Một tấm hình không thể đẹp hơn về thần thái của anh Đài, Trội, Tôn.

 
Tai Do and Hangnga Lê shared Lê Văn Sơn‘s post.
Image may contain: 6 people
Lê Văn Sơn is with Chú Tễu.

 

Một tấm hình không thể đẹp hơn về thần thái của anh Đài, Trội, Tôn.

Khuôn mặt của các anh tự tại, đanh thép, hiên ngang và bất khuất. Hai vị thiếu tá công an tỏ vẻ mệt mỏi, suy nghĩ, chán trường.

Tấm hình là sự phản chiếu rõ nét giữa cái thiện và cái ác, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa công lý và tội ác. Những người bị xét xử là những người đang nắm giữ chính nghĩa, công lý và sự thiện, những kẻ nhân danh Pháp luật để xét xử người yêu nước lại là kẻ thuộc về cái ác, bất nghĩa.

Yêu mến các anh chị trong HAEDC, hôm nay là ngày các anh chịu nạn để phục hồi sức sống cho cả dân tộc Việt Nam.

CHO GIẶC MƯỢN ĐƯỜNG

 
 
Hung Ta

CHO GIẶC MƯỢN ĐƯỜNG

— by Đỗ Ngà

Năm 1127, người Kim đánh Tống, Tống thua nên phải bỏ phía bắc Trung Hoa và lùi về co cụm phía nam sông Dương Tử. Nhà tống mất nửa phía bắc nên người ta hay gọi triều đại này là nam Tống. Đến năm 1234 quân Mông Cổ tiêu diệt nhà Kim chiếm bắc Trung Hoa. Đến năm 1253, quân Mông Cổ lại muốn đánh luôn nam Tống để thâu tóm toàn bộ Trung Hoa. Đại Hãn Mông Cổ lúc đó là Mông Kha đã lên kế hoạch, rằng phải chiếm lấy nước Đại Lý phía tây, tiếp theo chiếm Đại Việt phía nam. Khi thôn tính xong Lý – Việt thì xem như nhà Tống lọt vào thế bao vây của quân Mông Cổ. Cuối cùng là tiêu diệt nam Tống để chiếm hoàn toàn Trung Hoa rộng lớn và làm cỏ luôn 2 nước nhỏ Lý- Việt.

Năm 1254 với lý do mượn đường diệt Tống. Mông Kha đã tiêu diệt Đại Lý phía tây. Sau khi diệt Đại Lý xong, Mông Kha nhiều lần phái sứ giả sang yêu cầu vua Trần “cho mượn đường” để quân Mông đi vòng lên đánh nam Tống. Tất nhiên vua Trần cự tuyệt vì biết chắc cho quân Mông mượn đường sẽ mất nước. Và kết quả, năm 1258 quân Nguyên tiến đánh Đại Việt lần thứ nhất. Nhà Trần phải chiến đấu với bao hy sinh mất mát mới đẩy lùi được quân Mông Cổ hung hãn. Sau đó quân Mông 2 lần nữa tiến đánh Đại Việt nhưng đều bị nhà Trần đẩy lùi. Và nước Đại Việt được cứu thoát khỏi họa diệt vong.

Không biết khi đó vua của nước Đại Lý có cho Mông Kha mượn đường hay không? Có thể họ cho quân Mông mượn đường rồi mất nước mà cũng có thể Đại Lý đã chiến bại. Nhưng nếu nhà Trần cho quân Mông mượn đường thì chắc chắn đất nước Việt Nam đã bị xóa sổ như Đại Lý rồi. Đấy là sự sáng suốt của cha ông ta đã bảo vệ được đất nước. Lịch sử đã dạy, Không cho giặc mượn đường dù bất cứ lí do gì. Nếu năm đó vua Trần gật đầu thì nay chúng ta đã không hiện diện trên đời này.

Xa xưa, vào thế kỷ thứ 7 trước CN, thời Xuân Thu, nước Ngu cho nước Tấn mượn đường để diệt nước Quắc. Kết quả, sau khi diệt Quắc xong, Tấn diệt luôn Ngu. Gian kế này được Tôn Tử đưa vào làm 1 trong 36 kế của cuốn Binh Pháp nổi tiếng của ông. Và như ta biết, cuốn binh pháp này được người Tàu, đặc biệt là những trùm quyền lực ở Bắc Kinh sử dụng đầy biến hoá. Bài học nước Ngu và Đại Lý còn đó. Trước đây nhà Trần đã hành động đúng, nhưng ngày nay CS đang làm ngược lại. Rất nguy hiểm.

Hôm nay, tại Quảng Ninh, lửa thiêu cháy nhà máy sợi Texhong Ngân Long. Nhiều xe PCCC của TP Đông Hưng (Trung Quốc) được huy động tới KCN Hải Yên chữa cháy. Thế là hàng đoàn xe đặc chủng từ bên kia biên giới kéo vào nước ta như chốn không người. Thế là một bằng chứng rõ nét rằng, đường biên giới đã được mở toang. Đoàn xe cứu hoả sẽ là một tiền trạm cho thử nghiệm cho xe đặc chủng khác thì sao? Tại sao mở cửa cho xe đặc chủng Trung Cộng vào tự do? Tại sao “nhờ” phía Trung Cộng chữa lửa? Vậy chữa lửa Việt Nam đâu? Chả nhẽ từ xưa đến giờ các tỉnh biên giới không có vụ cháy lớn nào à? Mà nếu lúc trước có cháy lớn thì sao PCCC Việt Nam chữa, nhưng hôm nay tại sao để xe Trung Cộng vào đây? Nếu mai kia xe cứu hoả chứa súng đạn và quân lính trong đó thì sao? Chẳng phải “tàu đánh cá” Trung Cộng cũng trang bị đủ thứ vũ khí trên biển Đông đấy sao? Và rất nhiều cái “tại sao” nữa cần phải có câu trả lời thỏa đáng.

Nhìn lại khắp lãnh thổ Việt Nam xem? Người Trung Quốc tràn ngập. Tại Nha Trang và Đà Nẵng là nơi người Tàu dày đặc. Tại Quảng Ninh và Lào Cai đoàn xe của Tàu tấp nập nhập cảnh vào không cần visa. Khắp nơi hình thành các khu dân cư của Tàu nổi lên như những vết đốm trên da con báo. Thêm nữa, bên này biên giới và bên kia biên giới, quân đội và công an 2 nước được mặt chung một bộ đồng phục. Sự giống nhau ở quân phục là có ý gì? 2 đội bóng trên sân không thể mặc chung một màu áo. Và quân đội 2 nước cũng không thể mặc chung bộ đồng phục được. Quân phục giống hệt nhau để làm gì? Là để đánh lừa nhân dân Việt Nam hay để chuẩn bị cho kế hoạch sáp nhập? Thế đấy! Những hiện tượng rất bất thường và mức độ ngày một đáng ngại.

Cả sử ta và sử Tàu đã được dọn lên mâm cho chúng ta chọn. Một món tồn tại và món diệt vong, nhưng CS đang chọn món diệt vong của vua Ngu. Tất cả quan chức CS đều có chỗ ở xứ “tư bản giãy chết” nếu có biến cố. Còn chúng ta? Chạy đi đâu? Nếu cứ mãi ù lì né tránh chính trị thì số phận nước Việt sẽ bị khai tử, đó là con đường rất rõ ràng khó tránh khỏi.

No automatic alt text available.

AN NINH CỘNG SẢN TĂNG CƯỜNG BẮT BỚ TRƯỚC PHIÊN XỬ 06 THÀNH VIÊN HỘI ANH EM DÂN CHỦ

Hung Tran shared Amy Truc Tran‘s post.

 

Image may contain: 1 person, text

Amy Truc TranFollow

(Tin từ Hội Anh Em Dân Chủ)

AN NINH CỘNG SẢN TĂNG CƯỜNG BẮT BỚ TRƯỚC PHIÊN XỬ 06 THÀNH VIÊN HỘI ANH EM DÂN CHỦ

Theo tin mà chúng tôi mới nhận được, hiện nay nhà riêng của một thành viên Hội Anh Em Dân Chủ là cựu tù nhân chính trị, nhà thơ Trần Đức Thạch tại huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An đang bị rất đông an ninh, công an sắc phục lẫn thường phục bao vây và phá phách.

Lực lượng an ninh hành xử rất hung hãn khi quấy phá và liên tục tìm cách đột nhập vào nhà riêng của ông Trần Đức Thạch.

Hiện tình hình đang trở nên xấu đi, rất có thể lực lượng an ninh sẽ tiến hành bắt bớ nhà thơ Trần Đức Thạch để dằn mặt những người muốn tham gia phiên toà xét xử 06 thành viên Hội Anh Em Dân Chủ vào ngày mai 05/04/2018.

Nhà thơ Trần Đức Thạch từng tham gia quân đội Bắc Việt và chứng kiến nhiều sự thật “khủng khiếp” theo lời ông tường thuật lại. Một trong những sự thật về tội ác của quân đội Bắc Việt trong cuộc chiến tranh Nam – Bắc được ông kể lại bằng tác phẩm của mình là “Hố chôn người ám ảnh” đã gây nên một cơn sốc cho công luận cũng như đối với nhà cầm quyền khi nó vừa được công bố.

Sau khi giải ngũ, ông từng lên tiếng phản đối một số chính sách của Nhà nước mà ông cho rằng vô nhân đạo và cần thay đổi. Khi ở VN, khái niệm “nhân quyền” còn ít người biết tới ông đã tự thiêu để đòi quyền con người. Một hành động rất quả cảm, đơn độc, quyết đoán pha chút liều lĩnh của một người cầm bút.

Vì những hoạt động ôn hoà đòi nhân quyền, dân chủ, năm 2008, nhà thơ Trần Đức Thạch từng bị bắt và kết án 3 năm tù giam, 3 năm quản chế với cáo buộc vi phạm điều 88 “tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN VN”. Trong tù, ông từng bị điều tra viên đánh đập, tra tấn hòng bẻ gãy ý chí của ông. Nhưng ông vẫn giữ khí phách của một người yêu lẽ phải.

Sau khi ra tù, ông liên tục bị nhà cầm quyền địa phương sách nhiễu, khủng bố, bắt bớ, câu lưu vì ông không chịu từ bỏ lý tưởng tự do, cũng như những việc làm ôn hoà đấu tranh cho nhân quyền, dân chủ của mình.

Mong bạn bè, công luận quan tâm, theo dõi thông tin về nhà thơ, người tù lương tâm Trần Đức Thạch.
#HAEDC
#danchukhongphailatoi

VỀ CÁI GỌI LÀ UỶ BAN ĐOÀN KẾT CÔNG GIÁO:

 Tin Mừng Cho Người Nghèo‘s post.
Image may contain: 4 people, people smiling, eyeglasses and closeup
Image may contain: 1 person, smiling, closeup
Image may contain: 1 person
Image may contain: 1 person, text and closeup
+4

Tin Mừng Cho Người Nghèo added 7 new photos.

 VỀ CÁI GỌI LÀ UỶ BAN ĐOÀN KẾT CÔNG GIÁO:

Đã có nhiều bài viết, tư liệu và chứng cứ đã vạch rõ Ủy ban này ra đời, được nuôi nấng với nhiệm vụ tiêu diệt bằng được Giáo hội Công giáo qua hình thức tinh vi là thiết lập một Giáo hội Công giáo tự trị – tam tự – kiểu Trung Quốc.

Nhiều tác giả, nhân chứng đã nói lên bản chất của cái gọi là Ủy ban này, hoàn toàn nhằm chống lại Công giáo, như lời Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt đã xác nhận: “Đó là công giáo nhãn hiệu”. Tiếc thay, đến hiện nay nhiều Giáo phận, nhiều nơi vẫn còn dung túng cho các linh mục, giáo sĩ, giáo dân tham gia tổ chức này.

Đây là loạt bài của Linh mục Chân Tín DCCT, Nhà Thờ Kỳ Đồng, P9, Q3, một linh mục nay đã qua đời, một con người đã từng đứng vững, hiên ngang trước mọi thế lực đe dọa, sẵn sàng lấy cả mạng sống mình chứng minh cho sự thật, nay được đăng lại để cho giới trẻ Việt Nam đang được tiếp cận thông tin trên mạng được biết, hiểu, để trau dồi kiến thức mà có những nhận định đúng đắn về xã hội và Giáo Hội Việt Nam.
—————————-

UỶ BAN ĐOÀN KẾT CÔNG GIÁO: Tập đoàn của âm mưu và tội ác

Phần 1:

A. Các lãnh tụ tương lai của Ủy ban Đoàn kết: Hô hào trục xuất Đức Khâm sứ Tòa thánh và Đức cha Thuận

Ít ngày sau 30/4/1975, các lãnh tụ tương lai của Ủy ban Đoàn kết, gồm có linh mục Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ đã hô hào trục xuất Đức Khâm sứ Tòa thánh Henri Lemaitre và phản đối việc Tòa thánh bổ nhiệm Đức cha Nguyễn Văn Thuận làm Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Sài Gòn.

Các linh mục Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Phan Khắc Từ, Vương Đình Bích – Những kẻ đã hô hào trục xuất Đức Khâm sứ Tòa thánh Henri Lemaitre. (Lm Trương Bá Cần đã về chầu…?)
Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận, TGM Phó TGP Sài Gòn bị bắt bỏ tù CS

Nguyễn Antôn (Công giáo Miền nam sau 1975) đã viết về các vị ấy: “Nhảy qua tường, đột nhập vào Tòa Khâm sứ, dùng búa đập phá ổ khóa ngoài cổng, trèo lên mái nhà căng biểu ngữ và hạ lá cờ Tòa thánh. Bọn chúng hò hét: Đả đảo! Đả đả! Henri Lemaitre về nước, cút cút đi, cút đi. Họ xô đẩy đức Khâm sứ, linh mục phụ tá người Balan và linh mục Bí thư người Việt từ trong khuôn viên Tòa Khâm sứ ra đường Hai Bà Trưng, rồi đóng sập cửa lại” (trang 219). Các vị ấy tấn công Tòa Khâm sứ Tòa thánh vào ngày 14/5/1975 – tức là chỉ hai tuần sau khi cộng sản cướp chính quyền.

Cũng chính các vị lãnh tụ tương lai của Ủy ban Đoàn kết này đã hô hào loại trừ Đức cha Fx. Nguyễn Văn Thuận, Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn. Ngày 25/4/1975, 5 ngày trước khi tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, Đức cha Fx. Nguyễn Văn Thuận – Giám mục Nha Trang, được Đức Giáo hoàng Phaolo VI bổ nhiệm làm Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn với quyền kế vị. Ngày 12/5/1975, Đức Tổng giám mục Phaolo Nguyễn Văn Bình cho phổ biến thông cáo về việc bổ nhiệm trên. Nhóm các linh mục lãnh tụ tương lai của Ủy ban Đoàn kết đã bao vây Đức Tổng Giám mục Phaolo Nguyễn Văn Bình và Đức cha Fx. Nguyễn Văn Thuận. Họ yêu cầu Đức cha Thuận rút lui khỏi chức vụ.

Trong vấn đề này, Đức cha Phaolo Nguyễn Văn Bình đã tỏ ra khá cứng rắn. Ngày 7/6/1975, Đức cha Nguyễn Văn Bình đã viết một lá thơ xác nhận: “Việc Tòa thánh bổ nhiệm Đức cha Fx. Nguyễn Văn Thuận làm Giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn với quyền kế vị là một việc hợp với nhu cầu mục vụ của địa phận Sài Gòn. Đây không phải là một việc áp đặt như một số người đã hiểu lầm. Nhiều Giám mục đã được tham khảo ý kiến, dĩ nhiên trong đó có tôi. Chính tôi đã đồng ý hoàn toàn việc bổ niệm này. Kêu gọi quý cha, quý tu sĩ nam nữ và giáo dân sẵn sàng tuân phục hoàn toàn quyết định của Tòa thánh La mã“.

Qua ngày 8/6/1975, đức cha Nguyễn Văn Bình còn gửi cho chính quyền Cộng sản một kháng thư: “Mấy tổ chức mệnh danh Công giáo chỉ là một thiểu số không đáng kể trong hàng ngũ Công giáo, không thể nào đại diện cho đông đảo giáo dân Công giáo. Những tội danh gán buộc cho Đức Khâm sứ Henri Lemaitre và Đức tổng Giám mục Fx. Nguyễn Văn Thuận hoàn toàn thất thiệt”.

Tiếp đó, Đức Tổng Phaolo Nguyễn Văn Bình, “khẩn thiết yêu cầu” chính phủ cách mạng cho nghiêm lệnh:

Đức Cố Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình
1. Triệt để thi hành Sắc lệnh Tự do Tín ngưỡng mà Chủ tịch HCM đã ban bố tại Hà Nội ngày 14/5/1955 cũng như chính sách 10 điểm mà Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền nam Việt Nam đã tuyên bố ngày 1/4/1954, hầu gây tin tưởng và phấn khởi của toàn dân đối với Chính phủ.
2. Chấm dứt các chiến dịch tuyên truyền, bôi nhọ các chức sắc Giáo hội Công giáo Việt Nam.
3. Chặn đứng ngay chiến dịch vận động phi pháp, đòi trục xuất Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Thuận, vì việc trục xuất phi pháp này vi phạm trầm trọng Sắc lệnh Tự do Tín ngưỡng và chính sách 10 điểm của Chính phủ, sẽ gây nguy hại cực kỳ lớn lao không lường được về đối nội cũng như đối ngoại cho quốc gia và dân tộc.

Ta thấy Đức Tổng giám mục Phaolo Nguyễn Văn Bình lúc này rất cứng cáp và can đảm, nhưng kể từ khi có 4 ông cố vấn của Ủy ban Đoàn kết, ngài đã yếu đi, không cứng rắn và can đảm như trước. Vào cuối đời, Đức cha Nguyễn Văn Bình đã tâm sự: “Ngài sợ” và khi gần chết vẫn còn sợ cộng sản.

Hai tháng sau, ngày 15/8/1975, bất chấp kháng thư của Đức cha Bình, cộng sản đã bắt Đức cha Nguyễn Văn Thuận, câu lưu ngài tại Cây Vông, thuộc tỉnh Khánh Hòa và sau cùng đày ngài ra Bắc cầm tù 13 năm, trong đó có 9 năm biệt giam.

Các linh mục kia đã lập công, nên đã được chọn làm lãnh tụ cho Ủy ban Đoàn kết, tay sai của Đảng cộng sản Việt Nam.

B. Ủy ban Đoàn kết xuyên tạc Thư chung 1980 của HĐGM Việt 
Nam

Ngày 1/5/1980, Hội đồng Giám mục Việt Nam có gửi một Thư chung cho toàn thể linh mục, tu sĩ và giáo dân Việt Nam.

Đây là Đại hội đầu tiên của toàn thể các Giám mục Việt Nam thống nhất. Sau khi Hội đồng Giám mục Việt Nam cho dân Chúa biết về một tuần làm việc của Hội đồng Giám mục tại Hà Nội, ý nghĩa của việc viếng mộ hai thánh Tông đồ ở Roma và việc tham dự Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã đưa ra một đường hướng mục vụ với chủ đề: “Giáo hội đồng hành với Dân tộc”, và kêu gọi người Công giáo: “Sống Phúc âm giữa lòng Dân tộc”. Dân tộc mà Hội đồng Giám mục và toàn thể nhân dân Việt Nam đang bị đảng Cộng sản đầy đọa, áp bức, bóc lột, mất hết tự do. Người Công giáo phải đồng hành với nhân dân Việt Nam, chia sẻ nỗi đau khổ, mất mát về tinh thần cũng như vật chất, quyết đấu tranh cho con người, chống lại một chế độ vô nhân đạo, chống lại thiểu số đảng viên cộng sản phè phỡn sống trên xương máu của người dân.

Về giá trị của Thư chung năm 1980, cha Nguyễn Ngọc Tỉnh, OFM, viết: “Chỉ cần nhìn các trích dẫn, chúng ta dễ dàng nhận ra nền tảng của Văn kiện, đó là Lời Chúa, là Giáo huấn của Công đồng Vaticano II, Giáo huấn của hai vị Giáo hoàng Phaolo VI và Gioan Phaolo II. Điều cần lưu ý là Văn kiện đã được sự đóng góp của nhiều chuyên viên trong các lãnh vực: Thần học, Kinh thánh, Xã hội…Nhưng điều hiển nhiên hơn cả, là khi đọc thư mục vụ 1980, ta có cảm tưởng đang hít thở không khí trong lành, lạc quan như của Hiến chế “Vui mừng và Hy vọng” của Công đồng Vatican II. Thư chung 1980 của Hội đồng Giám mục Việt Nam chính là cẩm nang, là văn kiện định hướng cho các tín hữu Công giáo Việt Nam đầu thập niêm 80 của thế kỷ trước. Và như đã nói trên, chính vì Văn kiện dựa trên Lời Chúa cũng như Giáo huấn của Công đồng Vaticano II và các Giáo hoàng, nên không có lý do gì để hoài nghi về nội dung. Và cũng chính vì vậy, mà ta cũng có thể nói: Thư chung 1980 không chỉ có giá trị vào thời điểm được viết ra và công bố, nhưng còn có giá trị cho bất cứ giai đoạn nào, bất cứ hoàn cảnh nào” (Nguyễn Ngọc Tỉnh, Thắp một Ngọn nến cho Thái Hà, 2010, trg. 146-147).
Lm Võ Thành Trinh đã chết, song người đời còn nhắc mãi đến ông vì những gì ông đã làm

Thế nhưng, Ủy ban Đoàn kết đã xuyên tạc ý nghĩa tốt đẹp của Thư chung 1980 của hàng Giáo phẩm Việt Nam. Linh mục Võ Thành Trinh, chủ tịch Ủy ban Đoàn kết và các linh mục khác của Ủy ban, mà dân chúng gọi là “quốc doanh” đã lợi dụng lời kêu gọi đó để vận động, tuyên truyền cho nhà nước cộng sản.

Linh mục Võ Thành Trinh nói: “Yêu nước phải gắn liền với Chủ nghĩa Xã hội” Ông còn kêu gọi Ủy ban Đoàn kết phải cấp bách hoạt động cho Chủ nghĩa Xã hội, Chủ nghĩa cộng sản: “Chúng ta càng ngày càng làm cho đông đảo đồng bào Công giáo thấy rõ: yêu nước là vinh quang, yêu nước bây giờ là xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, không còn con đường nào khác”.

Kể từ đó, Thư chung 1980 bị Ủy ban Đoàn kết khai thác theo hướng tuyên truyền có lợi cho cộng sản.

Trong bài Báo cáo Tổng kết của Ủy ban Đoàn kết tại Đại hội “những người Công giáo Việt Nam yêu Tổ quốc yêu đồng bào” năm 2003, linh mục Phan Khắc Từ đã nói: “Đường hướng sống phúc âm giữa lòng dân tộc được Hội đồng Giám mục Việt Nam đề ra từ năm 1980, đã tác động thức đẩy phong trào yêu nước trong đồng bào công giáo phát triển mạnh mẽ. Lời dạy của các vị chủ chăn Công giáo Việt Nam cũng chính là sự nhìn nhận những hoạt động thường xuyên của phong trào và Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam”.

Cùng với Ủy ban Đoàn kết, đảng cộng sản cũng khai thác Thư chung 1980. Ông Phạm Thế Duyệt, Chủ tịch UBMT Tổ quốc Việt Nam, trong bài phát biểu tại đại hội nói trên, sau khi ca ngợi hàng loạt “thánh tích” của Ủy ban Đoàn kết, đã nói: “Thành tích đó khẳng định tính đúng đắn của đường hướng mà Hội đồng Giám mục Việt Nam đã lựa chọn, thể hiện trong Thư chung 1980 là sống Phúc âm giữa lòng dân tộc”.

Thành tích của Ủy ban Đoàn kết trong việc xuyên tạc ý nghĩa của Thư chung 1980 đã có những kết quả bi đát. Cha Nguyễn Ngọc Tỉnh đã từng đặt vấn đề về câu khẩu hiệu này và ngài cũng đã trả lời: “Trong suốt năm 2007, khi phong trào dân oan đi đòi công lý rộ lên từ Bắc chí Nam, từ nông thôn tới thành thị, Giáo hội Công giáo làm thinh. Khi nổi lên vụ khai thác boxit, các nhà trí thức công khai bày tỏ ý kiến, yêu cầu nhà nước ngưng triển khai dự án, Giáo hội Công giáo làm thinh. Khi những người mạnh dạn tố cáo tham nhũng, khi các nhà đấu tranh cho tự do dân chủ lần lượt theo nhau vào tù, Giáo hội Công giáo làm thinh. Khi người dân bày tỏ lòng yêu nước cùng xuống đường tuần hành biểu tình chống Trung quốc chiếm hai đảo Hoàng Sa và Trường Sa, nhiều học sinh, sinh viên và dân thường bị bắt, bị bỏ tù, Giáo hội Công giáo làm thinh. Thế thì câu hỏi đặt ra là, trong những hoàn cảnh bức thiết đến như vậy, trong khi những cá nhân bất chấp bao phiền toái cho bản thân, bất chấp hiểm nguy cho tính mạng, dám can đảm đi đòi công lý, dám hiên ngang tỏ bày lập trường, mạnh mẽ nói lên lòng yêu nước, một niềm gắn bó với tiền đồ dân tộc, thì những người Công giáo, bắt đầu từ những vị lãnh đạo xem như chẳng có chi liên quan tới mình, để mình pahir bận tâm. Trong hoàn cảnh đó, làm sao có thể chứng minh cho mọi người rằng Giáo hội Công giáo Việt Nam chúng ta đang sống Phúc âm giữa lòng dân tộc, đang đồng hành với dân tộc hôm nay? “(Id trg. 152-153)

Tình trạng bi đát này là thành tích của Ủy ban Đoàn kết đáng được đảng ca ngợi.

Phần 2

A. Ủy ban Đoàn kết: nô lệ Đảng Cộng sản 10 năm

Ngày 25/4/1985, Ủy ban Đoàn kết mừng 10 năm phục vụ đảng cộng sản trong tư cách nô bộc. Một bản báo cáo đã được đọc trong Đại hội năm đó.

Trước hết, Ủy ban Đoàn kết đã hết lời ca ngợi đảng “đã làm mọi cách, tạo mọi điều kiện có thể trong 10 năm qua, để người Công giáo thành phố HCM được chan hòa vào đời sống chung của đồng bào”.

Có thật vậy không? Chúng ta biết rằng, chỉ mới ba năm sau khi cướp chính quyền ở Miền Nam, chính quyền cộng sản đã ngay lập tức triển khai chính sách triệt hạ Giáo hội Công giáo, bằng cách tàn phá các Trung tâm Đào tạo Tu sĩ và Linh mục. Đêm 25/1/1978, cộng sản đã ra quân tấn công hàng loạt các tu viện của các Hội dòng tại Thủ Đức: Học viện Dòng Chúa Cứu Thế, Dòng Đaminh, Dòng Don Bosco, Dòng Xito, Dòng Lasalle. Cộng sản tịch thu nhà cửa, tài sản, đuổi các tu sĩ ra khỏi tu viện của họ, qui chụp các tội danh một cách vô căn cứ: nào là có khí giới chống cách mạng (Vụ cha Tiến Lộc, Dòng Chúa Cứu Thế, để trên tủ một súng lục cong nòng mà các em để tử nhặt được ngoài ruộng, bị gán cho tội tàng trữ vũ khí chống cách mạng, sau đó bị kết án 6 năm tù), nào là có giấy tuyên truyền chống cách mạng…

Ủy ban Đoàn kết lại còn khoe công của mình trong việc tuyên truyền Chủ nghĩa Xã hội. Bản báo cáo viết: “Có người nói tôi yêu nước, nhưng tôi không yêu Chủ nghĩa Xã hội. Đó là nói theo sự tự do chủ quan của cá nhân. Còn nói yêu nước theo nghĩa thực tâm đi với dân tộc, tiến lên với đất nước theo qui luật tiến hóa của lịch sử loài người và của riêng dân tộc Việt Nam trong thời đại ngày nay, thì không có con đường nào khác để yêu nước đúng nghĩa và có hiệu quả thiết thực, ngoài con đường xây dựng Chủ nghĩa Xã hội như chúng ta đang được đảng lãnh đạo, tiến hành làm với cả nhân dân”.

Ủy ban Đoàn kết nói về Chủ nghĩa Xã hội mà không ngượng miệng. Trong thực tế, Chủ nghĩa Xã hội đã bần cùng hóa nhân dân, nô lệ hóa nhân dân, bóc lột nhân dân,, cướp phá đất đai, tài sản nhân dân, nhân dân mất hết tự do,, bị bịt mồm bịt miệng, bị bỏ tù đày đọa. Nhân dân chịu hết nổi nên chấp nhận vượt biên với bao nguy hiểm để trốn chế độ cộng sản. Họ chấp nhân bỏ lại tài sản, bất chấp tù đày nếu bị bắt, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng. Trong chế độ cộng sản, quyền lợi tối thượng là quyền lợi của đảng và đảng viên. Mục tiêu tối thượng của cộng sản Việt Nam là giữ vị thế độc tôn của đảng viên với bất cứ giá nào, không có vấn đề ích quốc lợi dân, nhưng là quyền và lợi của đảng và đảng viên. Chế độ cộng sản là chế độ thối nát, bất công, tàn ác. Đạo đức xã hội ngày càng băng hoại với việc phá thai nằm trong chính sách, hàng trăm ngàn cô gái bị bán đi làm ddiems hay vợ hờ, khai thác sức lao động của giới trẻ qua các văn phòng dịch vụ lao động nước ngoài, đất đai của đất nước bị đảng cắt dâng cho Trung quốc ..vv..vv..

Bản báo cáo của Ủy ban Đoàn kết tiếp tục ca ngợi đảng: “Nhờ có giải phóng, đất nước được độc lập, thống nhất, nhân dân ta mới xóa bỏ được thể chế một xã hội bất công, thối nát, thiết lập ra những thể chế xã hội mới, một phương thức sản xuất mới qua đó người lao động xây dựng phẩm chất đích thực co cuộc sống của mình, có tình nghĩa, lẽ phải. Dân tộc đã nhân lên hàng trục triệu lần những giá trị làm người như thế yêu nước là yêu Chủ nghĩa Xã hội theo cách hiểu và thực hiện của Đảng lãnh đạo. Không thể nào khác được. Hiểu Chủ nghĩa Xã hội cách khác hoặc yêu nước cách khác là chưa thực tâm đi với dân tộc. Đó là con đường duy nhất cho phép xây dựng phẩm chất đích thực cho cuộc sống và phát triển cơ sở đó, người Công giáo mới có điều kiện sống theo đòi hỏi của Tin mừng Đức Kito.”

Năm 1985, tức 10 năm sau biến cố 30/4/1975, lập trường chính thức của Ủy ban Đoàn kết là như thế.

Nhìn vào thực tại, mọi sự đều trái ngược với những gì Ủy ban Đoàn kết vừa trình bày. Xã hội cộng sản là xã hội hết sức bất công, thối nát hơn hàng triệu lần sự bất công và thối nát của các chế độ khác trước kia trên đất nước. Thể chế mới mà đảng và Ủy ban Đoàn kết tuyên truyền về cộng sản, thực chất là thể chế bóc lột người dân, người lao động cách dã man, nên làm gì có xây dựng phẩm chất đích thực, làm gì dân tộc nhân lên hàng triệu lần những giá trị làm người. Ủy ban Đoàn kết dối dân không biết ngượng.

B. Ủy ban Đoàn kết: chống phong Thánh các tử đạo Việt Nam

Trong vụ phong Thánh, Tòa Thánh đã thực hiện một cách hết sức nghiêm túc các qui trình đã được Bộ phong Thánh qui định, chứ không phải là một sáng kiến mới của Tòa Thánh nhằm chống lại chế độ cộng sản Việt Nam như ông Nguyễn Quang Huy, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ thời đó, đã nói trong một Văn thư gửi Hội đồng Giám mục Việt Nam:

1. Trước hết, Thánh bộ phong Thánh của Giáo hội đã chấp nhận các Thỉnh Nguyện thư xin phong Thánh cho 117 Thánh tử đạo Việt Nam: Thỉnh Nguyện thư của Hội đồng Giám mục Việt Nam(16/11/1985), của Dòng Đaminh (28/12/1985), của Hội Thừa sai Paris (2/2/1986), của Hội đồng Giám mục Phi (13/5/1986) và của Hội đồng Giám mục Tây Ban Nha (19/6/1986).

2. Ngày 22/5/1987, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolo II đã chủ tọa Cơ Mật Viện để hỏi các thành viên bỏ phiếu chấp thuận việc phong Thánh cho 117 Thánh tử đạo Việt Nam. Ngày 29/5/1987, Tòa Thánh đã có văn bản quyết định phong Thánh cho các Thánh Tử đạo Việt Nam vào ngày 26/6/1988.

3. Trước quyết định phong Thánh của Giáo hội, đảng Cộng sản coi quyết định này như một hành động chống chế độ cộng sản, nên đã phản ứng cách mạnh mẽ và tìm mọi cách ngăn chặn vụ phong Thánh này với sự cộng tác đắc lực của Ủy ban Đoàn kết.

Ngày 18/9/1987, Ban Tôn giáo Chính phủ đã triệu tập Ban Thường vụ Hội đồng Giám mục Việt Nam để phê phán vụ phong Thánh và bàn biện pháp xử lý tình hình phức tạp.

Trước áp lực của Nhà nước, Hội đồng Giám mục Việt Nam, qua Ban Thường vụ, gửi thư và điện văn yêu cầu duy trì việc kính các Chân phúc Tử đạo Việt Nam như cũ không làm gì mới khác (19/9/1987). Tiếp đó, Ban Tôn giáo Chính phủ gửi Văn thư số 01 – TGCP, ngày 12/10/1987 cho UBND, Ban Tôn giáo các tỉnh, thành phố, đặc khu, yêu cầu theo dõi việc thi hành quyết định của Hội đồng Giám mục – thực ra là quyết định của chính phủ.

4. Tuân lệnh đảng, Ủy ban Đoàn kết đã nỗ lực khắp nơi, quyết ngăn cho bằng được việc phong Thánh các Thánh tử đạo Việt Nam.

Tại thành phố Sài Gòn, Mặt trận Tổ quốc, với sự hỗ trợ của Ủy ban Đoàn kết, đã tổ chức những buổi tập hợp các linh mục, tu sĩ, giáo dân trong các quận, huyện và thành phố để phổ biến đường lối của đảng và để chống phá Giáo hội.

Tại quận 3 – nơi tôi ở, Mặt trận Tổ quốc đã tổ chức một buổi họp gồm các linh mục, tu sĩ, giáo dân trong quận vào chiều ngày 18/1/1988, để nghe Ủy ban Đoàn kết trình bày về đường lối của Nhà nước chống lại việc phong Thánh. Một vị linh mục của Ủy ban Đoàn kết đã đọc một Thỉnh nguyện thư có tên là “Thỉnh nguyện thư Việt Nam” để xin chữ ký của cử tọa. Thỉnh nguyện thư này gồm hai đề nghị: Đề nghị thứ nhất là xin hoãn việc phong Thánh và đề nghị thứ hai là xin tách các vị tử đạo thừa sai ngoại quốc ra khỏi danh sách được phong Thánh.

Trong cuộc họp này, chính tôi đã đứng lên phản đối cách làm của các vị lãnh đạo Giáo hội Việt Nam, nhất là việc chính quyền đã ngang nhiên sử dụng Ủy ban Đoàn kết làm cái bung xung phá rối Giáo Hội.

Trước tiên, về việc hoãn phong Thánh, tôi đã nói: “Việc không tham dự vào việc phong Thánh gây bất mãn, có hại đến việc người Công giáo Việt Nam tham gia xây dựng đất nước và cô lập Việt Nam trên chính trường quốc tế, thì đề nghị các Giám mục xin hoãn phong Thánh còn tệ hại hơn. Người ta nghĩ rằng Nhà nước làm áp lực bắt các Giám mục Việt Nam xin hoãn, vì trước kia chính các Giám mục đã phấn khỏi xin phong Thánh. Nếu có đưa ra “Thỉnh nguyện thư” của Ủy ban Đoàn kết thì đó thực chất là mệnh lệnh của Nhà nước, hầu tạo ra một mầu sắc nhân dân, nên dù có thu được hàng triệu chữ ký thì cũng thế thôi”.

Về đề nghị thứ hai là tách các vị tử đạo thừa sai ngoại quốc, tôi có nói: “Đây là thứ đề nghi của những người “Công giáo” mà người Công giáo chân chính gọi là “ăn cháo đá bát”. Các thừa sai ngoại quốc, vì đức tin đã bỏ cuộc sống ổn định, thoải mái ở quê nhà, đi vào một nước lạc hậu để rao giảng Tin mừng cứu độ của Chúa Giêsu. Họ đã bị bắt, bị tra tấn, bị xử tử do các vua chúa thời phong kiến. Họ đã hy sinh mạng sống cho việc rao giảng Tin mừng, tức là họ đã chết vì đạo Chúa để đem Tin mừng cho người Việt Nam. Vì thế, người Công giáo Việt Nam đòi tách riêng người có công đem đức tin Kitô giáo đến cho cha ông họ là “ăn cháo đá bát”, là vô ơn, tạo chia rẽ trong giới Công giáo”.

Tại cuộc họp hôm đó, tôi cũng đã đưa ra hai kiến nghị, một với Giáo hội, một với Nhà nước.

Đối với Nhà nước: “Tôi mong Nhà nước để cho Giáo hội Việt Nam dự cuộc phong Thánh, vì làm như vậy ích lợi cho đất nước hơn là tẩy chay việc phong Thánh mà Giáo hội toàn cầu sẽ cử hành tại Roma”.

Đối với Giáo hội: “Tôi mong Hội đồng Giám mục Việt Nam đừng làm trò cười cho giáo dân cũng như cho thế giới bên ngoài, mà xin Tòa Thánh hoãn việc phong Thánh và xin tách các vị tử đạo thừa sai ngoại quốc. Thật là môt trò trẻ con, không thể chấp nhận được với dư luận quốc nội cũng như quốc tế khi Hội đồng Giám mục đã từng phấn khởi xin phong Thánh, nay lại xin hoãn, xin tách. Hội đồng Giám mục Việt Nam sẽ mất hết uy tín đối với giáo dân Việt Nam cũng như với giáo hữu toàn cầu. Trong tình trạng đó, các giám mục không còn mấy ảnh hưởng để thúc đẩy giáo dân Việt Nam vừa hăng say xây dựng đất nước vừa trung thành giữ vững đức tin”. (Chân tín, Nói cho Con người, trang 46-52).

Sau sự can thiệp của tôi, Ủy ban Đoàn kết đã không dám xin chữ ký ủng hộ Thỉnh nguyện thư của họ và sau đó, như Đức cha Nguyễn Quang Tuyến – giám mục giáo phận Bắc Ninh cho biết, các giám mục đã nhất trí xin tiếp tục xin Tòa Thánh phong Thánh cho 117 Thánh tử đạo Việt Nam.

Vụ việc phong Thánh sau đó dù vẫn bị chính quyền, với sự tiếp tay của Ủy ban Đoàn kết, đã tìm hết mọi cách ngăn cản, nhưng với sự kiên quyết của Tòa Thánh trong lời tha thiết cầu nguyện của cộng đồng Dân Chúa, các Chân phúc Tử đạo việt Nam đã được tuyên phong hiển Thánh đúng như ý Chúa muốn.

Nói lại những điều này hôm nay để thấy rõ bộ mặt của Ủy ban Đoàn kết đích thực là gì? Nói như linh mục Phan Khắc Từ, trong cuộc trả lời phỏng vấn của anh J.B Nguyễn Hữu Vinh – giáo dân Tổng giáo phận Hà Nội, thì Ủy ban Đoàn kết “Không phải của Giáo hội mà là của Mặt trận, đương nhiên là của Đảng.” Đảng thành lập, đảng nuôi dưỡng, đảng vạch đường chỉ lối. Tóm lại, Ủy ban Đoàn kết chỉ là cái bung xung của đảng nhằm ngăn chặn và làm tha hóa Giáo hội, biến Giáo hội thành một tôn giáo quốc doanh phục vụ cho nguyện vọng và ý chí của đảng.

Nói lại những điều này hôm nay, cũng là để thấy rằng “Ủy ban Đoàn kết Công giáo” chỉ là một tổ chức giả danh Công giáo, dù nấp bóng dưới hình thức và tên gọi nào, thì bản chất của nó vẫn là thế.

Tiếc rằng, hiện nay, theo con số không chính thức, vẫn còn có khoảng 103 linh mục trong cả nước tham gia vào cái gọi là Ủy ban Đoàn kết với nhiều lý do khác nhau: muốn được dễ dãi, tham gia cho vui, sợ, hay vì một lý do nào khác. Dù với bất cứ lý do gì, thì đã tới lúc các vị cần can đảm quay trở lại, để không còn phải nghe ai nói: “Theo Chúa nửa vời, một đời uổng công”, nhất là để chung tay đưa cái gọi là “Ủy ban Đoàn kết’ xuống mồ như ý chí và nguyện vọng của mọi thành phần Dân Chúa Việt Nam.

Lm. Chân Tín
DCCT, Nhà Thờ Kỳ Đồng, P9, Q3   

Diễn biến ngoài phiên toà xử các nhà hoạt động XHDS thuộc HAEDC

 
 

Diễn biến ngoài phiên toà xử các nhà hoạt động XHDS thuộc HAEDC sáng 5-4-2018 tại HN.

Nhiều người đi đến dự toà có mang khẩu hiệu DÂN CHỦ KHÔNG PHẢI LÀ TỘI.

FB Trịnh Bá Phương : phóng viên AFP vừa cho biết mẹ tôi ( Bà Cấn Thị Thêu) và nhiều người đã bị bắt.
Trước đó họ đã bắt Nguyễn Thuý Nguyễn Thúy Hạnh

( Tin ảnh FB )

Image may contain: 2 people, people sitting and text
Image may contain: 4 people, people standing
Image may contain: 1 person, text
 

Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ

httpv://www.youtube.com/watch?v=VZ8YsBpE-bs

Viet Nam Que Huong Ngao Nghe (Nguyen Duc Quang) BHXNK

Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ

Nhạc sĩ : Nguyễn Đức Quang
Ban Hợp xướng Ngàn Khơi
Video Full HD.

Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ 
Tác Giả: Nguyễn Đức Quang 
———————————————————- 
Ta như nước dâng dâng tràn có bao giờ tàn 
Đường dài ngút ngàn chỉ một trận cười vang vang 
Lê sau bàn chân gông xiềng một thời xa xăm 
Đôi mắt ta rực sáng theo nhịp xích kêu loàng xoàng

Ta khua xích kêu vang dậy trước mặt mọi người 
Nụ cười muôn đời là một nụ cười không tươi 
Nụ cười xa vời nụ cười của lòng hờn sôi 
Bước tiến ta tràn tới tung xiềng vào mặt nhân gian

Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại 
Xương da thịt này cha ông ta miệt mài 
Từng ngày qua 
Cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi 
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang 
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang 
Còn Việt Nam 
Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng

Ta như giống dân đi tràn trên lò lửa hồng 
Mặt lạnh như đồng cùng nhìn về một xa xăm 
Da chân mồ hôi nhễ nhại cuộn vòng gân trời 
Ôm vết thương rĩ máu ta cười dưới ánh mặt trời 
Ta khuyên cháu con ta còn tiếp tục làm người 
Làm người huy hoàng phải chọn làm người dân Nam 
Làm người ngang tàng điểm mặt mày của trần gian 
Hỡi những ai gục xuống ngoi dậy hùng cường đi lên

*
Video Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ 
Ban Hợp xướng Ngàn Khơi   

Một trung úy an ninh của Cộng Sản trở về với Chúa

 

Một trung úy an ninh của Cộng Sản trở về với Chúa

Nhà văn PhaoLô Nguyễn Hoàng Đức, một chứng nhân sống động của Chúa, của Chân phước F.X Nguyễn Văn Thuận. Ông từng là trung úy an ninh, công tác tại cục “chống phản động” A16 thuộc Bộ Nội Vụ, phụ trách vấn đề tôn giáo.

Năm 1987, ông có dịp gặp ĐHY F.X Nguyễn Văn Thuận lúc đang bị giam cầm để học tiếng Pháp. Sau gần hai năm học cùng ngài, ông được khai sáng Đức Tin Thiên Chúa. Một thời gian sau khi ĐHY được trả tự do sau 13 năm giam giữ bất công, ông Đức cũng từ bỏ ngành công an và chính thức trở thành con cái Chúa vào dịp lễ phục sinh 2003.

Tôi được ông gửi tặng bản photo viết tay này trong lần gặp ở Hà Nội vào tháng ba vừa rồi. Câu chuyện này đã giúp tôi gia tăng thêm Đức Tin cả về lý trí lẫn linh hồn. Một câu chuyện tuyệt vời, sống động mà tôi muốn đánh máy lại để chia sẻ cùng các bạn, những người yêu mến Chúa như một món quà tặng gửi các bạn trong tuần Thánh và những ngày Phục Sinh sắp tới.

Tôi viết bài này để chia sẻ và hiệp thông cùng cảm ơn Cố Hồng y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận trong niềm hân hoan còn tươi dấu cuộc khai sinh lần hai, khi sinh làm con Thiên Chúa trong nước rửa tội và thần khí thiêng liêng, đúng dịp lễ Phục sinh, thứ bảy, ngày 19 tháng 4, năm 2003.

Lễ Phục sinh, Thế giới đón nhận hồng ân Thiên Chúa đã chết và sống lại sau biến cố vượt qua đầy nhiệm mầu thánh hiến. Riêng đối với tôi, đã được đón nhận ân sủng Phục sinh bằng cả một cuộc trải nghiệm, đầy ánh sáng rọi soi từ hiện thực.
Thứ nhất: Tôi đã được rửa tội trong nước và thần khí Thiên Chúa. Để vượt qua từ công dân trần gian trở thành công dân nước Chúa.

Thứ hai: Kể từ đầu tháng 4 năm 1993 tôi mắc bệnh thần kinh tọa rất nặng, người cong vẹo hình chữ “C” mới đầu là chân phải bị teo, sau đó đến chân trái. Sau nữa cơ thể phù lên từ dưới da, và ra máu xấu từ ngón chân lên tận đỉnh đầu. Tất cả kéo dài hơn 10 năm, cho đến khi tôi tham dự lớp dự tong tháng 10 năm 2002, thì trên mặt vẫn còn bị lở loét, việc đó có linh mục Nguyễn Xuân Thủy, linh mục An Tôn Nguyễn Văn Thắng, Các thầy Phanxico Asisi Doanh và thầy Hùng, thầy Hải, thầy Kỳ, cùng các bạn trong lớp dự tong đều thấy. Vào dịp tháng 8 năm 2001, học giả, dịch giả Trần Thiện Đạo khá nổi tiếng từ Pháp về thăm Việt Nam có đên thăm tôi và chụp ảnh cùng. Tôi vẫn còn giữ tấm ảnh mà khuôn mặt vừa cương cứng vừa phù sưng toàn máu đọng và lở loét. Cách lễ rửa tội vài ngày thôi, Linh mục Thomas Thủy và thầy Phanxico Doanh thấy mặt tôi vẫn còn lở loét nên ái ngại hỏi: “Sức khỏe của anh Đức thế nào?”

Trong quá trình trị bênh tật, nhiều đêm đằng đẵng liên tục lo bóp nặn máu mủ, nhưng tôi vẫn yên tâm sống và làm việc bởi tin vào hai giấc mơ Chúa đã mạc khải cho tôi.

Giấc mơ thứ nhất, trước ngày tôi bị ốm là: Tôi vào trong buồng tắm vặn nước chỉ thấy phân chảy ra, tôi chạy ra vòi nước khác vặn, vẫn thấy phân chảy ra, và vài vòi nước khác ở trong và ngoài nhà cũng chỉ có phân chảy ra, sáng ra lúc tỉnh dậy người tôi rất nặng nề và u uất.

Giấc mơ thứ hai, cách một ngày sau là: Tôi lắp đặt một vòi nước mới bắc qua một mảnh vườn mới, nó phun lên toàn nước sạch, xối xả, mạnh mẽ, khi tỉnh dậy, người tôi rất sảng khoái, và dường như tôi được mặc khải để suy ra điều rằng: Ống nước là hình tượng của ống xương hay hệ dây thần kinh, nó đang chứa chất bẩn và độc như phân. Sau đó sẽ trào vọt một nguồn nước sạch mới và ta sẽ khỏi bệnh.

Trong quá trình bệnh tật, nhiều lúc quá đau đớn tôi đã từng muốn hờn trách, thậm chí nguyền rủa Thiên Chúa, nhưng tôi vẫn nghĩ đến hình ảnh của ông Gióp. Ngài bị bệnh bảy năm lở loét hôi thối đầy người, bị vợ con xa lánh có lúc không chịu được ngài chê trách Thiên Chúa “sao không để cho ngài được chết” tôi nghĩ tôi đã có được hình ảnh của ông Gióp để làm gương, vậy không thể nào lặp lại “dấu ngã lòng” đó, vì thế mà tôi vẫn cắn răng chịu đựng. Thêm nữa trong quá trình bệnh tật, tôi tự ngẫm thấy mình nhận được quá nhiều ánh sáng vinh quang của Chúa, mà không có Chúa trợ giúp và dẫn dắt, tôi không thể làm được. Trong thời gian đó tôi đã viết được hàng chục cuốn sách, gồm chuyên luận, truyện ngắn, trường ca… có những cuốn quan trọng như “Y hướng tính văn chương” – có hẳn một chương bàn về Thượng Đế, “Hành trình nhận thức nhân loại”, “Hành trình tâm linh nhân loại”, và trường ca thần học “ Ngước lên cao” – Tôn vinh Chúa và đức tin của con người. Tôi luôn nghĩ, vinh quang là món quà lớn nhất mà Chúa đã trao cho ta, thì ta còn kêu ca về những đớn đau thể xác làm gì?(!)

Vào dịp rửa tội – lễ phục sinh tôi xuất hiện trước mắt mọi người tinh tuyền, sạch sẽ. Và tôi chiêm nghiệm đó là món quà Chúa ban cho tôi: Vượt qua một cơ thể đầy rẫy bệnh tật u ám để phục sinh thành con cái Chúa trong một thân xác mới.

Thứ ba: Trước lễ rửa tội một tuần, bố tôi bảy mươi tuổi lâm bệnh rất nặng, tôi phải về nhà đưa cụ vào bệnh viện Việt – Xô cấp cứu. Ngay trong đêm đó, bệnh viện hội chẩn và quyết định mổ, sau ca đại phẫu lấy mật cho cụ, lúc 3 giờ sáng tôi trở về nhà, việc đầu tiên tôi mặc quần áo, leo lên gác xép, thắp 3 ngọn nến cầu nguyện Thiên Chúa ban phước lành để bố tôi vượt qua bệnh tật. Mỗi ngọn nến nhỏ hơn ngón tay út, được cắm vào chiếc đế bằng sứ nhỏ như đáy chén. Vậy mà tôi cho rằng một việc như phép lạ đã xảy ra, lúc gần 9 giờ sáng tôi tỉnh dậy, vẫn thấy một ngọn nến còn cháy. Như vậy một ngọn nến bé xíu, cùng một chút nến còn sót lại nơi đế chén đã cháy bảy giờ đồng hồ. Tôi nghĩ Chúa Thánh Thần đã ban cho tôi sự ấm lòng, Ngài như muốn bảo: “Ta cho con một dấu chỉ để con yên tâm”. Trọng bệnh của bố tôi dần dần bình phục. Vào ngày tôi rửa tội, tôi nghe, sang tuần bố tôi có thể xuất viện. Như vậy Chúa không chỉ cho bố tôi sức khỏe, cho gia đình tôi bình an, mà còn cho tôi một đêm rửa tội an bình, thuận buồm, xuôi gió. Và tôi tự chiêm nghiệm rằng: với gia đình và tôi, đây cũng là ân sủng phục sinh của phép nhiệm mầu vượt qua.

Nhưng tất cả hành trình “vượt qua” để trở thành con chiên của Chúa đó được bắt đầu từ đâu? Lần lại hơn mười năm, nó được bắt đầu từ cái ngày tôi may mắn được gặp Đức cha Phanxico Xavie Nguyễn Văn Thuận. Một triết gia có nói “ Một hòn đá đặt đúng chỗ có thể chuyển hướng chảy cả một dòng sông”, có thể nói Đức cha Nguyễn Văn Thuận là viên đá làm chuyển hướng dòng sông cuộc đời tôi, đặc biệt Ngài khơi nguồn để dòng sông tâm hồn tôi chảy từ trần gian qua miền đức tin hướng về nước Chúa. Nói chính xác hơn, cho đến nay tự thân tôi vẫn luôn đánh giá, việc gặp Đức cha Nguyễn Văn Thuận là “biến cố tha nhân lớn nhất cuộc đời tôi” (le plus grand événement de l’autrui).

Ngài là người nhân ái nhất, trí tuệ nhất, nguyên tắc nhất mà tôi từng gặp. Và Ngài như một hạt men hùng hậu nhất đã gieo vào cuộc đời tôi, để triển nở thành một đức tin vô cùng mãnh liệt. Đến nay, dù tôi sống vẫn còn nhiều vấp phạm, song tôi không bao giờ có thể mảy may nghi ngờ: “Chúa là sức mạnh lớn nhất trong tôi. Chúa là vinh quang lớn nhất cuộc đời tôi!”

Sự việc bắt đầu thế này. Trước kia tôi là sinh viên khóa VI của Đại học An Ninh, còn gọi là C500, đóng ở khu vực giáp khu Thanh Xuân, Hà Nội. Tôi học từ năm 1974, đến năm 1979 ra trường được phân về công tác tại cục “ Chống phản động” tức A16 thuộc Bộ Nội Vụ. Thời gian đầu tôi công tác tại phòng “Dân tộc”. Sau bảy năm, số phận bắt đầu đưa đẩy tôi vào một sự sắp đặt mới, tôi được chuyển sang phòng “Tôn giáo”. Mới về phòng, tôi đã nghe anh em bàn tán về việc của Đức cha Nguyễn Văn Thuận. Nào là “ Ngài giỏi lắm, biết đến tám ngoại ngữ!” “Ngài nhân từ với mọi người!” “ Ngài bị cầm tù mà lúc nào cũng vui vẻ và tràn đầy hy vọng”… rồi tôi cũng được xem tập hồ sơ của Ngài. Cái ấn tượng đầu tiên của tôi là ảnh Ngài chụp chung với khoảng 200 tu sinh và thanh thiếu niên mặc toàn đồ trắng trên bãi biển Nha Trang. Và cái tội lớn nhất của Ngài trong tập hồ sơ là: Thành lập “Tu hội Hy Vọng” và là thành viên của gia đình “mũ rất to” là Ngô Đình Diệm (Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa).

“Mỹ Ngụy” hồi đó hay “Hán Ngụy” bây giờ?..”

Image may contain: 1 person, eyeglasses, suit and closeup

Tiếng Dân Tôi TV

“Mỹ Ngụy” hồi đó hay “Hán Ngụy” bây giờ?. Bài viết rất hay , chính xác .

By Stephen B. Young , luật sư Hoa Kỳ vợ người Việt . Bài này ông viết bằng chữ Việt

Ảnh của Toản Trần.
Người Hoa Kỳ, hành nghề luật sư, thông thạo Việt ngữ (vợ người VN).Không ngờ một người Mỹ lại rành lịch sử Việt Nam đến vậy.
Stephen B. Young

Mở đầu:

“..Trước đây, cái gọi là đảng Cộng Sản chụp mũ những người Việt nam không Cộng Sản mà hợp tác với Mỹ Quốc để giữ độc lập cho miền Nam Việt Nam là “Mỹ Ngụy” .

Bây giờ, nhìn về quá khứ thì chúng ta có thể đánh giá ai có công lớn hơn cho Dân Tộc Việt nam:

“Mỹ Ngụy” hồi đó hay “Hán Ngụy” bây giờ?..”
Ai thống trị Việt Nam ngày nay?

Có một tổ chức hiện nay cai trị Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau như là vua chúa Phong kiến ở Tàu hay ở Âu châu thời Trung cổ. Một bộ máy võ trang tập trung các quyền hành lớn trong tay; không được dân bầu lên, và dân tuyệt đối không có quyền kiểm soát hay phê bình.

Tổ chức này mang tên là “Đảng Cộng Sản Việt Nam”.

Nhưng, thực sự, tổ chức nầy có phải là một Đảng đúng nghĩa của một đảng hay không?

Đáng lẽ ra một Đảng chánh trị phải có một chánh nghĩa, một sức mạnh do một lý tưởng, một nền tảng triết lý hay lý thuyết, một khuynh hướng thể hiện nguyện vọng của đảng viên để hành động nhằm phục vụ đất nước và dân tộc của mình.

Vì vậy, nếu cái gọi là Đảng Cộng Sản mà không phải là một Đảng đúng nghĩa, thì bộ máy đó là cái gi?

Một tập thể những người có chung một chí hướng tôn thờ người ngoài, một công ty làm ăn, một tổ chức mafia khai thác thị trường đất nước của họ chăng?

Như vậy chúng ta có vài tiêu chuẩn để đánh giá cái gọi là Đảng Cộng Sản bây giờ, đó là một đảng phái hay chỉ là một bọn làm ăn thiếu lương thiện?

Tôi đồng ý đã có thời gian cái goi là đảng Cộng Sản ngày nay có những hoạt động như là đảng phái đúng nghĩa. Nhưng những hoạt động ấy tốt xấu, hay dở, có lợi hay có hại cho đất nước Việt nam là chuyện khác.

Tôi nói đó là một “thứ đảng phái” vì lúc ấy đảng Cộng Sản theo ý thức hệ Mác-Lê, vận dụng chủ thuyết mác-lê làm cách mạng võ trang cướp chánh quyền thực dân.

Tiếp theo, đảng cộng sản phát động cuộc cách mạng xã hội, tiến hành giai cấp đấu tranh, đấu tố địa điền chủ, ám sát công chức, trí thức, lãnh đạo tôn giáo, tịch thâu tài sản của người giàu có để sau cùng đưa giới lao động, những tên du thủ du thực, lên cầm quyền và khi vào Bộ chánh trị, lại lãnh đạo đất nước, dân tộc.

Hành động của đảng cộng sản lúc đó có mục đích thi hành “chính nghĩa xã hội chủ nghĩa ” theo ý hệ Mác-Lê.

Nhưng từ lâu lắm rồi, cái gọi là đảng Cộng Sản không còn giống như trước đó nữa. Nó đã hoàn toàn biến chất để trở thành một cái gì khác hẳn. Tức nó không phải cộng sản, không mang nội dung mác-lê, không chủ trương giai cấp đấu tranh để tiến lên xã hội công bằng, người không bốc lột người, như kinh điển mác-lê dạy người cộng sản.

Cách đây vài năm, ông Đặng Quốc Bảo, Khoa giáo trung ương, trong một báo cáo phổ biến hạn chế cho đảng viên cao cấp, nói rằng “hiện tại đảng Cộng Sản không còn chính nghĩa chút nào vì thuyết Mác-Lê lỗi thời và cũng không đúng, không khoa học”. Theo ông Bảo, thì đảng cộng sản không nên áp dụng thuyết ấy nữa. Hai ông Mác và Lê đã nghĩ sai về vũ trụ, về trời đất, về đời sống nhân loại. Vậy người thông minh phải vứt bỏ chủ thuyết Mác-Lê.

Nếu ông Bảo đánh giá lý thuyết Mác-Lê đúng, thì đảng Cộng Sản không có một chính nghĩa nào để vẫn khẳng định tiếp tục đưa Việt nam đi theo con đường của mác-lê.

Vậy đảng cộng sản là cái gì?
Chỉ là một tập hợp những người đầy tham vọng và quyền lực. Họ không khác gì một thứ giặc cướp đối với nhân dân.

Ông Bảo nói thêm rằng “ tổ chức anh chị em cán bộ phải giữ quyền cai trị Việt Nam vài năm nữa, vì nếu không có một lực lượng mạnh giữ ổn định chính trị xã hội, thì nước sẽ loạn và dân sẽ khổ ”.

Lấy sự ổn định làm chính nghĩa của mình không có ý nghĩa tốt đẹp vì hoàn toàn thiếu thuyết phục.

Chính nghĩa ổn định, nhiều người bình thường có thể nói và thi hành. Cần gì phải có cái gọi là đảng Cộng Sản với 3 triệu đảng viên, với vai trò lãnh đạo toàn diện đất nước và xã hội ?

Quân Đội làm được. Phật Giáo làm được. Việt Quốc làm được. Ai cũng hy vọng làm được. Cái gọi là đảng Cộng Sản không thể tự cho là chỉ có họ mới làm được.

Theo tuyên truyền của đảng cộng sản, trong quá khứ, họ có công đức lớn để đứng trên và trước mọi người khác. Tức họ cho rằng họ có vai trò lịch sử Có đúng như vậy không?

Để trả lời, giờ đây, Bộ Chính Trị hãy tổ chức gọi hồn các đồng chí của họ đã chết, chết vì hi sinh hay chết oan vì đảng cũng được, để hỏi công việc đảng làm. Rồi, có lẽ họ nên gọi hồn để hỏi cái gọi là đảng cộng sản thật sự có công đức với dân tộc Việt Nam hay không?

Rồi, họ có thể gọi hồn để hỏi đảng cộng sản tại sao ngày nay vẫn nói đi theo mác-lê, mà trên thực tế không thấy xã hội việt nam chuyển biến theo mô hình” chính nghĩa Mác-Lê.” một chút nào nữa. Vậy thì cái đảng này nên tự giải tán, và có mang tội với đất nưóc, với dân tộc không?

Chúng tôi cũng có thể gọi hồn như Bộ Chính Trị. Chúng tôi có thể gọi hồn các vị cũng nằm xuống, vì nhiều lý do khác nhau, hỏi họ về công đức của cái gọi là đảng Cộng Sản.

Thí dụ, hỏi Đức Huỳnh Giáo Chủ của Phật Giáo Hòa Hảo, hỏi ông Trương Tử Anh, Đảng trưởng Đại Việt Quốc Dân Đảng , ông Lý Đông A, Thư ký trưởng Đảng Duy Dân, các nhân sĩ yêu nước Ngô Đình Khôi, Nguyễn văn Bông, Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, Hồ văn Ngà, Phan văn Hùm, Nguyễn văn Sâm, … và những người dân Huế chết hồi Tết Mậu Thân, vân, vân, … cho đến 1 ,2 triệu người Việt nam bình thường khác, chết trên biển cả, trong rừng sâu, trong các trại tù rải rác khắp cả nước.

Gọi hồn tất cả những người này về và lắng tai nghe họ nói số phận của dân tộc Việt Nam từ khi Đảng Cộng Sản vận dụng “chính nghĩa Mác-Lê” để cướp lấy quyền lãnh đạo đất nước và giử độc tôn cho đảng .

Xin trả lời: Công đức ở đâu?

Bằng chứng thứ hai cho thấy cái gọi là đảng Cộng Sản là một đảng thì đảng ấy có hành động cụ thể như thế nào? Ngoài sự hiểu biết, sự suy nghĩ, sự tính toán của con người, các hành động của người đó phải cho chúng ta thấy rõ, một cách minh bạch, để kết luận người đó tốt hay xấu, giỏi hay dở, đạo đức hay gian ác, cần tồn tại hay nên vứt đi thôi ?

Cái gọi là đảng Cộng Sản đó, cách đây 8 năm, đã tự động hiến dâng đất đai của tổ tiên để lại cho Bắc Triều mới . Và cả biển nữa! Tại sao?
Để đáp ứng sự đòi hỏi của Bắc Triều mới? Phải.

Ở điểm này, chúng ta hãy nhìn rõ.

Cái gọi là đảng Cộng Sản đó vì nhu cầu tồn tại đã dâng đất, dâng biển cho Bắc kinh. Đây là nhu cầu sanh tử. Đảng cộng sản phải làm một việc tội lỗi như vậy chỉ vì đảng lo sợ nhân dân Việt nam hỏi tội của họ đối với tổ quốc và nhân dân từ trước đến giờ. Mà nhân dân hỏi tội có nghĩa là đảng sẽ bị mất quyền cai trị. Hoặc một vụ Thiên An Môn Việt Nam sẽ xảy ra .

Trước nỗi ám ảnh mất quyền lực, đảng cộng sản cần sự ủng hộ, sự tiếp tay của Bắc Triều mới, mặc dầu có tổn hại đến quyền lợi tối thượng của Quốc gia.

Như vậy đảng cộng sản ở Hà nội không thể tự cho là một đảng có chính nghĩa yêu nước được, mà phải bị kết án là một đảng bán nước mới đúng.

Nếu đảng Cộng Sản Hà nội chuyên tâm phục vụ cho đòi hỏi, tham vọng của Bắc Triều mới, thì Việt nam tất nhiên phải lâm nguy làm thân nô lệ cho Hán Tộc. Nếu chỉ có riêng cái đảng cộng sản làm nô lệ Hán tộc thì chúng ta hà tất phải tốn lời.

Thực tế ở Việt Nam cho ta thấy công an, tình báo của Việt Nam đều do công an, tình báo Trung Quốc đào tạo và cố vấn. Nhờ đó mà công an, tình báo Hà Nội mới có đủ bản lãnh đàn áp những người dân chủ ở Việt Nam, đàn áp dân oan nạn nhân của những vụ đất đai bị đảng cộng sản tước đoạt, đàn áp những vụ biểu tình chống Trung quốc xâm chiếm đất đai bằng vũ lực và thô bạo.

Nhìn lại lịch sử Việt nam thì từ thời Ngô Quyền đến nay, chỉ có vài nhà vua Việt nam theo Bắc Triều một cách xấu hổ như vậy. Có Nhà Mạc phải xin sự ủng hộ của Hoàng đế phương Bắc để đối phó với Nhà Lê. Có vua Lê Chiêu Thống xin Trung Quôc gởi binh qua Hà nội để đánh anh em Nhà Tây Sơn. Có vua Gia Long và Minh Mạng lấy y thức hệ Tống Nho của Nhà Thanh bên Tàu để làm nền tảng đạo lý xây dựng uy quyền cho Nhà Nguyễn.

Nhưng các ông vua này không làm mất đất, mất biển vào tay ngoại bang chỉ vì quyền lợi riêng tư như đảng cộng sản ngày nay.

Cầu viện thường hay lệ thuộc tư tưởng của kẻ khác, khó tránh khỏi bị dẩn đến mất chánh nghĩa quốc gia. Phải chăng vì thế mà Nhà Mạc đã không thắng Nhà Lê, vua Lê Chiêu Thống thua Quang Trung Nguyễn Huệ. Riêng Nhà Nguyễn vì chọn lựa sai lầm học thuyết lỗi thời mà cứ khăng khăng ôm giữ nên thua người Pháp. Tức một thứ lệ thuộc tư tưởng.

Khi có được chỗ dựa mạnh là Bắc kinh, cái gọi là đảng Cộng Sản sẽ đánh bại được toàn dân Việt Nam chăng? Tức đảng cộng sản vĩnh viễn đàn áp, bốc lột nhân dân chăng?

Mới đây khi nghe tin Bắc Kinh tổ chức Hoàng Sa và Trường Sa trở thành môt đơn vị hành chánh mới trực thuôc Tỉnh Hải Nam, lập tức xảy ra nhiều cuộc biểu tình của dân chúng thanh niên, sinh viên ở TP Hồ Chí Minh, ở Hà nội, chống chánh sách xâm lược của Trung Quốc.

Cái gọi là Đảng Cộng Sản không dám lên tiếng phản đối kẻ cướp đất, trái lại thô bạo đàn áp dân chúng công khai bày tỏ lòng yêu nước. Khí thế của nhân dân Việt Nam bây giờ làm cho đảng cộng sản Hà Nội bắt đầu lo sợ. Nếu đảng cộng sản khôn ngoan thì hãy thấy ở đây, tức ở nhân dân, mới là chỗ dựa vững chắc hơn thế của Trung Quốc.

Nhưng cái gọi là Đảng Cộng Sản nghe theo ai?

Buồn mà nói. Vì nói cho đúng thì phải nói lớn và nói rõ phe nhóm cai trị Việt Nam hiện nay là một bọn Hán Ngụy.

Tiếc vì chúng tôi biết chắc chắn có nhiều đảng viên của cái gọi là Đảng Cộng Sản không muốn như vậy. Họ thương dân, yêu nước thật lòng. Nhưng họ lo sợ, có thể vì bất lực, cho sự an nguy của bản thân và gia đình trước những thủ đoạn khéo léo, gian ác, đê hèn của lực lượng Công An, Tình Báo đang có mặt khắp nơi rình rập.

Bọn Hán Ngụy thật sự không có nhiều người, nhưng họ có thế mạnh và nhiều tiền bạc. Họ quyết tâm giữ quyền lực cai trị đất nước mãi mãi. Họ sẽ làm cái gì phải làm để không mất địa vị cầm quyền, tức quyền làm ăn, làm giàu của họ.

Lệ thuộc Bắc Kinh, đối với họ, là một giá phải trả, họ chấp nhận trả, để có phương tiện ổn định xã hội chính trị Việt nam, tức duy trì chế độ độc tài toàn trị. Ổn định là cho quyền lợi của họ.

Đất nước đối với họ chỉ là phương tiện trao đổi.

Trung Quốc có một triết lý bình định thiên hạ từ đời Tần Thủy Hoàng. Ông ấy lấy ý kiến của phái Pháp Gia gồm lý thuyết âm dương, ngũ hành để kiến tạo thái hòa. Làm chính trị như vậy không theo sự giảng dạy của Khổng Mạnh, trái lại, đưa ra chính sách đại đoàn kết, giữ phép nước dưới sự lãnh đạo đọc tôn theo một vị hoàng đế. Đó là thuyết của Mặc Địch.

Cái đạo chính trị này – “ hoàng đế chính thuyết ”– là lý thuyết xây dựng xã hội không cần nghe ý dân. Đi từ trên xuống, không phải từ dân lên.

Ngày nay là tập trung dân chủ, tức dân chủ xã hội chủ nghĩa và tư tưởng Hồ chí minh. Hoàng Đế nghe trời, ra lịnh và thiên hạ phải tuân theo. Dân không nghe theo thì sẽ bị phạt, nặng nhẹ tùy theo mức độ của sự phản bội, bất hiếu đối với chế độ.

Một ông Hoàng Đế không cần đức, không cần uy tín mà vẫn giữ được ổn định xã hội. Hiếu nghĩa thay thế nhân nghĩa. Cấp trên nói cái gì thì cấp dưới vâng dạ theo răm rắp. Nói vô phép, mất dạy, thì bị phạt, không được phần thưởng.

Đạo làm hoàng đế có mục đích lấy ý trời và qua cơ cấu hành chánh, ép thiên hạ vâng lệnh làm theo ý đó, mặc cho họ muốn hay không.

Trong lịch sử Việt Nam, các Nhà Lý, Trần và Lê không lấy đạo Hoàng Đế của Bắc Triều để trị dân. Nhà Lý và Nhà Trần theo đạo Phật. Nhà Lê cho đến Vua Lê Thánh Tôn theo quan điểm nhân nghĩa do Nguyễn Trãi viết ra.

Vua Lê Thánh Tôn bắt đầu theo chủ nghĩa Bắc Triều , tức lấy Tống Nho bênh vực ngôi vị Hoàng Đế một cách mù quáng với đạo hiếu nghĩa cha mẹ, vua chúa.

Đến Nhà Mạc, Chúa Trịnh, thì ảnh hưởng Tống Nho ở cấp quan văn và các đại gia đình quan chức mở rộng. Nhà Nguyễn áp dụng Tống Nho và quan điểm hoàng đế, đưa triều đình Huế đi theo gương Nhà Thanh bên Tàu.

Trước đây, cái gọi là đảng Cộng Sản chụp mũ những người Việt nam không Cộng Sản mà hợp tác với Mỹ Quốc để giữ độc lập cho miền Nam Việt Nam là “Mỹ Ngụy”

Bây giờ, nhìn về quá khứ thì chúng ta có thể đánh giá ai có công lớn hơn cho Dân Tộc Việt nam: “Mỹ Ngụy” hồi đó hay “Hán Ngụy” bây giờ?

Người Mỹ khi họ giúp các Chính Phủ Việt nam Cộng Hòa, khi họ làm cố vấn cho Chính phủ và quân đội quốc gia, họ thật sự muốn gì? Họ khuyến khích người Quốc Gia làm gì? Họ đòi hỏi Chính Phủ Sài gòn có chính sách nào?

Nói chung, người Mỹ từ Tổng Thống Eisenhower cho đến Tổng Thống Nixon, từ Đại Sứ Elbridge Durbrow cho đến Đại Sứ Ellsworth Bunker, tất cả đều yêu cầu Chính Phủ Sài gòn lo cho dân, áp dụng chế độ hiến trị, tổ chức các cuộc bầu cử từ xã ấp đến trung ương, trong sạch, dân chủ, cải cách ruộng đất, phát triển kinh tế, mở rộng giáo dục theo tôn chỉ “nhân bản, khoa học, khai phóng ” …

Đối với Mỹ thì ý dân là hơn ý trời. Mỹ không bao giờ theo “ hoàng đế chính thuyết ”.

Như vậy làm “Mỹ Ngụy” là chọn phương pháp lo cho dân, cho quê hương Việt Nam, cho văn hóa, đạo đức dân tộc.

Người Mỹ đến Việt Nam, không ở lại Việt Nam. Và “dân ngụy.” không hiến dâng đất dai, biển cả cho ngoại bang. Hơn nữa, trong lịch sử, người Mỹ không làm thuộc địa, không làm Thái thú, chỉ làm bạn đồng minh giai đoạn.

Còn người Việt nào bây giờ làm Hán Ngụy thì phục vụ ai?

Họ có lo sợ số phận Tổ quốc của họ không? Hay chỉ có chung một thứ tập hợp những người cùng chí hướng tôn thờ quyền lợi bản thân mà thôi?

Stephen B. YOUNG

MỘT CUỘC CHUYỂN HOÁ KHÔNG THỂ ĐƯỢC (Nguyễn Gia Kiểng)

 
 
Image may contain: text

Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên

 

MỘT CUỘC CHUYỂN HOÁ KHÔNG THỂ ĐƯỢC (Nguyễn Gia Kiểng)

Trước hết là một vài suy tư nhân dịp lễ Phục Sinh.

Giê-Su ra đời được hai năm thì vua Herode từ trần. Các hoàng tử tranh quyền, nước Do Thái rối loạn và bị sáp nhập thành một tỉnh của đế quốc La Mã khi ông mới vừa 12 tuổi. Người Do Thái chờ đợi một vị cứu tinh, và nhiều thủ lãnh đã xuất hiện. Giê-Su là một trong những lãnh tụ này, và là lãnh tụ độc đáo nhất. Trong khi mọi người chỉ nhìn thấy giải pháp võ trang, Giê-Su đã nhận ra nguyên nhân đã khiến người Do Thái thất bại và mất nước là sự thua kém về tư tưởng và văn hoá. La Mã đã hơn hẳn Do Thái và mọi nước khác vào thời đó, bởi vì xã hội của họ tự do hơn, dân chủ hơn, có đối thoại, và nhất là có phân biệt giữa tôn giáo và chính trị.

Giê-Su nhìn thấy sự vô vọng nguy hiểm của các chủ trương giải phóng võ trang. Ông cũng nhìn ra nguyên nhân chính khiến Do Thái không vươn lên được : đó là sự kỳ thị giai cấp, sự tôn thờ bạo lực, óc bất dung và nhất là sự lẫn lộn giữa tôn giáo và chính trị giam hãm xã hội trong cái khung cứng nhắc của kinh thánh khiến xã hội không tiến hoá được. Từ đó Giê-Su kêu gọi hòa giải và hòa hợp dân tộc, bao dung, bác ái, bất bạo động và nhất là phân biệt tôn giáo và chính trị.

Giê-Su có phải là hiện thân của Thiên Chúa hay không là câu hỏi mà mỗi người tự trả lời cho mình. Nhưng nếu chúng ta chỉ giới hạn dưới góc nhìn chính trị thì sự nghiệp của Giê-Su thật là oan trái : ông đã chinh phục được chính đế quốc La Mã, không những thế ông còn chinh phục được cả thế giới chung quanh ông và mở ra một nền văn minh lộng lẫy, nhưng riêng đồng bào Do Thái của ông mà ông muốn giải thoát lại bức tử ông. Giê-Su đã không thuyết phục được dân tộc ông cũng như không ai có thể là tiên tri tại quê hương mình vì ông đụng phải một bức tường văn hoá. Cuộc đời ông chứng tỏ thay đổi văn hoá là một điều cực kỳ khó khăn.

*
Năm 1883 nước ta bị người Pháp đô hộ sau một cuộc chinh phục dễ dàng trong đó triều đình nhà Nguyễn chỉ chống trả một cách yếu ớt. Nguyên nhân của thất bại là do văn hoá và tổ chức xã hội kém hẳn đối phương. Vua Tự Đức không phải là không nhìn thấy yêu cầu canh tân, nhưng ông bị vây bọc bởi cả một bức tường thủ cựu kiên cố của quần thần nên đã tiếp tục sa lầy và cuối cùng mất chủ quyền. Quán lực văn hoá lớn đến nỗi ngay cả quyền lực tuyệt đối của Tự Đức cũng không thể thay đổi cách suy nghĩ và hành động bằng mệnh lệnh.

Cuộc đô hộ của người Pháp hoàn toàn khác với những giai đoạn Bắc thuộc trước đây : kẻ thống trị khai thác tài nguyên của Việt Nam nhưng họ cũng đồng thời mở mang đất nước như chưa bao giờ thấy. Người Pháp vừa là kẻ thống trị vừa là người giải phóng, giúp Việt Nam vứt bỏ ách nô lệ văn hoá của Trung Quốc. Về mặt trí tuệ phải nói người Pháp đã đem đến cho chúng ta cả một bước nhảy vọt. Ngay cả ý thức về quốc gia như một thực thể của chung của mọi người cũng ra đời dưới thời Pháp thuộc, cũng những ý niệm về tự do, dân chủ, bình đẳng nam nữ, v.v… Về khoa học kỹ thuật thì phải nói chúng ta đã được người Pháp giáo dục từ số không. Nói chung, mặc dù cái nhục đô hộ, giai đoạn Pháp thuộc đã rất có lợi cho chúng ta. Nhưng người Việt càng tiến lên nhờ người Pháp thì cái nhục bị lệ thuộc Pháp lại càng đau nhức.

Điều mà chúng ta cần trong giai đoạn này là những nhà tư tưởng tìm ra một cách nhìn và một cách sống cái nhục đó. Một đồng thuận dân tộc trên một cách ứng xử sáng suốt có thể đã giúp chúng ta lấy được quyền tự chủ sau một hai thế hệ. Nhưng chúng ta đã không có được những nhà tư tưởng đó. Phong Trào Đông Kinh Nghĩa Thục nhiều tình cảm tốt nhưng thiếu nền tảng lý luận. Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh là những học giả nhưng không phải là những nhà tư tưởng. Phan Châu Trinh đơn độc và chết quá sớm. Do sự thiếu định hướng đó, mặc dù cuộc sống tinh thần và vật chất đã được cải thiện rất nhiều, người Việt Nam, nhất là giới sĩ phu, chỉ cảm nhận sự kiện bị một nước có nền văn hoá khác hẳn đô hộ như một sự xúc phạm lớn. Đã có nhiều cuộc khởi nghĩa nhưng vì thiếu hiểu biết và thiếu sáng kiến chúng đã chỉ loanh quanh trong chống đối võ trang để rồi bị đập tan. Kể cả đảng cộng sản. Và ngay cả trong giai đoạn thế chiến II khi tại Đông Dương chỉ còn lại một nắm nhỏ người Pháp đã thua trận và mất nước. Sau cùng quân Nhật, chứ không phải kháng chiến Việt Nam, đã lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp.

Bế tắc của cố gắng giải phóng dân tộc cũng cùng một nguyên nhân như bế tắc của dân Do Thái vào thời Giê-Su. Văn hoá cũ đã đưa đến thua kém và thất bại, phải có một văn hoá mới để nhìn ra một phương thức đấu tranh mới. Nhưng vấn đề ngàn đời vẫn thế: thay đổi văn hoá là điều cực kỳ khó khăn.

*
Giai đoạn Pháp thuộc cũng là giai đoạn mà phong trào cộng sản bành trướng trên thế giới và lan tới Việt Nam. Chủ nghĩa cộng sản không mới. Nó nằm trong một luồng tư tưởng đã có từ rất lâu và thể hiện rất mạnh mẽ qua các bài giảng của Giê-Su. Nó cũng là một đề tài tranh luận sôi nổi trong thế kỷ 18 và 19 tại châu Âu sau cuộc cách mạng kỹ nghệ. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để xã hội ngày càng giàu mạnh lên và của cải làm ra được phân chia một cách công bằng. Karl Marx là một trong những người chủ trương dành hẳn ưu tiên cho công bằng xã hội. Marx không phải là một triết gia, cũng không phải là một nhà tư tưởng lớn. Ông là một học giả, một nhà văn và một nhà báo. Ông thu thập những ý kiến và khám phá của người khác rồi làm tổng hợp. Những tổng hợp của ông thường vội vã, thiếu chiều cao trí tuệ, nhưng ông diễn đạt một cách rất đặc sắc và hùng hồn. Những đóng góp thực sự của Marx như phân tích về giá trị thặng dư, dự báo sự sụp đổ chắc chắn của chủ nghĩa tư bản, v.v… đều sai một cách ngây ngô. Do tài diễn đạt, đặc biệt là cách trình bày mạch lạc của một người uyên bác, Marx được nhiều người ngưỡng mộ, và những gì ông viết ra có ảnh hưởng lớn. Những tác phẩm của Marx có thể đã chỉ là những tài liệu nghiên cứu nếu không có Lênin.

Lênin mới thực sự là cha đẻ của chủ nghĩa cộng sản như đã được thực hiện tại nhiều quốc gia. Lênin đã nhận thấy ở những tác phẩm của Marx một số khẩu hiệu có tác dụng kích thích quần chúng nghèo khổ đồng thời một hệ thống tư tưởng sơ sài nhưng có vẻ hoàn chỉnh bao gồm cả triết học, sử quan, kinh tế, xã hội. Đó là một kiện hàng lý tưởng cho một người đang tìm kiếm một cơ sở lý luận để cướp chính quyền. Lênin đã dựa vào tư tưởng của Marx để phát minh ra cả một lý thuyết thực dụng để cướp và giữ chính quyền bằng bạo lực. Lênin đã viết và nói mỗi lúc một khác trên tất cả mọi vấn đề, nhưng ”tư tưởng Lênin” có thể tóm tắt trong hai thành tố: 1/ lẫn lộn cứu cánh (thí dụ xây dựng một xã hội công b^ằng và phồn vinh) và phương tiện (thí dụ cuộc cách mạng vô sản), nâng phương tiện lên thành cứu cánh để biện minh cho những phương tiện khác; 2/ đồng hoá một khái niệm (thí dụ cách mạng) với một trong những biểu hiện của nó (thí dụ đảng cộng sản). Cả hai đều là cách lý luận bất lương. Được áp dụng một cách dây truyền, và hơn nữa lại phối hợp với nhau, lối lý luận này có thể dẫn đi rất xa khỏi cả điểm khởi hành lẫn mục tiêu ban đầu. Từ giấc mơ một thiên đường trên mặt mặt đất hoàn toàn tự do và thân ái, không còn bóc lột, hà hiếp và cũng không cần chính quyền, nó dẫn tới một nhà nước khắc nghiệt và nhiều lần hung bạo hơn những nhà nước tư bản mà Marx muốn xoá bỏ. Nó cũng đã dẫn hàng chục triệu người vô tội vào nhà tù hay ra pháp trường.

Lênin, Stalin và các lãnh tụ cộng sản khác thừa biết rằng thiên đường cộng sản mà Marx tưởng tượng chỉ là một ảo tưởng nhưng là một ảo tưởng có thể lợi dụng để cướp chính quyền. Một khi đã cướp được chính quyền các chế độ cộng sản cai trị thuần túy bằng bạo lực và khủng bố. Sử dụng một xác quyết sơ đẳng của Marx theo đó lịch sử nhân loại chỉ là đấu tranh giai cấp và đẩy tới tột đỉnh lô-gích khủng bố, chủ nghĩa cộng sản còn cho phép tiêu diệt không những các cá nhân mà toàn bộ những thành phần xã hội theo giai cấp, chủng tộc, tín ngưỡng. Về bản chất không có sự khác biệt giữa các chế độ nazi, phát xít và cộng sản. Tất cả đều là những phong trào cho mình quyền tiêu diệt những cá nhân không phải vì họ đã phạm một tội gì mà vì họ thuộc một thành phần bị chế độ coi là thù địch.

Các chế độ cộng sản còn cần một loại nạn nhân khác. Vì lấy một ảo tưởng làm cứu cánh, chúng luôn luôn cần chứng minh tại sao cứu cánh vẫn chưa thực hiện được và không những thế càng ngày càng xa vời thêm trong khi những hy sinh ngày càng nhiều. Phải có những thủ phạm, những kẻ phá hoại việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Và lần này các nạn nhân không nhất thiết phải là những kẻ thù giai cấp mà cũng có thể là những kẻ thất bại trong những tranh chấp nội bộ bị chọn làm dê tế thần trong những đợt thanh trừng.

Một đặc tính khác của phong trào cộng sản cần được lưu ý. Đó là nó hoàn toàn không dựa vào hậu thuẫn của quần chúng. Kỹ thuật của mọi đảng cộng sản là chỉ dựa vào một thiểu số có kỷ luật và đội ngũ vững chắc để khai thác một tình trạng khủng hoảng để cướp chính quyền và sau đó cai trị bằng bạo lực và sự nghèo khổ. Đi xa hơn các chế độ phát xít, các chế độ cộng sản còn sử dụng cả lương thực như một vũ khí khống chế xã hội.

Nhiều người cộng sản sẽ rất phiền lòng khi nghe nói rằng về bản chất phong trào cộng sản là một phong trào khủng bố và tội ác. Sự phiền lòng càng chân thực khi chính họ là những con người lương thiện. Nhưng sự thực là như thế. Có lẽ trước hết cần đồng ý trên định nghĩa của tội ác. Đó là việc cố ý sử dụng bạo lực để tiêu diệt, lưu đày hay ngược đãi những người vô tội vì quan điểm, tôn giáo, chủng tộc hay giai cấp của họ. Đây là định nghĩa chính thức của công pháp quốc tế về ”tội ác đối với loài người” và cũng là điều mà mọi chế độ cộng sản đều làm. Cuốn Sách Đen Về Cộng Sản (Le Livre Noir du Communisme) không phải do một tổ chức chống cộng nào viết ra trong mục đích tuyên truyền, mà là công trình tập thể của một số đông đảo các nhà khảo cứu có uy tín, đa số đã từng ủng hộ phong trào cộng sản. Nó cho thấy phong trào cộng sản đã làm thiệt mạng trên 100 triệu người qua những quyết định độc ác có chủ ý và được thực hiện một cách lạnh lùng. Điều không thể chối cãi được là ở tất cả mọi quốc gia mà nó có cơ hội được thực hiện chủ nghĩa cộng sản đã chỉ đẻ ra những chế độ hung bạo và gian ác. Như vậy thì phải kết luận rằng chủ nghĩa cộng sản chất chứa tội ác và bạo lực ngay trong bản chất của nó (*).

Lênin đã thắng Kerensky và các đối thủ khác bởi vì xã hội Nga chưa bao giờ có một văn hoá chính trị nào khác ngoài bạo quyền và bạo lực. Những người dân chủ Nga đương thời với Lênin không thiếu nhưng họ đã thất bại bởi vì văn hoá chính trị của nước Nga chưa chín muồi cho dân chủ. Cùng một lý do đã khiến Mao Trạch Đông đánh bại Tưởng Giới Thạch tại Trung Quốc. Văn hoá nào chế độ đó. Một lần nữa chúng ta thấy trọng lượng và quán lực của văn hoá.

*
Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập như là một phân bộ của cộng sản thế giới. Cha đẻ của nó là Hồ Chí Minh đã được đào tạo tại Nga, trong lò Stalin. Nó có mọi đặc tính một đảng cộng sản.

Theo đúng kỹ thuật Lênin, nó không dựa trên quần chúng mà dựa trên một số nhỏ có đội ngũ và quyết tâm để chờ đợi khai thác một tình trạng khủng hoảng. Cơ hội đến với thế chiến II. Với một đội ngũ nhỏ không quá 2.000 nhưng có tổ chức và quyết tâm, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã nắm được chính quyền vào một lúc mà chính quyền bỏ ngỏ : Nhật lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp rồi thua trận và đầu hàng. Sau đó nó dùng bạo lực để tiêu diệt các đảng phái yêu nước khác.

Sau khi đã nắm được độc quyền đấu tranh giành độc lập, theo đúng bài bản của mọi đảng cộng sản, nó thực hiện khủng bố toàn diện và tối đa. Người ta sẽ không thể nào đánh giá đúng mức sự khủng bố trong cuộc chiến tranh chống Pháp. Bao nhiêu người đã bị giết oan trong thời gian này? Có những người đã bị giết chỉ vì họ có chút uy tín tại địa phương và cũng có rất nhiều người đã bị giết chỉ vì bị tình nghi là gián điệp dựa trên những chi tiết như đội mũ có ba màu hay trong người có mảnh gương. Thêm vào sự khủng bố theo chính sách còn có khủng bố vì ngu dốt. Thực là cả một giai đoạn kinh hoàng. Trong cuộc chiến tranh lần thứ hai, 1960-1975, khủng bố cũng vẫn là vũ khí chính của đảng cộng sản. Chính quyền Sài Gòn dù có phương tiện dồi dào hơn cũng không sao chống trả được một lực lượng cộng sản không bị vướng tay bởi bất cứ một qui luật nào.

Trong cả hai cuộc chiến này, đảng cộng sản cũng đã được một bối cảnh quốc tế thuận lợi. Văn hoá chính trị thế giới trong hơn ba thập niên từ sau thế chiến II là chống Mỹ và chống chủ nghĩa tư bản. Trong số các sinh viên chống sự can thiệp của Mỹ tại Việt Nam có cả một tổng thống tương lai của Hoa Kỳ. Cảm tình dành cho Đảng Cộng Sản Việt Nam lớn đến nỗi những tin tức về những vụ bắt cóc, ám sát, đặt mìn trong các thành phố và những hố chôn tập thể tại Huế không có một ảnh hưởng nào. Khủng bố và bạo lực không bị lên án vì được coi là những vũ khí cần thiết cho một cuộc cách mạng phải có. Chỉ từ thập niên 1980 thế giới mới tiến tới một văn hoá hòa bình, quay lưng lại với bạo lực và các tổ chức khủng bố không còn được ủng hộ. Một lần nữa chúng ta thấy văn hoá quyết định cách ứng xử tập thể và văn hoá không dễ thay đổi.

Khủng bố và tội ác đã là vũ khí lợi hại nhất của đảng cộng sản nhưng không phải là lý do duy nhất giúp họ chiến thắng. Các phong trào cộng sản ở châu Mỹ La-Tinh cũng quyết tâm và hung bạo không kém nhưng đã thất bại. Còn môt lý do quyết định khác, đó là đảng cộng sản đã được sự ủng hộ của chính nhân dân Việt Nam. Dĩ nhiên là có rất nhiều người Việt Nam thù ghét đảng cộng sản nhưng cũng có một số rất đông đảo ủng hộ họ rất tận tình. Những người này không phải không biết tới những tội ác của đảng cộng sản nhưng họ vẫn ủng hộ phe cộng sản bởi vì các chính quyền quốc gia dưới mắt họ chỉ là lai căng, vọng ngoại, công cụ của nước ngoài. Họ ủng hộ phe cộng sản nhân danh lập trường dân tộc.

Chủ nghĩa cộng sản không hoàn toàn là một ”chủ nghĩa ngoại lai”, như những người chống cộng lập luận, mà ở ngay trong lòng người Việt Nam, bởi vì không có một khác biệt căn bản nào giữa chủ nghĩa cộng sản và ý thức hệ Khổng Giáo mà người Việt tôn sùng trong hàng ngàn năm. Xét về bản chất thì cộng sản và Khổng Giáo chỉ là một, nếu nhìn kỹ hơn cộng sản là chủ nghĩa hay nhất có thể có nếu chỉ muốn cải tiến Khổng Giáo. Như vậy không có gì ngạc nhiên khi đảng cộng sản đã được một hậu thuẫn rộng lớn, vững chắc và bền bĩ trong dân chúng. Chính nhờ hậu thuẫn này mà dù gặp khó khăn tới đâu hay bị thất bại nặng nề tới đâu họ vẫn gượng dậy được. Văn hoá và tâm lý có sức mạnh ghê gớm của chúng và chúng cũng rất khó thay đổi. Đó là lý do khiến những tội ác kinh hoàng của người Thái đối với người Khmer, và ngược lại, vẫn không ngăn cản họ thấy gần gũi với nhau hơn là với người Việt.

Cần chấm dứt một huyền thoại đã kéo dài quá lâu. Đó là đảng cộng sản tuyên truyền giỏi và tổ chức giỏi. Hoàn toàn sai. Họ tuyên truyền rất vụng về và tổ chức một cách rất luộm thuộm. Sức mạnh đã đưa họ đến thắng lợi gồm ba yếu tố: 1/bản chất khủng bố và tội ác cho phép họ làm bất cứ gì để đạt mục đích mà không cần thắc mắc; 2/ họ có căn bản dân tộc bởi vì chủ nghĩa mà họ theo đuổi về bản chất phù hợp với văn hoá Khổng Giáo của xã hội Việt Nam; 3/ những người lãnh đạo cộng sản đều ít học cho nên rất quyết tâm, cuồng tín và kiên trì. Tất cả những lý do khác đều là phụ, những phân tích về quân sự lại càng không quan trọng.

Nhưng đó là đảng cộng sản nhìn từ bên ngoài. Một câu hỏi cần được đặt ra là bằng cách nào họ đã giữ được sự ổn vững trong nội bộ mặc dầu đã phạm rất nhiều tội ác đẫm máu và sai lầm nghiêm trọng? Lý do là vì ít nhất từ sau đại hội 3 năm 1960 đã có ”một đảng cầm quyền trong đảng”, thực hiện sự khủng bố ngay trong nội bộ đảng để duy trì kỷ luật. Đảng cầm quyền trong đảng này do Lê Đức Thọ cầm đầu. Từ 1960 trở đi tất cả mọi cấp lãnh đạo thực sự trong đảng đều thuộc phe này. Một đảng khủng bố không thể không thực hiện khủng bố ngay trong nội bộ.

Đảng cộng sản đã có được một bối cảnh quốc tế thuận lợi, đã được viện trợ một cách dồi dào từ cả Liên Xô lẫn Trung Quốc, họ cũng đã may mắn chỉ gặp những đối thủ rầt tầm thường trong phe quốc gia và những vụng về của người Mỹ, nhưng hai lý do chính khiến nó đã thành công là vì nó đã có hậu thuẫn quần chúng và vì nó là một đảng khủng bố và tội ác và dám đẩy đến cùng lô-gích khủng bố và tội ác đối với bên ngoài cũng như trong nội bộ đảng.

*
Nhưng từ ngày 30-4-1975 họ đã toàn thắng và qui được cả đất nước về một mối. Lô-gích tự nhiên lúc đó là phải hành xử như một đảng cộng sản cổ điển, và như họ đã làm tại miền Bắc trong hơn hai mươi năm, nghĩa là cai trị bằng kềm kẹp, khủng bố bằng bạo lực và bằng sự nghèo đói. Nhưng thế giới đã thay đổi, phong trào cộng sản thế giới đã rạn nứt. Đảng Cộng Sản Việt Nam dù muốn hay không cũng phải bắt đầu chuyển hoá.

Đại hội 4 cuối năm 1976 đánh dấu bước đầu của một cuộc chuyển hoá từ một đảng khủng bố và tội ác sang một đảng cầm quyền và quản trị. Từ đó mọi đại hội đảng đều là những đại hội chuyển hoá theo cùng chiều hướng bắt buộc này.

Đại hội 9 cũng không khác. Điều khác biệt là nó cũng là đại hội chuyển giao thế hệ. Những cấp lãnh đạo xuất thân từ chiến tranh và có công lao trong chiến tranh cuối cùng đã phải ra đi vì già yếu theo luật đào thải tự nhiên của tạo hoá.

Không nên để bị lung lạc bởi những lời tuyên bố lạc quan và tin tưởng sau đại hội 9. Một số quan sát viên quốc tế sẽ nhận xét rằng những cấp lãnh đạo mới trẻ hơn, cởi mở hơn và hiểu biết hơn và không giáo điều như những người tiền nhiệm. Tất cả những nhận xét này đều đúng nhưng cũng chỉ là những gì chúng ta đều đã thấy. Từ 1975 đến nay tất cả mọi đại hội đảng cộng sản đều đã có tiến bộ. Nhân sự luôn luôn trẻ hơn, cởi mở hơn và hiểu biết hơn nhưng điều đó vẫn không ngăn cản đảng cộng sản tiếp tục sa lầy và chế độ cộng sản tiếp tục suy thoái. Cố gắng chuyển hoá đã thất bại.

*
Nhưng tại sao cuộc chuyển hoá này lại thất bại ?

Đó là vì chuyển hoá từ một đảng khủng bố và tội ác sang một đảng cầm quyền và quản trị là một cuộc chuyển hoá cực kỳ khó khăn mà chưa một đảng cộng sản nào làm được. Cuộc chuyển hoá này đòi hỏi một thay đổi văn hoá. Phải thay văn hoá chiến tranh bằng văn hoá hòa bình, văn hoá căm thù bằng văn hoá anh em, văn hoá cướp bóc bằng văn hoá lương thiện, văn hoá khủng bố bằng văn hoá đối thoại và thoả hiệp, văn hoá phá hoại bằng văn hoá xây dựng. Và dĩ nhiên cũng cần thay những kiến thức cũ bằng những kiến thức mới. Đây là một cuộc cách mạng văn hoá to lớn và toàn diện, đòi hỏi những cấp lãnh đạo có văn hoá cao và tầm nhìn xa, những người mà đảng cộng sản hoàn toàn không có. Bộ máy khắc nghiệt của đảng đã loại bỏ khỏi vị trí lãnh đạo hầu hết những người lương thiện, có trí tuệ và nhân cách.

Mọi cuộc chuyển hoá văn hoá đều rất khó khăn, ngay cả nếu người ta ý thức được và thực hiện với tất cả quyết tâm. Nhưng mặt khác đảng cộng sản cũng không ý thức được tầm vóc và sự khó khăn của cuộc chuyển hoá này. Họ đã chỉ để cho thực tại xô đẩy và họ đã chỉ làm những thay đổi vụn vặt bất đắc dĩ khi không có chọn lựa nào khác. Những khuôn mặt lãnh đạo mới dù trẻ tuổi hơn cũng chỉ là những người già nua trong kiến thức, văn hoá và tâm lý. Điều duy nhất thực sự mới so với các đại hội trước là ”đảng Lê Đức Thọ” đã chết già. Từ nay đảng cộng sản không còn dụng cụ để duy trì kỷ luật nội bộ nữa.

Thời gian sau cùng đã làm công việc của nó. Đảng cộng sản đã thay đổi, dù là một sự thay đổi không thành công. Tháng 4-1975 nó là một đảng khủng bố và tội ác xuất sắc, tháng 4-2001 nó là một đảng cầm quyền và quản trị tồi tệ. Không có gì đáng ngạc nhiên và cũng không thể khác. Các đảng cộng sản không được thành lập để quản lý tốt một đất nước và giành thắng lợi trong một cuộc bầu cử, chúng chỉ được thành lập để tạo khủng hoảng và lợi dụng khủng hoảng để cướp chính quyền. Đảng Cộng sản Việt Nam không khác, nó còn cộng sản hơn đa số các đảng cộng sản. Không những thế nó còn thiếu quyết tâm tự cải thiện. Cuối cùng thì tên tướng cướp dữ tợn vẫn chưa thành người lương thiện, hắn mới chỉ thành một tên du đãng. Đỡ hơn, nhưng chưa đủ. Đảng cộng sản không còn ám sát, bỏ tù hàng chục năm không cần xét xử nữa, nhưng nó vẫn tạm giam, quản chế, cắt điện thoại và dùng báo chí độc quyền để vu cáo và bôi nhọ. Và nó vẫn sợ đa nguyên đa đảng.

Giê-Su Ki-Tô cũng đã không thay đổi được văn hoá của dân tộc ông và đành chịu lấy tính mạng để trả giá cho sự sáng suốt của mình. Gorbachev cũng đã không thích nghi được bộ máy đảng cộng sản của ông, sự thay đổi tại Nga đã chỉ đến một cách khó khăn với sự đào thải của Đảng Cộng Sản Liên Xô khỏi chính quyền. Alexis de Tocqueville đã nhận định rằng mối nguy của một chế độ bạo ngược thường đến vào lúc mà nó tìm cách cải tiến. Đó là trường hợp của đảng cộng sản. Mọi cuộc thay đổi văn hoá đều không thể đến từ bên trong một trật tự có sẵn. Nó chỉ có thể đến từ những con người ngoài hệ thống đã đóng góp vào thay đổi và đã biết chuẩn bị trước để đúng hẹn với thay đổi.

*
Chúng ta sẽ nhìn rõ hơn tương lai của chế độ và rút ra một kết luận cho đất nước mình nếu chúng ta suy nghĩ một cách bình tĩnh về giai đoạn cộng sản đang chấm dứt. Đất nước ta từ ngày thành lập vẫn chỉ đặt nền tảng trên một văn hoá duy nhất : văn hoá Khổng Giáo giáo điều và độc đoán. Sau thế chiến II chúng ta có một cơ hội để giành độc lập và thiết lập dân chủ. Nhưng chuyển hoá về dân chủ đòi hỏi một thay đổi văn hoá lớn và một đoạn tuyệt dứt khoát và toàn diện với văn hoá Khổng Giáo. Chúng ta đã không có nổi bước nhảy vọt đó bởi vì chúng ta không có những nhà tư tưởng để hướng dẫn. Các trí thức của chúng ta đã chỉ nghĩ đến cải thiện Khổng Giáo, đa số còn kêu gọi giữ gìn văn hoá truyền thống. Có thể chúng ta không ý thức được nhưng chủ nghĩa cộng sản đã đến đúng như chúng ta mong muốn. Dù nhiều người có thể không đồng ý, nhưng chủ nghĩa cộng sản đã là một cải tiến lớn theo chiều hướng tốt của Khổng Giáo. Nó đã đem vào những giá trị dân chủ và nhân quyền, dù ở một mức độ rất thấp so với yêu cầu của đất nước. Chế độ cộng sản như vậy là một giai đoạn chuyển tiếp tự nhiên từ Khổng Giáo sang dân chủ. Cộng sản không phải là một tai họa từ trên trời rơi xuống hay từ dưới đất mọc lên. Nó từ chúng ta mà đến và chúng ta đã xứng đáng với nó.

Một khi những đam mê và xúc động đã qua đi, các thế hệ mai sau sẽ nhìn giai đoạn cộng sản như một giai đoạn chuyển tiếp đáng tiếc mà trách nhiệm không phải chỉ thuộc về những người cộng sản. Trong chiều dài lịch sử, ngày 30-4 sẽ là một ngày để suy nghĩ.

Giai đoạn chuyển tiếp này đã kéo dài quá lâu và đã gây thiệt hại quá nhiều. Nó phải chấm dứt nhưng sự cáo chung của nó chỉ có ý nghĩa và cũng chỉ đáng mong muốn nếu để mở ra một kỷ nguyên dân chủ. Và muốn thế chúng ta cần một cố gắng tư tưởng vĩ đại để đạt tới một văn hoá dân chủ. Không có một cuộc vận động chính trị nào thành công nếu không được chuẩn bị trước bởi một cuộc vận động văn hoá. Chúng ta đã làm cố gắng này chưa và đã làm tới đâu rồi? Chúng ta đã có bao nhiêu người dân chủ chân chính? Dân tộc Việt Nam chắc chắn là muốn dân chủ và cũng xứng đáng để có dân chủ không kém nhiều dân tộc khác, nhưng chính trị ở nước nào và thời nào cũng chỉ là quan tâm và hoạt động của thiểu số tích cực. Vào thời điểm này chưa thể nói chúng ta đã có một văn hoá dân chủ và một đội ngũ dân chủ mà đất nước đòi hỏi.

Thông Luận số 148 (tháng 5-2001)