“Người Trung Quốc gom đất ở Nha Trang”

 
 
No automatic alt text available.
Hoàng Ngọc DiêuFollow

 

Á cái đù….

“Người Trung Quốc gom đất ở Nha Trang”

“Thời gian gần đây, tình trạng người Trung Quốc núp bóng mua nhà đất xuất hiện ngày càng nhiều ở TP Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa gây nhiều phức tạp”

https://nld.com.vn/…/nguoi-trung-quoc-gom-dat-o-nha-trang-2…

——————————

Có “lực lượng phản động” nào gom đất ở Nha Trang mà có thể “núp bóng” và gây “phưc tạp” không bà con?

Thậm chí, có “thằng phản động” nào đánh rấm mà bọn an ninh không biết không bà con?

#_hàicảchùm

Bữa cơm nhói lòng của học sinh tiểu học vùng núi Điện Biên

 

Bữa cơm nhói lòng của học sinh tiểu học vùng núi Điện Biên

Bữa trưa của học sinh nghèo xã Keo Lôm, huyện Điện Biên Đông chỉ có cơm trắng với mì gói nấu nước lã. (Hình: Thanh Niên)

ĐIỆN BIÊN, Việt Nam (NV) – “Xót thương, nhói lòng, rưng rưng…” là các từ mà nhiều người bày tỏ trên mạng xã hội khi xem clip quay lại cảnh học sinh một lớp học ở xã Keo Lôm, huyện Điện Biên Đông, ăn trưa bằng cơm trắng với canh mì gói.

Theo báo Thanh Niên, clip do Facebooker Dang Thanh Tra đăng tải, cho thấy khoảng 20 trẻ nhỏ đang ăn trong lớp, giữa lớp có một bếp củi đang cháy để sưởi ấm.

 Cơm được đựng trong xô nhựa hoặc bọc nylon, đặt bên cạnh những xô hoặc thau canh mì gói nấu nước lã. Các em dùng muỗng múc cơm và mì chứ không hề có chén bát gì cả. Vậy mà các em ăn xì xụp ngon lành.

Clip được cho quay vào ngày 6 Tháng Giêng, tại điểm trường Keo Lôm, xã Keo Lôm, huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên.

“Thương các con vô cùng. Nhìn mà chạnh lòng!” một người bình luận. “Mình tưởng cuộc sống mình bất hạnh rồi cho tới khi coi xong clip này. Tết nhất đến nơi mà… thật nhói lòng quá!” một người cảm thán. Nhiều Facebooker đã kêu gọi chung tay giúp đỡ cho các em.

Đây chỉ là một trong những trường hợp trẻ em nghèo ở các tỉnh vùng núi khắp Việt Nam thiếu ăn, mặc không đủ ấm, phải lội bộ hàng cây số qua sông suối, hay cầu treo sắp sập đến trường trong tiết trời rét buốt… vẫn diễn ra thường xuyên, khiến nhiều người chạnh lòng nhưng bất lực do không thể giúp được nhiều, bởi đây là vấn đề xã hội chỉ có chính quyền mới giải quyết ổn định. (Tr.N)

Hố chôn tập thể, nghĩa trang 1400 tỉ và những đứa bé đói

Nếu xét trên chính sách vĩ mô của nhà cầm quyền, ba khái niệm: Hố chôn tập thể; Nghĩa trang (Yên Trung) nghìn tỉ và; Những đứa bé đói khổ, rét lạnh nơi miền núi không có gì liên quan với nhau. Bởi chính sách dành cho mỗi lĩnh vực, mỗi mảng đều riêng lẻ. Nhưng xét trên khía cạnh con người, tính nhân bản, nhân văn, nhân đạo và trách nhiệm của nhà cầm quyền, thì ba vấn đề này đều thuộc về lương tri. Sự cân đối, phân bổ hợp lý ở ba lĩnh vực, khía cạnh này sẽ cho thấy mức độ quan tâm, trách nhiệm và lương tri của nhà cầm quyền.

Karl Marx, ông tổ của chủ nghĩa Cộng sản thế giới từng đưa ra một nhận định trong Tư Bản Luận (sau này, trong Chính sách kinh tế mới, viết tắt là NEP – New Economy Policy của Lênin cũng nhắc lại): Chỉ có những con thú mới quay lưng đi để liếm bộ lông trước đồng loại bị thương. Và xét trên một ý nghĩa nào đó, khi no đủ, người Cộng sản lại chọn khuynh hướng đi ngược với giáo huấn của tổ phụ Karl Marx.

Nghĩa là, xét lại tiền ngân sách nhà nước, do đâu mà có. Xin nói nhanh, do nhân dân đóng thuế mà có ngân sách nhà nước. Bản chất và hiệu dụng của ngân sách nhà nước là gì? Đó là nói một cách sâu xa, ngân sách nhà nước đóng vai trò quĩ tiết kiệm và an sinh cho toàn dân thông qua sự điều hành của nhà nước. Vấn đề an sinh xã hội, cân bằng dân số, y tế, giáo dục, văn hóa, an ninh xã hội đều phụ thuộc vào ngân sách nhà nước. Một khi các vấn đề an sinh xã hội và an ninh xã hội được đáp ứng đầy đủ, nhà nước mới được quyền dùng ngân sách trong các lễ lạc, tượng đài, những công trình không mang tính xã hội.

Ở đây, nghĩa trang Yên Trung có được xem là công trình xã hội hay không? Bởi ngày trong lúc này, có quá nhiều vấn đề xã hội cần được quan tâm đúng mức và đầy đủ, nếu chưa thực hiện được các vấn đề như an ninh, chủ quyền quốc gia, an ninh xã hội, an sinh xã hội… Thì tất cả những vấn đề khác nhà nước đều không được trích thuế của dân để thực hiện. Phải dành thuế của dân cho những vấn đề có tính thiết thực cho nhân dân.

Thử đặt những câu hỏi: Có bao nhiêu đứa bé dân tộc thiểu số ở các tỉnh miền núi được đến trường, cơm đủ ngày ba bữa, có áo ấm để mặc? Có bao nhiêu hố chôn tập thể gồm cả hai phía Việt Nam Cộng Hòa và Cộng sản Bắc Việt đã thành những hố lãng quên? Và tất cả những cổng chào, tượng đài, nghĩa trang nghìn tỉ của nhà nước mang lại giá trị gì cho quốc gia, dân tộc?

Ở câu hỏi thứ nhất, về những đứa bé nghèo, có thể nói rằng khắp đất nước Việt Nam, từ thành phố đến thôn quê, vùng sâu vùng xa, miền núi, càng đi sâu vào vùng hoang vắng thì sự nghèo khổ càng hiện rõ. Bạn tôi từng lắc đầu, chép miệng nói với tôi về những đứa bé đồng bào thiểu số khi trời rét còn chưa tới 10 độ C mà chúng vẫn không mặc quần (do không có quần để mặc) rằng “mấy đứa này trời nuôi chứ không phải người nuôi”. Bất kỳ huyện miền nhúi vùng sâu, vùng xa nào tại Việt Nam đều có cảnh thiếu, đói, trời lạnh không có áo ấm, trẻ con bỏ học sớm hoặc không có cơ hội đến trường hoặc đến trường bằng những chiếc cầu dây tử thần băng qua suối chảy xiết… Có một ngàn lẻ một kiểu thiếu, đói tại Việt Nam.

Nói về những hố chôn tập thể, sở dĩ tôi phải nói đến cả hai phía bởi chỉ riêng chiến dịch tổng tiến công Mậu Thân 1968, tại Huế và nhiều tỉnh khác đã xuất hiện hàng trăm hố chôn tập thể. Trong đó, có những hố của quan chức Việt Nam Cộng Hòa và thường dân (bị Cộng sản nằm vùng giết để trả thù và bịt đầu mối cơ sở) và có những hố chôn của chính những người Cộng sản chôn người Cộng sản.

Trường hợp Cộng sản chôn Cộng sản diễn ra như thế nào? Đó là những người bộ đội Cộng sản Bắc Việt bị tổng động viên từ những ngày đầu năm 1967 cho đến thời điểm hành quân vào miền Nam để tham gia “tổng tiến công”. Cũng xin nói thêm, những bộ đội Cộng sản Bắc Việt tham chiến Mậu Thân là những cậu bé từ 13 đến 15 tuổi, họ không có gì ngoài lòng căm thù Mỹ, Ngụy rất con nít mà họ có được thông qua nền giáo dục miền Bắc với thơ Tố Hữu, Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật, Chính Hữu… Họ chỉ biết Mỹ, Ngụy là những kẻ ăn thịt người man rợ và họ phải đi vào miền Nam để “giải phóng cho người miền Nam”, một số người trước khi đi đã xăm hàng chữ “Sinh bắc tử nam”.

Khi vào đến miền Nam, vào Huế, Đà Nẵng, Sài Gòn, có nhiều bộ đội trẻ giật mình vì “lập trường chính trị không vững”, khi nhìn thấy miền Nam đẹp, thanh bình và giàu có, hiện đại, không như những gì họ được dạy… Nhiều bộ đội đã tỏ ra lơ là, không còn hăng say tinh thần chiến đấu. Và cái đêm giao thừa định mệnh Tết Mậu Thân, họ bị cấp chỉ huy đưa vào vị trí chiến đấu, xích chân vào nhau để khỏi bỏ chạy lúc đánh nhau. Thường thì một tiểu đội hoặc một trung đội trẻ bị xích chân với nhau để từ đó họ phải bắn và bắn, chiến đấu và chiến đấu cho đến lúc chết.

Và hầu hết những tiểu đội, trung đội thiếu niên này đều chết trong lúc vứa đánh vừa bị xiềng chân. Họ cũng không được chôn cất tử tế, sau này, xương cốt của họ được phát hiện và chôn cất, cởi trói khi có những người dân xây cất nhà cửa, đào móng nhà và đào trúng nơi họ nằm. Tại Gò Vấp, Sài Gòn, tại trung tâm thành phố Huế, tại Đà Nẵng, Quảng Nam đều có những hố chôn như vậy. Và vẫn còn một vài nhân chứng sống, đã chứng kiến những bộ đội trẻ nít phải chiến đấu, chết và bị chính các đồng đội lấp đất trước khi rút quân ra sao. Đó là chưa nói đến một số trường hợp chính Cộng sản bị Cộng sản giết do họ không muốn tiếp tục theo con đường “giải phóng miền Nam’, họ xin về quê làm ăn, cưới vợ, và khi ra khỏi bưng, họ bị giết, bị chôn ở bìa rừng, con số này không hề ít.

Nếu cộng thêm các hố chôn tập thể mà quan chức, cán bộ miền Nam bị giết trong chiến tranh, đặc biệt là Tết Mậu Thân và những ngày trước 30 tháng 4 năm 1975, có lẽ con số lên đến cả hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn xác người vẫn còn nằm lây lất, rải rác, vất vưởng đâu đó trong lòng đất mẹ. Lẽ ra, trong nhiều năm nay, nhà cầm quyền, cụ thể là đảng Cộng sản phải có những hành động qui tập, hỗ trợ qui tập cho cả hai phía để thực hiện tinh thần “nghĩa tử là nghĩa tận” và cũng là động thái hòa giải dân tộc để đi đến hòa hợp dân tộc thay vì kêu gọi bằng những văn bản, lời nói suông. Nhưng họ đã không làm vậy!

Bây giờ, xương máu, sự đau khổ của nhân dân vẫn còn đầy rẫy mặt đất, đi đâu cũng gặp cảnh khổ, đi đâu cũng gặp những gia đình mất con, mất anh em chưa tìm thấy xác vì chiến tranh. Vậy mà người Cộng sản lại nghĩ đến chuyện lấy tiền thuế của nhân dân để xây khu nghĩa trang cho cán bộ cao cấp! Nên nhớ, trong tiền ngân sách nhà nước, cụ thể là tiền thuế của dân, gồm cả sự đóng góp của cả hai phía, không có đồng thuế nào là không nhuốm mồ hôi, nước mắt của dân nghèo, của những bà mẹ liệt sĩ Cộng sản, của những bà mẹ quân nhân Việt Nam Cộng Hòa tử trận và cả những đồng đô la của người Việt hải ngoại gửi về cho người thân trong nước.

Nói một cách nghiêm túc, ngân sách nhà nước có không dưới 40% là tiền có gốc gác của người “phía bên kia”. Dù có chối bỏ, léo hánh cách gì thì đây cũng là sự thật. Nhưng vấn đề tôi muốn nói ở đây không phải là tiền phía bên này hay bên kia trộn lẫn trong ngân sách nhà nước. Mà vấn đề là một đất nước đang bị tùng xẻo, cây xanh, môi trường, tài nguyên đang kiệt quệ, những khối bê tông cơ quan, nhà quan và tượng đài mọc lên ngày càng quá nhiều, nó hiện hữu như thách thức nỗi khốn cùng, đói khổ và đau khổ của nhân dân.

Trong lúc biển bị nhiễm độc vẫn chưa kịp lành lặn, tiếp tục bị đe dọa bởi Formosa, trong lúc miền Tây Nam bộ đang bị nhiễm mặn trầm trọng, nhân dân đói khổ, trong lúc trẻ em miền núi, nhân dân miền núi vẫn đói khổ, lạc hậu, trong lúc tài nguyên rừng và khoáng sản bị tùng xẻo không thương tiếc, trong lúc vết thương Nam – Bắc chưa kịp lành lặn, trong lúc nợ công cao chất ngất, người dân còng lưng đóng thuế vì nợ công, giá xăng tăng, điện tăng, vật giá leo thang, các bệnh viện không có chỗ nằm, bệnh nhân phải chui gầm giường, nằm hành lang mà chờ điều trị… Thì nhà cầm quyền lại quyết định xây dựng thật nhiều tượng đài, cổng chào, ngốn hàng tỉ tỉ đồng, rồi lại nghĩ thêm chuyện xây khu nghĩa trang cao cấp cho cán bộ.

Liệu có khi nào giới cầm quyền suy nghĩ về những gì họ đã làm bấy lâu nay? Liệu có khi nào họ đặt mình vào nhân dân nghèo khổ để thấy sự vô lý và trơ tráo của họ? Và liệu có khi nào họ nghĩ đến một chân lý: Tượng đài xây được thì đập được, nghĩa trang xây được thì cào bằng được, cổng chào xây được thì hạ được… Bởi những thứ này không phải là sức mạnh, không phải là trường tồn. Bởi sức mạnh, sự trường tồn của một dân tộc nằm trong tay nhân dân.

Phát biểu đầy quyết tâm của chị Cấn Thị Thêu sau khi được trả tự do 10.2.2018

Trần Bang and Dang Tuong shared Tin Mừng Cho Người Nghèo‘s video.

 

 
12,119 Views
 

Tin Mừng Cho Người Nghèo

 

Phát biểu đầy quyết tâm của chị Cấn Thị Thêu sau khi được trả tự do 10.2.2018
Nguồn FB Trịnh Bá Phương

Dưới đây là lời phát biểu của chị Cấn Thị Thêu với bà con tại Dương Nội chiều ngày hôm nay do anh Cong Trinh Nguyen đã ghi lại:

”Xin kính chào bà con dân oan và cộng đồng trong và ngoài nước,

Tôi là Cấn Thị Thêu dân oan Dương Nội. Chỉ vì gia đình tôi không chấp nhận để cho bọn quan tham cướp đất của gia đình tôi, mà tôi đã bị chế độ cộng sản Việt Nam 2 lần cầm tù đối với tôi. Trước đó, chúng đã cầm tù cả chồng tôi, trong thời gian vợ chồng tôi bị giam cầm, thì ở bên ngoài chúng đã đánh đập tàn bạo các con của tôi.

Không chỉ riêng gia đình tôi mới là nạn nhân của chế độ độc tài cướp đất công an trị này, mà ngoài gia đình tôi ra, có cả hàng triệu gia đình dân oan khác trên khắp lãnh thổ Việt Nam, cũng có hoàn cảnh giống như gia đình tôi.

Hôm nay, tôi đã thoát khỏi ngục tù cộng sản, ra khỏi nhà tù nhỏ, trở về nhà tù lớn, nơi mà có hàng triệu bà con dân oan đang ngày đêm phải rên xiết dưới ách thống trị của đảng cộng sản Việt Nam.

Ngày hôm nay, tôi được trở về đoàn tụ với gia đình chồng con, tôi vô cùng biết ơn toàn thể bà con dân oan, cộng đồng trong và ngoài nước, các tổ chức nhân quyền quốc tế, các tổ chức tôn giáo, đã quan tâm giúp đỡ gia đình tôi trong suốt thời gian vừa qua. Thay mặt gia đình, tôi xin được gửi đến toàn thể bà con dân oan, cộng đồng trong và ngoài nước, các tổ chức nhân quyền quốc tế, các tổ chức tôn giáo và các vị luật sư… lời tri ân và cảm ơn sâu sắc nhất.

Nhân đây, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến những người bạn tù, đã bao bọc và che chở cho tôi trong suốt thời gian tôi sống tại trại giam số 1 Hỏa Lò và trại giam Gia Trung.

Kính thưa toàn thể bà con dân oan, bắt đầu kể từ ngày hôm nay tôi sẽ lại chung sức chung lòng, đóng góp một chút công sức nhỏ bé, để cùng với bà con đấu tranh giành lại đất đai, tài sản, mà chế độ cộng sản Việt Nam đã cướp đoạt của nhân dân chúng ta.

Mong cộng đồng trong và ngoài nước, các tổ chức nhân quyền quốc tế, các tổ chức tôn giáo và các vị luật sư hết sức giúp đỡ chúng tôi trên con đường tranh đấu, để sớm đưa những tên quan tham ra xét xử, luận tội chúng nó trước bàn dân thiên hạ.

Phải cho chúng từ quan làm dân, để cho chúng không còn có cơ hội cướp bóc, đàn áp, đánh đập nhân dân.

Phải bắt chúng chịu trách nhiệm về tất cả những tội ác mà chúng đã gây ra cho nhân dân chúng tôi.

Phải cho chúng nếm cảnh tù tội, để cho chúng biết thế nào là một ngày tù bằng nghìn thu ở ngoài. Khi mà trước đây, chúng đã bóp chết công lý, để đẩy nhiều người dân lương thiện vào cảnh tù tội oan sai.

Phải cho chúng tận mắt chứng kiến, nỗi đau tột cùng của những gia đình có người thân bị chúng đánh chết hoặc bị thương tích đầy người hoặc hoặc bị tù tội oan sai, để cho chúng biết rằng tội ác của chúng là không thể dung tha.

Mong toàn thể bà con dân oan, hãy đoàn kết muôn người như một, để chúng ta có đủ sức mạnh đấu tranh, chống lại bọn quan tham cường hào ác bá.

Cuối cùng, tôi xin kính chúc toàn thể bà con dân oan cùng các quý ân nhân trong và ngoài nước mạnh khỏe, để đón xuân mới 2018 với thật nhiều niềm vui và hạnh phúc.

Chúc công cuộc đấu tranh đòi quyền tự do, đòi quyền sống của tất cả cả của bà con dân oan chúng ta sớm được thành công và thắng lợi.

Tôi xin chân thành cảm ơn.

——-(dân chúng)——
Hoan hô……
Chúc mừng chị Cấn Thị Thêu. Chúc mừng….
Quyết tâm giữ đất. Quyết tâm…
Đả đảo cộng sản cướp đất của dân. Đả đảo….
Đả đảo cộng sản độc tài toàn trị. Đả đảo…
Đả đảo cộng sản độc tài công an trị. Đả đảo…
Đả đảo quan chức cộng sản cướp đất của dân. Đả đảo…
Đả đảo quan chức cộng sản tham nhũng cướp đất. Đả đảo…
Đả đảo tòa án cộng sản kết án oan sai nhân dân. Đả đảo…

Quyết tâm giữ đất. Quyết tâm…

Đả đảo cộng sản độc tài. Đả đảo…

Đả đảo cộng sản tham nhũng. Đả đảo…


Cấn Thị Thêu vô tội. Vô tội…
….
Quyết tâm giữ đất. Quyết tâm…

Xin cảm ơn tất cả nhà…”❤️

Thương Cho Kiếp Công Nhân

Hoang Le Thanh added 4 new photos — with Hoa Kim Ngo and 2 others.

Công nhân “tăng ca ngày đêm vẫn không đủ sống”.

Thương Cho Kiếp Công Nhân

Thậm chí nữ công nhân tăng ca bằng cách đứng đường trao đổi thân xác để kiếm thêm đồng tiền về quê ăn tết.

Nghe bản nhạc của nhà hàng xóm (có thể là nhạc chế), vừa đau xót, vừa bực mình.

Vô Face, thấy tên máu lạnh giết người, cuối năm càng thêm ngao ngán!

*

Gần Tết rồi, nghe đến 2 tên Hoàng phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân, ăn tết mất vui.

Kỷ niệm 50 năm – Thảm sát Huế Mậu Thân – 1968, thêm bực mình với bọn giết người không gớm tay.

Theo cộng sản không phải chỉ có Hoàng phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân – hai tên này chỉ là bọn rác rến mà cộng sản chỉ lợi dụng mà không hề tin tưởng.

Do đó, bọn chúng ra sức trâu chó nịnh bợ để bảo vệ quyền lợi và kiếm miếng ăn.

Lúc nào tôi cũng cho hai tên “nhà văn” Hoàng phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân (mạo danh “nhà Huế học”) là những tên độc ác và đê tiện.

Bọn chúng không bao giờ và chưa bao giờ viết bài bằng trái tim.

Cả hai tên này, cho dù chúng đã già, chúng đáng khinh bỉ và xứng đáng phải nhận sự nguyền rủa của cả xã hội.

Bất cứ ai rồi cũng về với đất, hai ông Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân đã già rồi, gần đất xa trời, nên để cho linh hồn nhẹ nhàng từ giã cõi trần,…

Tôi thành thật khuyên hai ông nên thành tâm sám hối và viết lại sự thật: Thảm sát HUẾ- MẬU THÂN 1968, mà hai ông làm theo chủ trương của cấp trên của các ông.

Có khi nhờ sự sám hối này mà con cháu của các ông hưởng được chút ít phước đức nào chăng !?

Trong bạn bè tôi, cũng có những người đáng kinh, thầm bảo vệ “nhân cách” tên Nguyễn Đắc Xuân, đó là quyền của họ …

Ảnh: Tên sát nhân Hoàng phủ Ngọc Tường trả lời phỏng vấn trong bộ phim 13 tập “Việt Nam – Một thiên lịch sử truyền hình”.

Nhạc chế: Chế Khúc | Thương Cho Kiếp Công Nhân | Bùi Thành Công Nhóm Phố Núi
https://www.youtube.com/watch?v=fvDLT8jk2eU

Image may contain: 1 person, closeup
Image may contain: 3 people
Image may contain: 2 people, eyeglasses
Image may contain: text
 

“Vận động người dân khiếu kiện về quê ăn Tết”

Tai Nguyen shared Amy Truc Tran‘s post.
 
 
 
Image may contain: 2 people, text
Amy Truc TranFollow

 

“Vận động người dân khiếu kiện về quê ăn Tết” 

Đó là yêu cầu của Tổng Thanh tra Chính phủ Lê Minh Khái trong buổi làm việc với Ban Tiếp công dân Trung ương ngày 8/2.

Trong khi dân oan ròng rã kêu oan suốt hàng tháng trời, ko vị nào đứng ra giải quyết đơn khiếu kiện cho dân oan. Họ mất đất, mất nhà, ra tận trung ương để kêu oan. Các ông vì bao che lẫn nhau mà làm ngơ trước nỗi đau mất đất của họ, nay ông chỉ nói 1 câu đơn giản, huề cả đôi đường, yêu cầu họ về quê ăn Tết, về quê rồi thì vụ kiện của họ có lẽ chìm xuồng luôn. Có ai còn dám “tin những gì cộng sản nói” nữa ko?

http://m.dantri.com.vn/…/van-dong-nguoi-dan-khieu-kien-tro-…

Tịch thu sách ‘nhạy cảm chính trị’ gửi về từ nước ngoài

Tịch thu sách ‘nhạy cảm chính trị’ gửi về từ nước ngoài
09/02/2018

Khánh An-VOA

Cục Hải quan Đà Nẵng vừa tịch thu 4 bưu kiện gửi từ nước ngoài về, trong đó có một số cuốn sách mà cơ quan này cho rằng nếu để lưu hành, sẽ tạo ra “nhận thức sai lệch về lịch sử cuộc chiến chống xâm lược của nhân dân Việt Nam, cũng như các vấn đề dân chủ, nhân quyền của Nhà nước Việt Nam hiện nay”.

Những cuốn sách bị tịch thu vì lý do “nhạy cảm chính trị” bao gồm: Cuốn “Where the ashes are – The Odyssey of a Vietnamese Family” của nhà báo, nhà văn, dịch giả nổi tiếng Nguyễn Quí Đức; cuốn “Chính Trị Bình Dân” của nhà báo Phạm Đoan Trang; cuốn “Huế 1968 – A Turning Point of the American War in Vietnam” của tác giả Mark Bowden, theo báo Tin Tức.

Tất cả ba cuốn sách trên đều được xuất bản tại Mỹ và được bán trên trang mạng Amazon.

Trong cuốn “Where the ashes are – The Odyssey of a Vietnamese Family”, nhà báo từng làm việc cho nhiều cơ quan truyền thống quốc tế ở Mỹ kể lại câu chuyện của chính gia đình ông trong thời Chiến tranh Việt Nam. Theo giới thiệu của Amazon, cuốn sách “cho chúng ta nhìn thấy cuộc chiến Việt Nam qua đôi mắt của một đứa trẻ, sự túng quẫn sau khi Cộng sản lên cầm quyền, và những chật vật, gian khổ của di dân”. Cuốn sách được tổ chức Words Without Border đề cử là một trong 8 cuốn sách cần đọc để hiểu về Việt Nam và cộng đồng người Việt ở nước ngoài.

Cuốn “Huế 1968 – A Turning Point of the American War in Vietnam” là cuốn sách đầu tiên của tác giả Mark Bowden kể từ khi cuốn Black Hawk Down của ông trở thành cuốn sách bán chạy nhất trong danh sách uy tín của New York Times. “Huế 1968 – A Turning Point of the American War in Vietnam” kể về cuộc tấn mang tính bước ngoặt trong cuộc chiến Việt Nam, Tết Mậu Thân 1968.

Trong khi đó, “Chính Trị Bình Dân” là cuốn sách mà nhà báo Phạm Đoan Trang viết với mong muốn đánh tan định kiến tai hại “chính trị là xấu xa, thủ đoạn” đã bám rễ vào nhận thức của nhiều người dân Việt Nam. Tác phẩm được giới trí thức hoạt động xã hội đánh giá cao về cả nội dung, phong cách viết và mức độ cần thiết của nó trong bối cảnh hiện tại của Việt Nam.

“[Sách] Chính trị mà Việt Nam xuất bản sau năm 1975 phần lớn là viết về quan điểm của Đảng Cộng sản và dành cho các đảng viên. Còn xuất bản sách về chính trị thì hoàn toàn vắng bóng. Chính vì vậy, tôi đánh giá đây là một tác phẩm rất quan trọng. Nó mở ra một lối cho chính trị đi vào tầng lớp bình dân. Ai cũng có thể tiếp cận nó qua những câu chuyện bình dân và thực tế”. Blogger Phạm Lê Vương Các nhận định với VOA.

Tin cho hay các cuốn sách trên được gửi về Hà Lan, Ba Lan và Mỹ trong 4 bưu kiện, mỗi bưu kiện chỉ có một cuốn sách, tới các địa chỉ cá nhân ở Đà Nẵng và Huế.

Hải quan Đà Nẵng cho biết đã báo cáo lãnh đạo và phối hợp với cơ quan chức năng để có các bước xử lý tiếp theo.

Share this :
https://www.voatiengviet.com/a/tich-thu-sach-n…/4246079.html

Image may contain: one or more people and text

Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước (HĐCDGSNN) do ông Phùng Xuân Nhạ làm chủ tịch đang hoạt động trái pháp luật?

Thiên Đức shared Vu Hai Tran‘s post.

Mình tự phong cho mình chức danh kia nọ…thì chỉ có loài lừa csVN làm được thôi chứ trên thế gian này chưa hề có bất cứ nơi đâu. Nơi chuồng trâu, chuồng lợn cũng chưa hề có! Xấu xa và nhục nhã quá! Đúng là “đỉnh cao trí tệ csVN “. Vậy mà còn dày mặt trơ ra ngồi nơi mà mình không xứng được ngồi! Lôi cổ nó xuống ném vào hố tác ngay.
Thiên Đức

 
Image may contain: 1 person, standing and suit
Image may contain: 18 people, people smiling, people standing and indoor
No automatic alt text available.

Vu Hai Tran added 3 new photos.Follow

Hội đồng chức danh giáo sư nhà nước (HĐCDGSNN) do ông Phùng Xuân Nhạ làm chủ tịch đang hoạt động trái pháp luật? Ông Nhạ cần từ chức Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo, chủ tịch HĐCDGSNN và từ bỏ chức danh giáo sư!

HĐCDGSNN là cơ quan được thành lập theo Quyết định số 174/2008 QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (được sửa đổi bổ sung bằng Quyết định số 20/2012 QĐ- TTg) có trách nhiệm xét công nhận hoặc huỷ bỏ công nhận đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư. Theo điều 7 khoản b Quyết định 174/2008 QĐ-TTg trên, thành viên HĐCDGSNN phải là giáo sư. Không có điều khoản nào quy định Bộ Trường Bộ giáo dục và đào tạo đương nhiên là chủ tịch HĐCDGSNN.

Ngày 26/5/2014, bằng Quyết định 763/2014 QĐ-TTg, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập HĐCDGSNN khoá 2014-2019, theo đó giáo sư Phạm Vũ Luận lúc đó đương kim Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo làm chủ tịch Hội đồng này.

Tháng 4/2016, ông Phùng Xuân Nhạ, lúc đó là Phó giáo sư, Giám đốc kiêm Chủ tịch Hội đồng Đại học Quốc gia Hà nội được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo, thay ông Luận. Tháng 7/2016, tại kỳ họp thứ ba của HĐCDGSNN khoá 2014-2019, ông Nhạ chễm trệ chức chủ tịch Hội đồng này chủ trì lễ chia tay ông Luận, trong khi chưa thấy quyết định nào của Thủ tướng phê chuẩn việc ông Nhạ thay ông Luận làm chủ tịch HĐCDGSNN. Tháng 10/2016, với tư cách Chủ tịch HĐCDGSNN, ông Nhạ ký công nhận mình đạt chuẩn giáo sư chuyên ngành kinh tế.

Nếu đối chiếu quy định của pháp luật, ông Nhạ không phải là giáo sư vào thời điểm tháng 7/2016, nên không đủ tiêu chuẩn thành viên HĐCDGSNN, không có quy định Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào tạo đương nhiên là Chủ tịch HĐCDGSNN, chưa có quyết định của Thủ tướng Chính phủ (sửa đổi, bổ sung Quyết định 763/2014 QĐ-TTg) về việc bãi nhiệm ông Phạm Vũ Luận khỏi chức chủ tịch HĐCDGSNN khoá 2014-2019 và bổ nhiệm ông Phùng Xuân Nhạ vào chức vụ này. Như vậy việc ông Nhạ tự nhận chức chủ tịch HĐCDGSNN là trái pháp luật, HĐCDGSNN do ông Nhạ làm chủ tịch đang hoạt động trái luật, nội dung quyết định ông Nhạ ký công nhận ông Nhạ đạt chuẩn giáo sư là không hợp pháp.

Mấy hôm nay, báo chí và mạng xã hội được bữa “no cười” vì Việt nam đột biến có thêm hàng nghìn giáo sư và phó giáo sư. Thủ tướng Chính phủ có công văn chỉ đạo Bộ giáo dục và đào tạo rà soát lại việc công nhận đợt giáo sư, phó giáo sư này. Ngài Bộ trưởng Nhạ vội vã tuyên bố “kiên quyết không công nhận những trường hợp không đạt tiêu chuẩn giáo sư, phó giáo sư” và yêu cầu các chủ tịch Hội đồng chức danh giáo sư ngành, liên ngành báo cáo trước ngày 18/2/2018 (tức mùng 3 Tết, chủ nhật, đang trong kỳ nghỉ Tết). Lại thêm chuyện cưởi nữa.

Theo tôi, Thủ tướng Chính phủ cần yêu cầu Thanh tra Chính phủ vào cuộc ngay, xem việc ông Nhạ tự nhận làm Chủ tịch HĐCDGSNN, tự ký công nhận mình là đạt chuẩn giáo sư có đúng luật không? Còn nếu ông Nhạ không giải thích được việc tiếm quyền Chủ tịch HĐCDGSNN khi không đủ điều kiện là thành viên (phải là giáo sư) của Hội đông này, và nếu ông là người tự trọng (đức tính tất yếu của một nhà khoa học), ông nên từ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chủ tịch HĐCDGSNN và từ bỏ chức danh giáo sư!

Chiêu ‘mua rễ hồ tiêu’ của thương lái Trung Quốc tái xuất tại VN


Nông dân trồng tiêu ở Gia Lai.

Nông dân trồng tiêu ở Gia Lai.

Cơ quan chức năng huyện Chư Pưh, Gia Lai, vừa lên tiếng cảnh báo người dân phải “cẩn trọng, tránh ảnh hưởng đến kinh tế và an ninh trật tự” trước tình trạng tái xuất hiện thương lái Trung Quốc đi thu gom mua rễ cây tiêu ở địa phương. Cơ quan phụ trách về lĩnh vực nông nghiệp nói đây có thể là “hành vi phá hoại” tái diễn từ những năm trước.

Trong báo cáo gửi UBND huyện Chư Pưh, Phòng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NN&PTNT) huyện cho biết “Thời gian gần đây trên địa bàn thị trấn Nhơn Hoa diễn ra hoạt động thu gom, mua gốc rễ hồ tiêu với số lượng lớn khoảng 500 kg”.

Phá hoại

Báo Thanh Niên trích dẫn văn bản này cho biết thêm rằng “Việc thu gom gốc rễ hồ tiêu mục đích không rõ ràng và có dấu hiệu bất thường sẽ gây nên tình trạng người dân phá bỏ vườn tiêu để lấy rễ, đào trộm rễ tiêu để bán, gây thiệt hại đến sản xuất trồng trọt, ảnh hưởng đến trật tự an ninh nông thôn và phát triển kinh tế xã hội địa bàn tỉnh”.

Những sản phẩm nông nghiệp rất kỳ quặc mà Trung Quốc mua ở Việt Nam qua một số thương lái Trung Quốc mang tính chất phá hoại đối với kinh tế [Việt Nam].
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan

Tin cho hay gần đây huyện Chư Pưh bắt gặp một thương lái Trung Quốc đến thu mua rễ cây tiêu từ một nông dân trong huyện. Thương lái này đã bỏ đi khi cơ quan chức năng đến, trong khi chủ hộ nông dân nói họ thu gom rễ để ủ làm phân bón chứ không phải để bán cho thương lái Trung Quốc.

Phòng NN&PTNT huyện Chư Pưh cảnh báo đây có thể là hành vi phá hoại tái diễn của thương lái Trung Quốc đối với cây loại cây mang tính chiến lược kinh tế của địa phương này.

Năm 2013, thương lái Trung Quốc cũng đến huyện Chư Pưh và một số nơi khác ở Tây Nguyên để thu mua rễ tiêu với giá 40.000 đồng/kg. Nông dân Việt Nam đã đổ xô đào cây tiêu lên để lấy rễ bán. Hậu quả là cả một khu vực rộng lớn trồng tiêu bị phá hủy.

Trước đó, năm 2012, các thương lái Trung Quốc cũng đã “dùng tay người Việt” triệt hạ nhiều khu rừng khi người dân đổ xô vào rừng hái lá kim cương để bán cho thương lái Trung Quốc, khiến loại dược liệu quý này rơi vào nguy cơ cạn kiệt.

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, nguyên thành viên tổ tư vấn của Thủ tướng Chính phủ, từng nhiều lần lên tiếng về các chiêu thu mua của các thương lái Trung Quốc mang tính chất “phá hoại” nền kinh tế Việt Nam. Bà nói với VOA:

“Những sản phẩm nông nghiệp rất kỳ quặc mà Trung Quốc mua ở Việt Nam qua một số thương lái Trung Quốc mang tính chất phá hoại đối với kinh tế [Việt Nam]. Ví dụ như mua rễ cây, mua sừng móng trâu, hay quả cau non… Không rõ để làm gì, nhưng họ làm như vậy là phá hoại cả một nền sản xuất của Việt Nam”.

Lũng đoạn

Tháng 8 vừa qua, Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam ra cảnh báo về tình trạng “lũng đoạn” của doanh nghiệp Trung Quốc đối với thị trường hồ tiêu Việt Nam.

Hiệp hội này nói có bằng chứng cho thấy Trung Quốc đang điều khiển thị trường hồ tiêu bằng cách cho nhiều doanh nghiệp đến ký hợp đồng mua tiêu với bất kỳ giá nào, sau đó hối thúc thực hiện hợp đồng để các doanh nghiệp Việt Nam phải gấp rút đi gom hàng, nhưng lại khất lần việc thanh toán tiền với lý do “ngân hàng đang kiểm tra hồ sơ”.

Trong thời gian các công ty Việt Nam lo gấp rút gom tiêu để bán thì nhóm người Trung Quốc này lại tỏa đi các địa phương để thu mua tiêu và hứa hẹn bán cho các đại lý với giá thấp hơn giá thị trường. Các đại lý thấy lợi nên mua để bán lại cho các nhà xuất khẩu. Đến lúc này, người Trung Quốc bắt đầu giam hàng, không bán cho đại lý nữa, viện lý do không có hàng, khiến giá tiêu trên thị trường bị đẩy lên rất cao. Lúc này, họ tung hàng ra bán cho đại lý kiếm lời.

Đến khi các doanh nghiệp Việt Nam thu gom đủ tiêu để bán theo hợp đồng, thì tất cả các thương lái Trung Quốc đều “không liên lạc được”, trong khi tiền hợp đồng thì chưa thanh toán.

Hiệp hội Hồ tiêu cảnh báo các doanh nghiệp Việt Nam phải “thận trọng” khi giao dịch với doanh nghiệp Trung Quốc. Hiệp hội này nói các thương lái Trung Quốc cố tình tạo biến động trồi sụt giá cả, khiến thương lái trong nước không dám mua bán, từ đó thu lợi từ việc “làm giá” theo ý đồ của họ.

Theo nhận định của bà Phạm Chi Lan, xét về khía cạnh đầu tư nước ngoài, “Trung Quốc hoàn toàn không phải là một nhà đầu tư lớn”.

Bà nói: “Họ không bỏ bao nhiêu vốn đầu tư trực tiếp vào Việt Nam, mà chủ yếu vào Việt Nam qua các kênh khác, về thương mại, xuất khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam, thắng thầu các công trình, dự án tại Việt Nam”.

Cả trong nhập khẩu lẫn xuất khẩu, Trung Quốc đều có những mô thức kinh doanh, sản phẩm mang tính “chèn ép”, khiến các ngành nông nghiệp, công nghiệp Việt Nam không phát triển được. Chính những ảnh hưởng tiêu cực này đã dẫn tới làn sóng “thoát Trung” mà nhiều người dân Việt Nam cổ vũ, theo bà Phạm Chi Lan.

Thời thơ ấu (phần 2)

Thời thơ ấu (phần 2)

Tác giả: Phùng Văn  Phụng

Hiệp định Geneve ấn định ngày đình chiến là ngày 20 tháng 07 năm 1954. Tất cả học sinh đều nghỉ học. Không có ai đi lại vì sợ lộn xộn. Riêng tôi và em chú bác là Phùng V. Th. vì còn nhỏ chưa hiểu cũng như chưa đoán được cái gì sẽ xảy ra. Vì chưa hiểu biết nhiều, nên trong ngày đó cùng nhau lấy hai chiếc xe đạp, đi qua Long Phụng, qua đò Thủ bộ, đến trường tư thục Tấn Thành ở Chợ Trạm.

            Đêm hôm trước ngày đình chiến, Việt Minh (Cộng sản) đã tổ chức các nhà có cảm tình với Việt Minh đánh thùng thiếc để uy hiếp tinh thần của những người quốc gia. Do đó sáng hôm sau là ngày 20 tháng 7, các trường học đều tự động đóng cửa, dân chúng cũng ít đi ra đường vì sợ rủi ro.           

Hôm đó tôi và em chú bác Phùng V. Th. đến trường Tấn Thành thì trường đóng cửa, thay vì đi về nhà bằng ngả chợ Trạm, tôi lại đi lên Quận Cần Giuộc, rồi mới đi qua ngả Tân Thanh mà về nhà. Trên đường đi từ Chợ Trạm lên quận lỵ Cần Giuộc, tôi không thấy có xe cộ nào đi qua. Đi được giữa đường, tôi thấy cờ đỏ sao vàng ở dưới ruộng hoặc cạnh đường đi, tôi đã lấy cờ đỏ sao vàng bỏ vào cặp của mình. Tôi chưa biết gì về lá cờ này. Nhưng khi đi về tới gần quận lỵ Cần Giuộc, Thành, con chú Út bảo tôi bỏ hết mấy lá cờ đó ra ngoài cặp đi. Tôi không dám giữ nữa và quăng xuống ruộng.           

Quả nhiên khi vô quận lỵ, đi qua hàng rào kẻm gai mà chánh phủ quốc gia đã kéo ngang đường, chỉ chừa một khoảng nhỏ đủ cho một người đi qua, tôi bị chặn lại và bị xét cặp học sinh của tôi. Nếu không vất lá cờ đó đi, mà mang vào quận lỵ Cần Giuộc, tôi cũng không biết cái gì đã xảy ra cho tôi? Tôi sẽ bị tra hỏi có phải là người của Việt Minh không? Tại sao tôi có cờ Việt Minh trong cặp? Tôi sẽ bị bắt để điều tra?

                                                                       &   &    &

            Tôi đi học từ Chợ Núi lên Cần Giuộc bằng xe Lam ba bánh. Cho đến năm 1954, muốn đi từ Chợ Núi lên Cần Giuộc phải đi bằng xe ngựa. Nhưng từ năm 1955, xe Lam bắt đầu nhập vào nước ta, một vài người bắt đầu mua xe Lam để đưa hành khách thay thế xe ngựa. Xe ngựa có bánh bằng sắt nên dễ làm cho đường lộ đá đỏ bị hư, dễ tạo thành các vũng nước, vũng sình lún đường. Xe lam chạy bằng bánh cao su nên đường ít bị hư hơn. Từ khi đậu vào lớp đệ thất (lớp sáu), trường Trung Học Cần Giuộc, mỗi ngày tôi đều thức sớm ăn cơm với đậu phọng rang rồi đón xe đi lên quận lỵ Cần giuộc học. Tôi phải qua đò Tân Thanh. Nhiều khi qua đò quá đông chen lấn nhau, chủ đò muốn chở nhiều để có lợi hơn, nên hành khách thường chen lấn nhau để qua đò, có lần tôi bị lấn, rớt xuống song, áo quần sách vở bị ướt hết.

            Khoảng năm 1959 buổi sáng sớm, trời còn tối, tôi đón xe lam lên Cần Giuộc để đi học, tôi ngồi ở phía trước của xe lam. Khi xe chạy đến “Rạch đập”, tài xế vừa pha đèn để thấy đường mà chạy xe, tôi thấy một cái đầu của một người để trên cái trụ bằng xi măng của đập. Tôi hết sức sợ. Không biết ai đã giết người này, sao lại để trên trụ cột như thế. Mọi người đều rất sợ. Bắt đầu có khủng bố ở nông thôn. Sau này tôi được biết người bị giết chỉ là trưởng ấp. Mặt Trận Giải phóng Miền Nam (Cộng sản), đã ám sát, khủng bố, giết chóc các viên chức xã ấp để gây hoang mang, gây nỗi sợ hãi trong dân chúng.

                  Về quê, làng Tân Tập ăn giỗ, tôi nhớ bà con dùng lưới để bắt cá đối. Giăng tấm lưới, hai người cầm hai đầu, kéo lưới căng ra giữa ruộng. Phía bên kia ruộng một người cầm cái chổi hay cành cây đập xuống nước từ từ đuổi cá đến cái lưới, vậy mà cá đối dính vào lưới khá nhiều. Bắt còng cũng là cái thú. Khi xuống ruộng, mang theo bên mình một cái giỏ bằng tre, phía trên miệng nhỏ hơn, rộng chừng nắm tay, có nắp đậy để khi bỏ còng vào, con còng không thể nào bò ngược lên được. Khi đi bắt còng, chân thụt (đạp) xuống đất, trước các lỗ nhỏ bằng đầu đủa ăn cơm, nếu có còng, nó sẽ chạy lên, dùng tay khéo léo cầm ngang hông nó rồi bắt bỏ vào giỏ.

            Khi tôi lên lớp đệ lục, đệ ngủ, tôi học Pháp văn, Việt văn với thầy Trần Văn Quới còn gọi là ông Đốc Quới. Thầy Trần Văn Quới cũng là Hiệu Trưởng đầu tiên của trường Trung học Cần Giuộc.Trường thành lập năm 1955. Tôi thi đậu tiểu học năm 1954 vì chưa có trường Trung học công lập, nên phải qua Chợ Trạm học trường tư thục Tấn Thành do ông Nguyễn Tấn Thành sáng lập và cũng là Hiệu Trưởng. Sau này ông Nguyễn Tấn Thành là Dân biểu Đệ Nhất Cộng Hoà, thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm.Trong thời gian học ở trường Tấn Thành tôi đi học chung với Phùng V. Th.  ở nhà gọi là hai Hưởng.Trước khi về hưu, hai Hưởng là Giám đốc nhà máy bao bì ở Hà Tiên.

            Khi hai Hưởng đậu bằng tiểu học, Chú Út tôi không có tiền để cho đi học tiếp lên trung học. Chú Út tôi dự định cho hai Hưởng về Tân Tập làm ruộng. Ba tôi thấy thế mới gọi hai Hưởng ra Chợ Núi, ở nhà ba má tôi để tiếp tục đi học. Hai Hưởng cùng với tôi đi học ở trường Tấn Thành bằng xe đạp. Sau một năm học ở trường Tấn Thành, tôi thi đậu vô trường trung học Cần Giuộc năm 1955. Hai Hưởng thi vào trường Cao Thắng, dạy nghề ở Sài gòn. Hai Hưởng đang học lớp 11 tại trường này, nhà nước cần học sinh đi du học ở Pháp về ngành xi măng để lập nhà máy xi măng ở Hà Tiên và Thủ Đức.Tìm người có Tú Tài hai, biết về máy móc không có, nên đành phải lấy trình độ lớp 11. Sau khi đi tu nghiệp gần hai năm hai Hưởng về làm ở nhà máy xi măng ở Thủ Đức hoặc nhà máy xi măng ở Hà Tiên tùy nhu cầu.

            Xin nói qua về địa danh chùa Linh Sơn, bài viết của ThầyTrần Văn Trí năm 1974.

            Sơ lược tiểu sử chùa “Linh sơn”

            Tục truyền gò núi đất trước kia do người Miên cư trú, họ vốn là một dân tộc sùng tín đạo Phật nên chỗ nào cũng có chùa và thường cất trên những chỗ đất cao. Do đó họ phải tạo nên một hòn núi nhỏ để cất chùa. Phong cảnh chùa rất nên thơ xinh đẹp với những cây cổ thụ hàng trăm năm, những góc me trái sai quằn nhánh, lá xanh tươi mát rười rượi. Dưới chân núi có con rạch chạy bao quanh như con rồng ôm theo vòng núi đất. Chân núi cây cối sầm uất, vườn tược sum xuê, thật là sơn thủy hữu tình. Đó là thắng cảnh và địa danh của quận Cần Giuộc.

            Nguyên khởi của ngôi chùa.

            Trước năm 1867 vùng đất này của người Miên thuộc Thủy Chơn Lạp, xưa kia ông bà chúng ta lấn và chiếm đất họ. Họ bèn bỏ chạy và ngôi chùa của họ cũng hư hại luôn.

            Đến năm 1867 (Đinh Mão) có Thầy Nguyên Quới tự lập am, cất một cái chùa sơ sài bằng cây vách lá để tu luyện. Thầy không ăn cơm mà chỉ ăn rau hoặc đậu nên gọi là Thầy rau.

            Nhị tổ kế truyền: Khi Thầy Quới viên tịch, ông sư Hiền về kế tiếp giữ chùa lo việc hương khói. Vì dân cư còn hiếm hoi, chùa chưa được mở mang gì nhiều.

             Tam tổ kế vị: (1870) Ông sư Hiền viên tịch, Tổ Minh nghĩa kế tự bắt đầu có phát triển hành dạo, chùa có người lui tới, làng xã đến chiêm bái và cúng dường chút ít. Tổ Minh Nghĩa hành trì ít lâu rồi thị tịch.

            Tứ tổ kế vị:(1873) Đến Tổ Như Đức (người Bình Định) thay Tổ Minh Nghĩa trụ trì công việc hoằng dương Phật sự lúc bấy giờ còn quá khiếm khuyết. Dân chúng mãi lo khẩn hoang, đạo pháp chưa có cơ duyên phát triển. Hành đạo một thời gian thì Tổ Như Đức tịch.

            Ngủ Tổ kế vị: (1876) Khi Tổ Như Đức viên tịch rồi thì chùa không ai coi, chỉ còn lại một đạo đồng sáu tuổi tên là Lê văn Đuổi, gọi là Trùng Huệ, Pháp Hiệu Quảng Trí giữ chùa. Đạo đồng Quảng Trí có lẽ có cơ duyên với đạo pháp nên ban ngày giữ chùa và vào xóm xin ăn, ban đêm không dám ngủ tại chùa phải tìm nhà đồng bào xin ngủ trọ. Khi được 8 tuổi, bổn đạo mới đem gởi đi học đạo tại chùa Như Đức (trước gọi là Trúc Lâm) nay thuộc quận Tân Bình, tỉnh Gia Định. Đến năm 18 tuổi, Quảng Trí được hương chức và bổn đạo thỉnh về trụ trì. Ông mở mang đạo mạch?, làm ruộng, lập vườn, nuôi tăng chúng. Chùa bắt đầu phát triển đạo pháp, bổn đạo lui tới chùa rất đông và phát triển đến nay. 

            Lục Tổ kế vị: Sư Trùng Huệ trụ trì đến năm 1942 thì viên tịch nhập cõi niết bàn, chùa được giao cho đệ tử là Thích Trùng Lễ. Thích Trùng Lễ tục danh là Lê văn Thượng từ năm 1942 đến năm 1944 thì viên tịch.

            Thất tổ kế vị: Hoà Thượng Thích Thiện Lợi, tục danh Lê văn Giáp tiếp tục lo việc Phật sự từ năm 1944 đến nay.

            Lãnh trách nhiệm từ 30 tuổi vào thời kỳ khói lửa đao binh bùng cháy trên mảnh đất quê hương, Hoà Thượng chịu đựng nhiều gian khổ cho chùa. Ba mươi năm trụ trì là ba mươi năm chiến tranh bom dạn cày nát quê hương, làng mạc, nhân dân điêu đứng tản cư chạy giặc, luôn luôn sống trong hồi hộp lo âu. Tuy nhiên Hòa Thượng vẫn kiên gan ở lại giữ ngôi chùa. Thôn xóm quanh chùa đã bị đỗ nát vì bom đạn rơi rớt, thế nhưng nhờ oai linh chư Thiên, Phật Tổ chùa vẫn còn toàn vẹn không bị ảnh hưởng chi hết.

            Kết luận: Nói chung ngôi chùa còn đến hôm nay là nhờ hồn thiêng đất nước, nhờ oai linh của địa phương thành hoàng bổn cảnh phò trì bá tánh nhân dân xã đóng góp giữ gìn mới được viên thành như ngày hôm nay.                                                                   

                                                         Soạn năm 1974 

    Ông Trần văn Trí, Hiệu Trưởng THCĐ Rạch Núi kiêm UVVHGDTN xã Đông Thạnh.

     (bài này trích từ Bản tin đồng hương Cần Giuộc,   Xuân Bính Tý 1996).

&  &  &

            Tôi còn nhớ học thầy Nguyễn Tuấn Kiệt, Hiệu trưởng kiêm dạy lớp nhất trường tiểu học Rạch Núi. Thầy Kiệt thay thế ông Hiệu Trưởng Nguyễn Văn Chắc. Trong thời gian thầy Kiệt làm Hiệu Trưởng là năm tôì thi đậu bằng tiểu học 1954, hiệp định Genève ra đời, chia đôi đất nước Việt Nam. Tôi lúc đó còn quá nhỏ để hiểu biết về chính trị, nhưng tin tức dồn dập về đình chiến giữa Pháp và Việt Minh cũng ảnh hưởng phần nào đến tâm hồn còn non nớt của tôi. Tin tức đó cũng làm cho tôi quan tâm một chút về tình hình chính trị, về tình hình đất nước Việt Nam. Năm đó tôi thi vào trường Petrus Trương Vĩnh Ký bài luận văn nói về sự đoàn kết. Tựa đề bài thi “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” hay “Đoàn kết thì sống chia rẻ thì chết”. Tôi không hiểu sao lúc đó tôi có cảm tình với kháng chiến cho nên không thích ông Ngô Đình Diệm. Ông Ngô Đình Diệm vừa về nước chấp chính làm Thủ Tướng. Tôi làm bài luận văn viết nếu Hòa Hảo, Bình Xuyên, Cao Đài hợp lại đoàn kết thực sự đánh lại ông Diệm thì ông Diệm không thể nào chống đỡ nổi. Dĩ nhiên kỳ thi này tôi đã không đậu vào trường Trương Vĩnh Ký. Không biết có phải do bài làm này hay không?

            Năm 1955 là năm đầu tiên khai giảng lớp đệ thất, của trường Trung học Cần Giuộc. Năm 1955 cũng là năm tôi thi đậu vào trường này. Tôi học trường này từ năm 1955 đến năm 1959. Sau khi đậu trung học Đệ nhất cấp, tôi tiếp tục lên lớp đệ tam (lớp 10), chuyển lên Sài Gòn học ở trường Chu văn An nằm phía sau trường Trương Vĩnh Ký.

            Trong thời gian tôi học tại trường Trung Học Cần giuộc, giờ Việt văn của Thầy Trần văn Quới luôn luôn nói đến lòng yêu nước như khi dạy về Nguyễn Đình Chiểu thì Thầy nhắc đến “chùa ông Ngộ” và “Trận giặc mù u”.

            Theo lời của Thầy Trần văn Qưới kể lại “Trận giặc mù u” như sau:

            Nghĩa quân kháng Pháp thời đó dưới quyền chỉ huy của Ông Trương Công Định, đâu có súng ống, chỉ dùng dao mác mà thôi?  Từ quận lỵ Cần Giuộc lính Pháp đi tuần vào xã Mỹ Lộc. Nghĩa quân phục kích lính Pháp tại chùa ông Ngộ. Chùa này ở vị thế cao hơn đất bằng cho nên nghĩa quân dùng trái mù u là loại trái hình tròn như trái banh boong nhỏ, rải lên trên triền dốc. Nghĩa quân đi chân không. Trong khi lính Pháp đi giày. Nghĩa quân đứng trên cao. Quân Pháp phải trèo lên để đánh nghĩa quân, nhưng vì đi giày nên đạp trái mù u mà té, không chạy lên cao được. Nghĩa quân đi chân đất chạy xuống giết nhiều lính Pháp. Trong trận đánh này, nghĩa quân Việt Nam lần đầu tiên đã thắng Pháp. Sau năm 1862, khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng Pháp, ký hoà ước với Pháp, cắt ba tỉnh miền Đông Nam phần cho Pháp, (nghĩa quân đã tự động nổi lên chống Pháp).

&   &   &                  

            Sau khi tôi thi đậu Trung Học Đệ nhất cấp, vì ở quận Cần Giuộc không có lớp đệ tam (lớp 10), nên Thầy Đinh văn Lô liên lạc với trường Chu văn An là trường của người Bắc từ Hà nội di cư vào Nam. Chúng tôi là dân Nam kỳ mà lại vào học trường Chu Văn An. Thầy Đinh văn Lô là người miền Bắc, xin các nơi khác không được vì không có chỗ, chỉ còn có trường Chu văn An nhận mà thôi. Không biết có phải nhờ thầy Đinh Văn Lô quen biết Hiệu Trưởng trường này không? nhờ đó chúng tôi được nhận. Hiệu Trưởng trường Chu văn An lúc bấy giờ là thầy Trần Văn Việt.Tổng Giám Thị là Nguyễn Hữu Lãng chúng tôi thường gọi là Tổng Lãng. Giám Học là Nguyễn Văn Kỹ Cương.

            Nhờ học được trường nổi tiếng này nên đa số chúng tôi đi thi Tú Tài hai đều đậu gần hết. Chỉ có một số ít học sinh thi rớt Tú Tài hai mà thôi. Lớp Đệ Tam và Đệ Nhị học ở phía sau trường Trương Vĩnh Ký. Lớp Đệ Nhứt chúng tôi học ở khu trường mới gần nhà thờ ngả sáu. Những giáo sư chúng tôi học đều dạy giỏi, rất nổi tiếng thời bấy giờ như Toán là Giáo sư Đào Văn Dương, Nguyễn Văn Kỹ Cương, Lý Hóa Trương Đình Ngữ, Lê Văn Lâm, Triết Nguyên Sa Trần Bích Lan, Trần Văn Hiến Minh, Sử Vũ Khắc Khoan….

            Giáo sư Trương Đình Ngữ đi dạy học bằng xe hơi có tài xế đội kết trắng lái. Khi tới trường, tài xế bước ra phía sau, mở cửa xe cho Thầy xuống. Hồi đó rất ít người có xe hơi. Đa số giáo sư đi xe gắn máy hay đi xe đạp. Giáo sư Vũ Khắc Khoan đi dạy bằng xe taxi.

            Tôi thuộc loại giỏi của trường Trung học Cần Giuộc vậy mà khi chuyển trường, vào học tại trường Chu Văn An không còn đứng nhất nhì của lớp học được nữa.  

            Tôi thi vào trường Đại học sư phạm ban Lý Hoá không đậu nổi. Thi vào Kỹ sư Phú Thọ, Quốc Gia Hành Chánh cũng không đậu. Muốn học Y khoa, ba tôi nói không đủ khả năng nuôi tôi học thêm nữa vì tôi có nhiều em (4 đứa) và còn các con dì sáu, bà vợ sau của ba tôi nữa, cũng bốn đứa em còn nhỏ.  Ba tôi bảo tôi nộp đơn vào học Cán sự y tế không phải thi vì có Tú Tài hai. Tôi có đến bịnh viện Chợ Rẩy lấy đơn vì trường Cán Sự Y Tế ở trong khuôn viên bịnh viện này. Nhưng tôi không có nộp vì tôi không thích ngành này hơn nữa nó chỉ là ngành trung cấp mà thôi. Túng quá, cần đi làm có tiền, tôi đã nộp đơn thi vào trường Sư Phạm hai năm. Thi vào trường Sư Phạm hai năm chỉ cần Tú Tài một. Tôi đã có Tú Tài hai rồi nhưng vẫn thi vì tôi cần đi làm để ba tôi không phải tốn tiền lo lắng cho tôi nữa. Tôi thi đậu vào trường Sư Phạm vào năm 1963. Năm 1965 tôi ra trường Sư Phạm đổi về dạy tại trường tiểu học Phước Hòa Long, quận Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa. Trường này do Ngô Văn Lương đang làm Hiệu Trưởng có 5 lớp nhưng học sinh rất thưa thớt, một lớp chừng mười mấy đứa học trò mà thôi.

               Chiến tranh đang lan rộng khắp nơi trong quận. Ban đêm tôi ngủ ở các phòng kế bên rạp hát Quốc Thống. Lính thường đến gác trên sân thượng của lầu này. Tối Cộng Sản về, ở dưới đất bắn lên. Nghĩa quân ở trên nóc lầu Quốc Thống bắn xuống. Chúng tôi ở giữa chịu trận. Trong xã Phước Hòa Long, lính quốc gia và cộng sản lúc nào cũng có thể đánh nhau, đụng độ với nhau. Họ đánh nhau bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Từ đường cái đi vô trường, tôi phải qua đồn nghĩa quân.

                 Một hôm buổi sáng sớm, tôi đi vào trường. Khi gần đến trường, trên đường đi, tôi nhìn thấy một sợi dây giăng ngang, hai đầu sợi dây cấm hai cây tre nhỏ có treo hai quả lựu đạn. Lỡ đi tới tôi phải nhấc xe đạp lên bước nhẹ nhàng, chậm rãi qua sợi dây đó mà đi vào trường. Hôm sau, tôi không dám đi con đường này nữa, tôi phải đi vòng qua xóm để vào trường.

GIÀNG ƠI?

Image may contain: 2 people
Dải Chữ S Trong Ánh Nhìn Dư Luận

.:’:. GIÀNG ƠI?

Tượng đài..cháu chẳng thích đâu
Cổng chào ngàn tỷ còn lâu mới cần
Cháu cần áo để ấm thân
Giữa đông giá lạnh thêm quần mặc thôi

Cháu thèm được học được chơi
Bằng nửa các bạn dưới xuôi là mừng
Tết đến được ăn bánh chưng
Không phải mệt mỏi vào rừng đào măng

Trung thu được ngắm chị Hằng
Được vui phá cỗ ông trăng ven đồi
Nhưng mà chỉ ước vậy thôi
Bản em nghèo lắm…quên rồi…từ lâu !!!!

Giá mà có đuợc cây cầu
Qua con suối dữ nước sâu…nó gầm
Có đường đi đỡ mỏi chân
Không bị gai xé áo quần ..cứa da

Tối đến được ngủ trong nhà
Bớt nghe gió hú rồi là…đếm sao
Cái bụng hết đói cồn cào
Không sôi óc ách …cứ gào cả đêm

Biết rằng…ước chỉ buồn thêm
Vùng cao bao kiếp lớn lên …cứ nghèo
Đói rách nó mãi bám theo
Muốn tìm con chữ gắng trèo…bằng tay!!!

Cháu mơ thêm cánh để bay
Chỉ cần vỗ nhẹ qua ngay sang bờ
Không phải ăn chực nằm chờ
Đu dây vượt lũ…cháu mơ …chút à!!!

Cô chú du lịch ngang qua
Xin ghé vô bản thăm nhà của em
Cho em gửi nhắn nỗi niềm
Công trình ngàn tỷ tốn tiền…làm chi?!!!

Bớt chút mở đường cháu đi
Xây trường cháu học bút chì cháu tô
Cháu sẽ tô đỏ màu cờ
Sao vàng năm cánh…lại mơ…nữa rồi…
#Long sư huynh, 01/02/18

Không quần thiếu áo mặc bay
Dù có ăn mày thì cũng chẳng sao
Vì tao ngồi ở trên cao
Suốt ngày đánh chén làm sao biết mày

Qua sông bơi nội đu dây
Đấy là việc của chúng mày mà thôi
Ông đây cứ cỡi xe hơi
Tham quan du lịch khắp nơi thỏa lòng

Tiền chùa tiền biếu tiền công
Ngu gì không phá chơi ngông một thời
Đến khi chức sắc tơi bời
Tiền vàng gom đủ ta thời về hưu
#Trần Thanh Lai