ĐÊM ÁNH SÁNG

ĐÊM ÁNH SÁNG

Đêm Giáng Sinh chìm trong lớp bóng tối dày đặc.

Bóng tối tự nhiên của một đêm mùa đông ảm đạm.  Bóng tối cay đắng của đêm dài nô lệ khi đất nước chìm trong ách thống trị ngoại bang.  Bóng tối âm thầm nhẫn nhục của những kiếp người nghèo hèn lam lũ.  Bóng tối âm u trong túp lều lúc nhúc súc vật hôi tanh.  Bóng tối u mê của tội lỗi nhơ nhớp.

Giữa màn đêm dày đặc, Hài nhi Giêsu xuất hiện như một làn ánh sáng rực rỡ.

Đó là ánh sáng tình yêu.

Tình yêu vốn là một ngọn lửa vừa chiếu sáng vừa sưởi ấm.  Hài nhi Giêsu là kết tinh tình yêu của Thiên Chúa dành cho nhân loại.  Tình yêu đã đi đến tận cùng vì đã trao ban cho nhân loại món quà cao quí nhất không gì có thể so sánh được.  Trao ban Đức Giêsu là cho tất cả, không còn có thể cho thêm gì nữa.  Đức Giêsu là hiện thân của tình yêu Thiên Chúa đi tìm con người.  Thiên Chúa đã hạ mình thẳm sâu để xuống gặp con người.  Thiên Chúa đã tìm thấy con người trong những khốn cùng tột độ của nó.  Thật lạ lùng, Thiên Chúa quá yêu thương đến độ kết hợp với sự khốn cùng của nhân loại.  Thiên Chúa đã cưới lấy bản tính nhân loại.  Bóng đêm nhân loại nhận được ánh sáng của Thiên Chúa.  Bóng đêm khổ đau nhận được ánh sáng yêu thương.  Ánh sáng Thiên Chúa soi sáng kiếp người tăm tối.  Ánh sáng Thiên Chúa sưởi ấm cho nhân loại lạnh lẽo.

Đó là ánh sáng niềm tin.

Ánh sáng Giáng Sinh chiếu toả trên những tâm hồn thiện chí.  Đêm nhân gian vẫn còn mê đắm, nhưng vẫn có những tâm hồn thiện chí tỉnh thức.  Đó là những tâm hồn bé nhỏ nghèo hèn.  Đó là những cuộc đời khiêm tốn sống âm thầm trong bóng tối.  Đó là những người nghèo của Thiên Chúa.  Đó là thánh Giuse, Đức Maria.  Đó là Ba Vua.  Đó là các mục đồng.  Khiêm nhường nên các ngài sẵn sàng đón nhận thánh ý Thiên Chúa.  Tỉnh thức nên các ngài nhạy bén đón nhận những dấu chỉ Thiên Chúa gửi đến.  Thiện chí nên các ngài hăng hái lên đường ngay khi nhận được tín hiệu.  Đơn sơ nên các ngài nhận được ánh sáng.  Hê rô đê và Giêrusalem chìm trong mê đắm nên ngôi sao đã tắt.  Trái lại “vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh các mục đồng.”  Và ngôi sao xuất hiện dẫn đường cho Ba Vua.  Ánh sáng đã bao phủ các ngài.  Ánh sáng đã dẫn đưa các ngài đến bên máng cỏ.  Ánh sáng đã khiến các ngài nhìn thấy “một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ” và các ngài đã tin.

Đó là ánh sáng hy vọng.

Hài nhi Giêsu là hạt giống bé bỏng Thiên Chúa gieo vào thế giới.  Những tâm hồn thiện chí là mảnh đất phì nhiêu.  Những người nghèo của Thiên Chúa âm thầm kiên trì chờ đợi.  Những tâm hồn thiện chí như Ba Vua ngước mắt lên trời tìm kiếm.  Niềm khao khát đã được đáp ứng.  Đã đến mùa Thiên Chúa gieo hạt.  Hạt mầm thần linh gieo vào xác phàm sẽ thần hoá cả nhân loại.  Hạt giống Giêsu sẽ triển nở thành cây cao bóng cả cho muôn loài trú ngụ.  Mặt trời bé nhỏ Giêsu sẽ trở thành mặt trời chính ngọ soi chiếu đêm tối nhân gian.  Ánh bình minh Giêsu hứa hẹn một ngày mới chan hoà ánh sáng.  Với Hài nhi Giêsu, một thời đại mới khởi đầu: những người bé nhỏ được nâng lên, những người nghèo hèn được kính trọng.  Giêsu chính là hạt mầm hy vọng Thiên Chúa gieo vào thế giới.

Đó là ánh sáng Tin Mừng.

Được thắp lửa, những tâm hồn thiện chí trở thành những ngọn đuốc, không chỉ sáng lên niềm vui, niềm tin, niềm hy vọng, mà còn chia sẻ ánh sáng với những người chung quanh.  “Họ kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.”  Tin Mừng được loan đi.  Niềm vui lan tới mọi tâm hồn.  Ánh sáng bừng lên phá tan đêm tối.

Hài nhi Giêsu như mầm cây vừa nhú.  Mầm cây cần bàn tay ân cần chăm bón để vươn thành cổ thụ cành lá xum xuê.  Hài nhi Giêsu như ngọn nến đem ánh sáng vào đêm tối.  Ngọn nến cần được nhiều bàn tay liên đới chuyền nhau cho ánh sáng lan rộng.

Xin cho con được trái tim của các mục đồng biết mở lòng ra đón nhận ánh sáng và biết đem ánh sáng của Chúa đi khắp nơi, để đêm tối trần gian được ngập tràn ánh sáng huy hoàng của Chúa.

ĐTGM Ngô Quang Kiệt

From Langthangchieutim

Thêm một lính Bắc Hàn đào thoát sang Nam Hàn

 

Thêm một lính Bắc Hàn đào thoát sang Nam Hàn

Lính Nam và Bắc Hàn đối đầu ở lằn ranh ngưng bắn. (Hình: AP)

SEOUL, Nam Hàn (NV) – Một lính Bắc Hàn vừa trốn sang được phía Nam Hàn hôm Thứ Năm, vượt qua khu vực đình chiến được canh phòng cẩn mật, khiến gây ra nổ súng từ cả hai phía.

Người lính Bắc Hàn có cấp bậc thấp này đã được lính Nam Hàn điều khiển các máy quan sát nhìn thấy khi anh ta vượt qua khu vực phía Tây của biên giới trong màn sương mù dày đặc và tiến tới gần một trạm canh của phía Nam Hàn, theo lời một phát ngôn viên quốc phòng Seoul, bản tin AFP cho hay.

Hai bên không nổ súng ngay lúc đó, phát ngôn viên cho hay. Tuy nhiên, khoảng 90 phút sau, lính Nam Hàn bắn khoảng 20 viên đạn từ một khẩu đại liên K-3 để cảnh cáo khi thấy lính Bắc Hàn tới gần, rõ ràng để lùng kiếm người bỏ trốn.

Vụ này xảy ra khoảng một tháng sau khi có vụ đào thoát ly kỳ của một người lính Bắc Hàn khác, dưới lằn đạn của phía đồng đội của người này tại làng đình chiến Bàn Môn Điếm. (V.Giang)

Nghe trong cõi nhớ, niềm xa xót,

Suy Tư Tin Mừng tuần thứ 4 mùa Vọng năm B 24/12/2017

Tin Mừng (Mc 1: 26-38)

Bà Êlisabét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gabriel đến một thành miền Galilê, gọi là Nadarét, gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giuse, thuộc dòng dõi vua Đavít. Trinh nữ ấy tên là Maria.

Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

Sứ thần liền nói: “Thưa bà Maria, xin đừng sợ, vì bà đẹp lòng Thiên Chúa. Và này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giêsu. Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người. Người sẽ trị vì nhà Giacóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”

Bà Maria thưa với sứ thần: “Việc ấy sẽ xảy ra cách nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng!”

Sứ thần đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. Kìa bà Êlisabét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

Bấy giờ bà Maria nói:”Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.

&  &  &

“Nghe trong cõi nhớ, niềm xa xót,”

“Chợt thoáng hiện về, dấu yêu ơi.”

(dẫn từ thơ Miên Thuỵ)

Chợt thoáng hiện về”, là lời thơ cho thấy một “hiện về” cũng rất thoáng như sứ thần Gabriel đã hiện về với Đức Maria để báo cho Mẹ biết tin vui ngày Chúa đến. Với mọi người.

Tin vui ngày Chúa về đến, là tin rất sớm về ơn cứu độ đã mạc khải cho Maria, người nữ trẻ ở Trung Đông, để Mẹ sẵn sàng mà nhận lãnh. Là thiếu nữ Trung Đông còn rất trẻ, nên trông Mẹ không giống hình hài mà mọi người Công giáo có trong đầu, từ thơ ấu. Hình hài ấy, là hình rất tưởng tượng về một Maria có dáng dấp của thiếu nữ rất Châu Âu. Thành thử ra, phần đông giáo dân ở trời Tây lâu nay không mấy thích khi thấy Mẹ chẳng giống họ, về hình hài. Tuy là thế, Mẹ vẫn mang bản chất Trung Đông chân phương, hiền hoà, dễ mến.  

Tính chân chất hài hoà của thiếu nữ Trung Đông trong đó có Maria rất thiếu nữ, là sự rất thật về tính khiêm nhu, độ lượng của dân làng Nadarét. Mẹ không thuộc hoàng phái hoặc giòng dõi quý tộc nhưng Mẹ vẫn nhu mì, hiền dịu quyết chấp nhận bất cứ điều gì Chúa bảo ban. Bằng vào tính ngoan hiền và kiên định, Mẹ có khả năng thực hiện điều mình chọn để sẽ sống hết mình, với lựa chọn ấy.

Mang thai Đức Giêsu, vào lúc có thể Mẹ chỉ mới 13 tuổi đời, tức ở tuổi còn rất trẻ, lại nhỏ bé nhưng Maria vẫn có dáng dấp dẻo dai, bước đi thoăn thoắt theo tư thái của người cao ráo biết học cách bưng vại nước hoặc các bó đồ ở trên đầu. Mẹ phục sức tựa các thiếu nữ khác, cũng áo thụng đen vào buổi đầu, sau đổi sang thành mầu xám nhẹ. Tên của Mẹ theo tiếng Aram, là Maryam. Nhưng lại chuyển sang thành Myriam theo tiếng Hipri Do thái, là quốc ngữ mà Mẹ không hề sử dụng. Maryam còn là tên của một trong ba nữ phụ ở trong làng, người người đều biết đến.

Tin Mừng, nay thánh sử vẽ lên bối cảnh của sứ vụ “truyền tin”. Ở đây, thấy rõ văn phong sáng tạo của thánh Luca rất thi sĩ khi thánh nhân viết đối thoại giữa Đức Maryam và thần sứ Gabriel qua đó khi Mẹ đáp trả sứ mệnh Chúa giao phó. Bối cảnh “truyền tin”, tuy không xác thực như sử học nhất là khi thần sứ dùng ngôn từ khá lạ kỳ đối với Mẹ. Thần sứ Gabriel cũng đâu có mang tính xác thực một bản thể, để có thể nói tiếng Aram như ai khác. Thế nên, ngôn từ ở trình thuật là ngôn và từ của thánh sử. Và, kinh nghiệm ở trình thuật, là kinh nghiệm từng trải của Maria, rất thiếu nữ.

Lời nói đầu của thần sứ chỉ mỗi chữ: “Mừng vui lên!” bên tiếng Hy Lạp, người ta chào hỏi nhau bằng chữ “chaire”. Trong khi đó, người Do thái chào nhau lại dùng cụm từ “rani” hoặc “gili” rút từ lời ngôn sứ Sôphônia khi nói với dân con Israel: “Vui lên, hỡi thiếu nữ Xion, hò vang đi nào, nhà Israel hỡi! Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy nức lòng phấn khởi” (Sô 3: 14). Cụm từ “Vui lên” không giống lời chào buổi sáng ở tiếng Anh/tiếng Pháp, nhưng tiếng Hip-ri mang ý nghĩa: “Hãy vui mừng trổi dậy mà nhẩy múa”. Đây là lời chúc bất thường. Bởi, đó là lời Chúa mời Maria hãy cùng Ngài múa nhảy vũ điệu trọng đại.

“Hỡi Đấng đầy ơn phúc!” tiếng Hy Lạp là checharitomene”, đại ý chỉ người nữ duyên dáng và đầy phúc lành vì được quà tặng biến đổi mà Chúa đặc biệt phú ban cho riêng Maria. Hiểu theo ý chữ thì điều này có nghĩa là: Maria được Chúa công nhận là người khiêu vũ có duyên, và rất diễm tuyệt. Duyên dáng và diễm tuyệt, là bởi Maria biết chuyển động nhanh vòng quanh với niềm vui cao độ của Chúa, Đấng từng nhẩy múa với Mẹ. Và, Mẹ biết thêm thắt vào với vẻ đẹp của vũ điệu mà Chúa nhảy múa bằng cung cách Mẹ đảm trách khi cùng nhảy điệu vũ của công cuộc cứu rỗi.  

“Chúa ở cùng người”, là chỉ về bạn nhảy hiện diện nơi bản ngã rất xác thể mà ngôn sứ Sôphônia diễn tả qua cụm từ “nức lòng”. Lúc ấy, là lúc Đức Maria được đề nghị nên có động thái của ngôn sứ, như lời khuyên: “Maria đừng sợ! vì người đã đắc sủng nơi Thiên Chúa.” Thật ra, Maria là Mẹ đâu có gì phải hãi sợ khi đón nhận thông điệp do thần sứ mang đến, bởi đó chính là niềm vui trọn vẹn. Và, Mẹ vui với niềm vui của thiếu nữ đoan trang, mạnh mẽ, tự do. Tự do, biết rằng mình sẽ có em bé, là Con Chúa.

Và tiếp đến, là câu hỏi mang dáng vẻ trần thế: “Điều ấy sẽ làm sao được?”Tức: làm sao có thể ra như thế? Bởi, tôi đây đâu tính chuyện xác thịt. Hoặc, nói như bản dịch kinh thánh nào khác: “Tôi nào biết đến nam nhân”, tức có nghĩa: “tôi, một thiếu nữ trinh trong”. Câu này không thấy ghi ở bản Kinh thánh gốc Aram, mà chỉ là thuật ngữ để nói lên rằng: Maria chưa từng nghĩ chuyện ăn nằm xác thịt, vì tuổi của Mẹ còn quá nhỏ để được phép.

Kinh thánh không ám chỉ việc Mẹ quyết ở độc thân, mà chỉ mô tả cảnh tình của Mẹ vào lúc đó, thôi. Sử học Do thái cũng không đưa ra nền tảng nào để ta có thể nghĩ rằng Đức Nữ Trinh Maria đã thành thân với thánh Giuse với ý định sẽ lập “con đàn cháu đống”, tức: cũng sẽ ăn nằm xác thịt hầu có con, như mọi gia đình ở Do thái. Độc thân, theo người Do thái, là chuyện hãn hữu chẳng bao giờ được đề cao, ngoại trừ trường hợp rất hi hữu. Chí ít, là với thiếu nữ trẻ sống ở thôn làng thuộc đất miền rất Galilê.

“Thánh Thần sẽ đến trên người”, điều này cốt ý nói sự việc sẽ nên hiện thực. Thánh Thần nói ở đây, khi ấy không hẳn là Ngôi Thứ Ba trong Ba Ngôi Đức Chúa, mà chỉ là nhiệm tích thánh thiêng của “Thần Khí” (Ruah). “Và, Quyền năng (dynamis) Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên ngườiVà, trẻ sắp sinh sẽ được gọi là thánh, là Con Thiên Chúa”. Lời đối đáp ở đây mang tính cách mật thiết với Chúa.

Đáp lại, là câu nói của Maria rất thiếu nữ: “Này đây!” Với Kinh thánh, cụm từ “Này đây!” cho người đọc thấy: ta sắp được Chúa mạc khải một điều hệ trọng. Mạc khải, là công thức biểu lộ điều gì đó ta chưa hề biết đến. “Này tôi là tôi tá Chúa, xin hãy thành sự cho tôi theo lời Ngài.” (Lc 1: 38). Câu nói của Maria thiếu nữ nghe vừa nhu mì, hiền dịu, lại rất ngoan. Vừa cung kính, dễ bảo, lại mang tính thụ động như ở phần đông các bản dịch ta nghe biết. Như từ lâu, truyền thống tu đức Giáo hội vẫn hiểu theo nghĩa này. Để rồi sẽ cho rằng: điều Maria nói có nghĩa: Mẹ là thiếu nữ trinh trong, hiểu theo nghĩa thụ động, thuần thục. Không hề biết đến “dục vọng”.

Nhưng bản Kinh Hy Lạp lại khác. Bản này không bao hàm ý nghĩa như thế. “Xin hãy thành sự cho tôi”, là dịch từ tiếng Hy Lạp “genoito”, như chọn lựa sâu sắc. Thánh Luca là người rất giỏi tiếng Hy Lạp, nên khi thánh nhân dùng cụm từ “genoito” là có ý bảo: “Vâng! Xin vâng. Vì đây là ý tưởng tuyệt vời mà mọi người đợi mong”. Tuyệt vời, còn là ngôn từ chỉ sự mừng vui trên mức trọn hảo. Và như thế, thần sứ chúc mừng Maria thiếu nữ bằng cách mời Mẹ “hãy đứng lên mà múa nhảy và ăn mừng” với Chúa. Và, lời Mẹ đáp trả cho thấy là Mẹ đang làm điều đó.

Các nhà chú giải kinh thánh, chuyên gia tiếng Hy-Lạp, như Ignace de la Potterie năm 1988 và Christopher Evans năm 1990 suy tư nhiều về sắc thái này nên cho rằng các nhà chú giải xưa như thánh Bernard thành Clairvaus cũng đã hiểu điều đó.

Quả thật cũng buồn, khi một số các dịch giả đã thay đổi ý nghĩa của điều mà Đức Maria từng nói đến. Các vị vẫn nghĩ rằng lời đáp trả của Mẹ đượm tính cách từ tốn và nguyện cầu nên đã chấp nhận sự việc xảy đến, như cụm từ “fiat” tiếng La-tinh có nghĩa là: “Cứ để việc ấy xảy đến với tôi, nếu như thế”.

Giả như người đọc sách thánh là giáo dân nữ có lòng đạo hạnh từng coi Đức Maria như thần tượng của mình, chắc chắn sẽ cảm nghiệm được niềm vui khi được biết là thánh Luca viết ra trình thuật này là để diễn tả kinh nghiệm riêng của Đức Mẹ “xin vâng” trong tình huống xảy đến vào lúc ấy.

Hiểu đúng nghĩa câu Mẹ nói, hẳn rằng người người sẽ thấy bản năng mình cảm nhận về nỗi mừng vui cũng đúng và thực tiễn. Với Hội thánh, có lẽ cũng nên tìm hiểu và liên tưởng đến các hành xử khác biệt. Hiểu theo nghĩa đích thực của lời Mẹ đáp thay cho thánh hội, thì Hội thánh ắt sẽ tung tăng mừng vui mà nhảy múa với mọi người.                  

Trong tinh thần mừng vui cảm kích, cũng nên ngâm tiếp cũng một lời thơ, mà rằng: 

                        “Con đường Phượng tím chiều nay đổ,

Bóng lá che nghiêng một góc đời.

                        Nghe trong cõi nhớ niềm xa xót,

                        Chợt thoáng hiện về, “dấu yêu ơi”.

                        (Miên Thuỵ – Con Đường Phượng Tím

Phượng tím, có là con đường của đợi chờ cũng vẫn là “cõi nhớ”, nhiều yêu dấu. Nhưng dấu yêu chợt về chào mời mọi người hãy vui lên mà nhảy múa. Nhảy và múa, hầu chào đón Đấng Cứu Tinh nay lại về. Ngài về đến trong mừng vui hoan lạc, đầy nhung nhớ. Ở mọi thời. Rất con người. 

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch. 

From Vuisongtrendoi

Gió nhớ gì ngẩn ngơ ngoài hiên

Một Mình: Hồng Nhung  Sáng tác: Thanh Tùng

httpv://www.youtube.com/watch?v=A69ZUnHlB4I

Chuyện Phiếm đọc trong tuần thứ 4 mùa Vọng năm B 24/12/2017

“Gió nhớ gì ngẩn ngơ ngoài hiên”

Mưa nhớ gì thì thầm ngoài hiên

Bao đêm tôi đã một mình nhớ em

Ðêm nay tôi lại một mình.”

(Thanh Tùng – Một Mình)

(Mt 14: 26)  

Có lẽ, chính vì bạn cứ hát những câu như: “Bao đêm tôi đã một mình”, rồi còn thêm: “Đêm nay tôi lại một mình”, thế nên mới xảy ra những cảnh tượng một mình ngồi thấy ghê ghê, đến rợn người.

Thế đó, là tâm-trạng của rất nhiều người từng thắc mắc và hỏi han đấng bậc nhà Đạo những chuyện tréo cẳng ngỗng như sau, thì làm sao cố Đạo biết đâu mà trả lời/trả vốn cho ra nhẽ. Quả là, cố Đạo người Tây ở Sydney cũng từng nghe hỏi rất nhiều những câu hỏi khá là vẩn vơ, khiến đức ngài ơ thờ bèn trả lời/trả vốn rất huề vốn như câu chuyện hỏi đáp. Thế nhưng, trước khi nghe kể, tưởng cũng nên nghe người nghệ-sĩ hát thêm đôi ca-từ thấm-thía, như sau:

“Nhớ em vội vàng trong nắng trưa.

Áo phơi trời đổ cơn mưa.

Bâng khuâng khi con đang còn nhỏ.

Tan ca bố có đón đưa.

Nhớ em giọt mồ hôi tóc mai.

Gió sương mòn cả hai vai.

Ðôi chân chênh vênh con đường nhỏ.

Nghiêng nghiêng bóng em gầy.

Vắng em còn lại tôi với tôi.

Lá khô mùa này lại rơi.

Thương em mênh mông chân trời lạ.

Bơ vơ chốn xa xôi.

Vắng em đời còn ai với ai.

Ngất ngây men rượu say.

Ðêm đêm liêu xiêu con đường nhỏ.

Cô đơn, cùng với tôi về…..”

(Thanh Tùng – bđd)

“Cô đơn”, nhung nhớ và gì gì nữa, vẫn là và sẽ là những tình-tự ở đời, còn nhớ mãi khôn nguôi. Nói về chuyện “nhớ”, thì bần đạo bầy tôi đây là cũng nhớ đôi giòng hỏi đáp giữa thày/trò, cha/con trong Đạo có nhiều nỗi nhớ, rất như sau:

“Thưa Cha,

Nhiều năm qua, con đây vẫn thường nghe nhiều truyện kể về những người từng thấy “ma”, và có cả những vị bảo rằng mình từng nghe nhiều âm-thanh “lạ tai” thậm chí còn nói: họ thấy cả đồ vật di-chuyển tuỳ hứng mà chẳng có duyên-do, cớ sự gì hết. Vậy, người Công giáo nhìn sự việc này như thế nào? (câu hỏi nghe quen quen từ một giáo-dân ở huyện nhà, là giáo-xứ).

Và đây, lại một trả lời cũng rất quen từ một đấng bậc cũng quen thuộc ở Sydney, như sau:

“Cả tôi nữa, cũng nghe nhiều truyện từ những người tôi quen biết lại là những người từng nhất quyết bảo rằng họ đã thấy “ma” ở đây đó; hoặc từng nghe nhiều âm thanh lạ, kể cả giọng nói của những người không xuất hiện vào lúc ấy. Hiện tượng về những “căn nhà ma” vì thế có lẽ cũng có một vài nền-tảng, trên thực-tế. Đây thực sự là vụ/việc khi hơn một người đều thấy hoặc nghe/biết cùng một chuyện.

Hỏi rằng: từ câu chuyện ấy ta làm được điều gì? Thì, theo thiển ý, Giáo-hội ta cũng từng có những tuyên-bố chính-thức về vấn-đề này, nên tôi cũng chẳng thấy cần để đưa ra câu trả lời dứt khoát cho vấn đề này. Ta cũng từ đó nên rút ra điều mà mọi người biết được do kinh-nghiệm và do từ niềm tin của người Công-giáo.

Tác giả Peter Kreedt có viết trong cuốn sách có nhan-đề là “Tất cả những gì mọi người cần biết về thiên-dàng, lại đã đề-cập đến chuyện “ma quái” rất kinh-hoàng. Ông công-nhận rằng có ba chứng cứ đáng kể về ma quái gặp thấy trong hầu hết mọi nền văn-hoá. Ông phân-biệt ba loại ma từng xứng-hợp với kinh-nghiệm chung của nhiều người mà tôi từng nói đến.

Thứ nhất, có loại ma được qui về câu hỏi mà anh/chị đưa ra, đó là: các hồn ma thấy được nhưng khá mờ mịt lại không có thân-xác thể-chất đột nhiên xuất-hiện hoặc biến mất. Có lúc, hồn ma ấy được bảo là có dáng dấp đàn ông hoặc phụ nữ, và có độ tuổi nào đó khá đặc biệt, kể cả con nít.

Tác giả Kreeft nghĩ rằng: có thể là, thần-hồn của người phàm xác thịt vẫn còn tồn tại nơi luyện ngục và vẫn còn một số công việc chưa hoàn tất trên trái đất. Có thể là, những thần hồn ấy đã sống hoặc chết ngay tại địa-điểm chúng xuất-hiện. Chẳng có gì gọi được là ác-thần/sự dữ khi ta nói về các “thần hồn” ấy, dù có làm cho người chứng kiến cảnh-tượng này, thấy hãi sợ.

Thật ta không thể cắt-nghĩa được tại sao các “hồn” ấy lại được phép xuất-hiện trên cõi trần này, nhưng có quá nhiều truyện kể để xua đuổi chúng để đầu óc con người khỏi bận tâm. Cũng có thể, Thiên-Chúa có lý do nào đó cho phép các “thần hồn” này được xuất-hiện. Một trong các lý-do có thể hiểu được, đó là: việc cho phép như thế cố để làm người bắt gặp thấy mủi lòng rồi còn biết đường mà cầu-nguyện cho họ, hoặc dạy cho họ một vài bài học.

Thứ hai nữa, là: các hồn ma mang dáng dữ-tợn có thể xuất tự hoả-ngục, cũng không chừng. Tôi có nghe một số người bảo rằng họ từng thấy đám quỉ dữ mang hình-hài rất khác biệt và tôi không có lý-do gì để nghi ngờ sự thật mà nói ra.

Cùng một loại như thế, có thể gộp chung vào đó các thần hồn được hiện lên trong các buổi lễ hoặc nghi-thức nào khác rất ngoại thường. Bởi, Satan có thể dính-dự vào các buổi ấy, nên Giáo-hội từng dựa vào Kinh thánh (như ở sách Đệ Nhị Luật đoạn 18 câu 9-13) từng cảnh giác các tín-hữu mình đừng nên dính-dấp vào buổi ấy.

Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo có dạy rằng: “Mọi hình-thức bói toán nói tiên-tri đều phải được loại bỏ: chạy đến với Satan hoặc ma quái, quỉ thần để nhờ cậy, hoặc gọi hồn người chết hoặc “cầu cơ” này khác để bảo rằng “sức mạnh thần-kỳ ấy có phép thần thông đoán được tương lai con người” luôn là chuyện sai trái, đầy dối trá.

Lại nữa, tra-cứu, đoán ý tử vi đẩu số, chiêm-tinh, coi chỉ tay, giải-đoán điềm thiêng dấu lạ, cùng các hiện-tượng giải-đoán tương lai mai ngày, rồi chạy đến với môi-giới tất cả đều che đậy một khát-vọng có quyền-phép trên cả thời-gian, lịch-sử để phân tách kết cuộc những người khác, cùng thu-phục các quyền-uy thế-lực tiềm ẩm ở bên dưới. Tất cả những thứ như thế đều trái với niềm vinh-dự, sự tôn-trọng và kính sợ những gì ta mắc nợ chỉ mình Thiên-Chúa, thôi.” (X. GLHTCG đoạn 2116)

Trường hợp có sự việc các đồ vật di chuyển gây tiếng động hoặc tiếng ồn lạ lùng mà không có nguyên nhân rõ ràng dứt khoát do hồn ma phối hợp với Satan tạo ra. Thánh Gioan Vianney, Cha xứ họ Ars, thường nghe thấy tiếng động của tủ giường/bàn ghế và tiếng động lạ kỳ trong nhà về đêm, và thánh-nhân biết chắc chắn rằng quỉ dữ đang làm việc để ngài lo ra chia trí trong công-cuộc thừa-tác đầy kết quả ở toà giải tội.

Nếu ai trải-nghiệm cũng một hiện-tượng như thế trong nhà mình, thì tốt nhất nên tìm một linh-mục hoặc ngay đến đấng trừ tà ở giáo-phận mình mà xin chúc lành hoặc làm phép trừ tà cho căn nhà của mình.

Thứ ba là, có những truyện kể về sự xuất-hiện của các bậc hiển-thánh hoặc người thân đã chết, thông thường là các thành-viên trong gia-đình mình từng được công-nhận là các vị này có biệt-tài như thế. Nhưng, các ngài không làm ai hãi sợ, đúng ra là tạo sự ủi-an và hy-vọng cho người thân của mình, thôi. Đôi lúc, thành-viên gia-đình đã quá cố, các thiên thần hoặc các bậc hiển-thánh có thể cũng xuất-hiện khi có người thân yêu khác trong gia đình đang đi dần vào chỗ chết, có lẽ để an ủi người sắp chết hoặc tháp-tùng họ đi vào cuộc sống đời sau. Đây, lại là vấn-đề của linh-hồn hoặc những vị đang ở chốn thiên cung.

Nói chung thì, khi các trải-nghiệm của con người đưa ra quá nhiều truyện kể về bóng mờ của các bản-thể linh-thiêng xuất-hiện, một số trong đó được gọi là “hồn ma”, thì cũng không có lý-do gì để ngờ-vực tính chân-thực của các vị này.

Do bởi các sự việc như thế thỉnh thoảng mới xảy ra, thì cũng không nên sợ họ. Giả như có ai trong chúng ta lần đầu thấy loại “hồn ma” nói trên xuất-hiện, thì cũng nên cầu-nguyện cho linh-hồn của người vừa hiện hình và cũng lẽ cũng nên lấy nước thánh rảy lên nơi chỗ vị ấy xuất hiện, thật mới đúng.” (X. Lm John Flader, Church and ghosts, The Catholic Weekly 18/01/2009, Question Time, tr.10)

“Thần hồn” hiện ra, lại cũng giông giống lời ca hôm nào, những hát rằng: “Cô đơn, cùng với tôi về”, và cũng có thể là lời đề-nghị tôi và bạn, ta quay về với vùng trời câu truyện kể khá đáng kể về tâm-trạng cô đơn nhưng không diệu vợi của cuộc đời, cũng rất người.

“Cô đơn, cùng với tôi về” còn gợi nhớ câu truyện kể về “Ông Lão Kỳ Lạ” đọc được ở trên mạng thấy có nghĩa, bèn trích lại đây để bạn và tôi cùng thưởng-thức rồi sẽ tính. Câu truyện được kể như sau:

“Lần đầu tiên tôi nghe về lão là mùa Giáng Sinh 1990. Chiều 24 tháng 12 năm ấy, tôi lên thăm bạn ở thành phố Lausanne. Chúng tôi rủ nhau đi phố sắm sửa vài món quà cho bữa tiệc thân hữu gặp nhau. Phố xá lạnh lẽo và vắng lặng lắm vì đa số mọi người đã đều đi về đoàn tụ với gia đình. Trời lất phất đổ tuyết, gợi cho lữ khách, tùy tâm trạng, mà cảm thấy lãng mạn hay cô đơn kinh khiếp.

Với tôi, năm ấy thật buồn, vì ba mẹ tôi đi Hoa Kỳ thăm bạn, còn tôi vì phải lo học thi cho học kỳ mùa Đông, nên không đi theo được. Ở lại xứ cao nguyên sương mù, gió lạnh trong mùa Giáng Sinh lê thê quả là một chuyện cô đơn khó chịu. May mà còn có bạn bè dễ thương. Họ làm tiệc mời tôi và qua đó cũng ấm lòng người viễn xứ! 

Khi ở phố về, chúng tôi chọn đường tắt nên đi ngang qua một chiếc cầu rất dài, bắc lắt lẻo trên ghềnh đá, đứng trên thành cầu nhìn xuống dưới người yếu bóng vía dễ bị xây xẩm vì chiều sâu hun hút hiểm trở. Người bạn đi chung chợt giật tay tôi chỉ một túp lều vải được dựng ngay bên cạnh đầu cầu. Tôi hơi ngạc nhiên, vì mùa này không phải là mùa để người ta cắm trại nơi đây! Bạn tôi kể rằng từ 20 năm nay, mỗi năm cứ đến mùa Giáng Sinh lại có ông già đến đây cắm trại.

Tôi ngạc nhiên hỏi lý do. Bạn tôi cho biết chiếc cầu này là nơi quyến rũ nhiều người cứ đến mùa Giáng Sinh ra nhảy cầu tự tử. Vì mùa Giáng Sinh ở Thụy Sĩ buồn quá, những người sống cô đơn thường bị cơn trầm cảm (Depression) hành hạ nên dễ tìm cái chết. 20 năm qua, người đàn ông đã cắm trại ở đầu cầu, nếu thấy ai một mình đứng trên cầu, lập tức ông bước tới nói chuyện khuyên nhủ. Trong lều của ông thường có rượu chát, chocolade và vài món quà nho nhỏ. Người có ý định tự tử thường được ông mời vào lều cho uống rượu tâm tình, cho đến khi người đó bỏ ý định quyên sinh.

Trước khi rời khỏi lều, thể nào họ cũng được ông cho món quà có ý nghĩa, với số điện thoại để sau đó cần người nói chuyện thì tìm ông. Ông làm việc âm thầm và không nhờ bất cứ hội đoàn nào giúp sức. Nghe lời kể của bạn tôi, tôi xúc động lắm, thật không ngờ giữa cuộc sống có quá nhiều bon chen, tranh giật lại có Tâm Bồ Tát hiện hành. Tôi kéo bạn tôi đi về phía lều của ông lão và tỏ ý muốn nói chuyện. Ông lão mở cửa lều, mời chúng tôi vào. Đó là một người đàn ông có dáng người khắc khổ, tuổi khoảng trên dưới 70 tuổi, gương mặt đầy từ ái. Trong căn lều thiết trí rất đơn giản, có tấm thảm trải cho ấm và một lò than nho nhỏ bên cạnh để sưởi, nấu trà, cafê và thức ăn. 

Ông lão hỏi chúng tôi sao lại đứng trên cầu bàn luận lâu vậy, giữa thời tiết giá lạnh trong buổi chiều Noël? Tôi kể ông nghe về cảm nhận của mình khi biết chuyện và vô cùng tán thán hạnh nguyện của ông. Ông lão mỉm cười:

-Thì sống trong đời, ta có thể làm được việc gì tốt cho người khác thì phải cố gắng thôi!“ Ông cũng cho biết thêm: có nhiều người oán trách tôi vì tôi bắt họ tiếp tục sống để chịu khổ!

Chúng tôi nói chuyện với nhau khoảng 1 giờ đồng hồ về nhiều đề tài rất tương đắc, ông lão rất thông thái, rất tế nhị và khi nói chuyện có sức thuyết phục rất cao. Sau đó chúng tôi từ giã ông để trở về lo bữa tiệc buổi tối.

Từ đó, thỉnh thoảng tôi gọi điện thoại nói chuyện với ông. Tình bạn giữa chúng tôi nảy nở và trở nên thân thiết. Ông tên Peter Dupont, tuổi đã 72 và sống một mình cô độc. Tôi cũng ngạc nhiên không hiểu tại sao ông không có gia đình. Ông bảo:

-Khi trước tôi cũng có bà mẹ nữa, vì phụng dưỡng mẹ nên tôi chẳng lập gia đình, ngày tháng qua đi, trở thành người già khi nào không biết.”

Ông làm việc tại ngân hàng X với nhiệm vụ chuyển thư từ tài liệu từ văn phòng này tới văn phòng khác. Ông không bao giờ nghỉ, trong suốt 40 năm làm việc tại đây. Khi mẹ ông qua đời trong đêm, ông đến xin phép ban giám đốc cho ông được nghỉ nửa ngày. Ông giám đốc ngạc nhiên thấy ông xin nghỉ, hỏi lý do mới biết đêm qua mẹ ông qua đời. Ông giám đốc kêu trời và bắt ông nghỉ 1 tuần ở nhà lo mọi chuyện. Sau 3 ngày, ông gọi điện thoại xin cho ông đi làm lại kẻo không ông cũng sẽ „chết“ như bà mẹ của ông mất, nếu người ta còn bắt ông ở nhà! 

Quả thật tôi không thể hiểu được tại sao có người ham mê công việc đến thế, ông lão trả lời những thắc mắc của tôi rằng:

-Ta được sống trong xã hội đầy đủ thế này, ta nợ biết bao nhiêu người, nếu không làm việc để trả lại những ân nghĩa ta vay, thời ta nợ đến bao giờ mới trả nổi!?“ Tôi giật mình vì lý luận của ông rất gần với tư tưởng Bồ Tát Đạo của Phật Giáo đại thừa, trong khi ông là KiTô-Hữu.

Với thời gian, chúng tôi khám phá ra ông Dupont cũng chính là khách hàng ở nhà bank nơi bạn tôi làm việc, mặc dù cũng làm việc cho nhà bank, song nhà bank nơi ông làm việc thuộc nhà ngành quản trị gia tài, trong khi ông chưa giàu có để có trương mục tại ngân hàng đó. 

Ông biết bạn tôi và rất tin tưởng khi có chuyện gì có liên quan đến ngân hàng tiền bạc. 

Thời gian trôi đi, đã 14 năm kể từ ngày tôi quen ông Dupont. Hàng năm ông vẫn đến cắm trại bên cầu, dù rằng tuổi ông đã quá cao và yếu nhiều. Rất nhiều người biết về ông, có những bài phóng sự hay chương trình truyền hình nói về ông, song chưa bao giờ những thứ ấy khiến ông để ý! Ông thường tỏ ra khó chịu khi người ta tới quay phim, phỏng vấn ông. 

Hôm qua, tôi nhận được điện thoại của bạn tôi, tôi đã lặng người đi khi nghe tin ông đã vừa giã biệt cõi đời! Cảm động nhất là trước ngày ông mất, ông nhờ người đẩy xe lăn cho ông tới ngân hàng gặp bạn tôi (sau cơn bệnh cách đây 3 tháng, ông không đi lại được nữa, mà phải ngồi xe lăn), ông mang tất cả các hoá đơn thuế nhà, thuế đất, bill điện nước theo và yêu cầu bạn tôi thanh toán giúp ông. Ông bảo:

-Ta biết ta sắp ra đi, nay nhờ anh giúp trang trải hết những nợ nần còn sót lại này, ta không muốn còn phải nợ nần gì khi giã biệt cõi trần.”

Ông không có nhiều tiền trong trương mục, nhưng sau khi thanh toán còn lại một chút, bạn tôi hỏi ông muốn làm gì, ông bảo làm gì cũng được, song ông có người cháu họ xa, hiện cũng đã 70 tuổi, nếu số tiền còn lại đó sau khi ông qua đời, được chuyển cho người cháu với lời nhắn nhủ là: “Giáng Sinh năm nay, ráng thay ông, một năm cũng được ra cầu Lausanne cắm trại cứu người, thì ông sẽ mỉm cười thanh thản ở bên kia thế giới“ 

Chỉ vậy, hai ngày sau đó ông ra đi thanh thản tại bệnh viện gần nhà. 

Một vị Bồ Tát bằng xương bằng thịt đã âm thầm đến và đi, không để lại dấu vết! Tôi không đi dự tang lễ của ông được, nhưng nghe đâu rất đông người tham dự! Có nhiều người được ông cứu từ 30 năm về trước cũng mang gia đình con cháu tới tiễn ông. 

Mùa thu … vắng lặng và buồn quá! Chiếc lá vàng rơi để trở về với cát bụi … tăng thêm chất màu mỡ cho đất. Một đóng góp cuối cùng! Ông lão kỳ lạ kia cũng vậy!” (Quảng Diệu Trần Bảo Toàn – Mùa Vu Lan 2548) 

Với tác giả truyện kể, thì: “mùa thu… vắng lặng và buồn quá!…” nhưng như thế vẫn chưa hẳn là chuyện ma quái hay ma quỉ, rất buồn tênh. Lại cũng có những chuyện buồn tênh, nhưng chẳng là ma quỉ hay ma mãnh gì hết, vẫn nên nghe:

“Học lớp 12, tôi không có thời gian về nhà xin tiền ba như 2 năm trước. Vì thế, tôi viết thư cho ba rồi ba đích thân lên đưa cho tôi.

Từ nhà đến chỗ tôi trọ học chừng 15 km. Nhà nghèo không có xe máy, ba phải đi xe đạp. Chiếc xe gầy giống ba…

Cuối năm, làm hồ sơ thi đại học, tôi lại nhắn ba. Lần này, sau khi đưa cho tôi một trăm ngàn, ba hỏi:

– “Có dư đồng nào không con?”.

Tôi đáp:

– “Còn dư bốn ngàn ba ạ”.

Ba nói tiếp:

– “Cho ba bớt hai ngàn, để lát về, xe có hư như lần trước thì có tiền mà sửa”.

Ba về, tôi đứng đó, nước mắt rưng rưng.” (Truyện về Ba, do người viết không ký tên là tác giả)

Và một truyện kể khác, về “má” cũng không tên người viết như sau:

“Ba hay má, vẫn cứ là những ma và quái âm thầm sống trong đời người làm gì có ma quỉ. Chi có ma, khi “Ba” và “Má” không chịu sống thân phận của mà, của Ba của con người nhiều phận buồn.

Má hay Ba, vẫn không là “Ma” hay “quái quỉ” gì, chỉ là con người đích-thực sống cuộc đời buồn như “ma” mà thôi.”

Thế đó, là chuyện đời cũng nên phiếm hoài, phiếm mãi để rồi sẽ nhận ra rằng: đời người, chỉ một chuyện phiếm rất sương sương nhưng không “vô thường”, rất xưa nay.

Thế đó, là câu chuyện “phiếm” đời người nói mãi không nguôi. Và không hết. Nói gì thì nói, chớ nên nói chuyện ma quái hoặc quỉ mà để rồi tất cả cũng trở-thành quái quỉ đến độ “trẻ không tha, già không thương”, là như thế.

Nói hoài nói mãi một chuyện phiếm, rồi cũng đến lúc ta nên dừng lại để về với ngôi vườn thượng uyển có những lời vàng rồi theo đó mà sống cùng, sống với nhau, cho nhau hạnh phúc mien trường, không sợ hãi. Lời rằng:

“Vào khoảng canh tư,

Ngài đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ.

Thấy Ngài đi trên mặt biển,

các ông hoảng hốt bảo nhau:

“Ma đấy!”,

và sợ hãi la lên.

Đức Giêsu liền bảo các ông:

“Hãy yên tâm,

chính Thầy đây,

đừng sợ!”

(Mt 14: 26)  

Thế đấy là Ngài, vậy mà môn đệ cứ tưởng là “Ma!” Thế còn, ma kia, quỉ nọ mà người người lại cứ nghĩ là người. Người hay ma, ma hay người, vẫn chỉ là quan-niệm mà nhiều người còn nghĩ đến, mãi hôm nay.

Và, hôm nay xin trở về với đời thường để còn sống những chuỗi ngày còn lại cũng rất người, như người người, ở trong đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Chưa từng gặp thứ ma mãnh

hoặc quỉ ma nào hết.

mà chỉ là

những người không thuộc loại

“quỉ tha ma bắt”,

mà thôi. 

From Vuisongtrendoi

Cận cảnh lâm tặc băm nát khu rừng thuộc địa phận huyện Chư Păh, Gia Lai,

From:   Hỳnh Phi Long shared Hiền Nguyễn‘s post.
 
 
Image may contain: grass, outdoor and nature
Image may contain: outdoor
Image may contain: shoes, plant, outdoor and nature
Image may contain: one or more people, plant, tree, outdoor and nature
Image may contain: outdoor

Hiền Nguyễn added 5 new photos.

 

Cận cảnh lâm tặc băm nát khu rừng thuộc địa phận huyện Chư Păh, Gia Lai, phóng viên Tiền Phong đã đến và tận mắt thấy hàng trăm cây cổ thụ đã bị đốn hạ. Những thân gỗ lớn hơn 2 người ôm, dài khoảng 5m được lâm tặc kéo ra nằm rải rác dọc đường núi. Một con đường lớn được mở vào rừng, việc khai thác gỗ trái phép diễn ra rất lâu với mức độ tàn phá kinh hoàng nhưng cơ quan chức năng không hay biết.

 
Dung van Huy chúng thông đồng với nhau cả rồi

Tìm người ‘chống lưng’ cho Đinh La Thăng

 

Tìm người ‘chống lưng’ cho Đinh La Thăng

Ông Đinh La Thăng, cựu ủy viên Bộ Chính Trị CSVN. (Hình: VietNamNet)

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Thêm một ông nữa từng là sếp nặng ký trong hệ thống đảng CSVN kêu gọi cơ quan điều tra cũng như “trung ương” điều tra để tìm cho ra người chống lưng cho ông Đinh La Thăng.

“Tôi tin rằng ai đứng sau, giúp đỡ ông Đinh La Thăng sẽ phải được làm rõ,” lời ông Nguyễn Đình Hương, cựu phó trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương đảng CSVN, được đăng tải trong cuộc phỏng vấn của báo Giáo Dục Việt Nam hôm Thứ Hai, 18 Tháng Mười Hai, về việc “cần làm rõ những người có trách nhiệm liên quan tới những vi phạm của ông Đinh La Thăng.”

Ông Đinh La Thăng, 57 tuổi, ủy viên Bộ Chính Trị CSVN, bị bắt giam ngày 8 Tháng Mười Hai, với các cáo buộc liên quan đến vụ Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (PVN) mất trắng 800 tỷ đồng (hơn $35.2 triệu) khi góp 20% cổ phần trái luật vào ngân hàng Đại Dương (OceanBank) và những sai trái, khuất tất tại nhiệt điện Thái Bình II do một công ty con của PVN làm chủ đầu tư.

Tháng Tư vừa qua, ông Đinh La Thăng bị Ủy Ban Kiểm Tra Trung Ương đảng cáo buộc nhiều tội trạng rất nghiêm trọng trong thời gian ông còn làm chủ tịch Hội Đồng Thành Viên PVN. Ông bị mất chức bí thư Thành Ủy Sài Gòn về ngồi chơi xơi nước ở Ban Kinh Tế Trung Ương. Trước đó, ông từng làm bộ trưởng Giao Thông Vận Tải với rất nhiều phát ngôn “bạo mồm” làm mát lòng nhiều người, sau khi rời ghế chủ tịch PVN.

Báo Giáo Dục Việt Nam thuật lời ông Nguyễn Đình Hương nói các quyết định sai trái của ông Đinh La Thăng diễn ra từ lâu, chỉ kể riêng thời kỳ ông còn làm việc tại PVN, “nhưng vẫn được quy hoạch, bổ nhiệm vào các vị trí cao hơn.” Bởi vậy “cần làm rõ người đứng sau, có liên quan tới những vi phạm của ông Đinh La Thăng nhằm chống tham nhũng mang tính triệt để hơn.”

“Phải có người đứng sau, có trách nhiệm trước những vi phạm của ông Thăng. Người đó là ai thì phải do trung ương tìm. Tất nhiên đó là trách nhiệm trong việc bổ nhiệm cán bộ vi phạm và những vi phạm về tài chính có liên quan tới ông Đinh La Thăng. Tôi ủng hộ làm rõ, nhưng có ai dám làm không?”

Tuy nhiên, ông Hương được thuật lời cho rằng, thời điểm này còn hơi sớm để truy trách nhiệm người đứng sau những vi phạm có liên quan tới ông Đinh La Thăng. “Phải đợi xét xử ông Đinh La Thăng cái đã. Lúc đó mới là thời điểm thích hợp truy trách nhiệm của những người có liên quan trước những vi phạm của ông Đinh La Thăng.”

Trước khi phỏng vấn ông Nguyễn Đình Hương, báo Giáo Dục Việt Nam cũng phỏng vấn một số cựu quan chức nặng ký, đòi làm rõ kẻ “chống lưng” cho ông Đinh La Thăng.

Tuần trước, người ta thấy có một bài viết và một cuộc phỏng vấn trên hai tờ báo trong nước, Dân Việt và Giáo Dục Việt Nam, dạo đờn bóng gió khi đặt câu hỏi “Liệu ông Đinh La Thăng có bị tuyên án tử hình như ông Trần Dụ Châu?” Và “Có ai đứng sau ông Đinh La Thăng không?”

Đại Tá Trần Dụ Châu, cục trưởng Cục Quân Nhu và nhóm thuộc cấp bị kết tội “tham ô, biển thủ công quỹ, phá hoại công cuộc kháng chiến” bị kết án tử hình ngày 5 Tháng Chín, 1950, ở chiến khu Việt Bắc. Bây giờ báo Dân Việt kể lại vụ án này để đặt dấu hỏi về trường hợp của ông ủy viên Bộ Chính Trị nay đã ngã ngựa Đinh La Thăng.

Báo Giáo Dục Việt Nam đi phỏng vấn cựu tướng công an Lê Văn Cương, từng là viện trưởng Viện Nghiên Cứu Chiến Lược (Bộ Công An) nghe ông này đòi hỏi: “Phải làm rõ, việc ông Thăng cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng dưới những hình thức nào? Còn ai tham gia vào việc này nữa không? Có việc ông ấy lấy tiền của nhà nước để đi biếu người khác không? Có khoản tiền nào ông ấy bỏ túi riêng không? Chuyện này phải làm rõ để trả lời dư luận.”

Ông Cương còn đặt câu hỏi “…Thời điểm xảy ra vi phạm, ngoài ông Thăng, có ai đứng sau chỉ đạo và chịu trách nhiệm trước những vi phạm liên quan tới việc Tập Đoàn Dầu Khí góp vốn 800 tỷ vào ngân hàng hàng OceanBank không?”

Người ta thấy thấp thoáng trong câu hỏi của ông Cương là “đồng chí Ba Ếch” (tức cựu Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng) vì “đồng chí” ngồi trên đầu họ Đinh. Vấn đề là “ông chủ lò” Nguyễn Phúc Trọng có dám chơi tới cùng hay vẫn còn run. (TN)

Nhật bắt 5 người Việt thực hiện 45 vụ trộm cắp

Nhật bắt 5 người Việt thực hiện 45 vụ trộm cắp

5 người Việt hôm qua bị cảnh sát Nhật Bản bắt giữ sau khi đột nhập hàng chục nhà dân để trộm tài sản. 

Cảnh sát Nhật Bản. Ảnh minh họa: Kyodo

Cảnh sát Nhật Bản. Ảnh minh họa: Kyodo

Yahoo Japan đưa tin các nghi phạm trên nằm trong độ tuổi từ 23 đến 33, bị cảnh sát tỉnh Hyogo bắt giữ và thẩm vấn hôm 20/12 với cáo buộc đột nhập, trộm cắp tài sản. 

Cảnh sát cho biết họ đã tiến hành 45 vụ trộm từ tháng một đến tháng ba năm nay, tại các tỉnh Hyogo, Aichi, Gifu và Osaka, trong đó có 8 vụ đã bị truy tố. Số tài sản bị trộm ước tính hơn 8,8 triệu yen (tương đương 78.000 USD hay 1,7 tỷ đồng). 

5 người Việt trên quen nhau qua Facebook, là các du học sinh và thực tập sinh. Tại cơ quan điều tra, họ đã thừa nhận hành vi phạm tội và cho biết trộm đồ rồi đem bán lại cho người Việt nhằm kiếm tiền trang trải chi phí sinh hoạt ở Nhật Bản. 

Nhóm nghi phạm thường theo dõi đồng hồ điện ở các ngôi nhà để biết nhà nào không có người và đột nhập vào trong, lấy cắp tài sản.

Anh Ngọc

Treo cờ VNCH, nhóm thanh niên An Giang bị xử 19 năm tù

Treo cờ VNCH, nhóm thanh niên An Giang bị xử 19 năm tù


Nhóm thanh niên treo cờ VNCH trong phiên xử sơ thẩm tại TAND tỉnh An Giang.

Nhóm thanh niên treo cờ VNCH trong phiên xử sơ thẩm tại TAND tỉnh An Giang.

Nhóm 5 thanh niên có độ tuổi từ 23-38 bị khép tội lợi dụng tự do, dân chủ hoạt động tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam.

Tờ Nhân Dân dẫn cáo trạng cho biết vào ngày 25/4, công an thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, phát hiện một lá cờ ba sọc của VNCH treo trên một chiếc cầu ở khóm Vĩnh Đông, phường Núi Sam, thành phố Châu Đốc.

Sau đó, công an phát hiện thêm 26 lá cờ VNCH khác rải rác ở khu vực bến xe thành phố Châu Đốc.

Ngày 30/4, cảnh sát điều tra thành phố Châu Đốc khám xét khẩn cấp nhà và bắt khẩn cấp Nguyễn Tấn An, 25 tuổi, người có tên trên mạng xã hội là “An Châu Đốc”, “Câu Chimbồ” và thu giữ các vật chứng liên quan đến việc làm lá cờ.

Vẫn theo cáo trạng, Nguyễn Tấn An khai nhận đã làm và phát tán cờ VNCH cùng với 4 người khác, lập các hội kín tên “Nghĩa quân An Giang”, “Tuổi trẻ An Giang” trên mạng xã hội.

Bản tin TTXVN cho biết tại tòa, các thanh niên trên thừa nhận “do bị tiêm nhiễm những thông tin xuyên tạc, bịa đặt trên mạng internet” nên đã “đả kích, dựng chuyện, nói xấu chế độ, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, và “do trình độ hiểu biết hạn chế nên đã cùng nhau lập hội kín và có những hành vi vi phạm pháp luật”.

Trong phiên sơ thẩm ngày 21/12, TAND An Giang phạt Nguyễn Tấn An 5 năm tù giam, 2 năm quản chế; Huỳnh Thị Kim Quyên 4 năm tù giam, 2 năm quản chế; Nguyễn Ngọc Quí 4 năm tù giam, 2 năm quản chế; Phạm Văn Trọng 3 năm tù giam, 2 năm quản chế; Nguyễn Thanh Bình 3 năm tù giam, 2 năm quản chế về tội “Tuyên truyền chống nhà nước CHXHCN Việt Nam” theo Điều 88 Bộ luật Hình sự.

Theo Luật Việt Nam, tội “Tuyên truyền chống nhà nước” có thể bị phạt tù đến 20 năm.

Trong năm nay, nhiều người Việt Nam đã bị tuyên phạt các án tù nặng theo Điều 88, trong đó có blogger Mẹ Nấm (Nguyễn Ngọc Như Quỳnh) 10 năm tù và blogger Trần Thị Nga 9 năm tù giam, 5 năm quản chế.  

Có Một Kiểu Tình Yêu Như Thế

  Có Một Kiểu Tình Yêu Như Thế

Vài năm trước, mỗi ngày đi làm, Jim đều được ông Jake, một người hàng xóm đã cao tuổi đưa cho một tờ tiền mặt 5 đôla. Ông nhờ Jim ghé qua một quán cà phê trên đường để mua hộ ông một gói cà phê có giá 4 đôla.

Thói quen này của ông Jacke đã duy trì đến mấy năm nay rồi. Và để đáp trả lòng tốt của Jim, ông Jake sẽ nhận làm cỏ, tỉa cây trong vườn nhà anh ấy.

Sau một thời gian lâu, bà chủ quán cà phê cũng đã quen với Jim. Bà ngày nào cũng chuẩn bị một gói cà phê và một đồng đô la tiền lẻ để trả lại.

Đôi lúc, Jim cũng rất tò mò và hỏi ông Jake: “Cà phê có hạn sử dụng rất lâu, tại sao ông không mua một lần nhiều nhiều một chút?”

ông Jacke lắc đầu và cười nói: “Không, tôi thích như thế này hơn, mỗi ngày một gói cà phê mới tốt.”

Có một lần, Jim vội vã tới nhà bạn để tụ tập cùng bạn bè nên anh liền mua cà phê ở tạm một cửa hàng khác.Không ngờ, ông Jake khi nhận được cà phê dù còn chưa mở ra đã nói: “Đây không phải loại cà phê mà tôi muốn.”

Jim cảm thấy bất ngờ, anh liền thử mấy lần sau đều mua ở nơi khác, nhưng dù cà phê đã được đóng gói y như vậy, mà ông Jake chỉ liếc mắt qua đã phát hiện ra rồi.

Từ đó, Jim không còn thử ông nữa.

Mấy năm sau, sức khỏe của ông Jake đã không còn được tốt như trước đây. Nhưng hàng ngày ông vẫn đều nhờ Jim mua cho mình một gói cà phê. Mỗi lần khi đưa 5 đôla cho Jim, hai ánh mắt của ông lại chất chứa đầy sự chờ mong.

Cho đến một hôm, khi Jim lại sang nhà ông Jake mua cà phê giúp ông. Ông Jake sức khỏe suy yếu nằm trên giường bệnh đưa tay ra, rồi nhẹ nhàng cầm tờ một đôla và hỏi Jim: “Thời gian lâu như vậy, chẳng lẽ cậu không biết gì sao?” 

Jim nhìn ông lão hàng xóm và lắc đầu.

Ông lão nói tiếp: “Tôi luôn luôn muốn mua cà phê ở cửa hàng đó, là vì người bán cà phê cho cậu là Elina.”

Giọng nói của ông Jake trầm xuống rất nhiều: “Bà ấy là người mà tôi yêu nhất. Năm đó, mẹ của bà ấy chê tôi là một kẻ nghèo nàn, nên đã chia rẽ chúng tôi…Tôi cũng chỉ có thể đau lòng mà rời đi. Nhiều năm sau này, vợ tôi bị bệnh qua đời, các con cũng đã trưởng thành có gia đình. Tôi đã quay trở lại nơi đó tìm hiểu và biết bà ấy bán cà phê ở cửa hàng đó. Bà ấy cũng đã sớm mất chồng. Cả hai người chúng tôi đều không quên ước định của tình yêu đầu năm xưa. Nhưng tôi không muốn quấy rầy đến cuộc sống bình yên của bà ấy, nên lặng lẽ sống ở đây. Cũng từ đó, tôi nhờ cậu mua cà phê hộ tôi.”

Jim đứng im lặng nhìn ông lão hàng xóm rồi bất chợt hỏi với vẻ khó hiểu: “Chẳng lẽ, ông chưa từng đến thăm bà ấy sao?”

Ông Jake lắc đầu.

“Năm đó, lúc chúng tôi yêu nhau thường không có cách để gặp mặt nên đã đặt ra một ám hiệu. Đó là lấy tờ một đô la gấp thành một hình tam giác, để trong một bì thư, rồi nhờ người gửi thư đưa đến đối phương, ngụ ý nói rằng mình vẫn bình an. Cho nên, mỗi lần nhờ cậu mua cà phê, tôi đều gấp tờ tiền thành một hình tam giác. Còn Elina, mỗi lần trả lại tôi tờ một đô la, bà ấy cũng đều gấp thành một hình tam giác. Cứ như thế, dù chúng tôi không gặp lại nhau nhưng đều biết người kia vẫn bình an, khỏe mạnh…Bây giờ, tôi sắp phải đi gặp thượng đế rồi, nhưng nếu Elina không nhận được tin tức của tôi, bà ấy hẳn sẽ rất lo lắng. Dưới giường của tôi có một chiếc hòm, bên trong đều là những tờ tiền tôi đã gấp thành hình tam giác rồi. Xin cậu hãy giúp tôi tiếp tục mua cà phê …Tôi xin nhờ cậu…”

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Ông Jake nói xong, liền nhắm mắt lại và ra đi.

Không ngờ, trong đám tang của ông Jake, Jim đã mang đến một chiếc hòm khác. Trong chiếc hòm ấy, toàn là những gói cà phê đã được đóng sẵn và còn có rất nhiều những tờ tiền một đôla được gấp sẵn thành hình tam giác.

Vào nửa năm trước, bà Elina đã bị bệnh nặng mà qua đời. Trước khi rời đi, bà đã giao chiếc hòm này cho Jim để nhờ Jim thay thế mình chuyển lời nhắn bình an đến ông Jake….

Đây hẳn là một tình yêu đích thực!

Có thể quý trọng tất cả những người bên cạnh mình, thì đó chính là một loại hạnh phúc!

Theo Cmoney.tw

Mai Trà biên dịch

From Nguyễn Kim Bằng

TRUYỀN TIN CHO CẢ TÔI NỮA!

TRUYỀN TIN CHO CẢ TÔI NỮA!

Rất hợp lý Chúa Nhật 04 mùa Vọng trình bày cảnh truyền tin cho Đức Maria, một biến cố cụ thể và thiết thực nhất trong việc thể hiện mầu nhiệm Thiên Chúa làm người.  Thế nhưng khi Giáo Hội mời gọi tôi chiêm ngắm biến cố đó, có phải chỉ vì muốn kể cho tôi biết về các sự kiện liên quan tới việc Hài Nhi sắp sinh ra để giúp tôi thêm hiểu biết dọn mình mừng lễ Giáng Sinh?  Nếu đúng thế thì khi chiêm ngắm quang cảnh này, tôi vẫn chỉ là người ngoài cuộc bàng quang, có chăng là chờ đợi để được hưởng một vài kết quả may mắn nào đó mà sự kiện này có thể mang đến cho mình?

“Trong mầu nhiệm Nhập thể Thiên Chúa làm người,” tác giả Brisson đã tóm lược như thế này khi nói về linh đạo của Thánh Phan-xi-cô Sa-lê, “không phải chỉ một ‘Chúa – Người’ duy nhất có thể kết hiệp với Thiên Chúa.  Trong kế hoạch thần linh, không phải Thiên Chúa chỉ kết hợp với một người để biến người đó thành ‘Chúa – Người’, nhưng Ngài còn muốn nhập thể được ứng dụng cho hết thảy mọi người.  Qua nhập thể Thiên Chúa muốn đi vào trong tương quan với hết thảy nhân loại.  Ngài muốn nhập thể trong mọi người, đương nhiên không phải dưới dạng hai bản tính nên một (hypostatic), nhưng không kém phần hữu hiệu và biến đổi trong tất cả những ai sẵn sàng và chuẩn bị đón nhận… Nhập Thể trên thực tế lan rộng tới mọi phần tử của Nhiệm Thể Đức Ki-tô tức là Hội Thánh.”  (Louis Brisson, Cor ad Cor, trg. 143).

Nếu quả đúng là như thế thì biến cố truyền tin khởi đầu mầu nhiệm nhập thể cũng phải là biến cố dành cho mỗi Ki-tô hữu chúng ta; chính tôi cũng được truyền tin!  Có thể tạm hiểu điều này như sau: Sứ thần [đức tin] đến với tôi, một kẻ thấp hèn, và chào: “Mừng vui lên, hỡi [người] đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng [bạn].”  Tôi sẽ tự hỏi, mình mà được “đầy ân sủng” sao?  Chắc đi rồi, vì ân sủng chính là lòng nhân ái xót thương Thiên Chúa hằng đổ tràn trên tôi.  Hội Thánh cho biết ân sủng nhân ái này được ban nhưng không (gratis), nghĩa là không do bất cứ công nghiệp nào của tôi.  Hơn thế nữa Phao-lô còn muốn tôi hiểu rằng: nơi đâu càng tội lỗi thì ân sủng Chúa càng dư tràn (xin xem Thư Rô-ma chương 5 đặc biệt câu 20).  Gia-kêu, đứa con hoang đàng, Ma-đa-lê-na… là một số trường hợp điển hình và tiêu biểu.  Mỗi khi nhận ra mình tội lỗi, tôi tạo ra cho Chúa dịp thi thố lòng thương xót thứ tha; lúc đó Thánh Linh hầu như cũng nói với tôi: “Đừng sợ, vì [bạn] đẹp lòng Thiên Chúa… bạn đã làm cho hài nhi Giêsu được sinh hạ nơi mình, vì Hài Nhi giáng trần vốn chỉ với mục đích làm cho mọi người nhận biết tình thương cứu độ của Thiên Chúa.”  Đối với Maria trong tư cách một phụ nữ Do Thái, thì sứ thần loan báo: Hài Nhi sắp hạ sinh sẽ “được gọi là Con Đấng Tối Cao, Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người.  Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại Người sẽ vô cùng vô tận”, nhưng đối với một Ki-tô hữu như tôi, hệt như Maria tin yêu trong suy niệm Tin Mừng nơi thẳm sâu cõi lòng, tôi cũng sẽ được loan báo cho biết: Hài Nhi giáng trần chính là ‘Thiên Chúa, Đấng cứu độ… hằng đoái thương nhìn đến phận hèn… đời nọ tới đời kia Chúa hằng thương xót… và lòng thương xót đó dành cho tổ phụ Ap-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời’ (Lc 1:46-55).  Có lẽ trong thâm tâm nhiều lúc tôi cũng đã thốt lên: “Việc ấy xảy ra cách nào… vì con thật không đáng được thương xót thứ tha.”  Nhưng tôi nhận được lời đáp: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bạn, và quyền năng Đấng tha thứ sẽ rợp bóng trên bạn, vì thế Đấng Thánh bạn mang nơi mình sẽ được gọi là Con Thiên Chúa cứu độ.”  Phúc Âm chỉ cho tôi thấy người phụ nữ ngoại tình, tên cướp cùng chịu đóng đinh với Đức Giêsu đã được tha thứ như thế nào, và lúc đó đức tin cũng sẽ trấn an tôi “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được… không có tội nào mà không tha thứ được.”  Và lúc đó tôi cũng chỉ có thể khiêm tốn cùng với Maria đáp lại: “Vâng, con đây chỉ là người tội lỗi thấp hèn, Xin Chúa cứ làm cho con như lời hứa của Tin Mừng cứu độ!”

Giáng sinh đã gần lắm rồi!  Nếu không thật sự coi việc truyền tin của đức Maria đang được lặp lại với mình mỗi dịp Sinh Nhật, có lẽ hệt như những năm trước, tôi sẽ lại chỉ lo dọn mừng lễ thật to, thật long trọng, nhưng vẫn chỉ như một khách bàng quang cử hành lễ hội; nội dung Giáng sinh vẫn ở xa tít tắp đâu đâu.  Truyền tin là cho tôi, và Giáng sinh cũng là cho tôi, vì tôi trong tình trạng hiện sinh của mình cần phải như thế!

Lạy Mẹ Maria, trong bài ca ‘Magnificat’, chính Mẹ đã nội tâm hóa biến cố truyền tin theo suy nghĩ sâu lắng của cõi lòng.  Mẹ đã thấu hiểu cưu mang Đấng Cứu Thế chỉ là một phần của điều quan trọng hơn nhiều, đó là nhận biết Chúa hằng thương xót.  Xin giúp con hiểu được cuộc truyền tin của con, và cùng với Mẹ, ca ngợi lòng thương xót Chúa trong mùa Giáng Sinh này.  Amen!

Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

From Langthangchieutim

Việt kiều về nước và nỗi lo quà cáp

Việt kiều về nước và nỗi lo quà cáp

Gần đến ngày về thăm cố hương, tôi bồi hồi nhẩm đếm. Xa nhà đã hơn 4 năm, tưởng tượng đến ngày hội ngộ gần kề, tôi mừng muốn khóc.

Năm 2013, tôi ra đi một mình. Sau 4 năm, tôi trở về với hai nhóc, một trai một gái, thêm ông chồng Đức là tổng cộng bốn người. Kể ra thì mỹ mãn quá còn gì.

Thế nhưng mừng một thì nỗi lo quà cáp đi kèm cũng phải hai. Quà cáp không chỉ liên quan đến chuyện kinh tế mà còn cần tính toán làm sao để dễ dàng vận chuyển và ai cũng có quà. Người nhà, người thân, bạn bè, họ hàng, ai cũng quan trọng, có quà cho người này không thể thiếu được người kia. Chưa kể người này dặn mua hộ cái này, người khác nhờ mua hộ cái kia, tính tôi vốn cả nể nên không thể từ chối.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Hành lý cồng kềnh vì phải mang nhiều quà cáp biếu người thân ở quê nhà là nỗi lo ngại của nhiều gia đình Việt kiều mỗi khi về nước. 

Cái tiếng “đi Tây”

Người thân ở nhà luôn mặc định một điều “đi Tây ắt giàu có, tiền bạc, quà cáp mang về phải rủng rỉnh”. Nhiều người tặc lưỡi rằng tiền Việt mất giá, chứ kiếm đồng euro ở bên kia vừa dễ vừa có giá, đổi sang tiền Việt thì dôi ra thỏa sức tiêu pha. Họ đâu biết rằng theo quy luật thị trường, chúng tôi cũng làm đâu tiêu đó. Mức thu nhập bình quân của người lao động ở Đức, tính theo lương bậc 3 của người đã có gia đình, được đóng thuế ít hơn, là khoảng 2.200 – 2.500 euro, ngót nghét sáu bảy chục triệu đồng tiền Việt. Con số quả là trong mơ.

Tuy nhiên, chỉ người trong cuộc mới thấm thía rằng đó chỉ là cách quy đổi phiến diện theo phương thức toán học thông thường, còn theo giá trị đồng tiền tương đương với thị trường mà nó phải chi tiêu thì mức lương đó chỉ đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho một gia đình gồm vợ chồng và hai con nhỏ ở nước sở tại. Việc thanh minh có vẻ khó bởi có một lý do đơn giản không thể làm thay đổi tư duy cố hữu của một lớp người đó là thói sĩ diện của một bộ phận Việt kiều về nước. 

Mang tiếng “đi Tây”, nơi đời sống cao bậc nhất thế giới, mà trở về quê hương kể lể chuyện tiền nong khốn khó nghe chừng mất mặt quá. Thôi thì dăm bảy năm mới có một lần về, nhiều người cố gồng mình thể hiện sao cho oai. Thế là để thực hiện một chuyến về quê, đôi khi người trong cuộc phải tiết kiệm hàng năm trời, phải thực hiện bài toán kinh tế thật chính xác và chi li, sao cho khoản nào ra khoản nấy. Dù chi phí sinh hoạt hằng ngày đắt đỏ, họ quyết không lạm chi vào số tiền để dành cho một lần về Việt Nam.

Ai cũng phải có quà

Khi thấy tôi loay hoay lo quà cáp, chị bạn người Sài Gòn, sống cùng thành phố ở Đức này ngót nghét hai chục năm, liền giới thiệu cho một loại xà bông đang giảm giá, hàng chính hãng Đức.

“Nhỏ mà có võ đó, cục xà bông thơm nức mũi, mang từ bên này về, đảm bảo ai nhận được quà cũng vui mừng”, chị khuyên, rồi lại tiếp lời. “Ấm điện đun nước hàng trôi nổi bên Việt Nam giờ nhiều lắm, có mấy vụ xài ấm điện hàng không đảm bảo, điện giật chết người. Lần này em chịu khó xách mấy cái hàng Đức chính hãng về cho gia đình. Việc này quan trọng lắm, nhất định nên làm”.

Ngẫm thấy việc đó quan trọng thật, mẹ bỉm sữa tôi vội xách hai đứa con thơ ra siêu thị, bưng mấy cái ấm mang về.

Đứa bạn thân biết tôi sắp về Việt Nam liền bỏ nhỏ qua đường Facebook “lần này về mua hộ tớ mấy lọ dưỡng da trẻ em nhé, hai đứa nhỏ nhà tớ mùa đông da khô, nứt nẻ, xót quá”. Ừ việc đó việc nhỏ, mấy lọ kem dưỡng da nhẹ hều. Tôi đi lựa đồ cho con của bạn mới giật nảy nhớ ra nhà mình cũng có mấy đứa cháu nhỏ, không lẽ không mua cho chúng nó. Thế là lúc đầu tôi dự định chỉ mua vài hộp, đến lúc ra quầy thu ngân lại chất đầy đến chục hộp kem dưỡng lớn nhỏ.

Không hiểu tôi mua những gì, mua từ thời điểm nào và cho những ai mà gần đến ngày bay, đồ lớn đồ nhỏ đổ ra đã đầy sàn nhà. Ông chồng Đức nhảy tưng tưng”: “Trời ơi! Em đi du lịch nghỉ dưỡng hay đi buôn và xách đồ hộ mọi người?”. Tôi mếu máo chẳng biết làm sao. 

“Quà đã mua rồi, dù khó khăn thế nào cũng phải mang về cho mọi người. Họ ở nhà đang mong chúng ta lắm”, chồng tôi hạ giọng rồi lật đật đi mua thêm cái balô cỡ lớn loại dã chiến mà khách Tây sang Việt Nam du lịch hay mang theo. Thuở nhỏ, mỗi lần nhìn theo bóng một ông Tây balô đi qua, tôi cứ nghĩ họ mang theo được cả chiếc giường ngủ trong cái túi đó.

Lúc này tôi mới thấy thương chồng làm sao. Thường ngày, những va chạm nhỏ nhặt do khác biệt văn hóa làm tôi đôi lúc thấy ghét anh ấy nhưng giờ tôi chỉ muốn ôm chồng và khóc. Đàn ông sinh ra ở Đức đã khổ rồi, đến tuổi đi làm rồi lấy vợ, đóng thuế ngập đầu ngập cổ, cả đời làm lụng nuôi nấng gia đình, lại còn bị xếp sau…chó (thứ tự ưu tiên ở Đức khi đi tàu xe và trong các lĩnh vực khác của cuộc sống: thứ nhất là người tàn tật và trẻ em rồi đến người già và phụ nữ, xếp thứ ba là chó, cuối cùng mới đến đàn ông). Câu nói vui nhưng chua chát. 

Lần này, chồng tôi tính về quê vợ du lịch để rảnh rang nghỉ dưỡng nhưng rồi cũng phải đèo bồng bao nhiêu thứ. Chồng tôi đi mua túi về, lại xếp cất sao cho phù hợp, rồi đeo thử lên vai, hai tay thì xách hai cái vali cỡ bự. Đi du lịch mà không khác gì cửu vạn. 

Dịch chuyển

Hồi còn ở Việt Nam, có lần tôi nghe một bác tài lái taxi tâm sự rằng nghe khách gọi đi đón ở sân bay, ông cũng phải tính toán xem có nên nhận hay không.

“Nếu là khách Đức hay khách Tây nói chung, tôi biết lần này mình đi khỏe, vì họ đi du lịch gọn nhẹ lắm, chỉ cái balô nhỏ với chút tư trang xách tay là xong”, ông giải thích. “Còn nếu là Việt kiều về nước, kể cả khách đăng ký hai người hai chỗ, tôi toàn kêu hãng điều taxi 7 chỗ để cốp xe rộng và chỗ ngồi trong xe còn thừa nhiều cho khách chất đồ từ bên kia mang về”. 

Không biết gia đình thập cẩm nửa Việt kiều nửa Tây như chúng tôi sẽ được bác tài nhiều kinh nghiệm nghề nghiệp xếp vào thể loại nào. Tôi chợt nghĩ đến cuộc di cư của những đàn chim tránh rét về nửa bên kia ấm áp của bán cầu. Trong hành trình của hàng ngàn hàng vạn chú chim đó, có con ở lại nhưng cũng có con bị đào thải trên quãng đường đầy gian khó.

Tôi cũng nhớ đến cuộc di cư về quê ăn Tết ở đất nước đông dân nhất hành tinh Trung Quốc. Nhìn những bức ảnh phản ánh lại cuộc dịch chuyển khổng lồ đó, không ai không cảm thấy hốt hoảng vì sự đông đúc và hỗn loạn.

Chúng tôi cũng sắp bước vào lần dịch chuyển lớn trong đời như thế. Không biết nó sẽ xảy ra theo chiều hướng nào khi mà tôi có hai đứa con thơ, đứa lớn mới ba tuổi, đứa nhỏ còn phải địu, cộng thêm đống hành lý khổng lồ và một ông chồng khác biệt văn hóa, hay càu nhàu rằng tại sao đi du lịch là tự thưởng cho bản thân, là chuyện hoàn toàn riêng tư mà phải nghĩ cho nhiều người thế, phải mang nhiều quà đến thế. 

Thôi thì tôi tự bỏ bớt phần của mình đi, tư trang quần áo gói ghém sao cho gọn nhẹ nhất. Quần áo của hai đứa con thì mặc lên người chúng nhiều vào, đỡ phải xách. Phần còn lại của hành lý dôi ra để mang quà cho người thân, bạn bè. Tôi xem như đây cũng là một lần để bớt lo cho bản thân đi và học cách nghĩ cho người khác nhiều hơn.

Khi Việt Nam xuất hiện thêm một tỷ phú mới

Huỳnh Phi Long posted 2 updates.
Image may contain: one or more people and text
Nguyễn Lai  Follow

 

Hoàng Thế Nhân

Khi nước Mỹ có thêm một tỷ phú mới, người dân Mỹ và cả thế giới sẽ có thêm một sản phẩm tiện ích, hiện đại, sành điệu để kết nối yêu thương như Iphone hay Facebook.

Khi nước Nhật có thêm một tỷ phú, người dân Nhật và cả thế giới có thêm những sản phẩm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của họ như Sony, Toshiba hay Lexus.

Nước Mỹ hay Nhật lúc đó sẽ giảm bớt đi tỷ lệ người thất nghiệp, vô gia cư, các quỹ từ thiện vì cộng đồng sẽ được nhiều lên, những nước nghèo đói ở Châu Phi sẽ được giúp đỡ, hỗ trợ.

Khi Việt Nam xuất hiện một tỷ phú mới, rừng sẽ mất đi thêm một ít, tài nguyên sẽ dần cạn kiệt đi, dân oan bị cướp đất cũng sẽ tăng lên, nợ công cũng sẽ phình to sau mỗi nhiệm kỳ, người dân bỏ xứ đi làm culi, làm điếm cũng sẽ ngày càng tăng.

Khi Việt Nam xuất hiện thêm một tỷ phú mới, quốc lộ sẽ có thêm nhiều trạm BOT hơn, thuế phí cũng sẽ tăng thêm vài %, xăng dầu cũng sẽ tăng thêm vài ba nghìn một lít.

Khi Việt Nam xuất hiện thêm một tỷ phú mới, không khí sẽ ngày càng ô nhiễm thêm, bệnh nhân ung thư cũng sẽ tăng thêm, thị trường cũng sẽ nhiều hàng giả – hàng kém chất lượng hơn, con người sẽ LỪA – GIẾT – CHÉM nhau tàn nhẫn hơn, kẹt xe cũng ngày càng trầm trọng.

Thế nên, ở Việt Nam, tỷ phú tăng theo cấp số cộng thì người nghèo sẽ tăng theo cấp số nhân. Vui gì mà reo hò tung hô họ!…

( Hoàng Thế Nhân )

Ngẫm cafe