Nếu được đến Hoa kỳ và nhiều nước Tây phương, bạn sẽ ngạc nhiên về hệ thống giao thông không như Việt nam.
Mỹ là một đơn cử. Trên mỗi con đường nhỏ, tuy chỉ hai hay ba làn mỗi bên nhưng người lái xe điều khiển xe chạy trật tự. Không chỉ có free way cao tốc mới xuất hiện hình ảnh thẳng tắp, mà nhiều con đường khác cũng nói lên sự văn minh và ý thức con người.
Bảng tín hiệu, đèn xanh đèn đỏ và tên đường luôn nằm trên cao, rõ ràng, tầm nhìn dễ nhận ra. Bảng báo tốc độ cho phép, khu vực trường học phải giảm thắng cũng dễ nhìn.
Khắp nơi không hề có các chốt hay cảnh sát viên canh giữ góc đường. Đường xá sạch đẹp, không rác. Đặc biệt ấn tượng hàng cây xanh tạo môi trường trong lành.
Nếu ai vi phạm giao thông, cảnh sát Mỹ sẽ quay đèn báo hiệu người lái dừng. Họ không bao giờ đứng trước đầu xe, hay lấy quyền chặn xe. Hành động ấy dễ gây tai nạn và không an toàn tính mạng cả hai phía .
Cảnh sát đi từ sau xe phạm luật. Người lái xe ngồi im, nếu mở cửa bước xuống xe sẽ bị cảnh sát rút súng lên đạn bắn cảnh cáo hoặc bắn thiệt.
Người thi hành công vụ chào hỏi, yêu cầu trình bằng lái, bảo hiểm..
Tiếp theo, cảnh sát quay lại xe mình, tiến hành tìm thông tin trên máy ghi hình và điện toán gài đặt. Người lái xe nhận được vé phạt vi phạm tội gì. Nếu bị oan, chủ phương tiện có quyền ra tòa kiện và phản bác. Thế thôi.
Tại Mỹ không cảnh năn nỉ cảnh sát, sai đúng có pháp luật xử lý công minh. Giải pháp gọn tiện cho hai bên, không căng thẳng làm khó nhau.
Là đất nước tự do nhưng không có nghĩa người lái xe tự do sai phạm giao thông; và cảnh sát được quyền tự do phạt.
Chỗ mạnh của Mỹ là vũ khí nguyên tử thì chúng không dùng được. Còn chỗ mạnh của ta là chiến tranh nhân dân thì Mỹ không có. Phát huy ưu thế này và những kinh nghiệm tích lũy được, chúng ta nhất định đánh thắng bất kỳ tên xâm lược nào, dù đó là đế quốc Mỹ
Sau khi di cư vào Nam, nhạc sĩ Thanh Bình đã viết “mấy hàng” gửi về quê cũ:
Từ miền xa, viết thư về thăm xóm làng Sắt son gửi trong mấy hàng Thăm bà con dãi dầu năm tháng Từ Tiền giang thương qua đèo Cả thương sang Đêm đêm nhìn vầng trăng sáng Thương những già hômsớm lang thang
Em thơ ơi có còn học hành sớm tối Áo nâu tươi gái làng còn che môi cười Và đàn bò còn nghe chim hót lưng đồi Nhớ nhung rồi thương quá lắm bé thơ ơi…
Nhân vật đồng nghiệp và đồng thời với tác giả những lời ca thượng dẫn, nhạc sỹ Nguyễn Đình Toàn tâm sự:
“Nhớ lại những năm sau 54, ‘Lá Thư Về Làng’ của Thanh Bình đã gây xúc động trong lòng bao người vừa rời bỏ miền Bắc trong cuộc di cư vào Nam. Càng cảm nhận ra rằng mình được bao dung, yên ổn trong vùng đất mới, người ta càng xót xa thương nhớ về quê cũ.”
Thực ra thì cái “vùng đất mới” cũng không được “yên ổn” gì cho lắm. Miền Nam, vào thời điểm đó, chỉ có được sự “yên ổn” tạm thời thôi. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đã được khai sinh, từ bên kia vỹ tuyến, vào ngày ngày 20 tháng 12 năm 1960.
Thư của ông đề ngày 7 tháng 2 năm 1961 (“Gửi Anh Mười Cúc và Các Đồng Các Đồng Chí Nam Bộ”) có những dòng sau:
Vừa qua, Bộ Chính trị đã đề ra phương hướng cho phong trào cách mạng miền Nam. Để có sự nhất trí hơn nữa trong nhận định, tôi trình bày thêm với các đồng chí một số ý kiến…
Một điều cần khẳng định là cách mạng miền Nam không chỉ đối phó với chính quyền và quân đội của Diệm mà phải đối phó với cả đế quốc Mỹ và tay sai của Mỹ ở Đông Nam Á…
Trong năm nay, Trung ương sẽ giúp xây dựng 12 tiểu đoàn cho cả Khu 5 và Nam Bộ. Các khung cán bộ sẽ do Trung ương đưa vào, còn chiến sĩ thì tuyển lựa tại chỗ. Riêng đối với Nam Bộ, ngoài này sẽ cung cấp đủ cán bộ cho 6 tiểu đoàn và 1 tiểu đoàn gồm cả cán bộ và chiến sĩ. Sắp tới, ta phải phát triển gấp đôi, tạo ra một bước chuyển đáng kể về lực lượng quân sự…
Tất cả những bức thư “chỉ đạo” của Lê Duẩn đã được nhiều nhà xuất bản sưu tập, và in thành sách: Thư Vào Nam. Ấn bản năm 2015, của Nhà Xuất Bản Tổng Hợp, có đôi dòng giới thiệu vô cùng trang trọng:
Cuốn sách tập hợp những bức thư và điện của đồng chí Lê Duẩn (Anh Ba) gửi vào miền Nam khói lửa trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Toàn bộ cuốn sách cho thấy đồng chí Lê Duẩn qua thực tiễn chỉ đạo các chiến trường, từ nhận định tình hình đến chủ trương, biện pháp đã phát triển hết sức phong phú cả hai mặt lý luận và thực tiễn, kết hợp nhuần nhuyễn đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
“Thư vào Nam” là một cuốn sách quý, góp phần tổng kết kinh nghiệm cuộc kháng chiến chống Mỹ, là tư liệu lịch sử giá trị có thể áp dụng sáng tạo để giải quyết những vấn đề trong sự nghiệp cách mạng hiện nay.
Về sự kiện này, trong mục điểm tin của trang Báo Tiếng Dân (đọc được vào hôm 5 tháng 3 năm 2018) có đôi đoạn như sau:
Mỹ đi rồi Mỹ lại về…
Hơn nửa thế kỷ trôi qua kể từ ngày chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đón người Mỹ vào Đà Nẵng, bây giờ đến lượt lãnh đạo CSVN sẵn sàng đón tàu sân bay Mỹ, theo báo Người Lao Động. Sở Ngoại vụ TP Đà Nẵng cho biết: Các cấp lãnh đạo đã lên kế hoạch chi tiết từ hơn nửa năm trước để đón tàu sân bay đầu tiên của người Mỹ cập cảng Việt Nam.
Báo Zing đưa tin:Đoàn công tác liên ngành Việt Nam thăm tàu sân bay Mỹ. Bộ Ngoại giao xác nhận: Đáp lại lời mời của Đại sứ quán Mỹ, đoàn cán bộ liên ngành của Việt Nam đã đến thăm tàu sân bay USS Carl Vinson trong ngày 3 và 4/3/2018, “khi tàu này đi qua vùng biển quốc tế gần Việt Nam”.
Báo Giáo Dục Việt Nam có bài tổng hợp: Cụm tàu sân bay Hoa Kỳ USS Carl Vinson thăm Việt Nam, phản ứng và bình luận. Theo cựu Đô đốc Hải quân Hoa Kỳ John Kirby, Việt Nam muốn củng cố mối quan hệ với Hoa Kỳ, trong tình hình Trung Quốc tiếp tục hiện thực hóa tham vọng bá quyền ở Biển Đông. Biên tập viên tạp chí The Diplomat, Prashanth Parameswaran cho rằng, chuyến thăm của tàu USS Carl Vinson còn có mục đích động viên các nước ASEAN rằng Washington sẽ không để Biển Đông rơi vào tay Bắc Kinh.
TS Đinh Hoàng Thắng nhận định: Nền Ngoại giao “cân bằng động” sẽ sang trang. Theo TS Thắng, tình thế của nước Việt Nam hiện tại đã buộc các lãnh đạo CSVN phải “gác lại quá khứ” với người Mỹ và theo đuổi lộ trình ngoại giao “cân bằng động”, nghĩa là cố gắng thoát khỏi ảnh hưởng của “bạn vàng” và củng cố quan hệ với Mỹ.
BBC đặt câu hỏi: Tại sao Việt Nam tiếp đón hàng không mẫu hạm Mỹ? Bài viết nêu quan điểm của nhà báo Bill Hayton về lộ trình ngoại giao “nước đôi” của quan chức CSVN: Họ tiếp đón tàu sân bay Mỹ để “đáp trả đối với các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông”, nhưng họ cũng không muốn làm mất lòng “bạn vàng” và vẫn sẽ không tham gia các liên minh quân sự của người Mỹ….
Trong một cuộc họp báo vào chiều ngày 1 tháng 3 năm 2018, Phát Ngôn Bộ Ngoại Giao Việt Nam, bà Lê Thị Thu Hằng, tuyên bố: “Tàu sân bay Mỹ đến thăm Việt Nam để góp phần duy trì hoà bình khu vực.”
Báo Tiền Phong cho biết thêm: “Đà Nẵng và 6 tháng chuẩn bị đón tàu sân bay cùng 6.000 thuỷ thủ Mỹ.” Thảo nào mà chuyến viếng thăm đã diễn tiến hết sức thuận lợi và vô cùng cảm động. Thiệt là công phu và qúi hoá hết biết luôn. Rồi ra, không chừng, thành phố Đà Nẵng còn (dám) cử đại diện ra tận Lăng Ba Đình để báo công dâng Bác nữa.
Tính từ bức thư vào Nam đầu tiên của Lê Duẩn, viết ngày 7 tháng 2 năm 1961 (để chỉ đạo cuộc chiến chống Mỹ cứu nước) cho đến khi hàng không mẫu hạm USS Carl Winson đến thả neo trong vịnh Đà Nẵng để “góp phần duy trì hoà bình khu vực” là đúng 67 năm ròng. Phải mất hơn 2/3 thế kỷ người cộng sản Việt Nam mới “ngộ” ra được ai là kẻ có “dã tâm xâm lược” và “gây ra chiến tranh trong khu vực!”
Trung Tướng Đường Minh Hưng. (Hình: Báo điện tử Dân Trí)
HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Hôm 14 Tháng Ba, tờ Süddeutsche Zeitung, một trong những tờ nhật báo lớn nhất của Đức, cho hay Trung Tướng Đường Minh Hưng, phó tổng cục trưởng Tổng Cục An Ninh, Bộ Công An CSVN, bị tổng công tố Liên Bang Đức ra quyết định điều tra.
Ông Hưng bị cáo buộc tham gia điều phối vụ bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh tại Berlin hồi Tháng Bảy năm 2017.
Đến nay, chính quyền, Bộ Ngoại Giao CSVN và các báo “lề phải” vẫn giữ lập luận ông Thanh “tự quay về nước đầu thú,” bác cáo buộc ông này bị an ninh Việt Nam “bắt cóc” đưa về nước.
Hồi tháng trước, ông Trịnh Xuân Thanh, cựu chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Tổng Công Ty Xây Lắp Dầu Khí (PVC) bị tuyên tù chung thân lần thứ hai trong một phiên tòa tại Hà Nội vì tội “Cố ý làm trái” và “Tham ô tài sản” xảy ra tại Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam (PVN) và PVC.
Trung Tướng Đường Minh Hưng được truyền thông Việt Nam mô tả là “sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng ở tỉnh Thanh Hóa,” có cha là Đường Minh Tỵ được truyền thông Việt Nam mô tả là “một thầy giáo nổi tiếng” và có người anh họ là Giáo Sư Đường Minh Giới trong ngành Công An.
Trước khi vươn tới vị trí như hiện tại, ông Hưng từng giữ chức vụ cục trưởng Cục Bảo Vệ Chính Trị 6 (Cục A67) hay còn gọi là Cục Phòng Chống Khủng Bố. Do vậy, dễ hiểu vì sao ông được phong tặng danh hiệu “Anh Hùng Lực Lượng Vũ Trang Nhân Dân.” Hồi Tháng Mười Một năm 2017, ông Hưng được truyền thông tường thuật là người chủ trì phương án đảm bảo an ninh cho Hội Nghị Thượng Đỉnh APEC tại Đà Nẵng.
Việc phía Đức ra quyết định điều tra Trung Tướng Đường Minh Hưng được cho là phản ứng cứng rắn nhất của nước này trong vụ Trịnh Xuân Thanh vốn được xem là sự vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế và chủ quyền của Berlin.
Süddeutsche Zeitung viết: “Vào lúc trước 11 giờ sáng ngày 23 Tháng Bảy, năm 2017, doanh nhân Trịnh Xuân Thanh bị một đội đặc nhiệm của cơ quan mật vụ Việt Nam bắt cóc tại khu vực Hofjägerallee. Các vết máu trong chiếc xe gây án cho thấy ông Thanh đã chống cự quyết liệt nhưng vẫn bị đưa về sứ quán Việt Nam tại Berlin và chuyển về Việt Nam theo một cách nào đó.”
Tờ báo nhấn mạnh các nhà điều tra Đức giữ quan điểm ông Hưng là “nhân vật chủ chốt, chỉ đạo tại chỗ vụ bắt cóc.” Trong một tuần ở Berlin, ông Hưng được ghi nhận thực hiện “hơn một trăm cuộc gọi điện thoại và tin nhắn SMS với các nghi can trong vụ Trịnh Xuân Thanh.”
Nhằm tránh để lại dấu vết, hai ngày trước khi vụ bắt cóc ông Thanh diễn ra, ông Hưng đã thay chỗ ở từ khách sạn Berlin sang khách sạn Sylter Hof. Theo Süddeutsche Zeitung, “căn phòng của Trung Tướng Đường Minh Hưng giống như một trung tâm chỉ huy cho đến khi vụ bắt cóc kết thúc.”
Tổng công tố Liên Bang Đức tại Karlsruhe không bình luận về chi tiết này.
Sau khi vụ bắt cóc vỡ lở, Bộ Ngoại Giao Đức đã trục xuất hai nhà ngoại giao Việt Nam, trong đó có Đại Tá Tình Báo Nguyễn Đức Thoa.
Đến nay, chỉ có một người thuộc cấp trợ giúp an ninh CSVN trong vụ bắt cóc đang bị giam giữ trước khi xét xử, ông Nguyễn Hải Long, người tài xế trong vụ bắt cóc.
“Với việc điều tra nhắm vào Trung Tướng Công An CSVN Đường Minh Hưng, vụ việc đã được đẩy lên cấp độ chính trị cao hơn,” Süddeutsche Zeitung viết. (T.K.)
Võ Hòa Thuận, nguyên cán bộ tư pháp, thủ phạm hạ nhục cô giáo. Ảnh Google Image
Chu Mộng Long: Bài viết nhân vụ một cô giáo ở Long An bị hạ nhục.
Tôi từng nói, nghề giáo là nghề khốn nạn nhất trong những nghề khốn nạn. Phát ngôn này không dưới một lần trong các đợt rầm rộ kỷ niệm Ngày Hiến chương Nhà giáo.
Những người không biết nhục hay lấy nhục làm vinh tỏ ra bất bình, vì tại sao tôi là một nhà giáo mà không biết tự tôn cái nghề của mình.
Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi vẫn luôn yêu cái nghề tôi đã chọn. Nhưng tự tôn sao được khi hàng ngày chỉ cần động não một chút cũng đủ thấy loại khẩu hiệu “tôn sư trọng đạo” hay “nghề cao quý nhất trong những nghề cao quý” chỉ là giả tạo, sáo rỗng. Đồng lương giáo viên so với mặt bằng thu nhập của cả xã hội nằm ở sát đáy, giáo viên phải tìm mọi cách xoay xở để sống. Mà ở cái nghề này xoay xở bằng cách nào khác, lương thiện thì công khai hoặc lén lút dạy thêm, bất lương thì kiếm chác, vòi vĩnh những chiếc phong bì từ phụ huynh, học sinh.
Thật xót xa cay đắng khi không ít giáo viên háo hức chờ đến ngày 20.11 có được chút quà và coi như đó là nguồn thu nhập tăng thêm. Không cần nói đến những doanh nghiệp thưởng nhân viên hàng trăm triệu đến gần bạc tỉ, đến như các chị lao công quét rác, ngày Tết còn được thưởng dăm mười triệu, trong khi giáo viên trường nào khá nhất thì cũng chỉ được ban ân cho một triệu. Thê thảm lắm!
Một cái ngành gồm những người sống ở mức cùng đinh, dẫn đến càng ngày càng không có trò giỏi dự tuyển đầu vào, đến mức thi tốt nghiệp mỗi môn 3 điểm cũng đỗ để thành thầy giáo thì tư cách nào dạy dỗ cho con cái người ta?
Thân phận như thế mà tự tôn cao quý hay đòi xã hội tôn trọng thì thật huyễn tưởng!
Hậu quả là ngành giáo dục, cái ngành nuôi nhân tài, nhân lực cho sự phát triển kinh tế của đất nước, lại trở thành cái ngành ăn mày xã hội. Đến mức gần như nhà trường nào cũng tạo ra cái Hội Phụ huynh học sinh để quyên góp cứu tế cho trường. Thân phận ăn mày không bị đối xử như ăn mày mới là chuyện lạ. Các phụ huynh ở Long An bắt cô giáo quỳ ngay giữa học đường chẳng qua chỉ vì họ xem giáo viên chỉ là kẻ ăn mày, đứa con ghẻ hư hỏng cần được chính các phụ huynh dạy bảo.
Khổ lắm, nhục lắm, nhưng thương lắm!
Nhưng cũng phải tỉnh táo mà nói rằng, cô giáo kia, và không chỉ một mình cô, cũng đáng giận lắm. Việc cô chấp nhận hình phạt quỳ 40 phút cho vừa lòng phụ huynh là một sự tự hủy hoại nhân cách, tự làm nhục cho mình và cho cả ngành mình.
Cô đã thay mặt nhà giáo để trả một cái giá quá đắt khi tự hạ mình từ người thầy thành thân phận ăn mày, con ghẻ của xã hội!
Tôi cũng không tin như nhiều người đã tin, rằng cô bắt học sinh quỳ chỉ vì cô muốn cho học sinh học tốt hơn. Tôi chỉ thấy ở đó hậu quả của căn bệnh thành tích hơn là cái ý muốn tốt đẹp kia. Đa số các giáo viên hiện nay trừng phạt học sinh không phải chỉ vì muốn các cháu học tốt hơn mà chỉ vì thành tích của các thầy cô, thành tích của nhà trường, thậm chí đó là biện pháp đe dọa các cháu đi học thêm. Bởi nếu muốn trẻ thực chất học tốt, chỉ cần nhắc nhở hay trừng phạt bằng con điểm và xếp loại kết quả học tập là đủ. Nhưng các thầy cô không dám trừng phạt bằng con điểm hay xếp loại kết quả học tập vì chỉ cần một điểm xấu, một kết quả kém là đã ảnh hưởng đến thi đua của thầy cô và nhà trường.
Tôi tin, nếu trừng phạt trẻ em, dù là hình phạt nặng nhất nhưng với cái tâm trong sáng, vô tư, khó có thể xảy ra chuyện thầy cô giáo bị phụ huynh học sinh trả đũa.
Tôi nhớ thời tôi đi học, dưới chính quyền Việt Nam Cộng hòa, sự trừng phạt của thầy đối với trò kinh khủng lắm chứ bắt quỳ giữa lớp học thì có đáng gì. Không thuộc bài bị thầy bắt quỳ gối trên xơ mít, thậm chí quỳ ở miệng hang kiến lửa và có đứa xoi miệng kiến cho kiến đốt. Ông thầy ngày ấy còn có cây thước gỗ trên tay để gõ đầu, nhiều khi học trò bị thầy gõ đến sưng đầu chảy máu. Dù hình phạt kinh khủng như thế nhưng chưa bao giờ có chuyện phụ huynh tấn công thầy để trả đũa. Hồi nhỏ tôi cũng đã từng bị phạt như vậy, nhưng hình phạt để nhớ đời chứ không mang trong mình một chút thù oán người thầy đã dạy mình.
Tôi không cổ vũ cho tàn dư của thứ giáo dục Nho giáo ấy. Tôn sư trọng đạo theo cách ấy chỉ tổ sinh ra các bạo chúa học đường. Nhưng ít ra, ở nền giáo dục ấy, người thầy được tôn trọng vì họ đáng được tôn trọng.
Cái gì để người thầy xưa được tôn trọng? Đơn giản là ở xã hội ấy, người ta trọng cái chữ. Cha mẹ cho cơm áo, thầy cô cho cái chữ. Ơn ấy cao hơn núi Thái Sơn. Cho nên, thầy cô được xếp một bậc trên cả cha mẹ. Còn bây giờ, khi xã hội không trọng hiền tài, nhan nhản chỗ nào cũng thấy đứa ngu lãnh đạo đứa khôn, dẫn đến người đi học không cần chữ mà chỉ cần bằng cấp và danh hiệu để thăng quan, thì người thầy tâm huyết càng muốn dạy nhiều chữ càng bị khinh ghét là chuyện hiển nhiên. Người ta không xếp vào lực lượng thù địch đòi đào tận gốc, trốc tận rễ lần nữa là còn may!
“Cho đến hôm nay tôi kính trọng ông Thiệu như là một gương hào hùng của một kẻ dám chiến đấu cho nền tự do dân tộc của ông, một kẻ sau này đã chiến bại bởi những hoàn cảnh ngoài tầm tay cá nhân ông, đất nước ông và ngay cả ngoài vòng quyết định của chúng ta…” ( Henry Kissinger, Years of Upheaval, 1981, Bản dịch của Xuân Khuê )
Người kiên tâm chiến đấu trong nỗi cô đơn ghê gớm
Kissinger là người mà Nguyễn Văn Thiệu ghét cay ghét đắng cho tới khi xuống mồ. Trong khi ngược lại, Kissinger cũng làm ra vẻ ghét cay ghét đắng Nguyễn Văn Thiệu, kẻ mà báo chí và nhân dân Mỹ luôn luôn nguyền rủa là cản trở và phá hoại hòa bình.
Tuy nhiên cuối cùng, khi mà hòa bình đã đạt được bằng cái giá phản bội dân tộc Việt Nam, Kissinger mới bình tâm thú thực cảm nghĩ của ông ta về người anh hùng lãnh đạo đất nước Việt Nam trong thời gian gay cấn nhất của lịch sử. Kissinger nói :
“… Sau khi ngưng bắn, quân đội chúng ta sẽ rút về bên kia bán cầu, còn dân tộc của ông vẫn còn cảnh một đội quân tiếp tục hi sinh cho những hy vọng mong manh của nền độc lập tại Đông Dương. Chúng ta đã chắc rằng biện pháp của chúng ta sẽ kềm hãm tham vọng của Hà Nội. Nhưng mắt của ông Thiệu chỉ quan ngại vào những điều mong manh về sau này…” ( Bản dịch của Xuân Khuê ).
Kissinger cũng thú thực là vì không còn cách lựa chọn nào khác cho nên Mỹ đành phải hy sinh Nam Việt Nam, và cũng vì vậy mà Kissinger đành phải đóng vai làm kẻ thù của Nguyễn Văn Thiệu nhưng tự sâu xa trong đáy lòng, Kissinger khâm phục Thiệu :
“…Như là một phép lạ phát xuất từ lòng dũng cảm, ông Thiệu đã cố gắng lèo lái quốc gia trong giai đoạn cam go này, chiến đấu chống lại quân thù cố tâm xâm lấn và làm an tâm đồng minh nào chưa thông hiểu ông …
… Về riêng tư tuy tôi dành ít cảm tình về ông Thiệu nhưng tôi rất kính nể ôngvì ông là một người kiên tâm chiến đấu trong nỗi cô đơn ghê gớm ( nguyên văn: terrible loneliness ) sau cuộc rút quân của Hoa kỳ. Ông chấp nhận những cảm tình và thông hiểu ít ỏi dành cho ông. Chuyện đó không làm phẩm chất của ông hao mòn đi…” ( Bản dịch của Xuân Khuê ).
Cuộc sống không có tự do còn tệ hơn sự chết
Ngày 22-10-1972 Tộng thống Nguyễn Văn Thiệu đã nổi giận khi Kissinger ép buộc ông phải chấp nhận bản dự thảo Hiệp định đình chiến mà Kissinger đã cùng Lê Đức Thọ soạn thảo tại Paris. Ông khuyến cáo Kissinger :
“Tôi không đồng ý về việc một số nhân viên của quý vị đi nói khắp Sài Gòn là tôi đã ký. Tôi chưa ký kết gì cả. Tôi không phản đối hòa bình nhưng tôi chưa nhận được một trả lời thỏa đáng nào của quý vị cho nên tôi sẽ không ký”.
Kissinger mất bình tỉnh với tuyên bố của Tổng thống Thiệu, ông nói ông đã thành công ở Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và Paris mà bây giờ ông phải thất bại tại Sài Gòn : “Nếu ngài không ký, chúng tôi sẽ xúc tiến một mình”.
Tới phiên Thiệu nổi giận, ông buộc tội Kissinger là thông đồng với Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa để bán đứng Miền Nam. Hồi ký của Kissinger ghi lại lời lẽ của Thiệu:
“Là một quân nhân thì lúc nào cũng phải chiến đấu, nếu tôi không phải là một quân nhân thì tôi đã từ chức khi HK yêu cầu tôi từ chức và còn mặc cả với tôi về ngày giờ từ chức… … Tôi chưa hề nói với ai là người Mỹ đã đòi tôi từ chức, vì như vậy là nhục; cho nên tôi đã làm như tự mình chọn lấy quyết định đó…” ( Kissinger, White House Years, trang 1385 )
Kissinger đáp lại : “Tôi cảm phục tính hy sinh và lòng can đảm của ngài qua lời phát biểu vừa rồi. Tuy nhiên, là một người Hoa Kỳ, tôi không khỏi phiền lòng khi ngài cho rằng chúng tôi thông đồng với Liên Xô và Trung Quốc.
Làm sao ngài có thể nghĩ như vậy được trong khi quyết định ngày 8-5 của Tổng thống Nixon ( Thả bom Hà Nội và phong tỏa các hải cảng Bắc Việt ) đã liều cả tương lai chính trị của mình để giúp quý ngài. Chúng tôi điều đình với Liên Xô và Trung Quốc là để làm áp lực, buộc họ phải làm áp lực với Hà Nội… Nếu như chúng tôi muốn bán đứng quý ngài thì đã có nhiều cách dễ dàng hơn để hoàn thành việc đó…”( Kissinger, White House Years, trang 1385, 1386 ).
Rồi tới phiên Đại sứ Bunker mất bình tỉnh : “Vậy thì thưa Tổng thống, lập trường chót của ngài là không ký, có phải không?”
Thiệu đáp : “Vâng, đó là lập trường cuối cùng của tôi. Tôi sẽ không ký và tôi xin ngài thông báo cho Tổng thống Nixon biết như thế. Xin quý vị trở lại Washington và nói với Tổng thống Nixon rằng tôi cần được trả lời”.
Tổng thống Thiệu chỉ tay vào bản đồ Việt Nam rồi nói : “Có gì quan trọng khi Hoa Kỳ để mất một quốc gia nhỏ bé như Nam Việt Nam? Chúng tôi không hơn gì một chấm nhỏ trên bản đồ của thế giới đối với các ông… … Nhưng đối với chúng tôi, đó là một sự chọn lựa giữa sự sống và sự chết.
Đối với chúng tôi, đặt bút ký vào một hiệp ước tương đương với sự đầu hàng là chấp nhận một bản án tử hình, vì cuộc sống không có tự do là sự chết. Không, nó còn tệ hơn là sự chết” ( Larry Berman; No Peace, No Honor; trích từ Văn khố Bộ ngoại giao HK, bản dịch của Nguyễn Mạnh Hùng trang 230 ).
Trang sử đã qua đi nhưng sự thật chưa trở lại
Sau 1975 thì người Mỹ muốn lái sự oán hận mất nước của nhân dân Miền Nam vào ông Nguyễn Văn Thiệu và quân đội VNCH để quên đi hành động “bán đứng đồng minh” của Mỹ *( Lời của ông Nguyễn Văn Thiệu nói thẳng vào mặt Kissinger năm 1972 ). Họ vận động các phương tiện truyền thông tiếng Việt tại hải ngoại kết án ông Thiệu làm cho mất nước. Họ kết án quân đội VNCH hèn nhát, tham nhũng v.v,… Họ dập tắt tiếng nói thanh minh của ông Thiệu và của những quân nhân VNCH. Họ thuê bọn vô lại biến phong trào chống Cọng sản tại hải ngoại thành những trò thối tha vô liêm sỉ….!
Hằng năm cứ vào mùa tháng Tư thì các phương tiện truyền thông tiếng Việt như RFA, BBC, …lại rộn lên những luận điệu kêu gọi hòa hợp hòa giải giữa chế độ CSVN và những người đã bị đuổi chạy ra nước ngoài. Họ coi những người rượt đuổi và những người bị đuổi đều tội lỗi như nhau.
Trong khi đó cuộc chiến Nam Bắc Hàn cũng giống hệt như cuộc chiến Việt Nam. Nhưng ngày nay RFA, BBC… nói cho con cháu Nam Hàn rằng năm 1950 quân Bắc Hàn tràn qua vĩ tuyến 38 đánh chiếm Nam Hàn.. Quân đội Mỹ đã giúp nhân dân Nam Hàn đẩy lui quân Bắc Hàn về Bắc. Tội lỗi đều là phía Bắc Hàn chứ phía Nam Hàn không có lỗi.
Nhưng đối với cuộc chiến Việt Nam thì quân Bắc Việt cũng tràn qua vĩ tuyến 17 đánh chiếm Miền Nam nhưng Mỹ lại nói : Phía CSVN và phía VNCH đều có lỗi cho nên Mỹ đứng giữa không biết giúp bên nào !! Cho tới nay cũng chưa ngã ngũ bên nào phải bên nào trái.
Cũng vì chưa ngã ngũ bên nào phải bên nào trái cho nên cho tới nay danh dự của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn chưa được phục hồi. Người Mỹ vẫn muốn con cháu Việt Nam nhìn Nguyễn Văn Thiệu như là một kẻ luôn luôn cản trở và phá hoại hòa bình.
Trong thế chiến vừa rồi, bà mẹ của một người lính nhảy dù Mỹ nhận được một bức thư của con hay rằng trong lúc bị thương và đói khát, đã được một người đàn bà ở Avranches cứu giúp, giấu không cho tụi Đức bắt. Chẳng may ít tháng sau chính người lính đó tử trận trong khi tấn công Ardennes. Nhưng bà mẹ anh ta vẫn tiếp tục thực hiện một ước nguyện không thể nào quên được. Bà dành dụm tiền trong hai năm để vượt Đại Tây Dương, lại thành phố ghi trong bức thư của con trai. Phải dò hỏi lâu bà mới kiếm được người đàn bà đã cho con trai bà trú ngụ – vợ một tá điền nghèo – và rụt rè đưa biếu người đó một gói nhỏ. Trong gói có một chiếc đồng hồ vàng, mà con trai bà được thưởng khi đâu một bằng cấp tốt nghiệp; chàng chỉ có mỗi vật đó là đáng giá.
Cử chỉ biết ơn của người mẹ đó làm cho toàn dân miền Normandie rất đỗi cảm động. Ở Arvanches và khắp cả vùng chung quanh ai cũng nhắc tới, gần như một truyền kỳ.
1
Lòng biết ơn là nghệ thuật nhận ơn huệ một cách vui vẻ, nhã nhặn, tỏ rằng mình cảm động trước mọi dấu hiệu nhân từ của người khác, dù lớn dù nhỏ. Phần đông chúng ta đều biết tỏ nỗi vui mừng khi được ai vui vẻ tiếp đãi, hoặc tặng một món quà, cho hưởng một cái lợi rõ rệt nào đó.
Không gì làm phật ý người ta bằng lối cám ơn ngoài miệng. Ông bạn gì của tôi, James Barrie mà các vở hát và các tác phẩm tỏ rằng đã hiểu rõ tâm lý thanh niên, thường kể câu chuyện này:
– Một buổi chiều nọ, một ông bạn tôi gốc gác ở Ecosse và tôi đương bàn bạc về công việc làm ăn. Đứa con gái ông chín tuổi, bước vô để dâng ông những chiếc bánh kẹp em mới làm xong vì biết ông thích thứ bánh đó. Ông bực mình vì câu chuyện bị ngắt, làm bộ nhấm nháp một chút, vội vàng khen em một lời nho nhỏ nhưng vẻ mặt vẫn nhăn nhó, rồi tiếp tục ngay câu chuyện bỏ dở. Em đó lúng túng, rất rầu rĩ, lặng lẽ bước ra. Vài tuần lễ sau má em hỏi em tại sao không làm bánh nữa. Em òa lên khóc, la lờn: “Không khi nào con làm bánh kẹp nữa” Em tuyệt vọng.
Ông Barrie nói tiếp:
– Và từ đó, em tuyệt nhiên không làm bánh nữa.
2
Thật là một điều phấn khởi khi ta nghĩ rằng lòng biết ơn có khi không phải chỉ là một tình cảm thoảng qua đâu mà có thể như một nguồn nước suốt đời không cạn Một người chồng nhớ hoài một lần nào đó vợ đã tận tình hy sinh cho mình, một người vợ nhớ hoài một món quà chồng tặng mình, nhờ vậy sự hòa hợp trong gia đình sẽ tăng lên vô cùng. Nhà tự nhiên học W. Hudson kể câu chuyện dưới đây:- Một buổi tối nọ, tôi dắt một ông bạn thân về nhà, gặp bữa, mời ông ăn. Ăn xong ông ta bảo “Anh thật có phước, chị nhà yếu đuối, phải săn sóc các cháu mà còn nấu cho anh được những món ngon như vậy.” Lời khen đó đã mở mắt tôi ra: nhờ ông bạn đó mà tôi mới thấy sự can đảm hằng ngày của nhà tôi mà trước kia tôi cứ cho là tự nhiên, và từ đó tôi tỏ lòng mang ơn nhà tôi.
Thái độ nhã nhặn khi nhận ơn đó, phải được biểu lộ trong cả những tiểu tiết, những việc lặt vặt. Người đưa thư, người giao sữa, người hớt tóc, chị hầu bàn ở khách sạn, người khiển thang máy (1), đều là những người giúp việc cho ta quanh năm. Ta biết cảm ơn họ thì những giao tế đó không có tính cách máy móc nữa mà có đượm thêm cái tình người, nhờ đó mà những công việc đơn điệu hằng ngày đỡ buồn tẻ, hóa dễ chịu hơn. Mấy năm trước, có lần tới Cannes, tôi ở chung một khách sạn với huân tước Grey, một chính khách Anh. Tôi nhận thấy ông cảm ơn người giữ cửa mỗi khi người này mở cửa cho ông. Một hôm tôi đánh bạo hỏi ông tại sao ông lại mất công như vậy. Ông ngó thẳng vào mặt tôi đáp: Tại chú ấy đã mất công giúp tôi.
Một bệnh nhân của tôi, bán vé ô tô buýt ở Londres, một hôm tâm sự với tôi rằng:
– Có nhiều lúc tôi ngán công việc của tôi quá. Thiên hạ kêu nài, làm tôi chịu không nổi, họ không bao giờ đem theo tiền lẻ cả. Nhưng có một bà sáng nào chiều nào cũng nhã nhặn cảm ơn khi tôi phát vé cho bà. Tôi cứ tưởng tượng rằng bà thay mặt tất cả các hành khách mà cảm ơn tôi, có vậy tinh thần tôi mới phấn khởi lên được.
Có khi phải cho tiền thưởng ; những lúc đó chúng ta nên nhớ rằng một nụ cười, một lời không sáo còn quý hơn món tiền thưởng nữa.
3
Một ông bạn thân của thi hào Paul Valéry có thói quen ăn bữa trưa ở một quán nọ tai Paris ; ông ta làm thinh khi người hầu bàn dọn ăn cho. Không khen chê gì cả và lần nào cũng thưởng một số tiền hậu hĩ. Valéry một hôm lại cùng ăn với ông và khi đi, mỉm cười cảm ơn người hầu bàn, khen rằng nhờ cách tiếp đãi niềm nở, khéo léo mà bữa ăn ngon hơn nhiều. Người hầu bàn đó nhớ hoài Valéry và cứ thỉnh thoảng lại hỏi thăm ông.
Ông giám đốc một nhà xuất bản nọ thường khen tài năng của cô thư ký Một hôm, nhà văn Arnold Bennett lại thăm ông ta, nói với cô thư ký:
– Ông chủ của cô khen cô là một thư ký tuyệt luân.
Cô ta đáp:
– Đâu phải là bí quyết của tôi, chính là bí quyết của ông chủ tôi đấy chứ.
Mỗi lần cô làm xong một việc gì dù là nhỏ nhặt tới đâu đi nữa, ông giám đốc cũng không quên cảm ơn cô. Nhờ được khuyến khích như vậy, cô tận tụy làm cho đến nơi đến chốn.
Không có gì làm cho đời sống – của chúng ta và của người khác – vui tươi rực rỡ hơn là lòng biết ơn.
4
Tôi biết một y sĩ cho một số bệnh nhân thần kinh suy nhược cái toa nầy: “đa tạ”. Khi một bệnh nhân tới nhờ ông chẩn mạch, có vẻ thất vọng, chán đời, óc chỉ nghĩ tới những đau khổ của mình thôi, mà cơ thể không có triệu chứng gì đau nặng cả thì ông ta khuyên:
– Liên tiếp sáu tuần lễ, hễ có ai giúp ông một việc gì thì ông nói: “đa tạ”, và để tỏ rằng trong thâm tâm thực tình ông mang ơn người đó thì ông nên vừa nói vừa mỉm cười nhé.
Có vài bệnh nhân bảo:
– Nhưng thưa bác sĩ, có ai giúp tôi được việc nào bao giờ đâu.
Vị y sĩ già đó, nhắc lại câu này trong Thánh kinh:
– Cứ tìm đi thì sẽ thấy.
Sáu tuần lễ sau, đa số bệnh nhân đó trở lại, thay đổi hẳn, không oán trách người khác nữa, tin rằng thiên hạ sao mà tự nhiên hóa ra tốt hơn, nhân từ hơn.
Có vài người không tỏ lời cảm ơn vì ngại quấy rầy người ta. Một bệnh nhân của tôi hết bệnh, rời dưỡng đường rồi, vài tuần sau trở lại để cảm ơn nữ y tá đã săn sóc cho mình.
Ông ta bảo:
– Tôi không dám tới sớm vì tôi nghĩ rằng có nhiều người lại cảm ơn cô quá, làm rầy cô.
Nữ y tá đó đáp:
– Trái lại. Ông lại thăm tôi, tôi mừng lắm chứ. Rất ít người hiểu rằng chúng tôi cần được khuyến khích, và những lời bệnh nhân khuyến khích chúng tôi làm cho chúng tôi phấn khởi nhiều lắm.
5
Vậy chúng ta đừng bao giờ nên ngại tỏ lời mang ơn người khácVì chúng ta đừng quên rằng nụ cười, lời cảm ơn,những hành động biểu lộ lòng mang ơn của ta giúp cho người chung quanh ta có một thái độ lạc quan về đời sống.
A. J. Cronin
(Trong Ý CAO TÌNH ĐẸP do NGUYỄN HIẾN LÊ tuyển dịch)
______________
(1) Người phương Tây bữa trưa thường ăn ở tiệm, tối mới về nhà
Có hai điều xin thưa trước. Một là hai chữ cộng sản đã dịch sai cả trăm năm nay vẫn chưa đính chính. Đúng ra phải dịch là cộng đồng chủ nghĩa. Hai là tôi gọi Bản Tuyên ngôn Cộng sản (Cộng đồng) mà hai ông Mác và Ăng ghen đã công bố năm 1848 là Kinh Thánh của các đảng cộng sản (cộng đồng).
Nói không thuộc Kinh Thánh của mình, là bởi trong bản Tuyên ngôn ấy, mà tất tật các đảng “cộng sản” đều coi như bộ cương lĩnh gốc của mình, có những điều xem ra trái khoáy với hiện thực. Ví dụ trong bản tuyên ngôn ấy hai nhà sáng lập chủ nghĩa cộng đồng từng có dự báo và lên án cái gọi là chủ nghĩa “cộng sản” phong kiến. Thế mà những người “cộng sản” theo khuynh hướng đệ tam lại dựng lên cái mô hình Xô viết rất gần với chủ nghĩa phong kiến, dù đã đặt một cái tên khác, chủ nghĩa xã hội hiện thực.
Quan niệm đất đai chẳng khác gì quan niệm phong kiến: “Phổ thiên chi hạ mạc phi vương thổ”. Nghĩa là đất ở dưới gầm trời đâu cũng là đất của nhà vua! Hoặc như ban lãnh đạo trước sau đều thành vua tập thể. Hoặc như Chương IV của bản tuyên ngôn ấy có ghi rõ: “Thái độ của những người ‘cộng sản’ đối với các đảng đối lập”. Xem ra những người lãnh đạo Đảng “cộng sản” Việt Nam hoặc không thuộc Kinh Thánh của mình, hoặc là đã vất bỏ kinh thánh, coi Mác chỉ như cái bung xung danh nghĩa, chứ thật sự thì đã không còn giữ cái gốc gác của mình nữa rồi.
Lập trường chính thống của ban lãnh đao của dảng cộng sản Việt Nam trước sau vẫn coi ai nói đa đảng đều là phản động, suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, là chống đảng, chống nhà nước. Thế mà trong cái Tuyên ngôn ấy, chương IV, sau khi dẫn chứng về sự hợp tác giữa những người cộng sản với những đảng đối lập khác ở Pháp, Đức, Thụy Sĩ, Ba Lan… đã có một kết luận:
“Sau hết, những người ‘cộng sản’ ở mọi nơi đều phấn đấu cho sự đoàn kết và liên hợp của các đảng dân chủ ở tất cả các nước”.
Như thế, Tuyên ngôn “cộng sản” đâu có bài xích đa nguyên, đa đảng! Trái lại nó còn nhấn mạnh đến thái độ phấn đấu cho sự đoàn kết và liên hợp giữa cộng sản và dân chủ. Chỉ từ khi phong trào cộng sản chuyển sang lập trường đệ tam thì các đảng dân tộc dân chủ mới bị coi là kẻ thù của cộng sản, thậm chí những khuynh hướng khác trong đảng cũng bị đàn áp.
Rõ ràng cương quyết giữ độc đảng, không đoàn kết, không liên hợp, thậm chí thủ tiêu những đảng đối lập đâu có phải là lập trường Mác- xít, nó chính là phản bội lại chủ nghĩa Mác. Trong khi lên giọng nào là chủ nghĩa Mác là kim chỉ nam, là chủ đạo… nhưng hành động trong hiện thực lại khác, làm sao giữ được tính chính danh, chính thống, mà không khiến cho xã hội nghi ngờ là mình đã đánh mất mình, lại đang đi theo tà thuyết?
Khi đứng lên làm cuộc Khởi nghĩa Tháng Tám, nhân dân Việt Nam đã chọn cho mình thể chế chính trị dân chủ cộng hòa, đa nguyên đa đảng.
Đừng để đánh mất chính nghĩa của cuộc khởi nghĩa Tháng Tám. Mà cũng đừng trở thành kẻ phản bội khi vứt bỏ thánh kinh của mình.
Bài này tôi viết đã lâu, được đăng ở một vài trang mạng, nay nhân có hội thảo kỷ niệm 170 năm Tuyên Ngôn Cộng sản do Ban Tuyên giáo tổ chức, tôi chép lại bài cũ, viết thêm đôi điều làm rõ ý của mình, mong góp vào cái nhận thức đúng đắn của xã hội.
Bản Tuyên ngôn ấy ra đời ngót gần hai thế kỷ, chắc chắn là có nhiều lạc hậu cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Việc coi nó còn nguyên giá trị cả về lý luận, cả về thực tiễn, hoặc nó đang soi đường chỉ lối “đúng đắn” cho đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta của lãnh đạo Ban tuyên giáo và những người gọi là nhà tư tưởng cộng sản hay Mác Lê nin… là quyền của họ.
Cá nhân tôi cho rằng nó chỉ có giá trị “xã hội học lịch sử”, với ý nghĩa nó là một tác phẩm được Mác và Ăng ghen viết ra đã 170 năm nay. Hàng triệu người đã đọc nó và tưởng rằng đang thực hiện lý tưởng của nó thì trên thực tế đã làm cho cả trăm triệu sinh mạng bị giết chết, đã đẩy nhân loại đi vào một khúc quanh lịch sử bi thảm, làm cho nhiều dân tộc biến dạng, băng hoại thảm thương…rồi chính mình phải từ bỏ.
Bây giờ thì cái Đệ tam quốc tế đã bị giải thể, rồi cả Liên xô và hệ thống phe XHCN Đông Âu cũng tan rã. Cái gọi là chủ nghĩa Mác- Lê nin cũng đã phá sản cả về lý thuyết lẫn thực tiễn. Ngay cả Trung Hoa, từ 1960 thế kỷ trước họ chính thức vứt Lê Nin, đến 1970 họ thảo luận với nhau “Nên kiên trì chủ nghĩa Mác nào” và họ kết luận, chỉ lấy cái phép biện chứng của Mác coi thực tế là thước đo. Rồi họ đề xướng lý thuyết “mèo trắng mèo đen”, lại đề “Ba đại diện”, “Xã hội hài hòa”, nay thì đưa tư tưởng Tập Cận Bình thành quốc sách!
Về lý tưởng, Tuyên ngôn ấy nêu ra 4 mô hình chủ nghĩa xã hội, một là CNXH phong kiến kiểu Đức, hai là CNXH không tưởng, ba là CNXH tư sản. Điều trớ trêu là những tính chất phong kiến và không tưởng lại đầy rẫy trong các nhà nước XHCN! Trong thực tiễn cái mô hình nhà nước xô viết là “siêu phong kiến”. (Xem Chế độ phong kiến ở Liên Xô- Anatoly Tille, năm 1992 xuất bản với tên: Luật pháp của sự phi lý- Luật pháp phong kiến xã hội chủ nghĩa. Năm 2003, xuất bản ỏ Mỹ có tên: Cuộc cách mạng tội ác vĩ đại ở nước Nga- Mafia nắm quyền.
Không phải ngẫu nhiên mà nhiều trí thức ở nước ta nhận xét rằng, trong xã hôi VN hiện nay đầy rẫy những thiết chế kiểu phong kiến rất lỗi thời. Ông Nguyễn Văn An cựu ủy viên Bộ chính trị cũng từng nói Bộ Chính trị là vua tập thể. Có người bình luận vui là trong “chế độ làm chủ tập thể” tất sinh ra vua tập thể!
Tác giả bài này, trong nhiều cuộc hội thảo do những ban ngành TW tổ chức từng trình bày nhận xét, những thiết chế phong kiến đầy rẫy ở chế độ ta có lý do tồn tại vì một thời gian dài nền kinh tế đã vận hành với những phương thức mang bản chất phong kiến, một là đổi chác, hai là cống nạp, ba là tước đoạt (những cuộc cải tạo nông nghiệp, cải tạo công thương, đổi tiền, duy trì kéo dài kinh tế phi thị trường rồi gắn thêm cái đuôi XHCN…Thực chất cái gọi là kinh tế nhà nước là chủ đạo ở VN mang dấu ấn kinh tế phong kiến triều đình rất rõ, chúng hoạt động theo mệnh lệnh chính trị và bất chấp lời lỗ như trước đây theo chỉ dụ của nhà vua!).
Trong một bài viết cũng nhân kỷ niệm Tuyên ngôn CS đăng trên tờ Quan hệ Quốc tế (tên cũ) tôi có nhận xét chỉ duy cái CNXH tư sản trong mô hình “Xã hội –Dân chủ” ở châu Âu là đã có những thành công. Khi đăng, ban biên tập đề nghị sửa thành hai chữ thành công nhất định). Như thế là những mô hình CNXH mà tuyên ngôn phê phán thì trước sau các đảng cộng sản ở các nước XHCN đều tích cực thực hiện. Các hình thức XHCN hiện thực mà các đảng cộng sản thực hiện, đều rất đậm đà chất phong kiến, không tưởng, kể cả chất tiểu tư sản phiêu lưu, ngoại trừ mô hình chủ nghĩa xã hội tư sản đã có ich lớn trong phục hưng châu Âu sau thế chiến thứ hai.
Về cái XHCN mà Mác và Ăng ghen mong ước bấy giờ chỉ thấy mấy tư tưởng định hướng:
– Một là tư tưởng “Theo ý nghĩa đó, những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của mình thành luận điểm duy nhất này là: xóa bỏ chế độ tư hữu.
– Hai là “giai cấp vô sản từng nước phải xóa bỏ giai cấp tư sản và tự mình trở thành dân tộc. (Sau thấy nói thế võ đoán nên đổi thành giai cấp của dân tộc).
– “Đoạn tuyệt một cách triệt để nhất với những tư tương kế thừa của quá khứ”.
– “Dùng sự thống trị chính trị của mình từng bước một đoạt lấy toàn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản…”
– “Những biện pháp sau đây sẽ được áp dụng phổ biến”: tước đoạt sở hữu ruộng đất, áp dụng thuế lũy tiến cao, tịch thu tài sản…, tập trung tín dụng, giao thông vận tải vào nhà nước, …kế hoạch chung, tổ chức các đạo quân công nghiệp, đặc biệt cho nông nghiệp, xóa bỏ đối lập thành thị và nông thôn…
Tóm lại là những chỉ thị rất sơ sài cảm tính, không hề có luận chứng vững vàng. Mà thực tế đã bác bỏ, đã chứng tỏ sự sai lầm hồ đồ của chúng.
Tuy nhiên ít ra trong Tuyên ngôn cũng có ba tư duy, khá hợp lý, không kể ý kiến đoàn kết, hợp tác với các đảng dân tộc dân chủ kể trên, một là “phát triển tự do cá nhân là tiền đề phát triển tự do của xã hội”, hai là “giáo dục công cộng và không mất tiền cho tất cả trẻ em”, ba là ”giai cấp tư sản không thể tồn tại nếu không luôn luôn cách mạng hóa công cụ sản xuất, do đó cách mạng hóa những quan hệ sản xuất, nghĩa là cách mạng hóa toàn bộ những quan hệ xã hội”, thì đều bị các đảng cộng sản vứt vào sọt rác. Vì cho đó là quan điểm tư sản!
Nhưng điều đáng nói hơn cả là chừng ba mươi năm sau khi công bố tuyên ngôn, cả hai ông đều cho rằng, không có một lý tưởng cộng sản nào cả, đó là những ý nghĩ “trẻ con” lúc còn trẻ và đã vứt bỏ, lúc cuối đời! (Xem bài tựa của F. Ang ghen viết cho cuốn Những cuộc đấu tranh giai cấp ở Pháp của K. Marx).
Như thế thì nhân loại kỳ cục thật, cái mà người ta đã vứt bỏ, lại ôm lấy vào mình, coi như của quý. Sự kỳ cục đó đã khiến cho cả trăm triệu người phải chết oan uổng, nhiều dân tộc bị băng hoại, trong đó có Việt Nam chúng ta. Còn Nghị viện Châu Âu thì đã ra nghị quyết lên án những nước theo cái Tuyên ngôn ấy mà làm cộng sản. Nghị quyết ấy có số 1481 của Hội Đồng Nghị viện Châu Âu, viết “…Những chế độ độc tài toàn trị cộng sản gồm khối Liên xô, Đông Âu trong thế kỷ XX và một số chế độ cộng sản hiện vẫn còn nắm quyền ở 4 nước trên thế giới, đều là những quốc gia vi phạm nhân quyền…, vi phạm quyền tự do tư tưởng, xúc phạm lương tâm con người, cấm tự do báo chí vàtự do chính trị;độc tôn, độc quyền, độc đảng…Không thể dùng quan điểm quyền lợi quốc gia mà lấp liếm, biện hộ sự lên án của nhân loại. Quốc hội chung Châu Âu cực lực lên án tất cả mọi vi phạm quyền con người trong các chế độ cộng sản, coi nó như tội ác chống nhân loại”!
Gần đây đọc Nam Hoa Kinh của Trang tử, thấy có câu chuyện sau: Vua Hoàn công ngồi đọc sách, Luân Biển kẻ làm thợ đẽo bánh xe tiến lên, dám hỏi: Cái mà nhà vua đang đọc là lời gì vậy. Đáp, là lời của thánh nhân. Thưa, thánh nhân còn chăng? Đã chết rồi. Thế thì cái mà nhà vua đọc chỉ là cặn bã của người xưa mà thôi. Quả nhân đọc sách, kẻ đẽo bánh xe sao được bàn càn. Nói thông thì được, không thông thì chết. Luân Biển thưa, tôi lấy việc của tôi mà xét, đẽo bánh xe chậm thì ngọt, mà không bền, mau thì chối mà không vào. Không chậm, không mau, hiểu nó ở tay, ứng vào lòng, miệng không nói ra được. Tôi không thể đem để bảo cho con, con tôi cũng không thể học. Cho nên đã bảy mươi mà già đời vẫn làm nghề đẽo bánh xe. Người xưa và cái không thể học của họ đều đã chết cả rồi. Vậy thì cái nhà vua đọc chỉ là cặn bã của người xưa mà thôi.
Tôi bàn thêm: học lấy cặn bả mà làm nên được trí tuệ, xưa nay chưa từng nghe nói!
Bàn tới lịch sử của Cuộc chiến Việt Nam và kinh nghiệm bang giao với Mỹ, cần nhớ lại và mở một dấu ngoặc về “bài học” cũ của Việt Nam Cộng Hòa.
Bản quyền hình ảnh GETTY IMAGESSự kiện Hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson tới thăm Việt Nam đầu tháng 3/2018 được quốc tế chú ý
Viết về hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson cập cảng Tiên Sa ở Đà Nẵng, báo Lao Động thuật lại việc ông Timothy Liston, Phó Tổng Lãnh sự Mỹ tại Sài Gòn lên thăm tàu và bế một cậu bé để cùng vỗ tay với những người bạn nhỏ.
Họ cùng hoà ca bài “Trái đất này là của chúng mình”. Câu hát “màu da nào cũng quý cũng yêu” như chính thông điệp của cuộc gặp gỡ.
Tờ báo dẫn lời ông Liston về nỗ lực xây dựng niềm tin giữa hai nước khi ông nói: “Không chỉ có con tàu, chúng tôi đến để xây dựng lòng tin.”
Nghe câu này, chắc nhiều người có thể phản hồi và đặt câu hỏi “nhưng liệu Việt Nam có tin được Mỹ hay không?”
Đây cũng là câu hỏi của chính Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đặt ra cho Mỹ vào tháng Ba, 1975 (xem cuốn Khi Đồng Minh Tháo Chạy, chương 9).
Chỉ có quyền lợi là vĩnh viễn
Như chúng tôi đã có dịp bình luận: câu trả lời là “tin được nếu” niềm tin ấy được xây dựng trên căn bản chắc chắn và bền vững là Quyền lợi chung của cả hai nước.
Tôi thật ấn tượng về câu nói của ông Henry John Palmerston, cựu Thủ tướng Anh nói tại Quốc Hội nước này ngày 1 tháng 3 năm 1848:
“Nước Anh không có đồng minh vĩnh cửu, và chúng ta cũng chẳng có kẻ thù vĩnh viễn. Quyền lợi của chúng ta mới là vĩnh viễn và vĩnh cửu.”
Trong những thập niên 1950-60, vì quyền lợi của Mỹ đòi hỏi phải ngăn chặn Trung Quốc tràn xuống Biển Đông nên Mỹ nhảy vào Việt Nam.
Đến năm 1972 Nixon-Kissinger hòa hoãn được với TQ vì Kissinger nói với Mao và Chu khi bay qua Bắc Kinh là Mỹ sẵn sàng ký thỏa hiệp để ra đi khỏi Việt Nam và nếu sau khi chúng tôi đã ra đi vài năm mà Cộng sản tiến tới chiếm trọn Miền Nam Việt Nam thì Mỹ cũng không trở lại nữa.
Tin rằng Mỹ sẽ không trở lại nên TQ biến thành bạn và hành động ra vẻ như không còn đe dọa Mỹ ở Biển Đông nữa, để còn được hưởng những ân huệ lớn lao của Mỹ.
Khi Trung Quốc trở thành bạn rồi thì Mỹ không còn lý do gì để đổ xương máu tiếp tục ở Miền Nam Việt Nam, cho nên đã bỏ Miền Nam không thương tiếc.
Một trong những bài học rút ra từ cuộc chiến là như thế này: Mỹ nhảy vào Việt Nam không phải là để “bảo vệ tự do của nhân dân Miền Nam” như Washington luôn luôn tuyên bố (và nhân dân Miền Nam luôn luôn tin tưởng) mà là để bảo vệ Quyền lợi của chính Mỹ.
Trên boong tàu USS Carl Vinson
Cho nên sau khi ông Nixon bắt tay được với ông Mao thì quyền lợi của Mỹ không còn đòi hỏi phải có một “tiền đồn” để chống Trung Quốc ở Biển Đông nữa: mở cửa Bắc Kinh đóng cửa Sài Gòn đơn giản là như vậy.
Hai ông Nixon-Kissinger đã hùng hồn biện hộ cho Trung Quốc khi Kissinger soạn bài cho Tổng thống Nixon trả lời Quốc Hội Hoa Kỳ rằng:
“Trung quốc và Hoa Kỳ chia sẻ nhiều quyền lợi song hành và có thể cùng nhau hành động để làm cho đời sống của nhân dân hai nước thêm phong phú.”
Nhưng lịch sử đã diễn ra ngược lại: sau 40 năm ru ngủ được Mỹ, hứa hẹn sẽ tuân hành các quy tắc của luật kinh tế thị trường để Mỹ chấp thuận cho TQ vào WTO (Tổ Chức Thương Mại Toàn Cầu) giúp sản xuất và bán thật nhiều hàng qua Mỹ và thị trường thế giới, TQ đã làm giàu quá nhanh, trở thành cường quốc kinh tế số hai.
Vì Trung Quốc cạnh tranh bất chính với Mỹ, không tuân thủ các quy luật thị trường cho nên bây giờ nhiều người Mỹ tiếc rẻ đã cho Trung Quốc vào WTO, giúp nước này mạnh đủ để ra mặt chống Mỹ.
Nixon-Kissinger đã sai lầm mà cho rằng quyền lợi của Mỹ đi đối với quyền lợi của TQ vì nước này đã thành bạn đồng phường của Mỹ (Kissinger quá siêu trong việc thuyết phục Nixon về điểm này).
Hoa Kỳ đang hối tiếc?
Bây giờ Mỹ rất hối tiêc về sự sai lầm ấy. Và Kissinger phải chịu trách nhiệm rất lớn cho sự sai lầm này cùng những thiệt hại to lớn của nước Mỹ về địa chính trị và chiến lược toàn cầu.
Bản quyền hình ảnh US NAVYGiao lưu hải quân Mỹ – Việt nhân sự kiện các tàu chiến Hoa Kỳ tới Đà Nẵng đầu tháng 3/2018
Mỹ bừng tỉnh nhưng đã quá muộn! Dù sao “better late than never:” (thà rằng muộn còn hơn là không bao giờ), Mỹ phải gấp rút xoay trục về Biển Đông.
Và khi muốn quay về Biển Đông thì Mỹ rất cần Việt Nam vì đây là “địa điểm chiến lược quan trọng nhất” như Bộ Ngoại Giao đã phân tích ngay từ năm 1950 (xem ‘Khi Đồng Minh Nhảy Vào,’ chương 3).
Một điều chắc chắn: đó là từ nay, sẽ không bao giờ Trung Quốc bỏ tham vọng đẩy Mỹ ra khỏi Biển Đông, rồi ra khỏi Tây Thái Bình Dương, rồi khỏi các đại dương khác.
Cho nên vì quyền lợi an ninh lãnh thổ của chính mình, Mỹ sẽ không bao giờ phạm phải lầm lỗi lần thứ hai là tháo chạy khỏi Biển Đông nữa.
Tại sao Trung Quốc sẽ không bao giờ ngừng đẩy Mỹ ra khỏi Biển Đông để rút về tới bờ California?
Lý do là vì Bắc Kinh đã đặt ra một mục tiêu chiến lược bí mật và quan trọng nhất: đó là tới năm 2049 khi kỷ niệm 100 năm thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, nước này sẽ thay thế Mỹ để trở thành cường quốc số một trên thế giới.
Tác giả nổi tiếng về Trung Quốc, ông Michael Pillsbury đã ra cuốn sách ‘The Hundred Year Marathon’ (Cuộc chạy đua 100 năm – xuất bản năm 2015) làm thức tỉnh các nhà chiến lược Mỹ.
Pillsbury là một chuyên gia về Trung Quốc đã từng làm việc với tất cả các tổng thống Hoa Kỳ kể từ thời Nixon, và như ông viết, “tôi đã có thể có nhiều thông tin của các cơ sở tình báo và quân sự của Trung Quốc hơn bất kỳ người phương Tây nào khác”.
Ông viết:
“Từ hàng thập kỷ nay, chính phủ Hoa Kỳ đã quá hào phóng, trao thật nhiều thông tin, công nghệ, bí quyết quân sự, thông tin tình báo và những lời cố vấn về các khía cạnh chuyên môn cho người Trung Quốc. Thật vậy, rất nhiều điều đã được cung cấp và cung cấp quá lâu. . . không thể có kế toán đầy đủ được về việc này! Và những gì chúng ta đã không đưa cho người Trung Quốc, thì họ đã ăn cắp.”
Bản quyền hình ảnh US NAVYGS Nguyễn Tiến Hưng: “Mỹ sẽ phải luôn luôn việc tập trung vào chiến lược ‘chặn lại tham vọng của Trung Quốc.”
Tất cả chỉ để phục vụ cho tham vọng trở thành siêu cường số một để thay thế cho Mỹ khi Trung Quốc kỷ niệm 100 năm ngày ông Mao Trạch Đông tiến vào Bắc Kinh.
Chỉ còn 31 năm nữa là tới năm 2049 cho nên từ nay Mỹ sẽ phải luôn luôn việc tập trung vào chiến lược ‘chặn lại tham vọng của TQ.’ Vì vậy mới có kế hoạch điều động tới 60% của hải lực Mỹ về Thái Bình Dương vào năm 2020.
Tất cả 14 Tổng thống Mỹ kể từ Harry Truman tới Donald Trump đều muốn duy trì vai trò lãnh đạo số một của nước Mỹ trên thế giới này – một vai trò phát xuất từ sau Thế Chiến 2, nhưng 13 ông trước chỉ nói úp úp mở mở.
Tới thời ông Trump – một con người bộc trực , bị coi là đồng bóng – thì ông thẳng thừng đưa ra chính sách “America First” – không chỉ có nghĩa là dành mọi ưu tiên kinh tế, thương mại, nhập cư để phục vụ quyền lợi vật chất của người Mỹ mà nó còn có một ý nghĩa chiến lược sâu xa: ông Trump muốn vãn hồi vai trò lãnh đạo của Mỹ vốn đã phai mờ đi trong thập niên vừa qua.
Lập trường này làm cho tất cả các đồng minh đều nhìn vào Trump với con mắt nghi ngờ.
Nhưng Washington đồn rằng Trung Quốc rất e ngại tính “đồng bóng” ấy của Tổng thống Trump, nhất là vì họ biết rằng về hải lực thì Trung Quốc còn thua Mỹ quá xa về mọi mặt: từ chiến hạm, tầu ngầm, hàng không mẫu hạm tới kinh nghiệm hải chiến, không chiến nên không có đòn bẩy răn đe là bao nhiêu đối với Mỹ.
Khi ông Trump ân cần tiếp đón ông Tập Cận Bình ở Florida ngay từ đầu nhiệm kỳ, và ông Tập nghênh tiếp ông Trump hết sức linh đình ở Bắc Kinh, ngược hẳn với việc đón tiếp cựu Tổng thống Barack Obama đầu tháng 11/2017, dư luận cho rằng Mỹ và Trung Quốc sẽ tiến lại gần nhau hơn nữa.
Nhưng chỉ bốn tháng sau chuyến đi, dư luận đã giật mình khi nghe tin ông Trump thông báo sẽ đánh thuế thép 25% và nhôm 10% – chủ yếu nhắm vào Trung Quốc vì nước này đã xuyên qua nhiều nước để lợi dụng những kẽ hở của WTO, APEC, NAFTA gián tiếp nhập thép, nhôm vào Mỹ – việc mà ông Trump gọi là “trans-shipment” (thực ra là re-export).
Đằng sau lệnh tăng thuế chính là ông Peter Navarro, một ngôi sao đang sáng lên ở Tòa Bạch Ốc. Navarro nổi tiếng về lập trường chống Bắc Kinh. Cuốn sách của ông “Death By China” (Chết bởi tay Trung Quốc) đã giúp vào việc đánh thức nước Mỹ và được ông Trump đặc biệt chú ý. Navarro cáo buộc Trung Quốc đã “biến thành kẻ sát nhân hiệu quả nhất trên hành hành tinh này.” (nguyên văn: “turning into the planet’s most efficient assassin”).
Navarro đang thuyết phục Trump áp dụng thêm những biện pháp chế tài đối với vi phạm của Trung Quốc về quyền sở hữu trí tuệ. Rồi tới hai biện pháp khác: ngăn chặn Bắc Kinh ép buộc các công ty Mỹ phải chuyển giao công nghệ cho các đối tác, và ngăn chặn các công ty quốc doanh Trung Quốc (doanh nghiệp nhà nước) mua lại các công ty của Hoa Kỳ.
Bản quyền hình ảnh AFP/GETTY IMAGESHàng không mẫu hạm Liêu Ninh của Trung Quốc trong một lần đến Hong Kong
Vậy ta có thể kết luận rằng ít nhất trong Thế kỷ 21 quyền lợi của Mỹ ở Biển Đông đi song hành và trực tiếp với quyền lợi của Việt Nam.
Việt Nam là địa điểm chiến lược quan trọng nhất ở Biển Đông, nhưng đồng thời, cái vị thế ấy luôn đặt nước này vào cái thế gọng kìm giữa các cường quốc.
Hơn nữa Việt Nam lại nằm sát cạnh Trung Quốc nên áp lực của Trung Quốc rất là mạnh mẽ. Vì vậy có lẽ Việt Nam không còn một con đường nào khác ngoài chiến lược cân bằng (“đu dây”) giữa hai cường quốc để sống còn.
Tuy nhiên vì áp lực của Trung Quốc càng ngày càng gia tăng nhanh – một cách nguy hiểm – cho nên chính cái chiến lược cân bằng lại là lý do thúc đẩy Việt Nam nên gần Mỹ hơn để lấy lại và duy trì thế cân bằng.
Những lý do để tin được Hoa Kỳ
Vì vậy, có khả năng là quan hệ Việt – Mỹ sẽ sớm tiến tới “đối tác chiến lược toàn diện” – trở thành quan hệ thứ tư sau ba quan hệ Việt – Nga, Việt – Trung và Việt -Ấn.
Nếu như vậy thì Việt Nam có cả ba cường quốc: Nga, Ấn và Mỹ để đối đầu với Trung Quốc.
Sự lo ngại còn lại của Việt Nam là: Việt Nam Cộng Hòa từng là đồng minh thân thiết như vậy mà còn bị bỏ rơi thì nước Việt Nam hiện nay làm sao có quan hệ tốt bằng được? Nếu Việt Nam nghiêng về Mỹ thì có chắc chắn không, hay Mỹ Trung lại bắt tay nhau thì Việt Nam lại bị bỏ rơi?
Đây là câu hỏi thật chính đáng, nhưng phân tích lịch sử cho kỹ và nhìn vào bối cảnh ngày nay thì thấy Việt Nam không cần phải e ngại. Đó là vì ba lý do:
Thứ nhất, vấn đề bỏ rơi không đặt ra vì hai hoàn cảnh lịch sử khác hẳn nhau: trước đây, vì vấn đề kinh tế khó khăn (cảnh nghèo sau 10 năm Chiến tranh Đông Dương 1945-1955) VNCH phải lệ thuộc vào Mỹ hầu như hoàn toàn cả về quân sự lẫn kinh tế (xem KDMTC, Chương 19).
Trong thực tế, VNCH trở thành “client state” (quốc gia lệ thuộc) và Mỹ thành “patron state” (quốc gia bảo trợ). VN ngày nay đã hoàn toàn tự lập, còn xuất siêu sang Mỹ tới trên $38 tỷ (2017). Về quân sự thì VN cũng đã có một lực lượng đáng kể và sẵn sàng bỏ tiền ra mua khí giới, kể cả của Mỹ.
Trong dịp TT Trump thăm viếng Hà Nội, VN đã đặt $10 tỷ mua hàng của Mỹ (hy vọng cán cân thương mại Mỹ – Việt năm 2018 sẽ giảm xuống còn – $30 tỷ).
Thứ hai, chắc chắn rằng Mỹ sẽ không bao giờ yêu cầu VN cho đóng quân hay duy trì căn cứ quân sự lâu dài. Vì vậy Mỹ sẽ không phải đổ máu và tốn kém tiền bạc như trong ‘Vietnam War’ cho nên dân chúng Mỹ không chống đối, ngược lại còn ủng hộ việc Mỹ nối tay với Việt Nam để chống Trung Quốc;
Thứ ba, như đề cập trên đây, ngày trước Mỹ xây tiền đồn chống Trung Quốc ở Miền Nam vì Trung Quốc đe dọa quyền lợi an ninh của mình ở Biển Đông.
Vì vậy, khi hòa hoãn được với Trung Quốc thì Mỹ sai lầm mà tưởng rằng hiểm họa Trung Quốc đã chấm dứt cho nên rút khỏi Miền Nam và ra khỏi Biển Đông. Bây giờ thì Mỹ hối tiếc vì nhận thức rằng: trong Thế kỷ 21, Trung Quốc còn đe dọa Mỹ gấp mấy lần như đã đe dọa trong Thế Kỷ 20.
Bản quyền hình ảnh LINH PHAM/AFP/GETTY IMAGESPhó Đô đốc Phillip G. Sawyer, Tư lệnh Hạm đội 7 của Hải quân Mỹ, chào đón các quan chức Việt Nam sau khi hàng không mẫu hạm USS Carl Vinson cập cảng Đà Nẵng hôm 5/3/2018.
Việc Tổng thống Trump vừa chỉ định Giám đốc CIA Mike Pompeo thay thế Ngoại trưởng Rex Tillerson – theo Jim Cramer từ CNCB bình luận là để gửi một thông điệp gây sửng sốt cho Trung Quốc: “Các ông là kẻ thù của chúng tôi.” Pompeo cho rằng Trung Quốc là kẻ thù cả về tinh thần lẫn vật chất.
Khi Việt-Mỹ đi tới đối tác chiến lược toàn diện, Việt Nam sẽ có nhiều lợi ích vì “toàn diện” bao gồm cả an ninh cả kinh tế. Về an ninh quốc phòng, khi có hàng không mẫu hạm Mỹ ra vào Đà Nẵng và chiến hạm, tàu ngầm Mỹ ra vào Cam Ranh, tất nhiên Trung Quốc sẽ phải cân nhắc cho thật kỹ khi muốn gây hấn với Việt Nam – thí dụ như khi Trung Quốc tính toán để gây thảm hại ở Trường Sa lần thứ hai?
Dĩ nhiên là về mặt chính sách, Việt Nam cũng phải để cho hàng không mẫu hạm của mọi quốc gia ra vào Đà Nẵng tự do như Mỹ, nhưng trong thực tế, Trung Quốc chỉ có một con tàu cũ Liêu Ninh – mua lại của Ukraine – thì ra vào để làm gì?
Về kinh tế, thì thị trường Mỹ – hiện đã là thị trường để Việt Nam xuất cảng nhiều nhất – sẽ mở rộng ra thêm nữa cho Việt Nam với những lợi ích về đầu tư, kỹ thuật, thông tin, và ưu đãi về thuế nhập cảng, như thép, nhôm – miễn là không phải xuất xứ từ Trung Quốc.
Dĩ nhiên là Mỹ cũng sẽ yêu cầu Việt Nam nhập thêm hàng Mỹ giúp cho cán cân thương mại bớt chênh lệch.
Từ Thế Chiến 2, chưa có nước nào trên thế giới này từ Đức, Pháp, Anh, Ý tới Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Hàn, Đài Loan, Singapore, Thái Lan giàu mạnh lên được mà không nhờ thị trường Mỹ.
Mặt khác, qua cuộc chiến biên giới Việt-Trung năm 1979 và việc TQ gây thảm sát trên đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa năm 1988, cùng với việc Chủ tịch Mao – người đã cáo buộc “Chủ nghĩa đế quốc Mỹ là kẻ thù hung ác nhất của nhân loại” đã ôm thật chặt Nixon năm 1972, Việt Nam cũng đã thấy rõ ràng rằng Trung Quốc chẳng có bạn vĩnh cửu, và cũng chẳng có thù vĩnh viễn. Quyền lợi của Trung Quốc mới là vĩnh viễn và vĩnh cửu.
Cách ứng xử của Việt Nam đang phản ánh sự thay đổi trong nhận thức như thế.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, Cựu Tổng trưởng Kế hoạch VNCH từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản các cuốn sách Khi Đồng minh tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh nhảy vào (2016).
Trẻ em H’Mông của cùng một gia đình ở phía bắc tỉnh Lai Châu, ngày 04 tháng 01 năm 2007. (Ảnh minh họa)
AFP
Việt Nam xếp thứ 95 trong tổng số 156 quốc gia và vùng lãnh thổ về mức độ hạnh phúc trong bảng xếp hạng theo phúc trình mà Liên Hiệp Quốc vừa cho công bố.
Theo phúc trình thì năm 2018, có 156 quốc gia được đánh giá dựa trên các yêu tố như GDP bình quân đầu người, hỗ trợ xã hội, tuổi thọ, sức khỏe, tự do xã hội và không tham nhũng.
Phần Lan đã tăng lên từ vị trí thứ năm vào năm ngoái để vượt qua Na Uy lên vị trí đầu bảng. 10 quốc gia đứng đầu danh sách báo cáo năm 2018 gồm Phần Lan, Na Uy, Đan Mạch, IceLand, Thụy Sĩ, Hà Lan, Canada, New Zealand, Thụy Điển và Úc.
Hoa Kỳ đã rớt từ hạng 14 vào năm 2017 xuống vị trí thứ 18 trong bảng xếp hạng. Mặc dù thu nhập bình quân đầu người tăng lên tại Hoa Kỳ trong nửa thế kỷ qua. Vương quốc Anh xếp thứ 19 và các Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất đứng vị trí 20.
Ông Jeffrey Sachs, thuộc đại học Columbia ở New York, đồng thời là cố vấn đặc biệt của Tổng thư ký LHQ, cho biết: “Các quốc gia hạnh phúc là những nước có sự cân bằng về sự thịnh vượng, vốn thông thường và vốn có thể đo lường được, tức là sự tin cậy trong xã hội cao, mức độ bất bình đẳng trong xã hội thấp, và khả năng của chính phủ”.
TIỂU BANG NEW MEXICO CÓ THỂ LÀ NƠI TRÚ ẨN THIÊNG LIÊNG
Nguồn: Spiritdaily.com
(Cầu Thang Thánh Giuse, New Mexico, Hoa Kỳ)
Tiểu Bang New Mexico có nhiều nơi thánh thiêng và được xem như là một ngọn đèn pha sáng láng, một nơi trú ẩn thiêng liêng để tránh những tai họa, một nơi đã có những phép lạ xẩy ra, hoặc là một nơi được xức dầu thiêng liêng. (anointing place)
Thật sự, mỗi nhà thờ ở khắp thế giới đều có Chúa Giêsu Thánh Thể. Ngài là Thiên Chúa, Đấng Cứu Thến, Đấng bảo vệ và là nơi trú ẩn cho chúng ta. Trong thế kỷ 19, có một vụ cháy lớn ở Wisconsin, tất cả mọi nơi đều bị cháy rụi, chỉ có một nhà nguyện nhỏ là đứng vững.
-Một vị linh mục có ơn thiêng liêng đặc biệt và hiện nay ngài đang chăm sóc cho ba giáo xứ của một giáo phận ở vùng Trung Tây Hoa Kỳ, có nói rằng vùng núi đông bắc của New Mexico sẽ là nơi trú ẩn thiêng liêng cho mọi người khi có những biến cố xẩy ra trong tương lai. Đó là vùng núi tên là Carson National Forest, trong đó có dãy núi tên Sangre de Cristo Mountains, có nghĩa là Núi Máu Thánh Chúa KiTô.
-Ở miền Bắc của New Mexico có một thị trấn tên là Angel Fire. ( Lửa Thiên Thần)
-Tại thành phố Santa Fe, New Mexico có một nơi tượng Đức Mẹ Maria gọi là La Conquistadora, do người Tây Ban Nha rước đến New Mexico năm 1625. Tại đây Mẹ đã ban rất nhiều ơn lành. Nay nơi ấy là nhà thờ Thánh Phanxico Assissi, trong nhà thờ này có tôn vinh Đức Mẹ Maria với tước hiệu La Conquistadora.
-New Mexico cũng là nơi có cầu thang kỳ diệu mà người ta cho rằng Thánh Giuse đã hoàn thành, cầ uthang này ở trong nhà nguyện Loretto, ngay sát nhà thờ Phanxico Assissi.
-Ngoài ra còn có một nơi thánh thiêng nữa là nhà thờ Santuario de Chimayo tại thị trấn Chimayo, cách nhà nguyện Loretto khoảng 1 tiếng đồng hồ lái xe. Ở đó có một cây thánh giá được chôn vùi dưới đất nhưng tỏa ánh sáng rực rỡ. Người ta rước cây thánh giá này về nhà thờ rất nhiều lần nhưng thánh giá lại tự động quay trở về nơi cũ. Cuối cùng người ta phải xây một nhà thờ ở chỗ cây thánh giá được tìm thấy.
-Tại vùng này có hai nhà thờ nhỏ gần nhau, một trong hai nhà thờ có hố cát mà khách hành hương đến cầu nguyện và múc từng thùng cát đem về nhà mình thế mà cát cứ vun lên, không bao giờ cạn. Có nhiều ơn chữa lành xẩy ra. Ngôi nhà thờ này còn có nhiều nạng gỗ và xe lăn do những bịnh nhân đến xin ơn chữa lành và được khỏi bịnh. Họ để lại nạng và xa lăn như chứng tích cảm tạ Lòng Chúa Thương Xót.
-Ở phía bắc của New Mexico có một vùng tên là Ranchos de Taos có một bức tranh kỳ diệu. Trong ánh sáng có hình Chúa Giêsu đứng trên bãi biển Galilê, lại có một cây thánh giá sang rực trên vai Chúa Giêsu, và vùng biển sáng rực. Có người nhìn thấy chiếc thuyền. Bức tranh và tác giả của nó đã được trải qua các cuộc thử nghiệm hóa học nhưng người ta không tìm ra lời giải thích.
-Tại New Mexico có một đền thánh Đức Mẹ Maria ở vùng Cerrillos, nằm giữa hai thành phố Albuquerque và Santa Fe. Tên đền thánh là Đền Thánh Giuse.Tại đây có hình Thánh Phanxico được nhận 5 vết thương thánh. Bức tranh này do một giáo dân vẽ ra, có thể được xem là một tuyệt tác. Người ta nói rằng Đức Mẹ Maria đã từng hiện ra tại ngôi đền thánh này.
SUY NIỆM:
Gia đình chúng tôi đã đến New Mexico để hành hương tại Cầu Thang Thánh Giuse, nhà thờ Thánh Phanxico Assissi, nhà thờ Thánh Micae, nhà thờ Hố Cát tức là Sanctuario de Chimayo, hay Our Lady of Lourdes in America và một nhà thờ nhỏ ở bên cạnh nhà thờ Hố Cát, nơi có cây thánh giá phát sang.
Trước nhà thờ Hố Cát này có một lạch nước nhỏ, nước chảy róc rách. Tôi đã ngồi cầu nguyện và ước mong đây là lạch nước suối chữa lành như ở Lộ Đức. Tôi cũng đã múc cát đem về nhà để xin Chúa ban ơn bình an.
Nếu quý vị có thể đi hành hương những nơi này thì xin cố gắng đi một lần vì khoảng thời gian lái xe từ Orange County, California đến đó chỉ khoảng 17 tiếng đồng hồ. Xin Chúa chúc lành cho quý vị!
Nguyễn Thúy Hạnh gọi điện về thông báo, đang ở cơ quan an ninh điều tra bô công an (cùng chỗ bắt Pham Doan Trang về tra vấn những lần trước).
Hạnh nhắn mọi người yên tâm, việc Hạnh làm hoàn toàn vì lòng yêu nước vì lương tâm không có gì phải lo sợ và chịu khuất phục.
Như tôi đã dự đoán, họ bắt Hạnh vì nhiều lý do chứ không phải vì chuyện đi tưởng niệm tử sĩ Gạc Ma. Nguyễn Thúy Hạnh và tôi cùng quan điểm và cùng làm với nhau tất cả mọi chuyện. Đó là chuyện đấu tranh cho công bằng xã hội, đấu tranh cho dân chủ và đấu tranh cho nhân quyền. Tất cả đều đúng đắn và hợp pháp.
Tuy nhiên nhà cầm quyền đứng trên pháp luật, chà đạp nhân quyền nên muốn bắt là cứ bắt, như đã từng bắt bớ và kết án nặng nề những người hoạt động xã hội dân sự và đấu tranh cho nhân quyền khác. Chúng tôi biết chuyện bắt bớ hay đưa ra tòa một cách vô lý sẽ đến với chúng tôi không xa, nhưng chúng tôi chấp nhận và luôn trong tư thế sẵn sáng.