*** Vì sao dân không còn tin vào cách xử lý của “chính quyền”? 1. Khi thảm họa môi trường xẩy ra thì “chính quyền” đã làm gì? A/ Tìm mọi cách che dấu thủ phạm gây ra thảm họa môi trường.
B/ Tổ chức các hoạt động tuyên truyền mị dân để che đậy hiểm họa sức khỏe cho dân chúng.
C/ Tổ chức ngăn chặn, đàn áp hoạt động biểu tình phản đối môi trường ô nhiễm.
C/ Lừa bịp thương nhân mua trữ cá nhiễm độc, làm nhiều doanh nghiệp nghề cá phá sản.
2. 42 năm độc quyền mà vẫn chưa chuẩn hóa hoạt động giao tiếp với người dân. Thích mời là mời, thích triệu tập là triệu tập. Thích thì bắt bớ giam cầm, bức cung, nhục hình, tra tấn vô tội vạ.
3. Quyền biểu tình, quyền tự do ngôn luận, tự do tiếp cận thông tin, lập hội lập nhóm của người dân bị xâm hại.
4. Sản xuất quá nhiều chủ trương, chính sách, văn bản luật và dưới luật để “chính quyền” tự do hành xử kiểu luật rừng.
5. Dùng quyền lực chính trị để bảo kê cho hoạt động đặc quyền kinh doanh. Đặc biệt là mọi cty, tổng cty, tập đoàn kinh tế nhà nước đều thua lỗ và bắt dân gánh chịu hàng núi nợ công.
6. Tự đặt ra hơn 432 loại thuế, phí, phụ phí, phụ thu nhằm vắt kiệt sức dân.
7. Tước đoạt quyền tư hữu tư liệu sản xuất, đất đai bởi tự đặt ra luật một cách phi lý.
8. Chế độ tuyển nhân viên quan chức theo chủ trương nhất hậu duệ, nhì quan hệ, ba tiền tệ, còn thì mặc kệ. Tuyển dụng con cháu quan chức dốt nát kế thừa quyền lực kiểu hôn nhân cận huyết loạn luân.
9. Luật chỉ để xử ép dân chứ không xử quan chức đảng viên khi họ phạm tội.
10. Hành xử bội ước với Hiến pháp, luật pháp quốc gia và các công ước đã ký kết với quốc tế.
Vậy thì dân nào còn đặt niềm tin và cách hành xử của “chính quyền”?
Nhiều người đi lễ đầu năm để cầu tài cầu lộc. Ảnh: HOANG DINH NAM/Getty Images
Hiện tượng người dân đi lễ cầu an, giải hạn, cúng bái trong những năm gần đây đang “tăng dần đều” vì người dân mất lòng tin vào ‘cõi dương’ nên tìm chỗ dựa ở ‘cõi âm’, một chuyên gia về minh triết Phương Đông trong quản trị nói với BBC.
Truyền thông Việt Nam mấy ngày qua đưa tin vào dịp đầu năm Mậu Tuất, người dân và cả cán bộ nhà nước đổ đến các đền chùa miếu mạo để đi lễ, cúng bái.
Tiêu biểu là hiện tượng biển người đổ về dự lễ cầu an, chen chân xin lộc ở chùa Phúc Khánh, Hà Nội và hàng ngàn người rồng rắn xếp hàng về xin ấn từ 5 giờ sáng ở Đền Trần, Nam Định, theo báo chí Việt Nam.
“Đang có một cuộc khủng hoảng trong xã hội về mặt giá trị”, Bà Giang Hà, chuyên gia về ứng dụng minh triết Phương Đông trong quản trị, nói với BBC hôm 2/3.
“Theo tôi, khi người ta cảm thấy mất lòng tin trong cuộc sống có thể nói là ‘dương’, khi người ta không biết bấu víu vào đâu thì người ta đành phải đi tìm kiếm niềm tin ở một thế giới khác – thế giới âm,” bà nhận định
Theo bà, có nhiều người đi lễ ‘theo phong trào’ mà không tìm hiểu nguồn gốc những nghi lễ họ theo đến từ đâu.
Người dân tìm kiếm điều gì khi đi chùa?
“Đi chùa đầu năm xuất phát từ mong muốn tìm một lòng tin nào đó,” theo bà Giang Hà, nhà nghiên cứu triết học phương Đông. Ảnh: Linh Pham/Getty Images
Bà Giang Hà cho biết người Việt Nam không những theo đạo Phật và mà còn theo đạo Khổng, đạo Mẫu (đạo nguyên thủy trước khi đạo Phật và đạo Khổng gia nhập vào Việt Nam).
Việc đi thăm đền chùa đầu năm là một hiện tượng chung về mặt tín ngưỡng, văn hóa và đều xuất phát từ mong muốn tìm một lòng tin nào đó.
Dẫn câu nói ‘âm thịnh dương suy’, bà Giang Hà nói phong trào đi lễ sẽ vẫn tiếp diễn trong những năm tới nếu không có thay đổi về nhận thức giá trị.
“Khi mà ‘dương thịnh’ hay khi người ta cuốn theo những cái đam mê trong công việc, gia đình, người ta hạnh phúc, thì người ta không mất thời gian đi cầu xin nhiều.
“Người ta chỉ có những chuyến du xuân – vào chùa là đến một nơi thanh tịnh, đi vào đền để ôn lại lịch sử và cảm nhận sự linh thiêng của mảnh đất nơi mình ở, chứ không phải để xin.”
“Không có một thế lực nào, một cõi âm nào mà mầu nhiệm đến mức cứ đi xin là được, cứ đi giải hạn là không còn hạn nữa.”
Khi được BBC hỏi về chuyện một số người dân phong thần cá chép hay quỳ lạy rắn nước nằm trên mộ, bà Giang Hà cho rằng, chuyện đi cầu xin một thế giới “thần thánh”, cái thế giới có lẽ vượt ra ngoài tầm nhận thức của con người, cũng “gần như là tham nhũng”.
“Anh không làm gì mà anh cứ đòi đi xin, đi xin thì một ngày nào đấy anh phải trả”, bà nhận xét.
Cán bộ nhà nước đi lễ trong giờ làm việc
Từ lâu nay, con người đi chùa là để tìm nơi thanh tịnh nhưng số lượng đông đảo người đi cầu cúng lại đặt ra vấn đề về mục tiêu của các nghi lễ. HOANG DINH NAM/Getty Images
Mặc dù chính phủ đã có công văn cấm cán bộ nhà nước đi lễ trong giờ hành chính, truyền thông Việt Nam đưa tin chuyện này vẫn xảy ra, với vụ việc nổi bật nhất là bảy cán bộ Kho bạc Nhà nước Thành phố Nam Định bị đình chỉ công tác vì làm chuyện này.
Theo bà Giang Hà, đây là do hiền triết phương Đông được áp dụng vào quản trị một cách thái quá: các cơ quan nhà nước chấp nhận tâm linh trong môi trường làm việc.
“Xét về khía cạnh tôn giáo tâm linh, lòng tin là điều rất riêng tư sâu thẳm của cá nhân, anh tin vào đâu là điều của cá nhân anh, không nên mang ra xã hội.”
Nếu cứ lấy thời gian làm việc để đi lễ mong sẽ làm ăn phát đạt, không những công chức mà cả các công ty đều không mang lại hiệu quả.”
Mua thần bán thánh?
Bảy cán bộ Kho bạc nhà nước TP Nam Định bị đình chỉ công tác vì đi lễ Đền Trần trong giờ hành chính. Ảnh: internet
Hiện tượng thương mại hóa ở các đền chùa Việt Nam được cho là rất phổ biến.
Theo các báo Việt Nam, người dân đi du xuân, cúng lễ ở Yên Tử (Quảng Ninh) phải nộp phí từ 20.000 đồng đến 40.000 đồng.
Còn tại Đền Trần (Nam Định), các hòm công đức đã được dựng sẵn ngay phía trước các điểm phát ấn và những ai muốn được phát ấn ‘tự hiểu’ họ phải bỏ tiền vào hòm công đức.
Bình luận về hiện tượng này với BBC, bà Giang Hà nhận định các cơ quan truyền thông chính thống, mạng xã hội và các cơ quan chức năng của nhà nước phải chịu trách nhiệm rất lớn vì ở đây có liên quan đến việc “thao túng lòng tin của nhân dân để kiếm tiền”.
Theo bà, những cơ quan này phải có vai trò lên tiếng, giáo dục, cảnh tỉnh người dân để chống lại mê tín và chuyện mua thần bán thánh một cách công khai lộ liễu.
“Tu tại tâm”
Người dân đi lễ ở Phủ Tây Hồ, Hà Nội. Ảnh chụp ngày 28/1/2017. Nguồn: Linh Pham/Getty Images
Bà Giang Hà cho rằng những người muốn theo đạo Phật hay theo thế giới tâm linh lẽ ra chỉ cần làm một điều quan trọng nhất, đó là “tu tại tâm”.
“Điều duy nhất mà họ cần làm là làm việc thiện. Chưa nói đến kiếp luân hồi hay luật nhân quả, mà đơn giản là khi tất cả mọi người trên thế giới cùng làm việc thiện thì thế giới sẽ tốt đẹp lên rất nhiều, và đương nhiên bạn cũng được hưởng cái thành quả chung đó.”
Bà kêu gọi giới truyền thông, những người trí thức và trường học nên giúp người dân và học sinh có hiểu biết về triết học và tôn giáo, không phải là triết học Mác Lê Nin khô cứng, mà về những giá trị trong xã hội.
Thời gian qua, chính các tờ báo Việt Nam lại tập trung giới thiệu các nghi thức như “Nghi lễ cúng Rằm tháng Giêng đầy đủ nhất” (VietnamNet), hay “Cúng Rằm tháng Giêng thế nào cho chuẩn?” (Tiền Phong).
Theo bà Giang Hà, hiện sống tại Paris nhưng thường về Hà Nội, thì:
“Mỗi người hãy góp một tiếng nói vào việc làm thức tỉnh những ai đang mải mê đi lễ, khấn bái, rằng việc đó không làm nên điều gì tốt đẹp cho xã hội.”
“Họ nên làm những điều tốt cho môi trường, cho xã hội và nên tự đi tìm niềm đam mê khác để cân bằng lại và tìm ra giá trị của cuộc sống,” bà Giang Hà nói với BBC.
Một tử tù đang chờ thi hành án, anh cầu xin một điều ước cuối cùng là một cây bút chì và một tờ giấy. Sau khi viết cho một vài phút, anh nhờ nhân viên bảo vệ nhà tù gửi giúp bức thư này cho người mẹ ruột của mình.
Trong thư anh viết …
Mẹ, nếu có công lý trong thế giới này, con và mẹ nên bị kết án từ hình cùng nhau. Mẹ cũng có tội cũng như con vì những gì con đã làm.
Mẹ hãy nhớ lại đi, khi con ăn cắp chiếc xe đạp của thằng bé gần nhà. Mẹ đã giúp con giấu chiếc xe đạp đó đi để bố không nhìn thấy nó.
Mẹ có nhớ lần con lấy trộm tiền từ ví của người hàng xóm không? Mẹ đã đi siêu thị mua sắm cùng với con.
Mẹ có nhớ ai đã bênh vực con khi con cãi lại bố đến nỗi bố phải bỏ đi không? Bố chỉ muốn sửa dạy con vì con đã gian lận trong bài thi và cuối cũng là con phải bị đuổi học.
Mẹ ơi, lúc đó con chỉ là một đứa trẻ, không lâu sau con đã trở thành một thiếu niên hư nghịch và bây giờ con đang là một tử tù chờ thi hành án. Mẹ ơi, lúc đó con chỉ là một đứa trẻ con cần được bao biện, nhưng cái thực sự con cần là được sửa trị.
Nhưng thôi, con tha thứ cho mẹ! Con chỉ muốn viết thư này để nó có thể đến được nhiều người khác đang làm cha làm mẹ, với hi vọng rằng, họ có thể nhận ra điều tạo nên người tốt kẻ xấu trên thế giới này là sự giáo dục.
Cảm ơn mẹ đã cho con cuộc sống và cũng đã giúp con đánh mất nó.
Đứa con tử tù của mẹ.
“Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà bạn có thể sử dụng để thay đổi thế giới.” (Nelson Mandela)
Hơn một vạn rưỡi (15.000) người này đang ngồi ngoài đường để cùng nhau làm lễ cầu sao giải hạn tại chùa Phúc Khánh (Đống Đa, Hà Nội) vào đêm qua.
Tôi vẫn tự hỏi, hạn của họ, nếu có, là gì trong đời thường? Thần thánh hoặc các đấng tâm linh nào đó có thực sẽ giải hạn được cho họ hay không?
Dù họ có bỏ tiền của ra để cầu bái, khấn vái sao cho tai quan nạn khỏi, thì mọi nan đề cuộc sống (những cái hạn thực sự mà họ phải đối mặt hàng ngày) vẫn còn nguyên đó: giá xăng tăng; thuế phí tăng, học phí và viện phí tăng; giáo dục vẫn lạc hậu; thực phẩm vẫn bẩn và độc hại; xã hội vẫn bạo lực và hành xử gian trá với nhau; luật pháp vẫn rối ren và môi trường vẫn ô nhiễm ngày càng nặng nề; đường giao thông vẫn xuống cấp và ùn, tắc mỗi ngày; tai nạn giao thông và bệnh ung thư ngày càng tăng cao; nạn chạy chọt, tham nhũng và háo danh (bằng cấp) vẫn hoành hành xã hội…
Những vận hạn của họ thực sự là gì? Tại sao họ lại ngồi chen chúc nhau ngoài đường trong cái giá rét, mất tiền bạc, mất thời gian và sức khoẻ chỉ để gửi vào hư không lời cầu xin sao cho tránh được các tai ương mà họ lo sợ là nó sẽ xảy ra với mình hoặc người thân?
Nếu đã bước chân đến chốn Thánh, Thần, Phật, thì tức là họ tin vào luật nhân quả cũng như căn nguyên tạo nên những khổ hạnh của con người. Thế nhưng họ né tránh cái “nhân” trực tiếp của các tội lỗi họ phạm phải hoặc đang hiện diện (đầy rẫy) trong xã hội mà có nguy cơ ảnh hưởng tới họ, nhưng nghịch lý là họ lại đi xin xoá “quả” ở một nơi không phải là nơi gieo “nhân” dẫn đến? Vì thần phật không tạo ra hay gieo “nhân” của những “quả” xấu đó cho con người và xã hội.
Một đám người u mê và mông muội đến mức này thì không biết họ sẽ giải quyết những biến cố trong đời sống như thế nào?
Ở Nam Định thì hàng chục ngàn người chen chúc và vật vờ cả đêm để chờ tới lúc phát ấn đền Trần. Đã có lần tôi viết với tiêu đề, xin ấn làm người, với nội dung nhắc nhở rằng, đức Thánh Trần là một vị anh hùng dân tộc thời phong kiến xưa kia và đã chiến đấu kiên cường để bảo vệ đất nước cũng như vương triều của mình. Đâu có phải là Thánh thần khi mới sinh ra với phép màu kỳ diệu để mà chỉ cầu xin ấn (triện của Hoàng đế) là đạt được những mục đích tư lợi khi tìm đến đó đâu. Nếu đức thánh Trần không giỏi quân sự, không sáng suốt trong việc nước, việc mưu binh và có dũng khí mà chỉ dâng lễ cầu sao giải hạn hay đi xin ấn thì có lẽ đã đánh mất quốc gia vào tay giặc rồi. Đến An Dương Vương có Nỏ thần mà còn để tổ quốc bị đánh chiếm và còn mất mạng, mất cả con gái.
Thế nên, những người còn tiếp tục mê muội vào những việc tâm linh trong sự hạn chế về nhận thức, sự hiểu biết mà ươn hèn né tránh những vấn đề, đòi hỏi và bất công của cuộc sống, thì rồi một lúc nào đó, những hậu quả xấu do chính con người sống trong một xã hội hỗn loạn, nhiễu nhương sẽ mang đến cho họ.
Và tôi cũng lại thầm tự hỏi: bao nhiêu người cầu xin để mang cái hạn tới cho người khác (có thể cùng chung đám đông đang ngồi với nhau); và sau khi dâng lễ giải hạn xong ai sẽ làm những điều xấu, điều ác và gây ra những điều tội lỗi cho con người trong đời thường?
Chúng ta cần nhớ vòng sinh diệt, luân hồi và quả nghiệp, nghĩa là ta tạo ra cái ác thì mình hoặc người thân mình sẽ gánh chịu hậu quả của cái ác; hoặc nếu cố gắng cầu xin sự xoá bỏ cái tai hạn ở một nơi này hay đối với người này, thì cái vận hạn đó sẽ được lưu chuyển đến một nơi khác hay cho (những) người khác.
(VTC News) – Cả một xã hội khấn vái, ước ao, một xã hội biến mình thành nô lệ của hương khói và thánh thần là con đường tắt dẫn văn hóa đến ngày “mạt”.
Một xã hội khói hương
Nói ra thì bảo báng bổ, nhưng cứ thử nhìn mà xem, tháng Giêng năm nào, người ta cũng thấy rõ ràng nhất, đầy đủ nhất cái sự mê tín đến khủng khiếp của người Việt.
Một xã hội “khói hương”, với hàng chục ngàn, hàng trăm ngàn người chen chân mang vác thủ lợn, gà luộc, vàng mã, đủ thứ lễ lạt cồng kềnh và cầu kỳ khắp các chùa chiền, miếu, phủ; từ nơi xa xôi hẻo lánh đến thị thành nhộn nhịp; từ đầu tuần tới cuối tuần, dai dẳng hết cả tháng Giêng, tháng Hai, có nơi còn vắt sang tháng Ba.
Đâu đâu cũng thấy những người là người, nghi ngút khói hương, sì sụp khấn vái, cầu ước.
Xa xôi gì đâu, mới cách đây mấy ngày, dư luận khiếp đảm chứng kiến một cuộc hỗn chiến dã man bằng nắm đấm, gây gộc, hung hăng và máu để cướp cho bằng được quả “phết”, tại Phú Thọ. Vì tương truyền, có quả ấy trong nhà, cả năm sẽ may mắn, ăn nên làm ra, rồi cả …đẻ con trai.
Tối hôm sau, hàng chục nghìn người xếp hàng dài cả cây số, tràn khắp các con đường, ngay trục giao thông trung tâm của Thủ đô, vái vọng xa tít tắp vào ngôi chùa Phúc Khánh vì đặt niềm tin vào sự linh thiêng của nơi này.
Biển người chen chân đi lễ đầu năm ở chùa Phúc Khánh.
Mùi của khói hương là mùi của bình an, của tĩnh tại, của thời khắc thiêng liêng, của ước vọng tốt đẹp và hướng thiện. Thứ mùi ấy, nhất định không thể tồn tại giữa xô bồ và toan tính.
Cũng đêm đó, ở đền Trần Nam Định, hơn vạn người chen lấn, giẫm đạp, nhảy bổ lên cả lư đồng, bàn thờ để cướp bằng được một chút lộc mang về nhà. Lộc ấy, dù được cướp theo cách báng bổ nhất, cũng được nâng niu như thứ bùa hộ mệnh cho lòng tin mãnh liệt vào đường công danh, thăng quan tiến chức.
Rồi các phủ, các đền, chùa, miếu mạo…cứ sau Tết là tấp nập người ra kẻ vào, khổ sở chen lấn, sớ cầu xin nào cũng dài dằng dặc ti tỉ ước mong.
Thôi thì, cầu mong những điều may mắn, tốt đẹp, an vui trong ngày đầu xuân năm mới vốn là truyền thống tốt đẹp của người Việt bao đời. Những địa danh tâm linh ấy, cũng được dựng lên từ ý nghĩa văn hóa và lịch sử đầy nhân văn của cha ông.
Nhưng thử hỏi, bao nhiêu người trong số các khách thập phương xa gần kia, mang cái tâm hướng thiện và cầu bình an thực sự đến với những nơi linh thiêng. Hay nhiều hơn thế, những kẻ đang hùng hổ cướp lộc và len lén mua khói bán nhang, mua thần bán thánh đến cầu khấn những điều biểu lộ sự tham lam vô độ của lòng người.
Nhảy bổ lên cả lư đồng, bàn thờ để cướp bằng được một chút lộc mang về nhà tại đền Trần (Ảnh: Zing)
Mùi của khói hương là mùi của bình an, của tĩnh tại, của thời khắc thiêng liêng, của ước vọng tốt đẹp và hướng thiện. Thứ mùi ấy, nhất định không thể tồn tại giữa xô bồ và toan tính.
Từ bao giờ, niềm tin của con người được “gá” vào thánh thần chứ không phải giữa con người với con người, giữa con người với ngay chính xã hội mà chúng ta đang sống, đang tồn tại hiển nhiên như vậy?
Cả một xã hội khấn vái, ước ao, một xã hội biến mình thành nô lệ của hương khói và thánh thần.
14 vạn suất cầu xin. Chầu chực mới được xin. Bỏ tiền mua suất được xin. Nghe một tên sư quốc doanh ban phát bố thí cho chút hy vọng về một tương-lai-bấp-bênh-có-thể-vì-lòng-thành-phủ-phục-mà-có-thể-có-bớt-chút-nào-đen-tối.
14 vạn người len nhau, để được quyền xin cái không có.
14 vạn. Cho một tối.
Tối nay sẽ 15 vạn hoặc hơn.
Tối 18 lại 18 vạn nữa.
Đến hẹn lại lên, lại nườm nượp rủ nhau cúi lưng đi xin giả dối.
Tôi, chăm chỉ cần cù, đã đi nhiều lần mười bốn tháng, qua nhiều lần mười bốn nghìn cây, mới gặp được, khắp mười bốn phương trời, mười bốn người bạn tâm đắc, mười bốn lứa tuồi, mười bốn con đường yêu quê hương, thương đồng loại.
Họ, 14 vạn, hình như cũng đi tìm gì đó. Có thấy không? Hay chỉ mong mãi được bình yên làm nô lệ? Nhưng khổ, cầu thế chứ cầu nữa cũng đâu có bình an rào rào từ trên trời rơi xuống! Nếu có thì đã chả kỷ lục thế giới về ung thư, về thức ăn độc hại, về ô nhiễm, về tệ nạn, về thất nghiệp, về xuất khẩu lao động, xuất khẩu mại dâm, xuất khẩu cô dâu tuyệt vọng.
Nhìn những đám đông tuyệt vọng này, nhất loạt hướng về tên sư quốc doanh Thích Thanh Quyết, hay một kẻ khác, như hắn, ma giáo kinh doanh nỗi sợ, tôi luôn ao ước có ngày nào, cùng bạn bè mười bốn phương trời, nắn được những dòng suối mười bốn vạn đó, chảy về miền yêu thương, ước vọng, miền thực sự có ánh sáng, nơi ta TẠO RA tương lai thay vì cầu xin ảo giả.
Mười bốn, mười rằm hay mười tám, tôi chúc cho mỗi người trong 14 vạn này đọc nhiều hơn chút, nghe, nhìn nhiều hơn chút, gặp gỡ thêm người tốt để tự cởi bớt dây trói u mê.
Hoàng Đức Bình, giữa bên phải, và anh Nguyễn Nam Phong, giữa trái, tại tòa án tỉnh Nghệ An hôm 6/2/2018.
AP
Tổ chức Ân Xá Quốc Tế – Amnesty International hôm 28/2 kêu gọi hành động khẩn cấp cho nhà hoạt động môi trường Hoàng Đức Bình, người phản đối Formosa gây thảm họa biển tại Việt Nam nhưng bị chính phủ Hà Nội kết án tù 14 năm.
Ân Xá Quốc Tế kêu gọi những người quan tâm viết thư ngay đến cho các cấp thẩm quyền Việt Nam về trường hợp anh Hoàng Đức Bình.
Thư gửi trước ngày 10 tháng 4 năm nay đến các vị lãnh đạo cấp cao Việt Nam gồm các ông Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc, Bộ Trưởng Công An Tô Lâm, Bộ Trưởng Ngoại giao kiêm phó thủ tướng Phạm Bình Minh.
Nội dung thư yêu cầu trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện nhà hoạt động môi trường Hoàng Đức Bình, hủy bỏ cáo buộc đối với tù nhân lương tâm này vì chỉ thực hiện một cách ôn hòa quyền tự do bày tỏ ý kiến.
Trong khi chờ đợi anh Hoàng Đức Bình được trả tự do, Amnesty cũng kêu gọi chính phủ Việt Nam đảm bảo không có hành vi tra tấn, ngược đãi đối với anh Bình và cho phép người anh được tiếp cận thân nhân, luật sư cũng như được chăm sóc y tế đầy đủ.
Ngoài ra Amnesty cũng yêu cầu ngưng ngay mọi hình thức sách nhiễu, đàn áp, trừng phạt những nhà bảo vệ nhân quyền, giới hoạt động ôn hòa.
Nhà hoạt động môi trường Hoàng Đức Bình bị tòa án huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An kết án 14 năm tù hôm ngày 6 tháng 2 vừa qua, với cáo buộc ‘chống người thi hành công vụ’ và ‘lợi dụng các quyền tự do dân chủ làm phương hại lợi ích nhà nước’.
Anh Hoàng Đức Bình còn là phó chủ tịch của tổ chức xã hội dân sự độc lập Phong Trào Lao Động Việt chuyên lên tiếng cho quyền lợi của giới công nhân tại Việt Nam.
Trong một số trường hợp anh còn thực hiện các live-stream và viết blog chỉ trích mạnh mẽ biện pháp tàn bạo của công an đối với những người biểu tình chống Formosa gây thảm họa môi trường cho vùng biển miền Trung Việt Nam.
Lực lượng công an bắt anh Hoàng Đức Bình vào ngày 15 tháng 5 năm ngoái khi anh đang đi cùng linh mục Nguyễn Đình Thục, một người ủng hộ tích cực cho các nạn nhân thảm họa môi trường Formosa.
“KHÔNG CÓ LÝ DO GÌ CHÚNG TA CỨ NGHÈO MÃI”. Ông Trần Văn – nguyên Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội đã phát biểu như thế. Thấy hơi ngạc nhiên vì ông dùng từ “chúng ta”. Tại vì công tâm mà nói thì chỉ có dân nghèo, chứ quan chức như ông thì giàu sụ. 90 triệu dân, từ người trẻ cho đến người già, từ đàn bà cho đến trẻ em, ai nấy phải è cổ ra nuôi cả 1 lũ quan tham ăn tàn phá hại ko từ thứ gì, thử hỏi làm sao mà dân ko nghèo???
Ngày Tết, nói chuyện ăn nhậu: đã đến lúc nhìn nhận lại!
Tết, nhà nhà tụ tập, nhà nhà ăn nhậu. Đến nhà tui mấy ông anh bà chị cũng tụ tập đến 3 lần 7 lượt mỗi một cái Tết .
Nhậu đến uống hết chai này sang chai khác, hết loại rượu này sang loại rượu kia ” xăng pha nhớt” đủ kiểu, ngồi từ sáng đến tối, uống đến nôn mửa… Không chỉ đàn ông mà phụ nữ cũng có người ủng hộ cổ vũ ầm ầm. Tui thật không hiểu nổi niềm vui và những khích động ấy từ đâu mà có, làm sao lại có. Không phải chỉ những người trẻ, cả những người được coi là ” người lớn” vì vừa lớn tuổi vừa lớn đầu ( học đến tiến sỹ, làm đến Đảng viên chắc đủ gọi là lớn đầu) cũng đều như thế cả. Chứng ham nhậu ngấm vào máu chẳng thua gì nghiện ma túy….
Tui chẳng bao giờ động lòng khi đâu đó xuất hiện tin tức kiểu ” cán bộ nhà giam lao SH xuống sông mất mạng vì say rượu”, hay anh này say rượu xô xát đòi chém anh kia… Đối với tui, tất cả những kẻ rượu chè be bét đều đáng bị trả giá, miễn là chúng đừng gây họa cho người khác!
Bố tui hồi trẻ cũng là một người thích ăn nhậu. Tui không thích chứng kiến những cuộc nhậu bừa phứa và mệt mỏi…
Xin dẫn ra một stt của fb Hoàng Ngọc Diêu về bản chất của việc ” ăn nhậu” tại VN :
“Mấy thằng bạn Úc đi Việt Nam về kể đủ thứ chuyện.
Mình hỏi một đứa: “mày đi Việt Nam, cái gì làm cho mày ngạc nhiên nhất?”
Nó nói: “Tao đi gần hết thế giới, chưa thấy có quốc gia nào nhiều quán nhậu như ở Việt Nam. Tao đi từ Hà Nội vô tới Sài Gòn, dừng lại ở Huế, Hội An, Đà Nẵng, Nha Trang, Vũng Tàu, không có thành phố nào mà không tràn ngập quán nhậu. Ở Ireland, nơi tao sinh ra và ở Úc, quê hương thứ hai của tao, mỗi thị trấn chỉ có một cái pub và dăm ba cái club, có thị trấn không có club. Đó là Úc và Ireland được xếp loại là dân uống rượu có tầm cỡ thế giới. Ở Việt Nam thì pub và club khắp nơi.”
Mình hỏi: “mày nghĩ quán nhậu ở Việt Nam nhiều như vậy là không tốt?”
Nó đáp: “tất nhiên! một xã hội mà thanh niên và thiếu nữ không biết đi đâu, không biết làm gì khác ngoài việc đi vào quán nhậu thì đó là biểu hiện của sự bế tắc ở cấp độ từng cá nhân và nếu có vô số những đám đông với những cá nhân như vậy, đó là sự bế tắc của cả xã hội. Họ tìm đến với cồn để tạm quên những vấn đề trước mắt.”
Mình hỏi thêm: “vậy thì mấy cái chỉ số đo lường hạnh phúc các quốc gia là sai?”
Nó nói: “đúng và sai. Đúng ở chỗ, dân Việt Nam tỏ vẻ hạnh phúc khi họ ngồi trước ly bia và tạm quên những thử thách trước mắt nhưng sai ở chỗ, họ vẫn phải đối diện với những thử thách sáng hôm sau.”
——————-
Mình tự hỏi, tại sao một thằng Úc thòi lòi có thể thấy và có thể nhận xét về xã hội Việt Nam đúng ở mức độ bản chất như vậy? Khanh Lam Nguyen
Nghe tin anh vừa mất, đột nhiên, em như người tụt rơi xuống hố sâu, hụt hẫng, lao đao, hai tay quờ quạng như muốn níu kéo lấy một điểm tựa nào đó không có thật, và khi không nắm được chỗ nào cả thì hoảng hốt, sợ hãi vô cùng. Mắt em như mờ hẳn đi, không nhìn thấy gì dù màn ảnh của chiếc máy computer dựng ngay trước mặt.
Có thật anh đã ra đi rồi không? Sao lại không gọi em một tiếng nào? Mấy năm nay, tuy em bị cắt liên lạc với anh, nhưng em vẫn theo dõi tin anh qua những người quen, và có một lần, đọc một bài báo của ai đó phỏng vấn anh, em rất mừng vì thấy anh vẫn khỏe. Tết vừa rồi, em lại liều gửi điện thư chúc Tết anh chị dù biết rằng có thể như những lần trước, thư của em lại lọt vào trong thùng rác, hoặc bị lấy mất bởi những chuyên viên rình rập trên mạng. Chuyện này chắc chắn xẩy ra, vì cách đây mấy năm, sau khi các thư em gửi cho anh đều bị trả lại, em liều gọi điện thoại đến anh, để thăm hỏi vài câu ngắn ngủi, thì cũng chỉ được nghe anh nói vắn tắt vài lời: “Anh xin lỗi em, từ nay không liên lạc được với em nữa. Anh bị công an đe dọa: “cấm liên lạc với tên nhà văn phản động kia, kẻo sẽ bị cắt điện thoại”. Em thông cảm cho anh nhé.” Rồi anh cúp máy! Thế thôi! Từ đó đến nay, em không còn nhận điện thư của anh nữa. Em buồn lắm! Không được chuyện trò với anh như trước, em cảm giác chơi vơi cùng tận, vì trong tâm hồn của em, vẫn tràn đầy nhiều kỷ niệm với anh, với người Thầy đáng kính. Em vẫn nhớ ngày em đi Mỹ theo diện H.O.1, anh lập cập chống gậy, nhờ người quen chở anh đi xe gắn máy, đến tận phi trường tiễn em. Khi em bước vào trong hàng rào ngăn cách, anh còn đứng đó và giơ bàn tay gầy ốm vẫy mãi cho đến khi em phải quay lưng đi vào phòng cách ly. Thế là lần cuối cùng gặp anh đấy.
Anh kính mến,
Ngày hôm nay, trong cơn gió lạnh của California, bao nhiêu kỷ niệm tràn về đầy ắp. Em nhớ lại thời gian khi còn trong tù, anh chỉ dẫn cho em từng nốt nhạc vọng cổ, và vì lúc đó anh bệnh nặng quá, nên sự cố gắng dậy bảo của anh làm anh ứa máu, em đã sợ hãi mà ngăn anh lại: “Thôi! Thôi! Anh nghỉ đi! Đừng nói nữa! Máu chẩy ra miệng anh kìa!” Anh lắc đầu, lấy vạt áo tay chùi máu miệng, và nói: “Không ngừng được! Anh phải dậy em bây giờ! Anh không biết lúc nào anh chết, nên phải truyền hết kinh nghiệm cho em, kẻo mai mốt anh chết, thì không có người tiếp tục!” Và cứ thế, bất chấp sức khỏe càng ngày càng sa sút, máu cứ chẩy ra ngoài miệng, anh đã dậy cho em từng câu nhạc Vọng cổ, từng cách viết kịch bản cho một vở tuồng cải lương, cổ nhạc. Vì các đốt ngón tay anh đã bị chất vôi phù lên, cứng ngắc, không sử dụng được, anh đã ngồi xổm trên chiếu, kẹp chiếc bút chì vào giữa ngón chân cái và ngón kế tiểp để vẽ lên các nốt nhạc to bằng quả trứng gà, cũng như các tiết tấu và kết cấu từng câu nhạc, thật công phu vô cùng. Em biết là viết như vậy, anh đau lắm và vất vả lắm, nhưng anh vẫn kiên trì truyền hết kinh nghiệm cho thằng em kém cỏi này và cũng vì biết nỗ lực của người Thầy như anh thật là hiếm có trên đời, nên em đã cố gắng làm vui lòng anh bằng cách sáng tác các bài ca Vọng cổ, cũng như các bài tân nhạc rồi hát cho anh nghe, để thấy anh mỉm cười, mãn nguyện là em mừng. Dĩ nhiên, khả năng của em không đủ để theo kịp sự dậy dỗ của anh, khiến có vài lần anh nhăn mặt, mắng: “Em cứ có cái tật phăng-tê-di! Không chịu theo khuôn phép gì cả! Hòa âm gì kỳ cục thế! Viết lại!” Để sau khi em sửa lại rồi, anh vẫn lắc đầu, thở dài: “Thôi! Cái tật ẩu không bỏ được!” rồi anh lại gật đầu, cười mỉm: “Thế mà lại hay! Mỗi người sáng tác đều có những cái riêng của mình, không ai giống ai.”
Em vẫn nhớ, ngoài những lúc học sáng tác, hòa âm, anh kể cho em nghe những chuyện tình thời trai trẻ của anh, độc đáo và hấp dẫn vô cùng. Ngày anh còn ở trường Thiếu Sinh Quân, tự viết nhạc cho anh em hát, ngày anh đeo lon Trung Úy, rồi Đại Úy.. và những lần anh làm trưởng ban nhạc đi trình diễn bên Pháp… bao nhiêu cô theo, trong đó có một mối tình thật ác liệt của một cô ca sĩ, kịch sĩ nổi tiếng…Rồi đến ngày anh cưới vợ, cô kia đánh ghen ra sao…ảnh hưởng đến quân vụ của anh như thế nào.. Và để trả thù, cô kia đã thuê một nhà văn cũng rất nổi tiếng viết lại chuyện tình của anh đăng báo, hầu làm chậm bước thăng tiến trong đời binh nghiệp của anh.. và cách anh giải quyết mọi chuyện như một giấc mơ.. vừa sáng trí vừa lãng mạn. Em ngồi nghe anh kể chuyện mà mắt cứ mở to, ngưỡng mộ quá chừng.
Rồi em được trả tự do trước anh. Vì không thể quên những tháng ngày được anh chỉ bảo, em vẫn đi thăm anh ở.. các bệnh viện! Bệnh anh càng ngày càng nặng, nên cai tù đành chấp nhận chuyển anh ra bệnh viện ngoài để chữa trị, nhưng họ đổi nơi chữa trị hoài vì ngại rằng nếu để lâu một chỗ, có thể có sơ hở và anh trốn được. Mãi đến năm 1985, anh mới được về nhà. Nhờ đó, mà anh có cơ hội tìm thầy, tìm thuốc để tự trị bệnh mình và đến khi em đi Mỹ vào năm 1990, thì anh đã có thể chống gậy đi lại được, không như ngày ở trong tù, anh chỉ có thể nằm trên một miếng ván nhỏ có gắn bánh xe do anh em cùng tù làm cho anh, để anh lấy tay đẩy miếng ván trôi đi, y như một người bị què cụt sắp chết. Nhìn hình ảnh đó, anh em đều sa lệ. Còn đâu người hùng năm xưa? Còn đâu hình dáng người nhạc sĩ với cây đàn và những bản nhạc tuyệt vời, hát mãi không chán?
Sau khi đến Mỹ một vài năm, thấy một Trung tâm băng nhạc hồi đó thỉnh thoảng làm các cuốn băng đặc biệt với từng tác giả, em đã liên lạc với trung tâm và gợi ý là nên làm một cuốn băng đặc biêt về anh. Người chủ trung tâm rất mừng vì ông cũng từng là người hâm mộ nhạc Nguyễn Văn Đông, nên ngay sau khi biết được địa chỉ của anh, ông ta đã về Saigon ngay, tiếp xúc với anh và chuẩn bị một chương trình Nhạc Nguyễn Văn Đông với các ca sĩ từng là học trò của anh. Thoạt đầu, anh cũng đồng ý đi Mỹ và anh đã gửi cho em nguyên một tập nhạc của anh sáng tác để tùy nghi trung tâm lựa chọn. Chương trình tiến triển tốt đẹp. Trung Tâm băng nhạc đã làm Visa cho anh sang Mỹ. Nhưng đột nhiên, anh gọi điện thoại cho em và nói rằng anh không đi nữa. Anh nói: “Anh biết là sau khi về lại Việt Nam thì thế nào anh cũng bị kiểm điểm bởi những thằng nhóc con. Mà anh lớn tuổi rồi, anh không muốn bị gọi lên đồn công an, để trả lời cuộc thẩm vấn bởi mấy tên con nít, không biết gì về âm nhạc cả! Mấy ca sĩ cải lương, tân nhạc gì sang Mỹ về cũng phải gặp công an, “dạ, dạ thưa anh, thưa chị.” Anh không thể làm được chuyện đó, em thông cảm cho anh. Anh cám ơn em đã lo lắng chu tất cho anh, nhưng anh không thể, em ạ!” Vì anh là người có Tư Cách và Nhân Cách lớn, không giống như nhiều người khác nên anh nhất định hy sinh một cơ hội rạng danh mình cũng như tạo được một kỷ niệm lớn, để lại cho hậu thế những thông tin về một người nhạc sĩ lớn, một trong những Bậc Thầy về Âm Nhạc của Việt Nam, người đã được tặng bằng Tiến Sĩ Âm Nhạc tại Pháp.
Với những kỷ niệm như thế, làm sao mà em không khóc được khi nghe tin anh mất? Viết đến anh những giòng chữ này mà mắt em nhòa đi… Nhớ anh, nhớ người Thầy vĩ đại quá chừng.. mà không thể diễn tả hết những tình cảm em dành cho anh, nên càng viết càng luộm thuộm. Vậy, thôi, em xin gửi đến anh lời cầu nguyện cho hương hồn anh sớm tiêu diêu miền cực lạc, nơi không còn bệnh tật, không lo âu, không tù đầy, đau khổ, chỉ có hạnh phúc miên viễn. Còn lại chúng em, “lòng trần còn tơ vương khanh tướng, thì đường trần mưa bay gió cuốn, còn nhiều”… mênh mang.