Bạn có thể trồng lại một cánh rừng, “tẩy sạch” một dòng sông ô nhiễm, hiện đại hóa một ngôi làng, canh tân kỹ thuật bắt kịp bước tiến nhân loại… Tất cả đều gần như không thể ở hoàn cảnh hiện tại nhưng vẫn có thể xảy ra nếu tận tâm tận lực. Tuy nhiên, bạn sẽ mất bao nhiêu thời gian để “dựng lại người” (tựa một quyển sách của nhà báo Đoàn Khắc Xuyên)? Với đà thoái hóa văn hóa đến tận cùng như hiện nay, chắc chắn phải mất ít nhất 100 năm để khôi phục lại những giá trị nhân bản căn bản và cốt lõi nhất vốn từng tồn tại ngay cả trong những giai đoạn thăng trầm và bi thương của lịch sử đất nước. 100 năm với một ý chí nhất định. Còn không thì sẽ chẳng bao giờ, khi mà văn hóa không những không được bồi đắp mà còn bị tẩy xóa hàng ngày.
Rải rác trong các bài viết mình, tôi thỉnh thoảng nhắc đến văn hóa miền Nam trước 1975. Điều này không phải là sự thương cảm hay hoài niệm. Tôi không ủy mị đến mức ấy. Tôi chỉ hàm ý rằng để dựng lại văn hóa thì cách khả dĩ hiện nay là học lại những bài học mà nền văn hóa miền Nam cũ để lại.
Miền Nam ở đây không phải vùng miền trong khái niệm địa lý mà là một không gian văn hóa kết tinh từ ba miền. Muốn thay đổi “nền văn hóa” hiện tại thì phải có cái gì để thay thế. Cái đó chính là nền văn hóa và những giá trị văn hóa của miền Nam trước 1975.
“Dựng lại người” là khó vô vàn. Nó phải trở thành một ý thức thường trực và được thực hiện thường xuyên. Dựng lại người là khó vô cùng. Điều đó vĩnh viễn không bao giờ làm được nếu không làm ngay từ bây giờ. Điều đó vĩnh viễn không bao giờ xảy ra nếu mỗi chúng ta không tự dựng lại mình, tự học lại mình và học từ người, tự tìm cho mình một liều kháng thể văn hóa đủ mạnh để không bị những thứ vô bổ nhảm nhí bủa quanh và tấn công hàng ngày.
Bộ đội cộng sản chiếm được một xe tăng Mỹ bỏ lại tại Huế. Tết Mậu thân 1968.
AFP
Tet_offensive.mp3
00:00/00:00
Thay đổi cục diện chiến tranh
80 ngàn quân của lực lượng cộng sản Việt Nam đồng loạt tấn công hơn 100 địa điểm trên toàn bộ lãnh thổ miền Nam Việt Nam, vào đúng đêm giao thừa Tết Mậu thân, nhằm ngày 29 tháng 1 năm 1968 Tây lịch.
Các vị trí bị tấn công bao gồm hầu như toàn bộ các thành thị miền Nam, nơi quân đội miền Nam Việt Nam và đồng minh Hoa Kỳ kiểm soát, bao gồm cả thủ đô Sài Gòn. Tại các thành thị này, trong suốt khoảng thời gian trước đó, ít xảy ra các trận giao tranh giữa lực lượng chính quyền Nam Việt Nam và các du kích quân cộng sản, thường kiểm soát vùng thôn quê và rừng núi.
Cuộc tấn công Mậu thân là một cuộc tấn công dũng cảm, đã làm thay đổi cuộc chiến Việt Nam. -Hãng tin AFP.
Cuộc tấn công bất ngờ đúng vào ngày Tết cổ truyền này là một hành động đơn phương xóa bỏ thời điểm hưu chiến mà hai bên mặc định công nhận trong những năm chiến tranh trước đó Đó là một cuộc chiến bắt đầu hầu như ngay sau khi cuộc chiến Đông Dương kết thúc và người Pháp rút ra khỏi Việt Nam vào năm 1954, với sự tồn tại trên thực tế hai quốc gia Việt Nam, miền Bắc theo chế độ cộng sản, và miền Nam thuộc thế giới tự do.
Bắt đầu từ năm 1965, quân đội Mỹ chính thức tham chiến tại Việt Nam bên cạnh đồng minh miền Nam Việt Nam, trong một cuộc chiến chống du kích cộng sản nổi dậy tại chổ, với sự hỗ trợ ngày càng lớn của lực lượng chính qui từ miền Bắc.
Hãng tin Pháp, AFP, trong bài kỷ niệm 50 năm ngày cuộc tấn công xảy ra viết rằng cuộc tấn công Mậu thân là một cuộc tấn công dũng cảm, đã làm thay đổi cuộc chiến Việt Nam.
AFP phân tích rằng khi lực lượng cộng sản tiến hành cuộc tấn công, họ có hai mục đích, một là tiêu diệt lực lượng đối thủ, và hai là kích động lực lượng dân chúng nổi dậy lật đổ chính quyền Nam Việt Nam được Hoa Kỳ hậu thuẫn.
AFP cũng như nhiều phân tích khác cho thấy rằng cả hai mục đích được các vị lãnh đạo cộng sản đề ra đều thất bại.
Lực lượng Nam Việt Nam không bị tiêu diệt mà ngược lại quân đội cộng sản bị tổn thất rất nặng nề sau khi bị phản công.
Điều thứ hai là không có cuộc nổi dậy nào của dân chúng xảy ra.
Tuy nhiên, giới phân tích cũng nói rằng hình ảnh các trận đánh của Tết Mậu thân, nhất là cảnh chiến tranh trên đường phố Sài Gòn, nơi quân đội cộng sản đã tấn công vào Tòa Đại sứ Mỹ, đã làm cho nước Mỹ không còn ý chí để tiếp tục cuộc chiến, với phong trào phản chiến lan rộng khắp nơi.
Sau cuộc tấn công nhiều tuần lễ, những hố chôn tập thể được khám phá và các cuộc thảm sát ghê rợn mới được phơi bày. -Ông Bob Kaylor, cựu phóng viên UPI.
Trả lời chúng tôi từ Hà Nội, ông Dương Trung Quốc, Tổng thư ký Hội sử học Việt Nam, và hiện là đại biểu quốc hội bình luận về nhận định này của báo chí phương Tây:
“Tôi nghĩ rằng các ý kiến, các cách nhìn từ phương Tây như ông vừa nói, ngày càng gần với nhận thức của một số người trong giới sử học của chúng tôi. Trong một thời gian rất dài người ta chỉ nói đến chiến thắng thôi, tức là sử học Việt Nam đấy. Họ nói giảm nhẹ đi phần nào cái tổn thất, kể cả những sai lầm, và nhấn mạnh đến điều mà phương Tây nói là nó làm cho ý chí của nước Mỹ không còn nữa.”
Ông Dan Southerland, vào thời điểm Tết Mậu thân 1968, là phóng viên của hãng tin UPI tại Sài Gòn nói với đài RFA rằng phía Mỹ và Nam Việt Nam cho rằng họ đã thắng các trận đánh, nhưng phái miền Bắc cộng sản cho rằng điều đó không có liên quan vì cuối cùng họ vẫn thắng cuộc chiến tranh. Ông nói tiếp:
“Tướng Westmoreland, Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam báo cáo đã thắng trận Mậu Thân. Tuy nhiên, Tổng thống Johnson lúc bấy giờ bị sốc khi xem được hình ảnh Việt Cộng tấn công vào tòa Đại sứ Mỹ. Truyền thông Hoa Kỳ đưa tin cuộc chiến ở Việt Nam bị sa lầy và phong trào kêu gọi rút quân. Tổng thống Johnson đã ra lệnh ngưng bỏ bom ở miền Bắc và kêu gọi Bắc Việt ngồi vào bàn Hội nghị Paris.”
Cuộc thảm sát tại Huế
Đó là những đánh giá về vai trò của Mậu thân trong toàn bộ cục diện cuộc chiến Việt Nam nói chung. Ngoài ra còn có một điểm rất đặc biệt của Mậu Thân đối với người Việt Nam, nhất là người miền Nam Việt Nam, đó là vụ thảm sát hàng ngàn dân thường tại Huế của lực lượng cộng sản.
Nhà báo Bob Kaylor, làm việc cho hãng UPI tại Nha Trang vào thời điểm Tết Mậu thân nói với chúng tôi:
“Có những câu chuyện được kể lại quân đội Cộng sản vào trong thành phố, đi đến từng nhà ghi tên từng người và bắt họ đi, rồi họ bị mất tích luôn vào thời điểm đó. Không ai biết việc gì đã xảy ra với những người này. Sau cuộc tấn công nhiều tuần lễ, những hố chôn tập thể được khám phá và các cuộc thảm sát ghê rợn mới được phơi bày.”
Điều đó (thảm sát Mậu thân), tôi nghĩ rằng chắc cuộc chiến tranh nào cũng vậy thôi. Còn thực sự nó diễn ra như thế nào, và bản chất nó là cái gì thì chắc phải một thời gian nữa chúng ta mới làm rõ được.
-Ông Dương Trung Quốc, nhà sử học, đại biểu quốc hội.
Câu chuyện này hầu như được kể lại mỗi dịp xuân về tại các cộng đồng người Việt tị nạn cộng sản tại hải ngoại, và chưa bao giờ được nhà nước Việt Nam nhắc đến, hay công nhận. Rất hiếm hoi là trường hợp của một nhân vật cộng sản tại Huế là ông Hoàng Phủ Ngọc Tường được đài phát thanh RFI tiếng Việt của Pháp phỏng vấn năm 1997, cũng như trước đó trả lời phỏng vấn về sự kiện thảm sát Mậu thân với các nhà làm phim Việt Nam thiên sử truyền hình của Mỹ. Ông Tường có đề cập đến những người bị giết oan bởi lực lượng cộng sản mà ông gọi là lực lượng nổi dậy. Tuy nhiên ông cho rằng đây không phải là chủ trương của quân đội cộng sản.
Chúng tôi cũng đặt câu hỏi về thảm sát Mậu thân đối với ông Dương Trung Quốc. Ông trả lời như sau:
“Tôi nghĩ là câu chuyện này cũng xuất hiện nơi này nơi kia rất nhiều, trong những hồi ký, trong những công trình ở nước ngoài. Điều đó thực ra phải có một sự thẩm định. Còn đương nhiên chiến tranh là tàn phá, chiến tranh là chuyện mà ở thời điểm đó con người bị cuốn vào chiến tranh, nhân tính có thể bị tổn thương. Điều đó, tôi nghĩ rằng chắc cuộc chiến tranh nào cũng vậy thôi. Còn thực sự nó diễn ra như thế nào, và bản chất nó là cái gì thì chắc phải một thời gian nữa chúng ta mới làm rõ được.”
Ông Dương Trung Quốc nói rằng phải cần một thời gian nữa chúng ta mới làm rõ được cuộc chiến Tết Mậu thân diễn ra như thế nào, và bản chất nó là gì. Tức khắc câu hỏi được nêu ra là phải chờ bao lâu nữa, vì đừng quên đã năm mươi năm sau chiến cuộc Mậu Thân, tại Việt Nam người ta vẫn chưa nghe lời giải đáp nào từ phía những người cộng sản đang cầm quyền.
Thánh Thomas Aquinas (Toma Aquino, 1225–1274) là phát ngôn viên xuất sắc của truyền thống Công giáo về tín lý và mạc khải. Ngài là 1 trong 4 thầy dạy vĩ đại của Giáo hội Công giáo thời Trung cổ (3 vị kia là Alexandre Hales, Albert Cả và Bonaventura), Ngài được tôn vinh là Tiến sĩ Giáo hội và Tiến sĩ Thiên thần. Thomas thông thái xuất chúng nhưng rất khiêm nhường.
Thomas Aquinas chào đời vào mùa xuân năm 1225 tại Rocca-secca, gần Aquino, một thị trấn ở miền Nam nước Ý. Thomas là con trai thứ ba trong một gia đình vị vọng: Ông bà Bá Tước Landolfo và Theodora.
Lúc 5 tuổi (1230), Thomas được song thân gửi vào Đan viện Biển Đức tại Cassino để thụ huấn. Song thân của Thomas hy vọng con trai sẽ trở thành Tu viện trưởng của Đan viện này, vì điều đó sẽ làm cho ảnh hưởng của thân phụ lan rộng hơn, và để làm vẻ vang dòng dõi quý tộc. Nhưng năm 1235, Thomas phải rời Đan viện vì có sự tranh chấp giữa thần quyền và thế quyền, trong đó có sự tham dự của các vị lãnh đạo thành Aquino. Là con vị lãnh chúa vùng Aquinas thuộc hoàng tộc Hohenstanfen nhưng Thomas không thích thế quyền.
Năm 1239, Thomas bắt đầu theo học tại phân khoa nghệ thuật Đại học Neapoli, và tốt nghiệp năm 1244, lúc đó Thomas vừa tròn 19 tuổi. Tại đây, ngài rất say mê triết học của Aristote. Cũng chính thời gian này Thomas khám phá ra ơn gọi tu trì.
Năm 1243, Thomas bỏ kế hoạch của gia đình và xin vào Dòng Anh Em Thuyết Giáo (Dòng Đa-minh), mẹ ngài rất thất vọng. Thế nên mẹ ngài cho người bắt ngài về và biệt giam ngài ở nhà hơn 1 năm. Thậm chí gia đình còn thuê gái điếm vào quyến rũ Thomas, nhưng ngài đã lấy cây củi đang cháy trong lò sưởi mà đuổi đi. Ngài vẽ hình Thánh Giá trên tường và qùy xuống cầu nguyện. Thiên thần hiện ra thắt dây đồng trinh cho ngài. Vì thế, ngài còn được gọi là Tiến sĩ thiên thần. Sau 1 tháng, ả gái điếm đành chịu thua. Người chị thương em nên giúp Thomas trốn khỏi nhà.
Khi được tự do, ngài đi Paris rồi tới Cologne và hoàn tất việc học với Thánh Albert Cả. Ngài tốt nghiệp và làm giáo sư tại Paris khi mới ngoài 20 tuổi. Ngài sống trong dinh của Đức Giáo Hoàng Urban IV, hướng dẫn các trường dòng Đa-minh ở Rome và Viterbo, tranh luận với các tu sĩ khất thực, tranh luận với một số tu sĩ Dòng Phanxicô về thuyết của Aristote, và chống lại giáo thuyết Manich, kể cả phái Averroist. Trong trường, Thomas rất ít nói. Ngài thường suy tư đến ngây người nên bị gán cho biệt danh “con bò câm xứ Silixia.” Giáo sư Albert biết lực học của Thomas nên nói trước lớp: “Hãy học theo Thomas trong cách suy nghĩ. Đó là một con bò, nhưng tiếng rống của con bò này sẽ vang dội khắp thế giới.” Quả thật, lời tiên báo đó của Thánh Albert Cả đã ứng nghiệm.
Năm 1248, Thomas theo thầy Albert về Cologne dạy học và tiếp tục nghiên cứu. Cũng tại đây, Thomas được lãnh tác vụ linh mục và dần dần trở nên nổi tiếng về sự thông thái và thánh thiện. Giáo quyền muốn dành cho Thomas nhiều chức tước và đặc ân, nhưng Thomas từ chối tất cả, chỉ muốn làm một tu sĩ bình thường, không danh vọng, không chức tước.
Trong thời gian làm giáo sư, Thomas đã đọc nhiều tác phẩm thuộc đủ các môn và đã sáng tác nhiều tác phẩm triết học và thần học rất có giá trị. Sinh thời, danh tiếng ngài vang dội, nhiều người đổ xô đến xin ý kiến ngài. Người ta hỏi:
– Theo giáo sư, nhàn rỗi là gì? – Là cái búa mà kẻ thù bổ xuống đầu bạn. – Cái gì tạo ra sức mạnh của giáo sư: Kinh nguyện, việc làm hay ý chí? – Kinh nguyện. Ai không cầu nguyện thì như người lính ra trận không có vũ khí. – Làm thế nào để được cứu độ? – Phải khiêm nhường.
Khi ở Ý, Đức Giáo Hoàng Urban IV giao cho ngài nhiều trọng trách – như giảng thuyết cho người Do thái, và muốn trao mũ gậy giám mục cho ngài nhưng ngài từ chối để được dạy học và lo việc cho nhà dòng. Tương truyền, Thomas đã đàm đạo với Đức Mẹ, các thánh và cả với Chúa Giêsu nữa. Có lần Chúa Giêsu hỏi: “Sách con viết, Ta rất hài lòng. Con muốn được thưởng gì?” Thomas đáp: “Con chỉ muốn được yêu mến Chúa mà thôi.”
Công đóng góp to lớn của ngài cho Giáo hội Công giáo là những sách ngài viết, đặc biệt là bộ Tổng luận Thần học (Summa Theologiae) được viết từ năm 1266–1273. Sự hiệp nhất, sự hài hòa và sự liên tục của đức tin và lý lẽ, của kiến thức con người tự nhiên và được mặc khải, tất cả đã thấm sâu vào những gì ngài viết. Thánh Thomas, với tư cách là người-của-Phúc-Âm, đã trở thành người hăng hái bảo vệ chân lý mặc khải. Ngài hiểu biết sâu rộng đủ để thấy trật tự thiên nhiên đến từ Thiên Chúa, Đấng Sáng Tạo, và thấy lý lẽ là tặng phẩm từ trời rất được yêu mến.
Nhưng tác phẩm cuối cùng của ngài bộ Tổng luận Thần học, giải quyết toàn bộ Thần học Công giáo, lại chưa hoàn tất. Ngài ngừng viết tác phẩm này sau khi cử hành Thánh lễ ngày 6-12-1273. Khi được hỏi tại sao ngài ngừng viết, ngài khiêm nhường cho biết: “Tôi không thể tiếp tục… Những gì tôi đã viết có vẻ như rơm rác so với những gì tôi nhìn thấy và những gì tôi được mặc khải.”
Có một thời gian, sách của Thánh Thomas đã bị Giáo hội cấm vì cho là lạc giáo, nhưng sau đó lại công nhận và tuyên bố rằng ai không đọc sách của ngài sẽ bị lầm lạc. Bất kỳ ai tu học làm linh mục đều phải học Triết học và Thần học của ngài. Trước đây, các trường học đời cũng học Triết học của ngài, và ngay từ các lớp tiểu học, các học sinh đều đọc kinh cầu nguyện với ngài trước giờ học: “Lạy Thánh Thomas là quan thày các nhà trường…”.
Ngài đã được Đức Giáo Hoàng Grêgôriô mời đến dự Công đồng Lyon II. Nhưng khi đang trên đường tới dự Công đồng, ngài bị bệnh và qua đời ngày 7-3-1274 tại Đan viện Xitô Fossa Nuova, lúc đó ngài 49 tuổi – tuổi mà người ta cho là “tuổi độc” (49 chưa qua, 53 đã tới). Ngài được Đức Giáo Hoàng Gioan XXII tôn phong hiển thánh năm 1323, và được Đức Giáo Hoàng Piô V tôn phong Tiến sĩ Hội thánh năm 1567 vì đạo lý uyên bác và vững chắc của ngài. Đức Giáo Hoàng Leo XIII đã đặt ngài là bổn mạng các nhà thần học và các trường học Công giáo. Giáo hội cử hành lễ nhớ Thánh Thomas Tiến sĩ ngày 28 tháng 1 hằng năm.
Lạy Thiên Chúa chí minh và chí thiện, con cảm tạ Chúa đã ban cho Giáo hội một Thomas thánh thiện và thông thái, nhưng lại rất khiêm nhường; xin giúp con biết noi gương Thánh Thomas. Lạy Thánh Thomas, bổn mạng đáng kính của con, xin soi sáng và hướng dẫn con ngay từ khi con suy nghĩ, và dạy con biết hành động như ngài, tất cả chỉ vì Danh Chúa chứ không vì thứ gì khác. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên-Chúa-Làm-Người và cứu độ nhân loại. Amen.
CTV Danlambao – Báo lề đảng vừa trình làng cơ ngơi của trung tướng kiêm nhà văn công an Nguyễn Hữu Ước. Nhìn vào cái được gọi là “chốn lưu ẩn” này của ông Bí thư Đảng bộ Báo Công an nhân dân; Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng Lực lượng, Bộ Công an; Tổng Biên tập kênh truyền hình Công an nhân dân người ta tự hỏi:
Nguyễn Phú Trọng đâu, sao không cử đàn em điều tra xem tướng này là tướng cướp hay tướng… cộng sản loại gì mà giàu đến mức này!?
Trả lời: nó còn ok tức là nó thuộc phe đồng chí ta chứ không phải phe đồng chí địch.
Hữu Ước cũng là người từng bị Ls Trần Đình Triển tố cáo đã làm “phù phép” bán 2 mảnh đất rộng 28.000 m2 UBND TP Hà Nội cấp cho báo Công an nhân dân (CAND) để xây nhà ở cho cán bộ và bỏ túi 200 tỉ đồng. Sự việc đổ bể, ông trung tướng, cũng là nhà văn của đảng này làm văn bản xin trả lại cho thành phố.
Vì là thành phần chuột trong bình nên Hữu Ước được hạ cánh an toàn và thảnh thơi xây dựng chốn lưu ẩn khủng.
Thử hỏi một người đi bộ đội từ năm 1970, sau đó làm phóng viên cho công an, rồi lên làm tổng biên tập Báo An ninh Thế giới và Tạp chí Văn hóa – Văn nghệ Công an, leo lên chức Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng Lực lượng Công an Nhân dân và kiêm nhiệm chức vụ Tổng Biên tập Báo Công an Nhân dân, đồng thời là Ủy viên Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương, Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà báo Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam… chừng đó chức vụ và cả đời không một ngày “lao động thối móng tay” thì tiền đâu ông trung tướng công an này có để xây một cơ ngơi “vĩ đại” như vậy?
Chỉ có một câu trả lời: vì nó là đảng viên cao cấp của cộng sản!!!
Rất đông người dân tập trung tại hiện trường vụ án mạng. (Hình: Zing)
NGHỆ AN, Việt Nam (NV) – Đang ngồi uống nước bên nhà hàng nhóm, một thợ sơn ở xã Diễn Hoàng, huyện Diễn Châu, bị một nhóm côn đồ cầm dao xông vào chém đứt cổ và chết trên đường đi cấp cứu.
Theo báo Thanh Niên, khoảng 7 giờ tối 22 Tháng Giêng, ông Hoàng Thanh Trà (38 tuổi, trú xã Diễn Hoàng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An), làm nghề thợ sơn, đi “họp phường” (một dạng chơi hụi) ở xã Diễn Mỹ. Ngồi được khoảng 10 phút thì có một nhóm thanh niên gọi ông ra nói chuyện. Hai bên lời qua tiếng lại rồi xảy ra xô xát. Lúc này, được mọi người can ngăn nên ông Trà ra về.
Tuy nhiên, nhóm thanh niên này không từ bỏ mà tiếp tục chạy về xã Diễn Hoàng truy lùng ông Trà. Không thấy ông Trà ở nhà, nhóm côn đồ truy tìm khắp xã. Khi phát hiện ông Trà đang ngồi uống nước ở nhà hàng xóm, lập tức cả nhóm chạy vào vung dao chém tới tấp nhiều nhát, trong đó có một nhát làm đứt cổ, khiến nạn nhân chết trên đường đi cấp cứu.
Theo báo Zing, một thanh niên bị cảnh sát bắt giữ khi bỏ chạy khỏi hiện trường khoảng 300 mét. Nơi xảy ra án mạng, cảnh sát thu được năm con dao.
Báo này cho hay, Thượng Tá Trần Văn Khang, phó trưởng Công An huyện Diễn Châu, cho biết Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra đang điều tra và chưa thể cung cấp danh tính đối tượng cũng như nguyên nhân vụ án. (Tr.N)
WASHINGTON, D.C. (NV) – Các điều tra viên của quốc hội Mỹ hôm Thứ Tư cho hay thành phần sản xuất thuốc giảm đau có chứa ma túy (opioid) từ Trung Quốc đang lợi dụng bưu điện Mỹ kiểm soát không xuể để ào ạt gởi số lượng lớn thuốc này sang cho đại diện phân phối của họ.
Trong cuộc điều tra kéo dài một năm, các giới chức trách nhiệm cũng thấy rằng giới bán ma túy ở Trung Quốc, công khai quảng cáo các loại opioid như fentanyl cho người mua ở Mỹ, đang thường xuyên sử dụng việc chuyển giao qua hệ thống bưu điện Mỹ.
Những kẻ này lợi dụng việc bưu điện Mỹ chưa hoàn toàn thiết lập xong hệ thống thu thập dữ kiện điện tử để giúp giới hữu trách nhận diện các bưu kiện đáng ngờ.
Hiện nay số lượng bưu kiện gửi từ Trung Quốc sang Mỹ do e-commerce đang ồ ạt gia tăng. Tuy nhiên, các điều tra viên của Quốc Hội Mỹ thấy rằng hệ thống bưu điện Mỹ chỉ nhận được dữ kiện liên quan đến 1/3 trong số hơn 300 triệu bưu kiện từ Trung Quốc gửi sang Mỹ năm 2017.
Các điều tra viên cũng nói rằng trong suốt năm 2017 không hề có sự cải thiện nào về tình trạng này.
Phát ngôn nhân Bưu Điện Mỹ David Partenhemer cho hay đang cố gắng hết sức để giải quyết vấn đề rất quan trọng này. (V.Giang)
Nhân viên tại một ngân hàng thương mại tại Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 2011. (Ảnh minh họa)
AFP
Lo âu vì ngân hàng được phép phá sản
00:29/05:41
‘Luật các tổ chức tín dụng’ sửa đổi bắt đầu có hiệu lực từ ngày 15/01/2018 cho phép ngân hàng chọn phương án phá sản. Đây là một trong những hình thức mà chính phủ Việt Nam nói nhằm tái cơ cấu các ngân hàng bị cho là yếu kém. Người dân nghĩ gì về luật đó?
Nỗi lo tiền gửi ngân hàng
Các ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian qua gặp nhiều tai tiếng, cụ thể như vụ 17 sổ tiết kiệm hơn 400 tỷ “bốc hơi’ sau 5 năm gửi tại Oceanbank, 32 tỷ đồng trong sổ tiết kiệm biến mất tại BIDV, bị mất gần 800 triệu trong tài khoản của VietinBank… Nguyên nhân hầu hết đều chưa có kết luận rõ ràng.
“Chị có hay xem báo đài, thì cũng thấy có một số ngân hàng người dân gửi vào trường hợp cách đây 2 tháng có chị gửi bên một ngân hàng cũng uy tín, cũng lớn lắm mà mất hai mươi mấy tỉ không rõ nguyên nhân thì mình cũng hoang mang lo ngại. “
Vào khi những tin xấu về rủi ro khi gửi tiền tại ngân hàng khiến nhiều người quan ngại, thì nay thêm tin ngân hàng được phép phá sản. Mức qui định bồi thường tối đa cho người gửi tiền khi ngân hàng phá sản là 75 triệu đồng cũng khiến người dân hoang mang vì họ nghe nói người gửi 100 triệu cũng như người gửi 10 tỉ đồng cũng chỉ được bồi thường như nhau.
Một mặt thì nhà nước kêu là bảo hộ tiền gửi nhưng một mặt thì cho phép người ta phá sản như vậy thì rất là nguy hiểm.
– Người dân
“Cái đó rất là phi lý, một mặt thì nhà nước kêu là bảo hộ tiền gửi nhưng một mặt thì cho phép người ta phá sản như vậy thì rất là nguy hiểm. Thứ hai là hiện tại cái cơ chế kiểm soát của nhà nước đối với ngân hàng hiện nay rất lỏng lẻo. Ví dụ như vừa qua các ngân hàng, các vụ án chúng ta thấy được gì? Lúc đụng ra mới biết là các ngân hàng nó bị mất. Chứ ngoài ra mình không có cơ chế ngăn ngừa. Hệ thống thanh tra của ngân hàng không có hiệu quả. Vừa qua các vụ án chúng ta đã thấy rồi. Giờ nó kêu là nhà nước mua 0 đồng như vậy toàn bộ vốn ngân hàng cũng đã mất rồi chứ đừng nói là cái tiền gửi của ngân hàng. Mà gửi bao nhiêu cũng đền bù có 75 triệu.”
Như vậy cho dù người dân và các doanh nghiệp gửi tiền trăm hay tiền tỉ, mức bồi thường cào bằng này hết sức có lợi cho ngân hàng khi phá sản. Thiệt hại tất nhiên là phía người gửi, và nhất là với khách hàng có số tiền gửi lớn.
“Làm như vậy thì đâu có được. Tiền người ta gửi vô rồi nếu mà phá sản thì trả không hết một lần thì trả từ từ… Thí dụ người ta trả chậm hay gì đó nếu mà người ta không có đủ khả năng thì cũng phải ráng trả chậm cho những người đã gửi số tiền trong ngân hàng.”
Lâu nay, người đi vay nếu mất khả năng trả nợ thì sẽ bị ngân hàng áp dụng các biện pháp xử phạt như tăng lãi suất, phạt tiền, tịch thu và thanh lý tài sản của người đi vay với mục đích thu hồi lại số tiền gốc và lãi về cho ngân hàng. Trước tin chỉ được nhận mức bồi thường tối đa 75 triệu khi ngân hàng được cho phá sản khiến nhiều người nghĩ đến biện pháp rút tiền gửi.
“Nếu nghe thông tin như vậy thì người dân cũng phải rút thôi chứ làm sao mà để được. Nếu mà để lỡ lúc chờ phá sản rồi thì không rút được nữa.”
“Chắc chắn phải rút ra rồi tìm hiểu ngân hàng nào tin tưởng mới gửi.”
Tuy vậy, trong trường hợp chưa tìm ra kênh đầu tư cho khoản tiền của mình, thì gửi ngân hàng hưởng lãi suất tiếp tục là một giải pháp nhưng phải ‘chọn mặt gửi vàng’.
“Đầu tiên mình phải lựa ngân hàng có uy tín chút. Ví dụ bây giờ chúng ta chưa có kênh đầu tư nào hết thì tạm thời chúng ta phải gửi ngân hàng chứ giờ sao giờ. Ôm tiền ở nhà thì nó cũng vậy thôi.”
Nghe thông tin như vậy thì người dân cũng phải rút thôi chứ làm sao mà để được. Nếu mà để lỡ lúc chờ phá sản rồi thì không rút được nữa.
– Người dân
Để có được đánh giá chính xác về uy tín của một ngận hàng tại Việt Nam hiện nay cũng khá khó khăn; vì đối với các con số do ngân hàng công bố người dân cũng không có cách nào kiểm chứng những số liệu đó.
“Nói chung thì người ta gửi tiền vô thì ít người biết lắm. Có nhiều người chỉ biết gửi tiền lấy kì hạn, chứ có nhiều người ta cũng đâu biết là ngân hàng nó làm ăn ra sao.”
“Cái luật đó nó được thông qua thì cái quyền lợi của người gởi cần phải xem lại.”
Một số người dân cho rằng luật cho phá sản có được điểm tích cực là khiến các ngân hàng cần phải cố gắng hoàn thiện và phải làm sao chiếm được sự tin tưởng của các khách hàng.
“Mình sống ở đâu thì mình theo luật ở đó thôi. Nhưng mà bây giờ VN đã gia nhập WTO từ rất là lâu rồi và tham dự tất cả các định chế thương mại các thứ. Thì bây giờ luật cũng cho các ngân hàng nước ngoài vào rất là nhiều. Và nếu anh nhìn và nếu anh làm ngân hàng thì với anh đây là một cơ hội. Nếu như ngân hàng anh có thể cung cấp dịch vụ tốt hơn thì hoàn toàn anh có thể thu hút được khách hàng nhiều hơn, thì người dân cũng nhiều sự lựa chọn hơn. Không phải phụ thuộc vào một số ngân hàng, mọi người cứ nói ngân hàng nhà nước là an toàn, nhưng mà thực sự nó có an toàn thật hay không? Nếu mà ngân hàng nước ngoài người ta cung cấp được dịch vụ tốt hơn như thế thì chắc chắn người ta sẽ lấy được khách hàng thôi.”
Đó cũng là điều mà nhiều người đang trông chờ; đặc biệt sau khi một loạt các quan chức ngân hàng đang phải ra tòa và chịu án về những khoản lỗ suốt thời gian qua.
Bông hồng cho người nằm xuống. (Hình: Huy Phương/Người Việt)
Ở vùng Little Saigon có một con đường nổi tiếng, mà cư dân ở đây ai cũng qua lại nhiều lần. Con đường được đặt tên là đường số 1 khiến người ra liên tưởng đến quốc lộ số 1 như trong tác phẩm “Dọc Đường Số 1” của Phan Nhật Nam.
Con đường phát xuất từ thành phố nhỏ Tustin, băng ngang qua Santa Ana và kết thúc ở thành phố Westminster với một địa điểm, nơi có một ngôi nhà xây kiểu cổ tĩnh lặng, được gọi là Peek Family, hay rõ hơn là Peek Funeral Home, nơi mà 90% cư dân Quận Cam phải ghé qua trước khi trở về với cát bụi hay đi vào lòng đất!
Từ ngày về cư ngụ tại Quận Cam, tôi đã đến đây rất nhiều lần để đưa tiễn bạn bè, thân nhân và đồng đội. Không ai là khỏi qua đây, một vị tướng lãnh cho đến một binh nhì, nói theo kiểu “huynh đệ chi binh,” và từ một triệu phú cho đến một kẻ không nhà, từ một nghệ sĩ hay một nhân vật nổi tiếng có hàng nghìn người đưa tiễn, cho đến một người vốn vô danh trong cộng đồng, mà tang lễ chỉ có mươi người tham dự.
Trong hơn hai mươi năm, tôi đã có dịp ngồi nghe hàng trăm bài diễn từ thắm thiết ca ngợi, tuyên dương công trạng, đạo đức của người chết, mà khi sống người đọc không có cơ hội để mặt đối mặt tâng bốc, những lời ca tụng mà nếu còn sống, người trong quan tài hẳn bất như ý. Cũng có những bài điếu văn, không hề thấy thấp thoáng hình ảnh người chết mà lồ lộ vóc dáng, chân dung, tiểu sử người đang đứng trước quan tài.
Ngày nay cái máy “micro” có mặt khắp nơi, trong hội nghị, ở đám biểu tình, một buổi họp và bây giờ có cả trên bục của nhà quàn, tuy hoàn cảnh mỗi nơi có khác nhau, nhưng sức hấp dẫn của nó vẫn là một.
Thơ vốn là thứ khó chọn chỗ để trình diễn nhất, nhưng cuối cũng vẫn có hai nơi dễ dãi nhất để trình bày là trong đám cưới và giữa đám ma.
Những người qua đời đến đây rất lặng lẽ, không ai hề hay biết và chúng ta chỉ được thông báo ngày họ ra đi, với những tràng hoa viếng đầy màu sắc và đoàn thân quyến bạn bè lặng lẽ theo sau, trên con đường dẫn đến lò thiêu hay ra nghĩa địa buồn.
Hình như tất cả chức tước, danh vọng, tiền bạc và của cải đều nằm lại phía sau, và tất cả người ra đi đều có chung một loại xe, không phân biệt giàu nghèo, thứ bậc trong xã hội, đó là chiếc xe tang. Và chắc chắn theo quy luật khắc nghiệt, không ai mang theo mình được một thứ gì, ngoài một bộ áo quần duy nhất mặc trong mình, không một mảnh giấy tờ tùy thân nào được đem theo, kể cả những vật bất ly thân cũng đành để ở lại.
Cái chỗ chúng ta thường gọi là nơi về, chỗ đến, thường được mô tả là nơi chốn tốt đẹp, thanh thản, cao sang, có phần thiêng liêng mà mắt trần chúng ta chưa hề thấy được, cái nơi mà ai cũng chúc tụng, cầu nguyện cho chúng ta được đến, vậy thì có gì phải sợ hãi.
Đây cũng là lúc chúng ta bỏ hết lo âu, phiền muộn, đau đớn, nợ nần lại sau lưng để thanh thản đi qua một thế giới khác.
Những mộng ước trong đời chưa thành cũng xin bỏ lại, những công việc dở dang không biết gửi gắm lại cho ai. Chúng ta cũng biết ước mơ là vô tận, mà đời sống thì gang tấc. Nói như Trịnh Công Sơn: “Những hẹn hò từ nay khép lại!”
Trong những lúc trà dư tửu hậu, chúng ta thường vui vẻ nói chuyện mình có cơ may trúng số cuối tuần này với tỉ lệ may mắn là một trên hàng chục triệu người, trong khi đó có một cơ hội đồng đều cho tất cả mọi người là cái chết thì không một ai muốn nhắc đến.
Vậy thì con người sinh ra vốn lạc quan cùng tận, trong khi sự sống đang mơn mởn đâm chồi, tỏa ngát hương, cái chết quả độc ác, tàn nhẫn. Nhưng đừng cho nó chọn lựa sự đến bất ngờ, khiến cho chúng ta ngạc nhiên, sợ hãi như trong lúc bất thình lình, đột ngột đến đập vai, gọi lớn, hù dọa sau lưng. Cái chết quả là một điều kinh hoàng, nhưng giá mà chúng ta làm quen được với nó từ ngày còn trẻ, quen thuộc mà không hề bị ám ảnh.
Chúng ta thường nói đến sự ra đi của song thân, quyến thuộc hay bạn bè của chúng ta một cách bình thản, nhưng xem chuyện giã từ cuộc sống của cá nhân chúng ta như là một điều kỵ húy.
Kinh nghiệm trong trại tù cho biết, khi một người biết được ngày mai mình sẽ được phóng thích, đêm nay, người sắp mãn hạn tù rộng lượng sẵn lòng đem tất cả vật dụng, tư trang cho người khác, một là những thứ đó họ không cần đến nữa, hai là để cho chuyến trở về (hay ra đi) được thanh thản, nhẹ nhàng hơn.
Luật đời không cho chúng ta biết trước được ngày “phóng thích,” nhưng nếu biết trước được ngày ra đi này, chúng ta có sẵn lòng đem cho tất cả mọi người tình yêu thương chúng ta có, và sẵn sàng vứt bỏ sự thù ghét cho thênh thang nhẹ gánh buổi lên đường không?
Cuối tuần này, chúng ta sẽ đến đây viếng ai? Phải chăng tất cả đều cùng một nơi về!
Nhà thơ Trần Văn Nam, nhà ở tận thành phố Walnut, cách Little Saigon hơn 45 phút xe, nhưng theo ước nguyện cuối đời của anh, gia đình sẽ đưa anh về nằm ở cái nơi cuối đường Bolsa cho đông vui, gần gũi anh em.
Tôi có thể nói rằng, không phải chỉ có con đường số 1 từ thành phố Santa Ana, khi qua thành phố Westminster đổi thành Bolsa là dẫn đến nhà quàn, lò thiêu và nghĩa trang Peek Family, mà có thể nói tất cả con đường của thành phố nơi đây cuối cùng đều dẫn một nơi như thế, đó là nơi ta viếng người đã khuất, gặp bà con, bạn bè trong nhiều lần, và cuối cùng là nơi chúng ta đến đây trước khi trở về với cát bụi hay đi vào lòng đất!
Thật ra, đã ra đi, ai cũng có nơi đến, và con đường nào cũng có một chỗ cuối của nó! (Huy Phương)
CUỐI TUẦN, cười. .. chút chơi! Có một ” TRÁI LÝ ” nè Bạn ! ? Hổng biết vị Lãnh đạo nầy nói thiệt hay nói chơi, mà nhìn bộ mặt. .. tỉnh rụi! ( Bạn biết là vị nào đây? ). __________________ NOTICE TO FACEBOOK REVIEWER : The image of this article is borrowed on the Internet and the official newspaperes of the Government of Vietnam.