ÔNG THÔNG GIA – VŨ THƯ HIÊN

  ÔNG THÔNG GIA –  VŨ THƯ HIÊN
1-Tôi sung sướng đằm mình trong nước mát. Trên đầu tôi, quanh tôi, nắng chói loà. Tôi bập bềnh trôi. Có tiếng sáo diều văng vẳng. Đang say sưa ngụp lặn, bỗng có một cái gì va vào tôi làm tôi vùng vẫy, sặc̣ sụa.

– Cậu ngủ say quá thể! – nghe tiếng người, tôi nhận ra tiếng cô Lương – Dậy đi, cậu.

Cô Lương lột tấm chăn tôi trùm kín đầu. Tôi giằng lại, nhưng không được. Thế là tỉnh hẳn.

– Có việc gì mà cô đến sớm thế? – tôi tung chăn ngồi dạy, càu nhàu.

Tôi tiếc giấc mơ. Tiếc lắm. Không dễ gì gặp được một giấc mơ như thế. Với tôi, dòng sông quê hương mà tôi vừa được thoải mái trầm mình trong đó giờ đây xa lơ xa lắc. Tưởng chừng nó đã mất hẳn trong trí nhớ. Giấc mơ như một món quà bất ngờ. Món quà tan biến chỉ vì cái nhà cô Lương thổ tả kia.

Tôi nghe tiếng dép lẹp kẹp đi về phía bếp, tiếng nước đổ vào ấm, tiếng bật công tắc.

– Sớm gì mà sớm. – tiếng cô Lương nói – Trưa rồi.

Tôi vẫn còn chưa hết bực mình. Mở mắt thấy kim đồng hồ trên bàn chập nhau ở con số 12. Trưa thật rồi.

Cô Lương chậm rãi pha trà. Giữa chúng tôi, hơi trà ngào ngạt và ấm áp bốc trên miệng chén. Ở khoảng cách gần, tôi thấy cô già sọm – hai mắt lõm sâu, má hóp, da mặt đã có màu bao xi măng. Mấy chiếc răng cửa hơi đưa ra, vốn là cái duyên của cô, giờ xuống màu, với những khe rộng hơn trước. Giọng cô không còn trong, không còn cao, nó mệt mỏi, khàn khàn. Từ nốt ruồi ở hàm bên phải chui ra một sợi râu bạc.

– Cửa cũng không thèm đóng. – cô chép miệng – Em chỉ việc đẩy vào. Có ngày trộm vét sạch. Thật đấy. Cậu biết hôm nay ngày gì không?

– Ngày gì?

– Ngày Ông Táo lên chầu giời rồi đấy.

– Ờ…

Lại một năm trôi qua. Cô Lương là cuốn lịch sống của tôi. Không có cô nhắc, tôi sẽ không biết mình đang ở đâu trong dòng chảy vô hình ấy. Đã nhiều năm, mỗi khi phải lấy áo ấm ra mặc, thấy tuyết rơi, tôi biết là mùa đông đến; phải lôi cái quạt máy trong đống đồ xếp xó ra cho nó chạy, tôi biết đã vào hè.

– Em mang ít đồ cúng sang cho cậu.

Nhìn lên nóc tủ tôi thấy có mâm ngũ quả, xôi lạc, gà luộc. Và nén nhang mới bén.

– Cảm ơn cô.

Cô cười không tươi.

– Đàng nào em chả cúng. Cậu thì cái gì cũng phiên phiến, phiên phiến. Tết nhất phải có chút gì gọi là hương khói để nhớ đến tổ tiên, ông bà. Tết này cậu sang em, ăn Tết bên em nhá?

– Ờ…

– Hôm nay em sang đây – cô nói, giọng ngập ngừng – là có việc phiền cậu

Tôi đặt chén trà xuống, nhìn cô, chờ đợi. Ở đây, chỉ tôi là người thường nhờ vả cô. Chứ cô chẳng bao giờ nhờ vả tôi.

– Việc gì vậy?

Cô ngần ngừ.

– Em muốn phiền cậu đi Berlin với em một chuyến.

Tôi ngạc nhiên. Từ khi dọn về đây ở gần cô, tôi chưa thấy cô đi đâu.

– Đi Berlin? Làm gì chứ?

Cô nhoẻn cười, ngượng ngập:

– Hỏi vợ cho cháu Hiếu

2- Tôi và cô Lương có một tình bạn dài nửa thế kỷ.

Tình bạn của chúng tôi bắt đầu bằng một món ăn. Cô Lương không phải người bình thường. Ở đất thủ đô, cô là người nổi tiếng. Cô nổi tiếng không phải vì cái gì to tát, mà nhờ một món ăn – món bún mọc. Tôi sẽ không tả bún mọc của cô ngon như thế nào. Không ai có thể tả được cái sự ngon. Chuyện ấy là của riêng cái lưỡi. Cứ phải ăn mới biết. Chỉ có thể nói gọn một câu: bún mọc là món độc quyền của cô Lương trong toàn thành phố. Về món này không ai tranh hơn được với cô. Quanh gánh bún cô Lương, khách ngồi chật vỉa hè đợi đến lượt. Đông thế mà cô tài nhớ lắm: ai đến trước, ai đến sau, cô không bao giờ lẫn. Cô tươi nở múc cho từng người suất bún nóng hổi, thơm phức, nước dùng ngọt lịm, húp bỏng miệng. Những viên mọc của cô, được chế tạo cách nào không biết, nêm nếm thế nào không biết, mềm và đàn hồi, cắn ngập chân răng, như thể chúng không phải được nặn bằng thịt lợn tầm thường của trần thế.

Đến đây tôi phải nói ngay rằng giữa hai chúng tôi không hề có chuyện ong bướm. Đơn giản vì cô Lương không phải là một cô. Cô không phải đàn bà.

Trở thành khách quen của gánh bún mọc, tôi gọi anh chàng Lương này bằng cô, như cách mọi người gọi. Có người còn gọi là cô đồng Lương. Gọi thế không đúng – Lương không phải cô đồng. Không hầu đồng, không am miếu, không hương khói, đàn địch, không con công (con nhang?) đệ tử, sao gọi thế được. Các nhà khoa học viết khá nhiều về hiện tượng ái nam ái nữ, tôi có đọc, nhưng không hài lòng. Thế giới “ái” rất đa dạng, rất phức tạp, theo tôi quan sát. Nó không dễ giải thích. Đơn giản hoá nó, sơ lược hoá nó, trong cái nhìn bất biến, đinh ninh, miêu tả qua lăng kính duy vật cho ra vẻ khoa học là không được. Lấy cô Lương làm ví dụ. Đực rựa, có vợ có con hẳn hoi. Chị vợ, tôi đã gặp, xinh gái, đàn bà trăm phần trăm, mẹ của hai đứa con giống bố như đúc. Một gia đình như mọi gia đình. Cái khác là trong gia đình này anh chồng từ tấm bé đã thích trang điểm theo cách nữ – ở nhà không biết thế nào, chứ ra đường là phải thoa một chút phấn hồng lên má, quệt một đường son nhẹ lên môi. Lại còn đeo nịt vú nữa chứ (nó hiện rõ qua lần áo phin nõn), ai cũng thấy. Nói ỏn ẻn, đi nhún nhẩy, hai tay phẩy phẩy bên hông, không khác đàn bà. Thế mới thành cô Lương. Nhưng “cô” không có một nhân tình đàn ông nào, tuyệt không. Chưa ai bắt gặp “cô” cặp kè với một người phái nam. Vì thế, nói rằng trong con người cô Lương có thứ tình dục đồng giới, bệnh hoạn, theo cách nhìn của thế hệ tôi, là nói bậy.

Tôi là người không háo lên án ai, lên án cái gì. Tôi chỉ háo ăn ngon. Qua một lần nếm thử đã đủ để tôi trở thành khách quen của gánh bún mọc cô Lương. Thấy tôi, khi nào cô cũng đon đả:

– Kìa, anh giai! – múc bát mọc cho tôi xong, cô vui vẻ hỏi – Anh giai thêm hành trần nhá? Ớt tươi chứ? Em biết tính ông anh mà, sành lắm, ăn mọc chẳng chịu tra tương ớt đâu. Ngần này đủ chưa ạ?

Rồi lại sợ mất lòng một ông khách nào đó nghiện tương ớt, cô bả lả:

– Nói vậy chứ bách nhân bách tính, có người thiếu tương ớt là nhạt mồm nhạt miệng, ăn mất ngon, có phải không các bác?

Hoặc:

– Anh giai nom có vẻ mệt, em nhúng hai trứng nhá? Anh giai bổ dưỡng đi cho chị em vui.

Tôi đỏ mặt vì những lời chớt nhả ấy. Khách tủm tỉm nhận xét: múc cho tôi, trong muôi của cô bao giờ cũng có nhiều mọc hơn cho người khác, một chút thôi, nhưng hơn. Họ đùa cợt bảo: là do tôi đẹp trai. Tôi soi gương chẳng thấy mình đẹp trai tẹo nào, có lẽ tại hai chúng tôi có duyên tiền kiếp.

Đùng một cái, không thấy cô Lương dọn hàng. Không ai biết cô biến đi đâu.

Khách hàng nghiện bún mọc buổi sáng nhìn cái vỉa hè quen thuộc từ lâu đông nghịt giờ đây trống trơn, chưng hửng dắt xe đi. Hỏi người chủ ngôi nhà trước gánh bún mọc của cô Lương, một ông già cao lêu đêu, ông ta lắc đầu: không biết. Cô Lương đến xin đặt nhờ gánh bún thì ông cho, ông không khoảnh. Ông cho cô ngồi nhờ ở hàng hiên nhà ông vô điều kiện. Để cảm ơn ông, sáng nào cô cũng làm một bát mọc tú hụ bưng vào cho ông. Khi khách quá đông, ngồi chật cả lối ra vào, ông chưa kịp trách thì cô Lương đã bẽn lẽn xin gửi ông ít tiền hàng tháng, coi như thuê chỗ.

– Cô ấy cứ giúi vào tay, bắt tôi phải nhận. Chứ tôi không đòi. – ông nói như phân bua – Thời buổi này giúp nhau được chút gì thì giúp, là cái nghĩa đồng bào. Vỉa hè nào phải của tôi. Nhưng cô ấy là người biết điều. Thấy làm phiền người nhà đi ra đi vào, cô ấy ngại. Tôi không biết cô ấy dọn đi đâu, thật vậy.

Hoá ra trong những ngày ấy cô Lương ở tù. Với người Việt ta, ở tù không phải sự lạ. Thiên hạ gặp nhau thấy ngờ ngợ thì không hỏi quê quán, họ hàng mà hỏi: mình gặp nhau ở trại nào nhỉ?

3- Tôi gặp lại cô Lương ở một nơi mà cả hai đều không ngờ: trại tị nạn Hồng Kong.

– Giời ạ, cậu?! – trông thấy tôi, cô Lương túm lấy, mừng quýnh. Rồi trợn mắt lên, thì thào – Cậu, sao lại ở đây?

– Thì có gì lạ?

– Cậu là cán bộ kia mà.

Cô Lương thay đổi đến khó nhận ra: son phấn không, áo quần luộm thuộm, nhếch nhác, trên mép là một hàng ria nham nhở. Bây giờ tôi không còn là khách hàng nữa, cô gọi tôi bằng “cậu”. Tiếng “cậu” của ta có nhiều nghĩa, là cách bạn bè thân mật gọi nhau, cách con gọi cha, vợ gọi chồng, cháu gọi em ruột của mẹ. Còn khi dùng với người ngoài không gần gụi, nó lại là cách xưng hô tỏ sự tôn trọng đối với người có vai vế hơn mình.

– Cán bộ thì đã sao? – tôi ôm chầm lấy cô – Đến đây lâu chưa?

– Hai năm rồi. Còn cậu?

– Mới.

– Em tưởng chỉ có dân chúng em khổ quá mới phải đi thôi – cô Lương cụp mắt nhìn xuống bàn chân đầy bụi di di trên mặt đất – Ai tự dưng bỏ nhà bỏ cửa, bỏ quê hương bản quán? Báu lắm đấy, cái đồng đất xứ người… Mà tại sao cậu cũng đi?

– Chuyện dài – tôi đáp – Lúc nào rảnh, tôi kể. Còn cô, đang đắt khách sao lại dẹp hàng, rồi ở đây?

– Cũng là chuyện dài, cậu ơi.

Chuyện dài ấy là thế này:

Trước, hai mẹ con cô Lương là xã viên hợp tác xã thu mua đồ phế thải, nôm na là hợp tác xã đồng nát. Dân ta vốn thích oai, gọi vống lên cho sướng, chứ xã viên của cái hợp tác xã này vẫn là những bà đồng nát ngày trước. Đòn gánh trên vai, hai đầu hai thúng, họ lang thang khắp phố phường mua đủ thứ đồ vứt đi: sắt vụn, nồi thủng, mâm bẹp, giấy lộn, tóc rối…, đem bán lại cho các vựa. Để được phép làm việc ấy, tháng tháng họ phải đóng một khoản tiền cho hợp tác xã, coi như mua sự hợp pháp. Mẹ cô Lương là con gái Ước Lễ. Làng này nổi danh cả nước về nghề giò chả. Chồng chết sớm, bà mở hàng ăn kiếm sống, nuôi con. Có nghiệp tổ, miễn chăm làm thì không giàu được cũng đủ sống. Mở hàng mới được ít lâu thì đùng một cái, nhà nước ra lệnh cấm tiệt mọi nghề dính dáng tới lương thực, tức là tuốt tuột mọi thứ – gạo, ngô, khoai, sắn và bất cứ thứ gì có chứa tinh bột. Vốn liếng thế là tong. Cũng có vài hàng phở, hàng cháo lòng đánh liều, bán chui trong nhà. Bà không có cái gan ấy. Để được bán chui phải chạy vạy, phải đi đêm với đủ loại quan nha, chức sắc: cán bộ phòng thuế, cán bộ quản lý thị trường, công an khu vực… mới yên. Suy đi tính lại, chỉ có cái nghề mạt hạng, bị khinh khi, là nghề đồng nát, người ta mới không nhòm đến.

Cuộc sống vất vả làm sức khoẻ bà suy sụp, rồi mất. Cô Lương còn lại một mình. Cô bỏ gánh giấy vụn, đi làm thuê cho một quán phở chui. Cho đến khi ông nhà nước thấy cuộc sống sa sút quá, kinh tế xuống dốc quá, thành phố tiêu điều quá, mới rộng lượng ngoảnh mặt đi cho những người buôn thúng bán bưng muốn làm gì thì làm, cô Lương nhớ nghề tổ mới dám nghĩ tới việc vay mượn họ hàng sắm sanh gánh bún mọc cho mình. Rồi lấy vợ, đẻ con.

Ai ngờ một gánh bún mà làm nên cơ đồ.

Cô Lương trở nên giàu có. Nói giàu là nói trong khái niệm tương đối. Giàu ở đây là có nhiều tiền hơn người quanh mình thôi, chứ chẳng phải thiên ức vạn tải gì. Có đồng ra đồng vào, cô cũng chẳng sung sướng. Thời bấy giờ, giàu cũng là cái tội cái nợ. Sắm sửa thì hàng xóm biết, gửi tiết kiệm nhiều tiền thì nhà nước biết. Phải tìm mọi cách giấu cho kín cái giàu, không được hở cho bất cứ ai. Đã trở thành thói tục: người này theo dõi người kia, nhà này nhòm ngó nhà khác, không trừ cả thân thuộc. Thành thử cô Lương phải hết sức giấu giếm cái sự giàu của cô. Nhưng chẳng lẽ cứ tích tiền để đấy trong lúc nó mất giá hàng ngày?

Nhờ ông anh họ mách nước, cô trở thành người “chơi” đồ cổ. Ông này rất sành sỏi trong lĩnh vực gốm sứ, nghe nói vậy. Đến Viện bảo tàng Lịch sử cũng phải mời ông ấy cố vấn mỗi khi phải xác định niên đại một hiện vật mà nhận định của các chuyên gia không thống nhất. Người như thế lẽ ra phải ở trong biên chế, nhưng ông không thể có cái đó vì lý lịch – cha ông có thời làm thông phán trong phủ Toàn quyền. 

Ông khuyên cô:

– Chú cứ nghe tôi: để tiền vào đồ cổ là an toàn nhất hạng. Nó là thứ không thiu không thối, càng để lâu càng có giá. Chú quen nghề đồng nát, biết nhiều nhà, cứ lân la dò hỏi, biết đâu đấy, có khi vớ được của quý cũng nên. Gặp đồ cổ chú cứ gọi tôi, tôi biết cái gì quý, cái gì không quý, trả bao nhiêu là vừa. Nhà nước mua lại đồ cổ của dân bằng giá rẻ mạt, chẳng ai muốn bán. Dân đào được đồ cổ cũng bị thu mua, chỉ được tí tiền gọi là bồi dưỡng. Mình trả cao hơn nhà nước là người ta bán liền. Quen rồi, người nọ mách người kia, mình sẽ mua được khối thứ quý. Mua rồi cứ để đấy.

Cô hỏi ông anh:

– Mua để đấy phỏng có ích gì?

– Xì, chú không biết nhìn xa.

– Là thế nào ạ?

Ông nói chắc nịch:

– Thể nào rồi cũng có một ngày khác bây giờ. Cứ thế này mãi có mà chết. Lúc ấy chú cứ gọi là ngồi trên đống của.

Cô Lương nghe lời ông anh. Cô làm quen với giới buôn đồ cổ “chui”. Cô dò hỏi, cô lùng sục, gặp đồ nào ông anh bảo là đồ quý, cô mua. Dần dà, cái việc không quen trở thành quen, thành đam mê. Nhờ sự dạy dỗ của ông anh, riết rồi cô cũng trở thành một chuyên gia đáng nể. Cầm cái bát, cái đĩa hay lọ độc bình lên, ước lượng nặng nhẹ để biết xương, xem men, xem dáng, cô có thể nói ngay niên đại của món đồ, thuộc đời nào Tống, Đường, Minh, Thanh hay Lý, Trần. Lê mạt. Còn hơn chuyên gia, cô sở hữu một số đồ độc nhất vô nhị.

Các cụ nói: cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, đồ cổ thì thứ nào cũng lớn hơn cái kim hết. Thế rồi một ngày kia có người chào cô mấy cái đĩa men ngọc đời Lý, lại là men rạn, cực hiếm. Cô mua ngay. Cuộc mua bán vừa xong tay là công an ập vào. Họ nói được báo có những hiện vật bảo tàng vừa bị mất trộm, chính là mấy cái đĩa ấy. Để “làm rõ” lý lịch những đồ cổ khác, người ta thu tất tần tật các thứ cô Lương tích cóp được. Cô Lương bị tống giam vì tội “tiêu thụ của gian”. Cô ở tù gần một năm, không xét xử, gọi là giam cứu.

– Rồi họ xác minh cô vô tội?

– Làm gì có chuyện ấy?! – cô cười gằn – Họ bảo em nhận tội đi rồi họ tha, không nhận thì cứ ở đấy.

– Rồi cô nhận?

– Chứ sao.

Ra tù, cô trắng tay. Với tấm giấy tạm tha trong túi. Cô vợ xinh gái đi theo một tay cán bộ phòng thuế. Có thể gây dựng lại cuộc đời bằng gánh bún mọc, như trước kia, nhưng cô không còn sức, nói cho đúng, sau khi ở tù ra cô chán mọi sự đời, không còn ý chí, không còn ham muốn. Nghe người ta mách, cô dắt hai con xuống Hải Phòng tìm đường đi xứ khác. Cũng lại do ông anh họ chuyên gia đồ cổ:

– Chú đi đi, chú đã bị bỏ tù một lần, coi như có tì vết, không tiền án cũng tiền sự, ở đây khó sống lắm. Giờ người ta đi ầm ầm. Tôi xin lỗi chú. – ông quệt nước mắt, sụt sùi – Cũng là tại cái thằng tôi, chú mới sa vòng tù tội…

Chuyện vượt biên xưa như trái đất, khỏi kể. Sóng gió, đói khát, cạn nhiên liệu, chìm tàu… vân vân. Tất cả những cái đó xảy ra với bất kỳ ai.

4- Tôi bằng lòng đi Berlin với cô Lương. Cô nói không có tôi đi cùng, cô sẽ lúng túng, không biết ứng xử thế nào với nhà gái cho phải phép.

Ở nhà cô, một chàng trai cao, to, để ria mép, trân trân nhìn tôi.

– Cháu Hiếu đấy – cô Lương nói, vẻ tự hào pha ngượng nghịu.

– Chào cháu – tôi chào nó, biết rằng nó sẽ không chào tôi trước – Bác không nhận ra cháu đấy.
– Nhìn tôi, nó nói – Bác khoẻ.

Cô Lương liếc tôi, cái nhìn biết lỗi.

– Khi chúng mình gặp lại nhau, cháu mới bằng ngần này. – tôi cười xoà với cô Lượng, rồi giơ bàn tay úp sấp làm hiệu chỉ chiều cao của nó hồi ấy – Từng ấy năm, cháu làm sao nhớ được tôi là ai. 

Nghe cô kể thì thằng Hiếu sáng dạ, học trung cấp cơ khí, bây giờ đã là trưởng ca hay trưởng kíp gì đó trong một nhà máy, công việc tốt, lương cao. 

– Ba, con ra tiệm Một lát – nó bước ra cửa – Con đi Máy của con vừa bị đao -Ba với bác chuẩn bị sẵn sàng nhé!

Tôi nhớ lúc còn nhỏ, hai đứa con cô Lương không gọi cô bằng “ba”. “Ba” hiện đại hơn, sang hơn “bố”.

Đi ngang tôi, thằng Hiếu vẫy tay

Thì ra cái Audi đen bóng đậu ngoài phố, lối vào nhà, là của nó.

– Bọn trẻ giờ thế cả. Không biết lễ phép là gì – cô Lương thở dài – Sang đây chúng nó thành Tây hết. Nó vừa nói cái gì vậy, cậu?

Tôi giải thích. Cô Lương không biết computer là cái gì.

– Cậu đừng chấp – cô Lương bảo tôi – Thế là toi cái Tết. Mình lên đấy rồi về chắc gì kịp ăn Tết. Em mời cậu Tết này ăn Tết với em, mời thật tình, mà hoá ra mời rơi. Cậu vào đây mà xem: em đã lo sẵn hết cả: măng lưỡi lợn nhá, chân giò nhá, lá giong gói bánh nhá, thịt xay làm mọc nhá… tất tần tật. Em nghĩ lại rồi, em đi một mình cũng được, bắt tội cậu đi với em những ngày này, em ái ngại quá.

– Vẽ, đi là đi. Tôi nói rồi, với tôi ngày Tết chẳng có gì quan trọng. Cô đừng nghĩ ngợi.

– Thằng Hiếu lấy Tây hay ta đấy?

– Ta, cậu ạ. May thế!

Cô chị thằng Hiếu lấy Tây. Bố vợ với con rể chỉ gút tần tác, gút tần nác[6] với chuýt là hết chuyện. Cô Lương rầu lắm. Cô còn rầu hơn nữa là đến bẹo má thằng cháu ngoại một cái cũng không được, sờ cái giống của nó cũng bị cấm – Tây nó không thích. Nó sợ cô làm bẩn con nó.

Cô phân trần:

– Nhà gái đòi phải có chạm ngõ, ăn hỏi, rồi mới cho cưới. Lôi thôi quá, cậu ơi. Lần trước gọi điện về, thằng Hiếu đã giục. Em bảo: để thư thư, Tết ra đi cũng được. Đùng một cái, ông bố vợ nó bị đâm xe.

– Nặng không?

– Nặng, mới khổ. Bà mẹ vợ bảo thằng Hiếu phải tức tốc về đón em lên để chính thức có nhời với người ta. Nếu chẳng may ông ấy có mệnh hệ nào họ còn cho cưới chạy tang.

– Hiểu rồi. Cô biết nhà gái chứ?

– Thằng Hiếu có nói gì trước với em đâu.

Mặt cô Lương chảy dài. Khi cô buồn, hay là có điều suy nghĩ, cô bước những bước chậm chạp, cái lưng gù xuống.

5- Làng, nơi chúng tôi ở, thuộc miền Nam Đức. Nhỏ nhưng sạch sẽ, ngăn nắp, an bình. Nói chung, làng quê ở vùng này đều thế: gọn gàng, tiện lợi, bé tí, mà cái gì cũng có – bưu điện, cửa hàng dược phẩm, bệnh viện, trạm xăng, siêu thị. Thằng Hiếu vui vì tôi nhận lời đi cùng bố nó, nhà trai như thế là đủ hoành tráng. Nhưng nó chê ỏng chê eo nơi ở của chúng tôi:

– Cháu đã bảo ba cháu dọn lên Berlin, ông ấy không chịu, kêu ở thành phố lớn ồn. Ra đến nước ngoài mà còn chui rúc xó xỉnh. Ở cái chốn nhà quê thế này, bác tính, vui thú nỗi gì cơ chứ? – nó nói với tôi trên con đường làng hẹp – Sorry[7] bác, mấy ông khốt[8] giống nhau như đúc, sợ thay đổi như sợ cọp…

Cô Lương im lặng. Tôi ậm ừ. Tôi cảm thấy mếch lòng. Cứ như thể bố nó không chịu đi là do tôi, ông ấy thích ở đây là vì ở đây có tôi.

– Được cái ông bố vợ cháu khá. – thằng Hiếu hồn nhiên tiếp tục – Khác hẳn bố cháu. Nhanh nhẹn lắm, cứ như thanh niên í. Hồi mới sang, ông í đứng đường bán thuốc lá lậu, rồi cầm đầu hẳn một băng, kiếm khẳm. Tậu được nhà. Nhà hẳn hoi, chứ không phải căn hộ. Thay xe như thay áo. Mẹ vợ cháu cũng đảm, làm chủ một resto[9] trên năm chục bàn. Ba cháu mà như người ta thì đâu đến nỗi như bây giờ. Mèng ra cũng có một cái  imbiss[10]. – Tội nghiệp, không biết liệu ông bố vợ cháu có tai qua nạn khỏi không? 

Không giống nhiều thanh niên khác, Hiếu vẫn nói thạo tiếng mẹ đẻ, chỉ thỉnh thoảng nó mới chêm vào vài tiếng Đức quen miệng, vài tiếng Anh thời thượng. Trên xe, nó nói với tôi nhiều hơn nói với bố. 

– Này, anh Hiếu, thế ông ấy đã làm… hừm, gọi là cái gì nhỉ, à, cái di chúc chưa đấy? – giữa câu chuyện, cô Lương đang lim dim ở ghế sau, nhổm lên nói. 

– Ông ấy khoẻ như vâm, – thằng Hiếu nhún vai – nghĩ gì đến di chúc.

– Vạn nhất ông ấy không qua khỏi mà không có di chúc để lại thì, hì hì…, vợ chồng anh dễ bị thiệt lắm.

Trong câu nói của cô Lương có âm sắc mai mỉa. Nhưng con trai cô không nhận thấy.

– Ông ấy có gì để lại? Khôn như rận, ba ơi, cái gì cũng tên vợ hết. Ông ấy sợ. Bọn Đức khiếp lắm, trốn thuế cả chục năm rồi chúng vẫn moi ra đấy.

Chúng tôi đến Berlin vào buổi tối.

Bà thông gia phốp pháp, son phấn tưng bừng ngay cả khi đang điều khiển nhà hàng. Nhác trông cũng thấy được sự không môn đăng hộ đối giữa nhà trai với nhà gái. 

– Chúng em không oẻ hoẹ tương tàu đâu, thưa hai bác – bà nói, giọng ngọt lịm – Nhưng mà, thưa hai bác, gì thì gì mình vẫn cứ phải giữ lề thói cha ông. Con nhà gia giáo chữ lễ phải coi trọng, phải là nhất, có đúng thế không ạ? Em dễ tính, cứ phiên phiến, thế nào cũng xong, chứ ông nhà em cổ lắm, nhất nhất phải theo phép xưa mới chịu. Phật tử đấy ạ, chăm đi chùa lắm. Mà chùa thì xa, có gần đâu. Tối nào cũng ngồi thiền, tụng kinh niệm Phật.

– Ông bà nghĩ thế là chí phải. – cô Lương chắp tay lễ phép – Chúng tôi nhất nhất xin theo. Ngặt vì mình nay ở xứ người, có nhiều cái không thể được như ở nhà, chúng tôi có điều gì thất thố, xin ông bà bỏ quá cho.

Cô Lương nói kiểu lịch sự trơn tru, làm tôi ngạc nhiên. Thường ngày không khi nào cô có cái giọng ấy, có khác một chút cũng chất phác, mộc mạc. 

– Con Thuỷ đâu rồi? – bà cao giọng gọi vào trong bếp – Ra đây.

Một cô gái trẻ, vận quần áo đúng mốt, có hở một chút rốn, nhanh nhẹn chạy ra. Mắt thằng Hiếu sáng lên. Hai đứa nhìn nhau lúng liếng. Con bé này rồi cũng đảm chẳng kém mẹ, tôi nhận xét.

– Con chào hai bác đi. Bây giờ thế đấy, hai đứa chúng nó quen nhau từ lúc nào em đâu biết, chúng nó đâu có báo cáo báo cầy gì với bố mẹ. Thôi thì không bằng lòng cũng phải bằng lòng, bác không kén dâu, chúng em cũng chẳng kén rể…

– Dạ.

– Mà có kén cũng chẳng được, thưa hai bác, thời bây giờ chúng nó tự kén nhau, chẳng nhòm nhõi gì đến ta, chẳng cần lề thói, phép tắc như xưa, có phải không ạ? Thôi thì cũng là cái duyên cái số. Nhà trai đến, có nhời với chúng em là chúng em vui rồi. – bà rơm rớm nước mắt – Vui đến, buồn cũng đến, năm nay nhà em gặp hạn. Ông nhà em lái xe cẩn thận lắm, thế mà vẫn bị. Tổ cha cái thằng Đức lợn, nó phóng bạt mạng, mới ra nông nỗi. Thổi bong bóng thằng ấy thấy có hơi rượu, nhưng cảnh sát bảo còn dưới mức cho phép. Chúng nó bênh nhau ấy mà, ai chả biết. May, nhà em đã mua bảo hiểm toàn phần…

Cô Lương đến lúc ấy mới dám lí nhí hỏi câu cô muốn hỏi.

– Thưa, bệnh tình ông nhà… thế nào rồi?

Bà thông gia vui vẻ:

– May, tưởng nặng, hoá không phải. Không mổ xẻ gì hết, chỉ mấy mũi khâu, băng bó xong nằm tĩnh dưỡng ít hôm là về. Nhà em hiếu khách lắm, ông ấy mà gặp hai bác thì chuyện dứt không ra. Mấy hôm nữa, khoẻ lại rồi, nhà em sẽ đưa hai bác đi thăm danh lam thắng cảnh ở đây. Còn bây giờ thì em xin mời hai bác dùng bữa rồi về nghỉ ở nhà em. Nhà không đến nỗi chật, em đã chuẩn bị, hai bác mỗi người mỗi phòng ạ.

– Cảm ơn bà, bà chu đáo quá. Bác cháu đây (cô Lương chỉ tôi) trước cũng ở Berlin, bác cháu đã gọi điện đặt phòng ở một khách sạn quen rồi – cô nói dối ráo hoảnh, làm tôi một lần nữa ngạc nhiên – Chúng tôi nhận phòng xong rồi mới lại yết kiến bác đấy ạ…

6- Đến bệnh viện, chúng tôi không khó khăn tìm được phòng của bố vợ thằng Hiếu. Nhác thấy người bệnh qua cánh cửa khép hờ, cô Lương như bị điện giật, nắm chặt tay tôi.

– Ông sao vậy? – tôi ghé sát vào tai cô Lương, thì thào.

Cô Lương xua xua tay, nói khẽ:

– Không, không sao.

Mắt không rời khe cửa, mặt cô Lương đờ ra, xám ngoét. Rồi lôi tôi khỏi chỗ ấy.

– Thằng Hiếu đâu rồi?

– Tôi không biết. Nó vừa đây mà.

Thì ra thằng Hiếu dừng lại ở ngoài cổng hút thuốc. Cô Lương lật đật chạy đến, túm lấy nó, tôi hối hả theo sau.

Đứng trước mặt con, cô dằn giọng:

– Hiếu, bố vợ mày tên là gì?

Nó trố mắt:

– Sao, có chuyện gì mà ba hỏi thế? Sao mặt ba tái đi thế?

– Tao hỏi: bố vợ mày tên gì?

Thằng Hiếu ngớ ra.

– Ông ấy tên là Khởi, ông Khởi. Có chuyện gì thế, ba?

– Đúng, đúng là nó.

Cô Lương lẩm bẩm rồi cúi gập xuống như một thân cây bị đốn. Tôi vội đỡ cô. Thằng Hiếu lại càng hốt hoảng:

– Ba, ba sao vậy? Bác có biết ba cháu bị sao không?

Tôi lắc đầu. Cô Lương phẩy phẩy tay:

– Đi về. Đi về.

– Sao đến đây rồi lại đi về, ba?

– Đi về là đi về.

Tôi đoán là có chuyện nghiêm trọng, liên quan tới người bệnh đang nằm trong kia.

Tôi kéo cô vào quán nước gần nhất. Dọc đường cô như người mất hồn, mặc tôi muốn đưa cô đi đâu thì đi.

Đặt cô ngồi xuống ghế, tôi gọi mấy ly bia. Cô run run cầm cái ly lên, lẳng lặng uống cạn. Đợi cô uống xong, rồi ghé sát vào tai cô thì thào:

– Ông biết ông ta?

Cô Lương nhìn chằm chằm vào khoảng không, môi mím chặt:

– Chính là nó. Chính là nó đấy, ông ạ. Khi có người thứ ba, chúng tôi không xưng hô với nhau như thường ngày nữa, mà “ông, tôi”. Cái đó đã trở thành quy ước, nó gắn chặt thêm tình thân giữa chúng tôi, như giữa hai kẻ đồng mưu.

– Mà nó là ai kia chứ? – tôi gặng.

Cô hít vào một hơi rồi thở ra hộc ra, như muốn trút hết không khí khỏi lồng ngực:

– Là thằng làm đời tôi tan nát ấy. Nó. Chính là nó. Có đến chết tôi cũng không quên mặt nó, cái thẳng khốn nạn ấy. Chính là cái thằng giả dạng đem bán cho tôi mấy cái đĩa cổ, rồi làm hiệu cho đồng bọn ùa vào khám nhà để tống tôi vào tù đấy.

Một giọt nước mắt xúc động lăn trên gò má, cô lấy mu bàn tay quệt đi. Rồi ngẩng lên, nhìn vào mặt con:

– Thằng Hiếu nghe đây!

Thằng Hiếu ngẩn ngơ trước thái độ không bình thường của bố. Bình thường bố gọi nó bằng anh, một điều anh Hiếu, hai điều anh Hiếu, với giọng trịnh trọng của ông bố đã có tuổi nói với đứa con đã thành nhân, không bao giờ bố gọi nó bằng thằng. Trước mặt nó giờ đây không phải là ông bố hiền lành, ông bố đụt, mà nó đã quen thấy, mà nó hằng coi thường. Trước mặt nó là một người đàn ông dữ dằn đang nổi cơn điên. 

Nó bất giác khoanh hai tay lại, cử chỉ từ lâu nó không làm.

– Dạ.

– Nghe tao nói đây: mày sẽ không lấy cái con nhà ấy, hiểu không? – cô nhìn thẳng vào mắt nó, dằn từng tiếng, như bắt nó phải khắc trong trí – Con ấy có là tiên cũng không lấy nữa, không được. Thằng Khởi là kẻ thù của gia đình ta. Chính nó đã làm cho gia đình ta điêu đứng. Hôm nay có súng trong tay thì tao đã bắn chết nó…

Thằng Hiếu im lặng ngồi phịch xuống ghế. Hai tay ôm đầu, nó ảo não nhìn bố.

Vẫn giọng chắc nịch, cô Lương không nói, mà tuyên bố:

– Thà chết, chứ tao không thông gia với cái giống ấy.

Tôi ôm lấy vai cô:

– Việc gì thì cũng phải bình tĩnh, từ từ suy nghĩ, trước hết là phải bình tĩnh, không nên nóng nảy. Giờ ta về khách sạn. Rồi tính tiếp .

7- Ngày hôm đó kẻ vất vả nhất, khốn khổ nhất, là thằng Hiếu. Nó lái xe chạy cuồng giữa ba đỉnh của một hình tam giác – khách sạn, nhà thương, nhà hàng. Nghe lời tôi, nó nói dối bố mẹ vợ rằng lễ vấn danh theo kế hoạch như thế là phải hoãn – bố nó bất thình lình trúng gió, nằm liệt, không đi lại được. Ông bố không nói gì, nhưng bà mẹ và cô con gái cuống lên, nằng nặc đòi đến thăm. Nó phải ra sức cản, viện lẽ chừng nào bố nó chưa được định bệnh thì không thể và không nên đến, biết đâu đấy, chưa chừng bố nó nhiễm chứng cúm châu Á ngay trước khi lên đường đi Berlin cũng nên, bệnh ấy vừa xuất hiện, người bệnh cần được cách ly. Lời nói dối có hiệu quả – ở Đức người ta sợ cúm châu Á còn hơn sợ dịch tả. Người Việt ở Đức cũng sợ lây.

Tôi không nói với cô Lương đó là kế hoãn binh của tôi. Tôi nói ra, cô sẽ nổi khùng. Cả ngày, cô chẳng nói chẳng rằng, chỉ nằm ngửa nhìn lên trần. 

Đêm đến, thấy cô có vẻ đã nguôi ngoai, tôi mới lựa lời khuyên nhủ:

– Cô nóng quá. Sự đời rắc rối, nó đã xoay ra thế rồi, sức mình không cải được, thì đành chịu vậy thôi, chứ biết làm sao?

Cô Lương trợn mắt:

– Cậu nói thế là ý thế nào? Là em phải quên đi, phải chịu làm thông gia với thằng khốn kiếp ấy? Cậu muốn em muối mặt đến gặp nó để xin con bé cho thằng Hiếu? – cô Lương tung chăn ngồi phắt dậy – Không, cậu ơi, không, em không thể nhìn mặt nó. Em không thể làm thông gia với nó. Không là không.

– Thì tôi có bảo cô phải đến gặp nó đâu. Tôi chỉ muốn nói là hai trẻ đã trót yêu nhau rồi, thì mình phải nghĩ cách sao cho vẹn mọi đường…

– Cách gì?

– Thì phải nghĩ đã chứ, tôi nói rồi mà. Sao cho chúng nó không đau khổ.

– Chúng nó đau khổ thì mặc chúng nó.

Cô Lương quay đi, chấm dứt câu chuyện.

Tôi vắt óc chẳng nghĩ ra cách nào hay ho. Khuyên được nạn nhân hoà giải với kẻ thù là chuyện vá trời.

Gần sáng, tỉnh dậy, thấy cô Lương vẫn thức, tôi pha trà, rồi bảo:

– Thế này: tôi đưa cô ra ga đi tàu về trước, tôi ở lại. Mình sẽ nói rằng cô đã được chuyển về bệnh viện địa phương tiếp tục điều trị.

Cô lắc đầu:

– Việc gì phải nói dối? Như thế cầm bằng em sợ nó, em không dám giáp mặt nó. Em không sợ nó. Em căm thù nó.

Tôi thở dài:

– Từ từ đã nào. Tôi đâu có nói cô sợ nó. Tôi hỏi cô: có phải cô nhờ tôi đi cùng để chu tất việc hỏi vợ cho thằng Hiếu không nào? Thế thì tôi phải lo mọi việc cùng cô. Trông thằng Hiếu mà thương. Nó sợ cô đến nỗi không dám vào đây, mỗi lần tôi mở cửa lại thấy nó lấp ló ở đấy.

Cô Lương ngước mắt lên, hỏi:

– Cậu nghĩ sao? Nó sợ hay nó ghét mặt bố nó?

Tôi quả quyết:

– Nó sợ đấy. Lúc cô thiếp đi, tôi ra ngoài thì gặp nó. Tôi đã kể cho nó nghe hết sự tình, tức là tất cả mọi chuyện mà tôi biết. Nó khóc. Nó thương bố lắm.

Mặt cô Lương dãn ra ra khi nghe tôi nói thế. Mà tôi nói điều này là thật, gặp nó tôi tưởng ngữ này coi bố như rác, hoá ra thấy bố phát khùng thì nó run. 

– Nhưng mà em dù sao thì cũng không thể thông gia với cái giống chó má ấy được, cậu ơi. – cô lại ôm đầu – Không đời nào.

– Tôi nghĩ rồi. Cô không đứng ra là phải. Thì tôi đứng ra. Cứ không phải cô là được. Cô tưởng tôi chịu được khi thấy cô phải muối mặt gặp thằng ấy à? Coi như tôi là bố nuôi thằng Hiếu, cô không đến thì tôi thay mặt nhà trai đến chạm ngõ. Còn sau này ra sao, hạ hồi phân giải.

Nghe đến đấy cô Lương quay mặt vào tường, im lặng.

8- Nằm trên giường bệnh là một người khoẻ mạnh. Nụ cười hồ hởi nở trên gương mặt phương phi, ông ta đưa tay cho tôi bắt. Nước da ngăm ngăm đen làm tôi hình dung ra ông trong bộ cảnh phục và câu nói cửa miệng của dân Hà Nội chỉ đám công an: “chân chì, da thiết bì, mũ bình thiên”.

Thằng Hiếu cho biết: khi tai nạn xảy ra, ông bố vợ nó có bị thương, có chảy nhiều máu thật, nhưng hoàn toàn tỉnh táo. Mới lấy máu bôi lem nhem khắp mặt mũi, rồi giả bộ ngất. Tưởng thế là đủ để cảnh sát làm một biên bản thuận lợi cho sự bắt đền, nào ngờ thấy máu me bê bết, họ vội gọi xe cấp cứu chở phắt đi bệnh viện. Mà ở bệnh viện thì tình trạng thương tật của ông thế nào người ta biết ngay. Sở dĩ ông còn được nằm nán lại mấy ngày là vì ông vờ bị choáng, thỉnh thoảng lại ngất đi, tính kiếm thêm ít điểm cho sự bồi thường được đậm thêm.

Nó dẫn tôi đến, rồi đứng ngoài, để hai người lớn nói chuyện.

– Tôi trông ông quen quen. – ông ta vui vẻ nói.

– Tôi cũng vậy. Tôi cũng có cảm giác chúng ta từng gặp nhau, nhưng ở đâu thì không nhớ ra. – tôi vỗ trán, làm ra vẻ cố nhớ.

– Già rồi là hay quên lắm, tôi cũng thế, không nhớ ra.

Mào đầu thế là đủ, tôi lấy giọng trịnh trọng:

– Chắc cháu Hiếu đã thưa với ông: tôi là cha nuôi của cháu. Bố cháu ngã bệnh thời khí nhất thời không đến được, nên tôi mạn phép được thay mặt nhà trai, trước hết để vấn an ông, sau là có lời xin ông bà cho cháu Thuỷ làm dâu…

Ông bố vợ tương lai cười hì hì:

– Biết rồi, biết rồi. Lại bà nhà tôi đây, bà ấy chúa hay vẽ chuyện. Cũng là phú quý sinh lễ nghĩa thôi. – rồi hạ giọng, thân mật – Chứ hồi tôi với bà ấy lấy nhau ấy mà, lễ nghĩa quái gì đâu, chẳng chạm mặt, cũng chẳng ăn hỏi. A lê hấp, cưới. Mà cưới tập thể cơ đấy, ông ạ. Nhoáng nhoàng, nhoáng nhoàng, buồn cười lắm: chủ toạ buổi lễ chưa nói dứt câu thì cả đám cô dâu chú rể đã xông vào xơi kẹo bánh ào ào như tằm ăn rỗi, rồi ào ào kéo nhau đi tuốt…

Giọng nói của ông ta gợi nhớ đến một cái gì quen quen. Cả gương mặt nữa. Tôi đã thấy nó ở đâu nhỉ?

– Tôi là người hiện đại. – ông ta tiếp tục câu chuyện vui vẻ – Lễ nghĩa là cái quái gì cơ chứ? Che mắt thế gian thôi. Cưới là cái tục thôi. Là để lên giường có giấy phép, hì hì, có sự thừa nhận chính thức của nhà nước, để không bị ghép vào tội hủ hoá, có đúng thế không nào? Ông trạc tuổi tôi, ông còn nhớ người ta trị cái tội ấy nghiêm khắc thế nào. Kinh lắm. Lũ trẻ bây giờ chúng nó măng phú hết, chúng nó đếch cần lễ nghĩa gì ráo…

– Quả có thế.

– Ở bên Tây này khỏi nói, dưng mà ở trong nước cũng thế, mới lạ. Gọi là sống thử, chưa cưới cũng ở chung, vui ra phết…

– Dù sao thì…

– Ông muốn nói: cứ phải theo thủ tục của ông bà để lại mới tốt chứ gì? Ờ, thì cũng tốt, cũng tốt thôi, tôi không chống. Thừa còn hơn thiếu, ít nhất thì để cho bà nhà tôi sướng, làm như thế, tức là đủ thủ tục thì bà ấy sướng lắm đấy…

– Dạ.

– Ông thấy cần làm gì cứ làm, tôi không phản đối. Mà này…

– Ông bảo sao?

Ông ta suồng sã nháy mắt với tôi:

– Có cái hủ tục ấy anh em mình mới có dịp gặp lại nhau chứ.

Thế là thế nào?

Trong một thoáng tôi sực nhớ: phải rồi, trước mặt tôi, người đang nằm trên giường kia chính là tên công an đã hành tôi nhiều đêm trong một cuộc hỏi cung kéo dài bất tận. 

Chuyện là thế này. Tôi có bà cô ruột ở Sài Gòn. Qua họ hàng vào thăm bà biết tôi từng bị bắt đi cải tạo, bà thương tôi, khi sửa soạn vượt biên bà muốn đưa tôi cùng. Trước đó tôi còn không biết mặt bà. Cô cháu tôi không gặp may. Tên chủ tàu phản thùng. Nó thu vàng rồi báo công an. Cả tàu bị bắt. Tên Khởi này không phải là người hỏi cung chính, hồi ấy hắn mới là phụ tá.

– Tôi nhớ ra rồi. Ông là… Điều tôi không ngờ là chúng ta lại gặp nhau ở đây. – tôi cười chua chát – Ông nhận ra tôi?

– Chứ sao! – hắn cười to – Trái đất tròn mà. Trí nhớ công an mà. Chúng tôi không quên cái gì. Chúng tôi được huấn luyện để không quên.

– Tài thật. Bằng ấy năm rồi mà ông vẫn nhận ra ngay.

– Còn hơn thế nữa kia. Tôi còn biết tại sao lại là ông, chứ không phải bố thằng Hiếu, đến gặp tôi.

– ???

Hắn nói chậm, rõ từng tiếng:

– Ông đến là vì cô đồng Lương không muốn giáp mặt tôi.

Tôi ngạc nhiên. Phải nói là sửng sốt mới đúng. Chúng tôi chỉ thập thò ở cửa phòng bệnh của hắn chưa đến một phút.

– Quỷ quái, ông đã nhìn thấy? Ông nhận ra ông ấy?

Vẻ đắc thắng, hắn hơi nhổm người lên, cười vào mặt tôi:

– Sao không? Chỉ thoáng thấy ông ấy ở ngoài cửa là tôi nhận ra liền. Tôi biết: ông ấy còn căm tôi lắm. Ông khác, ông quên rồi.

Tôi lắc đầu, cố giữ vẻ bình thản:

– Không, tôi không quên.

– Ông quên. Bằng chứng là ông không nhận ra tôi khi bước vào đây. Ngay cả khi ngồi trước mặt tôi, ông cũng không nhận ra. Ông chỉ nhận ra khi tôi nhắc.

– Tôi vốn không có tài nhớ mặt người. – tôi lạnh lùng – Nhưng sự việc thì nhớ. Có nhiều sự việc con người không thể quên.

– Thế là tốt. Nhớ nhiều quá chẳng hay gì.

Khởi cười khẩy, cái cười khẩy đểu cáng, làm tôi nhớ thêm một chi tiết trong cuộc hỏi cung. Đêm ấy hắn cũng cười như thế khi hỏi tôi: “Bà cô cậu bảo nếu tớ thả hai cô cháu cậu ra, bà ấy xin chết bốn cây. Liệu hai cô cháu cậu có định cho tớ leo cây không đấy?”

Tôi nhìn vào mặt hắn:

– Tôi có điều không hiểu: tại sao ông lại ở đây?

– Dớ dẩn. Ông đặt một câu hỏi thừa, một câu hỏi không nên đặt ra tí nào. Câu trả lời rất đơn giản: cũng như các ông thôi.

– Chúng tôi khác, ông khác. Ông ở trong đám người có quyền đè đầu cưỡi cổ kẻ khác. Ông đi làm gì?

Khởi vẫn không mất vẻ tươi cười:

– Tội nghiệp, ông âm lịch quá. Con người ta sinh ra đã biết lựa chọn rồi, đã biết so sánh rồi, so sánh là để lựa chọn cho đúng. Cái tốt hơn đặt bên cái tốt kém, thì cái tốt kém là cái xấu. Tôi chọn cái tốt hơn. Nếu không thể chọn cái tốt nhất. Ở trong nước cũng thế, ở đây cũng thế.

Tôi khen hắn, thật lòng:

– Ông thật tinh quái.

– Chúng tôi được dạy dỗ để trở thành tinh quái mà. – hắn cười, vừa độ lượng, vừa thoả mãn – Ông cứ xem các nhà lãnh đạo quốc gia của chúng ta bây giờ xem – có ông nào không giàu đâu. Tôi không làm được như họ, bởi vì tôi không có cái thế của họ. Hoặc tôi không tốt số như họ. Thì tôi phải đi tìm chỗ khác. Có thế thôi. Người như tôi nhiều. Người như ông với cô Lương hiếm. Ông không nên tự hào về sự hiếm ấy. Với tôi, đó là sự lạc hậu. 

Tôi mím môi, thở dài qua mũi.

Hắn nắm tay tôi:

– Quên, tôi chưa hỏi ông: cô Lương, à ông Lương, sang đây không làm ăn gì à? Không mở cái quán nào?

– Không. Ông ấy đi làm nhà máy. Rồi về hưu.

Hắn cũng thở dài:

– Dại. Dại quá. Có tài nấu nướng như ông ấy, mở một cái imbiss[11] cũng khẳm tiền. Có tiền là có điều kiện cho con ăn học đến nơi đến chốn. 

– Hai cháu cũng được học hành tử tế đấy chứ, cũng nên người đấy chứ. Tôi không thấy có gì đáng phàn nàn.

Hắn đặt bàn tay béo tốt, gần như mũm mĩm, lên tay tôi, một lần nữa:

– Thế này nhé! Chuyện thằng Hiếu với con Thuỷ coi như xong. Ông Lương không đến cũng được. Kể cả ông nữa. Cứ coi ông là người đại diện nhà giai đi. Không sao. Không phải chúng ta là người quyết định. Làm gì còn có sự gả bán nữa. Thời này không phải thời của chúng ta nữa rồi.

– Dù sao thì chúng tôi cũng phải có lời xin cháu về làm dâu đàng chúng tôi. Mình cứ là phải giữ cho đủ lễ.

Hắn nhếch mép cười buồn. Rồi bảo:

– Con người ta tham lắm, ông ạ. Nói thật với ông, không muốn có một thằng rể chỉ tốt nghiệp trung cấp. Tôi muốn một thằng rể bét ra cũng phải kỹ sư, tiến sĩ. Hoặc một ông chủ công ty lớn. Hai đứa chúng nó đặt tôi vào thế kẹt. Biết làm thế nào? Thôi thì đành chịu vậy.

Khi tôi kiếu từ, hắn còn nói theo:

– Ông yên trí, tôi sẽ nhào nặn lại thằng Hiếu. Nó chịu khó, chăm làm, cũng có chút chí tiến thủ, không như bố nó. Cái nó thiếu mà tôi không thể cho nó được là nó không có cao vọng. 

9- Câu chuyện này đến đấy là kết thúc. Nó là chuyện tầm phào, không đáng để kể ra. Nhưng, cũng như mọi chuyện tầm phào khác, nếu ta nhìn bằng cái nhìn chăm chú thì thể nào ta cũng tìm thấy trong đó một cái gì đáng để suy ngẫm, cho dù sau đó chẳng đi đến một kết luận rõ ràng.

Tôi không tường thuật cho cô Lương nghe cuộc đối thoại giữa tôi với thằng Khởi. Nó không chỉ là kẻ thù của riêng cô Lương. Nó còn là kẻ thù của tôi nữa. Điều này tôi giấu, không nói ra. Nếu tôi nói, có thể cô Lương sẽ cảm thấy lòng căm thù của cô được san sẻ. Nhưng, khốn nạn thay, không phải vì được san sẻ mà hận thù nơi cô nhẹ đi. Có khi nó còn nặng thêm, vì cô thấy nó có lý hơn.

Chỉ có thời gian mới có khả năng xoá đi hận thù. Mà thời gian đủ để xoá là bao lâu thì không ai biết, không ai có thể chỉ ra.

Ba năm liền, hai ông thông gia không giáp mặt nhau, không gửi cho nhau một lời hỏi thăm.

Năm thứ tư, tôi bắt gặp hai kẻ thù một thời đi cùng nhau ở quảng trường Brandenburg. Họ đi bên nhau, mỗi người nhìn về một phía, mặt lạnh tanh. Giữa hai người là đứa cháu mới chập chững biết đi. 

Nó cười toe toét, tin cậy giao hai bàn tay bé tí cho hai ông nó dắt.

VŨ THƯ HIÊN 

 
[6] Chào, buổi tối (tiếng Đức)
[7] Xin lỗi (tiếng Anh)
[8] Ông già dở hơi (tiếng lóng, lấy từ phim Liên Xô “Ông già Khốt Ta Bít”)
[9] Nhà hàng
[10] Quán ăn nhanh
[11] Quán ăn nhanh (tiếng Đức).

NHÌN LÊN THẬP GIÁ

NHÌN LÊN THẬP GIÁ

Bất cứ ai đã đọc sách Xuất Hành trong Cựu Ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu truyện con rắn đồng.  Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Mô-sê.  Chúa liền cho rắn bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người.  Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Mô-sê cứu giúp.  Ông Mô-sê cầu xin Chúa.  Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi.  Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy.  Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài.  Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời.”

Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa.  Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đít-ma bên phải và Ghét-ta bên trái.  Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta chửi bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá.  Trái lại, tên trộm Đít-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi.”  Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.”

Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh.  Anh nói: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ!  Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm.”  Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn.  Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Ba-ra-ba, vì Ba-ra-ba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh.  Đời anh xấu xa quá.  Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh.  Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh.  Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.

Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên.  Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá.  Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?

Kể từ khi thập hình của người Rô ma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành Thánh giá, và bóng Thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất.  Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của Thánh giá.  Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu.  Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.

Thánh giá không chỉ được dựng lên trên nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi.  Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp.  Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy.  Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người.  Ngài đã chết cho mọi người.  Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại.  Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.

Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục Sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.

Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình.  Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ.  Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu Thế.  Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải.  Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.

Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ.

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Ký giả Dan Southerland: “Thảm sát trong biến cố Mậu Thân là tội ác chiến tranh”

Ký giả Dan Southerland: “Thảm sát trong biến cố Mậu Thân là tội ác chiến tranh”

Hòa Ái, phóng viên RFA
2018-03-12

Hai cựu phóng viên của UPI, Ký giả Dan Southerland và Ký giả Bob Kaylor tại văn phòng Đài RFA tháng 01/2018.

Hai cựu phóng viên của UPI, Ký giả Dan Southerland và Ký giả Bob Kaylor tại văn phòng Đài RFA tháng 01/2018.

RFA
 

Cách nay tròn đúng 50 năm, vào thời điểm Tết Nguyên Đán Mậu Thân, Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ký thỏa thuận ngừng bắn 36 giờ đồng hồ để cho dân chúng đón tết cổ truyền. Thế nhưng Quân đội Bắc Việt, dưới danh nghĩa Mặt trận Giải phóng miền Nam đã đồng loạt tấn công vào 41 tỉnh, thành phố, thị trấn và hàng trăm thị xã miền Nam Việt Nam. Thời điểm cuộc tấn công diễn ra vào lúc giao thừa và hàng ngàn người dân bị thiệt mạng, trong đó cuộc thảm sát ở Huế vẫn là vết thương chưa lành.

Cựu Tổng Biên tập Đài RFA, Ký giả Dan Southerland và Ký giả Bob Kaylor, cả hai vị đều là cựu phóng viên của hãng thông tấn UPI, chia sẻ nhân dịp đánh dấu 50 năm biến cố lịch thảm sát Mậu Thân.

Vi phạm thỏa thuận ngừng bắn

Hòa Ái: Xin chào hai Ký giả Dan Southerland và Bob Kaylor. Tôi được biết hai vị đã có mặt ở Việt Nam trong thời điểm biến cố Tết Mậu Thân xảy ra hồi năm 1968. Bây giờ đã 50 năm trôi qua, khi nhắc đến biến cố này, điều gì khiến cho hai vị nhớ nhất?

Ký giả Bob Kaylor: Tôi đã ở Nha Trang trong lúc xảy ra cuộc tấn công, một đêm trước khi bắt đầu ở Sài Gòn. Quân đội Bắc Việt và Việt Cộng tấn công 5 đồn cảnh sát khác nhau trong thành phố và vanh đai của Nha Trang. Đây là một vụ lớn. Nhưng ngay lúc đó tôi không lường được vụ tấn công này lớn đến mức độ nào, bởi vì nó diễn ra ở Nha Trang và vào đêm sau đó, diễn ra ở Sài Gòn và nhiều nơi khác ở Việt Nam. Cho nên mọi thứ thật sự bị quá sức vì quá nhiều người tấn công vào nhiều nơi. Đối với giới báo chí, chúng tôi cho là có thể dẫn đến một trận đánh lớn cần phải quan tâm.

Hòa Ái: Thưa Ký giả Dan Southerland, qua chia sẻ của ông với khán thính giả RFA nhân dịp 40 năm cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc, tôi nhớ ông đã ở Sài Gòn khi biến cố Tết Mậu Thân xảy ra. Những hình ảnh nào của biến cố này đọng lại trong hồi ức của ông?

Có những câu chuyện được kể lại quân đội Cộng sản vào trong thành phố, đi đến từng nhà ghi tên từng người và bắt họ đi, rồi họ bị mất tích luôn vào thời điểm đó. Không ai biết việc gì đã xảy ra với những người này. Sau cuộc tấn công nhiều tuần lễ, những hố chôn tập thể được khám phá và các cuộc thảm sát ghê rợn mới được phơi bày. – Ký giả Bob Kaylor

Ký giả Dan Southerland: Tôi thức dậy vào sáng ngày 30 tháng Giêng, tôi nghe như là tiếng pháo nổ, người ta đốt để đón Tết. Khi tôi nhận ra tôi tiếng súng liên thanh nổ, thì tôi thật cẩn thận trên đường đến văn phòng để đưa tin về cuộc tấn công. Tôi vừa kết hôn nên tôi chọn công tác ở Sài Gòn vì tôi cho rằng đây là một nơi an toàn. Nhưng ngay lúc đó, tôi nhanh chóng nhận ra Sài Gòn không còn an toàn nữa.

Hòa Ái: Tôi được biết Ký giả Dan Southerland lúc đó còn rất trẻ, vừa tốt nghiệp đại học ngành báo chí được vài năm. Những gì ông chứng kiến trong biến cố Tết Mậu Thân tác động đến nghề nghiệp cũng như trong cuộc sống của ông như thế nào?

Ký giả Dan Southerland: Tôi nhận thấy đây chính là công việc mà tôi muốn làm, cuộc tấn công này là một dịp để tôi thực hiện nghề nghiệp làm báo của mình. Và, tôi cũng nhận ra tôi không thể chỉ ngồi đợi ở Sài Gòn để chờ xem chuyện gì xảy ra, nên tôi tình nguyện đi ra khỏi thành phố Sài Gòn và tôi đã chứng những tổn thất của cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Tôi đã học được nhiều bài học từ biến cố này.

Hòa Ái: Thưa Ký giả Bob Kaylor, ông có còn nhớ phản ứng của chính giới và dân chúng Hoa Kỳ ra sao khi UPI và các cơ quan báo chí nước ngoài khác, đặt tại Việt Nam loan tin về biến cố tết Mậu Thân, đặc biệt về các cuộc thảm sát tại Huế, thưa ông?

Thảm sát Mậu Thân

Ký giả Bob Kaylor: Tôi là người đang có mặt tại hiện trường và là một trong những người tích cực đưa nhiều tin tức về cuộc tấn công, nên tôi không có chú ý đến thế giới và nước Mỹ phản ứng như thế nào. Nhưng tôi tập trung đưa tin về những trận đánh và tôi còn nhớ những bản tin liên quan đến các cuộc hành quyết mà mãi mấy tuần sau mới biết được. Có những câu chuyện được kể lại quân đội Cộng sản vào trong thành phố, đi đến từng nhà ghi tên từng người và bắt họ đi, rồi họ bị mất tích luôn vào thời điểm đó. Không ai biết việc gì đã xảy ra với những người này. Sau cuộc tấn công nhiều tuần lễ, những hố chôn tập thể được khám phá và các cuộc thảm sát ghê rợn mới được phơi bày.

Hòa Ái: 50 năm biến cố Mậu Thân đã trôi qua, báo chí Việt Nam đưa tin về một sự kiện các cựu chiến binh giao lưu với học sinh ở một trường trung học cơ sở, tại phường Đa Kao, Sài Gòn hồi hạ tuần tháng 12 năm 2017. Tại cuộc gặp gỡ đó, một cựu chiến binh đã nói với học sinh rằng “giết kẻ địch trong chiến tranh không phải là tội ác”, nhưng người cựu chiến binh này cũng nhấn mạnh việc giết người vô tội như Pol Pot đã làm ở Campuchia là tội ác chiến tranh. Thưa ký giả Dan Southerland, những người dân thường ở Huế bị giết hại trong biến cố Mậu Thân lên đến con số hàng ngàn người, mà lịch sử ghi chép do quân đội Bắc Việt gây ra, trong đó đa số là phụ nữ và trẻ em, ông có cho rằng các cuộc thảm sát này là tội ác chiến tranh hay không?

Ký giả Dan Southerland: Vâng. Tôi nghĩ có thể xem đây là tội ác chiến tranh. Các cuộc thảm sát đó thực sự là khủng khiếp. Chúng ta không thể biết được con số thật sự bao nhiêu người đã biệt giết. Các ngôi mồ tập thể chứa khoảng từ 2800 đến 3000 nạn nhân. Như Ký giả Bob Kaylor đã kể thì không ai có thể biết con số cụ thể bao nhiêu người bị mất tích, nên số liệu người bị sát hại có thể cao hơn. Rất nhiều người bị mất tích.

Hòa Ái: Cũng vào cuối tháng 12 năm 2017, truyền thông Việt Nam đăng bài viết của Chủ tịch nước Trần Đại Quang nhân 50 năm tổng tiến công Mậu Thân 1968, khẳng định cuộc tổng tiến công có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng, dẫn đến đàm phán tại Hội nghị Paris để chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Thưa Ký giả Bob Kaylor, là nhân chứng lịch sử và là một nhà báo, ông ghi nhận một cách tổng quát cuộc tổng tiến công Mậu Thân của quân đội Bắc Việt như thế nào?

Ký giả Bob Kaylor: Chúng tôi đã không biết được tầm ảnh hưởng của cuộc tấn công Mậu Thân cho đến một thời gian sau khi nó xảy ra. Thật sự các cuộc tấn công xảy ra ở Việt Nam đều do quân đội Cộng sản thực hiện và chiến thắng thuộc về họ. Nhưng trong các trận đánh, lực lượng quân đội Việt Nam Cộng Hòa và đồng minh Hoa Kỳ cho thấy quân đội Cộng sản bị tổn thất nặng nề. Theo cách nói của quân đội thì đó không phải chiến thắng vang dội. Nhiều năm sau nữa, tôi được gặp một ông Đại tá của Mỹ, người có liên hệ trong cuộc đàm phán đình chiến và ông đã kể lại cho tôi nghe những gì ông bàn thảo với đối tác, là một Đại tá của quân đội Bắc Việt. Trong ngày hai ông đại tá gặp nhau, Ông Đại tá Mỹ đã nói rằng “Các anh không bao giờ thắng chúng tôi trên trận chiến được”. Ông Đại tá của quân đội Bắc Việt nhìn vào mắt của ông Đại tá Mỹ và nói “Điều đó không liên quan gì cả”. Ông Đại tá Mỹ nói với tôi là sau đó ông nhận ra lời của ông Đại tá Bắc Việt nói đúng vì quân số của quân đội Bắc Việt bị tổn thất, nhưng trong thời gian dài họ thắng về mặt tâm lý và đã dẫn đến thế giới thay đổi quan điểm về cuộc chiến tranh Việt Nam.

Hòa Ái: Chúng tôi cũng được dịp trao đổi với một số gia đình có thân nhân là nạn nhân bị giết hại trong biến cố Mậu Thân. Nỗi sợ hãi và ám ảnh vẫn còn nguyên vẹn dù đã 50 năm trôi qua. Hai vị nghĩ rằng Nhà nước Việt Nam nên làm gì đối với những gia đình này để nỗi đau mất mát phần nào được xoa dịu?

Ký giả Dan Southerland: Tôi nghĩ đó là ý tưởng hay. Nhưng tôi không nghĩ Chính phủ Việt Nam sẽ thực hiện điều đó. Họ không phải là những người tốt đang điều hành quốc gia. Tôi nghi ngại họ sẽ không làm như vậy. Bởi vì, nếu họ làm thì sẽ rất tuyệt vời. Đã quá trễ để làm việc này đối với những người có liên quan trong biến cố Mậu Thân, cách đây 50 năm.

Tôi nghĩ có thể xem đây là tội ác chiến tranh. Các cuộc thảm sát đó thực sự là khủng khiếp. Chúng ta không thể biết được con số thật sự bao nhiêu người đã biệt giết. Các ngôi mồ tập thể chứa khoảng từ 2800 đến 3000 nạn nhân. Như Ký giả Bob Kaylor đã kể thì không ai có thể biết con số cụ thể bao nhiêu người bị mất tích, nên số liệu người bị sát hại có thể cao hơn. Rất nhiều người bị mất tích – Ký giả Dan Southerland

Tôi muốn thêm vào nhận định của Ký giả Bob Kaylor về biến cố Mậu Thân. Tôi nghĩ một trong những thất bại lớn nhất của biến cố này là quân đội Bắc Việt chú trọng vào việc kích động hoặc làm cho lớn chuyện lên. Họ nghĩ rằng sẽ được dân chúng hỗ trợ khi vào đến các thành phố, trị trấn, làng ấp, nhưng họ đã thất bại vì thực tế không phải như vậy. Đây là một khía cạnh quan trọng.

Điều thứ hai quan trọng nữa là họ muốn hủy diệt lực lượng quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Các quân nhân của quân lực Việt Nam Cộng Hòa được về nhà đón Tết trong thời gian ngưng bắn, nhưng quân đội Bắc Việt đã vi phạm thỏa hiệp ngưng bắn đó. Tôi đã đến Bến Tre, một nơi bị tàn phá nặng nề sau cuộc tấn công Mậu Thân. Tôi thẩn thờ trước cái chết của hàng ngàn thường dân, đã bị giết trong thời gian ngưng bắn. Quân số của quân lực Việt Nam Cộng Hòa vào thời gian nghỉ Tết Mậu Thân có lẽ chỉ còn 1/6, và họ đã chiến đấu để chống trả lực lượng tấn công của đối phương.

Tướng Westmoreland, Tư lệnh Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam báo cáo đã thắng trận Mậu Thân. Tuy nhiên, Tổng thống Johnson lúc bấy giờ bị sốc khi xem được hình ảnh Việt Cộng tấn công vào tòa Đại sứ Mỹ. Truyền thông Hoa Kỳ đưa tin cuộc chiến ở Việt Nam bị sa lầy và phong trào kêu gọi rút quân. Tổng thống Johnson đã ra lệnh ngưng bỏ bom ở miền Bắc và kêu gọi Bắc Việt ngồi vào bàn Hội nghị Paris.

Ký giả Bob Kaylor: Như Ký giả Dan Southerland đã trình bày, thì người dân Mỹ đã quá mệt mỏi với các thông tin về người thân chiến đấu và bị mất mạng ở Việt Nam. Họ không thấy được lối thoát cho cuộc chiến này. Họ không muốn các chính trị gia tiếp tục hỗ trợ cho cuộc chiến tranh Việt Nam nữa và những lời kêu gọi của họ cuối cùng đã dẫn đến quyết định chấm dứt chiến tranh.

Hòa Ái: Xin được cảm ơn Ký giả Dan Southerland và Ký giả Bob Kaylor dành thời gian cho cuộc phỏng vấn với RFA nhân dịp 50 năm biến cố Mậu Thân.

Giáo viên “chi tiền để được dạy”, huyện khẳng định chưa phát hiện tiêu cực

Giáo viên “chi tiền để được dạy”, huyện khẳng định chưa phát hiện tiêu cực

Liên quan đến vụ việc hơn 500 giáo viên ở huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk bị thôi việc vì bị tuyển dư trong nhiều năm qua, một số giáo viên nói mình phải chi tiền để được nhận vào dạy, sau đó là vào biên chế nhà nước; thế nhưng bà Ngô Thị Minh Trinh, Phó chủ tịch UBND huyện Krông Pắk nói huyện chưa phát hiện tiêu cực.

“Đến nay, huyện chưa nhận được bất cứ phản ánh hay đơn thư tố cáo tiêu cực trong vụ việc này. Nếu phát hiện có tiêu cực, chúng tôi sẽ đề nghị các cơ quan chức năng điều tra xử lý những cá nhân tập thể vi phạm”, báo Zing dẫn lời bà Trinh cho biết.

Video liên quan: “Ai trả thanh xuân cho chúng tôi?” http://bit.ly/2FJvuXZ

Image may contain: 1 person

4 Điều Cần Ghi Nhớ Để Vượt Qua Những Sóng Gió Trong Cuộc Đời

4 Điều Cần Ghi Nhớ Để Vượt Qua Những Sóng Gió Trong Cuộc Đời

 Trên những đoạn khúc khuỷu của đường đời, chúng ta thường dễ trượt ngã và oán trách số phận: “Sao đời lại bất công như thế?”. Nhưng người Ấn Độ khác hẳn lại luôn dùng kim chỉ nam là 4 quy tắc tâm linh đầy sâu sắc dưới đây để đi qua những cơn sóng của niềm vui và nỗi buồn trong cuộc sống.

 1Bất cứ người nào bạn gặp cũng đúng là người mà bạn cần gặp

Không ai ngẫu nhiên bước vào cuộc đời bạn mà không mang một ý nghĩa nào đó. Tất cả những người chúng ta gặp trên đường đời đều là những người “thầy” vô giá. Dù họ yêu thương bạn, bỏ rơi bạn, giúp đỡ bạn hay tranh đấu với bạn, tất cả chỉ để dạy bạn cách sống, cách yêu thương, cách bao dung và nhẫn nhường. Số phận luôn sắp đặt đúng người vào đúng thời điểm để tôi luyện ý chí và phẩm cách con người bạn, để bạn nhận ra đâu là giá trị cuộc sống và giá trị của bản thân mình. Vậy nếu bạn chỉ biết ơn những người trao cho bạn cơ hội mới, những người tặng bạn những khoảnh khắc ngọt ngào, và thù ghét những người để lại vết thương lòng trong bạn thì bạn mới chỉ hiểu một nửa thông điệp của tạo hóa.

2. Bất cứ điều gì xảy ra trong cuộc đời bạn đều là những điều nên xảy ra

Không có điều gì chúng ta từng trải qua trong cuộc đời mình đáng ra không nên xảy ra cả, kể cả những điều nhỏ nhặt nhất. Trước mỗi một sai lầm hay vấp ngã, chúng ta đều than thở “Giá như mình không làm thế thì mọi chuyện đã khác”. Nhưng không, chẳng có cái giá nào hết bởi vì những gì nên xảy ra thì đều đã xảy ra.

Qua đó, chúng ta rút ra được bài học để hoàn thiện, phát triển bản thân hơn. Thay vì ngồi đó bực tức, bất lực, trách mình vì đã đánh đổ nước cam lên chiếc laptop ban sáng, bạn hãy bình tĩnh chấp nhận, lau chùi nó rồi nó đem chiếc máy tính đi sửa và rút kinh nghiệm lần sau không bao giờ để nước vào túi đựng laptop nữa, có phải là tốt đẹp hơn không? Khi bị kẹt cứng trên một tuyến đường đông đúc trong lúc đưa con đi học, bạn cũng sẽ không nghĩ rằng nếu đi nhanh hơn thì một chiếc xe tải lao như bay trên đường có thể cướp đi sinh mạng của mình và con mình?

Bởi vậy mới nói, đừng ngồi mà ước “giá như” bởi chẳng có gì xảy ra trong cuộc đời là không có nguyên do. Nhẹ nhàng chấp nhận mới có thể ung dung, tự tại. Không có gì chúng ta trải qua lại có thể khác đi và đừng tốn thời gian để hối tiếc về những chuyện đã qua.

3. Chuyện gì đến, ắt sẽ đến

Tất cả mọi chuyện trên đời đều xẩy đến vào đúng thời điểm nó xẩy ra, không sớm hơn hay muộn hơn. Chúng ta không thể đoán trước điều gì sắp xảy ra, cũng không thể ngăn chặn nó vì nó đã ở đó và sẽ xảy ra vào một thời điểm mình không ngờ tới. Việc lo sợ vào một ngày nào đó một chuyện tồi tệ ập đến sẽ khiến bạn quên đi những giây phút đáng quý của hiện tại. Dù là niềm vui hay nỗi buồn, hãy học cách can đảm đón nhận nó. Bạn không thể kiểm soát thế giới xung quanh bạn. Chuyện gì phải đến cũng sẽ đến và phải học cách bình thản đối diện với những chuyện có thể bất ngờ xảy ra. Đôi khi, chúng ta phải chờ đợi rất lâu và trải qua rất nhiều những “chuyện sẽ đến” để hiểu hết ý nghĩa của thời điểm. Thời điểm luôn là món quà mà Thượng Đế trao cho những ai biết nhẫn nại, kiên trì và quyết tâm.

 4. Chuyện gì đã qua, hãy để cho nó qua

Quy tắc này rất đơn giản. Khi một điều gì đó đã kết thúc, thì có nghĩa là nó đã hoàn thành trách nhiệm giúp ta phát triển. Duyên phận của chúng ta với điều đó đã chấm dứt để nhường chỗ cho mối nhân duyên khác hội tụ. Đôi khi chia tay một người hay rời bỏ một công việc chưa chắc đã là điều không tốt, bởi vì biết đâu đó lại là cơ hội để mình tìm được một công việc mới tốt hơn hay một người khác tử tế hơn.

Đó là lý do chúng ta phải biết buông bỏ, để lại sau lưng những muộn phiền và quá khứ để dành sức tiếp tục cuộc hành trình của đời mình. Để có thể an nhiên, mỗi người nên biết tùy duyên và thuận theo tự nhiên mà sống.

Không phải ngẫu nhiên mà bạn đọc được bài viết này bởi vậy nếu cảm thấy đúng, đừng giữ cho riêng mình mà hãy chia sẻ! Hãy yêu thương bản thân, sống an nhiên và luôn hạnh phúc nhé!

Bằng cấp ở Việt Nam: Ra ngoại quốc học 8 ngày, lãnh bằng tiến sĩ

Bằng cấp ở Việt Nam: Ra ngoại quốc học 8 ngày, lãnh bằng tiến sĩ

 

Một buổi lễ tốt nghiệp và trao bằng tiến sĩ ở Việt Nam. (Hình: Viện KHXH)

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Chạy ra nước ngoài tất cả có 8 ngày, một ông mang bằng tiến sĩ về nước xin được “cấp giấy kiểm định” một trong hàng chục ngàn trường hợp về cái chợ bằng dỏm tại Việt Nam.

Theo tờ Người Lao Động hôm Thứ Bảy, 10 Thng Ba, 2018, Trung Tâm Công Nhận Văn Bằng thuộc Cục Quản Lý Chất Lượng – Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, tại Hà Nội, đến nay, “có hàng chục ngàn văn bằng có yếu tố nước ngoài không được công nhận tại Việt Nam.”

Nguồn tin thuật lại cho biết một trường hợp Trung Tâm Công Nhận Văn Bằng “đã từ chối công nhận văn bằng tiến sĩ giáo dục tại Trường ĐH Asia E (AeU, Malaysia) cho một trường hợp được cấp bằng chỉ sau 4 lần sang Malaysia, mỗi lần 2 ngày (kể cả thời gian đi đường).”

Căn cứ theo hồ sơ, nguồn tin kể, người này đã học chương trình “tiến sĩ giáo dục học,” ngành giảng dạy tiếng Anh trong thời gian 4 năm, từ Tháng Năm, 2011 đến Tháng Mười Hai, 2015. Tuy nhiên, “theo thông tin trên hộ chiếu, ‘tiến sĩ’ này không sang học trực tiếp tại cơ sở của AeU mà chỉ sang nước này 4 lần, tổng cộng 8 ngày.”

Tờ Người Lao Động thuật lời ông Vũ Ngọc Hà, Trung Tâm Công Nhận Văn Bằng, thông tin thêm có những trường hợp bị từ chối công nhận văn bằng do theo học chương trình của một trường của Singapore nhưng trường này không được Bộ Giáo Dục và Đào Tạo cho phép tổ chức giảng dạy ở Việt Nam.

Vẫn theo tờ Người Lao Động thuật lại, thời gian qua, “Cục Quản Lý Chất Lượng cũng phát hiện không ít trường hợp đến xin được công nhận văn bằng quốc tế nhưng khi kiểm tra thông tin thì lại là bằng giả. Những bằng này có thể mua dễ dàng ngay trên các chợ bán văn bằng giả online mà ai cũng có thể tiếp cận, miễn là có tiền.”

Biếm họa trên báo Lao Động về bằng dỏm, bằng giả tại Việt Nam. (Hình LĐ-BacGiangTV)

Theo thống kê Việt Nam có hơn 24,000 người có bằng tiến sĩ đủ mọi ngành nhưng ngành đại học của Việt Nam được ví von “giống như trường phổ thông cấp bốn, nghiên cứu khoa học thấp.” Bằng cấp tuy gọi là “bằng thật” được cấp từ chính các đại học của nhà nước nhưng tai tiếng về những vụ đạo văn, mua bằng, mua giám khảo không phải họa hiếm.

Còn những ông bà đi mua cái bằng do các “diploma mill” ở nước ngoài, gồm cả những quan chức cấp cao, đảng viên gộc trong hệ thống đảng và nhà nước thấy nêu tên trên mặt báo mấy năm qua. Nguyễn Xuân Anh, Vũ Viết Ngoạn, Võ Kim Cự là một số trong các ông có tên trên bảng phong thần “diploma mill.”

Không thấy có một cuộc nghiên cứu và thống kê nào công bố cho người ta biết chính xác, trong số hàng chục ngàn ông bà mang bằng dỏm tới Trung Tâm Công Nhận Văn Bằng để xin được “kiểm nhận” thì bao nhiêu ông bà là đảng viên Đảng CSVN và đang nắm những chức vụ gì trong đảng và nhà nước.

Nhiều trường hợp, chỉ cần gửi tiền, từ vài trăm đô la đến vài ngàn đô la, tới các “diploma mill” là được cấp văn bằng tiến sĩ tùy ngành nào muốn chọn. Việc cái ông đi 4 lần tổng cộng 8 ngày là được cấp bằng tiến sĩ có thể lại quá công phu và tốn thêm tiền bạc ăn ở, vé máy bay.

Tuần trước, thấy có tin 94 ông bà tiến sĩ bị “nghi” không đủ tiêu chuẩn cứu xét để phong cho danh hiệu “giáo sư.” Trong đó có bà Bộ Trưởng Y Tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã không được phong hàm giáo sư mà có người đưa ra các dẫn chứng để cho rằng bà không phải là bác sĩ (khám , chữa bệnh) như nhiều người lầm tưởng. (TN)

Lộng kính kỷ niệm với TT Obama

 
 
 
 
 
 
 
Image may contain: 4 people, people sitting, people eating, table, food and indoor
Image may contain: table and indoor
Chân Trời Mới Media added 2 new photos.

 

Lộng kính kỷ niệm với TT Obama

LS Lê Công Định

Tấm hình này thực sự ấn tượng đối với tôi vì nhiều lẽ. Có thể nói, lưu giữ kỷ niệm về một nhân vật chính trị, lồng kính trong ảnh là cái thứ hai ở Việt Nam. Cái đầu tiên đặt trong lăng ở Ba Đình, nhưng đó là do ý chí của nhà cầm quyền.

Lưu niệm vật dụng mà Tổng thống Obama dùng trong một bữa ăn là hành động khởi phát từ lòng quý mến riêng và tự nhiên của vị chủ quán dành cho ông, tức lòng dân, chứ không phải bởi mệnh lệnh áp đặt của cường quyền như trường hợp lồng kính giữ xác ướp.

Mặt khác, đã có vị lãnh đạo nào của đảng cầm quyền và nhà cầm quyền ở Việt Nam hiện nay viếng thăm nơi đâu và làm gì, khiến người dân tự nguyện lưu giữ để kỷ niệm những vật dụng liên quan đến ông hoặc bà ta, với tất cả tấm lòng và thái độ trân trọng như thế chưa?

Sự đón tiếp và lưu giữ kỷ niệm về nguyên thủ quốc gia một nước cựu thù của chế độ, một cách gián tiếp, nói lên niềm khao khát của toàn dân về một thể chế chính trị dân chủ cho phép họ tự do lựa chọn những chính khách tài ba lãnh đạo quốc gia, chứ không buộc phải chấp nhận bị trị bởi một đám cai trị xôi thịt, bất tài vô dụng.

Vì vậy, đối với tôi, lồng kính ở quán bún chả Hương Liên đất Hà Thành là sự bỉ mặt, nếu không nói là lăng mạ, ghê gớm mà dân chúng dành cho giới cai trị hiện nay. Kẻ cai trị, dù cùng dân tộc, vẫn không giành được bất kỳ sự kính trọng tối thiểu nào từ phía những người bị trị ở xứ này.

FB Lê Công Định
Hình 2: Internet
Ad đặt tựa

DŨNG PHI HỔ SẮP BỊ XÉT XỬ

Trần Bang is with Le Hoang.

DŨNG PHI HỔ SẮP BỊ XÉT XỬ

Ngày 28-9-2017, Cơ quan An ninh Điều tra Công an tỉnh Nghệ An đã bắt khẩn cấp Nguyễn Viết Dũng, 31 tuổi, về hành vi “Tuyên truyền chống Nhà nước” quy định tại Điều 88, Bộ luật hình sự, một điều luật cực kỳ mơ hồ mà bất kỳ công dân VN nào cũng có thể là nạn nhân của điều luật này – trừ người vừa câm vừa mù chữ.

Vào tháng 11/2015, Nguyễn Viết Dũng bị khởi tố tội ‘Gây rối trật tự công cộng’ do mặc quân phục Việt Nam Cộng Hòa tham gia tuần hành bảo vệ cây xanh Hà Nội. Sau phiên tòa rất “cong và khai”, Dũng bị tuyên án 15 tháng tù về tội gây rối trật tự công cộng nhưng sau đó được giảm án còn 12 tháng tù.

Ngày 28-3-2018, Dũng sẽ bị tòa án cộng sản đưa ra xử sơ thẩm. Có 2 luật sư bào chữa cho Dũng là luật sư Ngô Anh Tuấn và Luật sư Lê Khả Thành. Chắc chắn một điều: đây lại là phiên tòa rất “cong và khai” như nhà cầm quyền đã xét xử bao nhiêu người yêu nước khác. Đây là trò chơi hèn hạ của họ. Họ sẽ chận mọi nẽo đường dẫn tới tòa án, ngăn cản người thân của Dũng tham dự phiên tòa và tuyên án rất cao để ” mặc cả” ” xuất khẩu” người tù với các nước tiến bộ khác.

Xin cộng đồng quan tâm chia sẻ.

( FB Bảo Nhi Lê )

Image may contain: 6 people, people standing

TƯỢNG ĐÀI MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG LỚN NHẤT ĐÔNG NAM Á

 Mai Sương‘s post.
 
 
 
Image may contain: 3 people, outdoor
Mai Sương is with Dương Thanh Thiên and 10 others.

 

TƯỢNG ĐÀI MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG LỚN NHẤT ĐÔNG NAM Á

Trời cao có thấu hay chăng
Bao người dân đói nhăn răng mỗi ngày 
Vậy mà cái đảng mặt dầy 
Lấy tiền xương máu dân xây tượng đài 
Đúng là có một không hai
Việt Nam lãnh đạo có tài chơi ngông 
Bốn trăm mười một tỷ đồng 
Của dân đảng lấy như không xây đài 
Xây đài : ” tổ mẹ chúng mày ! “
Nợ công, tiền thuế ngập đầy tối tăm
Trăm dâu cứ đổ đầu tằm
Vậy mà dân cứ ngậm tăm cái mồm 
Cãi nhau thì rất già mồm 
Khi bị áp bức có mồm như không 
Cúi đầu trước những bất công 
Để cho đảng cướp “vặt lông” tới cùng 
Đến khi bị nhổ sạch lông
Cơ hội vùng dậy còn không hỡi người ???

Mai Sương

Tượng đài bà Nguyễn Thị Thứ xây hết 411 tỷ đồng ở Tam Kỳ Quảng Nam lớn nhất ĐNA

500 giáo viên thất nghiệp và biệt thự từ nghề xe ôm

 

500 giáo viên thất nghiệp và biệt thự từ nghề xe ôm

  • LTS: Khoảng 500 giáo viên huyện Krông Pắk, tỉnh Đắk Lắk, đứng trước nguy cơ bị mất việc hàng loạt vì những sai phạm của lãnh đạo tỉnh này, khi họ ký tuyển dụng hàng trăm giáo viên trái quy định, trong đó có ông Nguyễn Sỹ Kỷ, cựu Chủ tịch UBND huyện Krông Pắk, là người đã ký tuyển dụng hơn 400 giáo viên.
Ông Nguyễn Sỹ Kỷ (phải), Phó Ban Nội chính Tỉnh ủy. Ảnh: báo Đắk Lắk

Năm ngoái, ông Nguyễn Sỹ Kỷ khi đó là Phó ban Nội chính Tỉnh ủy Đắk Lắk, đã từng nhận kỷ luật về vụ tuyển dụng này bằng hình thức… khiển trách. Cũng năm ngoái, người ta phát hiện ra rằng, ông Kỷ có căn biệt thự rất to, xây trái phép trên đất nông nghiệp. Khi mọi người đặt dấu hỏi về khối tài sản này, ông Kỷ biết, đó là tài sản ông tích cóp nhờ vợ buôn bán và ông chạy xe ôm thâu đêm sau giờ làm việc cho nhà nước.

Không rõ vụ xử lý biệt thự xây trái phép của ông Nguyễn Sỹ Kỷ ra sao, nhưng có lẽ lãnh đạo tỉnh Đắk Lắk nên tạo điều kiện cho ông Kỷ “đoái công chuộc tội”, bằng cách để cho ông truyền nghề làm giàu nhờ chạy xe ôm của ông, giúp huấn luyện cho mấy trăm giáo viên sắp bị mất việc có nghề nghiệp sinh sống và làm giàu, để các giáo viên này chẳng những có nghề mưu sinh, mà còn có tiền xây biệt thự giống ông.

____

Đất Việt

Mi An

12-3-2018

Điều bất ngờ là 400 người trong số đó được ký bởi ông Nguyễn Sỹ Kỷ- người nổi tiếng với biệt thự do làm thêm chạy xe ôm.

Các giáo viên bức xúc kéo lên huyện để phản đối việc bị chấm dứt hợp đồng. Ảnh: VNN

Hình ảnh những giáo viên nước mắt lưng tròng nghẹn ngào cầm lá đơn lên huyện phản đối việc họ bỗng dưng bị chấm dứt hợp đồng, lâm vào cảnh thất nghiệp khiến nhiều người cảm thấy nhói lòng.

Trước đó, ngày 9/3, UBND huyện Krông Pắk tổ chức họp, thông báo về việc, sắp tới sẽ tổ chức thi tuyển viên chức giáo viên năm 2017 với chỉ tiêu khoảng 80 người. Điều này đồng nghĩa với việc có hơn 500 người trong tổng số hơn 600 giáo viên đang dạy hợp đồng không đủ điều kiện thi tuyển, họ sẽ mất việc, tự kiếm việc khác.

Về việc tuyển dụng dư thừa hơn 600 giáo viên, UBKT Tỉnh ủy Đắk Lắk đã tiến hành kiểm tra và kết luận, 3 đời chủ tịch UBND huyện Krông Pắk đã ký tuyển dụng, chỉ đạo ký tuyển dụng hàng trăm giáo viên trái quy định.

Trong đó, ông Nguyễn Sỹ Kỷ (Phó trưởng Ban Nội chính Tỉnh ủy, nguyên chủ tịch UBND huyện Krông Pắk giai đoạn 2011-2016) được xác định đã ký tuyển dụng, chỉ đạo ký tuyển dụng hơn 400 trường hợp.

Ngoài ra, khi làm Chủ tịch UBND huyện Krông Pắk, ông Kỷ còn để xảy ra nhiều sai phạm về tài chính, xây biệt thự trên đất nông nghiệp… Ông Kỷ đã bị kỷ luật cảnh cáo về mặt Đảng.

Ngôi biệt thự hoành tráng của ông Nguyễn Sỹ Kỷ, cựu Chủ tịch UBND huyện Krông Pắk. Ảnh: VNN

Ông Nguyễn Sỹ Kỷ này hẳn nhiều bạn đọc còn nhớ, chính là người có vợ là chủ nhân của ngôi biệt thự hoành tráng xây trái phép trên đất nông nghiệp ở tổ dân phố 11, phường Ea Tam (TP. Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk). Khi báo chí hỏi đến khu biệt thự xây trên thửa đất có tổng diện tích gần 1 ha này từ đâu mà có, ông Kỷ cho biết, khu đất này do vợ đứng tên và được mua từ khoản tiền lương tích cóp. Theo ông Kỷ, khi mua hiện trạng khu đất đã được chủ đào ao, dựng nhà cấp bốn trên đất.

“Thời kỳ đó cuộc sống khó khăn lắm. Ngày tôi làm ở thanh tra tỉnh, tối thì lo chạy xe ôm thâu đêm. Vợ chồng còn phải nuôi heo, gà cóp nhặt từng đồng” – ông Kỷ phân trần.

Từ đó, ông được dư luận biết đến với thành tích ngày đi làm, tối chạy xe ôm thâu đêm để xây được biệt thự “khủng”.

Vậy còn việc ông Kỷ- khi còn làm Chủ tịch UBND huyện Krông Pắk ký hợp đồng trái quy định với những 400 giáo viên để đến nỗi bây giờ họ lâm vào cảnh sống dở chết dở vì bị chấm dứt hợp đồng, phải ra đường lâm vào cảnh thất nghiệp thì sao? Liệu người ta có thể đặt nghi vấn, việc ký tới 400 hợp đồng tuyển dụng trái quy định đó, có liên quan gì đến ngôi biệt thự mà ông phải vất vả chạy xe ôm thâu đêm mà có được hay không?

Câu trả lời này, chỉ có riêng ông Kỷ mới là người trả lời được.

Chỉ thương cho 500 giáo viên ở huyện Krông Pắk, cho dù ngày hôm qua, UBND tỉnh đã ra quyết định tạm dừng việc chấm dứt hợp đồng với 500 giáo viên này, nhưng rõ ràng, tương lai của họ cũng rất đang mờ mịt, không biết đi đâu về đâu.

Chắc chắn nhiều người trong số họ, nếu thất nghiệp sẽ phải ra đường chạy xe ôm – một nghề khá phổ biến. Chỉ có điều với tài năng và sức vóc của họ, việc hành nghề xe ôm cũng chỉ đủ “vắt mũi đút miệng” chứ khó có thể nào dồn góp để xây nên cái biệt thự hoành tráng như của ông Nguyễn Sỹ Kỷ, người ký hợp đồng trái quy định để tuyển dụng họ.

KHÔNG KHÍ BẠN ĐÃ, ĐANG & SẼ THỞ: – HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ…

Van Pham shared Van Minh Nguyen‘s post.
 

KHÔNG KHÍ BẠN ĐÃ, ĐANG & SẼ THỞ: – HOÀN TOÀN MIỄN PHÍ…

 
Image may contain: 1 person, text
Van Minh Nguyen to CHV DON BOSCO

 

Một ông lão 78 tuổi bị đột quỵ và được nhanh chóng đưa vào bệnh viện. Ông ta được tiếp Oxy để cứu mạng sống trong 24 tiếng đồng hồ. Sau khoãng thời gian đó sức khỏe ông đã khá hơn, vị bác sĩ trao cho ông hóa đơn viện phí là 500 Bảng Anh, và khi ông lão nhìn thấy hóa đơn ông liền bật khóc. Vị bác sĩ nói với ông là đừng khóc vì ông có thể trả dần dần món tiền này. Nhưng ông lão nói “Tôi khóc đây không phải vì số tiền phải trả, tôi có thể trả hết một lần bằng tiền mặt, tôi khóc đây là bởi vì tôi chỉ xử dụng Oxy trong 24 tiếng mà phải trả 500 Bảng Anh, nhưng tôi đã hít thở miễn phí không khí của Thượng Đế suốt 78 năm nay, nếu phải trả, bác sĩ có biết tôi mắc nợ bao nhiêu không?”

Giờ nói về bạn, người đang đọc câu chuyện này, bạn đang hít thở miễn phí không khí của Thượng Đế hết sức thoải mái mà không phải trả bất cứ chi phí nào sau nhiều năm tháng.

Vui lòng chỉ mất thời gian một vài giây để gửi thông điệp này đến tất cả mối quan hệ của bạn để nhắc lại về món quà miễn phí của Thượng Đế trong cuộc sống.

Bỏ qua điều này nếu bạn sở hữu khí thở của riêng bạn.
( Dịch: Van Minh Nguyen )

Một chuyện thấy ở siêu thị

Trần Bang shared Dao Thu‘s post.

Thói ăn cắp vặt không bị ngăn chặn, thiệt hại không chỉ bé như những cái kẹo, hộp kem …, mà khi thành thói quen ăn cắp, thành ăn cắp phổ biến trong cả cộng đồng ( mà ăn cắp, gian dối, tham nhũng bao giờ cũng đi với nhau), nó sẽ thành tính cách dân tộc, nó không chỉ làm tăng chi phí xã hội như phải làm nhiều khoá tốt hơn, nhiều lớp cửa chắc hơn, cần nhiều lớp người giám sát, bảo vệ hơn, chi phí bảo hiểm, tái bảo hiểm đắt hơn …, rồi làm mọi người, ai lúc nào cũng phải lo bị mất cắp khi sống với cộng đồng có nhiều người ăn cắp, không còn thời gian thảnh thơi nghĩ về những điều tốt đẹp, không còn thời gian cho tự do sáng tạo …. điều đó sẽ làm cho thế giới mất niềm tin vào cả dân tộc VN.

Một dân tộc bị mất niềm tin của nhân loại văn minh sẽ là một dân tộc thất bại, một dân tộc bất hạnh.

Cám ơn cô giáo Dao Thu đã lên tiếng.

 
Image may contain: one or more people and food
Image may contain: food

Dao Thu added 2 new photos.

Một chuyện thấy ở siêu thị

Hôm nay tôi có chút việc vào 1 siêu thị khá lớn ở Hà Nội mua đồ. Khi ghé qua quầy bán rau quả tươi, thấy có hai chị trẻ trung xinh xắn đang ngồi xổm dưới nền nhặt rau, một trong hai chị còn mặc váy. Mớ rau các chị đang nhặt là rau sống Đà Lạt.

Các chị chỉ lấy phần lõi cho vào túi nilon mang ra cân, bỏ lại hai phần ba lá xanh bên ngoài. Cả khoang rau xanh đã bị hai chị bới tung và để lại toàn lá bị ngắt ra. Thấy tôi đứng nhìn với sự kinh ngạc, hai chị cầm túi rau ngoảnh mặt đi ra chỗ cân.

Đi qua chỗ bán bánh kẹo dời, lại phải chứng kiến một cảnh tượng không đẹp. Vài gia đình có cả bố mẹ và các con nhỏ đứng cạnh quầy bánh kẹo. Một ông bố lấy mấy cái kẹo sô cô la đưa cho đứa con ngồi trên xe hàng, đứa bé bóc ăn. Mẹ đứa trẻ định lấy tiếp mấy cái kẹo đưa cho đứa con lớn hơn đứng cạnh. Nhìn cái cách mà họ bốc mỗi thứ vài cái kẹo dúi cho trẻ con ăn ngay tại chỗ như vậy, tôi đoán là họ không có ý định mang cả con ra chỗ cân hàng để trả tiền cho hai cái kẹo đang ở trong bụng đứa trẻ, nên tôi vội ngăn lại, nói với họ là đồ ăn ở đây phải thanh toán xong mới ăn được. Nhà bốc kẹo sau khi thấy tôi nói vậy thì vội vàng đẩy con đi.

Tôi còn thấy một gia đình khác có em bé đang ngồi trong giỏ hàng bóc thạch ăn, mẹ cháu cũng đang lúi húi nhét mấy thứ nho nhỏ vào túi áo, lúc này tôi mới nhớ ra cần chụp ảnh lại. Lác đác quanh đó có vài nhân viên siêu thị đang đứng giới thiệu mấy thứ hoá mỹ phẩm, không ai để ý gì đến quầy bánh kẹo, cũng không thấy biển báo nhắc nhở gì của siêu thị.

Có lẽ siêu thị lớn cũng không quan tâm lắm việc khác hàng của mình ăn hai bai cái kẹo hoặc nhặt trộm mớ rau trong khi họ có thể tiêu dùng hàng trăm ngàn. Biết đâu trong chiến lược kinh doanh đây cũng là một chiêu để hút khách bình dân?

Nhưng tôi thì thấy buồn. Vì với việc ăn “gian” vài cái kẹo, cây rau tưởng như vô hại đó, những người tiêu dùng vô tình đã tự hình thành cho mình thói quen khôn lỏi và ăn cắp vặt.

Những thói quen hình thành trong vô thức như vậy lại dễ nhân rộng bởi đám đông dân chúng vốn đã quá quen với môi trường sống bon chen từng li. Rồi khi người Việt cho dù đã đủ ăn đủ mặc có tiền đi du lịch nước ngoài nhưng vẫn giữ thói quen đó giao lưu với thế giới văn minh.

Thế nên thỉnh thoảng chúng ta mới đọc được những bài báo nói người Việt từ quan chức tới nhân viên quèn đi công tác nước ngoài ăn cắp đồ trong siêu thị và bị bắt. Thậm chí một số quốc gia còn có cảnh báo trộm cắp bằng tiếng Việt trong siêu thị.

Việc giáo dục những hành vi văn minh trong xã hội hiện nay hầu như đang bị bỏ ngỏ. Không có người làm gương, cũng không có ai lên tiếng, những điều tử tế văn minh sẽ không thể tự nhiên xuất hiện trong xã hội của chúng ta.