Trông người, ngẫm đến ta

 

Trông người, ngẫm đến ta

Học sinh bày tỏ quan điểm. Ảnh: internet

Vụ xả súng giết chết 17 người tại một trường học ở bang Florida đã khoét sâu nỗi bất an trong lòng người dân Mỹ, đặc biệt là các phụ huynh học sinh trên toàn nước Mỹ. Ngày 21.2.2018, phụ huynh học sinh và học sinh thuộc trường trung học Marjory Stoneman Douglas ở Parkland, bang Florida, đã có cuộc gặp gỡ với Tổng thống Mỹ Donald Trump để bày tỏ nỗi lo ngại về tình trạng an ninh tại các trường học. Người đứng đầu cường quốc số 1 thế giới ngồi yên lặng lắng nghe từng lời phát biểu của phụ huynh và sinh viên/học sinh trong cuộc gặp gỡ. Một trong những phương án mà chính quyền Mỹ đang nhắm tới là vũ trang cho các giáo chức Mỹ. Họ lý luận rằng nếu khoảng 20% những người có mặt tại mỗi trường học được vũ trang thì những sát thủ sẽ ít có cơ hội gây ra những cuộc thảm sát. Tuy nhiên chủ trương này đã không nhận được sự tán đồng của Liên đoàn Giáo chức Mỹ (AFT) với 1,7 triệu hội viên. Chủ tịch liên đoàn này là bà Randi Weingarten cho rằng vũ trang cho giáo chức không phải là một biện pháp phù hợp (BBC.co.uk).

Những cuộc gặp gỡ, nói chuyện thẳng thắn giữa người dân với nguyên thủ quốc gia trong sinh hoạt một nước dân chủ như Mỹ là điều không làm ai ngạc nhiên. Giữa ông Donald Trump với từng công dân Mỹ, vốn là những người bỏ phiếu bầu ông và đóng thuế nuôi bộ máy chính quyền do ông cầm đầu, có một mối quan hệ thẳng thắn và sòng phẳng, không ai mặc cảm với ai.

Song điều mang lại cho chúng ta nhiều cảm xúc hơn lại là những cuộc biểu tình do chính các em học sinh ở Florida và nhiều nơi trên đất Mỹ tổ chức để bày tỏ sự phản kháng trước bạo lực vũ khí. Các em tuần hành tại Washington D.C. với những biểu ngữ nêu rõ quan điểm, thể hiện sự phản kháng bằng cách nằm yên trong trật tự trên một bãi cỏ ngay trước Tòa Bạch Ốc. Hành động tự phát của các em nhận được sự tán đồng của các ban giám hiệu, biểu thị một ý thức công dân đúng đắn và một sự trưởng thành về mặt chính trị ngay khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường. Hành động đó sẽ không thể có được ở một nền giáo dục chủ trương nhốt chặt học sinh trong những chiếc rọ tư tưởng hẹp hòi và lạc hậu, biến họ thành “những con cừu của Panurge”, những con rối ngo ngoe dưới bàn tay điều khiển của người lớn, những người lớn chỉ biết nghĩ tới quyền lợi của bản thân, của phe nhóm, mưu toan biến tuổi trẻ thành công cụ của riêng mình.

Cung cách hành xử đúng mực, thẳng thắn của tuổi trẻ nước Mỹ là kết quả của một nền giáo dục khai phóng, lấy CON NGƯỜI làm lý tưởng phục vụ và chúng ta không ngạc nhiên chút nào khi biết rằng bây giờ và rất lâu về sau, nước Mỹ vẫn sẽ cung ứng cho nhân loại nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel nhất thế giới.

KINH NGUYỆN CỦA NHỮNG NGƯỜI CAO NIÊN

KINH NGUYỆN CỦA NHỮNG NGƯỜI CAO NIÊN

(được chuẩn ấn của TGM Montréal, 2.1983)

Lạy Chúa, đã hơn bảy mươi năm nay, Chúa ban cho con ân huệ được sống ở đời; và từ khi con sinh ra, Chúa đã không ngừng ban cho con tràn đầy ơn lành và tình yêu vô cùng của Chúa. Bao nhiêu năm nay, cùng chung số phận với mọi người, đời con trôi đi trong hân hoan xen lẫn phiền sầu, thành công xen lẫn thất bại, với bao bệnh hoạn và tang khó. Nhờ ơn Chúa phù hộ giữ gìn, con đã lướt thắng được các trở ngại và tiến lại gần Chúa. Ngày hôm nay, con cảm thấy được vô cùng an ủi, vì được Chúa ban cho có nhiều kinh nghiệm phong phú, và được Chúa chiếu cố đoái thương. Vì thế, linh hồn con không ngừng ca tụng tri ân Chúa.

          Tuy nhiên, hằng con gặp thấy quanh mình nhiều người cao niên mà Chúa đang thử thách nặng nề: Họ bị tê liệt, tàn tật, bất lực, và đôi khi không còn đủ sức cầu nguyện với Chúa; có những người mất hết mọi khả năng tinh thần, và trong một đời sống hư ảo vô thức, họ không còn thể tiếp xúc được với Chúa. Con nhìn ngắm họ và băn khoăn tự nhủ mình rằng: “Nếu tôi cũng bị như họ thì sao?”.

          Vì thế, lạy Chúa, ngày hôm nay, trong lúc còn được hưởng đủ mọi khả năng cử động và suy tư, con xin dâng lên trước việc sẽ chấp nhận vâng theo Thánh Ý Chúa; và ngay từ bây giờ con muốn rằng, sau này bất cứ gặp phải một thử thách nào như thế, con cũng xin dâng cho Chúa để làm vinh danh Chúa và cứu rỗi các linh hồn. Và cũng ngay từ bây giờ, con xin Chúa ban ơn phù trợ cho những người lúc đó sẽ lấy trách nhiệm giúp đỡ con.

          Nếu một mai bệnh tình xâm phạm tới trí óc con, khiến con mất sự minh mẫn, thì ngay từ bây giờ, trước mặt Chúa đây, con xin hứa trước sẽ vâng chịu, và vâng chịu trong trạng thái yên lặng kính thờ. Nếu mai này con bị chìm đắm trong tình trạng hôn mê kéo dài, thì con mong rằng mỗi giờ phút còn lại của đời con sẽ đều là những thời gian liên tục chúc tụng tri ân Chúa, và chớ gì hơi thở sau hết của con cũng sẽ là một hơi thở của lòng mến yêu. Con ước ao cậy trông rằng, vào giờ đó, con sẽ được Đức Mẹ nắm tay dẫn dắt đến trình diện trước Thiên Nhan để ca tụng ngợi khen Chúa muôn đời. Amen.

 

Kinh nguyện này được đọc trong thánh lễ tạ ơn của những người cao tuổi (trên 70) ngày chủ nhật 09.10.2016, tại nhà thờ Thánh Marcô, Montréal, Quebec, Canada.

Anh Hồ Công Hưng gởi

Đừng quên mảng tốt nơi mỗi người

CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY

Đừng quên mảng tốt nơi mỗi người

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

(Suy niệm Tin mừng Mác-cô 9, 2-10 trích đọc vào Chúa nhật II mùa chay)

Khi Chúa Giê-su tỏ cho các môn đệ biết Ngài phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn! (Mc 8,31).

Không lẽ cuộc đời của Thầy Giê-su lại kết thúc bi đát đến thế ư?

Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương lai huy hoàng khi được ngồi bên tả, bên hữu vua Giê-su trong vương quốc vinh hiển của Ngài, lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói sao! Nếu Chúa Giê-su mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ như thế nào đây?

Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phê-rô kéo riêng Chúa Giê-su ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián để Ngài đừng đón nhận sứ mạng đau thương ấy (Mc 8, 32) 

Củng cố tâm hồn ba môn đệ

Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giê-su đem các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an đi theo mình. Ngài đưa các ông … tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su” (Mc 9, 2-4).

Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phê-rô thưa với Chúa Giê-su rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”

“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài” (Mc 9,5-7).

Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giê-su trong giờ phút vinh quang của Ngài trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gio-an vững bước theo Chúa Giê-su đến cùng trên đường khổ nạn.

Hai mảng sáng- tối của đời người

Đời người thường có hai mảng sáng – tối đan xen nhau: có lúc thịnh thì cũng có lúc suy, có khi thành công cũng có khi thất bại, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.

Cuộc đời Chúa Giê-su cũng có mảng sáng, mảng tối. Mảng sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao; mảng tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm… Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mảng đen tối, u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giê-su bộc lộ nhân tính yếu đuối của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới, đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mảng sáng của Ngài trên núi cao, không thấy cuộc phục sinh vinh hiển của Ngài, thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng và sẽ đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh? Lấy ai loan báo Tin mừng cứu độ?

Vì thế, Chúa Giê-su cho các ông thấy mảng sáng của Ngài trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của mình, tỏ cho họ thấy Ngài là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi suy sụp khi chứng kiến cuộc khổ nạn đau thương sắp đến của Ngài.

Đừng quên mảng tốt

Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền xinh đẹp của nó, người ta sẽ thất vọng về nó.

Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải vinh dự của nó, thì người ta sẽ xem thường nó.

Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì người ta sẽ xem thường nó.

Đối với người chung quanh cũng thế. Cuộc đời mỗi người đều có mảng sáng và mảng tối. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mảng đen tối của một con người, mà quên đi mảng sáng tươi tốt đẹp trong đời họ; nếu chỉ nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ thất vọng về người đó.

Lạy Chúa Giê-su,

Nhờ chứng kiến cuộc hiển dung vinh hiển của Chúa trên núi cao, các môn đệ cảm thấy vững tâm hơn khi đối diện với cuộc khổ nạn đau thương của Chúa;

Nhờ nhìn ngắm vẻ đẹp của những đoá hoa hồng, người ta mới dễ dàng chấp nhận những gai nhọn đáng phàn nàn của nó;

Xin cho chúng con, trong tương quan với tha nhân, cũng biết nhìn vào mảng sáng, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những điều đen tối xấu xa nơi họ.

Nhờ đó, chúng con sẽ thấy những người chung quanh dễ thương hơn; tương quan của chúng con với mọi người sẽ được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng con với nhau sẽ hạnh phúc hơn.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Mơ khách đường xa, khách đường xa,

Suy Tư Tin Mừng Chúa Nhật Thứ 2 mùa Chay năm B 25/02/2018

Tin Mừng (Mc 9: 2-10)

 Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao. Rồi Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su. Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Êlia.” Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi.

Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì.

 &      &     &

“Mơ khách đường xa, khách đường xa,”

“Áo em trắng quá, nhìn không ra…”

(dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

– Mai Tá lược dịch.

 Khách đường xa, ra đi hôm ấy, có là khách lữ hành bàng quan vẫn cứ nhìn mà không thấy? Có thấy chăng Thầy Chí Ái đang hiển thị cùng ngôn sứ Êlya và Môsê chốn xa vắng, ở trình thuật?

Trình thuật, thánh Máccô, nay ghi về tình tự Chúa tỏ hiện ở chốn vắng xa, người không thấy. Thấy sao được, việc hiển thị thần thánh Chúa giãi bày tâm tư Ngài bước vào chốn cao siêu tỏ hiện, ở núi thánh. Nơi đó, có Chúa biến hình tỏ hiện cùng các Thánh. Nơi đó, còn có tiếng sấm từ trời cao gửi đến với dân con một thông điệp nghe rất rõ, chứng tỏ Ngài là Con Một của Chúa Cha. 

Hiển thị, không còn như hang đá lạnh buồn ngày Chúa Giáng hạ. Nhưng, là Phục Sinh quang vinh và ngày Ngài thẳng tiến về trời, thật hoành tráng. Quang vinh và hoành tráng, là chứng tích biểu tỏ sứ điệp vượt quá chuyện hằng ngày mà dân con đà chứng kiến, nhưng không hiểu. Sứ điệp hiển thị, vượt tầm hiểu biết của dân con mọi thời, tựa như Môsê từng thay đổi diện mạo khi diện kiến Giavê Thiên Chúa. Diện mạo Chúa hiển thị trên núi sáng rực như mặt trời. Áo Ngài rạng ngời tợ nắng thuỷ tinh, trinh khiết.

Tin Mừng nay cho thấy: đồ đệ Chúa tỏ ra kinh khiếp đến độ chẳng biết ứng xử ra sao cho thích hợp. Là thánh nhân, nhưng các ngài lại bắt đầu nói năng vụng về, đòi dựng ba lều lớn để Đấng Thánh Hiền trú ngụ nơi đó nhiều ngày. Chắc chắn một điều, là: đề nghị của đồ đệ hôm ấy là chuyện thường tình xảy đến mỗi khi con người mất quân bình cảnh giác, giống hệt người phàm ở ngoài đời.     

Cảm nghiệm về hiển thị, là chuyện xảy đến với dân gian mọi ngày ở đời thường, nhiều dẫn chứng. Từ những ấu bướm biến thành bướm sâu sầu buồn đời ngắn ngủi, cho đến cảnh người người ngạc nhiên hơn khi việc biến đổi/hiển thị xảy đến khi con trẻ được hạ sinh biến hình thành người mới, lúc chào đời. 

Về biến đổi/hiển thị, thánh Augustin cho rằng đó là nhiệm tích lớn lao hơn cả sự sống lại. Bởi, khi vào với thế giới qua tư cách của người mới trẻ trung vẫn cao cả hơn là về với sự sống, sau khi chết. Mỗi ngày và mọi ngày, người người vẫn trực diện nhiều biến đổi/hiển thị ngay trong đời. Hiển thị trong ta, là biến đổi sự sống rất tư riêng của chính mình. Là, dấu ấn rất giản đơn nhưng sâu đậm. Ngay bản vị con người cũng biến đổi/hiển thị hằng ngày về thân xác. Biến và đổi, vẫn là hình ảnh thay đổi về bản vị, thôi.

Rất nhiều lần, Đức Giêsu cũng có thời khắc yêu thương/nhận thức rất mực. Đó là thời khắc lúc Ngài tăng trưởng nơi bản thể rất người mà Ngài mặc lấy. Một trong những thời khắc dễ nhận thấy nơi Ngài là đặc ân/đặc quyền mà đồ đệ vui hưởng, tức sự hiện diện của Ngài ở vào thời khắc có một không hai ấy. Hiện diện, để nhận ra cuộc biến hình/đổi dạng ít khi thấy.  

Biến đổi/hiển thị dễ nhận thấy nhất là thời khắc Chúa thả bộ để đi vào với con đường thường tình mà loài người ít nghiệm sinh. Thả bộ chầm chậm là tư thế Chúa học hỏi nơi con người về một sự thể qua thử thách, sai sót xảy đến mỗi ngày. Hầu như mỗi ngày Ngài đều nhận ra điều mới mẻ của cuộc sống. Mới mẻ, nơi bản vị của Ngài. Mới mẻ, về người đời và đời người mà Ngài chấp nhận đưa vào với thiên tính. Đức Giêsu là con người thật có đủ mọi tình cảm bẩy thứ, rất bén nhạy.

Là Đức Chúa biến đổi thành người thường rất hiển thị, Ngài có được những thời khắc rất tinh tế về cả thương yêu, lo lắng, hãi sợ cũng như an vui, kinh ngạc, thích thú đến kích ngất. Mỗi lần tình tự của Người Con Chúa xuất hiện, Chúa đều thấy sự đổi đời ở bên trong. Mỗi ngày, Ngài đều khởi đầu một đổi mới/biến hình để trở thành bản vị biểu hiện cả nhân cách lẫn thiên tính, hợp ý Cha.

Thật ra, Đức Giêsu không là thần sứ linh thiêng gồm thiên binh/âm tướng chốn thiên đường. Mà, Ngài sống như một tiên tri cao cả thời Cựu Ước vẫn thể hiện nơi mình Ngài trong nhận thức đích thực về sự sống. Nhận thức ấy, Chính Chúa Cha đã tặng ban cho riêng Ngài. Nhưng, Ngài lại không giống như ngôn sứ/tiên tri có bản vị tựa như thế. Nơi Ngài, là sự thanh sạch ở nội tâm, chẳng mang nơi tâm địa cái gọi là “hội chứng xấu”. Ngài thích nghi trọn vẹn với thực tại loài người. Thực tại ấy, nằm gọn nơi niềm vui của bản vị “người”.

Ở đồng hoang chóp núi hôm ấy, Ngài biết rằng: Ngài hoàn toàn được Cha chấp nhận và trọn vẹn yêu thương như “người” thật cũng rất “người”. Với Chúa Cha, Ngài không là kẻ lạ đến từ hành tinh khác. Và Cha cũng chẳng tỏ ra xa lạ, đối với Ngài. Nói nôm na, thì bảo: đối với Cha, Ngài không là “bạn lâu lắm mới gặp”. Và, Chúa Cha cũng chẳng là “bạn lâu năm xa cách” nay trở lại với Ngài.

Quan hệ giữa Ngài với Cha và giữa Cha với Ngài, không là tương quan khi còn/lúc mất, khi trầm/lúc bổng. Nhưng là sự thật thể hiện nơi nhận thức giữa Ngài và Cha. Đức Giêsu nhận rõ Cha và muốn trở nên như Chúa. Chúa biết rõ Đức Giêsu và muốn trở nên như Ngài. Đây, đích thực là đổi thay/biến hình đang diễn tiến. Và, là diễn tiến hai chiều, rất thuận tiện. Bởi, Đức Giêsu đang mang trong mình đầy Thiên tính như Chúa và Chúa đang trở thành người thực như Đức Giêsu. Gọi đó là biến hình/hiển thị, hoặc nhập thể làm người, đều rất đúng. Điều rất đúng, nay biểu hiện/hiển thị nơi tiếng phát tự đám mây cho đồ đệ nghe thấy, vào buổi ấy: “Ngài là Con Chí Ái Ta, các ngươi hãy nghe lời Ngài.” (Mc 9: 9)

Ngay khi ấy, đồ đệ Thày chưa nắm bắt được ý nghĩa của câu nói. Nhưng cuối cùng, sau một thời gian dài theo chân Ngài, đồ đệ Chúa mới nhớ lại và nhận ra được điều ấy có nghĩa gì. Và một lần nữa, Đức Giêsu lại đã nhắc nhở dân con đồ đệ đừng loan truyền thông tin hoặc bàn luận gì về việc ấy cho đến ngày Ngài Phục Sinh, quang vinh. Và cuối cùng, các thánh cũng nhận ra được điều ấy.

Nhận ra điều ấy, cũng phải mất nhiều ngày dài trong Chay tịnh. Có khi còn lâu hơn. Kịp đến khi các ngài tin vào Lời Đức Giêsu và Lời của Cha, các thánh mới cảm nhận được kinh nghiệm quý báu này. Kinh nghiệm, là cảm được một nghiệm sinh quý giá mà chính Đức Giêsu và Cha Ngài đã chấp nhận và yêu thương các thánh cách trọn vẹn. Yêu thương và tận hưởng tư thế đồng hành với các ngài. Khi ấy, các thánh mới hiểu ra và yêu thương Đức Giêsu và Chúa của Ngài theo cách khác nhau, rất riêng biệt. Và các ngài cũng nhận ra được cuộc sống của các ngài sở dĩ đạt kết quả tức là đã biến hình/đổi dạng, rất hiển thị.

Và cuối cùng, các thánh cũng nhận ra rằng các ngài có thể làm như thế cho nhau, và cho mọi người. Mỗi khi các ngài hoàn toàn chấp nhận lẫn nhau, và/hoặc yêu thương bất cứ ai trong cộng đoàn Nước Trời của mình, thì động lực xúc tác lại sẽ bắt đầu hệt như thế. Chính đó là lúc, mối quan hệ giữa các ngài và mọi người cũng biến hình/đổi dạng, giống như Chúa. Và như thế, các ngài đã trở nên người anh, người chị có biến đổi, thành người mới.

Xem thế thì, Chúa nhật Biến Hình hôm nay chỉ là biểu hiện bất chợt thấy trước về Phục sinh quang vinh. Một thứ thư giãn buông lỏng sợ rằng Mùa Chay trở nên quá nặng nề với nhiều người. Đó là sứ điệp. Và, cũng là sứ vụ. Sứ điệp rằng, vì Đức Giêsu, nên dân con mọi người đều phải đổi thay. Sứ vụ là: nếu ta tin tưởng vào Đức Giêsu, ta là người có thể biến hình/đổi dạng thành người khác. Chỉ cần thật tình chấp nhận. Thật sự yêu thương. Và, quyết chí vui hưởng sự hiện diện của nhau, cách thực tình.

Vậy thì, mùa Chay này cũng nên tự hỏi lòng mình xem mình sẽ làm gì cho người khác. Có nên làm cho người khác biến hình/đổi dạng thành người mới không? Và, cũng nên tạo sự đổi mới cho chính mình, như một hiển thị, rất công minh, định hình, trong sáng.

Trong cảm nhận sự cần thiết biến hình/đổi dạng chính mình, cũng nên về với lời thơ mà ngâm lên:       

 “Mơ khách đường xa, khách đường xa,

Áo em trắng quá nhìn không ra…

Ở đây sương khói mờ    nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

(Hàn Mặc Tử – Đây Thôn Vỹ Dạ)

Áo em nay biến hình/đổi dạng thành mầu trắng đến độ anh nhìn không ra. Bởi, có nhìn vào cuộc đời mà đôi ta sống ở cõi trời đầy sương khói đến độ “mờ nhân ảnh” này, chỉ “tình ai có đậm đà”, mới là người tình nay biến đổi. Có biến và có đổi, suốt hành trình cuộc đời, mới là người thật được Chúa đồng hành, đỡ nâng, chấp nhận. Chấp nhận trong yêu thương, rất giùm giúp.  

 Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn

  – Mai Tá lược dịch.

 Vuisongtrendoi gởi

Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa

Chuyện phiếm đọc trong tuần thứ 2 Mùa Chay năm B 25-02-2018

 “Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa”

“Một chiều xuân em đã hẹn hò

Như ươm tình trong cánh hoa mơ,

Khơi hương theo làn gió

Em bảo rằng em viết thành thơ.”

(Châu kỳ – Đón Xuân Này Nhớ Xuân Xưa)

(Mc 1: 12-15)

 Trần Ngọc Mười Hai

Cứ đón cứ đưa, rồi lại nhung nhớ những xuân xưa, thật cũng khó. Khó hơn cả, là làm sao đưa tình tự này vào đúng với ngày vui của mọi người, không phải Xuân. Khó hơn nữa, lại là khúc nhạc rất “Marie sến” năm xưa nhưng nay vẫn ăn khách nên đã lọt vào tầm tay người viết chuyện Đạo đời, cũng rất “phiếm”.  Thôi thì, có khó thế nào đi nữa tưởng cũng đạt. Bởi, mọi người như bạn  và tôi đây, đôi khi lại cũng thích đôi ba câu nhạc xưa ấy đến bây giờ.

Sở dĩ, bần đạo bầy tôi đây bảo rằng: “đó là yêu cầu thời thượng “rất bây giờ”, là bởi nghe đâu có nhiều vị đang làm cái chuyện gọi-là: trở về với giòng nhạc “Sến” cũng thấy lạ. Thôi thì, trước khi đi vào vấn-đề bàn bạc chuyện thần-học với học về thần, lại mời bạn và tôi, ta nghe câu hát tiếp, để xem sao. Câu rằng: 

“Đón Xuân này tôi nhớ Xuân xưa.

Hẹn gặp nhau khi pháo giao thừa.

Em đứng chờ tôi dưới song thưa.

Tôi đi qua đầu ngõ.

Hỏi nhau thầm Xuân đã về chưa.

Xuân đến xuân đi, xuân về gieo thương nhớ.

Xuân qua để tôi chờ.

Xuân đến xuân đi, xuân về mơn lá hoa,

Xuân qua rung đường tơ.

 Bước sông hồ như đắm như mơ.

Trở về đây khi gió sang mùa.

Mong ước tìm cô gái Xuân xưa, cho vơi bao niềm nhớ.”

(Châu Kỳ – bđd)

Thôi thì, có nhớ xuân này hay xuân xưa, cũng chỉ là “niềm nhung nhớ” về chuyện gì đó, như chuyện rất “nhà Đạo” chẳng hạn, tưởng cũng nên coi đó như nguồn hứng thú để bạn và tôi, ta liên-tưởng đến những chuyện xa xôi, vời vợi, những thử và thách thời chay/kiêng qua bài suy-niệm rất thần-học như sau:

Trình thuật thánh Máccô được trích vào ngày đầu Mùa Chay, có đôi giòng chảy viết về thử thách với khuyến dụ khiến Đức Giêsu đi vào sự thinh-lặng những 40 ngày/đêm. 40 đây, là con số biểu tượng chỉ thời gian cũng rất dài. Dài ngày. Dài tháng. Như cuộc sống của Chúa, vẫn thấy có khuyến dụ kéo dài ngày cho đến lúc Ngài giáp mặt sự thật trên đồi Calvariô. Thử thách cùng khuyến dụ, đã đưa Chúa đi vào chốn choá ngợp ở đời thường để rồi dẫn dụ Ngài gia nhập chính Mình Ngài vào ngợp choáng ấy. 

Quả là thế! Chúa choáng ngợp với khuyến dụ trở thành Đấng Mêsia, mà mọi người trông đợi. Choáng đến ngợp, khi Ngài buộc phải đặt mình trước cảnh tình quyết đối đầu, hầu có quyết định cho đúng. Choáng và ngợp, trước quyết định hành động sao cho hợp ý Chúa Cha. Choáng rồi ngợp, trước chọn lựa những 3 cách thế để thể hiện vai trò được Cha giao phó. Cách đầu, là quyết tham gia vào chốn quyền bính ngõ hầu có thể kình chống người La Mã, cũng khá khó. Cách thứ hai, là hoà nhập với người đương thời, để rồi sẽ thống trị mọi người ở chốn dân gian, trần thế.        

Chọn cách này, Ngài sẽ có thể giải quyết chuyện đói nghèo do vua quan/lãnh chúa người La Mã từng tạo ra. Thử thách và khuyến dụ như thế, là lòng ham muốn tự giải quyết hết mọi việc ở thế giới, nhất thứ là chuyện kinh-bang-tế-thế, hầu tạo nên cuộc sống rất tốt lành cho mọi người.

 Và thử thách cùng khuyến dụ cuối, vẫn cứ như thánh hội, là: nhắm mắt làm ngơ chẳng cần biết sự thể ở đời sẽ ra sao. Ra sao thì ra, vẫn cứ lặng thinh đi vào chốn linh thiêng thần thánh những là ê a kinh kệ để rồi sẽ lại giao hết cho Cha nhờ giải quyết. Đó là 3 thử và thách rất khuyến dụ thấy rõ ở trình thuật được thánh Mátthêu ghi chép.

 Thử và thách cùng khuyến dụ dễ thấy nhất là những thử và thách cùng dụ dỗ về quyền bính. Là, cung cách mà người La Mã khi xưa sử dụng để hòng thống trị kẻ dưới trướng. Người La Mã xưa, vẫn muốn tạo khó dễ để bổ lên đầu kẻ dưới trướng. Bổ như thế, sẽ khiến họ lại trông mong có được đấng cứu tinh nào đó khả dĩ đem họ ra khỏi mọi thứ bất ưng, vẫn kéo dài. Có lẽ, giới thống trị La Mã khi ấy đã bất lực trong sử dụng quyền thế cách sai sót, để rồi người người ở dưới vẫn phải ngóng trông đấng bậc nào khác đầy uy lực đến thay thế.

 Với thử thách cùng khuyến dụ này, Giêsu Đức Chúa không những chỉ trích cung cách mà vua quan cùng lãnh chúa người La Mã sử dụng quyền bính tối cao để cai trị; Ngài cũng còn đả phá cả quyền uy/thế lực là những thứ mà Ngài chẳng bao giờ muốn tạo lấy cho Ngài. Chúa chọn cuộc sống thấp hèn không mang nặng quyền uy vật chất để Ngài có thể hoà mình với người thấp bé, chẳng khi nào có được quyền uy thế lực cũng rất mực, chốn trần gian.

 Thử thách/khuyến dụ thứ hai tỏ cho Chúa, là lòng ham muốn giải quyết tệ trạng đói nghèo của thế gian. Rõ ràng vào thời Chúa sống, trạng huống này từng xảy đến. Hầu như 95% người dân Galilê vẫn sống dưới mức độ những khó cùng nghèo. Tức: họ không đủ cơm ăn áo mặc hằng ngày mà còn thiếu cả đức tính tự tin vào bản lãnh cũng như tư cách của chính họ. Thêm vào đó, là: tình trạng đau yếu, chết yểu vẫn cứ diễn ra khó lòng mà giải quyết.

 Những khó khăn này, đều do vua quan lãnh chúa trần gian như Hêrôđê tạo nên bằng vào chương trình xây dựng các đền đài bề thế, khiến dân con ở dưới đã nghèo lại còn gặp nhiều uẩn khúc. Nhằm thực hiện những mưu đồ như thế, vua quan ở đời lại đã phải bổ thêm thuế má đánh trên đầu dân con thiên hạ. Thử và thách cũng như khuyến dụ đây, là tìm cho ra đấng bậc vị vọng nào khả dĩ có thể dấy lên một cuộc cách mạng để chống nạn nhũng lạm quyền thế, cùng uy tín. Chính đó là lý do để người người trông chờ Đấng Thiên Sai mau đến mà cứu vớt họ.

 Thử và thách thức cuối, là: gạt sang một bên những chuyện thực tế ở đời để rồi chỉ nghĩ chuyện siêu thăng phụng thờ và tế tự. Rồi tự nghĩ: bằng vào quyền sinh sát mình tự phát, sẽ có thể buộc Chúa phải dính dự vào với suy nghĩ cùng quyết định của riêng mình hầu giải quyết cho dân con của Ngài. Thử thách và khuyến dụ ở đây, hôm nay, còn là sử dụng chốn kinh kệ/phụng thờ mà cầu Chúa ra tay giải quyết hết mọi khó khăn đang diễn ra. Người Do thái thời trước, từng sống với những thử và thách giống như thế.

 Thử và thách, là khuyến dụ mình chỉ sống đời thiêng liêng/linh đạo, hơn sống cho ý định của Chúa Cha. Đức Giêsu đã nhận ra chính những thử thách và khuyến dụ như thế, là chúa tể để có thể dám tự mình gạt qua một bên ý định rất thực của Chúa. Thế nên, Ngài mới không chọn đường lối kinh kệ/sùng Đạo như đám Pharisêu từng thêm vào luật tế tự. Trái lại, Ngài đích thực tuân theo ý định của Cha, chứ không phải ý tư riêng của Ngài.

 Hội thánh hôm nay cũng đang sống cùng một cảnh tình rất tương tợ. Cảnh tình, có thử và có thách thức cùng những khuyến dụ, hệt như thế. Cảnh tình, là cảnh của đấng bậc chỉ biết sống ở trên cao, những muốn người của Giáo hội phải biết ganh đua với thế trần. Ganh và đua, hầu đoạt lại quyền uy thế lực từng để mất trong chính trường, ngoài xã hội, là nơi chốn mang nhiều ảnh hưởng lên dân chúng. Thông thường thì, người người thấy Hội thánh cứ ganh đua với cơ quan từ thiện ở nhiều nơi. Vẫn muốn người đời nể trọng mình vì mình cũng từng ban phát ân huệ, tài chánh và bổng lộc cho nhiều người.

 Thường thấy hơn, rõ ràng hôm nay người người đều thấy thánh hội mình chỉ lo chuyện linh thiêng chốn tháp ngà nhiều mây tầng vần vũ. Lo rồi, còn bắt Chúa đồng thuận mà tuân theo qui định do thánh hội mình đề ra. Hội thánh hôm nay cũng gặp cùng một thử thách cũng như khuyến dụ bằng nhiều cách, giống hệt như Đức Giêsu vào thời trước. Tức, cũng nghĩ rằng Chúa Thánh Thần uỷ thác cho mình làm mọi chuyện theo ý của nhóm hội phe đảng cầm quyền, chứ không là ý định của Cha. Bởi, ý của Cha luôn là ý kiến và quyết định mời thánh hội theo đường khổ ải, trầm lắng chứ không sống đời ồn ào, những là phô trương lực lượng. 

 Chúng ta cũng thế. Ngày nay, ta vẫn muốn trở thành dân con đặc biệt được Chúa tuyển chọn. Tức: những người có khả năng chỉnh sửa mọi thứ, cả những thứ mình không có thẩm quyền cùng chức năng,  trọng trách. Nói tóm lại, những nghĩ mình có khả năng giải quyết hết mọi chuyện trong huyện/ngoài đời dù nhiều lúc không được Cha uỷ thác. Dù, nhiều khi chính mình cũng không rành rẽ, bằng người đời.

 Nhiều lúc, Hội thánh những muốn lôi kéo Chúa vào với lập trường rất riêng tư của một nhóm người chưa thành thánh, vẫn muốn dân con Đạo mình luôn ở bên trên. Trên mọi cơ chế, hoặc tôn giáo khác. Trên mọi sự. Hơn mọi người. Chính vì lý do này, mà một số người trong Đạo ngoài làng, nay bớt tin vào thánh hội của Chúa, dù vẫn tin vào tình thương của Ngài đối với mọi Đạo. Mọi người.

 Nhiều lúc, Hội thánh cũng đối xử với con dân trong Đạo như khách lạ người dưng, cùng lắm chỉ như kẻ đứng ngoài dự khán, không hơn không kém. Thế nên, mới bỏ giờ ra mà thêm thắt cho diện mạo Đạo mình thêm phần hấp dẫn. Chính vì thế, nên người người mới không thấy được ý nghĩa của cuộc sống đích thực, trong Đạo. Không còn mong đợi Hội thánh giúp mình sống xứng hợp với Lời của Chúa. Lời, làm sống dậy như Chúa từng khuyên dạy.

 Nhiều vị trong thánh hội của ta, vẫn sống cuộc đời phụng tự, cũng rất thật. Nhưng, quá đặt nặng hình thức rất lễ nghi, chỉ muốn điệu võ dương oai, nên đôi lúc hiểu sai ý nghĩa niềm tin rất thực. Nói tóm lại, dân con Hội thánh nay có lúc đặt quá nặng phần hình thức với diễn trình, cốt để khuyến dụ nhiều người vào Đạo, và theo Đạo. Phải chăng, đó cũng là thử và thách rất khuyến dụ, thời hôm nay.

 Nếu quả có thế, cũng nên nguyện cầu cho thánh hội mình có lại cơ hội lướt thắng chính mình, mà hồi hướng trở về với con đường chính mạch do Đức Giêsu vạch ra. Hội thánh nói ở đây vẫn là mỗi người và mọi người trong thánh hội Công giáo rất La Mã, chứ không chỉ là cơ chế mạnh mẽ, rất Vaticăng.”

 Nguyện cầu cho Hội thánh của Chúa, là nguyện và cầu trong tâm tưởng có những lời ghi chép một dặn dò khi xưa rằng:

“Sau khi Đức Giêsu chịu phép rửa Thần Khí liền đẩy Người vào hoang địa. Người ở trong hoang địa bốn mươi ngày, chịu Xatan cám dỗ, sống giữa loài dã thú, và có các thiên sứ hầu hạ Người.

 Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1: 12-15)

Thử thách và nguyện cầu thật liên-tu bất-tận, để rồi có được những tâm-trạng chịu được tất cả. Chịu đựng, để cùng chung một tâm-trạng như Đức Giêsu từng chịu vào hồi ấy, cũng không ít. Thử thách và nguyện cầu, để rồi sẽ bất chấp mọi sự mà cùng vui với người vui, khổ với người khổ, trong mọi sự.

Nguyện cầu thật lâu và thật nhiều, rồi cứ theo cơn trầm-thống, trỗi dậy mà ngẩng đầu lên rồi cũng sẽ vui vẻ với mỗi người và mọi người, qua truyện buồn/vui đầy kể lể gọi là “Câu chuyện của cha xứ vùng Angevin giúp chúng ta tập trung vào điều thiết yếu” như sau:

Có ai chưa bao giờ bực mình vì ca đoàn hát sai, vì linh mục giảng quá dài, vì người bên cạnh dám nghe điện thoại cầm tay không? Cám dỗ quá lớn đối với một số người, họ tức tối và bỏ nhà thờ ra đi không trở lại! Linh mục Matthieu Lefrançois, cha xứ họ đạo Thánh Antôn ở Angers tìm được một bài trên Facebook của “Giáo hội Công giáo Guinea” để kêu gọi chúng ta chỉ tập trung nhìn Chúa Kitô.

 “Một thanh niên trẻ đến gặp một linh mục và nói:

– Thưa cha, con không đi nhà thờ nữa!

Linh mục hỏi:

– Vậy à, con có thể cho cha biết lý do không?

Người thanh niên trả lời:

– Lạy Chúa tôi, ở đây con thấy cô này nói xấu cô kia; anh đọc Sách Thánh đọc dở; ca đoàn vừa chia rẽ vừa hát sai; người đi xem lễ chỉ chăm chăm nhìn điện thoại, đó là không nói đến ngoài nhà thờ họ là những người ích kỷ, cao ngạo…

Linh mục nói với anh:

– Con có lý. Nhưng trước khi dứt khoát rời nhà thờ, con có thể làm cho cha việc này: con rót một ly nước đầy, rồi đi quanh nhà thờ ba vòng mà không làm đổ một giọt. Sau đó, con có thể bỏ nhà thờ.

Người thanh niên tự nhủ: quá dễ!

Và anh đi ba vòng như cha xứ dặn. Đi xong, anh về nói với cha:

– Rồi, con đi xong rồi.

Linh mục hỏi:

Khi con đi, con có thấy cô này nói xấu cô kia không?

Người thanh niên trả lời:

– Thưa cha không.

Con có thấy người này người kia thờ ơ với nhau không?

Người thanh niên:

– Thưa cha không.

Con có thấy người này người kia chúi mũi vào điện thoại không?

Người thiên nhiên:

– Không, con không thấy.

– Con có biết vì sao con không thấy không: Vì con tập trung để ly nước không bị đổ. Con biết… cuộc đời cũng vậy. Khi tâm hồn chúng ta tập trung vào Chúa Kitô, thì chúng ta không có thì giờ để nhìn các sai lầm của người khác. Ai ra khỏi nhà thờ vì các kitô hữu đạo đức giả thì chắc chắn họ cũng không vào nhà thờ vì Chúa Giêsu”.

 Nghe kể thế rồi, thiết tưởng bạn và tôi, sẽ không còn lý do gì để phàn nàn hoặc than-phiền về cuộc đời người lắm thứ chuyện lỉnh-kỉnh chẳng ra làm sao, nhưng vẫn chấp-nhận, để còn sống những ngày cuối cuộc đời mình, cũng vui tươi, san-sẻ với mọi người.

Nhận-định thế rồi, nay xin đi vào kết-đoạn của mục “phiếm-luận” dài giòng, chẳng ra làm sao. Nhưng vẫn mong bạn bè chấp-nhận cái sự thể “chẳng ra làm sao” ấy cho an-bình cuộc đời, của riêng tôi.

 Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ xin bạn bè

Những chuyện lẩm cẩm

Đến độ thế.

Vuisongtrendoi gởi

Lịch sử VN đã 13 lần đại thắng giặc Tàu xâm lược.

Phan Thị Hồng is with Hoang Le Thanh and Đào Nguyên.

Lịch sử VN đã 13 lần đại thắng giặc Tàu xâm lược.

Trong mấy ngàn năm qua, đặc biệt từ khi tộc Hoa du mục hiếu chiến thành hình ở phương Bắc, từ năm 1046(trước tây lịch), người Tộc Việt chuyên trồng lúa nước, hiếu hòa, ở phương Nam, luôn bị giặc Hoa cướp bóc, xâm lăng.

Không kể những cuộc xâm lấn nhỏ, đã có 13 lần phương Bắc xua đại quân xâm lấn phương Nam, đặc biệt Việt Nam. Nhưng trong tất cả 13 lần đó, Dân Việt đều đại thắng các đoàn quân Phương Bắc.

Đã mười ba lần, Dân ta đại thắng !

LẦN THỨ 1: (1218 TTL = Trước Tây lịch) –

ĐỨC PHÙ ĐỔNG ĐẠI THẮNG GIẶC ÂN.

Theo sách vở Trung Hoa, năm 1218 trước tây lịch, Ân Cao Tôn đã đánh Quỷ Phương, vùng Đồng Đình. Ân Cao Tôn đóng quân tại đất Kinh, phía tả ngạn sông Dương Tử. Sau 3 năm, Ân Cao Tôn ‘không thắng’. [Nhà Ân còn được gọi là Nhà Hậu Thương]. 
Theo Truyền kỳ Phù Đổng của Việt Lạc, Ân Cao Tôn đã xâm lấn nước ta ba năm và đã bị đánh bại.

* Như thế, theo Truyền kỳ Phù Đổng, cách đây 3200 năm, dân Việt Lạc đã là một quốc gia vững mạnh. Nước nầy đã có tổ chức chặt chẽ, có vua quan, có làng xã, có cúng tế, có lúa gạo, có vải áo, có lũy tre… đã đúc được ngựa sắt, roi sắt, đã có tinh thần dân tộc cao độ… và, theo sách vở Trung Hoa, đã chiến thắng giặc Ân vào thời kỳ hùng mạnh nhất của chúng.

[Vào thời kỳ nầy, tộc Hoa chưa thành hình. Phải hơn 100 năm sau, bộ lạc Chu mới gom góp các bộ lạc du mục khác ở vùng Thiểm Tây, và thành lập Nhà Chu. Từ đó, tộc Hoa mới thành hình và phát triển].*1

LẦN THỨ 2: (214 TTL) – ĐẠI THẮNG GIẶC TẦN

Năm 214 ttl, Tần Thủy Hoàng, vị vua đầu tiên của Trung Hoa, sai tướng Đồ Thư kéo 50 vạn quân xâm lăng vùng đất Việt Lạc. Nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Quảng Đông. Đây là đoàn quân tinh nhuệ vừa giúp Tần Thủy Hoàng đánh chiếm sáu nước và thành lập nước Trung Hoa. 
Nhưng mấy năm sau, Đồ Thư đã bị quân Việt đánh bại, quân giặc chết quá nửa, Đồ Thư bị giết.*2

Theo cách hành quân của Trung Hoa, mỗi người lính đem theo một phu phục dịch. Số người vận chuyển lương thực cũng không được kể là lính. Vì vậy, số người Trung Hoa xâm nhập có thể nhiều gấp 3 lần con số quân lính được kể tới, dầu là con số trung thực.

LẦN THỨ 3: (181 TTL) – ĐẠI THẮNG GIẶC TÂY HÁN

Năm 181 TTL, triều Hán sai Long Lân hầu Chu Táo kéo quân sang xâm phạm Lĩnh Nam, đánh Nam Việt. Theo sách vở Trung Hoa, quân Hán không chịu được thủy thổ phương Nam, nhiều người phải bịnh tật, bởi vậy phải thua chạy về bắc.

Sau đó, triều Hán xét việc Nam chinh không lợi, nên không đánh nữa (!).*3

LẦN THỨ 4: (40 DL) – TRƯNG NỮ VƯƠNG ĐẠI THẮNG GIẶC ĐÔNG HÁN & TÁI CHIẾM TOÀN THỂ VÙNG ĐẤT LẠC VIỆT

Năm 30 dl, Hán Quang Vũ áp đặt chế độ trực trị trên vùng đất Việt Lạc. Do đó, toàn dân Việt vùng lên kháng chiến, và bầu Đức Trưng Trắc là Thủ Lãnh. Sau 10 năm, Dân ta đã đánh đuổi toàn bộ quân Tàu ra khỏi vùng đất Việt Lạc, chiếm lại 65 thành.

Thời gian qua, sách sử Trung Hoa đã giảm thiểu vùng đất và sức mạnh của dân Việt thời đó. Ngày nay, đã có đủ chứng cứ xác định vị trí, tình hình và vùng đất bao la của việc quân dân Việt đánh chiếm lại 65 thành, và đánh bại đại quân hùng hậu của hoàng đế Quang Vũ nhà Hán.

Thời đó, vùng đất Việt Lạc nay là Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông, Hải Nam, và một phần Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Giang Tây, Phúc Kiến của Trung Hoa, xuống tới Hải Vân… Và Hán Quang Vũ đã phải vận dụng toàn thể binh lực của ‘thiên triều’.

Đức Trưng Nữ Vương đáng được tôn hiệu ĐAI ĐẾ ĐỒNG ĐÌNH LĨNH NAM.*4

LẦN THỨ 5: (541 DL) – NAM VIỆT ĐẾ LÝ BÔN ĐẠI THẮNG GIẶC LƯƠNG

Năm 541 dl Đức Nam Việt Đế, húy là Lý Bôn, đánh đuổi quân trú đóng Trung Hoa, giành độc lập. Năm 544 xưng là Nam Việt Đế, niên hiệu Thiên Đức, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân. Lập ra Nhà Tiền Lý.

Đây là lần đầu tiên sách sử Trung Hoa ghi lại quốc hiệu và niên hiệu của dân ta. Nhà Tiền Lý kéo dài 61 năm, từ 541 tới 602 dl.*5

LẦN THỨ 6: (938 DL) – NGÔ NAM ĐẾ NGÔ QUYỀN ĐẠI THẮNG GIẶC NAM HÁN

Từ năm 906 dl, Đức Khúc Thừa Dụ đã giành quyền tự trị khỏi tay người Trung Hoa. Truyền được 3 đời.

Năm 938, vua Trung Hoa Nam Hán sai thái tử là Hoằng Tháo kéo quân xâm lấn. Với trận cọc gỗ bọc sắt trên sông Bạch Đằng, Đức Ngô Nam Đế, huý là Ngô Quyền, đã đại thắng quân Hán, giết chết thái tử Hoằng Tháo. Hoàng đế Nam Hán là Lưu Cung cũng kéo quân tiếp ứng theo đường bộ. Nghe tin, ông khóc và rút về.*6

LẦN THỨ 7: (981) – LÊ ĐẠI HÀNH ĐẠI THẮNG GIẶC TỐNG (LẦN1)
Năm 981 dl, vua Tống sai tướng Hầu nhân Bảo kéo quân xâm lấn, theo hai đường bộ và thủy. Vì vua nước ta là Đinh Tuệ mới 8 tuổi, nên quân sĩ tôn tướng Lê Hoàn lên ngôi, tức là Đức Lê Đại Hành. Với một trận Chi Lăng, quân ta phá tan đoàn quân Tàu, giết Hầu nhân Bảo. Đoàn quân giặc theo đường biển vội vàng rút lui.*7

LẦN THỨ 8: (1076) – LÝ NHÂN TÔN, DANH TƯỚNG LÝ THƯỜNG KIỆT ĐẠI THẮNG GIẶC TỐNG (LẦN 2)

Năm 1072 dl, vua Lý nhân Tôn lên ngôi. Vì vua mới 7 tuổi, nên việc quân đều ở trong tay danh tướng Lý Thường Kiệt.

Năm 1075, Lý thường Kiệt và Tôn Đản kéo 10 vạn quân tái chiếm vùng châu Khâm, châu Liêm và châu Ung, [vốn thuộc vùng đất Việt Lạc], nay thuộc Quảng Đông, Quảng Tây.

Năm 1076, vua Tống sai Quách Quì và Triệu Tiết kéo hơn 30 vạn quân sang xâm lấn Nước ta. Nhưng chúng bị đánh tan ở sông Như Nguyệt. Giặc Tàu kéo tới hơn 30 vạn, chỉ còn 2 vạn 8 trở về !*8

LẦN THỨ 9: (1258) – TRẦN THÁI TÔN ĐẠI THẮNG GIẶC MÔNG CỔ (LẦN 1)

Năm 1254, quân Mông Cổ đánh chiếm nước Đại Lý, ở vùng Vân Nam. Mông Cổ đương thời là đế quốc to lớn và hùng mạnh nhất thế giới, chìếm đóng từ Á sang Âu.

Năm 1257, từ Vân Nam, tướng Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqatai) đem 3 vạn quân Mông Cổ và hơn 1 vạn quân Đại Lý tấn công Đại Việt, chiếm Thăng Long, đốt phá và giết mọi người trong thành. [Ngột Lương Hợp Thai là công thần thứ 3 của Nhà Nguyên, từng tham gia các trận đánh chiếm nước Kim, nước Đức, Ba Lan, Bagdad, và diệt nước Đại Lý].

Vua Trần thái Tôn lo sợ, hỏi ý kiến Trần Thủ Độ. Trần thủ Độ khẳng khái : “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin Bệ Hạ đừng lo !”.

Chỉ mấy ngày sau, vua Trần thái Tôn dẫn quân phản công, đánh thắng quân Mông Cổ trong trận Đông Bộ Đầu. Trên đường rút lui, quân Mông Cổ còn bị quân ta chận đánh tan tành ở vùng Qui Hóa.*9

LẦN THỨ 10: (1284) – TRẦN NHÂN TÔN, DANH TƯỚNG HƯNG ĐẠO VƯƠNG ĐẠI THẮNG GIẶC MÔNG NGUYÊN (LẦN 2)

Năm 1271 Hốt Tất Liệt (Khubilai) trở thành Đại Hãn của đế quốc Mông Cổ, đổi quốc hiệu thành Nguyên. Năm 1279, quân Nguyên chiếm trọn đất Trung Hoa. Đế quốc Mông Cổ bao trùm 40 quốc gia từ Á sang Âu.

Năm 1284, Hốt Tất Liệt sai con là Thoát Hoan (Toghan), cùng với các danh tướng Toa Đô (Suodu), Ô Mã Nhi, kéo 50 vạn quân xâm lăng Đại Việt. Quân Nguyên còn có thủy binh từ Chiêm Thành đánh lên. Khi đó, toàn thể quân Đại Việt chỉ có 20 vạn.

Trước tình hình nguy biến, nhiều người muốn hàng hoặc tìm kế hoãn binh. Nhưng các tướng Trần Quốc Tuấn và Trần Khánh Dư cương quyết xin đem quân trấn giữ.

Vua Trần Nhân Tôn liền triệu tập các bô lão trong dân tại điện Diên Hồng để hỏi ý kiến. Toàn thể đồng thanh xin Đánh.

Trước thế giặc quá mạnh, quân ta phải rút về Vạn Kiếp. Ở phía Nam, quân Nguyên từ Chiêm Thành cũng đã chiếm Nghệ An. 
Vua Nhân Tôn lại lo sợ, ‘muốn hàng để cứu muôn dân’. Nhưng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đáp : “Bệ Hạ nói câu ấy thật là lời nhân đức. Nhưng Quê hương Dân tộc thì sao ? Nếu Bệ Hạ muốn hàng, xin chém đầu tôi trước đã !”

Thoát Hoan dùng đại bác bắn phá, và vào được Thăng Long. Triều đình ta chạy về Thanh Hóa. 
Khi đó tướng Trần Bình Trọng bị bắt. Thoát Hoan dụ hàng và hỏi : “Có muốn làm Vương không ?” Trần Bình Trọng quát to :

“Ta thà làm quỷ Nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc !”

Tháng 5 năm 1285, tướng Trần Nhật Duật phá được quân Toa Đô ở cửa Hàm Tử.

Sau đó, tướng Trần Quang Khải đưa quân đi thuyền từ Thanh Hóa ra đánh tan quân Nguyên ở bến Chương Dương, rồi dùng phục binh chiếm lại Thăng Long. 
Đức Hưng Đạo Vương thì đem quân đánh ở Tây Kết, và giết được Toa Đô. Quân ta bắt được 3 vạn quân Nguyên và vô số chiến thuyền, khí giới.

Hưng Đạo Vương lại sai phục kích chận mọi đường quân Nguyên có thể rút lui, và tự mình dẫn đại quân lên Bắc Giang đánh Thoát Hoan. Quân Nguyên thua chạy, tới bến Vạn Kiếp bị phục kích, chết quá nửa. Thoát Hoan trốn thoát về Tàu.

Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, in năm 1697 dl, quân Nguyên kéo qua 50 vạn và sáu tháng sau, chỉ còn 5 vạn rút về.*10

LẦN THỨ 11: (1287) – TRẦN NHÂN TÔN, DANH TƯỚNG HƯNG ĐẠO ĐẠI THẮNG GIẶC MÔNG NGUYÊN (LẦN 3)

Cuối tháng 12 năm 1287, Thoát Hoan lại theo hai đường thủy bộ, kéo thêm 50 vạn quân xâm lấn, với hơn 800 chiến thuyền, cùng với đoàn tàu 100 chiếc chở lương thực. [Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư]. Phía Đại Việt có khoảng từ 20 tới 30 vạn quân.

Quân Nguyên chiếm được Thăng Long, nhưng sợ bị cắt đường liên lạc, nên tập trung ở Vạn Kiếp. Bộ chỉ huy của Đại Việt rút về vùng Đồ Sơn, Hải Phòng.

Tướng Trần Khánh Dư đưa quân phục ở bến Vân Đồn và phá tan đoàn thuyền lương.

Tháng 3 năm 1288, cạn lương, Thoát Hoan sai Ô mã Nhi mở đường theo sông Bạch Đằng. Hưng Đạo Vương lại dùng kế đóng cọc bịt sắt xuống sông Bạch Đằng (như Đức Ngô Quyền năm 938 dl).

Với trận Bạch Đằng, quân ta tiêu diệt hoàn toàn thủy quân của giặc Nguyên. Nghe tin thủy quân tan vỡ, Thoát Hoan kéo chạy về qua vùng Bắc Giang và Lạng Sơn, và cũng bị quân Đại Việt chận đánh tan tành.*11

LẦN THỨ 12: (1428) LÊ THÁI TỔ ĐẠI THẮNG GIẶC MINH

Năm 1406, giặc Minh kéo quân xâm lấn nước ta. Nhà Hồ thua. Giặc Minh, với Trương Phụ, bắt đầu chính sách đồng hóa dân ta với dân Tàu…

Năm 1418, nông dân Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam Sơn, Thanh Hóa, tự xưng là Bình Định Vương, gởi hịch kể tội giặc Minh và nêu rõ mục đích đánh đuổi quân giặc cướp nước.

Năm 1426, sau 8 năm gian khổ, với nhiều lần nguy cấp, Bình Định Vương thắng trận Tụy Động, và bao vây thành Đông Quan, Thăng Long.

Cuối năm 1427, giặc Minh lại đưa thêm 2 đạo quân sang đánh Đại Việt. Đạo quân do Liễu Thăng cầm đầu với hơn 10 vạn lính, 2 vạn ngựa. Đạo quân do Mộc Thạnh dẫn 5 vạn lính và 1 vạn ngựa. Nhưng tại Chi Lăng, quân ta giết Liễu Thăng, phá tan toàn bộ quân tiếp viện của giặc, bắt sống hơn 3 vạn quân Tàu. Mộc Thạnh nghe tin, bỏ chạy. Quân Nam theo đánh, giết hơn 1 vạn giặc Minh.

Nghe tin, Vương Thông đang chiếm đóng Đông Quan [Thăng Long], viết thư cầu hòa, và xin cho chúng rút quân về Tàu. Số tù binh, hàng binh và vợ con được thả về Tàu lên hơn 10 vạn người.*12

LẦN THỨ 13: (1789) – QUANG TRUNG HOÀNG ĐẾ ĐẠI THẮNG GIẶC MÃN THANH.

Năm 1788, Tôn Sĩ Nghị kéo 20 vạn quân Nhà Thanh, chia làm 3 đạo, tiến đánh Đại Việt, chiếm đóng Thăng Long.

Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đang ở Huế, được tin, tính chuyện tiến đánh. Quan quân xin Ngài lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu là Quang Trung. Đức Quang Trung kéo quân ra tới Nghệ An, nghỉ 10 ngày để mộ thêm lính. Tất cả được 10 vạn quân và 100 con voi.

Đức Quang Trung cho ăn Tết sớm, đêm 30 sẽ kéo quân đi, và hẹn ngày mùng 7 Tết sẽ ăn Tết lại tại Thăng Long. Trận đánh thần tốc đã phá hết các đồn giặc, đến nỗi chúng không kịp báo tin cho nhau. Chỉ trong mấy ngày, quân ta đánh chiếm từ Giản Thuỷ, tới Phú Xuyên, Hà Hồi, Ngọc Hồi…

Sáng mùng 5 Tết, quân ta vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị không kịp mặc giáp, lên ngựa tháo chạy. Giặc Tàu chạy theo, chết đuối chật sông Hồng. Các đạo quân giặc ở phía Bắc cũng tất tả rút chạy. Tất cả đều chỉ trong 5 ngày.*13

TỔNG KẾT SƠ KHỞI

Như vậy, chỉ kể những lần Trung Hoa xua đại quân xâm lấn Nước Nam, dầu sách vở Trung Hoa đã giấu bớt quân số vì bị thất trận, tổng số các đoàn quân xâm lăng Trung Hoa đã có hơn 40 danh tướng, hằng ngàn đại tướng, và hơn 450 vạn quân sĩ. [Theo con số thông thường, tức là hơn 4.500.000 giặc]. Đang khi đó, kể cả dân số, tài nguyên, quân sĩ, phương tiện chiến đấu… dân ta không bao giờ tương xứng với quân Trung Hoa xâm lược. 
Nhưng bất cứ lần nào, Đại Việt cũng đại thắng

1. TRUNG HOA: TÊN KHỔNG LỒ CHIẾN BẠI

Điểm đáng chú ý là trong 900 năm vừa qua, trong khi Việt Nam đánh bại mọi cuộc xâm lăng của Trung Hoa, thì chính Trung Hoa lại bị Kim, Mông, Mãn,Âu, chiếm đóng và thống trị.

Đáng chú ý hơn nữa, tuy tình hình thay đổi tùy thời, nhưng trong tất cả những lần xâm chiếm Trung Hoa đó, từ Kim, đến Mông, Mãn… lần nào thực lực xâm lấn, kể cả dân số, lãnh thổ, sản lượng, kỹ thuật, chiến cụ, quân đội… cũng đều không bằng một phần mười của Trung Hoa đương thời. 
Nhưng Trung Hoa đã luôn là kẻ chiến bại.

Ngoài ra, những nhóm người man di và ít oi đó, lại thống trị Trung Hoa vĩ đại tổng cộng hơn 500 năm.

Kim 108 năm (1126-1234 dl),

Mông 134 năm (1234-1368 dl),

Mãn 267 năm (1644-1911 dl), 
trong đó có 72 năm chung với Âu (1839-1911 dl).

Trong suốt hơn 5 thế kỷ đó, kể cả hiện nay, người dân Trung Hoa buông xuôi, khuất phục, còn giới nho sĩ Trung Hoa lại chỉ biết phủ phục tuân lịnh ‘vị Thiên tử’ ngoại xâm để thẳng tay hành hạ và đàn áp người dân.

Thực vậy, Trung Hoa luôn là tên khổng lồ chiến bại.

Nguyên nhân chính là ách thống trị của bọn ‘thiên tử, thiên triều’ tham tàn bạo ngược, đã biến người dân Trung Hoa thành những tên nô lệ đói ăn truyền kiếp.

Trong suốt 3000 năm qua, hơn 99% người dân Trung Hoa chì là những tên nô lệ đói khát, tự ti, khiếp nhược, không lý tưởng, không nhân phẩm, chỉ biết tham lợi bất chấp thủ đoạn.

2. ƯU THẾ CỦA CHÚNG TA

Hơn nữa, trong tất cả mọi cuộc chiến chống Phương Bắc, Tổ Tiên chúng ta đã chỉ tự sức chiến đấu đơn độc một mình. Các Ngài đã không có bất cứ một yểm trợ nào do bất cứ từ đâu tới.

Nhưng bất cứ lần nào, Việt Nam cũng đại thắng Trung Hoa ! Tất cả 13 lần, đều đại thắng.

Về phần chúng ta, hiện nay, chúng ta lại đang được yểm trợ từ khắp nơi. Trước hiểm họa Trung Hoa bành trướng, xâm lăng, trộm cướp, gian manh, phá hoại các nền kinh tế, lũng đoạn các thể chế… mọi người, mọi dân nước trên toàn thế giới, đều sẵn sàng tiếp tay chúng ta triệt hạ mối họa chung là Giặc Trung Hoa. Bạn hữu chúng ta lại nhiều ưu thế hơn Giặc Tàu.

Với bất cứ giá nào, ở bất cứ phương diện nào, các cường quốc hiện đại không thể nhường Trung Hoa cưỡng đoạt vị thế hùng mạnh nhất thế giới, nhất là khi toàn thể binh lực Trung Hoa cũng không bằng một phần nhỏ các hạm đội đối nghịch…

Hơn nữa, toàn thể dân Việt hiện nay, ở khắp làng xóm hang cùng ngõ hẻm, đều nôn nức vùng lên chiến đấu Đánh Giặc Tàu. Tinh thần dân tộc và đoàn kết chưa từng bộc lộ rõ ràng và mạnh mẽ như hiện nay.

Mọi người đều sẵn sàng. 

Cũng phải kể thêm mấy triệu người Việt trên thế giới cũng đang sẵn sàng đóng góp nhân lực, tài lực, vật lực, và nhất là trí lực, chuyên môn, kiến thức, kỹ thuật, kinh nghiệm, và ảnh hưởng… ở mọi lãnh vực ngoại giao, chính trị, kinh tế, tài chính, quân sự, xã hội…

Tất cả đều được huy động tối đa để Đánh Giặc Tàu !

CHÚNG TA CŨNG SẼ ĐẠI THẮNG GIẶC TÀU LẦN THỨ 14.

Ảnh: Cọc Bạch Đằng giang

Image may contain: outdoor
 

ÎLE DE LUMIÈRE. Phim, NICOLAS JALLOT thực hiện. 64 minutes

 
Nguyễn Công Lý and Thư Hiên Vũ shared Từ Thức‘s post.
Image may contain: ocean, sky, cloud, outdoor, water and nature

Từ Thức

ÎLE DE LUMIÈRE.

Phim, NICOLAS JALLOT thực hiện. 64 minutes

Dưới đây là toàn bộ cuốn phim Île de Lumière nói về chiếc tàu ‘’ Đảo Ánh Sáng ‘’ của Pháp đã cứu hàng chục ngàn thuyền nhân VN .

Phim dài 64 phút, do Nicolas JALLOT thực hiện, vừa trình chiếu trên đài truyền hình quốc gia Pháp France 2 .

Cuốn phim thuật lại cuộc vận động đóng tàu Ile de Lumière được dân Pháp ủng hộ nhiệt liệt. Chỉ trong 15 ngày, bác sĩ Bernard Kouchner đã nhận được đủ ngân khoản từ khắp nơi gởi về, đủ nhân viên tình nguyện để mang chiếc tàu từ Nouméa ( Nuvelle Calédonie ) tới đảo Poulo Bidong, Mã Lai Á , làm một nhà thương nổi, sau đó trở thành một tàu cứu cấp người vượt biển lâm nạn.

Chưa bao giờ nước Pháp có một chương trình nhân đạo được toàn dân ủng hộ nhiệt thành như vậy. Các trí thức, nghệ sĩ, ký giả nổi danh thuộc mọi khuynh hướng chính tri đứng tên trong Uỷ ban ”Một con tàu cho VN”. Hai triết gia hàng đầu của Pháp, Raymond Aron, phe hữu, Jean Paul Sartre, phe tả, tạm ngưng cuộc bút chiến gay gắt từ 30 năm đã bắt tay nhau, vào điện Elysée, yêu cầu tổng thống Valéry Giscard d’Estaing đón tiếp thuyền nhân. 

Trong năm đầu, nước Pháp đã đón nhận gần 130.000 thuyền nhân. Số người Việt, Miên, Lào được Pháp được đón nhận những năm sau đã lên tói 300.000 .
Trong nhiều tháng trời, cả nước Pháp theo dõi tàu Ile de Lumière, xúc động với những tai hoạ của người vưọt biển. 

Báo chí cho đó là thảm kịch bi thảm nhất trong lịch sử cận đại. Những lời tường thuật của những người bất chấp cái chết, đói khát, bệnh tật, hải tặc cướp bóc, hãm hiếp, tàn sát, vượt biển tìm tự do là một mũi thuốc ngừa vĩnh viễn cho cả một thế hệ vẫn còn mơ tưởng ‘’ xã hội chủ nghĩa ‘’ kiểu Cộng Sản

Hàng triệu người đã vượt biển tư do, trên một phần ba đã bỏ mạng trên biển cả. Các nhân chứng trong phim cho hay khi phong trào vượt biển lên cao, các nước láng giềng đã đóng cửa, không cho thuyền nhân cập bến. Những chiếc thuyền mỏng manh chở đầy người, cả đàn bà trẻ em lênh đênh ngoài khơi. Nhiều người đã vứt con dại lên tàu vì không đủ tiền mua chỗ cho cả gia đình. 

Chỉ còn một hòn đảo duy nhất nhận nhận thuyền nhân là đảo Poulo Bidong, ( Pulau Bidong ) cách Mã Lai 3 giờ đưòng tàu. Trong vài tháng, dân số đảo từ 3000 lên tới 30.000 người sống, hay chết, chồng chất lên nhau, và trở thành địa ngục trần gian, hay, theo Bernard Kouchner, ” capitale de l’horreur ” ( kinh đô của sự ghê rợn )
Nicolas Jallot đã tìm gặp những nhân chứng, từ bác sĩ Bernard Kouchner, thuyền truởng François Herbelin và bà Herbelin, một thuyền nhân VN cũng như một số thuyền nhân đã được Ile de Lumière cứu thoát. 

Những người Pháp tham dự chương trình nói suốt đời sẽ không bao giờ quên được một ‘’ đại hội huynh đệ ‘’ như vậy. Bác sĩ Eric Cheysson nói sau đó, họ không thể trở lại đời sống bình thường. Eric Cheysson tiếp tục các chương trình nhân đạo, hiện nay là chủ tịch ” La Chaine de l’Espoir ”( Sợi giây Hy Vọng )

Cựu thuyền nhân Lý Văn Lưu, ngày nay là một bác sĩ chuyên khoa nói ông đã sống trong địa ngục, hàng tuần nhịn đói, phải uống nưóc tiểu trên thuyền trước khi sống trên đảo Poulo Bidong, phải nằm trên phân người, trên nước tiểu, phải chờ 8 giờ để được hai chai nước.

Khi tới Pháp, được ăn một bữa cơm ngn nhất trong đời. Bác sĩ Lưu nói : được cấp 100 quan ( francs ) tiền túi, tôi không bao giờ dám tiêu tờ giấy bạc tưong trưng cho tình hữu nghị 

Cuốn phim chiếu lại những cuộc tranh luận sôi nổi trong giới trí thức về thực trạng của chiến tranh VN. Người tố cáo sự bạo tàn của Cộng Sản dữ dội nhất là triết gia André Gluckmann, một cựu ” maoiste ” ( đệ tử của Mao ) nổi tiếng. Tàu Ile de Lumière và boat people đã đánh dấu một sự thay đổi lớn trong xã hội Pháp, trong tư duy của trí thức 

Giới trí thức, như bà Fanfan Gluckmann nói trong phim, vỡ mộng ”thế giới đại đồng ”, dân chúng thấy thiên đường CS là địa ngục. 

Đảng Cộng Sản Pháp, trước đó là một trong hai chính đảng lớn nhất của Pháp, trở thành một đảng bỏ túi, ngày nay chỉ còn dưới 2% số phiếu bầu. 
Ile de France cho tới nay vẫn là mối hãnh diện của dận tộc Pháp, vì đã nói lên khía cạnh nhân bản của nước Pháp

https://www.france.tv/…/412981-infrarouge-l-ile-de-lumiere-…

  •  
    Nguyễn Công Lý shared Từ Thức‘s post.  

    Xin tạ ơn nước Pháp và người dân pháp !
    Chúng tôi những thuyền nhân tỵ nạn cs như được tái sinh nhờ lòng nhân đạo của người dân nước Pháp nói riêng và thế giới nói chung.

    Điều này chứng tỏ rằng thế giới đã không chấp nhận, xa lánh, đã loại bỏ CNCS từ lâu. Chỉ còn một đám vô thần cuồng cộng mới ôm chặt nó chỉ vì ích lợi cho bè đảng của chúng.

NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI CỘNG SẢN CHÂU Á

Trần Bang shared Võ Hồng Ly‘s post.

Những trò đánh lén, đánh hội đồng, những mẹo vặt, những trò gây khó trong thăm hỏi xã giao, kỳ thị, ghen ghét quá khứ… chỉ là biểu hiện của mặc cảm thấp kém, tự ty, nhân cách chưa trưởng thành của người CS.

 
Image may contain: 4 people, people standing and suit
Image may contain: sky and outdoor

Võ Hồng Ly added 2 new photos.Follow

21.02.2018

Bài viết của FB Bong Lau : NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI CỘNG SẢN CHÂU Á

Hai ngày qua tin tức lan tràn về mật vụ Trung Cộng làm khó dễ phái đoàn của TT Trump khi viếng thăm Tử Cấm Thành vào tháng 10 năm rồi. Mặc dù Chủ Tịch Tập Cận Bình đã đón tiếp Donald Trump rất trọng thể từ trước đến nay.

Tóm tắt câu chuyện như sau : Sau khi TT Trump bước vào khu vực Tử Cấm Thành lập tức mật vụ Trung Cộng chận đoàn tùy tùng của Tổng Thống Mỹ lại. Trong đoàn tùy tùng có một sỹ quan tùy viên xách theo một va li màu đen gọi là “trái banh nguyên tử” (nuclear-football) bên trong có chứa mật mã và các thủ tục kích hoạt một cuộc phản công bằng võ khí nguyên tử.

Vị sĩ quan này phải luôn luôn hiện diện cạnh Tổng Thống Hoa Kỳ để cuộc phản công nguyên tử phải chớp nhoáng tính từng giây từng phút trước khi hỏa tiễn mang đầu đạn nguyên tử của đối phương bay đến chạm nổ trên nước Mỹ.

Mật vụ Tàu chận đoàn tùy tùng lại không cho theo chưn TT Trump. Nhưng không may cho mấy chú Trung Cộng, người cầm đầu đoàn là John F. Kelly, Chánh Văn Phòng Bạch Cung, cựu Tướng 4 sao của binh chủng TQLC.

John F. Kelly ra lịnh “Chúng ta hãy tiến vào”. Nhưng một mật vụ Tàu xông đến chụp lấy vai ông Đại Tướng TQLC. Ông này đẩy chú Tàu ra. Lập tức một mật vụ Hoa Kỳ chận và vô hiệu hóa ngay chú Tàu này (tackle).

Về sau chính quyền Hoa Lục đã chính thức xin lỗi Hoa Kỳ về sự xô xát đáng tiếc ấy chỉ vì sự “hiểu lầm” (misunderstanding).

Đây không phải là sự hiểu lầm mà là sự cố tình làm khó dễ để thử thách nước Mỹ. Tổng Thống Hoa Kỳ khi đi công du ở các quốc gia trên thế giới thì các cơ quan an ninh Hoa Kỳ phải phối hợp với cơ quan an ninh sở tại để bảo vệ quốc khách và tạo cuộc viếng thăm trôi chảy thành công.

Mật vụ Tàu biết rất rõ cái va li đựng mật mã và thủ tục kích hoạt chiến tranh nguyên tử không thể xa rời Tổng Thống Hoa Kỳ. Nhưng họ vẫn cố tình làm khó dễ. Như họ đã không chịu cung cấp cầu thang cho chiếc máy bay Air Force One chở TT Obama làm vị Tổng Thống Mỹ hòa nhã lịch sự này phải chui ra cửa đít máy bay.

Đối với văn hóa của người Tàu chơi trò tiểu nhân làm nhục vị nguyên thủ của một cường quốc là chứng tỏ được sức mạnh và uy thế của mình. Nhưng đối với văn hóa Tây phương đây là hành động trẻ thơ có nhiều mặc cảm và bất an.

Muốn biết được văn hóa dị biệt của người Tàu và Âu Mỹ thì hãy tìm hiểu nền giáo dục cho tầng lớp thiếu nhi của 2 xã hội Đông – Tây này.

Xã hội Trung Hoa đã quen với các câu chuyện kiếm hiệp với các thủ thuật đánh lén, phóng ám khí, đầu độc và uýnh hội đồng. Sau khi đối thủ chết thì tiếp theo sau là những cuộc trả thù tàn bạo lẫn nhau không bao giờ chấm dứt. Văn hóa Á Đông không có nhiều bao dung tha thứ.

Trẻ em xã hội Âu Mỹ thì bị tiêm nhiễm loại văn hóa đấu kiếm hay đọ súng tay đôi (duel). Hai đối thủ cùng bước rồi quay đầu trực diện bắn vào nhau vì danh dự của mình. Văn hóa Âu Mỹ là sự minh bạch và thẳng thắng. Người Mỹ không thích đánh lén và đánh hội đồng.

Khi tôi đi thăm Hà Nội gần cổ thành Thăng Long thấy có trưng bày chiếc máy bay trực thăng Chinook của VNCH. Sau đuôi máy bay lá cờ vàng 3 sọc đỏ có 2 gạch chéo lên. Sự trẻ thơ này đã làm tôi mỉm cười. Những người bạn Mỹ khi coi hình này cũng ngạc nhiên và mỉm cười.

Trả thù những cái không còn hiện hữu nữa không nói lên sức mạnh mà chỉ phô trương sự mặc cảm, nhỏ nhoi, và bất an của mình. Tương tự trường hợp làm khó dễ không cho cái va li nguyên tử đi tháp tùng Tổng Thống Hoa Kỳ hay bắt TT Obama chui ra cửa hậu máy bay.

Những đòn phép này chỉ nói lên nhân cách thiếu trưởng thành của người Cộng Sản Á châu.

XIN ĐỪNG QUÊN FORMOSA ĐANG GIẾT DÂN TỘC VIỆT NAM .

Hangnga Lê shared Trang Nguyen‘s post.

 

No automatic alt text available.
Image may contain: beach, ocean, outdoor and water
Image may contain: food
Image may contain: outdoor

Trang Nguyen added 4 new photos.Follow

 

XIN ĐỪNG QUÊN FORMOSA ĐANG GIẾT DÂN TỘC VIỆT NAM .

Hiện tượng cá lại chết bất thường tại bờ biển Kỳ Phương – Kỳ Anh – Hà Tĩnh… (nằm Cạnh cty Formosa Hà tĩnh...

Hôm qua vào lúc 6h45’p ngày 20/2/2018 (tức ngày mùng 5/1 Âm Lịch) người dân gx Đông Yên phát hiện được 1 con “CÁ VOi ” có chiều dài hơn 2m – nặng gần 100kg trôi dạt vào bờ biển và có thêm 1 số cá nhỏ chết quanh đó….

Theo người dân cho biết thì chú “Cá Voi” này chết và trôi dạt vào Bờ Biển này gần 1 tuân rồi nhưng vì là những ngày TẾT người dân không ra Biển nên ko mấy ai biết và để ý..

Không chỉ những ngày nghỉ “TẾT” mà còn cả những ngày thường…Người dân phát hiện ngoài Xả Khói lên bầu trời chưa qua xử lý thì ở dưới môi trường biển Cty Formosa vẫn hoạt động và xả thải 1 cách bình thường – không có ý định ngưng xả thải ra môi trường biển..

Nguồn Giới Trẻ Giáo Xứ Đông Yên.

Billy Graham, ‘America’s pastor,’ dead at age 99

Mục sư Billy Graham, một trong những mục sư nổi tiếng nhất của Hoa kỳ đã từng giảng thuyết cho khoảng 215 triệu người thuộc 185 quốc gia trên thế giới, nếu tính con số khán thính giả truyền thanh truyền hình của ông thì con số có thể lên đến 2 tỷ người, và liên tục là cố vấn hay mục tử cho 12 đời tổng thống Hoa kỳ, ông vừa từ trần ở tuổi 99 với 70 năm sống đời mục sư. Theo Viện thăm dò Gallup, MS Billy Graham đứng thứ 7 trong danh sách những nhân vật nổi tiếng nhất của thế kỷ XX..

 
About this article

 

 
Evangelist Pastor Billy Graham, who boasted a career of more than 70 years and was one of the most admired men of the past century, has died at age 99, according to church sources.
 
NBCNEWS.COM|BY NBC NEWS
 

Sân bay Tân Sơn Nhất là nỗi ám ảnh kinh hoàng của toàn thể người Việt Hải ngoại

 Van Pham‘s post.
 
 
 
Image may contain: one or more people
No automatic alt text available.
Image may contain: 1 person, standing and indoor

Van Pham added 3 new photos.

 

Hôm nay đã là mùng 5 Tết. Từ thời điểm này, bà con Hải ngoại về VN ăn Tết nhiều người chuẩn bị trở về quốc gia mình đang cư ngụ để đi làm, đi học. Thì đây cũng là thời điểm bà con dễ dàng bi trấn lột, cướp trắng trợn từ lũ Hải quan, lẫn nhân viên hãng Hàng không Air VN.

Bởi sân bay Tân Sơn Nhất là nỗi ám ảnh kinh hoàng của toàn thể người Việt Hải ngoại và người nước ngoài khi đến và đi. Họ thường chỉ xử dụng luật rừng ở đây….
************

Hải quan Việt Nam chơi luật rừng, xử ép Người Việt Hải ngoại!!!

Phải công nhận là người Việt Nam rất giỏi hành hạ người Việt Nam.

Sau đây là những chia sẻ đang được rất nhiều lượt share từ cộng đồng mạng về vấn đề làm tiền và luật rừng nhân viên sân bay Việt Nam:
” Ai đời còn 10 phút nữa máy bay cất cánh. Bị nguyên 1 đám chặn lại ngay cửa bắt đóng phạt vì hành lí xách tay quá kg, hoặc phải quăng đồ lại, không được phép đưa cho người thân.

Nghĩ mình cũng sai nên hỏi đóng phạt, họ nói 75$/1kg. 5kg x 75$=375$. (trong khi mua 1 kiện hành lí 23kg chỉ tốn 170$).

Mình hỏi vậy có hoá đơn không? Họ nói không.

Nhân viên người nước ngoài của hãng nói cho mình đi vì trễ rồi nhưng đám hải quan Viêt Nam nhất quyết không đồng ý.

Nghĩ sắp trễ giờ bay nên phải ngậm ngùi quăng lại hơn 5kg đồ vô rổ của bọn họ. Mình lại hỏi,vậy đồ em quăng lại ai sẽ là người lấy. Họ nói đừng quan tâm.

Tui đi rất nhiều nước trên thế giới, chưa từng thấy tình trạng bị chặn ngay cửa máy bay để làm tiền như vậy !

Sân bay Tân Sơn Nhất là nỗi ám ảnh kinh hoàng của toàn thể Việt kiều và người nước ngoài khi đến và đi. Họ thường chỉ chơi luật rừng ở đây.

Khi từ Mỹ về Việt Nam! Tui mang hành lí xách tay nặng gần 19kg (chủ yếu là quần áo từ thiện). Phía bên Mỹ họ rất vui vẻ, thậm chí còn gợi ý cho tui gửi free để khỏi xách nặng tay.

Nói ra ở đây là chỉ trích thói làm tiền và hạch sách của sân bay nước mình. Chứ tui sai, nói chuyện đàng hoàng, phạt đúng luật tui vẫn vui vẻ chấp hành chứ đừng chơi trò ép dân, xin đểu như vậy.

P/s: Chưa từng thấy nước nào xách nguyên cái cân điện tử để trước cửa máy bay như vậy. Máy bay của Dubai, người Dubai ko nói tiếng nào, cho đi. Người việt nam hành hạ đồng bào như vậy đó. “

Đây là ý kiến cá nhân của tác giả
***************

Khách Tây đóng bỉm cho balo khi đến sân bay Việt Nam?

Gần đây trên các trang mạng Facebook vừa lan truyền chóng mặt một hình ảnh được cho là ở Việt Nam. Trong đó, khách du lịch phải bọc lại balo khi làm thủ tục nhập cảnh vào Việt Nam để chống lại việc ăn cắp hành lý.

Ảnh minh họa

Cũng có một số ý kiến cho rằng hình ảnh trên không phải ở Việt Nam mà là ở Singapore, vì theo quy định ở Singapore, các hành lý vượt quá cân nặng quy định đều bị đem vào máy yêu cầu bọc lại. Tuy nhiên, ý kiến trên cũng chỉ là phỏng đoán.

Nếu thực sự hình ảnh trên ở sân bay Việt Nam thì khá “đẹp mặt”, tiếng tăm ăn cắp hành lý của khách du lịch của chúng ta đã vang khắp thế giới.

https://videos.files.wordpress.com/g5BmIPke/img_0476_dvd.mp4

Tâm tình với chồng Mỹ vợ Việt David và Tuyết Brown

 

Tâm tình với chồng Mỹ vợ Việt David và Tuyết Brown

Trở về sau chuyến trở về Việt Nam mới đây, ông David Brown, cựu nhân viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tại VN và vợ là bà Tuyết Lê nói thấy ‘xã hội còn bề bộn’ nhưng ‘khá tốt so với 15 năm trước’ trong dịp thăm văn phòng BBC.

“Một số người bạn ngoại quốc của tôi đến Việt Nam thăm thì họ hỏi “Đâu, chỗ nào cộng sản đâu?”, họ nghĩ nước này cũng khá tốt”, bà Tuyết Lê (tên thật là Bạch Tuyết) nói.

“Nếu nói về cuộc sống có tiến bộ không thì người Việt Nam lúc nào cũng cởi mở, muốn hiểu biết về bên ngoài, muốn tìm cơ hội làm việc. Tôi thấy có tiến bộ.”

“Khi tôi nói chuyện với người dân, cái họ lo sợ nhất là hình như đất nước đang ngừng lại một chút trong sự tiến bộ. Khi tôi hỏi họ làm thế nào để tốt hơn, dân Việt Nam đỡ khổ hơn thì họ nói phải có đa đảng. Cái đó tôi hơi ngạc nhiên.”

Ông Brown lại băn khoăn nhiều hơn về vấn đề tham nhũng.

Ông nói ‘Việt Nam đang gặp thách thức’ và ‘sẽ bị hạn chế’ nếu ‘không giải quyết được tham nhũng.’

“Có người hy vọng Tổng Bí thư sẽ có kết quả tốt với chính sách chống tham nhũng của ông”, ông Brown nhận định.

Câu chuyện đến đây chuyển qua chuyện riêng của hai người.

Khi bà Tuyết Lê Brown kể chuyện, ông David Brown thi thoảng nhắc các thông tin còn thiếu bằng tiếng Việt giọng Nam trôi chảy và ngược lại.

Vợ chồng bà thay phiên nhau kể về mối tình dài gần 50 năm của mình và trải nghiệm mới mỗi lần về Việt Nam thời gian gần đây.

Chi tiết nào người này không nhớ, quay qua hỏi thì người kia bổ sung chi tiết.

Trong suốt buổi nói chuyện, cựu nhân viên ngoại giao Mỹ luôn nhìn vợ bằng ánh mắt trìu mến.

Ở tuổi ngoài 60, bà Tuyết Lê dường như vẫn giữ được nguồn năng lượng dồi dào.

Kết hôn năm 17 tuổi rồi qua Hoa Kỳ định cư gần 50, năm nào bà Tuyết Lê Brown cũng về Việt Nam dạy học.

Để trở thành giảng viên môn Tâm bệnh như hôm nay, bà Tuyết Lê đã vượt qua nhiều định kiến của xã hội Mỹ đối với người Việt di tản để vừa nuôi con, vừa làm đủ nghề, rồi học lên cao học.

“Hai năm vừa rồi khi trở về dạy ở Đại học Nhân văn tôi được khen là nói tiếng Việt rất khá rồi, mừng quá”, bà Tuyết Lê nói. Giọng bà sôi nổi, như không có bóng dáng của tuổi tác đi qua.

Còn ông Brown thì nói: “Toàn quốc hết sức vui vẻ vì bóng đá Việt Nam đã được vào chung kết (U23 châu Á). Lúc đó không có tuyết thì sẽ thắng. Ở Việt Nam mọi người đang chuẩn bị ăn Tết, không khí rất vui.”

Ông Brown về hưu đã 20 năm nhưng vẫn làm việc cho một tổ chức phi chính phủ của Viện Hàn lâm Hoa Kỳ.

Ông bà còn tham gia một dự án dạy các em học sinh trung học địa phương các vấn đề môi trường.

Mỗi năm vào mùa đông, ông Brown và bà Tuyết Lê đều trở về Việt Nam gặp bạn bè và ‘tìm hiểu thêm những vấn đề đang xảy ra ở Việt Nam hiện thời’.

“Chúng tôi vẫn nhớ Việt Nam”, ông Brown nói.

Cặp đôi Tuyết Lê-Brown và David Brown là hai khuôn mặt quen thuộc của cộng đồng mạng, cả ở Mỹ và Việt Nam.

Hai ông bà được biết đến với câu chuyện tình lãng mạn thời chiến tranh Việt Nam.

Đó là khi chàng thanh niên David Brown, 22 tuổi, nhân viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, được cử đến Việt Nam năm 1965 khi chiến tranh bắt đầu leo thang.

Tại đây, ông gặp bà Tuyết Lê, người phụ nữ của đời mình, khi đó mới 17 tuổi, tại Biên Hòa.

“Hồi ấy còn nhỏ lắm, nhưng tôi đã để ý đến David vì đôi mắt xanh, dáng người cao lớn, và vì lối phát âm tiếng Việt rất chuẩn”, bà nhớ lại.

Một lần sau giờ làm, chàng thanh niên David Brown đánh bạo ngỏ ý muốn chở cô Bạch Tuyết về nhà. Cô gái trẻ gật đầu bằng lòng sau vài giây suy nghĩ.

Buổi chiều cô Bạch Tuyết ngồi sau xe gắn máy chàng trai người Mỹ cao lớn đã gắn chặt cuộc đời hai người với nhau.

Nhưng ban đầu không dễ để ‘cưa đổ’ thân phụ cô Bạch Tuyết.

David cuối tuần nào cũng tới nhà Tuyết hầu chuyện thân phụ cô vài tiếng hồng hồ, chủ yếu nói về chính trị. Ông Brown cho biết lúc đó chỉ mong được thấy bóng Tuyết mang trà ra mời.

“Gia đình tôi rất cổ hủ”, bà Tuyết Lê nhớ lại.

“Bố mẹ không cho phép có bạn trai, nhất là bạn trai ngoại quốc. Người ta nghĩ người ngoại quốc chỉ có tinh dục chứ không có tình nghĩa như người Việt Nam. Nếu một cô gái Việt Nam đi với một người ngoại quốc thì sẽ nghĩ cô ấy làm ở bar hay cái gì đấy.”

“Có một số người bạn ba mẹ nói nếu không có tiền thì chúng tôi cho, chứ đừng cho con trong tay người ngoại quốc. Lúc đó có một gia đinh Việt Nam khá có tiền hỏi cưới tôi cho con trai họ.”

“Về sau ba tôi đưa ra ba điều kiện cho David: Phải có gia đình bên Mỹ qua hỏi cưới theo đúng phong tục Việt Nam. Thứ hai David phải theo đạo thiên chúa. Thứ ba nếu có con phải cho con theo đạo thiên chúa.”

“Lúc đó không có email , David gọi điện thoại về Mỹ để xin phép. Lúc đó bố David mới mất một năm trước. Mẹ David đồng ý qua dù với người Mỹ tình trạng lúc đó ở Việt Nam rất kinh khủng.”

“David cũng đồng ý đi học đạo thiên chúa.”

Hôn lễ của hai người được cử hành vào tháng 6/1969, một thời gian ngắn trước khi David Brown được chuyển về lại Hoa Kỳ.

‘Bí quyết hôn nhân’

Trong khi bà Tuyết Lê thường được nhìn nhận là ‘rất Mỹ’ từ phong thái, phục sức đến phát âm tiếng Anh thì ông David lại ‘rất Việt Nam’. Ông nói giọng Sài Gòn không chê vào đâu được.

Ngày Tết, ông thường thích có món thịt kho, dưa muối và bánh Tét.

Bà Tuyết Lê nói có những khác biệt về văn hóa trong đời sống hôn nhân. Chẳng hạn như việc bà phải gửi tiền về giúp gia đình nhưng ông Brown không hiểu điều này.

Cả hai cãi cọ nhiều vì bà Tuyết Lê xem đó là điều hiển nhiên trong văn hóa Việt Nam trong khi ông Brown thấy ‘không hợp lý tý nào’.

Cuối cùng, bà Tuyết Lê chọn cách thuyết phục chồng bằng tự lập.

Bà bán hàng ở một tiệm quần áo đàn ông, rồi sau đó làm ở một tiệm bán vải. Mới vài tuần đã được khen thưởng là nhân viên tốt.

Bà còn vừa chăm con, vừa học thêm để lấy cho xong bằng cao học trong ngành y tế tâm thần.

“Tuyết khiến tôi xấu hổ và đồng ý giúp đỡ gia đình cô ấy”, ông Brown thừa nhận.

“Tuyết có lẽ là người đàn bà Việt Nam tuyệt vời nhất mà tôi gặp, thông minh, tràn đầy sức sống, bướng bỉnh, không cho phép cuộc đời đánh bại mình.”

Ông bà David Brown nay định cư ở thành phố Fresno, California. Ông bà có hai con gái, một người tốt nghiệp Ðại Học Harvard, người kia tốt nghiệp Brown University.

Bà Tuyết Lê-Brown hiện là một Tham Vấn Tâm Lý Lâm Sàng.

Ông David Brown hiện là chuyên gia viết những bài phân tích về chính trị cho các tờ Asia Times, Asia Sentinel, East Asia Forum.

Lúc rảnh, ông vợ nấu ăn, làm vườn, đi chợ.

Trả lời câu hỏi về bí quyết hôn nhân, bà Tuyết Lê nói ‘tình dục phải tốt’, ‘độc lập về tài chính’ và ‘phải nhường nhịn nhau’.

“Tôi thường nhường nhà tôi 60%”, bà Tuyết Lê không quên nhấn mạnh.

 
About this article

 
Ông bà David, Tuyết Lê-Brown nói về một Việt Nam ‘còn bề bộn nhưng tiến bộ hơn’ sau chuyến trở về mới đây.
 
BBC.COM