trí óc con người nghĩ đến việc dùng tiền bạc để giải quyết các vấn đề khó khăn (thí dụ, trả tiền nhà, chi phí y tế, mua xe) hoặc để thỏa mãn những ham muốn vật chất (thí dụ, nhà cao cửa rộng, ăn ngon mặc đẹp) nên con người tưởng rằng tiền bạc đem lại hạnh phúc. Một thí dụ khác, một lực sĩ điền kinh luyện tập cực khổ cho Thế Vận Hội. Chương trình luyện tập rất khó khăn, thường khiến người lực sĩ đau đớn thể xác, nhưng anh ta vẫn cảm thấy hạnh phúc. Cái cảm nhận hạnh phúc đó đến từ trí óc, và hoàn toàn không dính líu gì đến các yếu tố bên ngoài như tiền bạc, chức vị, thể xác. 

Do đó, để đạt hạnh phúc, nghĩa là đạt mục đích sống, chúng ta chỉ cần biết vận dụng trí óc. Con người có thể huấn luyện trí tuệ cho hạnh phúc. Tiến trình này có ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là học hỏi (learning) (Dalai Lama và Cutler 2009, 38, 220). Giai đoạn thứ hai là phát huy niềm tin (conviction) và kiên trì (determination). Giai đoạn thứ ba là hành động (action) qua nỗ lực (effort) (tlđd., 220). Để thực hiện tiến trình này, chúng ta phải có ý muốn mạnh mẽ. Ngoài ra, trí tuệ con người có khả năng tiếp nhận các quan điểm để đối phó nhiều vấn đề khác nhau. Thiền định là cách đối thoại tinh thần trong việc tiếp nhận các quan điểm cho nhiều trường hợp (tlđd., 234).

Một khái niệm căn bản trong Phật giáo là mọi việc trên đời đều có liên hệ lẫn nhau. Việc gì cũng có nguyên do (“nhân”) và hậu quả (“quả”). Mọi việc trong vũ trụ đều có liên hệ và tùy thuộc lẫn nhau. Không có gì tự dưng mà thành hoặc tự dưng biến mất (Ricard 2007, 63-64). Vì vậy, nỗi đau khổ của con người có lý do. Muốn đạt hạnh phúc, con người phải tiêu diệt nỗi khổ. Tứ diệu đế, hoặc bốn chân lý cao quý, là 4 chân lý về nỗi khổ và gồm có: Khổ đế (chân lý về các nỗi khổ), Tập đế (chân lý về nguồn gốc các nỗi khổ), Diệt đế (chân lý về diệt khổ), và Đạo đế (chân lý về con đường dẫn đến diệt khổ) (Batchelor 2015, 68; Dalai Lama và Chodron 2014, 39-59; Dalai Lama và Chodron 2017, 27-30; Keown 2013, 48-60; Wikipedia 2018f). Để đối phó với những nỗi khổ sẽ xảy ra (thí dụ, bệnh hoạn, chết), con người phải tập luyện và chuẩn bị dùng nhiều phương pháp. Thí dụ, dùng hình ảnh tâm trí, phát huy lòng yêu thương và lòng từ bi và cảm thông, và phát triển sức mạnh bên trong (Ricard 2007, 73).

Hạnh phúc và lòng từ bi và cảm thông (compassion) là hai khái niệm liên hệ chặt chẽ (Dalai Lama và Cutler 2009, xxvii). Với lòng từ bi và cảm thông, con người có thể phát huy những tình cảm tích cực như lòng tử tế, thương người, và thông cảm, và tiêu hủy hoặc làm suy yếu những trạng thái tiêu cực như giận dữ, hận thù, lo lắng, sợ hãi (Dalai Lama và Cutler 2009, 243). Những tình cảm tích cực phù hợp với bản chất con người, đem lại sức khỏe tinh thần và vật chất, và do đó đem lại hạnh phúc. Ngược lại, những phản ứng tiêu cực có thể phá hoại sức khỏe, và do đó làm suy giảm hạnh phúc (tlđd., 53-54, 242). Ta thấy về khía cạnh này, tâm lý học tích cực, Ki-tô giáo, và Phật giáo, trình bày ở trên, có nhiều điểm tương đồng.

Một cách phát huy lòng từ bi và cảm thông là hiểu được nỗi đau khổ của người khác. Ráng đặt mình vào vị trí người khác để cảm nhận nỗi đau khổ của người đó (tlđd., 88-89). Việc đó không dễ dàng nhưng bằng cách tập luyện qua suy tưởng dựa vào tính chất tương đồng của con người giữa mình và người đó, ta có thể thông cảm người khác (tlđd., 90). Ngoài ra, hạnh phúc và lòng vị tha (altruism) liên hệ mật thiết. Lòng ích kỷ là lý do chính yếu của sự đau khổ trong khi tình thương yêu vị tha là thành phần thiết yếu cho hạnh phúc thực sự (Ricard 2007, 203). Lòng từ bi và cảm thông còn giúp phát huy những đức tính khác như lòng can đảm, tự tin, hy vọng (Dalai Lama và Chodron 2017, 64-65)

Bên cạnh việc phát huy lòng từ bi và cảm thông, chúng ta cần phải tiêu diệt những nỗi khổ tạo ra bởi những cảm xúc tiêu cực. Nỗi khổ của con người thường do bởi tam độc (three poisons) gồm có: tham (attachment, greed, desire), sân (aversion, hatred), và si (delusion, ignorance) (Dalai Lama và Chodron 2017, 46-48; Tsering 2006, 45-54). Tham hoặc ham muốn thường do bởi những kỳ vọng thiếu thực tế (Dalai Lama và Chodron 2017, 47). Ham muốn phóng đại phẩm chất của vật ham muốn và do đó dễ gây ra bất mãn, nhất là sau khi đã đoạt được vật đó. Cứ thế, ta cứ luẩn quẩn trong bất mãn và ham muốn càng gia tăng (Tsering 2006, 53). Sân (giận dữ và thù ghét) là lực cản trở nhiều nhất trong việc phát huy lòng từ bi và chúng phá hủy sự phẳng lặng trí tuệ (Dalai Lama và Cutler 2009, 248; Tsering 2006, 65-80). Giận dữ có thể tích cực khi nó được thúc đẩy bởi ý thức trách nhiệm, nhưng thù ghét chẳng có lợi gì cả và luôn luôn tiêu cực. Chúng ta cần phải phát huy liều thuốc trị thù ghét. Hai liều thuốc đó là kiên nhẫn (patience) và chịu đựng hoặc nhẫn nhịn (tolerance) (Dalai Lama và Cutler 2009, 249). Si hiện hữu dưới nhiều hình thức như ngu dốt, nghi ngờ, đau buồn, khủng hoảng tinh thần, nghiện ngập, kiêu hãnh, tự cao, coi trọng bản ngã, sợ hãi và lo lắng (Tsering 2006, 60-62; Ricard 2007, 211). Đặc biệt, sợ hãi và lo lắng là hai cảm xúc tiêu cực và cần được khống chế. Để khống chế hoặc làm suy giảm chúng, ta cần có động cơ thích đáng và lòng chân thành. Một khi chúng ta phát triển động cơ tinh khiết và chân thành qua lòng tử tế, từ bi, thì chúng ta chẳng còn biết sợ hãi hoặc lo âu (Dalai Lama và Cutler 2009, 272-273).

Ngoài ra, một yếu tố quan trọng trong việc phát huy ý muốn mạnh mẽ là ý thức khẩn cấp (sense of urgency) (tlđd., 221). Chính cái ý thức khẩn cấp đó cho chúng ta một năng lực vĩ đại để chống lại mọi cản trở. Chúng ta thấy khái niệm khẩn cấp này cũng hiện diện trong lý thuyết Ki-tô giáo. 

Nói tóm lại, Phật giáo chủ trương con người có thể đạt được hạnh phúc bằng cách tận dụng trí tuệ, trau giồi và phát huy các cảm xúc tích cực và tốt đẹp (thí dụ, lòng từ bi, cảm thông, vị tha, khiêm tốn) và khống chế, tiêu diệt các cảm xúc tiêu cực xấu xa (thí dụ, ham muốn, giận dữ, thù ghét, kiêu hãnh, ích kỷ, sợ hãi, lo lắng). Giống như ngành tâm lý học tích cực và một số lý thuyết triết học về đức hạnh, và Ki-tô giáo, Phật giáo thúc đẩy con người hướng thiện bằng cách thực hiện việc này với ý thức sâu xa và mạnh mẽ, và luyện tập trí tuệ trong một tiến trình có kỷ luật.

  1. Thực hành việc tìm hạnh phúc trong xã hội:

Các quan điểm triết lý, khoa học, và tôn giáo về hạnh phúc trình bày ở trên có khá nhiều điểm tương đồng. Chúng cho chúng ta một khái niệm khá rõ ràng về hạnh phúc và phương pháp đạt hạnh phúc. Có hai khía cạnh trong việc áp dụng các học thuyết này: cá nhân và xã hội.

  1. a) Cá nhân:

Về phương diện cá nhân, chúng ta có thể áp dụng phương pháp nào thích hợp nhất với mình trong việc gia tăng hạnh phúc. Sự lựa chọn tùy vào xã hội chúng ta đang sống. Các phương pháp giúp phát huy hạnh phúc có vài chú trọng khác nhau, nhưng tựu trung cổ võ việc luyện tập trí tuệ. Luyện tập trí tuệ để phát huy các cảm xúc tích cực hoặc đức hạnh không phải là việc dễ. Tuy nhiên, chúng ta không cần sửa đổi thật nhiều trong thời gian ngắn. Chúng ta có thể tự đặt ra những bước nhỏ, rèn luyện với thời gian, và gia tăng cường độ dần dần.

Chúng ta cần biết rằng phát huy các cảm xúc tích cực hoặc đức hạnh không có nghĩa khiến chúng ta trở nên quá hiền lành, bạc nhược, hoặc hèn hạ. Ngược lại nữa là khác. Khi chúng ta luyện tập để có trí tuệ minh mẫn, mở lòng từ bi và cảm thông, diệt trừ sợ hãi, gần gũi với tâm linh siêu việt, chúng ta phát huy một ý chí mạnh mẽ và sức mạnh tinh thần. Lòng can đảm và chí khí được nung nấu, vì chúng ta biết lẽ phải thuộc về mình, và không có một bạo lực bất chánh nào có thể làm lung lay mình được.

  1. b) Xã hội:

Các lý thuyết về hạnh phúc không đặt nặng vào hạnh phúc của một cộng đồng, xã hội, dân tộc, hoặc quốc gia, và đều dựa vào một giả thiết căn bản: Cá nhân đang tìm hạnh phúc đó là người sống trong một xã hội ổn định, thanh bình, và trong một quốc gia có chính phủ thực sự lo lắng cho cuộc sống người dân, và cá nhân đó không phải lo âu về các tự do căn bản và quyền con người. 

Tuy nhiên, khi xã hội hỗn loạn, suy đồi, và chính phủ tham nhũng, cướp bóc dân, và công dân trong nước không có các tự do căn bản và quyền con người, thì cá nhân khó có thể theo đuổi mưu cầu hạnh phúc cho mình được. Thí dụ, dưới nền giáo dục nhồi sọ, dối trá lịch sử, tin tức bưng bít, truyền thông kiểm duyệt, bạn không thể nào thoả mãn kiến thức, theo đuổi những hoạt động văn chương nghệ thuật một cách tự do. Trong một xã hội không có công lý, luật lệ tuỳ nghi áp dụng, bắt bớ dựa vào những điều luật mơ hồ, bạn không thể nào theo đuổi công lý. Trong một môi trường ô nhiễm, sông ngòi dơ bẩn, đất đai đầy rẫy chất thải, cá chết khắp nơi, bạn không thể thưởng thức thiên nhiên trong sạch. Hàng ngày, bạn phải đối phó với biết bao nhiêu phiền toái, đường phố ồn ào, náo nhiệt, xe cộ kẹt cứng, cướp giựt, cảnh sát giao thông hạch hỏi vô cớ, lo tiền đóng lộ phí, v.v… và bạn sẽ không còn thì giờ và sức lực để theo đuổi những hoạt động tích cực, thanh nhã.

Việt Nam hiện nay là một quốc gia có xã hội bi đát như trên và do đó người dân rất khó theo đuổi hạnh phúc một cách tự do và theo ý muốn cá nhân được. Sẽ có người không đồng ý và cho rằng ảnh hưởng của hoàn cảnh hay tỉnh trạng chỉ đóng góp 10% cho hạnh phúc dựa vào công thức về hạnh phúc trong ngành tâm lý học tích cực. Do đó, cho dù NCQCS Việt Nam có những lỗi lầm trên, dân Việt chỉ bị mất đi 10% mà thôi. Ngoài ra, những người này có thể lý luận sự kiện dân Việt Nam xếp hạng 94 trong số 155 quốc gia, theo bảng xếp hạng SDSN, hoặc 74 trong số 158 quốc gia, theo bảng xếp hạng RV, cho thấy người dân có hưởng phần nào hạnh phúc tuy xếp hạng dưới trung bình. 

Các lý luận này hoàn toàn sai lầm vì NCQCS không những lấy đi 10% do hoàn cảnh và tình trạng, mà còn triệt tiêu cả 40% do các hoạt động cá nhân cố tình, và có thể tạo nên những hậu quả tiêu cực khiến phần di truyền 50% còn bị suy kém nhiều. Việc xếp hạng 94/155 hoặc 74/158 là nhờ bản chất lạc quan và/hoặc sức chịu đựng của dân Việt là tính chất di truyền đóng góp vào mức độ cảm nhận hạnh phúc. Nếu không nhờ bản chất lạc quan và/hoặc sức chịu đựng này, dân Việt còn xếp hạng thấp hơn nữa.

Tuy nhiên, tình trạng không đến nỗi tuyệt vọng. Người dân Việt Nam, nhất là giới trẻ, nên cố tìm hạnh phúc cho chính mình được phần nào hay phần nấy, và chuẩn bị cho cuộc nổi dậy để khôi phục lại chính nghĩa và những gì tốt đẹp của đất nước. Chỉ khi nào chế độ cộng sản sụp đổ, người dân Việt Nam mới có thể đạt được hạnh phúc hoàn toàn.

Việt Nam vẫn còn có nhiều cơ hội giúp tuổi trẻ phát huy những cảm xúc tích cực và tiêu diệt những cảm xúc tiêu cực. Thí dụ, với lòng trắc ẩn từ bi và cảm thông, tuổi trẻ có thể nung nấu lòng can đảm, rèn luyện ý chí tự tin, và hủy diệt sợ hãi và hèn nhát. Tuổi trẻ cần phải tìm hiểu sự thật về lịch sử, về bản chất lừa đảo và tàn bạo của chế độ cộng sản, và trân trọng những hy sinh cao quý của dân tộc, kể cả cuộc chiến đấu oai dũng của miền Nam và thể chế Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), trong cuộc chiến chống lại sự xâm lăng của cộng sản miền Bắc với sự hợp tác của cộng sản miền Nam, theo lệnh Nga Tàu. Hãy lắng tai nghe những bài hát thời VNCH, tìm hiểu lời ca ý nhạc và so sánh với những ca khúc cộng sản. Hãy đọc các tài liệu về tội ác cộng sản, về cuộc cải cách ruộng đất trong thập niên 1950, cuộc thảm sát Tết Mậu Thân tại Huế. Hãy quan sát những tệ trạng xã hội hiện nay, tình trạng giáo dục, ô nhiễm môi trường, tham nhũng. Đó là những hoạt động phát huy những cảm xúc tích cực và tiêu hủy những cảm xúc tiêu cực.

  1. Kết Luận:

Hầu hết mọi quan điểm triết lý, khoa học, và tôn giáo đều coi hạnh phúc là mục tiêu của cuộc sống. Có nhiều cuộc thăm dò và nghiên cứu về hạnh phúc cho cá nhân và so sánh các quốc gia trên thế giới. Khoa học cho thấy trí tuệ và bộ óc ảnh hưởng lẫn nhau. Do đó, những phương pháp vận dụng trí tuệ trong việc gia tăng hạnh phúc có thể cải thiện cơ cấu óc não và giúp cho việc duy trì hạnh phúc lâu dài.

Trong xã hội suy đồi, tham nhũng, kẻ cầm quyền cướp bóc dân, và công dân không có các tự do căn bản và quyền con người như Việt Nam, người dân Việt rất khó phát huy hạnh phúc chân chính. Tuy nhiên, tuổi trẻ là nguồn hy vọng lớn lao cho đất nước, và có thể gây dựng một lực lượng đấu tranh đáng kể chống lại chế độ cộng sản. Trong bài kế tiếp, tôi sẽ khai triển vấn đề về các phương pháp đấu tranh để đem lại hạnh phúc cho toàn dân, khi người dân bị kẻ cầm quyền đàn áp và tước đi những quyền căn bản của con người.

*

Tài Liệu Tham Khảo:

tlđd.: tài liệu đã dẫn, thay cho “sđd.” (sách đã dẫn) để chỉ tài liệu (sách, trang mạng, liên lạc riêng, v.v.) đã trích dẫn xuất hiện ngay trước trích dẫn này.

Achor Shawn. 2010. The Happiness Advantage. The Seven Principles that Fuel Success and Performance at Work. The Virgin Books. Random House, Inc., New York, NY., U.S.A.

Alcorn, Randy. 2015. Happiness. Tyndale House Publishers. Carol Stream, IL., U.S.A.

Argyle, Michael. 2009. The Psychology of Happiness. Reprinted 2nd edition. Routledge. East Sussez U.K.

Batchelor, Stephen. 2015. After Buddhism. Rethinking the dharma for a secular age. Yale University Press. New Haven, CT., U.S.A.

Cahn, Steven M. và Vitrano, Christine. 2008. Happiness. Classic and Contemporary Readings in Philosophy. Oxford University Press. New York, NY., U.S.A.

Dalai Lama, His Holiness The và Cutler, Howard C. 2009. The Art of Happiness, 10th Anniversary Edition. Hodder & Stoughton Ltd. London, U.K.

Dalai Lama, The và Chan, Victor. 2014.The Wisdom of Compassion – Stories of Remarkable Encounters and Timeless Insights. Riverhead Books, New York, NY. U.S.A.

Dalai Lama, The và Chodron, Thubten. 2014. Buddhism. One Teacher; Many Traditions.Wisdom Publications, Somerville, MA., U.S.A.

Dalai Lama, The và Chodron, Thubten. 2017. Approaching the Buddhist Path. Wisdom Publications, Somerville, MA., U.S.A.

Dalai Lama, His Holiness The và Carrière, Jean-Claude. 2001. Violence & Compassion – Dialogues on Life Today. Image Books, Doubleday, New York, NY., U.S.A.. 

Haidt, Jonathan. 2006. The Happiness HypothesisFinding Modern Truth in Ancient Wisdom. Basic Books. New York, NY, U.S.A.

Hanson, Rick. 2013. Hardwiring HappinessThe new brain science of contentment, calm, and confidence. Harmony Books, New York, NY., U.S.A.

Hanson, Rick và Mendius, Richard. 2009. Buddha’s Brain. The practical neuroscience of happiness, love, and wisdom. New Harbinger Publications, Inc., Oakland, CA., U.S.A.

Keown, Damien. 2013. Buddhism. A very short introduction. Oxford University Press. Oxford, U.K.

Klein, Stefan. 2006. The Science of Happiness. Translated by Stephen Lehmann. De Capo Press, Cambridge, MA., U.S.A.

Lenoir, Frédéric. 2016. Happiness. A philosopher’s guide. Translated by Andrew Brown. Melville House Publishing. Brooklyn, NY., U.S.A.

Lyubomirsky, Sonja. 2008. The How of Happiness. A New Approach to Getting the Life You Want. Penguin Books. New York, NY., U.S.A.

Peterson, Christopher. 2006. A Primer in Positive Psychology. Oxford University Press. New York, NY., U.S.A.

Pope Francis. 2017. Happiness in this life. Translated from the Italian by Oonagh Stransky. Random House, New York, NY., U.S.A.

Ricard, Matthieu. 2007. Happiness – A guide to developing life’s most important skill. Translated by Jesse Browner. Little, Brown, and Company. New York, NY., U.S.A.

Schwartz, Jeffrey M. và Begley, Sharon. 2002. The Mind & The Brain.Neuroplasticity and the Power of Mental Force. HarperCollins Publishers. New York, NY., U.S.A.

Seligman, Martin E.P. 2013. Authentic Happiness. Using the new positive psychology to realize your potential for lasting fulfillmemt. Simon & Schuster, New York, NY, U.S.A.

Tsering, Geshe Tashi. 2006. Buddhist Psychology. The foundation of Buddhist thought. Volume 3. Wisdom Publications, Somerville, MA., U.S.A.

Vitrano, Christine. 2014. The nature and value of happiness. Westview Press. Boulder, CO., U.S.A.

Wadell, Paul J. 2016. Happiness and the Christian Moral Life. An introduction to Christian ethics. Third Edition. Rowman & Littlefield. Lanham. MD., U.S.A.

NGUỒN INTERNET

Cần lưu ý rằng nguồn Internet có thể không vĩnh viễn. Một blog có thể gỡ bỏ bởi tác giả, một bài báo có thể bị xóa, hoặc một Website có thể bị đóng cửa.

Bible Study Tools. Không rõ ngày. Compassion. Không rõ ngày. https://www.biblestudytools.com/dictionary/compassion/ (truy cập 15-2-2018).

Helliwell, John; Layard, Richard; và Sachs, Jeffrey (Eds). 2017. World Happiness Report. Sustainable Development Solutions Network, U.S.A. https://s3.amazonaws.com/sdsn-whr2017/HR17_3-20-17.pdf (truy cập 15-2-2018).

Lewis, Martin W. 2010. The Misleading Ecological Footprint Model. 23-11-2010. http://www.geocurrents.info/economic-geography/the-misleading-ecological-footprint-model (truy cập 15-2-2018). 

Muehlenberg, Bill. 2014. C. S. Lewis on Real Happiness and Real Christianity.CultureWatch. 30-1-2014. https://billmuehlenberg.com/2014/01/30/c-s-lewis-on-real-happiness-and-real-christianity/ (truy cập 12-2-2018).

New Economics Foundation (NEF). 2012. Happy Planet Index: 2012 Report. 14-6-2012. http://neweconomics.org/2012/06/happy-planet-index-2012-report/ (truy cập 15-2-2018).

_________. 2016. The Happy Planet Index 2016. A global index of sustainable wellbeing. https://static1.squarespace.com/static/5735c421e321402778ee0ce9/t/57e0052d440243730fdf03f3/1474299185121/Briefing+paper+-+HPI+2016.pdf (truy cập 15-2-2018).

Pearce, Fred. 2013. Admit it: we can’t measure our ecological footprint. 20-11-2013. https://www.newscientist.com/article/mg22029445-000-admit-it-we-cant-measure-our-ecological-footprint/ (truy cập 15-2-2018).

POH (The Pursuit of Happiness). a. Socrates. Không rõ ngày. http://www.pursuit-of-happiness.org/history-of-happiness/socrates/ (truy cập 15-2-2018)

_________. b. Aristotle. Không rõ ngày. http://www.pursuit-of-happiness.org/history-of-happiness/aristotle/ (truy cập 15-2-2018).

Rampell, Catherine. 2009, The Happy Planet Index. Economix. 6-7-2009. https://economix.blogs.nytimes.com/2009/07/06/the-happy-planet-index/ (truy cập 15-2-2018).

Stanford Encyclopedia of Philosophy (SEP). 2014. Aristotle’s Ethics. 21-4-2014. https://plato.stanford.edu/entries/aristotle-ethics/ (truy cập 15-2-2018).

Veenhoven. R. 2014. Average happiness in 158 nations 2005-2014. World Database of Happiness. Rank report Average Happiness. Internet: worlddatabaseofhappiness.eur.nl/hap_nat/findingreports/RankReport_AverageHappiness.php (truy cập 15-2-2018). 

Wikipedia. 2018a. Gross National Happiness. Thay đổi chót: 10-2-2018. https://en.wikipedia.org/wiki/Gross_National_Happiness (truy cập 13-2-2018).

_________. 2018b. World Happiness Report. Thay đổi chót: 29-1-2018. https://en.wikipedia.org/wiki/World_Happiness_Report (truy cập 14-2-2018).

_________. 2018c. List of countries by GDP (PPP) per capita. Thay đổi chót: 11-2-2018. https://en.wikipedia.org/wiki/List_of_countries_by_GDP_(PPP)_per_capita (truy cập 14-2-2017).

_________. 2018d. Neuroplasticity. Thay đổi chót: 9-2-2018. https://en.wikipedia.org/wiki/Neuroplasticity (truy cập 13-2-2018).

_________. 2018e. Karuṇā. Thay đổi chót: 4-2-2018. https://en.wikipedia.org/wiki/Karu%E1%B9%87%C4%81 (truy cập 14-2-2018).

_________. 2018f. Four Noble Truths. Thay đổi chót: 11-2-2018. https://en.wikipedia.org/wiki/Four_Noble_Truths (truy cập 14-2-2018).

2018 Cao-Đắc Tuấn

danlambaovn.blogspot.com

17-2-2018 tìm mỏi mắt trong mấy trăm báo mạng của ĐCSVN …

17-2-2018 tìm mỏi mắt trong mấy trăm báo mạng của ĐCSVN thấy Tiền phong là có bài về sự kiện 17-2 -1979, cách đây 39 năm, nhưng không dám nói thẳng là ngày “TQ xâm lược VN”.

Tuổi trẻ có bài về nói về 17-2-1079, nhưng phải đưa lồng ghép một số việc ở các cuộc chiến khác vào bài như để cho an toàn, để lách thì phải ?

Vietnamnet có bài http://m.vietnamnet.vn/…/cuoc-chien-bien-gioi-nam-1979-ho-c…

See More

Image may contain: 1 person, outdoor

Khuya hôm nay của 38 năm trước…

Nhật ký yêu nước is with Trang Dang and Nguyễn Hải.

 Khuya hôm nay của 38 năm trước, thằng mặc áo đen trong hình đã bất ngờ xua 60 vạn quân sang xâm lược nước ta.

Kết quả 50.000 đồng bào chiến sỹ ta bị chết oan ức, bởi tin vào cái choàng vai khốn nạn như thế này.

Và 38 năm nay họ chưa một lần được tưởng niệm, thậm chí cái chết của họ còn không được ghi vào sách giáo khoa dạy cho con cháu chúng ta biết.

(Fb Nguyễn Tấn Thành)

Đục bịa rồi đục luôn cả thơ

Nguyễn Anh Tuấn
2018-02-17
 

Bia Khánh Khê bị đục dòng chữ "quân Trung Quốc xâm lược"

Bia Khánh Khê bị đục dòng chữ “quân Trung Quốc xâm lược”

 Courtesy Báo Thanh Niên
 

Nhiều người hẳn đã quen thuộc với hình ảnh cột bia Khánh Khê ở Lạng Sơn dưới đây [ghi nhận sự hi sinh của 650 chiến sĩ thuộc sư đoàn 337 trên biên giới phía Bắc cản bước quân thù năm 1979] cách đây vài năm được báo chí phát hiện là đã bị đục bỏ dòng chữ “quân Trung Quốc xâm lược” – một hành vi không chỉ xảo trá với lịch sử, vô ơn với chiến sĩ mà còn đớn hèn và nhục nhã về chính trị.

Và, trong nỗ lực xóa bỏ ký ức tập thể về sự kiện này, người ta đã không chỉ đục bia, mà còn đục cả thơ.

Hôm nay tình cờ thấy người bạn đăng bài thơ ‘Gửi em ở cuối sông Hồng’ như bên dưới:

“Anh ở Lào Cai 
Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt 
Tháng Hai, mùa này con nước 
Lắng phù sa in bóng đôi bờ

Biết em năm ngóng, tháng chờ 
Cứ chiều chiều ra sông gánh nước 
Nên ngày ngày cùng bạn bè lên chốt 
Anh lại xuống sông Hồng cho thoả nỗi em mong

Đài báo gió mùa, em thương ở đầu sông 
Đỉnh đồi cao chiến hào anh gặp rét 
Biết mùa màng đồng quê chưa cấy hết 
Tay em ngập dưới bùn, lúa có thẳng hàng không?

Giá chúng mình còn cái thuở dung dăng… 
Anh thả lá thuyền xuôi về dưới ấy 
Em ra sông chắc em sẽ thấy 
Chỉ nỗi nhớ chúng mình đủ ấm mọi mùa đông. 

Thì hỡi em yêu ở cuối sông Hồng
Nếu gặp dòng sông ngàu lên sắc đỏ
Là niềm thương anh gửi về em đó
Qua màu nước sông Hồng, em hiểu chiến công anh.” 
(Dương Soái)

Đây là phiên bản phổ biến của bài thơ hiện nay, được báo chí nhà nước sử dụng mỗi khi nhắc đến, kèm cả dấu 3 chấm (…) ngay trước khổ cuối cùng. [1]

Chưa bàn đến chuyện hay dở của phiên bản này, nhưng đọc lên thấy ý hiển ngôn của nó như thể tâm sự của một thanh niên đi nghĩa vụ quân sự làm lính biên phòng phía Bắc nhớ thương về người yêu ở vùng quê nào đó ở hạ lưu sông Hồng. Cả bài chỉ nhớ, thương, và kỷ niệm, chứ hoàn toàn vắng bóng sự ác liệt của chiến tranh. Bởi vậy đọc câu cuối nghe rất gượng gạo, vì sao cô gái thấy dòng sông ngàu lên sắc đỏ lại hiểu được chiến công của chàng trai? Chiến công gì ở đây, khi mà những đoạn phía trên thấy chàng trai toàn là ‘lên chốt’, ‘xuống sông thả lá’, ‘gặp rét trên đỉnh đồi cao’? Nghe như một anh chàng tân binh đang ‘nổ’ với người yêu vậy.

Ý tứ bài thơ như thế, do đó, vừa rất thường, vừa kém tự nhiên.

Nhưng hóa ra không phải vậy, bài thơ đã bị buộc phải trở nên gượng gạo như thế. Những nhát búa của chế độ kiểm duyệt đã đục đi mất phần lịch sử bi hùng được nhắc đến trong bài thơ. Và, trong khi dấu tích cột bia Khánh Khê bị đục dễ dàng nhận ra bằng mắt thường, thì với bài thơ của Dương Soái ở trên dấu vết ấy chỉ còn lại ba chấm (…).

Mời đọc lại phiên bản đầy đủ của bài thơ ‘Gửi em ở cuối sông Hồng’ dưới đây, hôm nay, 17-2, không chỉ để hiểu vì sao cô gái nhìn sông Hồng ngàu lên sắc đỏ lại có thể hiểu được chiến công của chàng trai (ấy là vì nghìn xác giặc Trung Quốc đã bị hạ gục máu loang ố nơi đầu nguồn), mà còn là để nhớ tới những gì không được phép quên, dẫu bất kỳ ai, quyền cao chức trọng tới đâu, phương cách thô lậu tệ hại thế nào, luôn muốn chúng ta quên.

Gửi em ở cuối sông Hồng
(Dương Soái)

“Anh ở Lào Cai
Nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt
Tháng Hai, mùa này con nước
Lắng phù sa in bóng đôi bờ

Biết em năm ngóng, tháng chờ
Cứ chiều chiều ra sông gánh nước
Nên ngày ngày cùng bạn bè lên chốt
Anh lại xuống sông Hồng cho thoả nỗi em mong

Đài báo gió mùa, em thương ở đầu sông
Đỉnh đồi cao chiến hào anh gặp rét
Biết mùa màng đồng quê chưa cấy hết
Tay em ngập dưới bùn, lúa có thẳng hàng không?

Giá chúng mình còn cái thuở dung dăng…
Anh thả lá thuyền xuôi về dưới ấy
Em ra sông chắc em sẽ thấy
Chỉ nỗi nhớ chúng mình đủ ấm mọi mùa đông.

Nhưng thơ ngây đâu còn ở chúng mình
Khi Tổ quốc trao anh lên tuyến đầu chặn giặc
Khi biên cương trong anh đã trở thành máu thịt
Đạn lên nòng anh giữ trọn nguồn sông

Nỗi nhớ cho em chưa viết được đôi dòng
Đạn quân thù bỗng cuồng điên vào thị xã
Xe tăng thù nghiến mặt sông êm ả
Nhịp cầu thù chặt đứt chờ mong

Bão lửa này mang sức mạnh hờn căm
Phá cầu thù, xé vụn xe tăng giặc
Giữa dòng sông nghìn xác thù ngã gục
Máu giặc loang ố cả một vùng

Thì hỡi em yêu ở cuối sông Hồng
Nếu gặp dòng sông ngàu lên sắc đỏ
Là niềm thương anh gửi về em đó
Qua màu nước sông Hồng, em hiểu chiến công anh.

Lào Cai, 1979″

Mậu Thân 1968, giải mã một nghịch lý lịch sử

Nếu những người cầm đầu chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào thời điểm Mậu Thân 1968 không quá tồi, nếu Westmoreland không kém như vậy, nếu Lyndon Johnson không hoảng hốt. Chỉ cần một trong ba lý do đó vắng mặt thì hậu quả của cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân đã khác hẳn và lịch sử Việt Nam cũng sẽ khác hẳn.

50 năm sau cuộc tổng tấn công đẫm máu của quân đội công sản vào các thành phố và thị xã miền Nam Việt Nam một câu hỏi dần dần lấn át tất cả những câu hỏi khác :

Tại sao một thảm bại quân sự cho Đảng cộng sản Việt Nam đã có thể biến thành một thắng lợi chính trị quyết định cho họ ?

Câu hỏi này chứng tỏ rằng ngày nay người ta đã biết khá rõ nhiều sự thực về biến cố lịch sử này và càng biết nhiều hơn càng thấy nó khó hiểu.

chet1

Tại sao một thảm bại quân sự cho Đảng cộng sản Việt Nam đã có thể biến thành một thắng lợi chính trị quyết định cho họ ?

Một thảm bại quân sự

Cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân 1968 nhiều khi được mô tả là gồm ba đợt : đợt 1 vào dịp Tết Mậu Thân, đợt 2 vào tháng 5 và đợt 3 vào tháng 8. Tuy vậy người dân miền Nam vẫn gọi chung biến cố này là “cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân” bởi vì nó đã chủ yếu diễn ra trong dịp Tết. Đợt 2 yếu hơn hẳn và đợt 3 không đáng kể.

Ngày nay ít ai còn ngờ vực rằng nó đã là một thất bại quân sự thê thảm cho phe cộng sản. Các số liệu mà chính quyền cộng sản đưa ra chẳng có gì đáng tin khi có hại cho họ.

Thí dụ như cuộc Cải Cách Ruộng Đất năm 1955 tại miền Bắc. Chính quyền cộng sản, khi nhìn nhận sai lầm, đã đưa ra những con số nạn nhân 10.000 hay 15.000 để rồi hơn một nửa thế kỷ sau cố giáo sư Đặng Phong sau một khảo cứu công phu đã tìm ra con số nạn nhân chính xác 172.008 người.

Trong trận Mậu Thân 1968, Đảng cộng sản, một năm sau, đưa ra con số “43.000 chiến sĩ hy sinh”, một con số vớ vẩn vì quân đội Việt Nam Cộng Hòa cho biết đã thu lượm được 75.000 xác chết cộng quân bị bỏ lại trên chiến trường, còn quân đội Mỹ cũng cho biết đã đếm được 58.000 xác.

Vào khoảng năm 1970 (hay 1971 ?) tôi có gặp ông Mai Văn Sổ, một cán bộ hậu cần của quân đội cộng sản trong trận chiến này. Ông là em song thai của ông Mai Văn Bộ, đại sứ của chính quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại Pháp vào lúc đó. Hình như ông mang quân hàm thượng tá lúc ra đầu thú và được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đưa sang Paris trong mục đích giải độc tuyên truyền của phe cộng sản. Ông Mai Văn Sổ đã gây tiếng vang lớn trong làng báo Pháp giữa lúc hội nghị Paris đang diễn ra và người anh song thai của ông đang vừa là đại sứ vừa là thành viên phái đoàn Hà Nội. Trong trao đổi riêng tư với anh em chúng tôi, ông Sổ nói một cách vắn tắt : “quân đội cộng sản đã tan tành”. Ông cho biết hầu hết các tiểu đoàn hay trung đoàn chỉ còn lại vài người. Ông cũng nói thêm rằng số người thiệt mạng trên chiến trường chỉ là thiểu số, đa số đã chết vì thương tích sau đó.

Cũng lớn không kém là số người ra đầu thú mà chính quyền miền Nam, gọi là “hồi chính” (trở về với chính nghĩa), nhiều đến nỗi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa phải lập một bộ mang tên Bộ Dân Vận và Chiêu Hồi. Năm 1995 chính quyền cộng sản đã điều chỉnh lại con số thương vong của họ trong dịp Tết Mâu Thân : 111.306 người. Con số này coi có vẻ chính xác như là kết quả của một nghiên cứu nghiêm chỉnh nhưng nó cũng vẫn rất xa sự thực.

Các tài liệu của Đảng cộng sản cũng như của Việt Nam Cộng Hòa và Mỹ cho thấy là Hà Nội đã gửi vào miền Nam cho chiến dịch này hơn 200.000 quân chính quy và gần 300.000 tấn vũ khí và dạn dược, chủ yếu bằng đường biển, qua cảng Sihanoukville của Campuchia. Phối hợp với quân có sẵn tại miền Nam, lực lượng cộng sản vào thời điểm Tết Mậu Thân là trên 500.000 người. Một tài liệu của cơ quan tình báo CIA Mỹ ước lượng tổng số quân cộng sản lúc đó là khoảng 600.000 người. Cuối năm 1968 lực lượng này sau những thương vong và hồi chính chỉ còn lại khoảng 200.000 với hàng ngũ rã rượi và tinh thần suy sụp.

Sau này, từ năm 1979 đến cuối năm 1982, sau khi đi tù về và trước khi đi Pháp, tôi đã có dịp trao đổi với nhiều người cộng sản có vai trò chỉ huy trong chiến dịch này, tất cả đều nói là thiệt hại rất nặng, một số còn nói thẳng rằng lực lượng cộng sản “không còn gì”.

Thiệt hại về phía Việt Nam Cộng Hòa trong trận đánh vào vào dịp Tết là gần 5.000 người (con số chính xác là 4.954) và gần 16.000 người bị thương. Phía quân đội Mỹ có 3.895 người thiệt mạng và khoảng 19.000 người bị thương. Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa hình như chỉ coi trận Tết Mậu Thân là vào dịp Tết nên không có những con số cho đợt 2 và đợt 3, chỉ có thống kê thiệt hại cho cả năm 1968 theo đó quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã có 28.800 người thiệt mạng, quân đội Mỹ và đồng minh 16.000 người.

So sánh những thiệt hại của đôi bên và nhìn vào tình trạng kiệt quệ của quân cộng sản sau năm 1968 thỉ phải nói trận Tết Mâu Thân đã là một thảm bại cho phe cộng sản. Mặc dù phía Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh hoàn toàn bị bất ngờ, nhưng lực lượng hai bên quá chênh lệch. 500.000 quân cộng sản phải đương đầu với gần 800.000 quân Việt Nam Cộng Hòa, 500.000 quân Mỹ và 50.000 quân Hàn Quốc. Hơn nữa các đội quân cộng sản đến từ miền Bắc lại không biết địa hình, nhiều khi đi lạc rồi bị tiêu diệt.

chet2

Quân cộng sản bị bắt giữ cùng những vũ khí mới : pháo cầm tay B40, trung liên cá nhân AK47 và đạn dược trong trận Tết Mậu Thân Sài Gòn tháng Giêng 1968

Bộ chỉ huy cộng sản hy vọng rất nhiều ở hai vũ khí mới : khẩu pháo cầm tay B40 và nhất là khẩu trung liên cá nhân AK47. Quả nhiên hai vũ khí này đã gây bất ngờ rất lớn nhưng sau phút bỡ ngỡ ban đầu chúng đã bất lực trước các trực thăng và xe bọc thép. Hy vọng nhân dân sẽ nổi dậy ủng hộ lực lượng cộng sản lại càng não nề. Nhân dân miền Nam đã không hưởng ứng mà còn thù ghét, nhất là khi họ được biết những vụ tàn sát dã man người dân vô tội, đặc biệt và vụ thảm sát tại Huế trong đó khoảng 6.000 người, kể cả phụ nữ và trẻ em, đã bị giết, nhiều khi bằng cách chôn sống. Ngày nay khi nhìn lại biến cố Tết Mâu Thân không ai có thể chối cãi rằng đó đã là một thảm bại cho phe cộng sản cả về quân sự lẫn nhân tâm. Khách quan mà nói đây là một hành động tự sát.

Lý do của một liều lĩnh tự sát

Tại sao ban lãnh đạo cộng sản lại lấy quyết định tự sát này ?

Từ sau hội nghị Genève chia cắt đất nước, Đảng cộng sản vì nhiều lý do vẫn cho rằng họ đương nhiên phải thôn tính miền Nam. Họ hy vọng ở cuộc tổng tuyển cử được lập lờ dự trù năm 1956 trong bản tuyên bố chung cùng với hiệp định Genève. Nhưng khi chính quyền Ngô Đình Diệm đưa ra sáu điều kiện để đảm bảo cuộc tuyển cử sẽ được thực hiện một cách lương thiện và được đa số các quốc gia trên thế giới ủng hộ thì họ thất vọng. Thất vọng trở thành tuyệt vọng khi, năm 1957, chính Liên Xô đề nghị hoãn vô hạn định cuộc tổng tuyển cử này và cho cả hai nhà nước Nam và Bắc Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc. Hy vọng ở cuộc tổng tuyển cử tiêu tan, chỉ còn lại giải pháp chiến tranh. Không phải cấp lãnh đạo cộng sản nào cũng nhiệt tình với giải pháp này nhưng không ai dám công khai chống lại bởi vì đồng thuận chính thức trong Đảng cộng sản lúc đó là phải thống nhất đất nước bằng mọi giá.

Hậu quả của chọn lựa chiến tranh là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ nắm được thế áp đảo vì là hai người hiểu biết nhất về miền Nam và từng chỉ huy lực lượng cộng sản tại đây trong cuộc chiến 1945 – 1954. Cặp bài trùng này kết nạp được Nguyễn Chí Thanh và dần dần gạt ra ngoài lề Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Hoan và một phần nào đó cả Hồ Chí Minh. Chiến tranh càng khốc liệt thì thế lực của họ càng mạnh và sau cuộc thanh trừng nhóm bị gọi là “bọn xét lại chống đảng” thì quyền lực của họ trở thành tuyệt đối. Lê Duẩn trở thành bí thư thứ nhất và cùng với Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức và xây dựng đảng, kiểm soát quyền lực trung ương trong khi Nguyễn Chí Thanh chỉ huy cuộc chiến trong Nam.

Tuy nhiên sau khi Mỹ ào ạt đổ quân vào miền Nam, oanh tạc miền Bắc và gây thiệt hại nặng nề cho quân cộng sản trong nhiều trận đánh lớn thì hy vọng chiến thắng tiêu tan và quyền lực của bộ ba Duẩn, Thọ, Thanh bị đe dọa. Xuống thang trong chiến tranh đồng nghĩa với sự đào thải của họ. Bộ ba này vì vậy phải tìm một giải pháp để tự cứu. Giải pháp đó chính là cuộc tổng công kích Tết Mậu Thân. Mục đích của chiến dịch này là đổ toàn lực để đánh một trận liều lĩnh, chấp nhận những thiệt hại lớn hầu gây một chấn động thật lớn buộc Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa phải chấp nhận thương thuyết rồi từ đó chuyển sang chiến lược “vừa đánh vừa đàm” dựa vào dư luận thế giới đang khá thuận lợi lúc đó để hy vọng một lối thoát ít nhất không quá bẽ bàng. Nói chung chiến dịch này trước hết nhắm cứu nguy quyền lực đang bị đe dọa của bộ ba Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Nguyễn Chí Thanh.

Tháng 6/1967 Nguyễn Chí Thanh ra Bắc họp để bàn kế hoạch nhưng đến nơi không bao lâu thì bất ngờ bị đột quỵ và chết. Cuộc họp vẫn tiếp tục, kế hoạch tổng tấn công trong dịp Tết Mậu Thân vẫn được duy trì với Khe Sanh, một huyện lỵ thuộc Quảng Trị nằm sát biên giới Lào, được chọn làm điểm tấn công đầu tiên với mục đích đánh lạc sự chú ý, làm cho phía Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa tưởng rằng Hà Nội chỉ tập trung đánh Khe Sanh và muốn biến Khe Sanh thành một trận Điện Biên Phủ mới. Về điểm này thì Hà Nội đã thành công, Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa quả nhiên đã tin là Hà Nội đã tập trung toàn lực vào Khe Sanh và vì thế càng tin tưởng phần còn lại của miền Nam, nhất là các tỉnh phía Nam có thể yên tâm đón Tết Mậu Thân, vả lại hai bên lại đã có thỏa thuận hưu chiến trong dịp Tết.

Đối với Việt Nam Cộng Hòa bất ngờ đã hoàn toàn. Cũng bất ngờ không kém là số quân cộng sản được tung vào trận đánh, gần như toàn bộ lực lượng hơn 500.000 người với hai vũ khí lần đầu tiên xuất hiện B40 và AK47. Tuy vậy Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cũng phải biết trước rằng cuộc tổng tấn công này sẽ thất bại bởi vì muốn tấn công, dù là tấn công bất ngờ, phải có lực lượng mạnh hơn hẳn đối phương, trong khi lực lượng hai bên quá chênh lệch theo thế bất lợi cho họ. Điều cũng làm họ hoàn toàn thất vọng là nhân dân miền Nam đã không hề hưởng ứng lời kêu gọi nổi dậy của họ. Sau một tháng, lực lượng cộng sản không chỉ bị đẩy lui mà còn bị đánh tan tành, với những tổn thất kinh khủng. Sau khi thu thập tàn quân họ đã cố gắng mở một đợt tấn công thứ hai vào tháng 5 nhưng chỉ chịu thêm những thiệt hại vì lần này yếu tố bất ngờ không còn nữa.

Tóm lại, vụ tổng tấn công Tết Mậu Thân chỉ là một hành động tuyệt vọng của Lê Duẩn và Lê Đức Thọ trong thế nguy ngập. Họ chấp nhận để quân cộng sản trả giá rất đắt với hy vọng là nhờ đó có thể giữ được quyền lực. Chính họ cũng không ngờ tình hình lại diễn biến một cách khác hẳn.

Giữa lúc chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đang tan nát

Cuộc tổng tấn công Tết Mâu Thân đã là một khúc quanh lịch sử đưa đến sự sụp đổ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa và thắng lợi của Đảng cộng sản Việt Nam. Câu hỏi vẫn còn nhức nhối cho nhiều người là :

“Tại sao đối với Đảng cộng sản một thảm bại về quân sự lại có thể biến thành một thắng lợi quyết định về chính trị ?”.

Hay

“Tại sao chế độ Việt Nam Cộng Hòa lại có thể để một thảm bại của đối phương biến thành một đòn chí mạng cho chính mình ?”.

Phải nói rằng chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào lúc đó đang ở trong một tình trạng cực kỳ tồi tệ. Sự sụp đổ của chính quyền Ngô Đình Diệm, tháng 11/1963, đã mở ra một giai đoạn hỗn loạn trong đó các tướng tá bất tài, vô học và vô trách nhiệm thi nhau tranh giành quyền lực trong lúc các sư sãi, mà thành phần chủ động là những cán bộ cộng sản trá hình, xuống đường hàng ngày gây rối loạn.

Một nhân vật nói lên tình trạng của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó : Nguyễn Khánh. Ông này là một sĩ quan của quân đội Pháp để lại –như tất cả các tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa- đã đảo chính lật đổ Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng của nhóm Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim, Tôn Thất Đính ba tháng sau khi họ lật đổ Ngô Đình Diệm. Ông Khánh hành động như một kịch sĩ, liên tục đưa ra những lời tuyên bố và sáng kiến nhảm nhí chỉ có tác dụng là làm cho tình hình rối loạn thêm. Sau này vào tuổi gần 80, tại Mỹ, ông còn nhận lời làm “quốc trưởng” cho trò hề chính phủ lưu vong của Nguyễn Hữu Chánh. Sự kiện một con người như vậy mà đã có thể thao túng chính trường miền Nam trong hơn một năm chứng tỏ chính quyền miền Nam lúc đó tan nát đến mức nào.

Từ tháng 6/1965 tình hình tương đối ổn định hơn với Hội Đồng Quân Lực cầm quyền trong đó tướng Nguyễn Văn Thiệu làm chủ tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia (quốc trưởng) và Nguyễn Cao Kỳ làm chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương (thủ tướng), nhưng vì cả hai người này đều không có uy tín nên bộ máy chính quyền vẫn chao đảo, miền Trung gần như bất phục tùng trung ương trong gần nửa năm trời. Ngay sau đó lại xẩy ra sự đấu đá ngay giữa Thiệu và Kỳ để tranh nhau ứng cử tổng thống cuối năm 1967. Kết quả là Nguyễn Cao Kỳ, mầu mè và phô trương, dù nhiều quyền hơn và phe đảng đông hơn phải nhượng bộ, nhận ứng cử phó tổng thống cho Nguyễn Văn Thiệu, mờ nhạt và thiển cận nhưng ít tai tiếng và được lòng Mỹ hơn. Tuy vậy, vào thời điểm Tết Mậu Thân quyền hành của Kỳ vẫn còn mạnh hơn Thiệu, hai người chia đôi Dinh Độc Lập với mỗi người một bộ tham mưu riêng.

Một hậu quả của sự tan nát của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là bộ máy an ninh tình báo bị tê liệt. Sự kiện chính quyền Việt Nam Cộng Hòa không hề biết tới cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân chỉ giản dị là không tưởng tượng nổi. Nó đã được chuẩn bị từ hơn nửa năm trước, Hà Nội đã gửi vào Nam hơn 200.000 quân chính quy và hơn 300.000 tấn vũ khí, hơn nữa còn dàn quân chung quanh, thậm chí xâm nhập, gần như tất cả các thành phố và thị xã trên khắp lãnh thổ. Vào lúc súng bắt đầu nổ, Nguyễn Văn Thiệu đang về quê ăn Tết, còn Nguyễn Cao Kỳ đang đánh bài. Tất cả những điều này đều khó tưởng tượng, nhưng điều còn khó tưởng tượng hơn là những gì xẩy ra sau đó.

Nha Trang và sau đó Đà Nẵng bị tấn công đầu tiên. Sài Gòn chỉ bị tấn công một ngày sau nhưng vẫn không chuẩn bị gì cả. Huế còn chỉ bị tấn công sau Sài Gòn 4 giờ nhưng cũng không đề phòng và quân cộng sản đã chiếm được thành phố mà không găp một chống cự nào.

Trong lịch sử cận đại không có trận chiến nào diễn ra một cách kỳ cục như vậy. Càng khó tưởng tượng khi chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó là một chính quyền quân đội đặt an ninh lên trên hết và có đầy đủ phương tiện truyền thông hiện đại. Nếu có một chút danh dự của một người làm tướng thì cả Thiệu lẫn Kỳ đều phải tự xử sau sự kiện ô nhục này, nhưng họ chỉ biết tự mãn chứ không có danh dự. Các cấp lãnh đạo và tướng lãnh của Việt Nam Cộng Hòa cũng không khác họ bao nhiêu, không thấy ai tỏ ra xấu hổ. Không phải là phe cộng sản đã hành quân khéo và giữ bí mật giỏi, họ hành quân rất luộm thuộm, sai cả giờ phát động vì lẫn lộn lịch tầu và lịch ta. Vấn đề chỉ là chính quyền Việt Nam Cộng Hòa lúc đó quá tồi dở. Bộ máy hành chính cũng như quân sự có nhiều người rất tốt, rất dũng cảm và rất giỏi nhưng lãnh đạo quá tồi nên cũng giống như cơ thể cường tráng nhưng cái đầu không hoạt động.

Điều cũng tai hại không kém sự kiện để bị đánh bất ngờ là không khai thác được sự thảm bại về mặt quân sự cũng như dân vận, và nhất là những tội ác của quân cộng sản như cuộc thảm sát tại Huế. Lúc đó mọi đèn chiếu và mọi con mắt của thế giới hướng về Sài Gòn, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa được một dịp ngàn năm một thuở để chinh phục cảm tình và hậu thuẫn của thế giới nhưng lại không có gì để nói, không những thế còn nói ngu, như Nguyễn Cao Kỳ tuyên bố coi Hitler là thần tượng.

Lý do chính là Lyndon Johnson

Sự tồi dở của chính quyền Thiệu Kỳ quả là đã vượt mọi tưởng, nhưng nếu chỉ có thế thì biến cố Tết Mậu Thân cũng sẽ chỉ là một tai họa cho cặp Lê Duẩn – Lê Đức Thọ và chính quyền Hà Nội.

Người đã góp phần quyết định chuyển bại thành thắng cho Đảng cộng sản Việt Nam là Lyndon Johnson. Ông này là một tay hoạt đầu chính trị địa phương với kiến thức hạn hẹp, hoàn toàn không có một tư tưởng chính trị và một tầm vóc chính trị nào. Ông thăng tiến nhờ tính thực thà tận tụy và nhờ may mắn, sau cùng trở thành tổng thống vì một sự tình cờ : tổng thống Kennedy bị ám sát. Do bản chất của chế độ tổng thống trong đó các chính đảng không đủ mạnh để đảm nhiệm vai trò của một lò sản xuất ý kiến và đào tạo nhân tài, sau những tổng thống kiệt xuất đầu tiên, các tổng thống Mỹ thường không phải là những người có bản lãnh chính trị, nhưng Lyndon Johnson là một trong những tổng thống kém nhất.

Sau vụ Tết Mậu Thân, thái độ của Lyndon Johnson là thái độ của một người hoảng hốt bỏ chạy. Ngày 31/3, ngay khi cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân của quân cộng sản còn đang gây sôi nổi trên khắp thế giới, ông tuyên bố chấp nhận thương tuyết song phương với Hà Nội và chỉ cho Việt Nam Cộng Hòa tham dự với tư cách quan sát viên đúng như đòi hỏi của Hà Nội. Ông cũng tuyên bố sẽ không ra ứng cử tổng thống nữa. Quyết định này tương đương với một lời thú nhận đã sai lầm và thất bại bởi vì mới một năm trước tại Hội Nghị Quân Sự Tối Cao tại Guam với hai tướng Thiệu và Kỳ, ông đã dõng dạc tuyên bố cương quyết giúp Việt Nam Cộng Hòa đánh bại cuộc xâm lược của cộng sản và ông không ngừng nhắc lại cam kết này cho đến ngay trước Tết Mậu Thân. Chính Hà Nội cũng không thể ngờ tổng thống Mỹ có thể hốt hoảng như thế ngay cả nếu cuộc tổng tấn công không thất bại thê thảm như nó đã thực sự diễn ra.

Thái độ hoảng hốt bỏ chạy của Johnson đã có ảnh hưởng tức khắc trên quần chúng Mỹ. Ngay sau đó, các cuộc thăm dò dư luận cho thấy 80% người Mỹ muốn rút khỏi Việt Nam. Các nghị sĩ và dân biểu Mỹ trong tuyệt đại đa số là những người chạy theo chứ không thách thức dư luận. Họ còn một lý do khác để không thách thức dư luận. Quan tâm hàng đầu của Mỹ khi can thiệp vào Việt Nam là bảo vệ lưu thông qua eo biển Malacca giữa Malaysia, Singapore và Indonésia nơi quá phân nửa hàng hóa của thương mại quốc tế được chuyển qua, nhưng từ năm 1965 Indonesia đã tiêu diệt hết lực lượng cộng sản trong khi an ninh của Malaysia và Singapore cũng không còn bị đe dọa nữa. Như thế số phận của Việt Nam Cộng Hòa đã được quyết định.

Westmoreland đã làm Johnson hoảng hốt

Nhưng tại sao Johnson lại hốt hoảng đến như thế ?

Lý do đầu tiên là cách ứng xử của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa. Johnson không phải là một chính trị gia có bản lãnh và hiểu biết rất ít về thế giới nói chung và Châu Á nói riêng, ông chỉ phán đoán như một người Mỹ bình thường qua những sự kiện khách quan, và sự kiện khách quan không thể tưởng tượng được là chính quyền Thiệu Kỳ lại có thể không biết gì về một cuộc tổng tấn công lớn như vậy. Trong thâm tâm ông phải nghĩ rằng chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là một bọn vô dụng không đáng giúp đỡ và có giúp cũng vô ích. Cũng đừng nên quên rằng từ sau khi lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm, các tướng tá Việt Nam Cộng Hòa đã làm tất cả để dư luận thế giới khinh thường. Tuy vậy, Việt Nam Cộng Hòa không phải là lý do chính.

Lý do chính là Westmoreland, tư lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam. Westmoreland đã tỏ ra rất dở trong biến cố Tết Mậu Thân. Trước hết ông mắc lừa trận đánh hỏa mù Khe Sanh. Westmoreland thực sự tin là Hà Nội chỉ muốn đánh lớn ở Khe Sanh. Sau khi cuộc tổng tấn công nổ ra, ông vẫn tuyên bố rằng đó chỉ là một cố gắng để lôi kéo sự chú ý của Mỹ và Đồng Minh khỏi Khe Sanh. Đây là một sai lầm rất nghiêm trọng nơi một vị tướng chỉ huy 500.000 quân. Nhưng sai lầm lớn hơn nhiều của Westmoreland là đã xin tổng thống Johnson viện trợ thêm 206.000 quân sau đó. Ông không thấy rằng quân cộng sản đã thảm bại. Đối với Johnson, việc Westmoreland xin viện binh là bằng cớ rằng Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa đã thất bại. Và Johnson hốt hoảng bỏ chạy.

Thử tưởng tượng điều gì sẽ xẩy ra nếu thay vì xin thêm tiếp viện 206.000 quân Westmoreland báo cáo với tổng thống Mỹ rằng quân cộng sản vừa làm hành động tự sát, lực lượng của họ đã tan tành và Mỹ có thể rút bớt 200.000 quân, lực lượng còn lại cũng thừa sức giúp Việt Nam Cộng Hòa đánh bại cộng sản. Đây không phải là chính trị giả tưởng mà là sự thực bởi vì ngay sau đó Nixon liên tục rút quân, nhưng vào tháng 01/1973 khi hiệp định Paris được ký kết quân cộng sản chỉ giữ được một huyện Sa Huỳnh trên tổng số 245 quận huyện của miền Nam, dù lúc đó quân Mỹ đã rút gần hết. Nhưng lúc đó quyết định bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa không đảo ngược được nữa, như cựu ngoại trưởng John Kerry sau này từng tuyên bố.

Cũng thử tưởng tượng nếu, thay vì về quê ăn Tết như ông Thiệu hay đánh bài như ông Kỳ, các cấp lãnh đạo Việt Nam Cộng Hòa lập tức có mặt chỉ huy cuộc phản công và đến hiện trường thăm hỏi dân chúng và khích lệ quân lính. Hay ngay cả có lỡ để bị bất ngờ -điều cần nhắc lại là không thể tha thứ được- sau có thái độ xứng đáng, có lập luận thuyết phục để khẳng định lòng tin và lên án những tội ác của quân cộng sản tại Huế và nhiều nơi khác. Nếu như thế thì Lyndon Johnson đã không quá hốt hoảng.

Nhưng Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ và những người cầm đầu chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã chỉ là chính họ. Đã chỉ có Nguyễn Ngọc Loan làm cử chỉ côn đồ tự tay bắn chết một du kích vừa bị bắt ngay trước ống kính của một ký giả nước ngoài. Hình này được trưng ra trước cả thế giới và làm xấu thêm hình ảnh vốn đã xấu của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Cũng cần nói thêm là Nguyễn Văn Thiệu chắc chắn không ý thức được sự nguy ngập của chế độ sau biến cố Mậu Thân, vì sau đó ông còn giở trò độc diễn trong cuộc bầu cử tổng thống 1971 làm danh nghĩa dân chủ của Việt Nam Cộng Hòa mất hết nội dung. Không những thế, năm 1973, hai năm trước khi bỏ chạy, ông còn sửa đổi hiến pháp để có thể ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa.

Hậu quả đã có thể rất khác

Nếu những người cầm đầu chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào thời điểm Mậu Thân không quá tồi, nếu Westmoreland không kém như vậy, nếu Lyndon Johnson không hoảng hốt. Chỉ cần một trong ba lý do đó vắng mặt thì hậu quả của cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân đã khác hẳn và lịch sử Việt Nam cũng sẽ khác hẳn.

Thực tế là, về phía Hà Nội, một chọn lựa liều lĩnh ngu xuẩn đã đưa đến một thảm bại quân sự làm hàng trăm ngàn người chết nhưng rồi lại biến thành một thắng lợi chính trị và sau cùng một thắng lợi toàn diện. Ngược lại, về phía Sài Gòn, một thắng lợi quân sự lớn đã biến thành một thảm bại chính trị và sau cùng một thất bại hoàn toàn. Kẻ thắng không xứng đáng để thắng nhưng kẻ thua lại rất xứng đáng để thua. Và Việt Nam đã là Việt Nam hiện nay. Số phận nước ta thật hẩm hiu.

Bài học nào ?

Người Việt Nam không chọn được Johnson và Westmoreland, nhưng còn hai chế độ cộng sản và Việt Nam Cộng Hòa ? Những người miền Bắc đã để cho Đảng cộng sản thống trị và Đảng cộng sản đã để cho một nhóm người thiển cận và độc hại chung quanh Lê Duẩn và Lê Đức Thọ thống trị, trong khi những người miền Nam đã để cho những người chẳng ra gì như Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ dẫn vào vực thẳm. Khi một dân tộc không có một lớp trí thức chính trị thì tất cả đều có thể xẩy ra. Đó là bài học lớn nhất của biến cố Mậu Thân 1968 và của giai đoạn lịch sử gần đây.

Một lời sau cùng cho bên thắng cuộc.

Chiến thắng 30/4/1975, hậu quả của biến cố Mậu Thân 1968, đã làm cho nhóm Lê Duẩn – Lê Đức Thọ say sưa đến mất trí. Họ tưởng họ là thiên tài và anh hùng dân tộc. Họ nghĩ họ đã rất may mắn. Nhưng lịch sử có logic của nó. Họ đã chỉ được một cơ hội để chứng tỏ sự tồi dở và sẽ mãi mãi được các thế hệ mai sau nhớ đến như những tai họa. Sau cùng chính họ mới là những người không may nhất.

Nguyễn Gia Kiểng

(15/02/2018, Giao thừa Mậu Tuất)   

Hèn có hệ thống!

Thuong Phan and Hoa Kim Ngo shared Dân Luận‘s post.
No automatic alt text available.

Dân Luận

 

Hèn có hệ thống!

Sáng nay (17/02/2018), tại khu vực tượng đài Lý Thái Tổ, dù mới là mồng 2 Tết Mậu Tuất và trời còn lạnh, nhưng chính quyền công an đã chuẩn bị sẵn sàng biện pháp ngăn chặn những người dân đến tượng đài Lý Thái Tổ thắp hương tưởng niệm liệt sĩ chống Trung Quốc, bằng cách xua một loạt “quần chúng” cao tuổi vào khu vực, ôm eo nhau nhảy múa, khiêu vũ.

Hồi 17/02/2013 thì nhà cầm quyền bố trí quần chúng, gồm cả bà già mặc áo hai dây, ra chân tượng đài múa điệu “Con bướm xinh”.

Đợt 19/01/2014 (tưởng niệm 40 năm Hải chiến Hoàng Sa) thì công an, dân phòng cải trang làm thợ đá đến cưa đá, tạo tiếng ồn và bụi mù mịt, cũng ở khu vực này.

Đó là các biện pháp ngăn chặn có tính chất ngắn hạn. Còn về dài hạn thì chính sách của Hà Nội còn thâm hiểm hơn nữa.

Chẳng hạn, nhà cầm quyền cho xoá bỏ tên các đường phố đặt theo tên liệt sĩ chống Tàu cộng. Sau năm 1975, phố phường ở các đô thị lớn, nhất là Sài Gòn, dày đặc tên các thể loại anh hùng, liệt sĩ, dân quân, du kích, biệt động trong chiến tranh chống Pháp hay Mỹ. Lắm người mà đại đa số dân chúng có khi chẳng biết là ai, đúng là xứ sở “ra ngõ gặp anh hùng” có khác. Nhưng chắc chắn là trong số đó, chẳng có tên một liệt sĩ chống Trung Quốc nào.

Nhà cầm quyền cũng chủ trương không nhắc tới các liệt sĩ hy sinh trong Chiến tranh Biên giới 1979, rút tên họ khỏi sách lịch sử, thu hồi, không lưu hành các văn hoá phẩm (sách báo, bài hát…, nếu còn) viết về họ. Lê Đình Chinh, Hoàng Thị Hồng Chiêm… tới nay không chỉ là những liệt sĩ mà còn là nạn nhân của một chính sách xoá bỏ lịch sử, cố gắng làm các thế hệ sau quên lãng một cuộc chiến đẫm máu do nhà cầm quyền bạo ngược của hai nước cộng sản gây nên.

Thâm hiểm hơn nữa là việc cấm biểu diễn, lưu hành các nhạc phẩm, ca khúc chống Tàu, ví dụ như “Chiến đấu vì độc lập tự do” của nhạc sĩ Phạm Tuyên (hay còn được nhiều người gọi là bài “Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới”), “Lời tạm biệt lúc lên đường” của nhạc sĩ Vũ Trọng Hối, “Lena Belicova” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ…

Ca khúc hoặc tác phẩm văn học nào nổi tiếng quá và lời lẽ không chống Tàu lộ quá thì có thể vẫn được “chiếu cố”, nhưng cũng bị sửa đi nhiều so với bản gốc. Còn lại, hầu hết các ca khúc liên quan tới cuộc chiến năm 1979 đều biến mất, nghĩa là không còn được biểu diễn trên các sân khấu lớn, trên sóng truyền hình, hay ghi âm, in ra sách… Việc không lưu hành những bài này là theo một thỏa thuận giữa Việt Nam và Trung Quốc nhằm bình thường hóa hoàn toàn quan hệ giữa hai nước, từ sau năm 1991. Truyện ngắn “Mặt trời bé con của tôi” của nhà văn Thuỳ Linh bị rút khỏi sách giáo khoa một cách không thương tiếc, hẳn là vì nhân vật chính của truyện là một liệt sĩ trẻ chống Tàu.

Ôi, giá mà các chính sách vì quốc kế, dân sinh của Hà Nội đều “có hệ thống”, có “tầm nhìn xa” như vậy!

Đến đây chắc các dư luận viên hoặc những thành phần có não trạng dư luận viên sẽ lại rống lên: Quá khứ khép lại, tương lai mở ra, sao chúng mày cứ bàn mãi về chuyện đã qua thế, sao cứ khoét mãi vào giai đoạn quan hệ hai nước Việt-Trung gặp trục trặc thế, muốn gieo rắc thù hận à?

Tất nhiên, họ có quyền hỏi, kể cả quyền rống lên như vậy. Nhưng họ thật là mặt dày khi không bao giờ đặt câu hỏi: Vì sao lại không cấm luôn cả “Nguyễn Viết Xuân”, “Bế Văn Đàn sống mãi”, “Cô gái vót chông”, nhất là “Cô gái vót chông” với những ca từ như: “Mỗi mũi chông nhọn sắc căm thù, xiên thây quân cướp nào vô đây”, “Còn giặc Mỹ cọp beo, khi còn giặc Mỹ cọp beo, em chưa ngừng tay vót chông”…

Và mới đây thôi, sát giao thừa rồi, nhà nước vẫn còn hân hoan kỷ niệm “chiến thắng” Mậu Thân 1968…

Nguồn: Facebook Phạm Đoan Trang

TINH THẦN CẦU NGUYỆN VÀ SỐNG TIN MỪNG CỦA ĐỘI BÓNG VÔ ĐỊCH SUPER BOWL 2018

TINH THẦN CẦU NGUYỆN VÀ SỐNG TIN MỪNG CỦA ĐỘI BÓNG VÔ ĐỊCH SUPER BOWL 2018

CÁC CHỨNG NHÂN CỦA CHÚA THÁNH THẦN – Phần 3.

Đội bóng chuyên nghiệp Philadelphia Eagles đã hạ đội bóng lừng danh New England Patriot đương kim vô địch với tỉ số 41-33 vào ngày Chúa Nhật mùng 4 tháng 2, 2018 . Patriot là đội quán quân với 5 lần đoạt chức vô địch  giải Siêu Cúp Super Bowl kể từ năm 2002 cho đến nay. Đội Eagles tầm thường vốn chưa có đến một lần đoạt giải Siêu Cúp, trong suốt 57 năm qua, lần này Eagles đã làm nên thành tích lớn, đội làm được điều mà không ai có thể ngờ. Người ta ví von Eagles thắng Patriot giống như “David tí hon chiến thắng người khổng lồ Goliat”.

Tinh thần của đội Eagles xem ra cũng giống như chàng thanh niên David, thành tích vô địch của Eagles vốn  bắt nguồn từ một tinh thần đức tin mạnh mẽ rất dễ thương và dễ nể. Tinh thần mến chuộng Tin mừng của Eagles đã được hầu hết các Fan hâm mộ cũng như báo chí biết đến.

 

 

 

 

   

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Sau khi chiến thắng đội Minnesota Vikings với tỷ số áp đảo 38-7 ở một giải khác, giải vô địch NFL  , Cầu thủ tiền vệ, (quarterback) Nick Foles chia sẻ, trong lúc các hâm mộ viên hát bài ca “Phượng hoàng chiến đấu” trong lúc các cầu thủ Eagles đang cảm ơn Đấng bề trên quyền năng đã ban cho họ niềm vui chiến thắng của các thể thao gia :  

  • Tất cả vinh quang thuộc về Chúa. Trong thời khắc này, sự kiện khó tin, làm ta khiêm nhường.   

   

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Thực ra, từ những năm 1977 họ đã có tinh thần cầu nguyện rồi, trong trận đấu với đội New York Giant, cầu thủ Lusk nhận được đường chuyền từ tiền vệ Ron Jaworski và phóng chạy một mạch 63 mét về đích, anh nói:

  • Tôi lách qua bên trái và thấy có nguồn ánh sáng ban ngày xuyên qua bóng các hậu vệ đối thủ, tôi cứ theo luồng sáng đó mà chạy về “đất hứa”.

Khi đã vượt làn ranh cầu môn, về đích, anh quỳ xuống và trở thành cầu thủ NFL đầu tiên cầu nguyện tạ ơn khi ghi bàn thắng. Ngày nay, Lusk trở thành tuyên úy chánh của đội, hướng dẫn mọi người học Kinh Thánh và lo phụng vụ.

 

 

 

 

 

 

 

Sinh hoạt tinh thần của đội Eagles tốt lành ngoài sức tưởng tượng của Bạn và Tôi, chúng ta hãy nghe đội trưởng và cũng là cầu thủ tiền vệ làm bàn nhiều nhất , Carson Wentz tâm sự:

  • Chúng tôi cùng học Kinh Thánh vào tối thứ hai và thứ năm, tối thứ bẩy chúng tôi cầu nguyện theo Lời Chúa chung với nhau, chia sẻ tỏ bày các khó khăn trong đời sống trước khi ra sân tập. Chúng tôi sống chân thực với nhau, thực sự có nhau, thật là đặc biệt khi sự kiện này diễn ra trong khu huấn luyện, làm việc của NFL.
  • Điều cao cả nhất đó là, chúng tôi thách đố nhau, nhắc nhau đừng quên giải thướng lớn nhất, chung cuộc, vì trong các trận đấu được thua, giao tranh cao thấp cầu thủ rất dễ quên đi  đích nhắm tối thượng, là sống cho Chúa, trở nên một con người  mà mình muốn đạt đến.

Làm sao điều kỳ diệu này xảy ra được, hãy nghe các cầu thủ khác giải thích,

 

 

 

 

 

 

 

Anh Torrey Smith nói.:

  • Bất kể khó khăn là gì , cho dù là sự yếu đuối của mình, hay các tương quan rạn nứt trong gia đình, hôn nhân, … chúng tôi có thể nói ra hết, thổ lộ hết ngay trong vòng những người anh em của đội, như là trong một gia đình, rồi cùng nhau, chúng tôi tìm ra giải pháp bằng cách áp dụng các nguyên tắc của Kinh Thánh, 

Hầu hết những người lãnh đạo nhóm vốn xuất phát với một đức tin bình thường cho đến khi họ được ơn đổi mới qua phép rửa trong Chúa Thánh Thần, nghĩa là ăn năn sám hối và đàu phục Chúa Giê Su cách trọn vẹn, để cho Chúa làm chủ cuộc đời mình. Chúa Thánh Thần làm cho các anh luôn khao khát được nói về Chúa Giê Su. Các anh không chỉ cầu nguyện với nhau mà còn cùng cầu nguyện tạ ơn với các đội khác sau một trận thi đấu trong tinh thần giao hữu.

 

 

 

 

 

 

Anh Carson nhận xét:

Chúng tôi giúp đỡ lẫn nhau vượt qua các khó khăn, trên sân tập, trong cuộc đời. Chúng tôi gắn kết với nhau, Chúng tôi kính trọng lẫn nhau, không để các ý kiến khác biệt về tôn giáo làm chia rẽ. Có đức tin hay không chúng tôi cư xử tận tình như nhau, cố gắng sống thực tinh thần đồng đội, huynh đệ bằng tình yêu của Chúa Giê Su cho đến khi được có cơ hội trình bày về Ngài.

Xin xem các lời chứng ở đây:

Ngay trong giải vô địch lần thứ 52 này, các cầu thủ Eagles được dịp làm chứng cho Chúa Kitô GiêSu một cách sống động khi thể hiện lòng tin, niềm hy vọng của mình, thể hiện đời sống cầu nguyện và cung cách sống hết lòng với nhau của các thành viên. Đã có hàng triệu người biết đến các lời chứng, đời chứng, và niềm vui sống theo sự hướng dẫn của Lời Chúa với sức mạnh của Thần Khí từ những thành viên của đội vô địch Super Bowl 2018. Ngay cả một cầu thủ của đội New England Patriots, anh Matthew Slater, cựu sinh viên của đại học nổi tiếng UCLA, cũng đã mục kích và suy xét về đối thủ của mình:

  • Tôi thực sự biết ơn Carson về sự gắn bó với Tin Mừng, cách anh thể hiện hình ảnh của Chúa Kitô từ ngày nọ đến ngày kia. Không chỉ có mình Anh mà cả Nick cũng làm như vậy. Rồi Chris Maragos, Người anh Burton, có thật nhiều các anh em ở bên đó họ đứng vững ở điều mình tin tưởng, họ thể hiện Tin Mừng trong một cung cách quá lớn lao, mạnh mẽ.
  • Chung cuộc, cả họ và tôi biết rằng, điều thực sự đáng kể là sự trường tồn vĩnh cữu vượt ngoài các trận đấu bóng chày. Họ sẽ là Anh Em trong Chúa với tôi trong thời gian lâu dài rồi sẽ đến. Tuy nhiên, vào Chúa Nhật chung kết giải sắp đến, đương nhiên chúng tôi sẽ cạnh tranh nhau.

Vào năm ngoái, chính anh, cầu thủ Slater đội Patriot, cũng có dịp làm chứng cho Chúa  khi đội của anh đoạt giải vô địch Siêu Cúp 2017. Anh đã có cơ hội nói về Chúa với các ký giả truyền thông. Anh tâm sự:

  • Cách tôi nhìn nhận bóng chày như một cơ hội bao la không chỉ để chơi thi đấu môn thể thao yêu thích và nuôi sống gia đình. Nó cho tôi một nền tảng cuả niềm tin vào những điều quan trọng nhất và để đi ra tiếp cận mọi người, liên lạc với họ, xây dựng tình thân, và cố gắng trình bày cho họ về tình yêu của Chúa Kito. Tôi luôn nhìn bóng chày như là một ơn, nó là phương tiện Chúa cho tôi để đến được với mọi người.

Còn tôi và bạn thì sao, có lẽ chúng mình sẽ cùng có một cảm nhận và lóe ra chút hy vọng rằng

Nước Mỹ có những người con dân với tinh thần đức tin thật là sống động vì Lời Chúa đã ăn sâu vào đến xương tủy của họ. Hy vọng rằng Nước Mỹ dù sa đọa nhưng sẽ vươn lên trong ánh sáng Tin Mừng cứu rỗi, trong sự lãnh đạo thế giới hướng tới Chân Thiện Mỹ. Hy vọng vẫn còn.

Còn có nhiều những  câu chuyện độc đáo tương tự mà Chúa ưu ái cho  Hoa Kỳ, những câu chuyện làm cho ta thêm hy vọng ở tương lai của quốc gia cưu mang người Việt tỵ nạn, quê hương thứ hai của Người Việt Tự Do. Hẹn sẽ trò chuyện, tương trình cùng bạn hữu  trong các dịp khác.

Tôi xin kết thúc ở đây với câu nói trứ danh của đội trưởng Wentz:   

  “Đối với tôi, Đức Tin là điều hệ trọng số một trong đời tôi. Nếu không có Chúa Giê Su ở trong sự việc, thì tôi không muốn là một thành phần của nó”

From Phan Sinh Trần gởi

Viết Cho Những Người Không Có Đạo – Như Tôi.

  Van Pham‘s post.

Image may contain: one or more people, people standing and outdoor

Image may contain: one or more people, people standing and indoor

Van Pham added 2 new photos.

 Viết Cho Những Người Không Có Đạo – Như Tôi.

Phạm Đoan Trang

Đừng nghĩ rằng các linh mục thích “đội lốt tôn giáo để làm chính trị”, hay là “ăn tiền hải ngoại” để kích động dân làm loạn. Đẻ ra các luận điệu ấy là những kẻ đê tiện, còn nếu tin vào các luận điệu ấy, thì bạn không chỉ đê tiện mà còn ngu xuẩn; bạn không hiểu gì về tôn giáo và rõ ràng là cũng không có ý định tìm hiểu. Chỉ xin bạn nhớ điều này: Sức mạnh bạo lực của một chính quyền không thể ngăn chặn cái ác, nhưng tôn giáo thì có thể. Chính vì thế, một chính quyền khôn ngoan phải biết khuyến khích tôn giáo hoặc đơn giản là để yên cho tôn giáo chăm sóc đời sống tâm linh và đạo đức của dân chúng. Ngược lại, một nhà nước đàn áp tôn giáo, chia rẽ nhân dân, thì chắc chắn nó sẽ sụp đổ và đội ngũ lãnh đạo của nó phải trả nghiệp rất thảm khốc…

*********

Tôi không phải người Công giáo. Tôi cũng không phải Phật tử. Tóm lại, tôi không có đức tin tôn giáo nào, và tôi biết điều đó chẳng hay ho gì – con người luôn cần có một cõi nào đó trong tinh thần để hướng họ về cái thiện và ngăn họ làm điều xấu. Không có đức tin thật ra cũng là một sự bất hạnh, nhất là ở hoàn cảnh Việt Nam thời loạn như bây giờ.

Nhưng cũng là vì hoàn cảnh Việt Nam, mà việc thực hành một tôn giáo nào đó trở thành… phức tạp. Chùa nào lớn cũng có chi bộ, có an ninh “hướng dẫn” sinh hoạt. Nhà thờ nào lớn cũng vậy thôi: An ninh chìm nổi lảng vảng tối ngày, camera, thiết bị nghe trộm giăng khắp nơi.

Bên cạnh đó, không thể không kể đến sự hoạt động tích cực của tuyên giáo. Cho đến năm 2003, chính quyền vẫn nhất quán xem tôn giáo như kẻ thù; các sách giáo khoa dạy trong nhà trường đều gọi “tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Từ năm 2003, với Nghị quyết 25-NQ/TW ngày 12/3, đảng Cộng sản mới dịu giọng hơn một chút, bớt hằn thù một chút, chỉ nói “tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài”. Ngay cả câu ấy vẫn hàm ý “tôn giáo là vấn đề đấy nhé, mà đã là vấn đề thì trước sau cũng phải xử lý. Chẳng qua là bọn tao buộc phải chấp nhận chúng mày thôi”.

Chế độ cai trị của cộng sản luôn có đóng góp to lớn của đội ngũ tuyên truyền viên, dư luận viên. Trong hàng chục năm qua, đội ngũ này đã lập thành tích đáng kể trong việc phá hoại về căn bản uy tín của tôn giáo và cách ly, cô lập các cộng đồng tôn giáo với xã hội, nhất là các “đạo của Tây”. Bộ máy tuyên truyền luôn tác động, nhào nặn để dân thường nghĩ về Công giáo, Tin Lành như những tôn giáo vọng ngoại, mất gốc, thời xưa là theo chân thực dân đế quốc bán nước, thời nay là cực đoan, ôm chân Vatican, gây rối…

Cho đến bây giờ, bên lương vẫn nhìn vào bên đạo với ánh mắt e dè, kỳ thị, cảnh giác, hoặc đầy ác cảm.

Cuối năm vừa qua, khi chúng tôi vào Kỳ Anh (Hà Tĩnh) để ghi hình một phóng sự về thảm họa Formosa, phỏng vấn bà con xóm đạo thì không sao nhưng hễ hỏi “nhầm” một người dân ở xóm lương thì ngay lập tức sẽ nhận lại những câu hỏi đầy cảnh giác: “Làm gì đấy?”, “Phóng viên báo nào đấy?”, “Thẻ nhà báo đâu?”.

Chúng tôi hiểu ngay là họ đã được chính quyền địa phương ở đây “giáo dục”, “nắm tư tưởng”, quán triệt” kỹ lưỡng từ trước rồi. Hẳn là vẫn luận điệu: Hiện nay thế lực thù địch đang lợi dụng sự cố môi trường ở miền Trung để kích động gây rối, lật đổ chế độ, yêu cầu bà con nâng cao cảnh giác, thấy người lạ phải chủ động điều tra và/hoặc báo cáo ngay…

Đảng Cộng sản vẫn luôn như thế. Cho dù họ cũng phải ăn cá như ai, họ cũng phải hít thở không khí và du lịch biển như ai, chưa nói là ngân sách nhà nước (của họ) còn trông chờ vào kinh tế biển, nhưng họ vẫn không tiếc tiền cho công tác chống phá tôn giáo và tuyên truyền, định hướng dư luận, để dư luận phải nghĩ rằng thảm họa biển miền Trung chỉ là một “sự cố môi trường” mà thôi, và những người đi đấu tranh đuổi Formosa thì chỉ là một bộ phận “dân Công giáo” bất mãn, gây rối.

Bôi nhọ tôn giáo, chia rẽ lòng người, phá hoại xã hội dân sự là nghề của đảng rồi.

Tôi cũng đã từng giữ một cái nhìn không mấy thiện cảm với Công giáo và Tin Lành, như hàng triệu người dân khác bị tuyên truyền. Bên cạnh đó, tôi cũng gặp phải một vài người có đạo mà khá bất dung, khiến tôi đã e ngại càng e ngại hơn.

Nhưng muốn bớt sợ ai đó, ta chỉ có một cách là phải hiểu họ hơn. Sự thấu hiểu sẽ mở đường cho cảm thông.

Sau vài năm, tôi cũng không còn cảm giác e dè, sợ sệt khi tiếp xúc với bà con Công giáo, Tin Lành nói riêng và những người có đức tin nói chung nữa.

Và tôi cũng đã được gặp những người mà sau đó, tôi rất yêu mến họ. Như linh mục Nguyễn Đình Thục.

************

CHA THỤC

Mùa đông năm 2016, khi truyền thông vẫn dồn dập như bão táp với từng sự kiện trôi qua mỗi ngày, và vụ Formosa tưởng như đã chìm xuồng, cha Thục lại một mình lặn lội bên Đài Loan, tìm hiểu về Formosa và vận động giới chức Đài lưu tâm đến thảm họa biển Việt Nam, trong đó Formosa là thủ phạm chính.

Có lần cha gửi cho tôi hình cha chụp một tấm danh thiếp của một quan chức Đài Loan nào đó; cha hỏi tôi chức vụ của ông này là gì, để cha tìm gặp ông ta.

Đó là một nhân vật ở Bộ Ngoại giao Đài Loan. Và cha lúc đó chỉ có một mình ở Đài Bắc, không ai giúp đỡ phiên dịch, mà lại đang cần gấp, nên mới gọi về hỏi tôi.

Tôi thấy muốn khóc: “Trời ơi, xã hội gì mà loạn lạc đến một ông cha xứ cũng phải đi tìm đường cứu dân thế này?”.

Lúc ấy, tự nhiên tôi nhớ đến bác Trần Văn Huỳnh, cha của anh Trần Huỳnh Duy Thức, đi vận động quốc tế cho con trai. Bác mặc áo khoác đen, đi lù rù trong trời tuyết. Tôi không bao giờ quên hình ảnh ông già 77 tuổi loay hoay với chiếc valy, đứng lọt thỏm giữa sân bay rộng mênh mông, sau khi chia tay mọi người ở Mỹ để một mình qua Úc. Trên phi trường nườm nượp người qua lại, trông bác đã nhỏ bé lại càng nhỏ bé thêm, và cô đơn.

Tôi cũng nhớ đến một nhà sư vừa chạy thoát khỏi vụ Bát Nhã. Tôi nhớ cảnh ông ngồi đệm đàn guitar bài “Đưa em tìm động hoa vàng” cho một nhóm thanh niên hát, trong đó có tôi. Một vị hòa thượng đệm đàn cho thanh niên hát tình ca gần suốt đêm, hết sức giản dị và đời thường, dù chính ông chỉ vừa thoát khỏi bàn tay đàn áp của chính quyền cách đó chưa lâu. Với tôi, hình ảnh ấy quá đẹp và thánh thiện, đủ xóa sạch mọi nghi kỵ của tôi về Phật giáo “Làng Mai”, “Bát Nhã”…

Tôi cũng không bao giờ quên hình ảnh cha Thục, cha Lai, cha Nam, cha Thanh, và nhiều linh mục khác, trong những cuộc trò chuyện, luôn bồn chồn lo nghĩ về thảm họa môi trường, về cuộc sống, sinh kế và cả tinh thần của hàng trăm nghìn người dân “hậu Formosa”.

Tôi như hình dung ra và sẽ không thể quên hình ảnh cha Thục, cha Hùng lặn lội trên xứ người giữa mùa đông giá rét, tìm đủ mọi cách để cảnh báo giới chức Đài Loan về thảm họa mà Formosa đang gây ra ở Việt Nam.

Cũng như hôm nay, là hình ảnh cha Thục mặc áo chức màu đen, dẫn đầu đoàn người tuần hành từ Nghệ An ra Hà Tĩnh. Vẫn là gương mặt hiền khô ấy, cái nhìn đầy ưu tư ấy. Nếu ở một thể chế khác, một xã hội khác, cha đã có thể chỉ lo việc đạo, chăm lo tinh thần cho con dân xứ mình, chứ đâu phải nặng lòng với những vấn đề môi trường, thực phẩm, sinh kế của dân… như thế này.

Đừng nghĩ rằng các linh mục thích “đội lốt tôn giáo để làm chính trị”, hay là “ăn tiền hải ngoại” để kích động dân làm loạn. Đẻ ra các luận điệu ấy là những kẻ đê tiện, còn nếu tin vào các luận điệu ấy, thì bạn không chỉ đê tiện mà còn ngu xuẩn; bạn không hiểu gì về tôn giáo và rõ ràng là cũng không có ý định tìm hiểu.

Chỉ xin bạn nhớ điều này: Sức mạnh bạo lực của một chính quyền không thể ngăn chặn cái ác, nhưng tôn giáo thì có thể. Chính vì thế, một chính quyền khôn ngoan phải biết khuyến khích tôn giáo hoặc đơn giản là để yên cho tôn giáo chăm sóc đời sống tâm linh và đạo đức của dân chúng.

Ngược lại, một nhà nước đàn áp tôn giáo, chia rẽ nhân dân, thì chắc chắn nó sẽ sụp đổ và đội ngũ lãnh đạo của nó phải trả nghiệp rất thảm khốc.

Phạm Đoan Trang

Quốc Hội Hoa Kỳ điều trần về Tù nhân lương tâm Việt Nam.

Quốc Hội Hoa Kỳ điều trần về Tù nhân lương tâm Việt Nam.

VOA: Uỷ ban Nhân Quyền Tom Lantos của Quốc Hội Hoa Kỳ hôm 15/2/2018 đã có buổi điều trần về chương trình kết nghĩa với tù nhân lương tâm, trong đó đề cập đến 169 tù nhân lương tâm Việt Nam.

Dân Biểu Randy Hultgren, đồng Chủ Tịch Uỷ ban Nhân quyền Tom Lantos, đã thay mặt Dân biểu Christopher Smith, đọc bức thư của Linh mục Nguyễn Văn Lý gửi cho Dân biểu Smith:

“Hi vọng Quí vị can thiệp mạnh hơn để tất cả 169 Bạn Tù nhân Lương tâm nam nữ được trả tự do. Tôi đại diện cho các tù nhân lương tâm, những người tranh đấu cho nhân quyền, tự do và dân chủ đã bị chính quyền Việt Nam giam cầm. Chỉ riêng từ năm 2015 đến tháng 1/2018 có đến 41 nhà tranh đấu bị giam cầm.”

Dân Biểu Alan Lowenthal nêu trường hợp của tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Đài:

Chính quyền Việt Nam từ chối luật sư bào chữa cho ông Nguyễn Văn Đài. Vào tháng 1/2018, lần đầu tiên vợ của ông được gặp mặt ông sau 3 năm bị giam cầm.
Dân biểu Alan Lowenthal

“Một tù nhân lương tâm hiện nay là luật sư nhân quyền – blogger Nguyễn Văn Đài. Chính quyền Việt Nam từ chối luật sư bào chữa cho ông Nguyễn Văn Đài. Vào tháng 1/2018, lần đầu tiên vợ của ông được gặp mặt ông sau 3 năm bị giam cầm. Bà cho biết sức khỏe của chồng bà dường như không được tốt. Ông nói với vợ rằng trong suốt thời gian từ khi bị bắt vào tháng 12/2015 cho đến khi gặp vợ, ông không được ra khỏi nơi buồng giam.”

Luật sư Nhân quyền Nguyễn Văn Đài

​Ngoài ra, dân Biểu Alan Lowenthal đã đọc bức thư của Hoà thượng Thích Quảng Độ và của cựu tù nhân lương tâm Nguyễn Tiến Trung, và nhắc đến trường hợp bị giam cầm của mục sư Nguyễn Công Chính.

Nữ Dân Biểu Sheila Jackson-Lee nêu lên quyết tâm tranh đấu và những hy sinh của cựu tù nhân lương tâm Tạ Phong Tần, người mà bà đã kết nghĩa.

Các vị dân biểu tham gia chương trình kết nghĩa thường xuyên lên tiếng với chính quyền Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam nhằm bảo đảm tù nhân lương tâm được kết nghĩa không bị ngược đãi khi còn ở trong nhà tù, và đòi tự do cho họ.

Ba nhà hoạt động Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển, Trần Hoàng Phúc

Tính đến nay, 16 tù nhân lương tâm Việt Nam đã được các dân biểu Hạ Viên và một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ kết nghĩa. Trong số tù nhân lương tâm Việt Nam được kết nghĩa, 13 người đã được tự do và 4 người đã đến Hoa Kỳ định cư.

Dịp này tổ chức phi chính phủ BPSOS cũng phổ biến danh sách các tù nhân lương tâm Việt Nam để chuẩn bị cuộc vận động năm 2018 cho chương trình “Tự do cho Tù nhân Lương tâm Việt Nam” mà tổ chức này đã khởi xướng từ năm 2013.

Mục đích của chương trình này là đòi tự do cho tù nhân lương tâm, bảo vệ họ và hỗ trợ cho gia đình của họ trong thời gian họ ở tù, giúp họ phục hồi khả năng sinh hoạt và hoạt động sau khi ra tù, và chấm dứt tình trạng tù nhân lương tâm nói chung ở Việt Nam.
https://www.voatiengviet.com/a/quoc-hoi-hoa-ky…/4257636.html

Image may contain: 5 people
Image may contain: 1 person, flower and closeup
Image may contain: 3 people, people smiling, eyeglasses and closeup

VẠCH MẶT KẺ HÈN VỚI GIẶC!!!!

Dien Hong Tran shared Kính Tước‘s post.
 
 
 
Image may contain: 1 person, text
Kính Tước

 

VẠCH MẶT KẺ HÈN VỚI GIẶC!!!!

Ai ra lệnh không được nổ súng trong trận Gạc Ma?

Ngài Bộ trưởng Bộ Quốc phòng hồi bấy giờ là ngài LÊ ĐỨC ANH đã ra cái lệnh như vậy mà tướng Lê Mã Lương đã tường thuật trong hội thảo tưởng niệm Gạc Ma của chính Trung tâm Minh Triết tổ chức ở Khách sạn Công đoàn năm ngoái, thì bây giờ ta phải công khai cái này (Ông Nguyễn Khắc Mai.)

https://www.rfa.org/…/who-ord-no-fir-in-garma-0312201505272…