Người thông minh không phải là người trí tuệ

Người thông minh không phải là người trí tuệ

Người thông minh biết bản thân làm được gì, còn người trí tuệ biết bản thân không làm được điều gì.

 
Người thông minh không phải là người trí tuệ.

Người thông minh biết nắm bắt cơ hội, biết khi nào nên “ra tay”, còn người trí tuệ biết khi nào nên buông tay. Vì vậy, cầm lên được là thông minh, còn bỏ xuống được mới là trí tuệ..

Người thông minh thể hiện thế mạnh của mình ra ngoài, cũng chính là bộc lộ hết tài năng; còn người trí tuệ để người khác thể hiện thế mạnh của họ, âm thầm lặng lẽ làm.

Ví dụ trong một buổi tiệc, người thông minh bận nói, họ nói không ngừng, vì vậy họ giống như chiếc ấm trà; còn người trí tuệ bận nghe, chú ý lắng nghe người khác nói, thế nên họ là chiếc tách trà. Nước trong ấm rốt cuộc cũng phải rót vào tách mà thôi.

  1. Thông minh là một loại khả năng sinh tồn, còn trí tuệ lại là một dạng cảnh giới của sinh tồn

Trên thế giới không có nhiều người thông minh, trong số 10 người thì chỉ có 1-2 người, còn người có trí tuệ thì lại càng hiếm thấy, trong số 100 người có khi không có lấy người nào. Ngay cả Socrates được công nhận là người trí tuệ cũng tự thấy rằng nếu xét theo yêu cầu về trí tuệ thì bản thân ông cũng là người vô tri.

  1. Trong cuộc sống thực tế, những người không chịu thiệt thòi là người thông minh, còn người có thể chịu thiệt là người trí tuệ

Người thông minh luôn có thể bảo toàn lợi ích của mình khi làm việc với người khác. Ví dụ như trong làm ăn, họ luôn có thể thu về lợi nhuận – còn người trí tuệ tuyệt sẽ không theo đuổi việc thu lợi nhiều nhất trong kinh doanh, một số người thậm chí có phải bù tiền thì họ cũng làm, họ đặt lợi ích của người khác lên hàng đầu. Người trí tuệ đều biết rằng “không mất thì sẽ không được”.

  1. Người thông minh chú ý chi tiết, còn người trí tuệ chú trọng tổng thể

Người thông minh phiền não nhiều, thường xuyên mất ngủ, bởi vì họ nhạy cảm hơn người bình thường. Còn người trí tuệ có thể rời xa phiền muộn, đạt đến mức độ “không vui vì người, không buồn vì mình”, vì vậy người trí tuệ ăn ngon ngủ yên.
Vì vậy người thông minh thường qua đời sớm, còn người trí tuệ vô lo nên thường sẽ sống thọ.

Người thông minh khát vọng thay đổi người khác để người khác làm theo ý mình, còn người trí tuệ thường thuận theo tự nhiên.

Vì vậy, quan hệ giao tiếp của người thông minh sẽ dễ căng thẳng, nhưng với người trí tuệ thì lại hòa nhã hơn.

 

  1. Thông minh đa số là trời sinh, có được do di truyền, còn trí tuệ dựa nhiều vào luyện tập.

Thông minh có thể có được nhiều tri thức hơn, còn trí tuệ khiến người ta có văn hóa.

Vì vậy, một người càng có nhiều tri thức thì càng thông minh, còn người càng có nhiều văn hóa thì càng trí tuệ.

Thông minh dựa vào tai và mắt, người ta thường gọi là “tai thính mắt tinh”; còn trí tuệ phụ thuộc vào tâm hồn, tức “tuệ do tâm sinh”.

Thông minh có thể mang đến tiền tài và quyền lực, trí tuệ có thể mang đến niềm vui.               Vì thế, nếu cầu tài thì chỉ cần thông minh là đủ, còn nếu muốn thoát khỏi phiền muộn thì cần có trí tuệ.

Ở Việt Nam, bạn có thể …

Van Pham shared Hoàng Thái‘s post.
Ở Việt Nam, bạn có thể thoải mái truy cập vào các trang web sex – thứ mà nước này coi là văn hoá phẩm đồi truỵ. Nhưng khi vào các trang web nói về các sự kiện lịch sử theo hướng đa chiều thì bạn sẽ gặp rất nhiều khó khăn, và phải vượt tường lửa để tiếp cận được chúng.
 
Image may contain: 2 people, text

Hoàng Thái is with Hoàng Thái.

 

– Ở Việt Nam, bạn có thể thoải mái truy cập vào các trang web sex – thứ mà nước này coi là văn hoá phẩm đồi truỵ. Nhưng khi vào các trang web nói về các sự kiện lịch sử theo hướng đa chiều thì bạn sẽ gặp rất nhiều khó khăn, và phải vượt tường lửa để tiếp cận được chúng.

– Ở Việt Nam, bạn sẽ được coi là gây hại cho an ninh quốc gia nếu bạn nói ra sự thật, bạn biểu tình chống Trung Quốc, bạn chỉ trích những sai lầm của chính phủ và bạn sẽ bị phạt tù vì điều đó. Nhưng nếu chính phủ cho Trung Quốc thuê đất ở những vị trí nhạy cảm về an ninh quốc phòng, rước các doanh nghiệp ngoại bang vào giết biển, giết chết môi trường sống thì đó lại là những lỗi nhỏ, chỉ cần rút kinh nghiệm hay đổ cho bọn phản động xuyên tạc nhằm mục đích chống phá là xong.

– Ở Việt Nam, bạn sẽ bị bỏ tù nếu trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế dù giá trị của nó là lớn hay nhỏ, nhưng nếu chính phủ làm thất thoát tiền thuế hàng tỷ đô thì họ vẫn vô can và số tiền thất thoát đó sẽ được bù lại bằng cách tăng thuế phí.

– Ở Việt Nam, khi bạn vay ngân hàng thì bạn phải thế chấp tài sản và chỉ được vay 70% giá trị tài sản thế chấp. Nhưng nếu bạn gửi tiền vào ngân hàng thì người ta đưa cho bạn tờ giấy và bạn chỉ được đền bù tối đa 75 triệu nếu lỡ nó xù.

– Ở Việt Nam, thu nhập bình quân đầu người của bạn tuy kém người dân Mỹ đến 27 lần nhưng bạn phải mua xăng với giá gần gấp đôi, và mua xe oto với giá cao gấp 3 lần so với họ. Và đó được xem là những điều quá bình thường.

– Ở Việt Nam, bạn sẽ không thấy bất cứ một phát minh sáng chế nào đến từ đội ngũ giáo sư – tiến sĩ hơn 24.000 người, nhưng thỉnh thoảng bạn lại thấy các phát minh của những người nông dân ít học, của các cháu học sinh đang tuổi cắp sách đến trường.

– Ở Việt Nam, bạn lao động siêng năng, bạn làm đủ các công việc để kiếm thêm thu nhập nhưng bạn sống rất chất vật và rất khó để bạn mua được nhà hay tậu được ô tô. Còn mấy ông cán bộ thu nhập cũng tương đương hay thậm chí là thua bạn, nhưng họ lại có biệt phủ, có oto, nuôi con du học nước ngoài. Họ chỉ hơn mỗi bạn nhờ có bà vợ biết nấu rượu, nuôi heo hay đan chổi đót mà thôi.

……….

Ở Việt Nam, ôi, nói chung là ở Việt Nam, thôi, không nói nữa, đau hết cả đầu, hehe…!

(Fb Nhân Thế Hoàng)

Ảnh : NKYN

Công An Việt nam “sẵn sàng hy sinh để bảo vệ đảng”

Huỳnh Phi Long and 2 others shared Le Anh‘s post.
Image may contain: 2 people, text

Le AnhFollow

 

Theo BBC thông tin (2/2/2018) Bộ trưởng Bộ Công an Việt Nam, Thượng tướng Tô Lâm viết rằng công an Việt Nam ‘sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Đảng Cộng sản’ trong bài trước dịp kỷ niệm 88 năm thành lập đảng này.

Ông viết:

“Thực tiễn lịch sử anh hùng của Công an Nhân dân Việt Nam cho thấy, quá trình xây dựng, lớn mạnh, trưởng thành, những chiến công, thành tích vẻ vang của CAND Việt Nam đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng…” (Trích từ bài viết của Tô Lâm)

Nhờ Đảng mà công an lập được các chiến công lẫy lừng nhất từ khi thành lập là:
– Nhờ đảng mà CA đàn áp dân dã man
– Nhờ đảng mà CA vu khống và chụp mũ để bắt bớ và giam cầm người yêu nước, yêu môi trường và bất đồng chính kiến
– Nhờ đảng mà CA làm đầy tớ cho các nhóm lợi ích cưỡng chiếm đất và cướp tài sản của dân…
– Nhờ đảng mà CA tham nhũng để tậu nhà cao cửa rộng.
– Nhờ đảng mà CA nổi tiếng gây sự với dân để kiếm bánh mì…
– Nhờ đảng mà CA ngày nay bị người dân thù ghét nhất…  

TẠI SAO CHỐNG FORMOSA LÀ CHỐNG NHÀ NƯỚC?

Thuong Phan and Hoa Kim Ngo shared Trương Duy Nhất‘s post.
Image may contain: 13 people
Trương Duy NhấtFollow

 

TẠI SAO CHỐNG FORMOSA LÀ CHỐNG NHÀ NƯỚC?

Lần thứ hai, phải chạy lại hàng tít này: “Tại sao chống Formosa lại là chống nhà nước?”.

Mẹ Nấm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh 10 năm, Trần Thị Nga 9 năm, Nguyễn Văn Hoá 7 năm. Và phiên toà hôm nay vừa xong: 14 năm với Hoàng Đức Bình, 2 năm với Nguyễn Nam Phong.

Họ làm gì?

Họ chống Formosa.

Nhưng tại sao chống Formosa, lại là “chống nhà nước”?
Tại sao kẻ đầu độc môi trường, huỷ hoại đại dương, phá tan nền kinh tế và cướp đi cuộc sống mưu sinh của hàng chục triệu đồng bào, lại được bảo vệ, được tự do kinh doanh. Trong khi những công dân lên tiếng phản đối hành vi huỷ hoại tàn độc đó lại bị coi là phạm tội?

Kết án một người lên tiếng chống Formosa, coi hành vi chống Formosa là “chống nhà nước”, thì nhà nước ấy, chính phủ ấy đã mặc nhiên thừa nhận họ là nhà nước của Formosa, chứ không phải nhà nước của nhân dân.

“Lợi ích nhà nước”, khái niệm bị xâm hại đặt ra trong những vụ án này, đúng ra cũng phải là lợi ích của Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trần Thị Nga, Nguyễn Văn Hoá, Hoàng Đức Bình, Nguyễn Nam Phong, và hàng chục triệu cư dân ven biển, chứ sao lại là lợi ích của Formosa?

Đã bao lần tôi tự hỏi: thật ra, toà án đang nhân danh gì, chẳng lẽ lại nhân danh Formosa để kết tội công dân mình?

Bao người vì Formosa mà bị bắt. Bao bản án nặng nề tàn độc nhắm vào những công dân lên tiếng phản đối Formosa. Từ Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trần Thị Nga, Nguyễn Văn Hoá, đến Hoàng Đức Bình, Nguyễn Nam Phong.

Rồi sẽ là ai tiếp, tôi, hay chính các bạn?

Biết là lên tiếng sẽ tù đày. Nhưng “nếu bạn im lặng, rồi ai sẽ nói?”- (Nguyễn Ngọc Như Quỳnh). Chẳng lẽ, lại để thế hệ cháu con ta, đợi những bé Nấm – Gấu lớn lên mới phá gông cùm cứu mẹ?

Khi đó thì có cứu được không, hay Formosa đã nhuốm đen hết tổ quốc của mình.
_____________________________________
– truongduynhat.org

NHÀ BÁC HỌC ALEXANDRE YERSIN (1863-1943)

Bao Nguyen Quang

Nhà bác học Alexandre Yersin: “Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang và những người cộng sự lâu năm. Đám tang làm giản dị, không huy hoàng, không điếu văn”.

NHÀ BÁC HỌC ALEXANDRE YERSIN (1863-1943)

Nhà bác học Alexandre Yersin (1863-1943) – Hiệu trưởng sáng lập Trường thuốc Đông Dương (tiền thân Đại học Y khoa Hà Nội và Đại học Dược Hà Nội), Tổng Giám đốc các viện Pasteur Đông Dương…

Alexandre Yersin sinh năm 1863, người Thụy Sĩ, quốc tịch Pháp, ông mồ côi cha từ khi chưa lọt lòng. Năm 1882, ông nhận bằng tú tài văn khoa. Năm 1888, sau khi tốt nghiệp trường y Paris, ông chính thức nhập quốc tịch Pháp. Cũng trong thời gian này, ông tham gia vào nhóm nghiên cứu của Louis Pasteur (1822-1895), trở nên nổi tiếng qua nhiều công trình tiên phong do nhóm nghiên cứu của bác sĩ Louis Pasteur tiến hành.

Năm 1888, Alexandre Yersin (25 tuổi) đã có thành công vang dội với việc bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa tại Paris, đề tài: “Nghiên cứu sự phát triển chứng nhiễm trùng huyết của bệnh lao thực nghiệm” được Đại học y khoa Paris tặng huy chương đồng. Sau đó, Alexandre Yersin tìm ra độc tố của vi trùng bệnh bạch hầu, khiến tên tuổi của ông càng thêm lừng lẫy.

Năm 1894, sau nhiều kỳ công nghiên cứu tìm tòi thí nghiệm, Alexandre Yersin đã tìm ra vi trùng dịch hạch, nghiên cứu bào chế thuốc điều trị và phòng bệnh dịch hạch. Thành tựu này được Chính phủ Pháp tặng Huân chương Bắc Đẩu bội tinh.

Đến năm 1896 lúc bệnh dịch hạch tái phát tràn lan ở Trung Quốc, Hồng Kông, Quảng Đông…, 80% người bệnh được cứu sống nhờ loại thuốc của bác sĩ Alexandre Yersin bào chế. Bệnh dịch hạch vốn đã giết chết trên 50 triệu người trên thế giới, từ đó không còn là bệnh nan y.

Tại Hội nghị Vi sinh vật thế giới lần thứ 10 năm 1970, các nhà khoa học đã quyết định cho vi khuẩn dịch hạch mang tên người khám phá ra nó là Yersinia Pestis.

Năm 1902, Alexandre Yersin làm Hiệu trưởng đầu tiên của Trường thuốc Hà Nội, nay là Đại học Y khoa Hà Nội. Ông là Giám đốc viện Pasteur Đông Dương, gồm cả Viện Pasteur Nha Trang và viện Pasteur Sài Gòn. Kế thừa thành tựu của ông, ngày nay, các Viện Pasteur Việt Nam vẫn đang phát huy hiệu quả việc phòng, chữa bệnh cho nhân dân.

Alexandre Yersin còn say mê nghiên cứu khoa học trên nhiều lĩnh vực. Ngoài y học, ông còn thành công trong việc nghiên cứu trên các lĩnh vực khác như: Sinh học, Nông học, Thiên văn học, Vật lý. Ông đã đưa vào trồng và thử nghiệm thành công cây cao su ở Việt Nam, cây Canhkyna ở Hòn Bà, Dran, ở cao nguyên Lang Biang để bào chế thuốc chữa bệnh sốt rét rất hiệu quả. Ông còn nuôi các loại gia súc đặc biệt là ngựa để lấy nguyên liệu sản xuất Vacxin phòng bệnh dịch hạch.

Tại Nha Trang, Alexandre Yersin đã xây dựng Viện Pasteur mang tên người thầy của ông. Kể từ đó phần lớn thời gian ông ở trong phòngthí nghiệm Viện Pasteur, xóm Cồn, Suối Dầu. Ông có nhiều thời gian gần gũi với người xung quanh mình. Ông yêu mến trẻ con, giúp đỡ người già đau yếu, hướng dẫn cho mọi người ăn ở vệ sinh. Ông còn quan tâm đến đời sống sinh hoạt tinh thần của người dân địa phương. Thỉnh thoảng ông chiếu phim tại sân nhà cho nhân dân xem những phim tài liệu về thế giới, khoa học…

Người dân thường gọi ông bằng tên gọi thân mật là ông Năm, xem ông là ân nhân, là vị thần hộ mệnh qua các công việc ông làm cho mọi người như: Bác sĩ chẩn trị, dược sĩ bán thuốc, nhà từ thiện, nhà giáo dục, người chở che…

Khi ông mất, người dân thương khóc ông và đi tiễn đưa rất đông. Có nhiều người lập bàn thờ và thắp hương cho ông theo phong tục của người Việt Nam. Vùng đất này đã gắn liền với phần lớn cuộc đời ông. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, ông đã để lại di chúc:

“Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu, yêu cầu ông Bùi Quang Phương giữ tôi lại Nha Trang, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang và những người cộng sự lâu năm. Đám tang làm giản dị, không huy hoàng, không điếu văn”.

Không chỉ với tài năng khoa học sáng chói cống hiến trọn đời cho người dân Việt Nam và toàn thể nhân loại, Yersin còn được người dân địa phương mãi mãi tôn kính tri ân, thờ phụng như bậc thánh nhân, bởi trái tim vô cùng nhân hậu với người dân nghèo khổ lạc hậu, một nhân cách cao cả, giản dị, khiêm nhường hiếm có”.

Thanh Thanh 
(BNQ t/h)
_______

Mộ phần khiêm nhường của nhà bác học Yersin, người cứu nhân loại khỏi thảm họa dịch hạch – ở Suối Dầu, Cam Lâm, Khánh Hòa.

Di chúc của ông: “Tôi muốn được chôn ở Suối Dầu, đừng cho ai đem tôi đi nơi khác. Mọi tài sản còn lại xin tặng hết cho Viện Pasteur Nha Trang và những người cộng sự lâu năm. Đám tang làm giản dị, không huy hoàng, không điếu văn”.

chính các bạn đã chọn lựa như thế.

Phạm Thanh NghiênFollow

Tấm hình này tôi gửi đến những người bạn mà khi vào Facebook của các bạn tôi thấy tràn ngập hình ảnh ăn uống, du hí, vui chơi, hưởng thụ. Tất nhiên các bạn có quyền làm như thế, có quyền làm những gì mình thấy thoải mái, thích thú và vui vẻ. Và hẳn là cuộc sống rất cần được như vậy

.
Nhưng các bạn ạ, nếu không dành một chút nhỏ nhoi sự quan tâm của các bạn cho các vấn đề xã hội, chẳng hạn như môi trường, thì hậu quả không chỉ người khác gánh chịu, mà chính là các bạn, người thân và con cái các bạn. Hậu quả đầu tiên của ô nhiễm môi trường mà ai cũng nhìn thấy đó là bệnh tật, nhất là bệnh ung thư. Tôi tin chắc rằng trong cuộc đời các bạn hẳn đã phải tiễn đưa nhiều người quen, bạn bè, hàng xóm và cả người thân ra đi vì căn bệnh quái ác này. Và biết đâu, trong số các bạn cũng có người đang phải mang trong người căn bệnh này. Số khác ( có lẽ) cũng sẽ là những bệnh nhân tương lai của hai chữ “ung thư”. Đừng chửi tôi là dở hơi, lắm chuyện, bao đồng và thích lôi chuyện chính trị ra giảng giải nhé. Tôi biết các bạn giỏi (và khôn) hơn tôi nhiều. Nhưng nói thật, chẳng chính trị chính em ( mẹ) gì đâu. Đây là lần đầu tiên tôi nói với các bạn đấy. Và tôi biết các bạn vẫn đọc nhiều điều tôi viết, tôi nói dù không like, ko còm, không phản đối hay chia sẻ. Vì thế tôi mới viết những lời này như là sự “lên giọng” dù tôi rất không muốn bị mang tiếng như thế.

Tóm đi tóm lại là hai tóm, các bạn nói riêng và đa số người dân VN chúng ta nói chung, đã và đang là nạn nhân của đủ thứ tệ đoan, đủ thứ vấn nạn trong xã hội. Một trong những vấn nạn đó là căn bệnh ung thư. Nguyên nhân chính của đại hoạ ung thư là ô nhiễm môi trường. Oái oăm thay, thảm hoạ môi trường lại đến từ sự kém hiểu biết và sự thờ ơ của chính chúng ta, trong đó có các bạn.

Hai người thanh niên này là Hoàng Đức Bình và Nguyễn Nam Phong. Hôm nay họ bị đưa ra toà và bị kết án 14 năm và 2 năm tù giam chỉ vì đấu tranh bảo vệ môi trường, chống Formosa gây ra thảm hoạ này. Nếu hôm nay bạn qua fb của tôi, cười khẩy sau khi đọc stt này rồi mắng anh Bình, anh Phong là “ngu, dại dột”, thì không những bạn mắc tội vô cảm mà còn góp phần cổ vũ cho cái ác và cái xấu.

Vậy thì chúng ta rất xứng đáng được sống chung với các ác, cái xấu và đáng bị cai trị bởi chúng. Vì chính chúng ta, chính các bạn đã chọn lựa như thế.    

HÃY ĐỂ NHÂN DÂN TIN YÊU ĐẤT NƯỚC

Lọ Lem Đất Võ

HÃY ĐỂ NHÂN DÂN TIN YÊU ĐẤT NƯỚC

(Viết khi đọc tin Hà Nội bỏ ra 1.400 tỷ đồng tiền thuế của Nhân Dân xây nghĩa trang cho cán bộ cao cấp)

Tôi đã hai lần hương khói Trường Sơn
Tôi đã hai lần viếng thăm Quảng Trị
Nhưng ngạc nhiên với nghĩa trang 1.400 tỷ
Hà Nội dự xây vườn thượng uyển cho quan
Mỗi ngôi mộ 30 mét vuông
Có ngôi mộ chứa đầy tội lỗi
Có ngôi mộ một đời gian dối
Ngôi mộ nào từng rơi lệ vì Dân?

Tôi nghĩ về đứa trẻ thiếu ăn
Tôi nghĩ về tiền dân đóng thuế
Tôi nghĩ nợ công oằn mình trước cửa
Tôi nghĩ rất nhiều mà tìm không ra lẽ
Cái lý nào cho lương tâm?

Vui sướng gì lúc sống đã xa dân
Hạnh phúc gì khi chết chẳng gần dân mà sám hối
Lại bày trò tri ân ấm êm một cõi
Bệnh tật gì ngày mất cứ nan y

Đất nước này xấu tốt cũng của chung
Tổ quốc này giàu nghèo cùng khúc ruột
Hình chữ S đã bao phen lửa đốt
Máu nhuộm đồng bào nam bắc cắt chia
Nỗi đau xưa còn mãi đến giờ
Lớp trẻ chúng tôi không ngày yên được
Lòng thật muốn dựng xây, tâm can đêm đêm thổn thức
Mà bất bình… cơn tức nhức năm canh

Nghĩa trang là nơi nằm xuống nhẹ nhàng
Sao phải phí cả núi tiền cho bia miệng
Ai vẽ ra bàn cờ Yên Trung?
Ai đang làm màu “trách nhiệm”?
Hàng ngàn liệt sĩ Trường Sơn, Quảng Trị khóc cười số phận
Công bằng vậy ư?

Có thẹn với tiền nhân khi đất nước sinh hư
Có thẹn với lòng mình khi nói về công trạng
Tôi đã thấy nước mắt Mẹ Việt Nam lai láng
Lầm lũi một mình sức yếu tuổi cao
Tôi đã thấy vợ liệt sĩ mòn mỏi má đào
Họ đã sống một cuộc đời khó khổ
Tôi đã thấy… rất nhiều, rất nhiều những em thơ bơ vơ giữa chợ
Họ cần gì ngoài cuộc sống ấm no

Tỉnh lại đi những con khỉ diễn trò
Cuộc đời không là trường xiếc
Hãy để Nhân Dân tin yêu đất nước
Có được không???
Rạng sáng ngày 4/2/2018
(Minh Đan)

Hố chôn tập thể, nghĩa trang 1400 tỉ và những đứa bé đói

Hố chôn tập thể, nghĩa trang 1400 tỉ và những đứa bé đói

RFA

Nếu xét trên chính sách vĩ mô của nhà cầm quyền, ba khái niệm: Hố chôn tập thể; Nghĩa trang (Yên Trung) nghìn tỉ và; Những đứa bé đói khổ, rét lạnh nơi miền núi không có gì liên quan với nhau. Bởi chính sách dành cho mỗi lĩnh vực, mỗi mảng đều riêng lẻ. Nhưng xét trên khía cạnh con người, tính nhân bản, nhân văn, nhân đạo và trách nhiệm của nhà cầm quyền, thì ba vấn đề này đều thuộc về lương tri. Sự cân đối, phân bổ hợp lý ở ba lĩnh vực, khía cạnh này sẽ cho thấy mức độ quan tâm, trách nhiệm và lương tri của nhà cầm quyền.

Karl Marx, ông tổ của chủ nghĩa Cộng sản thế giới từng đưa ra một nhận định trong Tư Bản Luận (sau này, trong Chính sách kinh tế mới, viết tắt là NEP – New Economy Policy của Lênin cũng nhắc lại): Chỉ có những con thú mới quay lưng đi để liếm bộ lông trước đồng loại bị thương. Và xét trên một ý nghĩa nào đó, khi no đủ, người Cộng sản lại chọn khuynh hướng đi ngược với giáo huấn của tổ phụ Karl Marx.

Nghĩa là, xét lại tiền ngân sách nhà nước, do đâu mà có. Xin nói nhanh, do nhân dân đóng thuế mà có ngân sách nhà nước. Bản chất và hiệu dụng của ngân sách nhà nước là gì? Đó là nói một cách sâu xa, ngân sách nhà nước đóng vai trò quĩ tiết kiệm và an sinh cho toàn dân thông qua sự điều hành của nhà nước. Vấn đề an sinh xã hội, cân bằng dân số, y tế, giáo dục, văn hóa, an ninh xã hội đều phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Một khi các vấn đề an sinh xã hội và an ninh xã hội được đáp ứng đầy đủ, nhà nước mới được quyền dùng ngân sách trong các lễ lạc, tượng đài, những công trình không mang tính xã hội.

Ở đây, nghĩa trang Yên Trung có được xem là công trình xã hội hay không? Bởi ngày trong lúc này, có quá nhiều vấn đề xã hội cần được quan tâm đúng mức và đầy đủ, nếu chưa thực hiện được các vấn đề như an ninh, chủ quyền quốc gia, an ninh xã hội, an sinh xã hội… Thì tất cả những vấn đề khác nhà nước đều không được trích thuế của dân để thực hiện. Phải dành thuế của dân cho những vấn đề có tính thiết thực cho nhân dân.

Thử đặt những câu hỏi: Có bao nhiêu đứa bé dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi được đến trường, cơm đủ ngày ba bữa, có áo ấm để mặc? Có bao nhiêu hố chôn tập thể gồm cả hai phía Việt Nam Cộng Hòa và Cộng sản Bắc Việt đã thành những hố lãng quên? Và tất cả những cổng chào, tượng đài, nghĩa trang nghìn tỉ của nhà nước mang lại giá trị gì cho quốc gia, dân tộc?

Ở câu hỏi thứ nhất, về những đứa bé nghèo, có thể nói rằng khắp đất nước Việt Nam, từ thành phố đến thôn quê, vùng sâu vùng xa, miền núi, càng đi sâu vào vùng hoang vắng thì sự nghèo khổ càng hiện rõ. Bạn tôi từng lắc đầu, chép miệng nói với tôi về những đứa bé đồng bào thiểu số khi trời rét còn chưa tới 10 độ C mà chúng vẫn không mặc quần (do không có quần để mặc) rằng “mấy đứa này trời nuôi chứ không phải người nuôi”. Bất kỳ huyện miền nhúi vùng sâu, vùng xa nào tại Việt Nam đều có cảnh thiếu, đói, trời lạnh không có áo ấm, trẻ con bỏ học sớm hoặc không có cơ hội đến trường hoặc đến trường bằng những chiếc cầu dây tử thần băng qua suối chảy xiết… Có một ngàn lẻ một kiểu thiếu, đói tại Việt Nam.

Nói về những hố chôn tập thể, sở dĩ tôi phải nói đến cả hai phía bởi chỉ riêng chiến dịch tổng tiến công Mậu Thân 1968, tại Huế và nhiều tỉnh khác đã xuất hiện hàng trăm hố chôn tập thể. Trong đó, có những hố của quan chức Việt Nam Cộng Hòa và thường dân (bị Cộng sản nằm vùng giết để trả thù và bịt đầu mối cơ sở) và có những hố chôn của chính những người Cộng sản chôn người Cộng sản.

Trường hợp Cộng sản chôn Cộng sản diễn ra như thế nào? Đó là những người bộ đội Cộng sản Bắc Việt bị tổng động viên từ những ngày đầu năm 1967 cho đến thời điểm hành quân vào miền Nam để tham gia “tổng tiến công”. Cũng xin nói thêm, những bộ đội Cộng sản Bắc Việt tham chiến Mậu Thân là những cậu bé từ 13 đến 15 tuổi, họ không có gì ngoài lòng căm thù Mỹ, Ngụy rất con nít mà họ có được thông qua nền giáo dục miền Bắc với thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật, Chính Hữu… Họ chỉ biết Mỹ, Ngụy là những kẻ ăn thịt người man rợ và họ phải đi vào miền Nam để “giải phóng cho người miền Nam”, một số người trước khi đi đã xăm hàng chữ “Sinh bắc tử nam”.

Khi vào đến miền Nam, vào Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, có nhiều bộ đội trẻ giật mình vì “lập trường chính trị không vững”, khi nhìn thấy miền Nam đẹp, thanh bình và giàu có, hiện đại, không như những gì họ được dạy… Nhiều bộ đội đã tỏ ra lơ là, không còn hăng say tinh thần chiến đấu. Và cái đêm giao thừa định mệnh Tết Mậu Thân, họ bị cấp chỉ huy đưa vào vị trí chiến đấu, xích chân vào nhau để khỏi bỏ chạy lúc đánh nhau. Thường thì một tiểu đội hoặc một trung đội trẻ bị xích chân với nhau để từ đó họ phải bắn và bắn, chiến đấu và chiến đấu cho đến lúc chết.

Và hầu hết những tiểu đội, trung đội thiếu niên này đều chết trong lúc vứa đánh vừa bị xiềng chân. Họ cũng không được chôn cất tử tế, sau này, xương cốt của họ được phát hiện và chôn cất, cởi trói khi có những người dân xây cất nhà cửa, đào móng nhà và đào trúng nơi họ nằm. Tại Gò Vấp, Sài Gòn, tại trung tâm thành phố Huế, tại Đà Nẵng, Quảng Nam đều có những hố chôn như vậy. Và vẫn còn một vài nhân chứng sống, đã chứng kiến những bộ đội trẻ nít phải chiến đấu, chết và bị chính các đồng đội lấp đất trước khi rút quân ra sao. Đó là chưa nói đến một số trường hợp chính Cộng sản bị Cộng sản giết do họ không muốn tiếp tục theo con đường “giải phóng miền Nam’, họ xin về quê làm ăn, cưới vợ, và khi ra khỏi bưng, họ bị giết, bị chôn ở bìa rừng, con số này không hề ít.

Nếu cộng thêm các hố chôn tập thể mà quan chức, cán bộ miền Nam bị giết trong chiến tranh, đặc biệt là Tết Mậu Thân và những ngày trước 30 tháng 4 năm 1975, có lẽ con số lên đến cả hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn xác người vẫn còn nằm lây lất, rải rác, vất vưởng đâu đó trong lòng đất mẹ. Lẽ ra, trong nhiều năm nay, nhà cầm quyền, cụ thể là đảng Cộng sản phải có những hành động qui tập, hỗ trợ qui tập cho cả hai phía để thực hiện tinh thần “nghĩa tử là nghĩa tận” và cũng là động thái hòa giải dân tộc để đi đến hòa hợp dân tộc thay vì kêu gọi bằng những văn bản, lời nói suông. Nhưng họ đã không làm vậy!

Bây giờ, xương máu, sự đau khổ của nhân dân vẫn còn đầy rẫy mặt đất, đi đâu cũng gặp cảnh khổ, đi đâu cũng gặp những gia đình mất con, mất anh em chưa tìm thấy xác vì chiến tranh. Vậy mà người Cộng sản lại nghĩ đến chuyện lấy tiền thuế của nhân dân để xây khu nghĩa trang cho cán bộ cao cấp! Nên nhớ, trong tiền ngân sách nhà nước, cụ thể là tiền thuế của dân, gồm cả sự đóng góp của cả hai phía, không có đồng thuế nào là không nhuốm mồ hôi, nước mắt của dân nghèo, của những bà mẹ liệt sĩ Cộng sản, của những bà mẹ quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tử trận và cả những đồng đô la của người Việt hải ngoại gửi về cho người thân trong nước.

Nói một cách nghiêm túc, ngân sách nhà nước có không dưới 40% là tiền có gốc gác của người “phía bên kia”. Dù có chối bỏ, léo hánh cách gì thì đây cũng là sự thật. Nhưng vấn đề tôi muốn nói ở đây không phải là tiền phía bên này hay bên kia trộn lẫn trong ngân sách nhà nước. Mà vấn đề là một đất nước đang bị tùng xẻo, cây xanh, môi trường, tài nguyên đang kiệt quệ, những khối bê tông cơ quan, nhà quan và tượng đài mọc lên ngày càng quá nhiều, nó hiện hữu như thách thức nỗi khốn cùng, đói khổ và đau khổ của nhân dân.

Trong lúc biển bị nhiễm độc vẫn chưa kịp lành lặn, tiếp tục bị đe dọa bởi Formosa, trong lúc miền Tây Nam bộ đang bị nhiễm mặn trầm trọng, nhân dân đói khổ, trong lúc trẻ em miền núi, nhân dân miền núi vẫn đói khổ, lạc hậu, trong lúc tài nguyên rừng và khoáng sản bị tùng xẻo không thương tiếc, trong lúc vết thương Nam – Bắc chưa kịp lành lặn, trong lúc nợ công cao chất ngất, người dân còng lưng đóng thuế vì nợ công, giá xăng tăng, điện tăng, vật giá leo thang, các bệnh viện không có chỗ nằm, bệnh nhân phải chui gầm giường, nằm hành lang mà chờ điều trị… Thì nhà cầm quyền lại quyết định xây dựng thật nhiều tượng đài, cổng chào, ngốn hàng tỉ tỉ đồng, rồi lại nghĩ thêm chuyện xây khu nghĩa trang cao cấp cho cán bộ.

Liệu có khi nào giới cầm quyền suy nghĩ về những gì họ đã làm bấy lâu nay? Liệu có khi nào họ đặt mình vào nhân dân nghèo khổ để thấy sự vô lý và trơ tráo của họ? Và liệu có khi nào họ nghĩ đến một chân lý: Tượng đài xây được thì đập được, nghĩa trang xây được thì cào bằng được, cổng chào xây được thì hạ được… Bởi những thứ này không phải là sức mạnh, không phải là trường tồn. Bởi sức mạnh, sự trường tồn của một dân tộc nằm trong tay nhân dân.

Cụ thể, sức mạnh dân tộc nằm trong niềm tin, sự hưởng ứng, đồng thuận và cảm phục của nhân dân. Và sức mạnh của một đảng phái so với sức mạnh của một dân tộc cũng chỉ bằng một bụi cây trong một vườn cây. Liệu cách lựa chọn đạp qua mọi dư luận, đạp qua mọi sự bất bình, bất công để đạt sự thỏa mãn của một đảng phái, một nhóm lợi ích có phải là lựa chọn thông minh?

Và vấn đề cần đặt ra ở đây không phải là sự lựa chọn có thông minh hay không thông minh của đảng cầm quyền, mà là sự công bằng xã hội, sự sòng phẵng, tính minh bạch và tôn trọng nhân dân bắt buộc phải có của nhà lãnh đạo. Họ dù muốn hay không muốn cũng phải thực hiện nguyện vọng của nhân dân và không được phép đạp lên nỗi đau, nỗi khổ của nhân dân mà hưởng lộc! Bởi đất nước đã quá đủ đau khổ, nhân dân đã quá đủ lầm than và hơn bao giờ hết, nhân dân, đất nước cần phát triển, cần tiến bộ, cần tồn tại đúng nghĩa một dân tộc, một quốc gia!

 

Nhà hoạt động môi trường Hoàng Bình bị kết án nặng nề 14 năm tù giam

Trần Bang and Tony Ton shared Châu Văn Thi‘s post.
Image may contain: 4 people, people standing and suit

Châu Văn Thi

Nhà hoạt động môi trường Hoàng Bình bị kết án nặng nề 14 năm tù giam

Theo đó, ông Hoàng Bình bị kết án 7 năm tù giam về cáo buộc “chống người thi hành công vụ” và 7 năm tù giam về hành vi”Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm quyền lợi ích của nhà nước, tổ chức, công dân”. Tổng hợp hình phạt là 14 năm tù giam.

Ông Nguyễn Nam Phong bị tuyên 2 năm tù giam về tội “Chống người thi hành công vụ”.

Bên ngoài phiên tòa có khoảng 10 người bị đánh đập, bắt giữ vô cớ, theo người thân của ông Hoàng Bình cho hay.

Trước đó, linh mục Nguyễn Đình Thục gửi thư xin được làm nhân chứng trong phiên tòa nhưng không nhận được hồi đáp.

Ảnh: Ông Nguyễn Nam Phong và Hoàng Đức Bình trong phiên tòa sáng nay. Nguồn: Báo Nghệ An

Hoàng Bình và Nguyễn Nam Phong vô tội!

“Sáng 6-2-2018, TAND tỉnh Nghệ An xét xử nhà hoạt động môi trường Hoàng Đức Bình và Nguyễn Nam Phong với cáo buộc tội danh “Chống người thi hành công vụ”. Riêng ông Hoàng Bình bị truy tố thêm tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm quyền lợi ích của nhà nước, tổ chức, công dân” theo điều 258 BLHS.

Bên ngoài phiên tòa có khoảng 10 người bị đánh đập, bắt giữ vô cớ, theo người thân của ông Hoàng Bình cho hay.

Trước đó, linh mục Nguyễn Đình Thục gửi thư xin được làm nhân chứng trong phiên tòa nhưng không nhận được hồi đáp.

Ảnh: Ông Nguyễn Nam Phong và Hoàng Đức Bình trong phiên tòa sáng nay. Nguồn: Báo Nghệ An

Việt Nam-Trung Quốc: “Hai Quốc gia, Một trạm Kiểm soát Cửa khẩu”

 

Hơn 100 người Việt tụ tập trước tượng đài Vua Lý Thái Tổ tại trung tâm Hà Nội hôm 17/02/16 để tưởng niệm kỷ niệm ngày nổ ra chiến tranh biên giới Việt-Trung. Những tấm biểu ngữ ghi hàng chữ "Ngày 17/2/1979, Nhân dân sẽ không quên". (AP Photo/ Tran Van Minh.)

Hơn 100 người Việt tụ tập trước tượng đài Vua Lý Thái Tổ tại trung tâm Hà Nội hôm 17/02/16 để tưởng niệm kỷ niệm ngày nổ ra chiến tranh biên giới Việt-Trung. Những tấm biểu ngữ ghi hàng chữ “Ngày 17/2/1979, Nhân dân sẽ không quên”. (AP Photo/ Tran Van Minh.)

Việt Nam và Trung Quốc có đường biên giới đất liền dài tới 1,280 km và kế hoạch thành lập một trạm kiểm soát biên giới chung đã có từ lâu. Hôm 4/2, tờ South China Morning Post của Hong Kong dẫn lời một giới chức Trung Quốc nói rằng dự án này có thể sớm đi vào hoạt động, có lẽ từ tháng Năm năm nay. Ông Jian Xingchao, phó thị trưởng thành phố Phòng Thành Cảng, nơi được chọn làm địa điểm đặt 1 trong hai trạm kiểm soát cửa khẩu chung, nói: “Rất nhiều chi tiết còn đang dược thảo luận, nhưng cả hai bên đều có chung ước muốn đó.”

Trạm kiểm soát đầu tiên, ở Phòng Thành Cảng (Fanchenggang), sẽ được thiết lập trên cầu Dongxing-Móng Cái. Trạm thứ nhì có thể được đặt ở Cầu Hữu nghị, cửa khẩu ở Pingxiang.

Cả Phòng Thành Cảng lẫn Pingxiang đều thuộc Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây ở miền Nam Trung Quốc. Trạm đầu tiên sẽ kết nối với thành phố Móng Cái ở tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Quảng Ninh và trạm kiểm soát thứ hai kết nối với thị trấn Đông Đăng ở tỉnh Lạng Sơn.

Theo ông Jian, vấn đề chủ yếu xoay quanh vấn đề chủ quyền vì bên nào tiến hành kiểm tra ở biên giới thì trên thực tế bên đó có hiệu lực thực hiện chủ quyền đối với bên kia, do đó đây là một vấn đề “khó giải quyết bởi vì không bên nào muốn buông bỏ quyền lực đó”.

Nhà hoạt động chống Trung Quốc, Tiến sĩ Nguyễn Quang A tuần hành dọc theo Hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội để đánh dấu kỷ niệm năm thứ 35 Chiến Tranh biên giới Việt-Trung, ảnh chụp ngày 16/2/014.

Nhà hoạt động chống Trung Quốc, Tiến sĩ Nguyễn Quang A tuần hành dọc theo Hồ Hoàn Kiếm ở Hà Nội để đánh dấu kỷ niệm năm thứ 35 Chiến Tranh biên giới Việt-Trung, ảnh chụp ngày 16/2/014.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển IDS và Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Việt Nam – Hungary, nhận định:

“Cái đó có thể gây nhiều lo ngại trong dân chúng Việt Nam. Thực sự nếu trong một bối cảnh chung của sự hội nhập quốc tế mà chúng ta thấy ở ASEAN hay ở các nước thuộc khu vực Schengen chẳng hạn, thì việc đó có thể là một việc bình thường, thậm chí đáng hoan nghênh, nhưng với hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam và Trung Quốc, thì tôi nghĩ cái chuyện đấy gây rất nhiều phản cảm.”

Ông nói thái độ hoài nghi và tinh thần phản kháng Trung Quốc nơi người dân Việt Nam còn rất cao, trong bối cảnh Trung Quốc đang tìm mọi cách để bành trướng và gây ảnh hưởng lớn tới Việt Nam “như đã gây ở Campuchia và Lào.”

Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng dự án này có lợi cho Trung Quốc để thực hiện cái gọi là chiến lược “tằm ăn dâu” lấn chiếm đất, bởi vì nó tạo điều kiện dễ dàng cho người Trung Quốc vào Việt Nam hơn là người Việt Nam vào Trung Quốc, kể cả dưới chiêu bài du lịch. Ông đơn cử trường hợp thành phố Phủ Lý, cách đây mấy chục năm chỉ có vài chục người Trung Quốc đi du lịch đến rồi ở lại, bây giờ có khoảng 40,000 người Trung Quốc làm ăn trong một thành phố chỉ có khoảng 100,000 dân. TS Quang A cho rằng đó là một “sự bành trướng rất hữu hiệu của Trung Quốc.”

“Trung Quốc là một nước đông dân nhất thế giới và có chủ trương nhất quán là như thế, thì đối với kinh nghiệm của VN lịch sử nhiều ngàn năm về việc giữ gìn độc lập thì chắc chắn là người dân và tôi tin rằng trong giới lãnh đạo cũng có người quan ngại về tiến triển đấy”.

“Như vậy cái chủ quyền của hai nước nó không được xác định rõ ràng. Tôi không hiểu tại sao mà lại phải nhập làm một. Tôi là một người nghiên cứu lịch sử từ xưa đến nay, tôi cũng không hiểu.”
Nhà sử học Nguyễn Nhã, tác giả nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Tiến sĩ Nguyễn Nhã, tác giả của nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lịch sử xác lập chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhận định:

“Tôi đã từng đến Lạng Sơn thì tôi thấy cửa ngõ của Lạng Sơn, ở bên này là của VN, bên kia là của Trung Quốc, thì bây giờ nhập lại một thì tôi không hiểu là ý đồ thế nào. Như vậy là phải thống nhất với nhau, mà có khi bên này bên kia không đồng ý với nhau thì sao, thì tôi cũng không rõ.”

Báo South China Morning Post dẫn lời Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp của Viện nghiên cứu Yusof Ishak ở Singapore, tỏ ra lạc quan là Việt Nam và Trung Quốc có thể hợp tác với nhau, ông coi dự án này như một cách để 2 nước có thể làm việc với nhau và phục vụ các lợi ích chung, vượt lên trên cuộc tranh chấp ở Biển Đông để hướng tới phía trước.

Nhưng nhà sử học Nguyễn Nhã tiên đoán sẽ có những phức tạp khó khăn khi kế hoạch “Hai quốc gia, một trạm kiểm soát cửa khẩu” đi vào hoạt động:

“Như vậy cái chủ quyền của hai nước nó không được xác định rõ ràng. Tôi không hiểu tại sao mà lại phải nhập làm một. Tôi là một người nghiên cứu lịch sử từ xưa đến nay, tôi cũng không hiểu.”

Tuy các nhà nghiên cứu đều cho rằng dự án này cũng có mặt tích cực của nó khi tạo thuận lợi cho hợp tác giao thương, giao lưu văn hóa, tăng sự hiểu biết lẫn nhau trong khu vực, nhưng cùng lúc, họ cảnh báo về mối nguy tiềm tàng trong bối cảnh Trung Quốc kiên trì tiến hành chiến dịch tằm ăn dâu để thực hiện tham vọng “Nam tiến”.

“Tôi nghĩ rằng cái đó nó càng gây nghi ngờ trong dân chúng về những cái gọi là hiệp định bí mật như hiệp ước Thành Đô mà rất tiếc là chính quyền Việt nam, Đảng Cộng sản VN không bác bỏ mà cũng không công nhận, và cái điều đấy nó càng làm cho sự lo ngại nó có cơ sở hơn.”
Tiến sĩ Nguyễn Quang A

Tiến sĩ Nguyễn Quang A:

“Nếu người ta hiểu biết lẫn nhau hơn, giao thương làm ăn với nhau hơn thì các sự căng thẳng sẽ giảm bớt, nhưng tôi nghĩ phải lưu ý đến luôn cả mặt kia nữa vì không khéo thì lợi bất cập hại cho nên làm cái gì cũng phải có một mức độ tính toán thiệt hơn.”

Liệu khái niệm “Hai quốc gia, một trạm kiểm soát cửa khẩu”, có gợi lên cách hành xử của Trung Quốc khi thực hiện chính sách “Một quốc gia, hai thể chế” tại đặc khu Hong Kong?

Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng kế hoạch “Hai quốc gia, một trạm kiểm soát” càng gây thêm nghi ngờ về hiệp định Thành Đô bí mật giữa lãnh đạo Đảng Cộng sản VN và Trung Quốc như tin đồn bấy lâu nay.

“Tôi nghĩ rằng cái đó nó càng gây nghi ngờ trong dân chúng về những cái gọi là hiệp định bí mật như hiệp ước Thành Đô mà rất tiếc là chính quyền Việt nam, Đảng Cộng sản VN không bác bỏ mà cũng không công nhận, và cái điều đấy nó càng làm cho sự lo ngại nó có cơ sở hơn. ”

Tiến sĩ Nguyễn Nhã không nhắc tới hiệp định Thành Đô, nhưng cũng nêu lên quan ngại của nhiều người và của cá nhân ông:

“Theo tôi, nếu không có chuyện Trung Quốc áp đặt bằng vũ lực ở Hoàng Sa đó thì có khi lại không đặt vấn đề ra, và các nước như Cộng đồng chung Châu Âu đó thì họ cũng có sự hợp tác rất là chặt chẽ, nhưng mà chủ quyền của nước nào, và văn hóa của nước nào họ vẫn tôn trọng. Hàng rào có thể bỏ đi nhưng tôi thấy là các nước từ nước Pháp qua nước Đức và các nước còn lại thì tôi thấy chủ quyền của mỗi nước vẫn được tôn trọng..”

Nhà sử học nói nhiều người lấy làm lo ngại, và bản thân ông cũng lo ngại nhưng “sau này thì lịch sử viết ra thì mới biết được”.