Ông Khai Trí 

Thầy Lê Văn Thông

 Thời chúng tôi còn học trung học, khoảng năm 195…

Sách tiếng Việt ít nên muốn thi đậu bắt buộc phải dùng sách tiếng Pháp, như Toán hình học, Toán đại số, Toán vật lý… Học lớp Đệ tứ (lớp 9 bây giờ) mà làm hết cuốn Toán Hình học và Đại số của Réunion de Professeurs gồm 1.144 bài thì nhất, đi thi trung học chắc ăn

Thời ấy các tiệm sách lớn như Khai Trí chẳng hạn không có nhân viên bảo vệ mặc đồng phục ngồi gác ở cửa như bây giờ, mà có các nhân viên giả làm khách hàng, trông nom, ngăn chặn những người muốn ăn cắp sách.

Buổi sáng hôm ấy, cậu học sinh này cứ lang thang mở coi hết cuốn này đến cuốn khác ở chỗ các giá sách tiếng Pháp. Việc lấm lét nhìn tới nhìn lui của cậu bé khiến nhân viên trông coi khu sách tiếng Pháp nghi ngờ. Lúc cậu đi ra, họ giữ lại, sờ ngực áo cậu và lôi ra một cuốn Toán Hình học và Đại số của Réunion de Professeurs quý giá đã nói ở trên.

– Tại sao cậu ăn cắp sách?

Cậu bé tái mặt không nói nên lời. Chiếc phù hiệu trên ngực áo cậu cho biết cậu học trường Pétrus Ký, một trong bốn trường trung học công lập lớn nhất rất nổi tiếng tại Sài Gòn lúc bấy giờ: Gia Long, Trưng Vương, Pétrus Ký, Chu Văn An.

– Hừ, học sinh trường Pétrus Ký mà ăn cắp sách! Tôi gọi cảnh sát đến bắt để cậu chừa cái thói đó đi!

Họ lôi cậu bé tới chỗ quầy thâu tiền của cô thâu ngân viên, nhờ cô giữ cậu giùm rồi đi gọi cảnh sát. Cậu bé sợ hãi khóc như mưa như gió:

– Lạy chị, nhà em nghèo không có tiền mua sách, chị nói với chú ấy tha cho em đừng gọi cảnh sát…

Cậu bé khóc quá khiến cô thâu ngân viên cũng thấy mủi lòng:

– Ba má em làm gì mà nghèo?

– Ba em chết, má em quét chợ An Đông…

– Mẹ quét chợ An Đông mà con học Pétrus Ký? Em học đến đâu rồi?

– Dạ thưa quatrième année. Chị tha cho em, nếu cảnh sát bắt, đưa giấy về trường em bị đuổi học tội nghiệp má em…

– Các em quen với tiếng Pháp lắm phải không?

– Dạ.

– Bởi vậy nên mới lấy trộm sách Pháp. Bằng bấy nhiêu mà đã học lớp Đệ tứ, sắp thi Trung học là giỏi lằm. Nhưng chú ấy đã đi gọi cảnh sát thì biết làm sao…

Cậu bé sợ quá lại khóc…

Từ đầu đến giờ có một ông đã lớn tuổi, ăn mặc lịch sự vẫn đứng theo dõi câu chuyện. Thấy cô thâu ngân nói thế, ông bảo cô ta:

– Thôi được, cuốn sách giá bao nhiêu để tôi trả tiền. Học trò nghèo mà, lấy một cuốn sách, lỡ bị đuổi học tội nghiệp…

Cô thâu ngân viên chưa biết giải quyết thế nào thì đúng lúc đó ông Nguyễn Hùng Trương, chủ nhà sách mà mọi người vẫn gọi là ông Khai Trí, từ ngoài đi vô.

Thấy chuyện lạ, ông dừng lại hỏi chuyện gì. Cô thâu ngân viên thuật lại sự việc và ông khách cũng đề nghị trả tiền như ông đã nói với cô thâu ngân. Ông Khai Trí cầm cuốn sách lên coi sơ qua rồi nói:

– Phải học trò giỏi mới dùng tới cuốn sách này chứ kém không dùng tới. Cám ơn lòng tốt của ông nhưng để tôi tặng cậu ta, không lấy tiền và sẽ còn giúp cậu ta thêm nữa…

Ông trao cuốn sách cho cậu bé, thân mật vỗ vai khuyên cậu cố gắng học hành rồi móc bóp lấy tấm danh thiếp, viết vài chữ, ký tên và đưa cho cậu:

– Từ nay hễ cần sách gì cháu cứ đem danh thiếp này đến đưa cho ông quản lý hay cô thâu ngân, cô ấy sẽ lấy cho cháu. Ngày trước bác cũng là học sinh trường Pétrus Ký mà…

Ông bắt tay, cám ơn ông khách lần nữa rồi đi vào trong.

Ba năm sau, nghe nói cậu bé đậu xong Tú tài phần II, được học bổng du học nước ngoài, hình như sang Canada.

Thời gian qua đi. Một năm sau biến cố lịch sử 1975, nhà sách Khai Trí bị tịch thu, mới đầu  đặt tên là nhà sách “Ngoại văn”, sau đó đổi thành nhà sách “Fahasa” (viết tắt của 3 chữ “Phát hành sách”), hiện nay lại đổi lần nữa thành nhà sách “Sài Gòn”. Hồi ấy nhà sách Khai Trí là nạn nhân của nạn hôi của, đốt phá, sách vở tung toé khắp nơi từ trong nhà sách ra ngoài đường, nhiều người đã chính mắt chứng kiến cảnh ấy trong nỗi bất lực…

Ông Khai Trí  sang định cư bên Hoa Kỳ. 10 năm sau, ông ở Mỹ về Việt Nam một lần nữa, mang theo hy vọng làm được một chút gì cho đất nước. Ông đã mang về 2.000 đầu sách để tiếp tục làm văn hoá. Sách bị tịch thâu với lý do: in trước 75. Phần lớn sách bị tịch thâu là các loại sách Học Làm Người, báo chí quý hiếm trước 1954, như bộ Loa rất nổi tiếng. Sách ông mang về ai cũng biết là sách về giáo dục, sách hiền

Ông Khai Trí những năm cuối đời.

Ông đau lòng vì sách, ôm đơn đi kiện. Kết cục chẳng đi đến đâu. Ông buồn bã nói:

– Chắc… năm 3.000 thì họ trả…

Ông mất năm 2005 tại Sài Gòn. Trước khi ông mất, người ta đã đặt tên ông cho một con phố nhỏ (!?!).

Một buổi chiều, người ta thấy một “ông già” khoảng ngoài 70 tuổi, ăn mặc theo lối Việt kiều, đứng ngắm trước cửa nhà sách Sài Gòn với nét mặt buồn buồn rồi bước vào hỏi thăm các cô bán sách về ông Khai Trí, các cô nói hình như ông đã mất cách đây đến hàng chục năm. “Ông già Việt kiều” lại ra đứng ngắm trước cửa tiệm sách hồi lâu, lấy khăn giấy lau nước mắt, chắp tay hướng lên trên trời khẽ vái ba vái rồi đi. Không ai biết ông ta là ai cả…

Tác giả bài viết: vanthanhng1180@yahoo.com


 

Dự kiến gần 12 triệu người mất bảo hiểm y tế vì dự luật mới của ông Trump (BBC)

Tổng thống Mỹ Donald Trump

Tác giả,Nadine YousifVai trò,BBC News

Một dự luật ngân sách khổng lồ tại Thượng viện Mỹ có thể cắt giảm phạm vi quyền lợi bảo hiểm y tế của gần 12 triệu người và tăng thêm 3,3 ngàn tỷ đô la tiền nợ, theo ước tính mới.

Đánh giá từ Văn phòng Ngân sách Quốc hội (CBO), một cơ quan liên bang phi đảng phái, có thể khiến nỗ lực của Đảng Cộng hòa trong việc thông qua Đạo luật Dự luật To lớn Tốt đẹp của Tổng thống Mỹ Donald Trump trong những ngày tới thêm phần phức tạp.

Kế hoạch chi tiêu đã được thông qua trong một cuộc bỏ phiếu sơ bộ tại Thượng viện vào cuối ngày 28/6 giờ Mỹ sau khi các nhà lãnh đạo đảng tranh giành để thuyết phục các thành viên còn phân vân.

Một người quay lưng với phe Cộng hòa – Thượng nghị sĩ Thom Tillis từ bang Bắc Carolina – đã tuyên bố sẽ không tái tranh cử sau khi bỏ phiếu chống lại đạo luật quan trọng của vị tổng thống Mỹ.

Các nhà lập pháp Dân chủ đã dẫn đầu bên chỉ trích dự luật. Các con số của CBO cho thấy tiền tài trợ cho chăm sóc sức khỏe sẽ giảm 1 ngàn tỷ USD nếu dự luật được thông qua.

Phiên bản mới nhất của dự luật đã được thông qua trong cuộc bỏ phiếu 51-49 của Thượng viện vào tối 28/6. Hai đảng viên Cộng hòa – Tillis và Rand Paul của bang Kentucky – đã đứng cùng đảng Dân chủ để phản đối động thái này.

Thượng nghị sĩ Paul nói rằng ông phản đối dự luật vì làm tăng giới hạn nợ của Mỹ. Ông Tillis cho rằng dự luật sẽ khiến tiểu bang của ông mất hàng tỷ đô la tiền tài trợ cho chăm sóc sức khỏe.

Trong khi các thượng nghị sĩ tranh luận về dự luật vào hôm 29/6, vẫn chưa rõ liệu dự luật có đủ sự ủng hộ để cuối cùng được thông qua hay không.

Đảng Cộng hòa chiếm đa số tại Thượng viện, nắm giữ 53 ghế. Phó Tổng thống JD Vance có phiếu quyết định nên đảng chỉ có thể để tối đa ba người quay lưng.

Các thượng nghị sĩ Dân chủ đã sử dụng các quy tắc của viện để buộc phải đọc dự luật dài gần 1.000 trang trong 16 giờ nhằm trì hoãn việc bỏ phiếu thông qua dự luật.

Theo các quy tắc của Thượng viện, các nhà lập pháp hiện được phân bổ 20 tiếng để tranh luận về dự luật. Đảng Dân chủ được cho sẽ sử dụng toàn bộ thời gian của họ để trì hoãn thêm một cuộc bỏ phiếu trong khi Đảng Cộng hòa cố gắng đẩy nhanh quá trình này.

Các nhà lập pháp cũng có thể đề xuất sửa đổi dự luật. Nếu dự luật đã sửa đổi được Thượng viện thông qua thì vẫn phải quay trở lại Hạ viện để phê duyệt lần cuối trước khi đến bàn làm việc của tổng thống để ký thành luật.

Tổng thống Trump đã thúc đẩy dự luật được Quốc hội thông qua trước thời hạn tự áp đặt là ngày 4/7 (Quốc khánh Mỹ). Nhà Trắng nói rằng việc không thông qua dự luật sẽ là một “sự phản bội tuyệt đối”.

Vào hôm 28/6, ông gọi cuộc bỏ phiếu của Thượng viện để thông qua dự luật là một “chiến thắng lớn”.

Nhưng dự luật đề xuất cắt giảm Medicaid – một chương trình chăm sóc sức khỏe hỗ trợ hàng triệu người Mỹ cao tuổi, khuyết tật và thu nhập thấp – đã trở thành một điểm căng thẳng chính trị.

Thượng nghị sĩ Dân chủ Mark Warner nói với CNN vào ngày 29/6 rằng biện pháp này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến hàng triệu người.

“Việc cắt giảm thuế cho giới siêu giàu rốt cuộc sẽ đánh đổi bằng việc cắt giảm phúc lợi y tế, nói trắng ra là vậy,” ông bình luận.

Dự luật sẽ giúp hơn 80% người Mỹ được giảm thuế vào năm tới, dù những người giàu có hơn sẽ hưởng lợi nhiều nhất, kể cả khi tính theo tỷ lệ phần trăm thu nhập, theo Trung tâm Chính sách Thuế phi đảng phái.

Thượng nghị sĩ Markwayne Mullin, một đảng viên Cộng hòa từ bang Oklahoma, nói với NBC vào hôm 29/6 rằng luật này nhằm mục đích loại bỏ gian lận, lãng phí và lạm dụng.

Ông lập luận rằng nhiều người Mỹ sử dụng Medicaid không nằm trong ngưỡng nghèo đói.

“Chúng ta không trả tiền cho những người ở đất nước này để họ lười biếng,” ông nói.

“Chúng ta muốn trao cho họ một cơ hội. Và khi họ đang trải qua thời kỳ khó khăn, chúng ta muốn giúp đỡ họ.”

Có gì trong dự luật?

Đảng Cộng hòa đang nỗ lực để thông qua dự luật tại Thượng viện trước hạn chót là ngày 4/7.

Chụp lại hình ảnh,Đảng Cộng hòa đang nỗ lực để thông qua dự luật tại Thượng viện trước hạn chót là ngày 4/7

Một số phần của dự luật chi tiêu đã được sửa đổi tại Thượng viện để xoa dịu những người Cộng hòa phản đối.

Dự luật vẫn chứa một số thành phần cốt lõi: cắt giảm thuế mà ông Trump đã tuyên bố khi vận động tranh cử, chẳng hạn như khấu trừ thuế đối với các chế độ phúc lợi an sinh xã hội và xóa bỏ thuế đối với tiền làm thêm giờ và tiền boa.

Dự luật cũng sẽ kéo dài thời gian cắt giảm thuế mà đảng Cộng hòa đã thông qua vào năm 2017.

Dự luật đề xuất cắt giảm một số chương trình nhất định để chi trả cho các khoản khấu trừ thuế.

Về chăm sóc sức khỏe, dự luật chi tiêu đề xuất yêu cầu hầu hết người lớn phải làm việc để đủ điều kiện hưởng phúc lợi.

Dự luật cũng giảm số tiền thuế mà các tiểu bang có thể tính cho các nhà cung cấp dịch vụ y tế, nguồn tiền từ đó được sử dụng rất nhiều để tài trợ cho các chương trình Medicaid.

Sau khi một số thượng nghị sĩ Cộng hòa lên tiếng lo ngại rằng những khoản cắt giảm này sẽ gây tổn hại đến các bệnh viện nông thôn trong khu vực của họ, các nhà lập pháp đã bổ sung một điều khoản vào dự luật mới nhất nhằm tăng quy mô quỹ cứu trợ bệnh viện nông thôn từ 15 tỷ đô la lên 25 tỷ đô la.

Dự luật bao gồm các hạn chế đối với chương trình tem phiếu thực phẩm của Mỹ bằng cách yêu cầu hầu hết người lớn có con từ 14 tuổi trở lên phải xuất trình bằng chứng về việc làm để đủ điều kiện hưởng lợi.

Dự luật cũng chuyển một số chi phí từ chính quyền liên bang sang các tiểu bang bắt đầu từ năm 2028.

DÌ PHƯỚC

Tu Le

Chợt nhớ lại một câu chuyện hồi lớp 7, anh kia là con cô nhi tức từ nhỏ sống trong trại cô nhi viện và các soeur nuôi anh, khi lớn lên có vợ rồi anh khao khát tìm mẹ, soeur nuôi dạy anh thương anh nên tìm giấy tờ truy mẹ dùm anh.

Rồi cũng kiếm ra, khi tìm ra nhà mẹ ruột, khi đó bà này đã có chồng con khác, nhà rất giàu thì bà mẹ ruột không nhìn.

Ông con trai già đầu ôm mặt khóc hu hu ở góc đường, bà soeur cũng ôm anh mà khóc.

Anh chợt nhận ra một chân lý, té ra anh ảo tưởng, mơ mộng, anh tìm chi xa, mẹ anh kế bên anh đó, là soeur chứ ai. Từ đó về sau anh gọi soeur là mẹ, con anh gọi soeur là bà nội, một gia đình hạnh phúc như bao niềm mơ ước.

Trong tiếng Pháp, Soeur có nghĩa là chị hay là em gái.

Soeur tiếng Pháp = Sister tiếng Anh = tiếng La Tinh Soror.

Trong nhà thờ Ki Tô giáo, chữ Soror (Soeur) là chỉ nữ tu, nam là frater (frère), brother là các nam tu sĩ, linh mục, cha sở.

Ki Tô vô Việt Nam. Dân Nam Kỳ kêu Soeur là bà phước, dì phước hoặc bà mụ. Mụ là chữ có hai nghĩa, kiểu Nam rặc là bà tiên hoặc bà thánh phụ trách sanh nở nặn ra em bé, che chở cho em bé, mụ vườn là người đỡ đẻ. Mụ tiếng Huế cũng có nghĩa là bà.

Kêu soeur dì như chị em của mẹ là một sự yêu thương. Tiếng “dì” thường đi kèm với tiếng “phước” thành dì phước

Phước lành thay! Nuôi con nít không cha mẹ bị bỏ rơi, nuôi người cùi, chăm sóc người già, chăm sóc bịnh nhân là những việc làm phước đức lớn lao. Những mái trường dòng dạy trẻ em, những ấu trĩ viên, cô nhi viện, viện dưỡng lão, nhà thương (bịnh viện), trai cùi, trại tâm thần, trại tế bần đều có bàn tay của các soeur.

Hãnh diện thay! chữ “nhà thương” trong văn hóa Miền Nam cũng có bàn tay của các soeur. Nhà thương Đồn Đất, nhà thương Chợ Rẩy, nhà thương Saint Paul, nhà thương thí…

Chữ phước là một chữ có từ xưa ở Việt Nam ta, phước lành, phước phần, hạnh phước.

Phước (Phúc) chữ Hán là 福.

Chữ này gồm có bốn chữ, chữ bên trái là bộ kỳ (示) chỉ về thần (神) tức Ông Trời, Thần Linh, Phật, sau này Ki Tô lý giải có thêm Đức Chúa Trời hay Thiên Chúa.

Chữ bên phải có 3 chữ là: nhứt (一) là một,khẩu (口) là miệng hay người, điền (田) là ruộng vườn.

Phước 福 có nghĩa là người được Trời Phật độ mà bản thân có ruộng vườn. Tức là có của ăn của để mà được Trời thương do ăn hiền ở lành, tạo nhiều niềm vui cho xóm làng, bá tánh.

Chữ “Phước” được Đức Phật nhắc tới nhiều lần.

“Lánh xa kẻ xấu ác

Được thân cận người hiền

Tôn kính bậc đáng kính

Là phước đức lớn nhứt”

Con người ta có “phước báu” và phải biết sử dụng nó cho cuộc đời.

Phước duyên cũng là một thuật ngữ của Phật giáo, tại chùa Thiên Mụ Huế có bửu tháp Phước Duyên.

Dòng nữ tu Ki Tô đầu tiên vào và tạo lập ở Việt Nam là Dòng nữ Mến Thánh Giá được thành lập năm 1670 ở Bắc Kỳ và 1671 ở Nam Kỳ.

Khi đó các soeur đã hoạt động thiện nguyện rất nhiều. Phước duyên lành ở mọi chúng sanh.

Sau những năm Pháp vô thì các soeur hoạt động trong trị bịnh, giáo dục, nuôi cô nhi, dưỡng lão, coi trại cùi, người tâm thần… rất tích cực.

Thành ra người Nam Kỳ kêu bịnh viện là nhà thương,các soeur là dì phước, bà phước.

Nam Kỳ nói “Thằng đó con bà phước” thì hiểu nó ở trại cô nhi của bà phước nuôi.

Bà phước là người đi làm việc phước thiện, ban bố ơn lành phước huệ, tạo đức, phước lành cho mọi người.

Bà phước lúc nào cũng hiền lành, nhẫn nại, chịu thương chịu khó, mặt không son phấn, áo quần đơn sơ nhưng toát lên sự thánh thiện mà cả những người ngoại đạo cũng phải công nhận.

Bà phước hiền nhưng rất nghiêm khắc, con nhà ai cứng đầu, khi trường học hết dạy nổi thì đem vô trường dòng cho bà dạy. Mà người Nam Kỳ xưa hay cho con vô trường của các bà soeur dạy học lắm, dù nhà đó không có đạo Ki Tô.

Tại VN hiện tại có 59 dòng tu nữ của các bà phước, thí dụ dòng Saint Paul, Cát Minh, dòng Chúa Quan Phòng…

Người đứng đầu một tu viện nữ là Mẹ Bề Trên, tên thông dụng là Bà Nhứt. Có Bà Nhứt sẽ có Bà Nhì. Các bà chỉ là dòng nữ tu không được giảng đạo như các linh mục.

Tại VN Dòng Mến Thánh Giá là dòng cổ nhứt và có nhiều chi nhánh nhứt, thí dụ Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán, Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm, Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn …

Các soeur sống rất bình dân, có khi tự trồng trọt, làm ruộng, bán trái cây tự sanh sống.

Người dân rất thương các soeur.

Nguyễn Gia Việt

chia sẻ từ 8 SÀI GÒN


 

MỘT LỜI CẢNH TỈNH CẦN THIẾT –  Rev. Ron Rolheiser, OMI

Rev. Ron Rolheiser, OMI

 Một tu sĩ dòng Biển Đức chia sẻ câu chuyện này với tôi.  Trong những năm đầu đời tu, tu sĩ bị phẫn uất vì cần bất cứ gì cũng phải xin phép Đan viện phụ.  “Tôi nghĩ làm vậy thật ngốc.  Một người trưởng thành như tôi, muốn một cái áo mới cũng phải xin phép bề trên.  Tôi thấy mình như trẻ con vậy.”

Nhưng khi lớn thêm vài tuổi, cái nhìn của người tu sĩ khác đi. “Tôi không chắc lắm về mọi lý do, dù tôi chắc chắn chuyện này có liên quan đến ân sủng.  Nhưng đến một ngày, tôi thấy ‘chuyện cái gì cũng phải xin’ có một khôn ngoan sâu sắc.  Chúng ta chẳng sở hữu gì cả, chẳng có gì mặc định là của chúng ta cả.  Tất cả đều là ơn ban.  Nên về mặt lý thuyết, phải xin tất cả mọi thứ, chứ không lấy như thể chúng ta có quyền.  Chúng ta cần biết ơn Thiên Chúa và vũ trụ vì mọi sự đã được ban cho chúng ta.  Bây giờ khi tôi cần một cái gì đó cần xin phép, tôi không còn cảm thấy mình là con nít.  Thay vào đó, tôi cảm thấy mình hòa hợp thích đáng hơn với cách thức điều hành mọi sự trong vũ trụ theo ơn ban mà trong đó không một ai có quyền tối hậu trên cái gì.”

 Điều mà tu sĩ này hiểu ra chính là nguyên tắc nền tảng cho mọi linh đạo, mọi luân lý, và mỗi một điều răn, cụ thể là tất cả mọi sự đến với chúng ta như một tặng vật, chứ chẳng có gì là của chúng ta.  Chúng ta nên biết ơn Thiên Chúa và vũ trụ vì cho chúng ta những gì chúng ta có, và chúng ta cẩn thận đừng đòi thêm như thể mình có quyền.

 Nhưng điều này rất trái ngược với cái tôi bản năng và văn hóa của chúng ta.  Trong cả hai điều này có những tiếng nói mạnh mẽ bảo chúng ta nếu không thể lấy được điều mình muốn thì mình là kẻ yếu đuối, yếu đuối theo cả hai nghĩa.  Thứ nhất là tính cách yếu đuối, quá hèn nhát không dám giành lấy cuộc đời.  Thứ hai, là bị sự dè dặt của tôn giáo và luân lý làm cho yếu đuối, không thể giành lấy một cách thích đáng và sống cho thật trọn vẹn.  Những tiếng nói này bảo chúng ta phải lớn lên, vì trong chúng ta có quá nhiều thứ sợ hãi và ấu trĩ, vì chúng ta là đứa trẻ bị những thế lực mê tín giam giữ.

 Chính bởi những tiếng nói như vậy mà ngày nay, trong một văn hóa tự nhận là Kitô hữu và luân lý, những nhân vật chính trị và xã hội lại hoàn toàn thật lòng tin, cho rằng sự cảm thông là sự yếu đuối của con người.

 Chúng ta cần một lời cảnh tỉnh quan trọng.

 Tiếng của Chúa Giêsu là phản đề hoàn toàn đối với những tiếng nói này.  Cảm thông là nhân đức gần như tối hậu của con người, là phản đề của sự yếu đuối.  Chúa Giêsu nhìn vào những gì là dứt khoát, hùng hổ và tích lũy trong xã hội chúng ta, cho dù chúng được ngưỡng mộ đến như thế nào, Ngài cũng sẽ nói rõ rằng đó không phải là ý nghĩa của việc đến bàn tiệc ở tâm điểm vương quốc Thiên Chúa.  Chúa Giêsu sẽ không có chung sự ngưỡng mộ của chúng ta dành cho những người giàu có và nổi tiếng vốn quá thường xuyên giành lấy, như thể họ có quyền, tài sản và địa vị quá mức của mình.  Khi nói rằng người giàu vào nước trời còn khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim, có lẽ Chúa Giêsu sẽ làm rõ hơn khi nói thêm: “Dĩ nhiên trừ khi người giàu giống như trẻ con, xin phép vũ trụ, cộng đoàn và Thiên Chúa khi muốn một chiếc áo mới!”

 Khi tôi ở nhà tập, linh mục phụ trách tập viện đã cố gây cho chúng tôi ấn tượng về ý nghĩa của sự khó nghèo đời tu, ngài bảo chúng tôi viết mấy chữ la-tinh: ad usum, để bạn dùng trong mỗi quyển sách được phát.  Dù quyển sách này được giao cho chúng tôi dùng riêng, nhưng chúng tôi không sở hữu nó.  Nó chỉ được để cho chúng tôi dùng, quyền sở hữu thì ở người nào đó khác.  Rồi chúng tôi được dạy, điều này cũng đúng với bất kỳ vật gì được giao cho chúng tôi dùng riêng, từ bàn chải đánh răng cho đến chiếc áo mặc trên người.  Chúng không thật sự là của chúng tôi, mà chỉ đơn thuần được giao cho chúng tôi dùng.

 Một tập sinh thời đó cùng tôi, sau này đã rời dòng và bây giờ là bác sĩ, anh vẫn là bạn thân của tôi, anh chia sẻ với tôi, dù bây giờ là bác sĩ, anh vẫn viết mấy chữ ad usum trong mọi quyển sách của anh.  Lý luận của anh: “Tôi không ở dòng tu.  Tôi không có lời khấn khó nghèo, nhưng tôi thấy khi ở thế giới này, nguyên tắc linh mục dạy chúng tôi thật xác đáng không khác gì khi ở tập viện.  Chúng ta chẳng sở hữu gì hết.  Những quyển sách này không hẳn là của tôi.  Chúng được giao cho tôi, tạm thời, để tôi dùng.  Chẳng có gì hoàn toàn thuộc về bất kỳ ai.  Và tốt nhất là đừng bao giờ quên điều đó.”

 Bất kể chúng ta giàu có, uy lực và trưởng thành đến thế nào, thì trong chuyện xin phép để mua một chiếc áo mới luôn có một điều gì đó thật lành mạnh.  Nó giữ chúng ta hòa hợp với sự thật rằng vũ trụ thuộc về tất cả mọi người, và tối hậu là thuộc về Thiên Chúa.  Mọi thứ đến với chúng ta đều là tặng vật, cho nên chúng ta đừng bao giờ mặc định xem cái gì là của mình, mà hãy mặc định xem là đã được ban cho!

 Rev. Ron Rolheiser, OMI

From: Langthangchieutim

BỆNH VIỆN TỪ DŨ…

 Xuyên Sơn 

Tiền thân của bệnh viện Từ Dũ là một khu chuyên khoa sản trực thuộc Bệnh viện Lalung Bonnaire (nay là Bệnh viện Chợ Rẫy) ra đời vào năm 1923.

Đến năm 1937, thương gia người Hoa là Hui Bon Hoa (tức chú Hoả) đã hiến mảnh đất riêng với diện tích 19.123m2 trên đường Arras cũ (nay là đường Cống Quỳnh, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh) để xây bảo sanh viện mang tên Maternité Indochinoise (Bảo sanh viện Đông Dương) do Giáo sư Bác sĩ George Cartoux

(người Pháp) làm giám đốc.

Do tình hình chiến tranh, nên khi xây dựng xong, bảo sanh viện bị quân đội Pháp, sau đó là Nhật trưng dụng làm nơi đóng quân.

Đến tháng 9 năm 1943, bảo sanh viện mới chính thức hoạt động với khoảng 100 giường bệnh.

Năm 1944, bệnh viện đổi tên thành Việt Nam Bảo sanh viện.

Đến năm 1946 được đổi thành Maternité George Béchamps

(tuy nhiên do dân chúng không ưa gọi tên Pháp nên thường gọi là

“Nhà sanh Chú Hoả”).

Đến năm 1948, bệnh viện được mang tên của thái hậu triều Nguyễn:

Bà Từ Dụ, tuy nhiên bị đọc chệch thành Từ Dũ

(HOÀI NIỆM- SÀI GÒN XƯA)


 

CỨ Ở YÊN!- Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Xin cứu chúng con!”.

Trong “Giữa Mắt Bão” – “In The Eye of the Storm” – Max Lucado viết, “Cứ ở yên, cầu nguyện gấp hai lần khi bạn sợ hãi! Lắng nghe gấp hai lần khi bạn khẩn xin!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Câu chuyện Tin Mừng hôm nay thể hiện những lời khuyên của Lucado. Giữa biển khơi, các môn đệ gặp bão. Con thuyền là hình ảnh Giáo Hội, hình ảnh thế giới, gia đình, cộng đoàn – trong đó – có chúng ta. Và trước bất cứ cơn bão nào, để tồn tại, bạn và tôi ‘cứ ở yên’, cầu nguyện gấp hai lần, lắng nghe gấp hai lần!

Cơn bão dữ dội là hình ảnh những cuộc đấu tranh cá nhân và cộng đồng mà mỗi người trải qua trong cuộc sống. Trước hết, đó là những cuộc bách hại cách này cách khác mà Giáo Hội không tránh khỏi; đó còn là những cơn bão của một cuộc chiến dai dẳng giữa thánh thiện và tội lỗi, sự thiện và sự ác, Thiên Chúa hay thế gian. Nó ập xuống cộng đoàn, gia đình và linh hồn bất cứ lúc nào. Không ít lần, chúng ta cảm thấy Thiên Chúa vắng mặt hoặc ít nữa, Ngài “vẫn ngủ” đang khi những hỗn mang xáo trộn vẫn dồn dập. “Bão tố là một phần của hành trình đức tin. Tin là nhận ra rằng, cả khi chúng ta không cảm thấy Ngài, Chúa vẫn ở đó – gần hơn bao giờ hết!” – Henri Nouwen.

Gặp bão, bài học đầu tiên là – như các môn đệ – bạn ‘cứ ở yên’ trong thuyền, vì Chúa Giêsu đang ở đó, dù Ngài đang ngủ! Thứ đến – cấp thiết hơn – họ tìm đến Chúa, van xin Ngài. Cần nhận ra rằng, tôi cần Chúa, khả năng tôi không đủ cho chính mình. Khi chúng ta vượt qua cám dỗ ‘khép mình lại’, hoặc chiến thắng cám dỗ ‘bỏ thuyền’; hay khi vượt qua lòng mộ đạo sai lầm là ‘không muốn phiền Chúa’ để bắt đầu cầu nguyện, thì Thiên Chúa mới có thể ra tay cách kỳ diệu. “Cầu nguyện không đưa con ra khỏi bão, nhưng đặt Chúa vào giữa bão với con – và thế là đủ!” – Thomas Merton.

Một ‘cơn bão’ tương tự đã xảy ra cho Lót và gia đình ông – bài đọc một. Họ chạy trốn vì Chúa sắp huỷ diệt Sôđôma. Thiên thần giục Lót, “Đừng ngoái lại đằng sau, đừng dừng lại!”. Điều Lót cần là chạy về phía trước – về phía Chúa, Đấng cùng chạy với ông – “Nếu Chúa muốn con ở trong chiếc thuyền ấy, Ngài sẽ chèo nó cùng con!” – Mẹ Têrêxa; “Lạy Chúa, con hằng nghĩ tới tình thương của Chúa!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Xin cứu chúng con!”. Chúa Giêsu muốn chúng ta tập trung vào Ngài; nhìn vào Chúa, đừng nhìn vào sóng; cầu nguyện gấp hai lần, lắng nghe gấp hai lần. Ngài sẽ “chỗi dậy, truyền lệnh cho gió và biển. Và biển yên lặng như tờ!”. Vậy ngọn gió nào đang ‘thổi thốc’ đời bạn? Đâu là những con sóng cản trở định hướng của bạn khiến bạn hoảng loạn? Hãy giải bày và cho phép linh hồn nói với Chúa Giêsu mọi thứ! Đó là sức mạnh nhẹ nhàng nhưng phi thường nhất – cầu nguyện – nó sẽ đưa thuyền bạn cập bến bình an! “Chúng ta không được hứa một hành trình dễ dàng, nhưng được hứa rằng, Chúa sẽ không bao giờ rời bỏ con thuyền của chúng ta!” – Charles Spurgeon.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, mỗi khi ‘gặp bão’, đừng để con động đạc, toan tính rồi quên cầu nguyện. Cho con xác tín, chính sự hiện diện thinh lặng của Ngài là bình an!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

***********************************************

Thứ Ba Tuần XIII Thường Niên, Năm Lẻ

Đức Giê-su trỗi dậy, ngăm đe gió và biển : biển liền lặng như tờ.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.   Mt 8,23-27

23 Khi ấy, Đức Giê-su xuống thuyền, các môn đệ đi theo Người. 24 Bỗng nhiên biển động mạnh khiến sóng ập vào thuyền, nhưng Người vẫn ngủ. 25 Các ông lại gần đánh thức Người và nói : “Thưa Ngài, xin cứu chúng con, chúng con chết mất !” 26 Đức Giê-su nói : “Sao nhát thế, hỡi những kẻ kém lòng tin !” Rồi Người trỗi dậy, ngăm đe gió và biển : biển liền lặng như tờ.

27 Người ta ngạc nhiên và nói : “Ông này là người thế nào mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh ?”


 

Chuyện hiếm có – Bill Haast- HUYỀN THOẠI TÂY ĐỘC ÂU DƯƠNG PHONG 

HUYỀN THOẠI TÂY ĐỘC ÂU DƯƠNG PHONG có thật ngoài đời này !!

Bill Haast da cong hien cho nhan loai su nghiep vi dai nghien cuu loai huyet thanh (Serum)  tri Ran can

Viec lam cua ong da cuu song bao trieu nguoi tren the gioi sau nay– Ong phai duoc xung dang lanh Nobel ????

HUYỀN THOẠI TÂY ĐỘC ÂU DƯƠNG PHONG của Kim Dung có thật ngoài đời này, có những con người sống một kiếp bình lặng, và cũng có những người sống như truyền thuyết, Bill Haast là một trong số đó. Ông không phải là ngôi sao Hollywood, càng không phải tỷ phú công nghệ. Nhưng trong thế giới của rắn độc , ông là huyền thoại.

Bill Haast (1910–2011) sống hơn 100 năm – và suốt cả thế kỷ ấy, ông đã cầm trên tay hơn 3 triệu con rắn độc. Vâng, ba triệu con rắn độc thật sự – không phải con số phóng đại cho hay.

Ông bị cắn ít nhất 172 lần tính đến năm 2008. Trong đó có đến 20 lần suýt chết. Và có một lần… ông bị rắn Cottonmouth cắn vào đầu ngón tay, đau đớn, nhưng không hoảng loạn. Bill lạnh lùng bảo vợ mình “Lấy cây kéo làm vườn cắt phăng ngón này ngay đi.”

Từ năm 1948, ông tự tiêm nọc độc rắn hổ mang (cobra venom) vào cơ thể – không vì điên rồ, mà vì một mục tiêu duy nhất: xây dựng hệ miễn dịch chủ động.

60 năm sau, Bill có kháng thể chống lại hơn 30 loài rắn độc khác nhau. Trong người ông, máu không chỉ là sự sống, nó là huyết thanh quý hiếm.

Đã có 21 người trên thế giới từng bị rắn độc cắn và không thể chờ đợi huyết thanh điều chế. Họ được cứu sống bằng máu của Bill – truyền trực tiếp.

Trong đó, nổi tiếng nhất là một cậu bé ở Venezuela. Huyết thanh khan hiếm, thời gian không còn. Bill Haast đích thân băng rừng, vượt suối, mang theo chính máu của mình để hiến tặng – và cậu bé sống.

Chính phủ Venezuela sau đó đã trao ông quyền công dân danh dự, như một biểu tượng của sự biết ơn.

Năm 1989, dù đã có kháng thể với hơn 30 loài rắn, Bill Haast vẫn bị đe dọa tính mạng khi bị cắn bởi Pakistani Pit Viper – một loài cực độc, và huyết thanh đặc hiệu chỉ có tại Iran.

Khi thời gian không còn, Toà Bạch Ốc đích thân liên lac  chính phủ Iran, dùng quan hệ ngoại giao để khẩn cấp đưa huyết thanh đó về Mỹ cứu Bill – một con người không thuộc về chính phủ nào, nhưng thuộc về y học và nhân loại.

Bill Haast qua đời năm 2011, hưởng thọ 100 tuổi rưỡi. Không phải vì rắn, không phải vì nọc độc, mà vì tuổi già, mà vì ông đã sống đủ lâu để chứng minh cho thế giới thấy: nọc độc không giết được người hiểu và tôn trọng nó. Ông từng nói :

“Tôi không sợ rắn. Tôi sợ sự ngu dốt và kiêu ngạo khi xem thường nó.”

Di sản của ông không chỉ là máu, mà là kiến thức cho cả ngành y. Nhờ Bill Haast, hàng chục loại huyết thanh kháng nọc độc được phát triển. Nhờ những lần bị cắn, những lần suýt chết, những vết sẹo rải khắp tay, ông để lại hàng thập kỷ dữ liệu thực nghiệm sống, giúp các nhà khoa học rút ngắn hàng chục năm nghiên cứu.

Bill Haast không phải siêu nhân. Ông là một con người bình thường dám bước vào thế giới tử thần, để biến thứ giết người thành thứ cứu người.

Hơn 3 triệu con rắn. Hơn 172 lần bị cắn. Hơn 100 năm sống. 21 người được cứu bằng máu của ông và hàng triệu người sẽ được cứu bởi sự cống hiến của ông. 

Và ông xứng đáng được gọi là The King of Venom.


 

Người giàu cũng khóc

Ho Quang Vinh

Nhân đám cưới lần 2 của một nhân vật lững lẫy trong danh sách top 10 tỷ phú  trên Thế giới hôm qua . Thấy ông Bill cũng nằm trong số top tỷ phú này ..Nhưng giờ nghe ông ấy than thở  .. thật nẫu ruột “Tôi đã mất 65 tỷ đô la cho vợ cũ của tôi, Melinda, trong phán quyết ly hôn, nhưng ly dị cô ấy là sự hối tiếc lớn nhất trong cuộc đời của tôi. Nếu tôi có một cơ hội khác, tôi sẽ cưới lại Melinda Gates, vợ cũ của mình,  Tôi không quan tâm tôi đã mất bao nhiêu tiền, cô ấy đáng giá hơn bạc vàng với tôi. Tôi vẫn khóc mỗi ngày khi nghĩ về cô ấy, bởi vì tôi không chỉ mất vợ trong cuộc ly dị đó. Tôi đã mất đi người bạn thân nhất của mình và là người duy nhất trên thế giới này thực sự biết tôi và yêu tôi vì chính tôi chứ không phải vì tiền của tôi.

Một trong những điều tuyệt vời nhất mà chúng tôi cùng tạo ra là con cái của chúng tôi và Quỹ Gates.

Chúng tôi vẫn là bạn và chúng tôi vẫn gặp nhau vì lũ trẻ. Nhưng tôi hy vọng cô ấy có thể cưới tôi một lần nữa và lấp đầy khoảng trống này trong trái tim tôi. Cô ấy không thể thay thế được. Tiền không mua được tình yêu và thậm chí, mất thêm 65 tỷ đô la nữa cũng không mua được tình yêu đích thực”.

(Cang Huỳnh lược dịch từ Chaque jour une histoire.)

Giờ mới tin câu thiệu ” Nhà giàu ..cũng khóc ! ‘ nghen, các bạn !


 

Chính vì sự đố kỵ và ghen ghét…-Cha Vương

Mến chúc bạn và gia đình ngày cuối cùng của Tháng 6 tràn đầy bình an và ân sủng trong Chúa Ki-tô nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 30/6/2025

Nhiều năm sau khi Ðức Giêsu về trời, chỉ có khoảng một chục người Kitô Giáo ở Rôma, dù rằng họ không phải là những người tòng giáo của “vị tông đồ Dân Ngoại” (Rom 15:20). Khi Thánh Phaolô viết lá thư ấy vào khoảng 57-58 A.D. thì ngài chưa đến thăm họ.

    Ở Rôma có nhiều người Do Thái. Có lẽ vì sự tranh chấp giữa người Do Thái Giáo và Do Thái Kitô Giáo mà Hoàng Ðế Claudius đã trục xuất tất cả người Do Thái ra khỏi Rôma trong những năm 49-50 A.D. Sử gia Suetonius nói rằng việc trục xuất là vì những xáo trộn trong thành phố “gây nên bởi một vài Kitô Hữu.” Có lẽ sau khi Claudius từ trần, nhiều người đã trở lại đây vào năm 54, vì lá thư của Thánh Phaolô dường như viết cho một giáo đoàn Dân Ngoại rộng lớn.

    Vào tháng Bảy năm 64, hơn một nửa thành phố Rôma bị tiêu hủy vì hỏa hoạn. Người ta đồn rằng chính Hoàng Ðế Nero đã gây ra thảm kịch này vì muốn nới rộng cung điện của ông. Nero đã mưu mô chuyển hướng bằng cách kết tội người Kitô Giáo. Theo sử gia Tacitus, một “số đông” Kitô Hữu đã bị chết vì “sự thù hận của con người.” Thánh Phêrô và Thánh Phaolô có lẽ cùng chung số phận với những người này.

    Có những vị bị đem ra làm mồi để thú vật xâu xé, những vị khác bị treo trên thập giá cho đến chết, cũng có những vị bị tẩm dầu vào thân xác rồi đốt như một ngọn đuốc cháy sáng mỗi khi đêm xuống. Tất cả những vị đó đều là môn đệ của các thánh tông đồ, các ngài đã được hiến dâng cho Chúa như của lễ đầu mùa, như hạt giống đức tin gieo vào lòng lương dân để từ đó nảy sinh những hoa trái tốt tươi cho các thế hệ kế tiếp.

Lời Trích: Ðức Giáo Hoàng Clêmentê I, người kế vị Thánh Phêrô đã viết: “Chính vì sự đố kỵ và ghen ghét mà các trụ cột vĩ đại và chính trực của Giáo Hội đã bị bách hại và đã chiến đấu cho tới chết… 

Trước nhất, Thánh Phêrô, vì sự ghen tương vô lý ngài phải đau khổ không chỉ một hoặc hai lần nhưng nhiều lần, và như thế ngài đã hy sinh làm chứng, đã đến nơi vinh hiển mà ngài đáng được. 

Vì sự đố kỵ và tranh chấp, Thánh Phaolô đã cho thấy cái giá của sự kiên trì. Ngài bị xiềng xích bảy lần, bị lưu đầy, và bị ném đá; là một sứ giả từ đông sang tây, ngài đáng được kính phục vì đức tin của ngài…

    “Chung quanh các đấng ấy là một đám đông những người được tuyển chọn, mặc dù là nạn nhân của sự ghen ghét, họ đã đem cho chúng ta gương mẫu cao quý nhất về sự chịu đựng khi bị tra tấn và sỉ nhục. Vì sự đố kỵ mà các phụ nữ phải đau khổ, như bà Dirce hoặc các con gái của Danaus, họ phải đau đớn khủng khiếp vì các hành động thô bạo. Nhưng họ đã can đảm chu toàn đức tin bất kể sự yếu đuối của thân xác và đã chiếm được phần thưởng cao quý. 

(Nguồn: Người Tín Hữu Online)

Nhìn vào gương kiên trì của cá bạn tử đạo tiên khởi, bạn đã và đang làm gì để là chứng nhân của Tin Mừng trong đời sống hằng ngày? 

From: Do Dzung

************************

THIÊN TRINH | XIN BÊN CON CHÚA ƠI

 Nguy kịch vì tin nước kiềm

LƯƠNG VĂN CAN K 76- Kimtrong Lam

Một nữ bệnh nhân 50 tuổi vừa được cấp cứu tại bệnh viện trong tình trạng nguy kịch sau khi tự ý ngưng điều trị tiểu đường và chỉ uống nước ion kiềm với hy vọng “chữa khỏi bệnh”.

Bệnh nhân được đưa vào viện trong tình trạng mệt lả, nôn ói nhiều, huyết áp tụt, tri giác rối loạn.

Theo người nhà, bệnh nhân được chẩn đoán đái tháo đường typ 2 khoảng hai tháng nay, đang điều trị ổn định bằng thuốc và chế độ ăn. Tuy nhiên, sau khi nghe theo lời giới thiệu từ một số người quen, chị đã đến một cơ sở tư nhân quảng bá nước ion kiềm như một “liệu pháp thay thế điều trị tiểu đường”, cam kết “khỏi bệnh không cần thuốc”.

Tại đây, chị được hướng dẫn ngưng hoàn toàn thuốc điều trị, dừng ăn uống theo chế độ cũ và chỉ uống nước ion kiềm.

Sau ba ngày thực hiện phương pháp này, bệnh nhân bắt đầu mệt nhiều, nôn ói liên tục, và được chồng phát hiện kịp thời đưa đến viện cấp cứu.

Kết quả xét nghiệm cho thấy cô rơi vào tình trạng nhiễm toan ceton do đái tháo đường, một biến chứng nội khoa nguy hiểm có thể dẫn đến tử vong nếu không can thiệp kịp thời. Đường huyết đo được rất cao, ketone máu tăng mạnh, dấu hiệu toan hóa nặng.

Uống nước kiềm – phương pháp chữa bệnh hay chiêu trò quảng cáo?

Nước ion kiềm là loại nước có độ pH kiềm nhẹ (từ 8-10), được tạo ra bằng quá trình điện phân. Trong những năm gần đây, sản phẩm này được quảng bá rầm rộ như một giải pháp “tự nhiên” giúp ngăn ngừa và điều trị nhiều bệnh lý mạn tính như ung thư, tiểu đường, gout, loãng xương…

Tuy nhiên, cho đến nay không có bất kỳ bằng chứng y học đáng tin cậy nào từ các nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên đối chứng (RCT) hay tổng quan hệ thống (meta-analysis) chứng minh khả năng điều trị bệnh của nước kiềm. Các tổ chức lớn như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ (ADA) hay FDA đều không phê duyệt hoặc khuyến cáo sử dụng nước ion kiềm như một phương pháp điều trị.

Đặc biệt, các chuyên gia cho biết cơ thể người có hệ thống điều hòa pH nội sinh vô cùng chặt chẽ – dù uống nước có pH 9 hay ăn thực phẩm “kiềm hóa”, dạ dày vẫn giữ được môi trường acid mạnh (pH 1-3) để trung hòa trước khi đưa thức ăn vào ruột. Vì vậy, việc “kiềm hóa cơ thể” bằng nước uống là ngụy khoa học.

Nguy hiểm nhất không phải là nước, mà là niềm tin mù quáng

Theo các bác sĩ, trường hợp nữ bệnh nhân kể trên là hệ quả nghiêm trọng của việc tin vào liệu pháp chưa được kiểm chứng, dẫn đến bỏ thuốc, thay đổi lối sống thiếu cơ sở, gây ra biến chứng nguy hiểm. “Chúng tôi đã gặp nhiều trường hợp như vậy. Điều đáng lo ngại là họ tin người bán hàng hơn bác sĩ – chỉ vì những lời hứa hẹn nghe có vẻ khoa học”, một bác sĩ điều trị chia sẻ.

Bệnh viện đã nhanh chóng xử trí cấp cứu, bù dịch, tiêm insulin, kiểm soát tình trạng toan hóa và giúp bệnh nhân qua cơn nguy kịch. Tuy nhiên, các bác sĩ khuyến cáo người dân không nên tin vào các sản phẩm mang tính chất “thần kỳ”, “chữa khỏi không cần thuốc”, đặc biệt là với bệnh mạn tính cần theo dõi suốt đời như tiểu đường.

Trong hành trình điều trị bệnh mạn tính, sự hiểu biết y học và tuân thủ hướng dẫn từ chuyên gia y tế là yếu tố sống còn. Không có phương pháp “tự nhiên” nào có thể thay thế được thuốc men, chẩn đoán và theo dõi lâm sàng chặt chẽ. Việc theo đuổi các liệu pháp không có cơ sở chỉ khiến người bệnh đánh đổi bằng chính sức khỏe, thậm chí là mạng sống.

“Không phải điều gì tự nhiên cũng là an toàn. Không phải điều gì nghe dễ chịu cũng là sự thật. Khoa học không hào nhoáng, nhưng là thứ duy nhất giữ bạn sống sót”, bác sĩ cảnh báo.

Chia sẻ từ bác sĩ Dương Minh Tuấn.


 

CHỊ NGUYỆT – Truyện ngắn HAY

Chuyện thường ngày

Chị tên Nguyệt, lúc đó chị khoảng 13 tuổi, còn tôi khoảng 11. Theo lời người ta kể thì chị mồ côi cha mẹ được vợ chồng người hàng xóm đem về nuôi. Ông Bà Chín không có con nên họ xem chị như con cái trong nhà, cho chị đi học. Đổi lại, chị phải dọn dẹp nhà cửa và chăm sóc Ông Bà Chín. Chị học trên tôi hai lớp, tôi đệ thất, còn chị lớp đệ ngủ. Theo như chị kể lại, quê chị ở vùng xôi đậu bị cộng quân về chiếm làng, ba má chị mất tích chỉ hai ngày sau đó. Người cậu của chị phải dẫn cả gia đình chạy di tản ra Quận lỵ nơi tôi ở. Họ dẫn chị theo nhưng không đủ điều kiện nuôi cả gia đình gần 10 người nên cho Ông Bà Chín làm con nuôi.

Nhà chị đối diện nhà tôi trên đường dẫn ra bờ sông Tiền Giang. Buổi sáng đầu tiên tôi gặp chị trong bộ bà ba đen củ đã ngả màu phèn vàng úa và đôi dép đứt quay phải nối lại bằng dây kẽm. Chị đang quét nhà từ trong ra ngoài thì bị bà Chín rầy, bảo phải quét từ ngoài vào trong. Bà giải thích quét ra là đẩy hết cái phước ra ngoài, phải quét vô để nhận được phước. Tôi thấy hai mắt chị long lanh nước mắt như muốn khóc nên vội chạy tới hỏi:

– Bộ mầy mới tới đây làm cho bà Chín hả?

Chị trả lời:

– Hông phải, tao là con nuôi của ba má Chín.

Tôi nói với chị:

– Tui tên Bình, nhà tui bên đó.

– Tao tên Nguyệt, mầy mấy tuổi?

– 11

– Tao 13, mầy phải gọi tao bằng chị.

– Ừ, chị Nguyệt hé.

Vậy là tôi làm quen được với chị từ đó. Năm chị học hết đệ tứ thì phải thôi học do Ông Chín bịnh nặng rồi qua đời, Bà Chín một mình không đủ điều kiên cho chị tiếp tục đi học. Mỗi ngày chị ra sạp vải ngoài chợ tiếp Bà Chín buôn bán. Năm tôi 15 tuổi phải xa nhà lên Tỉnh tiếp tục học thi Tú Tài một, rồi Tú Tài hai nên ít khi được gặp lại chị. Sau khi đậu Tú Tài hai chuẩn bị vào đại học thì nghe tin Bà Chín cũng vừa qua đời, bỏ lại ngôi nhà củ nát vì không có người đàn ông chăm sóc. Lúc này tôi đang rảnh rang nên tình nguyện giúp chị sửa sang lại căn nhà của chị được thừa hưỡng. Mỗi ngày, trước khi chị ra sạp vải, chị hay hỏi tôi cần mua vật dụng gì để chị gọi người đem tới, tôi khỏi phải mua. Sau ba tháng hè, tôi cũng tạm sửa lại căn nhà của chị, tuy không khéo nhưng cũng không dột trước hỏng sau.

Khi cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt, tôi bị động viên, vào trường Bộ Binh Thủ Đức. Ngày ra trường về thăm ba má thì gặp lại chị Nguyệt. Lúc nầy chị đã là gái đôi mươi, có rất nhiều chàng trai đang theo đuổi nhưng chị vẫn phòng không gối chiếc. Nhiều lần chị tâm sự với má tôi:

– Con trai cái Quận nầy sao mà như công tử bột, tối ngày chỉ biết lo tán gái, nhậu nhẹt, nhìn như cọng bún thiu cô nào vô phước mới rước họ về làm chồng.

Hai tuần phép qua rất nhanh. Ngày tôi chuẩn bị trình diện Sư Đoàn, chị đem tượng Phật nhỏ qua đưa cho tôi, bảo giữ trong người làm vật hộ thân. Hai mắt chị long lanh nước mắt như muốn khóc. Tôi vội nói:

– Vài bửa có phép thường niên tôi về thăm chị. Chị ráng giữ gìn sức khoẻ.

– Bình đi mạnh giỏi, Nguyệt mỗi đêm sẽ đọc kinh cầu xin Trời Phật che chở cho Bình.

Tôi hơi giật mình khi chị xưng Nguyệt chứ không còn mầy tao như ngày xưa. Thật sự mà nói, lúc nào tôi cũng vẫn xem chị như người thân trong gia đình, không có một chút tình cảm trai gái giửa tôi và chị.

– Cảm ơn chị lo lắng cho tôi.

Tôi ra đi biền biệt. Hơn mười tháng sau tôi trở về thăm nhà sau khi xuất viện do bị thương chân phải. Đêm đầu tiên vừa về tới nhà là chị qua thăm, hỏi như muốn khóc:

– Sao Bình bị thương mà không cho Nguyệt hay để đi thăm?

– Vết thương không có gì trầm trọng lắm đâu chị, vả lại tôi không muốn chị lo lắng, lặn lội đường xá xa xôi nguy hiểm cho chị.

– Bình nói vậy coi Nguyệt như người dưng sao?

– Đâu phải vậy chị, tôi thương chị như người thân trong nhà mà.

– Ừ nhớ đó nhe, thương như người thân trong nhà.

Trong những ngày phép dưỡng thương đó nhiều khi chị làm bộ gọi tôi qua sửa dùm cây đèn dầu hay đóng lại chân bàn bị lung lay. Chị nấu đủ món cho tôi ăn, bảo là tẩm bổ để khi trở lại đơn vị có đũ sức đi hành quân. Có ngày chị đóng cửa sạp vải, lấy cớ mệt về nhà nghỉ. Chị bảo muốn về để gần gủi, tâm sự với tôi trước khi về đơn vị. Không biết ba má tôi nghỉ gì mà cứ thỉnh thoảng hỏi khi nào tôi lập gia đình. Tôi viện cớ đang thời chiến tranh chưa muốn lập gia đình.

Lần lượt hai đứa em gái tôi lấy chồng phương xa, bỏ lại ba má tôi già yếu. Tôi thì ra đi biền biệt, cả năm mới về thăm nhà. Mỗi lần về chỉ năm ba hôm rồi lại ra đi. Chị Nguyệt thường xuyên qua chăm sóc ba má tôi va chị vẫn phòng không đơn chiếc!. Có lần tôi hỏi:

– Sao chị chưa chịu lấy chồng để có người lo lắng trước sau cho chị?

– Bình nhìn chung quanh đây xem ai là người xứng đáng cho Nguyệt nâng khăn sửa túi? Nguyệt thà ở giá suốt đời chứ không muốn chung chăn với những người hèn nhát, chạy chọt giấy tờ trốn quân dịch.

– Vậy thì người đàn ông như thế nào chị mới chịu?

– Người ấy phải giống như Bình, sống đời trai hiên ngang lo giúp nước, diệt giặc, bảo vệ quê hương.

– Vậy để tôi tìm ông nào trong đơn vị giới thiệu cho chị nhe.

– Đồ quỉ, đùng có chọc Nguyệt như vậy nữa, Nguyệt nói thiệt mà.

Cuộc đời cứ thế trôi đi. Ngày 30 tháng 4/1975. Tôi bị bắt rồi đi tù trại cải tạo Vườn Đào. Năm sau chị đến thăm tôi. Chị cho biết hai đứa em gái theo chồng vượt biên không tin tức gì cho đến nay. Ba má tôi quá đau buồn bịnh nặng không đi thăm tôi được nên nhờ chị đi dùm. Chị còn kể là sạp vải của chị đã bị xung vào hợp tác xã. Bây giờ chỉ sống nhờ chăm sóc khu vườn nhỏ của ba má tôi, kiếm huê lợi nuôi sống ba má tôi và chị. Nhìn chị già đi khá nhiều so với ngày xưa. Mắt chị quầng đen, hốc hác, tiều tụy. Tôi cũng không hơn gì chị sau một năm tù đày, lao động, thiếu ăn.

Ba má tôi lần lượt qua đời không có một đứa con về để tang. Chị phải bán ngôi nhà của chị để có tiền chôn cất ba má tôi. Đều dặn mỗi ba tháng là chị đến thăm một lần, tiếp tế cho tôi thêm chút thức ăn phụ vào phần ăn ít ỏi của người lính tù thất trận. Bốn năm sau thì họ thả tôi. Ngày ra trại với vài chục đồng chi phí xe cộ và mảnh giấy ra trại. Tôi với năm người bạn tù đi bộ ra đến chợ Mỹ Phước Tây đón xe ra Cai Lậy. Mấy bà bán hàng trong chợ nhìn chúng tôi trong bộ quần áo rách bươm liền gọi:

– Mấy cậu vô đây ăn sáng rồi hãy đi, 2 tiếng nữa xe mới chạy.

Họ đem cho chúng tôi 6 dỉa cơm sườn bì và sáu ly cà phê đen đá. Đó là bửa cơm ngon nhất trong bốn năm đời tù cãi tạo của tôi. Mọi người chung quanh bu nhau kẻ cho trái bắp, người cho gói xôi bảo là để dành đi đường ăn đở đói. Chúng tôi nhìn họ mà nước mắt cứ tuôn tràn không nói nên lời, dù chỉ một tiếng cám ơn. Khi đến giờ xe chạy, người tài xế xe nhất định không lấy tiền cho dù chúng tôi cố dúi tiền vào tay anh. Tôi nhớ lại tên quản giáo Ba Phần lên lớp chúng tôi:

– Các anh có tội rất lớn với nhân dân. Chúng tôi giữ các anh trong vòng rào kẻm gai là để bảo vệ các anh vì nhân dân sẽ trả thù cho những tội ác các anh đã gây ra.

Nhân dân chợ Mỹ Phước Tây đã trả thù chúng tôi với những lời thăm hỏi ân cần, dĩa cơm sườn, ly cà phê đá, những gói xôi, những trái bắp mà họ có thể để dành cho người thân của họ trong lúc cả nước phải thắt lưng buột bụng trong thời kỳ bao cấp, củi quế gạo châu này.

Khi xe đến Cai Lậy thì khoảng 2 giờ chiều. Năm người bạn tù chờ xe về Sài Gòn, còn tôi về miền Tây. Anh lơ xe chạy ra ngã ba Cai Lậy ngoắc xe lại gởi tôi lên chuyến xe cuối cùng. Trước khi lên xe, anh đưa cho tôi một ổ bánh mì thịt rồi chào tay kiểu quân đội. Như cái máy, tôi chào lại vì theo phản ứng tự nhiên của một người lính Việt Nam Cộng Hoà dù đã thất trận. Anh nói vội rồi chạy vào trong chợ Cai Lậy:

– Ông thầy đi đường bình an.

Tôi nhìn theo anh lơ xe, cố nhớ gương mặt anh để khi nào có dịp tôi sẽ trả lại ơn nghĩa anh đã dành cho chúng tôi. Một lần nữa, anh tài xế nhất định không chịu lấy tiền xe. Mấy người đàn bà trên xe nhìn tôi với ánh mắt thông cảm. Họ nhường cho tôi một chổ ngồi hàng ghế cuối xe.Tôi về đến nhà khoảng 8 giờ tối. Ngôi nhà cũ kỷ cửa đóng im lìm. Tôi gõ cửa.

– Ai mà gõ cửa đêm hôm tối tăm vậy?

Tiếng chị Nguyệt đang ngáy ngủ từ bên trong.

– Bình đây chị.

Tôi nghe tiếng chân trần chạy hấp tấp ra cửa. Chị Nguyệt mở cửa rồi ôm lấy tôi khóc:

– Nguyệt không biết Bình về hôm nay. Có đói không để Nguyệt hâm cơm lại cho Bình ăn?

– Trên đường về tôi được người ta cho ăn nhiều lắm, đến giờ còn no.

Tôi đến trước bàn thờ ba má, quì lạy xin lỗi tội bất hiếu không về chịu tang ngày hai người mất. Tôi nhìn khói nhang quyện vòng theo cây đèn dầu le lói như ba má về thăm thằng con xấu số mới ra tù. Tôi quì trước bàn thờ mà nước mắt cứ tuôn tràn.

– Ba má tha tội cho con, vì hoàn cảnh tù đày mà con không về để tang cho ba má.

Chị đặt tay lên vai tôi:

– Hai bác rất hiểu cho Bình, đừng quá đau buồn, hãy ráng lên để đối đầu với những ngày sắp tới.

Và những ngày sắp tới đến với tôi trong khổ cực của “thằng sĩ quan Ngụy”. Họ bắt tôi trình diện hàng tuần, không được đi xa khỏi Xã. Tất cả những hành vi của tôi đều bị theo dõi. Đôi khi bọn công an xã đến gõ cửa ban đêm để kiểm tra, xét nhà và muốn biết chắc chắn là có tôi trong nhà. Tôi sống như người bị giam lỏng trong nhà tù lớn.

Tôi nhìn chị chăm sóc cho tôi từng miếng ăn, giấc ngủ như một người vợ lo cho chồng mà nghĩ đến cái vô tình của tôi.

– Chị Nguyệt.

– Gì đó Bình?

– Tôi muốn hỏi chị chuyện nầy.

– Ừ, Bình nói đi.

Ngập ngừng một hồi tôi nói:

– Chị nhớ lúc mới quen, chị bảo tôi phải gọi chị hay không?

– Nhớ chớ sao không. Những ngày vui đó qua mau quá.

– Chị còn muốn tôi gọi chị nữa hay không?

– Vậy Bình muốn gọi tôi gì đây?

– Tôi gọi chị là vợ tôi được không?

Chị Nguyệt nhìn tôi với ánh mắt rất ngạc nhiên rồi đổi sang mừng rỡ:

– Em chờ câu nói đó của anh lâu lắm rồi.

Hai tháng sau chúng tôi làm đám cưới. Tiệc cưới rất đơn giản, chỉ mời bà con lối xóm. Hai năm sau Nguyệt cho tôi đứa con trai đầu lòng. Tôi đặt tên Nhẩn để nói lên cái nhẩn nại của chị dành cho tôi. Năm sau nữa thì chị cho tôi thêm đứa con gái, chị đặt tên nó là Cam để nói đến cái cam khổ của vợ chồng chúng tôi.

Một hôm đầu năm 1990, chị chạy hớt hãi về nhà:

– Anh ơi! Họ muốn cho mình đi định cư bên Mỹ.

– Em lại mơ tưởng viễn vong. Ai lại cho thằng sĩ quan Ngụy như anh đi khỏi Việt Nam.

– Đây nè, coi đi.

Chị đưa cho tôi xem tờ báo cho biết Bộ Ngoại Giao và Quốc Hội Mỹ chấp thuận cho tù nhân chính trị được đi định cư tại Mỹ ký ngày 30/7/1989. Lòng vòng lo nạp đơn, lót tiền cho phía VN ký giấy cũng hơn hai năm. Tôi bốc mộ đem xương cốt ba má thiêu rồi đem gởi vô chùa vì tôi biết là sẽ lâu lắm mới trở lại quê hương nầy. Tuy đã nuôi tôi lớn lên, tuy nhiều người vẫn còn tình người sẳn sàng đùm bọc che chở người thất trận. Nhưng tôi phải ra đi để con tôi có tương lai hơn, có nhiều cơ hội để vươn lên với đời hơn, để khỏi sống kiếp sống tật nguyền! nơi quê cha đất tổ.

Bao nhiêu tiền chúng tôi dành dụm đều cạn sạch. Ngày gia đình tôi lên máy bay đi Mỹ, trong túi còn đủ 200 đô la sau khi bán nhà, bán đất của cha mẹ để lại. Đáp xuống phi trường JFK thành phố New York. Cả gia đình hai đứa em gái tôi có mặt đầy đủ đón gia đình tôi. Ba anh em chúng tôi ôm nhau khóc sau hơn 17 năm xa cách. Mấy đêm đầu tiên tôi không ngủ được, vừa lạ chổ, vừa lo lắng cho tương lai sắp đến. Mình phải làm gì lo cho gia đình, cho con cái đi học, và đủ mọi chuyện cứ liên tục hiện lên trong đầu. Từ quê hương bỏ lại sau lưng, từ quê hương thứ hai sẳn sàng bao dung cho người lính thất trận.

26 năm sau, nhìn lại từ ngày đến đất nước Mỹ giàu lòng nhân đạo nầy, hai đứa con tôi đã ra trường đi làm xa. Vợ chồng tôi nghĩ hưu dời về vùng đất ấm Florida. Chị Nguyệt nay đã gần 70 nhưng vẫn còn nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam luôn lo cho chồng, cho con. Sáng nào tôi cũng có ly cả phê sữa nóng ít sữa, còn chị thì vẫn một ly trà cúc đường phèn. Nhiều lần tôi nói lời cảm ơn chị đã cưu mang ba má tôi khi tôi còn trong tù cải tạo. Chị chỉ cười đưa hàm răng khểnh rồi nói:

– Em kết anh từ lúc mình mới gặp nhau lần đầu.

– Vậy tại sao bắt người ta kêu bằng chị?

– Làm chị cho nó oai chút chơi mà…

– Lúc nào em cũng là CHỊ NgUYỆT của anh.

Ghi lại

Trần Khắc Tường


 

TỪ VỤ ÁN “HẬU PHÁO” –  CÁI ÁC DƯỚI CHẾ ĐỘ CSVN ĐÃ ĐƯỢC CƠ CHẾ BAO CHE VÀ BẢO VỆ. 

 Chân Trời Mới Media

Hậu Pháo và sự sụp đổ của một lời hứa, Xưa, chỉ cần sở hữu tài sản bằng 1/2000 của Hậu Pháo cũng có thể bị quy là địa chủ, cường hào – có thể bị xử tử giữa sân đình. Giờ thì thật khó tin. Khi một người dùng 132 tỷ đồng tiền mặt, 1,1 triệu USD, 501 cây vàng, 2.293 lô đất và cả một hệ thống quan chức từ Bắc chí Nam để bẻ cong pháp luật, thì đó không còn là một vụ án kinh tế. Mà là sự cáo chung của một “lý tưởng cách mạng”.

  1. Khi quá khứ trở thành một vết cắt âm ỉ

Thời Cải cách ruộng đất, nhân danh cách mạng, một bộ phận nhân dân bị chia rẽ, đẩy vào thù hận và chết chóc. Người ta gọi đó là “sai lầm”, “bài học đau xót”, nhưng sau hơn nửa thế kỷ, vết cắt ấy chưa bao giờ lành. Nó vẫn hiện hữu, như nền móng méo mó cho cách vận hành quyền lực hôm nay: lật đổ để chiếm đoạt, đấu tố để thanh trừng, vơ vét để tồn tại.                                  

Ngày ấy, những người bị trói giữa sân đình là nạn nhân của lý tưởng vô hình, bị quy là kẻ thù chỉ vì giàu hơn hàng xóm một mảnh vườn. Hôm nay, Hậu Pháo và những quan chức tiếp tay mới thực sự “bóc lột nhân dân lao động”, khi biến tài nguyên quốc gia, đất đai công sản thành của riêng để trục lợi.

  1. Lý tưởng đã chết – và cái chết của sự công bằng

Người ta từng hứa xây dựng một xã hội công bằng, không giai cấp, nơi “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.” Nhưng thực tế ra sao? Một doanh nhân mới 27 tuổi, không năng lực tài chính rõ ràng, không kinh nghiệm thi công, vẫn được ưu ái nhận 14 dự án nghìn tỷ – chỉ vì biết gửi “quà” bằng valy tiền mặt. Những người ký duyệt, làm ngơ, tạo điều kiện không phải “sâu mọt” vô danh – họ là Bí thư tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh, giám đốc các sở ngành, những người từng thề trung thành với nhân dân trước cờ Đảng.

Khi lòng trung thành được mua bằng tiền mặt, mọi khẩu hiệu chính trị chỉ còn là trò hề.

  1. Dân oan – những người sống giữa hai thế giới

Bên kia bức màn là hàng vạn dân oan – những người bị thu hồi đất không thỏa đáng, bị cưỡng chế, mất nguồn sống từ ruộng đồng để đổi lấy “dự án phát triển” mà lợi ích rơi vào tay doanh nghiệp thân hữu. Họ sống lay lắt ở khu trọ gần trụ sở tiếp dân, giơ cao khẩu hiệu đỏ rực: “Yêu cầu trả lại đất cho dân!” Họ bị xua đuổi, bị gán mác “kích động”, bị cắt hỗ trợ, thậm chí bị truy tố.

Trong khi đó, những kẻ cướp đất có tổ chức như Hậu Pháo lại được ưu ái, bảo vệ, và vinh thân phì gia suốt 15 năm. Công bằng nằm đâu? Chỉ tồn tại trên giấy tờ, báo cáo tổng kết, và những bài phát biểu ngày lễ.

  1. Hậu Pháo là ai? Là hệ quả, không phải cá biệt

Đừng nói Hậu Pháo là “trường hợp cá biệt”, “con sâu làm rầu nồi canh”. Không ai có thể một mình đưa 24 vali tiền mặt đến phòng làm việc của lãnh đạo tỉnh nếu không có cả một hệ thống tiếp tay, bảo kê và đảm bảo an toàn. Không ai có thể sở hữu 1.419 bất động sản đã bị kê biên, 884 lô chưa bị kê biên, cùng 501 cây vàng, hơn 250 tỷ đồng trong tài khoản, nếu không vượt qua được hệ thống ngân hàng, thuế vụ, kế toán, tài nguyên môi trường. Hậu Pháo chỉ là kẻ dám đi xa nhất, trắng trợn nhất trong một hệ sinh thái đang thối rữa từ bên trong.

Và điều đáng sợ hơn: cái ác ngày nay đã học được cách thông minh, kiên nhẫn, có kế hoạch – và được bảo vệ bằng cơ chế.

  1. Chúng ta còn lại gì để tin?

Khi lý tưởng bị phản bội, công lý bị mua bán, người dân bị bỏ rơi, đất đai bị trưng dụng cho nhóm lợi ích – niềm tin còn lại là gì? Nếu một đứa trẻ lớn lên, thấy kẻ luồn lách được vinh danh, người tử tế phải lê lết đòi công bằng – nó sẽ học gì về đạo đức? Nếu người dân thấy “càng có tội, càng nộp được nhiều tiền sẽ càng được giảm nhẹ”, thì đó chẳng phải là hợp pháp hóa tội ác bằng hóa đơn hoàn tiền hay sao?

Vụ án Hậu Pháo là lời cảnh tỉnh cuối cùng. Không chỉ là trừng phạt một cá nhân, mà là khoảnh khắc soi chiếu cả một thời kỳ. Nếu hệ thống không thay đổi tận gốc, nếu quyền lực không bị ràng buộc bởi minh bạch và trách nhiệm, thì sau Hậu Pháo sẽ là ai? Và bao nhiêu người dân thường nữa sẽ tiếp tục khóc thầm, bị tước đoạt đất đai, phải rời bỏ ruộng vườn để nhường chỗ cho những “siêu đô thị” mà họ không bao giờ có thể sống trong đó?

Lịch sử từng có những lời hứa. Nhưng lời hứa không nuôi được dân. Chỉ có công lý thực sự mới giữ được lòng tin.

Nguồn: FB Nguyễn Thúy Hạnh