Tôi cũng chưa đi hết dặm đường,

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 5 Thường Niên năm B 04/02/2018

 Tin Mừng (Mc 1: 29-39)

Hôm ấy, vừa ra khỏi hội đường Caphácnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê. Có ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Lúc đó, bà mẹ vợ ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Lập tức họ nói cho Người biết tình trạng của bà. Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài.

 Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai.

 Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Ông Si-môn và các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” Người bảo các ông: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Rồi Người đi khắp miền Ga-li-lê, rao giảng trong các hội đường của họ, và trừ quỷ.

 &  &   &

“Tôi cũng chưa đi hết dặm đường,”

“Đời dài, mới hết nửa sầu thương.”

(dẫn từ thơ Đinh Hùng)

Mai Tá lược dịch.

 Dài ngắn đời người, làm sao anh đi hết. Sầu thương nửa vời, tôi nghĩ chỉ thế thôi. Có nghĩ hoặc có đi, cũng khó lường con đường Chúa đã đi qua như thánh Máccô vẫn ghi lại ở trình thuật.

Trình thuật thánh Máccô ghi, là ghi về chốn miền Chúa đặt chân đến. Trước nhất, là xóm làng nhỏ bé ở đó có dân con của Ngài sẻ san hết mọi sự, mà vui sống. Dân làng tuy rất nhỏ, nhưng vẫn cùng nhau lao động trên vạt đất không do mình sở hữu, bởi thế nên cũng nghèo. Và, giá trị phần đất lao động cũng lại tuỳ khoảng cách nơi mình sinh sống. Và, tuỳ đường dài rong ruổi ngày nhóm chợ. Và, vụ mùa đạt được, hầu hết là lúa hạt, dầu ăn và nho trái. Sản phẩm đạt được, hầu hết là hạt giống, dầu ăn với nho trái để làm rượu. Thành viên gia đình lao động đều rất vất vả thời cao điểm. Và, cao điểm thời làm lụng lại là lúc để người người vui tươi gặp gỡ. Bởi thế nên, mới có câu: “Ta hãy đi nơi khác, đến làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa.” (Mc 1: 38)

 “Làng xã chung quanh”, là đất miền khá rộng, có dân cư tự mình quản cai, khai thác và xử lý. Quản trị hay xử lý, không là việc độc quyền của riêng ai. Cũng chẳng là trọng trách chỉ lo mỗi chuyện đạo. Ở nơi đây, luôn có các buổi tập họp dân quê để làm những việc như thế. Ở nơi đó, cần có các nhà lãnh đạo (tức các kỳ mục mà tiếng Hy Lạp gọi là Komarkes) và đám trung gian (tức ký lục biết đọc và biết viết gọi là komogrammateis). Không phải làng nào cũng có những vị cùng một kiến thức như thế; nhưng, nhiều làng gộp lại mới có được một vị. Các vị này còn phải lo cả chuyện chính trị ở địa phương. Các vị ấy có quyền lập văn bản chính thức, cùng đạt thỉnh nguyện thư gửi giới chức có trọng trách về luật. Là, người trung gian/môi giới, chứng nhân lẫn kế toán, vv…             

Có người hỏi: dân cư nơi ấy thế nào? Là dân làng không thay đổi, họ giống nhau ở nhiều điểm dù có khác biệt về văn hoá. Họ có mô hình hoặc mẫu mực văn hoá của dân quê. Đó là mẫu mực cuộc sống, chứ không phải sự việc do các nhà làm luật, ngôn sứ hoặc lĩnh đạo tôn giáo áp đặt lên mọi người mà họ  vẫn muốn. Dân con miền Galilê, không có chứng tích viết bằng ngôn từ mình tạo dựng. Nhưng, vẫn sống mật thiết với đất đai và loài thú. Sống, là sống theo khuôn khổ gia đình. Có, sinh hoạt liên hồi tiếp diễn. Sống, là biết theo đường lối rất uyển chuyển. Biết tin tưởng lẫn nhau cũng như đặt nặng tương quan với người khác. Đôi lúc họ cũng ngây thơ, sống thành nhóm/thành tổ trong căn hộ nghèo nàn. Sống trong sinh hoạt hỗ tương với thôn làng khác, gần gũi với súc vật.

Rất nhiều lúc, họ cũng trở nên thuần thành do công việc có khuôn khổ. Có kỳ vọng tuy khá thấp nhưng cũng tạo kinh ngạc lạ lùng. Họ vẫn im lặng chấp nhận, tin tưởng. Con cháu trong nhà chỉ biết chơi đùa nghịch ngợm nhưng vẫn biết nguyện cầu cùng Đức Chúa. Vẫn có bệnh tật, vẫn nghỉ ngơi, chung đụng với cha mẹ, nhà cửa cùng vật dụng, môi trường, cảnh trí nơi nào cũng ảnh hưởng lên chính họ. Chẳng ai còn bỏ làng xóm đi nơi khác nữa. Bởi, khi đã rời bỏ gia đình là có lỗi nặng với đất đai. Và dù có gần khu thị tứ, nhiều người cũng chẳng cải thiện được cuộc sống hoặc thích nghi được với cuộc sống mới.

Quê miền đồng nội Do thái, khác hẳn thôn làng mọi xứ sở. Ở nơi đó, có khác biệt từ thẩm quyền, đến mức độ hiệu năng và khoảng cách. Thôn làng nào cũng cần nước để sống sót. Nơi nào có nước mưa, nước nguồn để uống, thì cuộc sống sẽ khá hơn. Chẳng ai có ý nghĩ cứng ngắc như đá tảng về “quê miền đồng nội”, hoặc thôn làng người khác sống. Lại có thời, Hội thánh vẫn sáng giá ở đồng quê. Đồng hồ nhà thờ ở giữa làng, là dấu chứng Chúa hiện diện. Có thánh hội tạo ảnh hưởng lên nếp sống của giáo dân.

Về chuyện này, nay nghĩ đến chốn miền nhiều nơi thiếu linh mục trầm trọng. Nhiều làng mạc thu gọn một mối với giáo xứ. Nhiều xứ đạo hoàn toàn do giáo dân trông nom, lâu lâu mới có linh mục ghé viếng. Chính vì thế, dân quê mới thấy mình như đàn con bị bỏ chợ. Có nơi, con cháu trong làng chẳng thiết gì đến Giáo hội. Tuổi trẻ nay để mất cả phương hướng lẫn tình thương. Và, cuộc sống nói chung không theo mẫu mực Giáo hội định ra nữa. Và, khi thế hệ nối tiếp lớn lên, từng đoàn và từng đoàn người cứ thế rời bỏ giáo hội lẫn thôn làng yêu dấu ấy.

Làm sao Chúa lại chọn thôn làng xứ miền Galilê để đặt chân đến?

Trong đời người, bao giờ cũng có nơi để người người chọn chỗ mà lui tới và sinh hoạt. Và quanh đó, còn có thôn làng kề cận, vẫn chung vui. Thật ra, nhiều người cũng chẳng biết hoặc chẳng nghĩ mình sẽ làm được gì như vẫn làm ở phạm vi nhà mình. Thành thử, chuyện ta cần nghĩ, là không nên nghĩ đến câu hỏi rất khó trả lời. Bởi, câu hỏi vượt tầm tay mình hiểu biết. Bởi, đó là ý nghĩ mênh mông không biên giới, như bầu trời. Chỉ mỗi điều, là: ở nơi đó, người người đều có cảm giác như vào rừng. Vào chốn miền mà mọi người có khuynh hướng gọi tên “thung lũng đầy tiếng khóc”. Chốn miền cần hát vang kinh Kính Mừng. Nam nhân thường coi đó như nơi nguyện cầu, để rồi khi thần chết đến, Chúa sẽ giúp mình kềm chế nó. Các nữ lưu cũng biết điều đó nên chỉ đến đó khi nam nhân ép mình lui tới hoặc ở lại.

Nhưng vấn đề là hỏi rằng: Chúa về miền thôn dã, để làm gì? Câu trả lời rõ nhất, chính là xứ miền quanh Galilê có người lui tới. Ngài đi quanh khắp chốn, và đến bất cứ nơi nào Cha gửi tới. Tức, xứ miền Chúa Cha muốn mọi người trở thành con của Ngài. Và chốn ấy, là nơi có thể chẳng người con nào thích đến. Chẳng ai muốn bén mảng hoặc tới lui như làng mạc hoặc rừng hoang thôn dã ta thanh tẩy. Chỉ nơi đó và nơi đó thôi, Chúa mới sờ chạm mọi người và đổi thay con người họ. Về nơi hoang dã, tất cả rồi ra sẽ là con cái Chúa.

Sách Xuất Hành kể truyện Môsê cũng có đoạn nói về nơi dân dã, chốn hoang vu. Có bụi rừng cháy sáng. Có, Môsê hỏi tên bụi rậm để định nghĩa rừng thiêng hoang dã, nhưng không thành. Và, chẳng ai tìm ra được tên gọi ấy. Đó, là bài sai Môsê nhận lĩnh ra đi mà kể lại cho người Ai Cập biết dân con người của Chúa sẽ trở về nơi hoang dã. Thế nên, khi Môsê nói với chốn hoang sơ bụi rừng rằng ông có là gì đâu mà phải như thế? Và, Bụi Rừng đáp trả, không bằng định nghĩa lý lịch Môsê, nhưng bằng hứa hẹn: Ta sẽ về với con, nên chớ sợ. Bởi, con không là người một mình sống đời hoang dã. Bởi, Ta cũng đến đó với con thôi.

Hoang dã hôm nay, tuy không là chốn miền người người sinh sống với lao động. Mà là biểu tượng của chốn miền mình am tường và cưỡng chống nhưng vẫn đến dù không rõ mình còn muốn ở đó nữa hay không. Chúa kêu gọi người người từ chốn bụi rừng bừng cháy để vào nơi dân dã. Là, chốn duy nhất mà chất giọng và lời Chúa được mọi người nghe biết. Ở đó, chẳng có gì để mình và người người khả dĩ tạo lập chính con đường để mình đi.   

Hãy cứ đi và cứ vào nơi hoang dã, mà gặp Chúa! Và, như nhà thơ ngoài đời cũng đã diễn tả ý tưởng cùng lập trường, rất tương tự:

                        “Tôi đến đêm xưa, em vắng nhà,

                        Trăng vàng, mây bạc, sầu như hoa.

                        Tôi từ viễn phố rời chân lại,

                        Chỉ thấy sương nhiều như lệ sa.”

                        (Đinh Hùng – Đường Khuya Trở Bước)

Nhà thơ một đời ngâm nga lời ca trống vắng. Trăng vàng mây bạc cuốn lôi người “từ viễn phố, rời chân lại”, dù mưa sa. Kể ra, thì nếu chưa đi thì chưa biết chốn dã hoang bừng cháy nỗi niềm Chúa mong đợi mọi người. Trông và đợi người người ra đi. Đó, cũng là ý niệm Chúa đi “hết dặm đường” để dân con người người rày cảm kích.        

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Buồn ơi, ta xin chào mi,

Chuyện phiếm đọc trong các tuần thường niên năm B

 “Buồn ơi, ta xin chào mi”,
Khi người yêu ta đã bỏ ta đi.
Buồn ơi, ta xin chào mi!
Khi tình yêu, chấp cánh bay đi.”

(Nguyễn Ánh 9 – Buồn Ơi Chào Mi)

(Mc 14: 34)

  Trần Ngọc Mười Hai

Có một điều, là nhiều lúc bản thân bần đạo bầy tôi đây, cứ muốn nói lên đôi điều để bà con/thiên-hạ cảm-thông tâm-trạng “hơi bị buồn” của mình hoặc của người, tức: những chuyện tình buồn trong đời, thật rất khó. Khó nói và khó làm, là bởi vì tình buồn ấy đôi lúc cũng na ná giống như mọi thứ tình trong đời, thôi.

Chuyện buồn, mà bần đạo bầy tôi đây muốn nói và viết ra hôm nay, là những chuyện nhà Đạo cũng rất đời không tươi vui, nhộn-nhịp hoặc ào ào/nổi cộm, chút nào hết. Mọi sự, chỉ là chuyện thường tình xảy ra trong đời, mà thôi.

Nhưng, trước khi bàn-thảo những chuyện thường tình trong đời, tưởng cũng nên nghe thêm câu hát tiếp theo cho thật thấm, rồi sẽ tính. Câu hát buồn, mà nghệ sĩ lâu nay không ngại cất tiếng, rất như sau:    
“Buồn ơi, ta đang lẻ loi.
Buồn hỡi, ta đang đơn côi.
Buồn ơi, hãy đến với ta.
Để quên, chuyện tình xót xa.

Nếu, trên đường tình ta lẻ loi một mình.
Thì trên đường đời, ta có mi buồn ơi! …
Buồn ơi! thế nhân là thế.
Sao người yêu, vẫn mãi say mê.

Buồn ơi, yêu đương là thế.
Sao tình ta mãi mãi đam mê.
Người yêu, cho ta niềm đau.
Buồn hỡi, cho ta quên mau.

Buồn ơi, hãy đến với ta.
Để quên, chuyện tình xót xa…

(Nguyễn Ánh 9 – bđd)

Nghệ sĩ đời, vẫn hát ca về sợi “tình buồn” đến với mình bằng những câu như: “Buồn ơi, thế-nhân là thế…”, “yêu đương là thế…”, “Sao tình ta vẫn mãi đam mê?”… Trong khi đó, bậc thánh hiền nhà Đạo chỉ mới ghi lại lời Thày Chí Ái khi xưa thưa với Chúa Cha những lời trần tình buồn bã, tái tê khá lê thê như thể bảo:

“Tâm hồn Thầy buồn đến chết được.

Anh em ở lại đây mà canh thức.”

Ngài đi xa hơn một chút,

sấp mình xuống đất

mà cầu xin cho mình khỏi phải qua giờ ấy,

nếu có thể được.

Ngài nói: “Ápba, Cha ơi,

Cha làm được mọi sự,

xin cất chén này xa con.

Nhưng xin đừng làm điều con muốn,

mà làm điều Cha muốn.”

(Mc 14: 34)

 Sợi “Tình Buồn” của Thày Chí Ái, phải chăng là chén đắng, Cha trao ban? “Chén đắng” Cha ban, phải chăng là sợi tình buồn về người đời, chẳng màng chuyện thần thánh thiêng liêng vẫn rất “thần” như chuyện đời hôm nay, thiên-hạ, cứ bàn suốt?

Nói gì thì nói, có lẽ bạn và tôi, ta cứ để tai xem xét chuyện tình buồn của mình và của người như thế nào mà sao Đấng Chí Ái lại thở-than với Chúa Cha những tâm tình “Buồn đến chết được” như thế.

Thôi thì, ta hãy cứ nghe thử những lời tình buồn như sau:

“Có Thần/Phật hay không?

Thần/Phật sẽ không vì có người không tin mà không tồn tạikhông phải vì có người “khích tướng” mà hiển hiện ra cho con người thấy. Có một câu chuyện thế này:

Sau chiến-tranh châu Âu lần thứ nhất có một quốc gia muốn dùng khoa-học để tuyên-truyền thuyết vô-thần, bèn mời ba vị tiến-sĩ đến quảng-trường để thuyết-giảng.

 Vị đầu tiên, là một tiến-sĩ thiên-văn-học, sau khi giải-thích rất nhiều lý-do không có thần, ông bèn hô lớn: “Tôi đã dùng kính viễn vọng để quan-sát thiên-thể suốt hơn 20 năm qua, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy Thần, do đó tôi khẳng-địng là không có Thần”.

 Vị thứ hai là một tiến-sĩ y-học, sau khi giảng-giải rất nhiều về lý-do nhân-loại tuyệt-đối không tồn-tại linh-hồn, ông nói: “Tôi đã từng giải-phẫu trên 100 thi thể hơn 10 năm, tôi đã quan-sát kỹ các bộ-phận cơ-thể, nhưng chưa bao giờ thấy chỗ nào có linh-hồn trú-ngụ, do đó nhất-định không có sự tồn-tại của linh-hồn.”

 Vị thứ ba là một nữ tiến-sĩ luân-lý-học, bà nói: “Người ta chết đi cũng giống như ngọn đèn tàn, chết là hết, khi đã chết, thì coi như kết-thúc mọi chuyện, tuyệt-đối không có chuyện thiên-đường, địa-ngục và chịu tội muôn kiếp. Tôi đã từng đọc rất nhiều sách trên thế-giới, nhưng chưa có trang nào ghi chép về điều này.”

 Sau khi ba vị tiến-sĩ thuyết-giảng xong, người dẫn chương-trình tuyên-bố với mọi người:

 “Nếu như lý-do không có sự tồn-tại của Thần mà ba vị tiến-sĩ vừa thuyết-giảng có chỗ nào đó chưa đầy đủ hoặc nếu có chứng-cứ phản-bác lại, bất cứ ai cũng có thể đưa ra thảo-luận công-khai.”

 Một bà lão nông-dân nhà mùa nói với người dẫn chương-trình:

-Tôi có thể đưa ra vài câu hỏi không? Người dẫn chương-trình nói:

-Rất hoan-nghênh bà!

 Bà lão liền hỏi vị tiến-sĩ đầu tiên:

-Ông dung viễn-vọng kính quan-sát thiên-thể đã hơn 20 năm, vậy ông đã nhìn thấy gió bao giờ chưa? Hình-dạng của nó như thế nào?

Vị tiến-sĩ nói:

-Dùng viễn-vọng kính làm sao có thể nhìn thấy được gió cơ chứ?

Bà lão nói:

-Vậy trên đời này có gió hay không? Ông dùng viễn-vọng kính mà lại không nhìn thấy được gió, thế lẽ nào ông lại có thể dùng nó mà nhìn thấy được Thần hay sao? Ông quan-sát bằng viễn-vọng kính nhưng không nhìn thấy Thần, ông lại có thể nói là không có Thần sao?

 Vị tiến-sĩ thiên-văn-học không nói được lời nào. Bà lão chuyển sang vị thứ hai:

-Ông có yêu vợ của mình không?

Vị tiến-sĩ này trả lời:

-Có

Bà lão lại nói:

Xin cho tôi mượn con dao mà ông hay dùng để giải-phẫu, tôi muốn mở bụng của ông ra coi xem tình-yêu đôi với vợ của ông nó nằm ở chỗ nào. Ở gan, dạ dày hay ở ruột.

Nói xong, cả hội-trường cười ồ, rất lớn tiếng. Cứ tiếp tục, bà lão quê mùa kia lại nhìn sang nữ tiến-sĩ hỏi:

-Cô đã đọc quyển sách này chưa? Nó gọi là Kinh Thánh. Chẳng phải rõ ràng quyển sách này có nói mọi người sau khi chết đều chịu phán-xét sao? Cô đừng tưởng chết là hết, phải biết rằng việc sau khi chết còn nhiều và dài hơn lúc còn sống rất nhiều! Khi cô còn trong bụng mẹ, nếu có người nói với cô rằng: không lâu nữa, cô sẽ có mặt trên rta1i đất, có trời trăng sơn thuỷ, phải ăn cơm mặc quần áo, cô có tin không? Thế nhưng, hôm nay, cô không chỉ tin mà còn thực sự đã và đang sống trong thế-giới này. Thế-giới vĩnh-hằng cũng như thế, mà thôi. Sự sống không là cuộc chạy đua. Nó là một hành-trình để chúng ta từng bước chiêm-nghiệm ý-nghĩa sự sống. Điều quan-trọng không phải là phần thưởng khi chúng ta đến đích mà chính là những gì chúng ta cảm-nhận được trên từng chặng đường đi.” (Truyện kể rút từ mạng vi-tính)

 Nói thế, cũng hơi buồn. Bởi, nói như thế tức như thể bảo rằng: chẳng có thần-linh, Trời/Phật hoặc Đức Chúa ở trên cao chốn 9 tầng mây vi-vút ấy.

Nói như thế, tức còn bảo: không ai có thể minh-chứng hoặc tỏ-bày cách nào cho xứng-hợp để người đọc và người nghe thông-cảm. Chuyện “tình buồn” của ai đi nữa, cũng chỉ có thể cảm-thông hoặc cảm-nghiệm cách này hay cách khác, thôi. Và, ta cũng nên tìm bí kíp sống để “vui một đời người” dù có gặp những chuyện không vui, mới được.  

Nói thì nói thế, chứ nhiều người chung sống với nhau trong đời rất ư là thường tình. Thoạt khi gặp chuyện buồn thực lại vẫn bình-tâm, vững chí không thấy buồn/bực chút nào hết; hoặc, dù có buồn đi nữa, vẫn nhìn sự việc bằng cặp mắt tươi vui, yêu đời như truyện cười nhẹ ở bên dưới cũng buồn cười:

“Ông là người goá vợ. Bà là người goá chồng. Họ quen nhau trong nhiều năm vì là bạn học cùng lớp và đã tham gia nhiều buổi hội-ngộ khi trước. Ông nhìn bà một cách say đắm. Bà mỉm cười nhìn lại ông. Cuối cùng, ông lấy hết can đảm, hỏi bà:

-Em có bằng lòng làm vợ anh không?

Sau vài giây suy nghĩ, bà trả lời:

-Em…bằng lòng!!

Sáng hôm sau, thật tội cho ông, ông cố nhớ lại từng lời nói khi ông cầu hôn mà vẫn không nhớ là bà có nhận lời hay không?!?

Ông cầm điện-thoại lên gọi cho bà, vừa run vừa lo. Ông thuật lại mọi việc ông đã nhớ được vào ban đêm hôm trước. Cuối cùng, ông mạnh dạn hỏi:

-Khi anh hỏi em có muốn làm vợ anh không, Em trả lời ra sao?

Anh thật là vô tình. Em trả lời muốn với tất cả con tim của Em…

Lòng ông rộn rã, tim ông đập mạnh thêm…

Trong khi đó, bà nói tiếp:

-Em rất vui khi anh gọi. Thực ra em không nhớ ai đã hỏi cưới em! (Truyện kể rất dài trên mạng)

Phải chăng, “sợi buồn con nhện giăng tơ” là như thế? Có lẽ, giai-điệu nhạc nào đó theo nhịp“Valse” hoặc “Slow Rock”, cũng chẳng thể nào buồn hơn thế được. Có buồn không, đời người vẫn cứ vậy. Như thế và như vậy, tức bảo rằng: chẳng ai buồn nghĩ tới nó làm chi. Hãy cứ thế sống. Cứ thế vui chơi trong đời, như chẳng có chuyện gì buồn sầu/buồn bã xảy ra hết.

Nỗi buồn của ngôn-ngữ người đời thời nay, là: cái gì cũng bắt đầu bằng chữ “buồn” mang tính chất rất “buồn”, như: buồn bã, buồn bực, buồn thảm, buồn phiền, buồn rười rượi, vv… Nhưng, có những chuyện mà người nói vẫn cứ nói ra, mà chẳng thấy gì là buồn bã hết, thế mới buồn, như: buồn ngủ, buồn nôn, buồn tẻ, buồn tênh, buồn xo, buồn tình nhiều lúc đến thúi ruột thúi gan nhưng vẫn cười đến bể bụng.

Lại có những “chuyện buồn nhà Đạo” nghe qua thấy giống như “Chuyện Phiếm khá buồn”, tưởng ta cũng nên xem qua cho biết, như sau:  

 “Nghiên-cứu/khảo sát mới đây ở Anh quốc cho thấy đã có sự giảm sút đáng kể về số người theo Anh Giáo ở nước Anh, trong khi đó con số người Công giáo vẫn như cũ.

 Hơn phân nửa số dân sinh sống ở Anh quốc nay bảo rằng: họ chẳng thuộc đạo-giáo nào nữa hết. Trên đây, là dữ-kiện thống-kê do viện Khảo-sát NatCen Social Research ở Anh cho biết hôm 5/9/2017 vừa qua.

 53% trong số 3,000 người đứng tuổi được cơ-quan khảo-sát có tên là British Social Attitudes Survey phỏng-vấn đã cho biết là: nay, họ không theo đạo nào hết. Con số trên đây được coi là kết-quả phỏng-vấn của cơ-quan này mở ra vào năm 2016 đã lên cao so với con số 48% vào năm 2015.

 Cơ-quan khảo-sát nói trên còn cho biết là: dữ-liệu này, biểu-lộ tình-trạng bình-quân những người sống ở Anh vẫn tự cho rằng họ không theo một tôn-giáo nào hết đã đạt tình-trạng cao nhất từ trước đến giờ.

 Tính bình-quân những người có niềm tin đã từ từ gia-tăng kể từ khi viện khảo-sát bắt đầu thực hiện vào năm 1983, khi ấy 31% người được hỏi đều đã bảo: họ chẳng tin tưởng vào đấng nào hết. Mức giảm sút đây, đã thấy có nơi những người trước đây theo Anh giáo.       

 Bản khảo-sát lại cũng cho biết rằng: 15% người Anh vẫn tự coi mình là người thuộc Giáo-hội Anh-giáo cho đến bây giờ so với năm 2000 mức chênh lệc là 30%.

 Mức cân-đối về những người tự gọi mình là Công-giáo nay vẫn vậy. Tuy nhiên, số những người này nay chỉ còn chừng 10% so với 3 năm trước đây.” (X. CNS, UK religious numbers drop through the floor, The Catholic Weekly 17/9/2017 tr. 9)

Nếu bạn và tôi ta chỉ tính số lượng người đi Đạo hôm nay, thì như thế. Còn, hỏi rằng ân-sủng Chúa ban cho mọi người để họ vui sống đời đi đạo thì chất-lượng cuộc sống ấy như thế nào, thì: câu trả lời cho câu hỏi này, có lẽ cũng nên xét thêm bài viết của đấng bậc vị vọng ở đoạn khác, trích như sau:

“Chúa Tình Yêu trọn vẹn, Ngài không phê bình/lên án, bất cứ ai. Người bị kết tội, thật ra, chỉ vì đó là chọn lựa của chính họ. Chọn tha hoá, tách rời khỏi Tình Thương Yêu của Đức Chúa. Và, thánh Gio-an còn viết: “Ai tự mình làm điều xấu xa gian ác, ắt sẽ ghét bỏ ánh sáng”, và sẽ chọn những gì là tối tăm.

 Ai sống trung thực, biết tôn trọng phẩm giá con người, ắt không sợ ánh sáng. Chẳng có gì phải giấu diếm. Chẳng có gì phải hổ ngươi, có mặc cảm. Người sống trung thực, sẽ là “muối trong đời. Là, thành luỹ ở đồi cao. Là, nến ngọn chiếu sáng, đặt trên đèn. Nhờ có thế, người người thấy được điều tốt lành từ nơi họ, sẽ cùng họ tiến về cùng Chúa.             

 Tuy thế, cũng có loại hình tối tăm khác, trong đó con người vẫn lặn ngụp. Tối tăm, là những tủi nhục rất tăm tối, trong tình đời. Là sự việc tốt lành mình muốn sẻ san, nhưng chưa dám. Là, làm việc gì vì người, và cho người, vẫn chưa dám. Chưa, vì sợ ngườ ingười lên án. Phê bình. Sợ bị từ chối. Sợ, người đời chế giễu, mỉa mai. Cũng tựa như trường hợp không người nào dám đến ủi an/đỡ đần cô gái trẻ mới vừa phát giác ra mình đã mang thai, mà không chồng. Hoặc, không có cưới hỏi, ở nhà thờ. Và tự thân, cô cũng chẳng dám chuờng mặt cùng chòm xóm. Với thành viên gia đình. Với thành phần của Hội thánh Chúa, nữa. 

Tệ hơn nữa, là trường hợp của những người “đồng tính luyến ái”. Bị người đời khinh chê/ghét bỏ. Đành lủi thủi trong tối tăm, tách biệt. Tách, hết mọi người. Biệt, cả với bạn bè, người thân.

 Đó, mới chỉ là hai trong số các trường hợp cụ thể, dễ nhận thấy. Ở đây nữa, tác nhân của tối tăm/sự dữ, lại là người ngồi mát ăn bát vàng. Chỉ biết những chê bai, lên án, bình phẩm. Chính những người, cũng đang trong cảnh tranh tối/tranh sáng của những tối tăm/sự dữ, những thành kiến, huý kỵ, ghét ghen. Thông thường, đây là triệu chứng của những hãi sợ và bất an. Trong nội tâm.

 Bài đọc Lời Chúa hôm nay còn gợi nhớ người đọc về mọi sự tốt lành của ta/ở trong ta. Đó là ân huệ Chúa tặng ban. Quà Chúa ban, chẳng có gì để mình phải vênh váo, và kể công. Tốt lành của ta/ở trong ta, chính là tốt lành/trọn hảo do Ngài toả chiếu ngang qua ta, mà thôi.

 Nay, ta hãy ngước nhìn về Đức Chúa, Đấng đang nâng cao chính mình Ngài, trên thập tự trong vinh quang. Hãy nhìn vào Tình Yêu cao cả Chúa luôn ban. Tình yêu ấy, vẫn sáng rực ở trên đó. Hãy mở lòng mình, với Tình Yêu. Và, để cho Tình Ngài thấm nhập thân mình, hầu đem lại sự sống cho mọi người. 

Ánh sáng nơi ta phải sáng rực chiếu sáng mọi người. Chiếu sáng, như Chúa vẫn dặn dò. Ngài dặn kỹ, nơi Bài Giảng về Phúc Thật, ở trên núi. Rực sáng, để người người thấy điều tốt lành, ta đang làm. Có như thế, người người sẽ được đưa dẫn về với Tình Yêu Thương cao cả, của Đức Chúa. Đấng vẫn ban cho ta nhiều ân sủng, mới được thế.” ( X. Lm Frank Doyle sj, Suy Niệm Tin Mừng Chúa Nhật thứ 3 Mùa Chay năm 3 18/3/2013.)  

Nói gì thì nói, cuối cùng thì tình buồn thế kỷ, nay vẫn là chuyện đời người được thể hiện qua thơ/văn hoặc truyện ngắn cũng nhè nhẹ nhưng không buồn. Thơ và văn, là văn thơ làm đoạn kết rất như sau:

“Ta cứ tưởng trần gian là cõi “thật”

Khi tóc bạc trên đầu trôi dạt mãi.

Cội-nguồn ơi, chiếc lá lại rơi về,

Đường về khép bóng trần-gian.

Lợi-danh gói một hành-trang vô-thường.

Ngoảnh nhìn cuộc đời như giấc mộng,

Được/mất bại/thành bỗng hoá không.

Phú quí vinh hoa như mộng ảo.

Sắc/tài danh lợi tựa phù du.

Tất bật hơn thua rồi cũng bỏ.

Thong dong tự tại vậy mà vui.

Đêm qua mộng lại thật gần.

Đừng lay tôi nhé hồng-trần mong-manh!

 Ta về giữ mộng trinh-nguyên.

Bờ hun hút lạnh nắng xuyên hình hài.

Thân như bóng chớp chiều ta.

Cỏ cây hoa lá xuân qua rụng rời.

Sá chi suy thịnh cuộc đời.

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

 Ta cứ tưởng trần-gian là cõi “thật”.

Thế cho nên tất bật đến bây giờ!

 Ta cứ ngỡ xuống trần chỉ một chốc.

Nào ngờ đâu ở mãi đến hôm nay.

Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ.

Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi.

Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ.

Khi trở về cát bụi cũng trắng tay.

 Cuộc đời ta phù-du như cát bụi.

Sống hôm nay và đâu biết ngày mai?

Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi.

Rồi cũng về với cát bụi mà thôi.

Thì người ơi! Xin đừng ganh đừng ghét.

Đừng hận-thù tranh-chấp với một ai.

 Hãy vui sống với tháng ngày ta có.

Giữ cho nhau những giây phút tươi vui.

Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc.

Vì đời ta đã sống trọn kiếp người.

Với tất cả tấm lòng thành thương mến.

Đến mọi người xa lạ cũng như quen.

 Ta là Cát ta sẽ về với Bụi.

Trả trần-gian những cay đắng muộn phiền.

Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy.

Không còn buồn lo lắng chốn trần-ai!”

  Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ suy-tư nghĩ-ngợi

Chuyện buồn vui cuộc đời

Rất hôm nay. 

Trung Quốc cấp visa 5 năm cho người ‘gốc Hoa’: Bước đi bành trướng mới?


Hành khách đông đúc tại nhà ga Hồng Kiều ở thành phố Thượng Hải, Trung Quốc, vào những ngày cuối năm âm lịch.

Hành khách đông đúc tại nhà ga Hồng Kiều ở thành phố Thượng Hải, Trung Quốc, vào những ngày cuối năm âm lịch.

Chính sách mới của Bắc Kinh đã nhận được nhiều bình luận trái chiều từ giới nghiên cứu quốc tế, trong khi một số học giả Việt Nam cho đây là một động thái “khôn ngoan, chiến lược”, nằm trong cốt lõi của “chủ nghĩa bành trướng Trung Hoa” và sẽ không dừng lại.

Đây là một chủ trương tôi nghĩ là khôn ngoan, thậm chí là một tính toán hết sức chiến lược để thu hút nhân tài của người Hoa ở khắp nơi trên thế giới.
TS. Trần Công Trục

Thông báo của Bộ Công an Trung Quốc được tờ báo nhà nước China Daily đăng tải cho hay bên cạnh số Hoa kiều đã có quốc tịch ở nước sở tại, mọi công dân nước ngoài khác, cho dù không phải là công dân Trung Quốc trước đây nhưng chỉ cần có bố, mẹ, ông, bà, cụ, kỵ, bất kể bao nhiều đời, là người Trung Quốc và có giấy tờ chứng minh, thì sẽ được xem là người “gốc Hoa” và được hưởng chính sách ưu đãi thị thực trên.

Tranh giành nhân tài

Nhận định về chính sách mới này, một chuyên gia về Trung Quốc ở Việt Nam, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ, cho rằng đây là một trong những chính sách chiến lược nhằm thu hút nhân tài của Bắc Kinh.

Ông nói: “Đây là một chủ trương tôi nghĩ là khôn ngoan, thậm chí là một tính toán hết sức chiến lược để thu hút nhân tài của người Hoa ở khắp nơi trên thế giới”.

ABC News dẫn lời một số doanh nghiệp nước ngoài ở Trung Quốc cho biết họ hoan nghênh chính sách mới về visa vì tiết kiệm được thời gian và tiền bạc so với trước đây, khi họ liên tục phải xin gia hạn thị thực trong thời gian làm việc hay kinh doanh ở Trung Quốc.

Ngoài ra, một số ý kiến khác cho rằng chính sách mới là một phần trong chiến lược “quyền lực mềm” nhằm giúp Trung Quốc tiếp cận được với nguồn lực nhân tài trên thế giới để thực hiện mục tiêu trở thành cường quốc về khoa học và kỹ thuật, nhưng đồng thời cũng tạo ra một “cuộc tranh giành nhân tài” trên toàn cầu.

Chủ nghĩa bành trướng Trung Hoa

Tuy nhiên, một số học giả quốc tế khác lại tỏ ra thận trọng khi nhận định về chính sách thị thực mới.

Tiến sĩ Chongyi Feng của trường Đại học Kỹ thuật Sydney, Úc, nói với ABC News rằng ông nghi Bắc Kinh sẽ có sự “phân biệt” trong việc cấp visa cho người nước ngoài gốc Hoa, trong đó những người bị xem là “bất đồng chính kiến” sẽ bị loại ra khỏi chính sách ưu đãi này.

TS. Feng nói: “Nếu đây là một chính sách mới, thì nên được áp dụng cho tất cả mọi người, chứ không nên chỉ nhắm vào những người được gọi là ‘yêu nước’, hoặc các lãnh đạo cộng đồng [Hoa kiều] đang tham gia vào sự phát triển của đất nước Trung Quốc”, theo ABC News.

Nó là chính sách nằm trong cốt lõi của chủ nghĩa bành trướng của người Trung Quốc. Tuy nhiên, thế giới và các nước cụ thể có những bước tiến làm ảnh hưởng tới quốc gia của họ, trong đó có Việt Nam.
TS. Hà Hoàng Hợp

Trong khi đó, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu cao cấp thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS), cho rằng chính sách mới của Bắc Kinh “không có gì mới”, nếu đặt trong bối cảnh lịch sử mối quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, trong đó có Việt Nam.

Ông nói:

“Trước năm 1975, người Trung Quốc đã áp dụng cách đó và nhiều cách khác để nhằm che chở và bảo vệ người gốc Hoa, bất kể họ là công dân hay không là công dân Trung Quốc. Đấy là một chính sách không có gì mới. Nó là chính sách nằm trong cốt lõi của chủ nghĩa bành trướng của người Trung Quốc. Tuy nhiên, thế giới và các nước cụ thể có những bước tiến làm ảnh hưởng tới quốc gia của họ, trong đó có Việt Nam”.

Lịch sử cận đại đã chứng kiến làn sóng di cư của hàng chục triệu người Hoa ra các nước trên thế giới để tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Việt Nam cũng là điểm đến của một số nhỏ trong làn sóng này.

TS. Hà Hoàng Hợp cho biết thêm:

“Sau năm 1975, đã xảy ra rất nhiều chuyện làm cho người Hoa phải bỏ đất nước này mà đi. Đặc biệt ở miền Bắc, chính quyền miền Bắc rất cảnh giác với người gốc Hoa, đến nỗi để xảy ra chuyện năm 1979, một trong những nguyên nhân khiến cho lãnh đạo Trung Quốc, lúc bấy giờ là Đặng Tiểu Bình, đưa quân vào đánh, xâm lược các tỉnh miền Bắc của Việt Nam trong bốn mươi mấy ngày với lý do trừng phạt Việt Nam vì phân biệt đối xử đối với người Hoa”.

“Sau khi có bình thường quan hệ giữa hai nước vào năm 1991, người ta cũng có cách để làm sao vừa đảm bảo sự phát triển giữa quan hệ con người với con người, giao lưu văn hóa, tác động về mặt xã hội, hợp tác phát triển, mà vẫn đảm bảo được lợi ích quốc gia của các phía”.

TS. Hà Hoàng Hợp cho rằng việc cấp visa 5 năm chỉ là một bước nhỏ trong tham vọng bành trướng của Bắc Kinh. Ông dự đoán trong tương lai, Trung Quốc sẽ tiếp tục có những bước đi mạnh hơn nữa để thực hiện tham vọng này.

Hoa Kỳ lên tiếng về án tù đối với 3 nhà hoạt động

Hoa Kỳ lên tiếng về án tù đối với 3 nhà hoạt động

RFA
2018-02-02
 
Từ trái sang: Nguyễn Văn Điển, Vũ Quang Thuận, Trần Hoàng Phúc

Từ trái sang: Nguyễn Văn Điển, Vũ Quang Thuận, Trần Hoàng Phúc

Photo: RFA
 

Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội vào ngày 2 tháng 2 ra thông cáo báo chí bày tỏ quan ngại về các bản án mới nhất mà tòa tại Việt Nam tuyên đối với các nhà hoạt động trong nước.

Theo Đại sứ quán Hoa Kỳ thì cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ dùng để tuyên án các ông Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển, Trần Hoàng Phúc và Hồ Văn Hải là mơ hồ.

Phía Hoa Kỳ kêu gọi Việt Nam lập tức trả tự do ngay cho bốn người vừa bị kết án. Đồng thời cho phép các các nhân tại Việt Nam được bày tỏ quan điểm chính trị của bản thân họ một cách ôn hòa mà không sợ bị trừng phạt.

Vào ngày 31 tháng Một, tòa án thành phố Hà Nội tiến hành xử sơ thẩm ba nhà hoạt động gồm Vũ Quang Thuận,  Nguyễn Văn Điển và Trần Hoàng Phúc  vì đưa lên mạng những video chỉ trích chế độ cộng sản.

Ông Vũ Quang Thuận bị tòa tuyên 8 năm tù và 5 năm quản chế, anh Nguyễn Văn Điển 6 năm 6 tháng tù và 4 năm quản chế; anh Trần Hoàng Phúc 6 năm tù và 4 năm quản chế.

Vào ngày 1 tháng 2, bác sĩ Hồ Văn Hải, chủ trang blog BS Hồ Hải và tài khoản Facebook Hồ Hải bị tòa án thành phố Hồ Chí Minh tuyên 4 năm tù giam và 2 năm quản chế. Phiên xử ông này diễn ra mà không ai được biết cho đến khi tin tức chính thức từ truyền thông trong nước loan đi.

ƯỚC…MƠ..!!!

Đào Duẫn shared Đầu Long‘s post.
 
 
Image may contain: 2 people, people standing
Image may contain: 2 people, outdoor
Image may contain: 1 person, sitting, outdoor and nature
Image may contain: one or more people, people standing, shorts, outdoor and nature
Image may contain: 1 person, outdoor and nature
Đầu Long added 5 new photos.

 

ƯỚC…MƠ..!!!

Tượng đài..cháu chẳng thích đâu
Cổng chào ngàn tỷ còn lâu mới cần
Cháu cần áo để ấm thân
Giữa đông giá lạnh thêm quần mặc thôi

Cháu thèm được học được chơi
Bằng nửa các bạn dưới xuôi là mừng
Tết đến được ăn bánh chưng
Không phải mệt mỏi vào rừng đào măng

Trung thu được ngắm chị Hằng
Được vui phá cỗ ông trăng ven đồi
Nhưng mà chỉ ước vậy thôi
Bản em nghèo lắm…quên rồi…từ lâu !!!!

Giá mà có đuợc cây cầu
Qua con suối dữ nước sâu…nó gầm
Có đường đi đỡ mỏi chân
Không bị gai xé áo quần ..cứa da

Tối đến được ngủ trong nhà
Bớt nghe gió hú rồi là…đếm sao
Cái bụng hết đói cồn cào
Không sôi óc ách …cứ gào cả đêm

Biết rằng…ước chỉ buồn thêm
Vùng cao bao kiếp lớn lên …cứ nghèo
Đói rách nó mãi bám theo
Muốn tìm con chữ gắng trèo…bằng tay!!!

Cháu mơ thêm cánh để bay
Chỉ cần vỗ nhẹ qua ngay sang bờ
Không phải ăn chực nằm chờ
Đu dây vượt lũ…cháu mơ …chút à!!!

Cô chú du lịch ngang qua
Xin ghé vô bản thăm nhà của em
Cho em gửi nhắn nỗi niềm
Công trình ngàn tỷ tốn tiền…làm chi?!!!

Bớt chút mở đường cháu đi
Xây trường cháu học bút chì cháu tô
Cháu sẽ tô đỏ màu cờ
Sao vàng năm cánh…lại mơ…nữa rồi…
****
01/02/18 ĐL

​Tết Mậu Thân: Vai trò của Lê Duẩn và bài học cho người Mỹ


Tướng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Ngọc Loan, bắn vào đầu của một đặc công Việt Cộng, Nguyễn Văn Lém, trên đường phố Sài Gòn ngày 1/2/1968, ngay sau ngày khởi đầu chiến dịch Tết Mậu Thân của quân bắc Việt. Đây được coi là một thất bại về quân sự cho Bắc Việt nhưng Hà Nội cho rằng cuộc tổng tấn công này là một chiến thắng về mặt chiến lược.

Tướng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Ngọc Loan, bắn vào đầu của một đặc công Việt Cộng, Nguyễn Văn Lém, trên đường phố Sài Gòn ngày 1/2/1968, ngay sau ngày khởi đầu chiến dịch Tết Mậu Thân của quân bắc Việt. Đây được coi là một thất bại về quân sự cho Bắc Việt nhưng Hà Nội cho rằng cuộc tổng tấn công này là một chiến thắng về mặt chiến lược.

Rạng sáng ngày 31/1/1968, giữa lúc người dân Việt Nam đang đón Tết thì các lực lượng Cộng sản phát động một đợt tấn công bất ngờ trên toàn miền Nam. Chiến dịch này được coi là cuộc tấn công lớn nhất trong chiến tranh Việt Nam đã dẫn đến nhiều thương vong tại nhiều thành phố và thị trấn trên khắp miền Nam.

“Về mặt quân sự, Bắc Việt đã thua to. Toàn bộ các cơ sở hạ tầng của Việt Cộng bị quét sạch,” William Ridley, cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam nói với VOA-Việt ngữ.

Binh sỹ hải quân Mỹ trong lúc nghỉ giữa các trận đánh ở Huế trong khuôn khổ cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 của quân Bắc Việt.

Binh sỹ hải quân Mỹ trong lúc nghỉ giữa các trận đánh ở Huế trong khuôn khổ cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 của quân Bắc Việt.

Cựu trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Bing West và giáo sư sử học Đại học San Diego State University, Pierre Asselin, cũng nhận định tương tự với VOA sau một cuộc hội thảo tại Trung tâm nghiên cứu chiến lược quốc tế CSIS tại Washington hôm 31/1.

Trong khi đó Hà Nội tuyên bố đây là một thắng lợi về chiến thuật và là một trận đánh gây tiếng vang lớn, “một cú đập lớn để tung tóe ra các khả năng chính trị” – theo lời của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Lê Duẩn. Theo truyền thông trong nước, quân “giải phóng” Bắc Việt đã hoàn thành một trong những mục tiêu quan trong được đề ra là “đè bẹp ý chí xâm lược của Mỹ, buộc Mỹ phải ngồi vào bàn thương lượng.”

Ông Lê Duẩn cho rằng không có sự hy sinh nào là quá lớn. Đối với ông, nói đến 1 triệu hay 2 triệu người Việt hy sinh trong chiến tranh, thì đó là cái giá và là cái giá cần thiết bởi vì khi đã đạt được mục đích thì mọi thứ sẽ được chấp nhận trong lịch sử.
Pierre Assalin, GS sử học Đại học tiểu bang San Diego

Một nửa thế kỷ sau cuộc tổng tiến công bắt đầu từ Tết Mậu Thân 1968 và kéo dài hơn 300 ngày ở nhiều nơi, gồm cả Huế và Sài Gòn, người Mỹ vẫn bàn luận về những bài học được rút ra từ cuộc tấn công được coi là đã thay đổi cục diện của chiến tranh Việt Nam.

“Tôi cho rằng bài học lớn nhất là nếu anh là Tổng thống, nếu anh là Tổng Tư Lệnh và đưa quân vào một cuộc chiến thì phải có ý chí để quyết thắng,” ông West nói. “Đừng nhụt chí như cách mà Tổng thống Lyndon Johnson đã làm. Ông ấy đã quay lưng bỏ đi chỉ vì (cuộc tấn công) Tết Mậu Thân. Ông ấy lẽ ra không nên làm như thế.”

Theo cựu trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Bing West dưới thời Tổng thống Ronald Reagan, trong thời gian Tết Mậu Thân sau khi đánh bại quân miền Bắc, Tổng thống Johnson đã có cơ hội để đánh bom hệ thống đê miền Bắc và cảng Hải Phòng cũng như cắt đường cứu viện từ Trung Quốc và Nga.

“Chúng ta đã có thể nện cho họ tơi tả cho tới khi họ hiểu rằng họ không thể cưỡng chiếm miền Nam.”

Lyndon B. Johnson trở thành tổng thống Mỹ sau khi Tổng thống John F. Kennedy bị sát hại vào năm 1963. Ông Johnson là người khởi sự cuộc chiến tranh ở Việt Nam vào năm 1965.

Lyndon B. Johnson trở thành tổng thống Mỹ sau khi Tổng thống John F. Kennedy bị sát hại vào năm 1963. Ông Johnson là người khởi sự cuộc chiến tranh ở Việt Nam vào năm 1965.

Theo nhận định của cựu quan chức Bộ Quốc phòng này, Mỹ đã bỏ lỡ cơ hội để chiến thắng và quân miền Bắc lẽ ra cũng không nên tấn công bởi vì cuộc tấn công đó “không hiệu quả như họ mong muốn.”

Ông West nhận định “cả 2 phía đã mắc sai lầm” nhưng thừa nhận ảnh hưởng tiêu cực của cuộc tấn công này đối với phía Mỹ.

“Chúng tôi đã mất tinh thần. Tổng thống mất tinh thần khi nói ‘Trời, tôi chỉ muốn rút ra khỏi cái nơi đó.’”

Cho tới năm 1968, Mỹ đã đưa 468.000 quân tới Việt Nam với khoảng 30.000 lính đã thiệt mạng trên chiến trường này. Tổng thống Johnson, người đã vấp phải nhiều phản đối từ những người chống chiến tranh Việt Nam, xin rút khỏi cuộc đua ngay trước thềm bầu cử tổng thống Mỹ năm đó.

Cuộc tấn công của Lê Duẩn

Một bài học khác mà ông West rút ra từ cuộc tấn công này là “các quyết định quan trọng chỉ do một số người đưa ra.” Cựu quan chức Bộ Quốc phòng cho biết điều này “đúng trước đây và bây giờ vẫn đúng”, ám chỉ các quyết định của những nhà lãnh đạo Mỹ tại Afghanistan hiện nay.

Lê Duẩn cũng giống như Stalin. Ông ấy không quan tâm về chuyện có bao nhiêu người bị giết. Ông ấy là người có ý chí sắt. Stalin là người có ý chí sắt. Hitler là người có ý chí sắt.
Bing West, cựu trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ

Phía Bắc Việt, những quyết định quan trọng cũng do một số người đưa ra, theo nhận định của giáo sư sử học Asselin, người nghiên cứu về Đông Nam Á và Việt Nam. Ông cho rằng TBT Lê Duẩn, chứ không phải ông Hồ Chí Minh hay Tướng Võ Nguyên Giáp, là người điều hành chiến tranh Việt Nam, và là người quyết định trong cuộc tổng tiến công Mậu Thân, cùng với tướng Văn Tiến Dũng.

Nhà sử học Asselin so sánh Lê Duẩn là giống lãnh tụ Kim Il Sung của Triều Tiên về mặt “độc tài” khi đưa ra các quyết định, và giống như Stalin khi quyết định hy sinh hàng triệu quân để dành chiến thắng.

“Đối với Lê Duẩn, Việt Nam đã bị Pháp đô hộ, và trong suốt chiều dài lịch sử luôn bị Trung Quốc hăm dọa. Và Lê Duẩn sẽ làm thay đổi điều đó, làm thay đổi 2.000 năm lịch sử,” GS Assalin nói với VOA. “Tôi nghĩ ông Lê Duẩn cho rằng không có sự hy sinh nào là quá lớn. Đối với ông, nói đến 1 triệu hay 2 triệu người Việt hy sinh trong chiến tranh, thì đó là cái giá và là cái giá cần thiết bởi vì khi đã đạt được mục đích thì mọi thứ sẽ được chấp nhận trong lịch sử.”

TBT Lê Duẩn (thứ 2 từ bên phải) cùng các lãnh đạo miền Bắc Việt Nam vào năm 1966. Ông Duẩn được coi là người điều hành cuộc tổng tiến công Mậu Thân, chứ không phải Hồ Chí Minh hay Võ Nguyên Giáp.

TBT Lê Duẩn (thứ 2 từ bên phải) cùng các lãnh đạo miền Bắc Việt Nam vào năm 1966. Ông Duẩn được coi là người điều hành cuộc tổng tiến công Mậu Thân, chứ không phải Hồ Chí Minh hay Võ Nguyên Giáp.

Cựu trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng West đồng ý với quan điểm đó.

“Theo tôi, Lê Duẩn cũng giống như Stalin. Ông ấy không quan tâm về chuyện có bao nhiêu người bị giết. Ông ấy là người có ý chí sắt. Stalin là người có ý chí sắt. Hitler là người có ý chí sắt.”

Năm mươi năm sau cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân, cuộc tranh cãi trên mạng xã hội Việt Nam vẫn tiếp diễn về những tác động của chiến dịch này và liệu quyết định của ông Lê Duẩn và tướng Văn Tiến Dũng là đúng hay sai.

Cũng như những nhận định trong loạt phim tài liệu “Cuộc Chiến tranh Việt Nam” của đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick được công chiếu năm ngoái, nhiều người cho rằng cuộc tấn công này do miền Bắc phát động vào các thành phố ở miền Nam nhắm vào người dân thường, bất chấp hai miền thường ngừng bắn để cùng ăn Tết. Rất nhiều thường dân đã bị giết chết trong biến cố này.

Luật sư Lê Công Định nhận định trên một bài viết trên trang Facebook cá nhân rằng “cuộc tấn công lén lút đó lại biến thành cuộc thảm sát thường dân vô tiền khoáng hậu trong ký ức và tâm khảm người dân miền Nam.”

Chính quyền Hà Nội không công bố con số thương vong chính thức nhưng theo ước tính của phía Mỹ, con số này có thể lên tới 58,000 sau toàn bộ chiến dịch kéo gần hết năm 1968. Theo thống kê mà US News thu thập được, thương vong của phía đồng minh là gần 9.000 người, trong đó hơn phân nửa là binh sĩ Việt Nam Cộng hòa.

Các nhà hoạt động nhân quyền bị canh giữ…

Hoang Le Thanh shared Đài Á Châu Tự Do‘s post.
Hát trên những xác người !
 
No automatic alt text available.

Đài Á Châu Tự Do

 

Sáng 31-01-2018, buổi lễ kỷ niệm 50 năm cuộc “Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968” với chủ đề “Bản hùng ca xuân Mậu Thân 1968” được diễn ra tại Hội trường Thống Nhất (TP.HCM).

Theo báo Pháp luật TPHCM, tham dự buổi lễ có các lãnh đạo cao cấp như TBT Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trần Đại Quang, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cùng các nguyên lãnh đạo khác như Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết…

Trong khi đó, các nhà hoạt động nhân quyền, những người bất đồng chính kiến cáo buộc mình bị an ninh canh giữ không cho ra khỏi nhà trong ngày này.

Luật sư Lê Công Định, nhà báo Sương Quỳnh, blogger Nguyễn Hoàng Vi… đều cho hay mình bị những người mặc thường phục theo dõi.

Nhà hoạt động Nguyễn Hoàng Vi nói mình bị canh giữ từ đêm 30-01-2018, cô nhận xét về buổi lễ tổ chức ở trung tâm TPHCM: “còn những trò “ăn mừng trên những xác người” thì mong gì dân tộc này tha thứ cho mà đòi hòa với chả giải!”

Còn luật sư Lê Công Định lại bình luận: “Ngày thảm sát chính đồng bào mình thì làm lễ kỷ niệm rầm rộ.

Còn ngày đồng bào bị kẻ thù thảm sát ở Hoàng Sa, Trường Sa và biên giới phía Bắc, thì câm như ngậm thóc”.

Được biết buổi lễ kỷ niệm sáng 31-01-2018 diễn ra hết sức công phu với “những tiết mục sân khấu hóa, dựng lại không khí chiến đấu hào hùng của quân và dân ta mùa xuân Mậu Thân 1968 với sự tham gia của hàng trăm ca sĩ, nghệ sĩ”, báo PLO cho hay.  

Quang Ha
Quang Ha Kỷ niệm 50 năm cuộc tàn sát dân lành và thiêu sống hàng vạn thanh niên miền bắc cũng những tên ngu muội cộng sản. Cái giá của sự gian trá (thỏa hiệp ngừng bắn để rồi bất ngờ đánh úp) thật thảm hại, ko biết nhục mà còn moi lên . Đúng là một lũ ngông cuồng.

KHÍ PHÁCH HIÊN NGANG CỦA NGƯỜI SINH VIÊN TRẺ và NHỮNG TRÍ THỨC TRONG NƯỚC

KHÍ PHÁCH HIÊN NGANG CỦA NGƯỜI SINH VIÊN TRẺ và NHỮNG TRÍ THỨC TRONG NƯỚC – bài 1

Không khóc lóc, xin xỏ, sinh viên trẻ Trần Hoàng Phúc đã nói lời cuối cùng trước tòa:

“Ngày xưa bà Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đã được chế độ VNCH xét xử bởi một phiên toà công khai và công bằng như thế nào. Vậy mà giờ đây chúng tôi lại không được nói, không được xét xử công bằng. Các ông cố cáo buộc tôi với những thứ hết sức phi lý? Ngày xưa nếu chúng tôi chống lại những tên tham nhũng như Đinh La Thăng hay Trịnh Xuân Thanh thì chúng tôi cũng sẽ mắc tội chống lại nhà nước. Vậy bây giờ thì nhìn xem những gì chúng tôi lên tiếng và chống lại có đúng đắn hay không? Các ông có thể xét xử tôi 10 năm, 20 năm, nhưng nó chứng tỏ rằng chế độ này có thể tồn tại đến mức đó không? Và tôi sẽ tiếp tục chống lại đến khi nào xã hội có dân chủ thì thôi”.

Tòa án Hà Nội tuyên án ba thành viên của Phong trào Chấn hưng nước Việt: ông Vũ Quang Thuận, sinh năm 1966, bị án tù 8 năm, Nguyễn Văn Điển, sinh năm 1983, bị 6 năm 6 tháng tù. Thành viên trẻ nhất là Trần Hoàng Phúc, sinh năm 1994, bị tòa tuyên 6 năm tù.

Image may contain: 7 people, people standing
Image may contain: 7 people, people standing and outdoor
Image may contain: 3 people, people smiling, people standing and text
 

Con trai lớn nhất của Fidel Castro tự tử vì trầm cảm

 

Giàu có và nhiều quyền lực vẫn không bình an, hạnh phúc?

Con trai lớn nhất của Fidel Castro tự tử vì trầm cảm

Ông Fidel Castro Diaz-Balart. (Hình: AP Photo/Franklin Reyes, File)

HAVANA, Cuba (AP) – Người con trai lớn nhất của cố lãnh tụ Fidel Castro vừa tự tử hôm Thứ Năm, sau nhiều tháng bị bệnh trầm cảm, truyền thông nhà nước Cuba cho biết.

Năm nay ông 68 tuổi.

Trang web chính thức Cubadebate nói ông Fidel Castro Diaz-Balart lâu nay trong “tình trạng trầm cảm nặng.”

Một thông báo ngắn trên truyền hình nhà nước nói rằng cách chữa trị cho ông “buộc ông phải vào bệnh viện, rồi sau đó cho về nhà theo dõi tiếp.”

Người con trai lớn nhất này của ông Castro có nét giống người cha nhất, nên thường được người ta gọi là “Fidelito” hoặc “Little Fidel.”

Ông Castro Diaz-Balart học vật lý nguyên tử ở Liên Xô và là cố vấn khoa học trong Hội Đồng Nhà Nước Cuba. Ông cũng là phó chủ tịch Học Viện Khoa Học Cuba, và từng đứng đầu chương trình nguyên tử của học viện này.

Ông là con người vợ đầu tiên của ông Fidel Castro, bà Mirta Diaz-Balart, một phụ nữ thuộc tầng lớp quý tộc Cuba.

Ông Fidel Castro lập gia đình với bà từ hồi còn trẻ, trước khi bắt đầu cuộc cách mạng mà sau đó đưa ông và người em, Raul Castro, lên nắm quyền lãnh đạo Cuba.

Vì thế, về phía họ ngoại, ông Castro Diaz-Balart là anh em họ với Dân Biểu Mario Diaz-Balart, thuộc đảng Cộng Hòa và đại diện cộng đồng Cuba lưu vong ở Florida.

Ông Fidel Castro qua đời hồi Tháng Mười Một, 2016 ở tuổi 90.

Ông Raul Castro, chủ của ông Fidel Castro Diaz-Balart, hiện là chủ tịch Cuba. (Đ.D.)

Nhà hoạt động trẻ Joshua Wong được đề cử Giải Nobel Hòa bình

Nhà hoạt động trẻ Joshua Wong được đề cử Giải Nobel Hòa bình

VOA


Cựu lãnh tụ sinh viên Joshua Wong (giữa) và hai nhà hoạt động Agnes Chow (trái) và Nathan Law (phải) dược tòa Phúc thẩm Hong Kong trả tự do sau khi đóng tiền tại ngoại ngày 23/1/2018.

Cựu lãnh tụ sinh viên Joshua Wong (giữa) và hai nhà hoạt động Agnes Chow (trái) và Nathan Law (phải) dược tòa Phúc thẩm Hong Kong trả tự do sau khi đóng tiền tại ngoại ngày 23/1/2018.

Hơn chục nghị sĩ trong Quốc hội Mỹ đề cử nhà hoạt động của phong trào dân chủ và là lãnh tụ sinh viên nổi tiếng nhất của Hong Kong, anh Joshua Wong, làm ứng viên nhận Giải Nobel Hòa bình năm nay, một động thái chắc chắn làm Bắc Kinh nổi giận.

Với việc đề cử anh Wong, 21 tuổi, cùng các bạn đồng chí hướng là Nathan Law, 24 tuổi, và Alex Chow, 27 tuổi (những người đã đứng ra lãnh đạo hàng ngàn sinh viên tại Hong Kong trong cuộc biểu tình đòi dân chủ lớn nhất vào năm 2014), các nhà lập pháp Mỹ muốn công nhận “những nỗ lực ôn hòa của họ nhằm mang lại cải cách chính trị và quyền tự trị cho Hong Kong.”

Những cuộc biểu tình mà chính phủ Trung Quốc và Hong Kong xem như bất hợp pháp, là một phần của cuộc nổi dậy dân túy gây ra những thách thức to lớn nhất đối với Bắc Kinh trong nhiều thập niên.

Đề cập đến quyền tự quyết chắc chắn làm nhà cầm quyền Bắc Kinh và Hong Kong nổi giận vì họ cho rằng việc này không phù hợp với nguyên tắc “một quốc gia, hai hệ thống” mà trung tâm tài chánh châu Á này được quản trị.

“Những người bênh vực dân chủ tại Hong Kong đã có những đóng góp đáng kể cho hòa bình bằng cách tích cực mưu tìm một tương lai đảm bảo cho Hong Kong vào chính thời điểm mà Bắc Kinh có những bước phá hoại sự tự trị ấp ủ lâu nay của Hong Kong,” 4 đảng viên Dân chủ và 8 đảng viên Cộng hòa trong Quốc hội Mỹ, trong đó có cựu ứng cử viên Tổng thống Marco Rubio, trình bày với Ủy ban Giải Nobel Hòa bình trong một bức thư.

Nếu được giải, anh Wong sẽ là người trẻ thứ hai được Giải Nobel Hòa bình sau Malala Yousafzai, người Pakistan đoạt giải này vào năm 2014 khi mới 17 tuổi. Khôi nguyên thắng giải sẽ được loan báo vào tháng 10 năm nay.

Kể từ khi Anh trao trả Hong Kong lại cho Trung Quốc vào năm 1997, vùng đất này được cai trị theo nguyên tắc “một quốc gia, hai hệ thống” và Trung Quốc hứa cho Hong Kong được tự trị và tự do nhiều hơn mà người dân Hoa lục không được hưởng.

Hàng người biểu tình, nhiều người dùng dù để tự vệ trước hơi cay của cảnh sát, đã cắm trại trên những xa lộ chính trong suốt 79 ngày vào cuối năm 2014, khiến thế giới chú ý.

Tuy nhiên, các cuộc biểu tình đa phần ôn hòa này đã không áp lực được nhà cầm quyền Hong Kong và Bắc Kinh cho phép Hong Kong được hoàn toàn dân chủ.

Ba nhà lãnh đạo trẻ đã bị giam cầm trong nhiều tháng trời và bản thân anh Wong đang đối mặt với hai phiên phúc thẩm với các án tù.

Anh Wong nói anh hy vọng đề cử dành cho anh sẽ mang lại thêm sức mạnh cho phong trào dân chủ ở Hong Kong.

Anh Wong nói: “Tôi tin là sự đề cử này sẽ cho cộng đồng thế giới và Chủ tịch Trung Quốc, Tập Cận Bình, thấy rằng thế hệ trẻ sẽ kiên trì đấu tranh cho dân chủ tới mức nào, cho dù chúng tôi phải đối mặt với tù đày và bị cấm vĩnh viễn không được bước vào vị trí công cử nào.

Đất nước nhìn từ Kuala Lumpur

Đất nước nhìn từ Kuala Lumpur

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao)  Không được lợi dụng tự do tín ngưỡng tôn giáo để chống phá nhà nước – Phó Chủ Tịch Quốc Hội Tòng Thị Phóng

Tôi có chút giao tình với nhà biên khảo Đỗ Hải Minh. Ông tên thật là Dohamide Abu Talib, sáng lập viên của Hiệp Hội Chàm Hồi Giáo Việt Nam – một tổ chức đã bị nhà đương cuộc Hà Nội giải thể sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Nhờ vào những công trình biên soạn công phu và thấu đáo của Dohamide Abu Talib nên sự hiểu biết của tôi về đạo Hồi (*) thêm được phần nào khách quan và chính chắn. Những điều răn dậy của kinh Qur’an rất nhân bản và thực tiễn:

– Vinh danh và kính trọng cha mẹ

– Bố thí rộng rãi cho người nghèo

– Bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi

– Trong sạch trong tình cảm và tinh thần.

– Khiêm tốn

– Cư xử công bằng với mọi người

– Tôn trọng quyền của người khác

….

Đến Malaysia, tôi mới được tận mắt nhìn thấy cách “cư xử công bằng” và “tôn trọng quyền của tha nhân” của những tín đồ Islam đối với những tôn giáo khác – dù điều luật thứ nhất của kinh Qu’ran là “chỉ tôn thờ một Thiên Chúa (Allah) thôi.

Có hôm, đang ngơ ngác giữa thủ đô của đất nước này tôi thoáng thấy một mùi hương quen thuộc. Phải mất đến vài giây mới nhận ra là khói nhang Ấn Độ mà mình đã từng biết, khi đi qua những ngôi Chùa Chà ở quê nhà. Ở Kuala Lumpur – ngay góc đường Jalan Sehala và Jalan Pudu Lama – có một cái đền thờ nhỏ xíu xiu hà, nó nhỏ đến độ người ta phải đặt màn hình để cho số tín đồ đứng tràn ra bên ngoài nhìn thấy được cảnh hành lễ bên trong.

Tôi nghĩ rằng nơi đây chắc phải “thiêng” ghê lắm nên thiên hạ mới tụ tập đông đúc tới cỡ này. Nhưng chỉ vài phút sau, sau khi dạo quanh khu Phố Tầu, tôi mới biết là không phải vậy.

Giữa China Town thì sự hiện diện của chùa Tầu không phải là chuyện lạ. Điều lạ là cạnh đó (bên kia đường Laluan Sehala) lại có thêm một cái Chùa Chà khác, rất nguy nga, và cũng vô cùng tấp nập – dù ở Malaysia chỉ có chừng sáu phần trăm dân số là người Ấn Độ hay gốc Ấn. Cách đó không xa là Wisma Methodist Church, với thập tự giá cao vút trên không.

Thảo nào mà Kuala Lumpur có danh hiệu là The City of Contrast and Diversity. Tôi không chỉ kinh ngạc về sự tương phản và đa dạng của thủ đô Mã Lai mà còn choáng ngợp về nét tân kỳ và thanh nhã của thành phố tráng lệ này. Cũng như Singapore, Kuala Lumpur cho tôi thấy một Đông Nam Á khác: văn minh, an bình, và nhiều triển vọng – điều mà tôi không nhìn ra trong những ngày tháng sống ở Manila, Phnom Penh, Vientiane, hoặc Rangoon. Ngay ở Bangkok (nơi phồn thịnh hơn thấy rõ) những dòng xe di chuyển như kiến bò, hay những con kinh nước chẩy lừ đừ vì ô nhiễm, khiến tôi cảm thấy rất bất an khi nghĩ đến tương lai của thủ đô nước Thái.

Ảnh chụp tháng 1 năm 2018

Theo Wikipedia:

Kể từ khi độc lập, Malaysia trở thành một trong những nước có hồ sơ kinh tế tốt nhất tại châu Á, GDP tăng trưởng trung bình 6,5% trong gần 50 năm. Về truyền thống, yếu tố thúc đẩy kinh tế Malaysia là các nguồn tài nguyên thiên nhiên, song quốc gia cũng phát triển các lĩnh vực khoa học, du lịch, thương mại hay du lịch y tế. Ngày nay, Malaysia có một nền kinh tế thị trường công nghiệp mới, có GDP danh nghĩa xếp thứ ba tại Đông Nam Á (10,756.00 USD) và xếp thứ 29 trên thế giới.

Đáng trân trọng hơn hết là nét hài hoà và sự bao dung của Kuala Lumpur. Ở đây, dù tận lực phát triển nhưng con người vẫn rất nương nhẹ và sống hài hoà với thiên nhiên. Dưới chân một công trình kiến trúc kỳ vỹ (K.L Tower, ngọn tháp truyền thông cao nhất Đông Nam Á – 1,381 feet – đặt trên nền của 50 ngàn mét khối xi măng cốt sắt) vẫn có bảng cảnh báo là “đừng cho khỉ thức ăn.” Thú hoang vẫn còn chốn nương thân giữa vô số những cao ốc vươn cao chót vót đến tận trời xanh. 

Bảng cảnh báo (“Do not feed the monkey”) dưới chân tháp Kuala Lumpur Tower

Cũng nơi đây, dù Allah được coi là đấng Thượng Đế tối cao duy nhất (và hiến pháp Malaysia thừa nhận đạo Hồi là quốc giáo) dân Mã Lai vẫn mở rộng vòng tay chào đón tất cả những tôn giáo khác: Phật Giáo, Công Giáo, Ấn Giáo, Khổng Giáo, Lão Giáo…

Tưởng cũng nên nói thêm: từ tháng 8 năm 1978 đến tháng 10 năm 1991, đã có 250 ngàn người Việt Nam tị nạn cộng sản tìm đến Mã Lai, và được cho tạm trú ở Pulau Bidong trong một thời gian không ngắn. Ân tình này cần phải được ghi nhận và luôn ghi nhớ.

Sự bao dung của thiên hạ khiến tôi vô cùng cảm động, và không khỏi trạnh lòng nghĩ đến phần quê hương bất hạnh của mình. 

Trong bản dự thảo Nhận Định Tuyên Bố Về Nhân Quyền Đầu Năm 2018, đọc được trên trang Tiếng Dân (hôm 22 tháng 1 vừa qua) có đoạn nhận định như sau:

“Việc sách nhiễu, vu khống, hăm dọa đan viện Thiên An tại Thừa Thiên-Huế, nhất là cuộc tấn công phá hủy Thánh giá, biểu tượng đức tin Công giáo, và hành hung các đan sĩ ngày 28 và 29-06-2017. Tất cả đều nhằm ý đồ tước đoạt đất đai của họ. Chúng tôi cũng phản đối việc tấn công nhiều Giáo xứ tại Giáo phận Vinh (như Phú Yên, Song Ngọc, Văn Thai, Đông Kiều, Kẻ Gai, Phúc Lộc) trong năm 2017; việc ngăn chận nhiều chức sắc Phật giáo Thống nhất và Công giáo cầu nguyện chung nhân Ngày Nhân quyền 10-12-2017, việc cản trở Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo Thuần túy cử hành đại lễ Đản sanh Đức Huỳnh Giáo chủ ngày 11-01-2018, việc bắt cóc Mục sư Đoàn Văn Diên từ ngày 24-12-2017, việc sách nhiễu chánh trị sự Hứa Phi tại Lâm Đồng từ hôm 12-01-2018…”

Hai hôm sau, RFA ái ngại loan tin:

“Tòa án Nhân dân tỉnh An Giang vào sáng ngày 23 tháng Một đã tuyên án 12 năm tù đối với một cư sĩ Phật giáo Hòa Hảo thuần túy là ông Vương Văn Thả, với cáo buộc theo Điều 88 Bộ luật Hình sự, ‘Tuyên truyền chống Nhà nước’. Ông Vương Văn Thả, cư sĩ Phật giáo Hòa Hảo thuần túy, ngụ tại tỉnh An Giang, là một cựu tù nhân lương tâm. Ông Thả từng bị kết án 3 năm tù hồi năm 2012 với cáo buộc ‘Lợi dụng tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích của tổ chức, công dân’, theo Điều 258 Bộ luật Hình sự Việt Nam, và mãn án vào hồi đầu tháng 10 năm 2015.

Vào dịp Tết Nguyên Đán năm Đinh Dậu, ông Vương Văn Thả bắt đầu lên tiếng trên mạng xã hội về hoàn cảnh và chính kiến của ông đối với chế độ Cộng sản tại Việt Nam. Cả gia đình ông Vương Văn Thả, gồm 9 người bị lực lượng công an, cảnh sát cơ động…bao vây cô lập trong thời gian gần 2 tháng, cho đến ngày 18 tháng 5 năm 2017, ông Vương Văn Thả cùng người con trai và hai người cháu song sinh bị bắt.”

Ông Vương Văn Thả (giữa) bị bắt hồi Tháng Năm, 2017. 
Ảnh: Facebook Lê Văn Sơn

Qua ngày sau, ngày 24 tháng 1, nhật báo Người Việt cho biết thêm chi tiết:

“Không biết đọc, không biết viết vì không được đi học nhưng hai ông Nguyễn Nhật Trường và Nguyễn Văn Thượng 32 tuổi, là anh em sinh đôi, vẫn bị Tòa Án Nhân Dân tỉnh An Giang tuyên án 6 năm tù giam về tội ‘Tuyên truyền chống nhà nước’. Trong cùng phiên tòa diễn ra vào ngày 23 Tháng Giêng, ông Vương Văn Thả bị tuyên phạt 12 năm tù, con trai ông là Vương Thanh Thuận lãnh án 7 năm tù. Trang Phật Giáo Hoà Hảo Thuần Túy xác nhận cả bốn bị cáo trong vụ này đều là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo …”

Ông Vương Văn Thả cùng hai con, và những người đồng đạo chắc chắn sẽ được sống yên lành (thay vì phải lâm vào cảnh tù đầy) nếu họ có cơ hội được sống ở một quốc gia nào khác – ngoài Việt Nam – như Malaysia chả hạn. Tôi còn trộm nghĩ thêm rằng sở dĩ đất nước này giàu có, phú túc, và an bình không chỉ vì có nhiều tài nguyên thiên nhiên mà còn vì ngân qũi quốc gia của họ không bị ăn cắp và cũng không phải chi dùng cho việc đàn áp nhân quyền hay bách hại tôn giáo – như ở quê mình.

1/2/2018

Tưởng Năng Tiến

danlambaovn.blogspot.com

________________________________________

Chú thích:

(*) Theo Wikipedia: “Hồi giáo (tiếng Ả Rập: الإسلام al-‘islām), còn gọi là đạo Islam, là một tôn giáo độc thần thuộc nhóm các tôn giáo Abraham.” Nhà biên khảo Dohamide Abu Talib (Đỗ Hải Minh) cho chúng tôi biết thêm rằng người Việt chúng ta đã quen dùng hạn từ Hồi Giáo rồi, dù sự thực từ “hồi” theo đúng nghĩa thì chỉ là tôn giáo của tộc Hồi theo đạo Islam ở bên Tàu thôi nên dịch Islam là Hồi Giáo chung chung thì e hơi gượng ép.