Những bài học “nhớ đời” của 1 người Việt sống ở Mỹ

 
Kimtrong Lam
Những bài học “nhớ đời” của 1 người Việt sống ở Mỹ

Anh Misha Doan – một việt kiều ở Boston chia sẻ về những cú sốc khi mới chuyển từ Việt Nam sang sống ở nước tư bản giàu nhất thế giới

“Việt Nam mà anh, có phải Mỹ đâu? Mà sao anh thay đổi nhiều thế từ khi sang Mỹ , nhát chết hẳn lên?”, cậu em nhún vai bảo.

Ở Việt Nam, tôi có thằng em thường hay vượt đèn đỏ khi đi xe máy. Ngồi sau nó mà run, la nó thì nó trả lời tỉnh queo: “Không có Cảnh sát Giao thông mà anh, em nhòm kỹ rồi!” Nghe tôi nói không phải vì sợ Cảnh sát mà phải chấp hành Luật giao thông thì nó nhún vai: “Việt Nam mà anh, có phải Mỹ đâu? Mà sao anh thay đổi nhiều thế từ khi sang Mỹ , nhát chết hẳn lên?” Nghe nó nói vừa tức vừa giật mình vì bắt gặp lại hình ảnh mình của bao năm trước qua cách lý sự của nó.

Cảnh chen lấn xô đấy thường thấy trong các nơi đông người ở VN
Hồi mới sang Mỹ tôi ở cùng nhà với một đám sinh viên Việt Nam du học. Một hôm cả bọn tổ chức mở tiệc , mời cả bạn bè tới dự nữa, đông vui lắm. Ông chủ nhà cũng dự và kéo theo một ông bạn mà qua lời giới thiệu thì ông đó làm trong ban lãnh đạo một tổ chức cộng đồng người Việt tại Boston.

Khi mọi người khui bia, cụng ly thì ông khách kia giơ tay ngăn một cô bé lại và hỏi “Cháu sinh năm bao nhiêu?” Khi nghe cô bé trả lời là năm 1990 thì ông lắc đầu: “Vậy thì cháu chưa được 21 tuổi, cháu không được uống rượu bia”. Tôi đứng gần đó nên huơ huơ tay: “Đừng lo chú ơi, con bé này dân miền Tây tửu lượng cao lắm, cháu đã từng uống với nó rồi, không sao đâu!”.

Ông khách nghiêm mặt: “Luật pháp không cho phép, mọi người nên nhớ là chúng ta đang ở trên đất Mỹ!”. Tôi phẩy tay nói với cô bé: “Cứ uống đi, đừng lo, có ai biết đâu!”. Ông khách hơi lớn tiếng nói gay gắt: “Vậy thì mọi người cứ tự nhiên còn tôi sẽ không tham gia nữa. Tôi không thể ngồi yên chứng kiến sự phạm luật. Lẽ ra tôi phải báo Cảnh sát mới đúng”. Rồi ông ấy bỏ ra về thật. Buổi nhậu sau đó vẫn tiếp diễn, cả bọn ăn uống, cười dỡn, chả ai còn để ý đến “ông khùng” (theo cách gọi của người trong bữa nhậu đối với ông khách) nữa.

Cứ thấy xe chạy ẩu là người ta nghĩ ngay: “Chắc là mới từ Việt Nam qua!”

Bên Mỹ nếu không có bảng cấm thì xe được phép quẹo phải khi đèn đỏ trong khi lưu thông. Một lần đứng chờ quẹo phải lâu quá vì xếp hàng dài nên tôi tấp vô trạm xăng bên tay phải để băng tắt đâm ra đường cần đi. Đứa em ngồi kế hỏi : “Ủa, anh không đổ xăng à?” Tôi nói : “Không, xăng còn nhiều, anh quẹo vô để tránh cái đèn đỏ thôi!”.

Nó liền cằn nhằn: “Sao anh làm kỳ thế, anh xem có ai làm như anh không? Qua Mỹ rồi anh phải tập sống cho đúng Luật đi cứ nếu không thì khó tồn tại lắm”. Nghe nó cự tôi vừa tức, vừa mắc cỡ. Chắc đoán được tâm trạng của tôi nên nó an ủi: “Hầu như ai mới qua cũng như anh thôi, dần dần rồi mới quen”.

Rồi nó kể cho tôi nghe một câu chuyện xảy ra với chính nó. Đâu khoảng giữa những năm 1990 có làn sóng Việt Kiều về Việt Nam đầu tư nhất là trong lãnh vực công nghệ thông tin. Một lần nó chở “boss” (sếp – PV) của nó là một Việt kiều đi bằng xe máy trong Sài Gòn.

Vừa để tiết kiệm thời gian và cũng vừa muốn chứng minh cho ông chủ thấy sự nhanh nhẹn , năng động của bản thân nên thằng em chạy lạng lách rồi cũng có màn tấp vô cây xăng để tránh đèn đỏ y hệt như tôi vừa làm.

Ngỡ được ông chủ khen, ai ngờ cuối buổi ông dội cho gáo nước lạnh: “Bạn vô kỷ luật lắm. Cây xăng là nơi để bán xăng chứ không phải là đường để lưu thông, sao bạn không mua xăng mà lại chạy tắt qua đó? Nếu muốn làm việc với tôi thì bạn phải học được tính kiên nhẫn, cẩn thận và tuyệt đối tuân thủ kỹ luật …”

Lời nhận xét của ông chủ đã làm nó thay đổi hoàn toàn cách nghĩ, lối sống và nó đã tuân thủ những gì chủ nhắc nhở. Kết quả là nó làm việc khá lâu trong Công ty phần mềm của ông chủ Việt Kiều đó, được cất nhắc lên các chức vụ cao rồi được Công ty đưa qua Mỹ làm việc, được Công ty bảo trợ để xin Thẻ Xanh…

Misha Doan ( Học Luật và báo chí ở Nga và đã sống ở Nga 30 năm. Sau đó, anh chuyển sang Mỹ và đã định cư ở quốc gia này 10 năm cho đến nay)

Image may contain: 14 people, people smiling, crowd and outdoor
Image may contain: 3 people, people smiling, people sitting
Image may contain: car and outdoor

Người thức khuya dễ chết sớm

Người thức khuya dễ chết sớm

Khoa học chỉ ra “cú đêm” hay gặp các vấn đề về tâm lý, tim mạch, tiểu đường và có nguy cơ tử vong sớm cao hơn 10%.  

Thức khuya không chỉ hại sức khỏe mà còn có thể dẫn đến cái chết, CNN giới thiệu kết quả nghiên cứu mới đăng tải trên tờ Chronobiology International. Để đưa ra kết luận này, nhóm tác giả từ Đại học Y Feinberg (Anh) đã theo dõi 500.000 tình nguyện viên Anh trong 6,5 năm và phát hiện nguy cơ ra đi sớm của người “sống về đêm” cao hơn người “sống về sáng” 10%. Bên cạnh đó, các “cú đêm” còn gặp phải hàng loạt vấn đề như tiểu đường, rối loạn thần kinh, rối loạn tâm lý, rối loạn tiêu hóa và rối loạn hô hấp. 

 
Ảnh: LH.

“Sự lệch lạc giữa đồng hồ sinh học và thế giới bên ngoài kéo đến nhiều nguy cơ sức khỏe”, phó giáo sư thần kinh học Kristen Knutson đứng đầu nghiên cứu trên nhận định. Bà Knutson cũng cho rằng lối sinh hoạt “ngược đời” tạo điều kiện phát triển một số loại ung thư như ung thư tuyến tiền liệt và ung thư vú, từ đó giảm tuổi thọ con người. Trước đây, nhiều công trình chỉ ra “cú đêm” hay mắc bệnh tim mạch và bị giảm chất trắng ở những vùng não liên quan đến trầm cảm. 

Để bảo vệ sức khỏe, bà Knutson khuyến cáo những người thường xuyên thức khuya tập thay đổi bản thân bằng cách dần dần đi ngủ sớm. “Tôi muốn nhấn mạnh khía cạnh dần dần”, phó giáo sư nói. “Bạn không thể đột ngột ngủ sớm hơn ba tiếng”.

Cùng với đó, “cú đêm” cần hạn chế tiếp xúc với ánh sáng từ các thiệt bị điện tử lúc tối muộn. “Chúng không chỉ gây khó ngủ mà còn làm rối loạn đồng hồ sinh học”, bà Knutson giải thích. 

Trường hợp khó dậy sớm, người sống về đêm nên tìm một công việc linh động, phù hợp với chế độ sinh hoạt của bản thân. Nhà tuyển dụng cũng nên hiểu rằng không phải mọi nhân viên đều làm việc hiệu quả vào ban ngày, từ đó xem xét điều chỉnh thời gian biểu. Như vậy, sức khỏe cùng hiệu suất của các “cú đêm” sẽ được cải thiện.

Cuối cùng, quan trọng nhất, người thức khuya phải tự nhận thức các nguy cơ sức khỏe để cảnh giác và duy trì lối sống lành mạnh. “Ăn uống khoa học, tập thể dục, ngủ đủ giấc là cực kỳ cần thiết, đặc biệt với những ai sống về đêm”, bà Knutson kết luận. 

Minh Nguyên

Bản Đàn Hạnh Phúc

Bản Đàn Hạnh Phúc

Tràm Cà Mau

Thần thoại Ấn Độ kể rằng : Thượng Đế tạo ra đàn ông trước, thấy đàn ông bơ vơ lang thang tội nghiệp, bèn lấy vẽ yêu kiều của hoa, màu sắc rực rỡ của cầu vồng, tính mềm mại của gió, cái tinh quái của loài hồ ly, cái bất thường của mưa, và sức nóng của núi lửa mà tạo nên đàn bà. Rồi giao cho đàn ông làm vợ, đàn ông mừng lắm, dẩn đi. Không lâu sau đó, người đàn ông đem trả lại cho Thượng Đế, vì chịu hết nỗi đàn bà. Ngài thu nhận. Đàn ông bỏ đi, nhưng rồi không chịu được cô đơn, quay về xin lại. Thương đế đem đàn bà giao lại cho đàn ông. Nhưng rồi sau đó, đàn ông cũng đem trả lại lần nữa. Cứ xin và trả mãi. Đến lần thứ tư, thì Thương Đế bảo: “Lần nầy là lần chót nhé, đừng làm ta phiền nữa. Đem đi, may nhờ rũi chịu, rán mà chịu đựng nhau.” 

Câu chuyện có vẽ kỳ thị đàn bà do đàn ông đặt ra. Nhưng đó cũng là một ngụ ngôn, nói lên cái đáng yêu và đáng chán của đàn bà. Đồng thời, cũng nêu lên cái cần thiết và giá trị của gia đình, là sự kết hợp của hai giống đực, cái để tạo nên hạnh phúc cho cuộc sống. Hạnh phúc gia đình là một nguồn vui sướng và giá trị nhất trên đời, mọi thứ hạnh phúc khác đều trở nên phù phiếm, nếu mất hạnh phúc gia đình. Đứng trên khán đài cao nghe thiên hạ vổ tay rào rào chào đón , rồi về nằm queo một mình, đâu có sung sướng bằng vòng tay ấm áp của người thân yêu, nụ hôn thắm thiết của người bạn đời. Thành công về tài chánh, chính trị, văn chương, triết học, đều không có nghĩa lý gì, nếu thiếu hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc gia đình, không là gì cả, nhưng là tất cả. Ý nghĩa của đời sống là gì, nếu không phải là đi tìm hạnh phúc? Tuy hạnh phúc  có muôn mặt, muôn khía cạnh, và  mỗi người quan niệm hạnh phúc mỗi khác. Cũng có nhiều người đang sống trong hạnh phúc tràn đầy, nhưng họ không biết đó là hạnh phúc. Họ không cảm được là họ đang sung sướng. Chỉ  khi họ gặp bất hạnh, đã mất đi cái họ đang có, thì mới biết, mới nghĩ được rằng, trước đây đã có  hạnh phúc mà không hề hay biết, để cho nó trôi đi. Cũng như bình thường, ít ai ý thức rằng, được khỏe mạnh, không đau yếu, đã là hạnh phúc rồi. Chỉ cần đau răng nhức nhối  thôi, thì cũng đã cảm nhận được điều đó. Chứ khoan nói đến những trọng bệnh, như mù mắt, tê liệt, ung thư… Người bị ung thư hành, thì thấy người đau răng là quá hạnh phúc. Hạnh phúc không phải xa xôi khó tìm, nó  thực sự, tràn đầy chung quanh chúng ta, mà chúng ta hoặc vô tình không để ý đến, hoặc vì tham lam, muốn có thứ hạnh phúc mà mình chưa có, chưa đạt. Cho nên, cứ chạy đuổi theo cái bóng hạnh phúc, mà không bao giờ bắt gặp cả. 

Trong  “Cổ học tinh hoa” kể rằng, có một ông đi trên đường một mình mà cười sằng sặc, sung sướng lắm. Có người hỏi chuyện gì mà cười vui thế?. Ông  trả lời rằng, ông đang có ba điều sung sướng, nên vui mà cười. Một là trong sinh vật, có thú, có người, mà ông được làm người, thì là một điều sung sướng. Hai là trong loài người có người tàn tật bệnh hoạn, có người lành lặn, ông được lành lặn, thì là hai điều sướng . Ba là trong những người lành lặn, có kẽ là đàn ông, có kẽ là đàn bà, được làm đàn ông, thì là điều thứ ba sung sướng. Có ba điều sung sướng thì tại sao mà không vui cười cho được. Hồi còn nhỏ, đọc bài nầy, chưa hiểu, tôi tưởng là ông nầy mắc bệnh thần kinh. Chị em bạn gái, có thể cười sung sướng vì có hai điều hạnh phúc vậy.

Gia đình là nơi mà mọi người  dể dàng tìm được hạnh phúc  nhất .  Không có thứ hạnh phúc nào êm ấm, ngọt ngào, dịu dàng bằng hạnh phúc gia đình. Nhưng cũng có nhiều trường hợp, không nơi nào cay đắng, bất hạnh và địa ngục bằng gia đình. Hạnh phúc gia đình như một vườn hoa, phải chăm bón, vun xới, thì hoa mới nở rộ, mới thơm tho,  huy hoàng màu sắc. Không vun xới, tưới bón, thì cỏ dại mọc tràn lan, hoa lá tiêu điều.  Người ta thường tưởng rằng, hạnh phúc gia đình sẵn có đó, cứ bính thản gặt hái mà không cần chăm sóc, không cần lưu ý đến, để cho nó mọc và nẫy nở phát triển tự nhiên. Nhiều gia đình rất hạnh phúc một cách tự nhiên, vì người vợ, người chồng đã hành xử đúng, đã thấm được cái nếp nhà, khi đang ở với cha mẹ. Cha mẹ họ biết dìn giữ hạnh phúc, và con cái học được và noi theo. Bởi vậy cho nên người xưa chọn dâu, chọn rể, thường chon tông, chọn tổ. Những gia đình nào ít hạnh phúc, thì con cái ít có cơ may học được những điều hay ho tốt lành trong đời sống hôn nhân, ngoại trừ họ tự học, tự tìm hiểu lấy
Có kẽ bảo rằng, có rất nhiều gia đình sống đã gần hết đời người rồi mà vẫn còn thất học trong vấn đề xây dựng hạnh phúc gia đình. Điều đó có lẽ có thật. Cũng có nhiều người biết, nhưng còn mơ hồ, không để hết tâm trí vào  việc vun xới hạnh phúc gia đình . Cũng có nhiều người khác, hiểu rất rõ, biết rất nhiều, nhưng không làm, nghĩa là không “tri hành hợp nhất”. Những điều viết sau đây, thì chắc chắc mười người đều biết cả mười, không có chi mới lạ cả. Nhưng không phải vì thế, mà cố tình quên đi, không thèm nhắc nhở.

Sau chừng năm bảy năm vợ chồng chung sống , mọi chuyện hầu như đã cũ lắm rồi. Chưa nói đến năm ba chục năm, thì xem như cũ gần bằng trái đất. Tình cảm lắng đọng, êm đềm, thâm trầm. Vợ chồng thương yêu, chăm sóc nhau như phản ứng tự nhiên, không còn đắn đo, không suy xét. Người cho cũng như người nhận, đều bình thản như hít thở không khí trời. Không ai nghĩ rằng, nếu trong chừng năm ba phút thiếu không khiù để thở, thì có thể  bất tỉnh và khó sống nỗi. Thế mà có mấy  ai biết mình đang sung sướng, đang có nguồn không khí trong lành để hít thở đâu. Vợ chồng, cho và nhận, đều ít cảm được cái rung động và sung sướng khi được chăm sóc, hy sinh và dâng hiến cho nhau. Cái tình cảm thâm trầm, không nói ra, đôi khi tưởng như lạt lẽo, chán nhàm. Phải đến khi mất nhau, khi đó mới thấm thía, mới tiếc những gì mình không cảm nhận, không làm, khi còn có nhau. Đời sống vợ chồng, có nhiều tháng ngày bên nhau, nhưng đừng bao giờ để cho hạnh phúc, sinh hoạt, và tình yêu trở thành cũ kỹ, lạt lẽo. Chúng ta, chồng cũng như vợ, có bổn phận phải làm cho nó sống động, tươi mát , thắm thiết trở lại. Phải biết đánh bóng cái hạnh phúc mà mỗi gia đình đang có. Phải biết nhắc nhở và cảm nhận được hết tất cả những hạnh phúc nhỏ nhặt nhất từng giây, tùng phút mà mình có được. Một nụ cười của người phối ngẫu, một nụ hôn của con, một đóa hoa nở trong vườn, mình phải biết nắm lấy, cảm nhận, và sung sướng thật sự, và nói lên cái hạnh phúc đơn sơ đó cho mọi người chung quanh cùng vui hưởng.

Có người xem truyền hình đài Nhật bản, họ bảo trằng, biết mình may mắn không là đàn bà Nhật. Thấy mấy ông  Nhật trong phim đang âu yếm vợ, đang tỏ tình, mà có cái giọng nạt nộ, gắt gỏng, như sắp thượng cẳng tay, hạ cẳng chân. Thật tội nghiệp cho các bà Nhật , nói thì lý nhí, đi thì như chạy chạy từng bước ngắn. Không biết mấy bà có tủi thân không. Ai mà không ưa dịu dàng, ngọt ngào?. Thế mới biết tại sao người ta thích nghe nhạc. Mặc dù biết lời nhạc là không thực, là tưởng tượng, là bày đặt. Nhưng vẫn cứ muốn nghe đi nghe lại mãi không nhàm, không chán. Phải chăng vì lời ca trong bản nhạc êm ái, dịu dàng, nói lên cái ước mơ của con người, ước mơ được thương yêu, ước mơ được hạnh phúc, được nghe những lời êm tai, thỏa lòng.  Không ai không thèm khát được đối xủ tử tế, dịu dàng, ngọt ngào. Ngay cả những người tâm tính khó khăn bất thường nhất. Rất nhiều người tuy biết vậy, thế mà khi  mở miệng ra, nói với chồng hoặc vợ, thì lên giọng sai khiến, gắt gỏng, lệnh lạc, như sĩ quan truyền lệnh trên chiến trường. Với thứ ngôn ngữ đó, thì chắc kẽ điên khùng cũng biết là làm cho người nghe khó chịu, và nếu có thi hành, cũng với nỗi bực tức trong lòng, miễn cưởng mà làm cho xong kẻo thêm rắc rối. Nhưng cũng cùng một việc đó, nếu biết nói với lời êm ái ngọt ngào, lịch sự, thì người nghe hăng hái, vui vẻ, sung sướng khi thi hành. 

Có lần, trước chợ, người thấy một bà hùng hổ, trợn mất, chỉ tay vào chồng gay gắt: ” Đứng ì ra đó sao. Anh phải phụ với tôi chứ, nặng quá mà!”. Anh chồng cúi đầu như con mèo cắt tai, vội vả chạy theo chị vợ vào bên trong chợ. Nếu thời mới yêu nhau, mà chị để lộ cái hùng hổ đó ra, thì chắc anh chồng đã ba chân bốn cẳng mà lánh xa ra. Tại sao chị không thỏ thẻ: ” Anh ơi, nặng quá em khiêng không nỗi, anh có thể giúp em một tay được không?” Thế thì dù có phải gảy xương sống, anh chồng cũng vui vẻ cố làm cho xong. Và trong lòng anh còn vui vẻ hân hoan, vì nghe lời ngọt ngào, dể thương của vợ yêu.  Nhiều bà lúc nào cũng sẵn sàng thấm mật ngọt trên môi mà:  “Anh ơi, anh à, anh giúp em việc nầy được không? Anh có cho em đi Shopping không? Anh có thích giúp em việc nầy không, anh có vui lòng phụ giúp em … Nếu anh giúp em việc nầy thì em cám ơn anh lắm…” Ngay cả những khi ông chồng bận rộn nhất, cau có nhất, bực mình nhất, mà nghe lời thỏ thẻ, nhẹ nhàng đó, thì anh cũng mau mắn, vui vẻ làm những việc vợ yêu cầu. Đổ nước đường ra, không mất gì cả, thì đàn ông, cũng như đàn bà, ai cũng vui vẻ, hăng hái. Nhiều ông chồng nghe ngọt ngào, thì cười mĩm và nháy mắt, tỏ ra anh biết tỏng là đang được uống nước đường của vợ, nhưng anh vẫn vui vẻ, hăng hái làm. Ngọt ngào với chồng, với vợ, thì hiệu quả hơn trăm lần xẳng giọng. Trong tình vợ chồng, những câu nói “Em yêu anh. Anh yêu em” nghe rất êm tai, rất thỏa lòng, hả dạ, nghe không bao giờ chán, không bao giờ nhàm. Càng nghe, thì tình yêu càng củng cố trong lòng người nói, và càng thắm thiết trong tâm người nghe. Tình yêu nhờ đó mà tăng trưởng, mà bền vững, mà thêm lòng tin. Lời tha thiết êm ái đó nhập tâm mỗi người. Tin chắc tình yêu mình đang cho và đang nhận vô cùng nồng nàn , ấm cúng. Thử hỏi tại sao tụng kinh, hay đọc kinh, thường phải lặp đi lặp lại một câu kinh, có khi cả chục lần, có khi cả trăm lần. Cũng như những  điệp khúc  trong các bài ca. Lặp lại, nhưng không bao giờ nhàm, không bao giờ chán. Câu nói xưa cũ, cổ điển , mà thần hiệu đó, nhiều gia đình đã quên đi, không nhắc nhở đến nữa, thật là một thiếu sót, uổng của đời.

Châm ngôn của nhiều bà là đừng bao giờ xẳng giọng, đừng bao giờ nói lời bất nhả, mật thì ngọt và kiến hiệu cay đắng thì làm đau lòng và không ai ưa.

Cứ nhớ lại cái thời vợ chồng mới quen biết nhau, sao mà thơ mộng, sung sướng và đẹp quá chừng. Tưởng không lấy được nhau thì đất trời nầy sụp đổ, cuộc đời không còn nghĩa lý gì nửa. Thời đó, chỉ mới cầm tay nhau thôi, mà trong lòng dạt dào sung sướng, xúc cảm, đến run lên. Và cảm  thấy trời đất nở hoa rực rở, và  ngàn tiếng  du dương vang vọng trong lòng. Hai người cư xử đẹp, tử tế, dịu dàng như trong chuyện thần tiên. Có thế mới bỏ cả cha mẹ, anh em, bạn bè mà theo nhau. Khi đó, họ còn có thể sẳn sàng chết cho nhau mà không chút ân hận. Những vòng tay thời đó, thắm thiết, tràn đầy tình yêu, những câu nói ăm ắp ngôn từ đẹp đẻ, những nhường nhịn, hy sinh không chút đắn đo, không chút thắc mắc. Sau đó, người ta quên đi những nhường nhịn, tử tế lúc ban đầu, để lộ ra cái tranh đua, ganh tị, cáu kỉnh, ích kỷ của mỗi cá nhân, một cách quá sổ sàng, không cần che dấu,  không kiêng dè. Những va chạm thường ngày làm sao mà khỏi tổn thương đến cái hạnh phúc gia đình, trong lúc mục tiêu chính của gia đình là tạo dựng hạnh phúc cho chính mình, cho người mình thương, cho con cái, cho tất cả. Đa số, chúng ta có được cái hạnh phúc ban đầu vô cùng phong phú, thế mà rất nhiều gia đình, không biết giữ dìn cho nó lâu bền, tốt đẹp. Mà cứ xói mòn, làm cái vun đầy ban đầu hao hớt, vơi đi, và có khi khô cạn. Thay vào cái hạnh phúc bằng sự nhàm chán, bất hạnh, chịu  đựng. Có nhiều gia đình biến thành địa ngục, mà mỗi người thở cái không khí nồng cháy nặng nề của khó khăn, tranh chấp, thù ghét . Không ai mà không mơ ước cuộc sống gia đình được đẹp đẻ, thơ mộng, đáng yêu mãi như thuỡ ban đầu. Người ta mong muốn, ước mơ, nhưng người ta không biết cố gắng để giữ dìn và hành động, để làm sao cho gia đình mãi mãi còn là những nồng ấm, thơ mộng của thuở xa xưa đó. Có người luôn luôn ý thức được rằng, hạnh phúc nằm trong tầm tay họ, biết vun xới, tưới bón ù, thì nó tươi tốt, hoa lá sum sê, nếu bỏ lơ là, không chăm sóc, thì cỏ dại mọc um tùm, cành lá khô héo. Nếu cố gắng đối xử với kẽ phối ngẫu tế nhị như thuở ban đầu, và nhắc nhở nhau gìn giữ trân trọng mối giao hảo song đôi. Tương kính nhau, tránh những lời nói làm buồn lòng, làm đau lòng nhau. Mỗi ngày, vuốt ve nhau với niềm xúc cảm tràn đầy của thuỡ ban đầu. Vòng tay ôm thắm thiết, truyền cho nhau  tình thương nồng nàn thấm qua làn áo, nắm tay nhau  với xúc cảm chân thành, hôn nhau say đắm như nụ hôn đầu. Không phải hôn nhau chiếu lệ, không phải “ôm nhau như ôm khúc củi mục” lỏng lẽo. Khen tăng nhau, cám ơn nhau những săn sóc, những lưu ý. Dù hôm nay bà vợ có bằng đầu, bằng đuôi, như một hình vuông, và má phính núc ních,  thì chồng vẫn khen vợ đẹp, đẹp dưới nhãn quan của chàng. Thế là làm gia đình vui, tin tưởng và yêu đời hơn, vợ chồng yêu nhau hơn, và yêu gia đình hạnh phúc đậm đà hơn. Nhiều bà cũng đủ khôn ngoan để biết mình chỉ là thứ nái xề, chẳng có đẹp đẻ gì với ai, nhưng đẹp riêng đối với chồng là quá đủ. Vợ chồng cũng phải biết cám ơn những chăm sóc âu yếm của nhau. Cũng nên biết nói với nhau những câu mà người ta tưởng là thừa thải, đương nhiên, không cần nói ra, đại khái như: “Cám ơn tình thương của anh/em dành cho, không ai trên đời nầy thương anh/em bằng thế nầy cả.” Người phối ngẫu, khi nào cũng cảm động nghe những lời biết ơn của đó. Nhờ vậy, tình yêu càng nồng nàn thắm thiết. Dù đã nhiều năm chung sống, làm sao cho vợ chồng còn say đắm nhìn nhau, và cảm thấy hạnh phúc êm đềm trong ánh mắt, lòng biết ơn nhau. Mỗi người biết hy sinh một ít cá tính, để hòa đồng nhau trong cuộc sống chung.

Gia đình nào cũng có một vài hủ mắm thối, nên chôn thật sâu, thật kỹ, đừng để bay mùi ra làm thương tổn đến hạnh phúc chung. Người xưa có dạy,không ai hoàn toàn. ( nhân bất thập toàn) Ai cũng có tính tốt, tính xấu. Và cuộc đời , mỗi cá nhân phải đấu tranh không ngưng nghỉ giữa cái thiện và cái ác. Khi yếu đuối, thì cái ác làm chủ, xui khiến con người làm những điều tệ hại. Có những cái người ta biết là không tốt, nhưng vẫn cứ làm, như hút thuốc, uống rượu, đánh bài. Đôi khi những cái xấu nho nhỏ, làm cho con người đáng yêu hơn, cuộc sống bớt thánh thiện, nhưng lại có nhiều vui. Quá thánh thiện cũng trở thành công thức, khó khăn.  Bởi vậy, chúng ta phải biết tha thứ cho người phối ngãu, những sai lầm đã phạm phải trong quá khứ, dù cố ý hay vô tình. Dù sao thì cũng là việc đã qua, không thể quay lại được nữa. Nên quên đi, đừng bao giờ moi móc ra làm khổ nhau, làm tội làm tình nhau. Chẳng ích lợi gì, mà chính là làm cho mình đau đớn, dằn vặt hơn ai hết. Sai lầm nào cũng có thể tha thứ được cả, nếu biết chấm dứt và hối lỗi. Ngay cả những kẽ giết người, đôi khi còn được pháp luật khoan thứ nữa là. Quá nghiêm khắc cuộc sống mất vui. Vã lại, mỗi  chúng ta hãy tự xét mình, xem mình có hoàn toàn không? Chắc chắn là không. Tại sao mình tự tha thứ cho lỗi lầm của mình được, mà không tha thứ cho lỗi lầm của người khác, nhất là người bạn đường của mình?. Tại sao lỗi lầm của mình, thì quên mau lắm, không muốn ai nhắc nhở đến, mà cứ muốn bươi móc lỗi lầm người khác ra?. Cảm thông và tha thứ, rất cần thiết để giữ hòa khí gia đình, và giữ cho ngọn lửa ấm hạnh phúc còn cháy mãi, sáng mãi trong trái tim của mỗi người.

Tình thương thường như như giao thoa cộng hưởng. Tình thương cho đi, thì có tình thương trở về.Tình thương trở về làm nẫy sinh tình thương khác cho đi. Cứ thế mà chập chùng, mà vun dầy thêm lên. Khi ta thương yêu ai với tấm chân tình, không vụ lợi , không ích kỷ, thì sớm hay muộn , chắc chắn tình thương đó sẽ được đáp đền. Trong đời sống lứa đôi, càng cho nhiều thì càng nhận được nhiều. Tình thương thường cho đi mà không mong đền đáp, nhưng thường vẫn được đáp đền nhiều hơn mong tưởng. Ghét bỏ, hận thù, sẽ được đáp lại bằng hận thù và ghét bỏ. Không lợi cho ai cả, mà nó làm cho tâm tư u uất, làm cho cái bao tử ung thối, làm cho thân thể bệnh hoạn, yếu đuối. Không cần phải có cái tâm bồ tát đem ra thương người, chỉ cần có cái tâm thành của vợ yêu chồng, của chồng yêu vợ, hai bên trao tình thương cho nhau không ngưng nghỉ, không đắn đo, rồi từ đó tình thương thành giao thoa cộng hưởng. Gia đình hạnh phúc. Không thể nào một bên, ri rỉ tình thương, mà hy vọng nhận được tình thương tràn đầy không điều kiện.

Mỗi người hãy nhớ rằng ngày tháng qua mau, cuộc sống của con người có giới hạn. Bảy tám chín chục năm, rồi sẽ chết. Mỗi người đều có sẵn bản án tử hình treo trên đầu mà chưa thi hành. Nhưng thái độ của đa số thế nhân, như họ sẽ được cho sống đời đời, không bao giờ chết. Phải ý thức được, mỗi ngày, chúng ta bước gần đến huyệt mộ thêm một bước, không cưỡng lại được. Bởi vậy, mỗi ngày sống của chúng ta rất quý báu. Mất đi thì là hết, không thể nào tái tạo, dù có tiền rừng bạc bể, quyền uy ngất trời. Làm sao cho mỗi ngày sống của chúng ta được đẹp đẻ, vui tươi, ý nghĩa và hạnh phúc. Chúng ta phải tự tạo lấy, vun xới lấy. Chờ đợi, thì nó cũng có thể đến, có thể không. Nhưng tệ hại nhất là những kẽ tự  đập phá hủy hoại thời gian quý báu của mình bằng gây gổ, bằng hận thù, bằng trách móc, than vãn. Phí phạm thời gian thật uổng . Người xưa, ý thức thời gian quý báu, cho nên còn có kẽ thắp đuốc đi chơi, sợ đời chóng hết. Một gia đình hạnh phúc, có đời sống lâu dài bằng hai ba lần hay cả chục lần đời sống của một gia đình bất hạnh. Thà sống hai mươi năm tràn đầy hạnh phúc, còn hơn sống một trăm năm thiếu hạnh phúc. Những gia đình thiếu hòa thuận, thì nên ngưng cuộc chiến lại, ký hiệp định đình chiến ngay để cứu vản thời gian, cứu vản hạnh phúc  của đời sống cho chính mỗi cá nhân trong cuộc chiến, cho con cái và những người liên hệ. Đừng để thời gian mất, hạnh phúc phí phạm, rất uổng.

Mỗi ngày thi hành một điều hiến dâng. Vợ chồng, cứ giao ước, mỗi sáng thức dậy, cố đem lại cho nhau một niềm vui nho nhỏ. Có thể là một câu nói làm đẹp lòng nhau, có thể là một lời khôi hài, có thể là một chuyện vui trong giấc mơ, cũng có thể là một nụ hôn thật ấm từ tấm tình thương nồng nàn, không phải là nụ hôn chiếu lệ, trả nợ quỷ thần. Mỗi ngày, gắng làm vừa lòng nhau, cứ bên tung, bên hứng, hòa hợp tâm tư, hòa hợp đời sống. Cũng có những lúc bất đồng, thì phải biết nhân nhượng, mỗi người bước lui một vài bước cho đến khi đồng ý nhau, gặp nhau ở một điểm nào đó, mà cả hai đều vui vẻ chấp nhận. Khi đã chấp nhận, thì dù kết quả nào, cũng lấy đó làm vui.

Chuyện thần thoại Ấn Độ nên sửa lại rằng: Thượng đế tạo nên nhiều người đàn ông xong, thấy họ sống không có ý nghĩa, cầu bơ cầu bất, lại ăn ở dơ dáy, bẩn thỉu, hỗn độn. Ngài bèn lấy tinh hoa của trời đất, và tinh quái của yêu ma tạo nên nhiều người đàn bà, cho kết hợp với mỗi đàn ông thành vợ chồng. Giao cho mỗi cặp  hai cây đàn thần, bảo rằng, nếu biết hòa điệu hòa âm, hòa nhịp,  thì có được nguồn hạnh phúc vô biên, và đời sống phong phú an lạc. Nhưng nếu mỗi người chỉ muốn độc tấu riêng rẽ, không muốn hòa hợp thanh âm, thì sẽ tìm thấy địa ngục. Sau một thời gian, những cặp vợ chồng biết  phát  huy cái tinh anh của trời đất  trong người nữ, biết hòa hợp âm thanh, thì đều mọc cánh và bay lên trời thành tiên. Những cặp chỉ biết triển khai cái tinh quái, nên độc tấu, không chịu hòa nhịp, hòa âm, đều mọc lông lá đầy mình, trở thành dã thú, chạy vào rừng trốn chui trốn nhũi. Còn những cặp khác, hòa âm, hòa điệu chưa được nhịp nhàng, ăn ý, thì vẫn còn giữ lại hình thể của con người, và phải luyện tập thêm cho đến ngày mọc cánh thành tiên.

Muốn gia đình trở thành một góc của thiên đường cũng không khó. Mà muốn gia đình trở thành một xó của địa ngục cũng rất dễ. Chỉ có quyết tâm và hiểu biết của hai vợ chồng. Làm sao cho ăn nhịp, hòa điệu, biết khai thác cái vốn dồi dào trời đất sẵn ban cho. Đời sống gia đình có hạnh phúc là đạt được toàn vẹn ý nghĩa của kiếp sống, không cần phải đi tìm ở nơi nào xa xôi./

Anh chị Thụ Mai gởi

40 năm nhìn lại những khuôn mặt phản chiến miền Nam

https://vietbao.com/p112a27974 1/40-nam-nhin-lai-nhung-khuon- mat-phan-chien-mien-nam

40 năm nhìn lại những khuôn mặt phản chiến miền Nam

Bên sau núi là núi và vẫn còn trùng điệp núi non, hòn đá mang từ mặt trăng về và xa hơn nữa với bao thiên thạch từ những vụ nổ không ngừng trong vũ trụ, không thiếu những hạt bụi va lại chính nơi xuất phát.

Một cách ví von, người ta cho rằng cuộc di cư sau Hiệp định Geneve, 1954, đó là những cuộc bỏ phiếu bằng chân dành cho chế độ Cộng sản, mà nếu được tự do, đến cây trụ đèn cũng ra đi. Những người trí thức miền Nam hơn ai hết hiểu biết biến cố này nhưng một thiểu số, không nhiều họ đã hành động khác người, họ vẫn luôn trong ý nghĩ mình yêu nước, cho đến khi lương tâm bừng thức tỉnh cho dù quá muộn.

Một trong những trí thức trẻ theo Cộng sản vào thời điểm ấy, lãnh tụ sinh viên phản chiến Đoàn Văn Toại đã phát biểu như sau:

Khi cộng sản chiếm miền Bắc Việt Nam năm 1954, hàng triệu người đã lũ lượt di cư vào Nam. Tôi đã tận tai nghe nhiều câu chuyện về sự đau khổ tột cùng của họ. Nhưng cũng như nhiều người miền Nam lúc ấy, tôi đã không tin vào những câu chuyện đó. Cả về sau này, tôi cũng đã không tin về những câu chuyện được kể trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago) của văn hào Nga Solzhenitsyn. Tôi không tin vì cho rằng đó là những luận điệu tuyên truyền chống Cộng.” (ĐVT, Quần đảo ngục tù Việt Nam – The Vietnamese Gulag).

Con người luôn mơ ước đi tìm sự thật và tin rằng mình sẽ chộ sự thật. Huyền thoại rất gần với ước mơ và một bước rất gần đến hoang tưởng, huyễn hoặc rồi ngụy tín, vong thân.

Toại nguyên là Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Sai Gòn từng biểu tình đòi Quốc Hội hủy bỏ cuộc bầu cử Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, đốt xe Mỹ, viết điện tín gởi TT. Richard Nixon. Nhưng rồi cũng bị tù ngay trong những ngày đầu Cộng sản chiếm miền Nam. Thoát được ra nước ngoài, Đoàn Văn Toại viết sách so sánh hai chế độ lao tù trong quyển “Quần đảo ngục tù của người Việt Nam” (The Vietnamese Gulag).

Toại viết trong hồi ký, nhớ những ngày tù thời Việt Nam tự do, thức ăn không hết, còn làm khó chính phủ “cơm tù không đủ tiêu chuẩn” nên trả lại! Quần áo thay đổi liền liền; phòng giam Sài Gòn rộng rãi bằng 40 lần nhà tù mang tên HCM. Vào nhà tù cộng sản nghẹt thở, “nhà tù Thiệu rộng quá!”

Cuối cùng Đoàn Văn Toại đã thành thật sám hối, nhận tội trước lịch sử và nhân dân miền Nam: “Tôi nhận lãnh trách nhiệm về những thảm kịch xảy ra cho đồng bào của tôi. Và nay tôi chỉ còn cách đóng vai nhân chứng cho sự thật này hầu các người đã từng ủng hộ Việt Cộng trước kia có thể cùng chia sẻ trách nhiệm với tôi…”

Người thứ hai là Lê Hiếu Đằng, quê Quảng Nam, theo học tại đại học Luật Khoa Sài Gòn, nguyên là phó Tổng Thư Ký Ủy ban Trung Ương Liên Minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam (1968-1977), nguyên Tổng thư ký Uỷ Ban nhân dân Cách mạng khu Sài Gòn Gia Định (1969-1975), nguyên phó Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam TP.HCM (từ 1989-2009), là Đại biểu HĐND Thành phố khóa 4, khóa 5.

Từ 1975 đến 1983 Đằng là giảng viên Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa học ở Trường Đảng Nguyễn Văn Cừ thuộc Khu ủy Sài Gòn-Gia Định. Chức vụ sau cùng là Phó chủ nhiệm Hội đồng tư vấn về Dân chủ và Pháp luật thuộc Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Đúng bảy tuần lễ trước khi nhắm mắt, người đảng viên hơn 40 tuổi đảng này đã ra tuyên bố rời bỏ Đảng Cộng sản, mang theo nỗi ân hận tiếp tay cho “các tập đoàn lợi ích phản bội nông dân, phản bội dân tộc Việt Nam” (Lời của LHĐ nói với đài RFI). Và đây là nguyên văn bản tuyên bố viết tay của Lê Hiếu Đằng:

Tôi tên LÊ HIẾU ĐẰNG là ĐẢNG VIÊN ĐẢNG CỘNG SẢN VN, hơn 40 tuổi đảng. Nay tôi tuyên bố công khai ra khỏi đảng CSVN vì:

ĐCSVN bây giờ không còn như trước (đấu tranh giải phóng dân tộc) mà đang suy thoái biến chất, thực chất chỉ là đảng của những tập đoàn lợi ích, trở thành lực cản cho sự phát triển đất nước, dân tộc, đi ngược lại lợi ích dân tộc, nhân dân.

Tôi xin xác định đây là quyết định của tôi.

Ngày 04.12.2013
Lê Hiếu Đằng

(chữ ký)

Một tên tuổi khác, Huỳnh Tấn Mẫm, tên khai sinh là Trần Văn Thật, sinh tại Tân Sơn Hòa, tỉnh Gia Định học sinh Trung học Petrus Ký. Năm 1963, Mẫm đậu Tú tài toàn phần và trúng tuyển kỳ thi vào Đại học Y khoa Sài Gòn, vì học khá cho nên được Bộ Y tế chính phủ VNCH cấp học bổng. Mẫm tốt nghiệp BS Y khoa sau 1975.

Năm 1958, lên 15 tuổi, đang học lớp Đệ ngũ (lớp 8) trường Pétrus Ký, Mẫm được kết nạp vào tổ chức bí mật do Nguyễn Văn Chí (Sáu Chí) cầm đầu. Tại đây, Mẫm từng được giao công tác rải truyền đơn chống chính quyền Sài Gòn và năm 1960 được kết nạp vào Hội Liên hiệp Thanh niên Giải phóng Sài Gòn-Gia Định.

Năm 1963 Mẫm được kết nạp vào tổ chức của Cộng Sản vào thời kỳ Phong trào Phật Giáo.

Năm 1965, được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng.

Là Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn – Gia Định nhiệm kỳ 1969-1970.

Từng là Đại biểu Quốc hội CS khóa 6, từng là Tổng biên tập đầu tiên của báo Thanh Niên.

Hiện là chủ tịch của cái gọi là “Hội Bảo Trợ Bệnh Nhân Nghèo Thiện Tâm”, thuộc Hội Bảo trợ bệnh nhân nghèo Thành phố, Ủy viên Ủy Ban Mặt Trận Tổ quốc Việt Nam Thành phố HCM.

Tại Sài Gòn, ngày 4 tháng 7 năm 2014 Huỳnh Tấn Mẫm phổ biến một thư ngỏ gởi tuổi trẻ Việt Nam, kêu gọi những thế hệ Thanh niên – Sinh viên – Học sinh hôm nay thức tỉnh toàn diện trước một giai đoạn lịch sử. Trong thư có đoạn:

Sức mạnh có ưu thế nhất đang lớn lên từ trong tim và trong trí tuệ của các bạn, là niềm hy vọng của dân tộc – những thế hệ Thanh niên – Sinh viên – Học sinh hôm nay …

Mẫm kêu gọi tuổi trẻ Việt Nam phải cương quyết làm người công dân tự do, dù xã hội chưa có luật pháp thừa nhận tự do đúng nghĩa. Phải cương quyết làm con người có quyền con người, dù quyền con người chưa được thừa nhận đầy đủ. Phải có quyền và có nghĩa vụ – quyền sống tự do và nghĩa vụ bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ…”

Một người khác, Đào Hiếu sinh năm 1946 tại Bình Định, gia nhập các phong trào học sinh hoạt động cho CS tại Quy Nhơn. Năm 1968 gia nhập đảng CS. Năm 1970 bị bắt quân dịch, sau đó đào ngũ vào Sài Gòn hoạt động với tổng hội sinh viên phản chiến cho tới 30-4-1975.

Hiếu tốt nghiệp Cử nhân văn chương trước 75, sau khi đất nước thống nhất, cộng tác với báo Tuổi Trẻ và NXB Trẻ. Năm 2009, sau nhiều lần bị công an gọi làm việc, Đào Hiếu bị buộc phải xóa hết bài trên trang web http://daohieu.com để đổi lấy an toàn bản thân, khỏi bị bắt giam.

Sau 25 năm từ ngày 30-4 Đào Hiếu thức tỉnh và lên tiếng, vào năm 2000 Ông đã xuất bản tác phẩm Nổi Loạn gây được tiếng vang trong dư luận. như một tiếng nói lương tâm giữa bao suy thoái trong thời hòa bình.

Đào Hiếu đã phổ biến trên mạng bài viết HUYỀN THOẠI ĐU DÂY – Cho rằng hành động của Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh và các Ủy viên bộ Chính trị năm 1990 tại hội nghị Thành Đô là một việc làm mà bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch gọi là: “Bắt đầu một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm”. Bài viết khẳng định: Rõ ràng là ngay từ những ngày đầu thành lập chế độ, thì Việt Nam đã hành xử như một tỉnh lẻ của Trung Quốc. Từ trước 1945 đến nay, nhà cầm quyền CSVN đã một lòng theo Trung Quốc, đã chọn Trung Quốc làm ông chủ, đã nguyện nâng khăn sửa túi cho Trung Quốc, đã khép nép làm “con nuôi” của Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình và ngày nay là Tập Cận Bình.

Chỉ riêng về thời kỳ lịch sử miền Nam Việt Nam 1954-1975, những trí thức khoa bảng, tu sĩ và tuổi trẻ trong giới sinh viên nổi lên thành những tên tuổi trong các phong trào phản chiến, chống đối chế độ, tiếp tay hoặc đi theo hoạt động cho Cộng sản. Chúng ta còn nhớ những tên tuổi như Lý Chánh Trung, Lý Quý Chung, Hồ Ngọc Nhuận, Kiều Mộng Thu, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba, Trần Ngọc Liễng, (bà) Ngô Bá Thành, Ni sư Huỳnh Liên…. Những tu sĩ như Trương Bá Cần, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Phan Khắc Từ, và một số những tu sĩ Ấn Quang… cùng với nhóm SV Dương Văn Đầy, Trịnh Đình Ban, Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Hiếu Đằng, Trần Thị Lan, Nguyễn Hữu Thái…. sau 30-4 trở thành những kẻ lạ giữa xã hội CS độc quyền chính trị.

Bi thảm thay, ở Huế, những đồ tể như Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Thị Đoan Trinh… cũng chỉ là những miếng vỏ chanh để CS vắt tiếp trước khi vứt vào thùng rác.

Những tên tuổi trí thức khoa bảng như Trịnh Đình Thảo, Phùng Văn Cung, Hồ Thu, Nguyễn Hữu Thọ, Lâm Văn Tết, Dương Quỳnh Hoa, Thanh Nghị… đi theo Việt cộng cuối cùng gia đình tan nát. Khi tỉnh ngộ, bao nhiêu biệt thự, phố xá, đồn điền, gia sản, ruộng đất, cơ xưởng, cửa hàng, nhà thuốc tây… trở thành tài sản của nhà nước. Bản thân bị thất sủng, và chết trong âm thầm oán hận cộng sản.

Thật là nhục trước suy thoái đến tột cùng về kinh tế, đạo đức và ngày càng lệ thuộc Hán hóa, nhưng không có người nào mở lởi phản kháng, nói lời sám hối như Đoàn Văn Toại, hay mạnh dạn như Ông Bà Bác sĩ Đỗ Trung Hiếu, Ông Lê Hiếu Đằng, BS. Huỳnh Tấn Mẫm, Nhà văn Đào Hiếu…Lm. Chân Tín.

Nguyễn Quang Hồng Nhân

Ông lão bán kem: “Tướng Trần Bá Di”

 Ông lão bán kem: “Tướng Trần Bá Di”

                               Không phải quá khứ là qua đi.

  Vai trò lảnh đạo nhân dân của chính quyền VNCH (Nam Việt Nam)

  Đang ở trong lòng người dân Việt.

          Đồng bào cả nước đang mơ ước được sống trong một chế độ Tự Do.

   Nhân phẩm được quí trọng.Nhân bản đúng nghĩa.Tương lai sẽ tốt đẹp hơn

   vì được bồi đắp bởi tinh hoa của cả thế giới.Bài viết về Tướng

  Trần Bá Di là tiêu biểu. Kính mời quí bạn đọc và thăp nén hương cho Người.

                                       Trân trọng kính chuyển.

                                                     Bạch Vân.                                      

Đường Đời Dễ Có Mấy Ai?

Lê Văn Hưởng 

Ông lão bán kem 

Thời gian: năm 1994 

Địa điểm: Khu Giải Trí Splendid China, Orlando.

Trời nắng chang chang, với cái nóng nung người của tiểu bang Florida vào mùa hè lối 90 độ F (32 độ C). Trước cửa tiệm bán hàng lưu niệm (Gift Shop) đông người, một ông lão người Việt Nam đứng bán kem cho du khách. Xe bán kem có hình dáng như cái thùng vuông dài, bên ngoài có sơn chữ và hình vẽ mấy bịch kem đông lạnh. Khách khá đông, ông tươi cười với mọi người. Cách đó không xa, một du khách Việt Nam khác, đứng tuổi, nhìn ông bán kem một cách chăm chú, nghĩ mình đang gặp lại một người quen biết từ khi còn ở quê nhà mấy mươi năm về trước. Khách lạ bước đến gần xe kem trong khi ông bán hàng đang bận rộn với khách. Nhìn bảng tên gắn trên áo ông lão bán kem, khách lạ mừng thầm vì đúng tên người mình quen biết. – Chà! “Tha hương ngộ cố tri”, còn gì quý cho bằng? – ông suy nghĩ. Đợi đến khi xe kem vắng khách, người khách lạ lên tiếng: – Xin lỗi ông, có phải khi xưa ông làm tỉnh trưởng tỉnh Cần Thơ không? Ông bán kem giật mình, phản ứng ngay: – Không phải đâu, chắc ông lầm người rồi! Người khách lạ “cụt hứng” rồi tự trách: – Mình hấp tấp quá, không lẽ khi xưa ông làm tỉnh trưởng, giờ nầy lại đứng ở đây? Suy tới suy lui, khách lạ chưa chịu thua, nghĩ thầm: – Rõ ràng tên ông trên thẻ trước ngực, sao lầm được? Dáng vóc cũng cao ráo như xưa, nét mặt, cũng vậy, tuy phong trần hơn trước? Khách lạ trở lại ông lão bán kem: – Thưa ông, tôi không lầm đâu, tôi nhớ ơn ông lắm, nhờ ông mà anh em nhà thầu chúng tôi làm ăn rất thoải mái dưới thời ông về làm đầu tỉnh Cần Thơ. Thấy người khách lạ quả quyết, ông bán kem mỉm cười: – Đúng là tôi, nhưng đó là chuyện xa xưa rồi, nhắc làm gì? Từ đó, người khách lạ kết thân với ông bán kem, vì thương mến một công bộc liêm chính mà giờ này sa cơ thất thế.

Trong mấy lần gặp gỡ sau đó tại tiệm ăn ngoài Splendid China, khách lạ tâm tình với ông bán kem: – Em thường đấu thầu xây cất cho tỉnh, đời mấy ông tỉnh trước, tụi em gặp khó khăn nhiều, nhưng từ khi ông về làm tỉnh trưởng mấy năm 63 tới 65, tụi em dễ thở hơn nhiều, người nào làm đúng luật lệ thi được trúng thầu, tụi em làm ăn thoải mái, bởi vậy, tụi em nhớ ơn ông hoài… Gặp người tri kỷ, ông lão bán kem thổ lộ: – Tôi có giúp gì ông đâu, đó chẳng qua là nhiệm vụ của tôi thôi. Tổng Thống tín nhiệm tôi, giao chức vụ tỉnh trưởng là để tôi lo an ninh cho người dân, công tác chánh của tôi là về mặt quân sự, dẹp CS quấy rối đồng bào. Dưới quyền tôi, có ông phó tỉnh trưởng dân sự, mọi việc về hành chánh, tôi giao cho ông phó làm hết, nhưng tôi có đặt tiêu chuẩn làm việc, là phải hết sức liêm chánh, không được ăn lối lộ hay có hành vi tham nhũng, v. v… thì ta mới được lòng dân.

Trong thời gian ông bán kem tại khu giải trí SC, cũng có một số du khách người Việt Nam nhận ra ông, tỏ lòng thương mến, “tội nghiệp” ông. Ông khẳng khái trả lời: – Cám ơn quý vị đã còn nhớ tới tôi, có cảm tình với tôi nhưng xin quý vị đừng tỏ ra tội nghiệp cho tôi, tôi không thích như thế. Có gì đáng phải tội nghiệp đâu? công sản nhốt tôi, giam cầm mấy mươi năm tù, ra được xứ tự do, làm nghề gì đi nữa, miễn chính đáng, vẫn còn sướng hơn ở với CS mà! Nhắc đến việc CS giam cầm, ông nhấn mạnh: – Không nên dùng chữ “tù cải tạo” đối với chúng tôi, nhà tù CS là nơi chúng hành hạ, trả thù, hạ nhục người Quốc Gia, tù là tù chớ không có “cải tạo” gì hết. Ông bán kem trong khu giải trí Splendid China nói trên là cựu Thiếu Tướng Trần Bá Di. Vinh danh một bậc đàn anh gương mẫu.

Bài viết ngắn hôm nay chỉ nêu vài sự kiện nổi bật, chớ không thể nói lên hết sự nghiệp to lớn của ông trên chiến trường. Lúc còn là tỉnh trưởng Cần Thơ, cấp bực ông là Thiếu Tá, sau lên Trung Tá. Ông nổi tiếng trong các trận đánh như sau: – Giải tỏa tỉnh Vĩnh Long trong Tết Mậu Thân 1968. Sự việc diễn tiến như dưới đây: Gần Tết Mậu Thân, (tháng 1/1968), hai ông đầu tỉnh là Trung Tá Nguyễn Ngọc Diệp và Phụ Tá đi hành quân. Trên đường về, hai ông bị VC phục kích và bị thương, phải chở vào bệnh viện điều trị. Tỉnh Vĩnh Long như rắn không đầu. Thiếu Tướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh Sư Đoàn 9, chỉ định Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa tạm thời phòng thủ Vĩnh Long. Khi tiếng súng Tết Mậu Thân bùng nổ, Thiếu Tá Nghĩa đã về Sài Gòn thăm gia đình và bị kẹt lại đó. Tướng Thi chỉ thị Đại Tá Trần Bá Di, đang là Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 9, vào Vĩnh Long để nghiên cứu tình hình và đối phó với Việt Cộng. Vào chiều tối, một mình với máy truyền tin trên lưng, ông được trực thăng chở đi, dự định đáp vào khuôn viên của tỉnh, nhưng trực thăng bị VC bắn rát quá, phải thả ông tại cầu tàu, rồi từ đó, ông chạy bộ vài chục bước vào được dinh tỉnh trưởng. Tại đây, ông bắt đầu liên lạc với các đơn vị chiến đấu để lo việc phòng thủ, chỉ dẫn trực thăng, pháo binh… bắn vào các điểm tập trung của VC. Nhưng VC vẫn cầm cự, quyết tâm đánh úp tỉnh lỵ, ông phải xin tướng Thi cho tăng viện, nhờ vậy, mấy ngày sau, một Trung Đoàn của ta mở đường tiến vào căn cứ của tỉnh. Sau cùng, ông chỉ huy phá tan lực lượng VC, chúng bị giết hay đầu hàng gần hết. – Trận đánh vào đất Miên, Danh ông càng nổi lên năm 1970, khi ông làm Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh đánh vào mật khu Ba Thu của VC trên đất Miên (tỉnh Tà Keo), phá hủy cơ sở của chúng, tịch thu vô số chiến lợi phẩm…

Ngoài ra, quân ta còn tìm thấy nhiều nhà in và máy in tiền của Mặt Trận Giải Phóng, tiền này chúng tính đem ra thay thế tiền VNCH nếu chúng thắng Miền Nam năm 1968. Ông được thăng cấp đặc biệt tại mặt trận này. Anh hùng sa cơ Đến năm 1975, khi VC vào chiếm miền Nam, chúng bắt ông và đày ải vào các trại tù trong hơn 17 năm trời. Hai năm sau khi VC thả, ông qua Mỹ năm 1993 theo diện HO (Humanitarian Operation: Chương trình định cư tại Mỹ dành cho người bị CS giam cầm sau 1975).

Ba tháng sau khi hoàn tất thủ tục nhập cư, y tế, bằng lái xe, ông bắt đầu đi làm tại hãng Dobbs, hãng chuyên cung cấp thức ăn cho hành khách trên máy bay. Làm việc tại đây hơn 6 tháng, ông qua khu du lịch Splendid China như có nói trên. Thời gian sau, ông xin vào làm tại Disney World với nhiệm vụ “trưmg bày hàng lên kệ” (floor stacker). Ông làm việc tại đây trong 12 năm trời, từ 1999 đến 2011, chỉ thôi việc vì bị đau nhức vào tuổi 80. Tổng cộng thời gian làm việc tại Dobbs, Splendid China và Disney World, ông đã đóng thuế Liên Bang Hoa Kỳ 18 năm, quá tiêu chuẩn 10 năm để được tiền hưu.

Có lần, một giám thị ở Disney World khuyên ông: – “You” lớn tuổi rồi, sao “you” không ở nhà nghỉ cho khỏe? – Tuy tuổi đã cao nhưng sức khỏe còn tốt là tôi không nghỉ!- ông đáp ngay. Cũng có người thấy ông cao tuổi, hỏi ông: – Cụ đi làm chi cho khổ, ở nhà lãnh tiền trợ cấp có sướng hơn không? Câu trả lời: – Tôi không “chơi” mấy thứ đó. Tôi rất tự hào không “ăn” một ngày tiền an sinh xã hội, tiền già, tiền tàn tật…

Đối với anh em chúng tôi ở tù CS, người Mỹ dành một chương trình đặc biệt để đem chúng tôi đến xứ tự do, hưởng được cuộc sống an toàn trong công bằng, chừng đó thôi đủ để mình biết ơn chính phủ và nhân dân Hoa kỳ rồi, vì lẽ đó, tôi không muốn ngồi chơi để lãnh tiền cấp dưỡng, tạo thêm gánh nặng xã hội cho đất nước này trong khi tay chân còn lành lặn, còn đủ sức khỏe để đi làm. 

Theo trên, tướng Trần Bá Di là một người rất đặc biệt. Khi còn trong Quân Đội, ông là một công bộc liêm chính, một cấp chỉ huy tài ba, gan dạ, bình dân, yêu thương lính. Đến tuổi cao niên, ông vẫn giữ khí phách của một người hùng. Thiếu Tá Nguyên Kim Sơn, cựu Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh Sư Đoàn 9 Bộ Binh, từng làm việc dưới quyền của tướng Trần Bá Di, có viết trong tuyển tập “Cái Chết Của Một Dòng Sông” như sau: “Thiếu Tướng Trần Bá Di có tấm lòng hiền hòa đức độ nên được thuộc cấp kính trọng và thương mến. Ngày ông rời khỏi Sư Đoàn 9 Bộ Binh, quân dân tỉnh Vĩnh Long đã giăng biểu ngữ khắp đường phố trong tỉnh lỵ để tỏ lòng thương mến và luyến tiếc ông”. Mặt khác, trong phúc trình 6 trang giấy gởi về chánh phủ Hòa Kỳ ngày 5 tháng 12 năm 1973, Đại Sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, Graham Martin, có ca ngợi cuộc đời và binh nghiệp của tướng Trần Bá Di trải qua mấy mươi năm chỉ huy các đơn vị tác chiến trên chiến trường miền Nam, từ cấp Trung Đội, Đại Đội, Tiểu Đoàn, Trung Đoàn, đến Sư Đoàn… Nhắc đến sự liêm chính của tướng Di, phúc trình của Đại Sứ Martin có ghi một đoạn như sau: “Gia đình có 4 con, ba trai một gái từ 17 đến 8 tuổi. Báo cáo cho biết là gia đình ông sống bằng lương bổng nhà binh của ông và không có ghi nhận hành vi tham nhũng nào của ông hay của phu nhân ông”. Nguyên văn Anh văn như sau: “They have four children, three boys and a girl from 17 to 8. The Di’s reportedly live on his military income and there has been no mention of corrupt activities on his or his wife part”.

Tài liệu trên được chánh phủ Hoa Kỳ giải mật ngày 13 tháng 8, năm 2009. Thiếu Tướng Trần Bá Di mất ngày 23 tháng Ba, năm 2018, tại Orlando, Florida, hưởng thọ 87 tuổi. Người đời có câu: “Hùm chết để da, người ta chết để tiếng”, Tướng Trần Bá Di ra đi để lại danh thơm muôn đời! 

From Nga Nguyễn gởi

Ba Lan từ 1989 “thay đổi thể chế từ xhcn sang tư bản tự do, tam quyền phân lập…

Trần Bang shared Mạc Việt Hồng‘s post.

“Thỉnh thoảng mình nói với người Ba Lan: “Này, tao mang 1 nửa dòng máu Ba Lan đấy”. Mấy người đó ngẩn ra nhìn mình, người thì bảo, “ừ, thảo nào tao thấy mày trông Tây Tây”; người khác lại nói, “chắc vì thế nên mày mới cao”. Hầu như họ tin là mình có lai một chút thật.

Đó đơn thuần là một câu nói đùa, thực ra mình không phải con lai. Nhưng trong cơ thể mình chảy khoảng 1/3 lượng máu của Ba Lan.

Mình bị tiếp máu trong 1 trường hợp… lãng xẹt. Hôm đó mình lái xe đi làm bình thường và trên đường đi thì ghé bệnh viện để lấy kết quả thử máu.

Người trả kết quả đã gọi điện tham khảo ý kiến trưởng khoa và giữ luôn mình lại bệnh viện vì lý do thiếu máu. Mình không bệnh tật gì, nhưng trước đó bị mất máu nhiều và dài theo cái cách mà phụ nữ thường bị.

Mình kháng cự quyết liệt, nói “tôi đang đi làm, hôm nay tôi có việc không nghỉ được, mai tôi sẽ tới nằm viện”, nhưng họ nhất định ko cho đi. “Nếu tôi để bà đi thì người ta sẽ lột chiếc áo blouse của tôi”- ông bác sĩ nói. Rồi ổng gọi 1 nhân viên y tế nam, người này ấn mình vào chiếc xe lăn, rồi đẩy vào phòng bệnh nhân. Mình lại kêu um lên, phản đối, nhưng họ giải thích “vào đây bà là bệnh nhân, bà đi được hay không, chúng tôi vẫn phải đẩy”. Lần đầu tiên trong đời ngồi xe lăn là như thế.

Mình bị nằm trong bệnh viện 2 ngày đêm, tiếp 4 bịch máu và sau khi thử lại, kết quả ok, họ mới cho ra viện.

Đó là bệnh viện Banacha năm 2010. 2 ngày, ăn đủ 6 bữa, cơm bưng nước rót tận giường, làm 4 bịch máu rồi ra, không mất 1 xu bọ nào.

Nhiều bạn, nhất là các bạn sinh nở ở bên này đều được tiếp máu miễn phí như vậy (tất nhiên các thứ khác, kể cả viên thuốc, mũi tiêm đều miện phí). Thái độ của các y bác sĩ Ba Lan – theo ghi nhận của cá nhân mình – rất tốt, nếu không muốn nói là tuyệt vời.

Bên này, nếu bạn vào viện, dù nhóm máu hiếm, bệnh viện vẫn phải lo kiếm cho bạn. Họ có sẵn trang web chuyên những người máu hiếm và có kênh tìm kiếm của họ.

Chỉ có VN là đóng đủ loại thuế mà người dân phải tự đi xin máu và tự bỏ tiền mua máu; đi viện, đi học, đi đường vẫn phải mất tiền.

Vài dòng nhân thấy chiếc ảnh mà cộng đồng FB kêu gọi giúp gia đình người bệnh.”

 
Image may contain: 1 person, shoes, tree and outdoor

Mạc Việt HồngFollow

Warsaw, Poland

Đó đơn thuần là một câu nói đùa, thực ra mình không phải con lai. Nhưng trong cơ thể mình chảy khoảng 1/3 lượng máu của Ba Lan.

Mình bị tiếp máu trong 1 trường hợp… lãng xẹt. Hôm đó mình lái xe đi làm bình thường và trên đường đi thì ghé bệnh viện để lấy kết quả thử máu.

Người trả kết quả đã gọi điện tham khảo ý kiến trưởng khoa và giữ luôn mình lại bệnh viện vì lý do thiếu máu. Mình không bệnh tật gì, nhưng trước đó bị mất máu nhiều và dài theo cái cách mà phụ nữ thường bị.

Mình kháng cự quyết liệt, nói “tôi đang đi làm, hôm nay tôi có việc không nghỉ được, mai tôi sẽ tới nằm viện”, nhưng họ nhất định ko cho đi. “Nếu tôi để bà đi thì người ta sẽ lột chiếc áo blouse của tôi”- ông bác sĩ nói. Rồi ổng gọi 1 nhân viên y tế nam, người này ấn mình vào chiếc xe lăn, rồi đẩy vào phòng bệnh nhân. Mình lại kêu um lên, phản đối, nhưng họ giải thích “vào đây bà là bệnh nhân, bà đi được hay không, chúng tôi vẫn phải đẩy”. Lần đầu tiên trong đời ngồi xe lăn là như thế.

Mình bị nằm trong bệnh viện 2 ngày đêm, tiếp 4 bịch máu và sau khi thử lại, kết quả ok, họ mới cho ra viện.

Đó là bệnh viện Banacha năm 2010. 2 ngày, ăn đủ 6 bữa, cơm bưng nước rót tận giường, làm 4 bịch máu rồi ra, không mất 1 xu bọ nào.

Nhiều bạn, nhất là các bạn sinh nở ở bên này đều được tiếp máu miễn phí như vậy (tất nhiên các thứ khác, kể cả viên thuốc, mũi tiêm đều miện phí). Thái độ của các y bác sĩ Ba Lan – theo ghi nhận của cá nhân mình – rất tốt, nếu không muốn nói là tuyệt vời.

Bên này, nếu bạn vào viện, dù nhóm máu hiếm, bệnh viện vẫn phải lo kiếm cho bạn. Họ có sẵn trang web chuyên những người máu hiếm và có kênh tìm kiếm của họ.

Chỉ có VN là đóng đủ loại thuế mà người dân phải tự đi xin máu và tự bỏ tiền mua máu; đi viện, đi học, đi đường vẫn phải mất tiền.

Vài dòng nhân thấy chiếc ảnh mà cộng đồng FB kêu gọi giúp gia đình người bệnh.

“Kính thưa các bác lãnh đạo, các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo!

Tai Nguyen and 2 others shared 61 Giây‘s post.
Image may contain: 1 person, standing, eyeglasses and outdoor

61 Giây

“Kính thưa các bác lãnh đạo, các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo!

Cháu xin được trút hết nỗi lòng đã giấu diếm suốt bấy lâu nay và cháu, cũng như nhiều bạn học sinh khác mong chờ sẽ nhận được những lời chia sẻ, cũng như ý kiến của các bác lãnh đạo, các phụ huynh và các thầy cô.

Đã nhiều năm nay, hầu như cuộc đời của học sinh chúng cháu chỉ là thức dậy, đi học trên trường, đi học thêm, về nhà và lặp lại. Qua nhiều năm, niềm đam mê học tập của cháu dần mất đi.
Cháu bắt đầu kiệt sức, chán nản và tuyệt vọng khi nghe đến chữ HỌC.

Không biết tự bao giờ, thời gian chúng cháu đi học còn nhiều hơn khoảng thời gian chúng cháu được ngủ. Đối với cháu, càng học cao hơn, kiến thức càng trở nên vô nghĩa.

Cháu biết nói ra điều này thật vô ơn. Để có được những kiến thức hôm nay là công sức đầy gian lao của những người đi trước.

Nhưng cháu tự nghĩ, vì sao giáo viên chỉ có thể dạy một bộ môn nhưng bản thân một học sinh phải học những mười mấy môn?
Không chỉ vậy, chúng cháu còn chịu áp lực nặng nề từ thầy cô, phụ huynh và cả xã hội. Một lớp học phải có từ 40 em được học sinh Giỏi, Khá và không được có học sinh Trung bình.

Đã đi học thì các môn tổng kết cả năm phải từ 8 điểm trở lên, thậm chí là cao hơn. Tỉ lệ tốt nghiệp của trường sau một năm phải đạt 90% trở lên, có trường phải giữ vững mục tiêu là 100%.

Cháu đã nhiều lần suy nghĩ về những gì chúng cháu đang được học. Càng nghĩ, cháu càng cảm thấy nản hơn khi cháu nhận ra mình gần như không thể tiếp nhận những kiến thức nhà trường dạy.

Bộ não của một người trưởng thành chỉ nặng gần 1400 gam nhưng những người của thế hệ đi trước lại mong chờ chúng cháu học đều, học tốt lượng kiến thức khổng lồ từ hơn mười môn học khác nhau.

Cháu sợ lắm ! Cháu sợ mỗi khi ông mặt trời lại lên báo hiệu một ngày đi học nữa lại đến. Cháu sợ khi điều đầu tiên thầy cô làm khi bước vào lớp là khảo bài, kiểm tra một núi bài tập họ giao cho chúng cháu.

Cháu sợ khi tiếng trống giờ về không đồng nghĩa với việc chúng cháu được về nhà nghỉ ngơi mà nó chỉ đơn thuần là giờ ra chơi giữa giờ học chính khóa và giờ học thêm.

Cháu sợ khi nhìn các bạn đồng trang lứa ăn vội vàng cái bánh bao và ánh mắt họ đờ đẫn, xa xăm, vô hồn ngồi trên chiếc xe máy giữa dòng người kẹt xe lúc 5h chiều.

Thưa các bác, các bác phụ huynh, các thầy cô!

Còn biết bao nhiêu câu chuyện chưa được kể về những áp lực vô hình mà mọi người đang vô tình đặt lên vai chúng cháu.

“Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” – Đó là điều đầu tiên cháu học được khi bước vào lớp 1. Và cho đến giờ, khi đang ở độ tuổi 18, cháu căm ghét cái câu nói này kinh khủng.

Cháu xin lỗi khi nói ra những điều này, cháu biết việc này sẽ khiến cho những người đi trước khó chịu nhưng cho phép cháu được nói lên nỗi lòng mình: Cháu ghét đi học.

Cháu ghét cái cảm giác bước qua cổng trường, mở cuốn SGK, chép từng trang vở. Cháu cảm giác mình lạc hướng… Từng ngày đi học, chúng cháu quay cuồng với việc học bài, kiểm tra.

Những năm tháng dần trôi qua một cách vô nghĩa dưới áp lực của việc học hành, của thầy cô, của gia đình.

Chương trình học hiện tại không cho phép học sinh chúng cháu có quyền sáng tạo. Tất cả bị bó buộc vào những quy luật nhất định và chúng cháu – những người học sinh bắt buộc phải làm theo chứ không được thay đổi.

Chính bản thân chúng cháu còn không hiểu mình đang học vì cái gì, vì ai!

Học vì kì vọng của mọi người xung quanh, học vì điểm số, học để qua được một kì kiểm tra ư? Xong rồi sao nữa?

Cuối cùng sau hơn 20 năm học tập miệt mài, căng thẳng chúng cháu còn phải sống một cuộc đời rất dài và tới lúc đó, chúng cháu sẽ phải áp dụng những kiến thức đã học được vào cuộc sống.

Nhưng cháu đã nhiều lần tự hỏi, cháu có thể sử dụng “Chuyển động tròn đều”, “Chiều tăng giảm của hàm số” hay Vecto trong cuộc đời thật như thế nào?

Chúng cháu cứ học rồi lại quên, thầy cô thì cứ lao đầu vào giảng, giao bài tập về nhà nhưng họ chưa bao giờ nói cho chúng cháu nghe ứng dụng của những kiến thức này trong cuộc sống.

Từ một lúc nào đó, mọi người lại đánh giá nhau thông qua những con điểm.

Chì vì những con điểm vô giá trị mà đã đẩy biết bao số phận học sinh vào bước đường cùng, đã khiến cho mối quan hệ chữa cha mẹ – con cái và giáo viên – học sinh trở nên căng thẳng, ngột ngạt.

Cuộc sống của những học sinh giờ đây gần như chỉ xoay quanh HỌC. Chúng cháu không biết đến khái niệm nghỉ ngơi, thư giãn.

Chúng cháu gần như không còn hiểu được giá trị của những bữa ăn bên gia đình vì gần như suốt một tuần chúng cháu chỉ gần như học thêm đến khi trời tối mịt.

Người bạn ngồi kế cháu, bạn ấy học rất giỏi và các thầy cô đều rất yêu quý bạn ấy. Nhưng bạn ấy khổ lắm. Nhà bạn ấy ở Quận 12 và bạn ấy phải đi xe buýt tới Quận 1 để học thêm mỗi ngày.

Từng ngày đi học của bạn ấy bắt đầu từ 5h30 sáng cho tới 11h đêm. Bạn ấy đã kiệt sức rồi, cháu biết điều đấy. Khuôn mặt bạn phờ phạc, ánh mắt bạn bơ phờ, bạn bị thiếu ngủ và đau dạ dày.

Những người như bạn cháu không thiếu ngay tại chính TP.HCM này.

Học sinh chúng cháu sống thờ ơ, lãnh đạm, vô cảm và không có kĩ năng sống. Chúng cháu không biết phải làm gì nếu có động đất, sóng thần hay gặp một người bị đột quỵ ngay giữa đường.

Người lớn thất vọng vì cách ứng xử của thế hệ trẻ trong khi thế hệ trẻ chúng cháu lại thất vọng vì đang được giáo dục không có định hướng.

Thưa các bác, là một học sinh, cháu đã vô cùng xúc động khi nghe chủ trương không dạy thêm. Cái cảm giác vui mừng chợt chạy qua người cháu khi nghĩ đến cảnh chúng cháu không còn phải còng lưng ra học bài lúc 11h đêm nữa.

Nhưng hiện thực tàn khốc của việc học đã không cho cháu được vui mừng lâu.

Trước cảnh mỗi năm đề thi Đại học lại đổi mới một kiểu, trước cảnh cô giáo viên dạy Toán của chúng cháu quảng cáo về lớp dạy thêm của cô một cách bí mật, cháu nhận ra mọi chuyện sẽ không hề tốt lên được, sẽ không bao giờ tốt lên được.

Rồi sau tất cả, khi chúng cháu rời ghế nhà trường, đối diện với cuộc sống thật, chúng cháu lại lơ ngơ, hoang mang vì hoàn toàn không có những kĩ năng sống cần thiết.

Cháu cầu xin các bác, các bậc cha mẹ, các thầy cô giáo: Xin hãy cho chúng con được SỐNG. Xin cho phép chúng con được sống trong những tháng năm tuổi học trò một cách trọn vẹn nhất có thể.

Xin đừng quá kỳ vọng vào tụi con để rồi chính những kì vọng ấy khiến cho mọi người thất vọng. Xin đừng chỉ trích chúng con khi bọn con bị điểm kém.

Xin hãy hiểu rằng mỗi người chỉ có những khả năng nhất định và bọn con không phải là thiên tài.

Cuối cùng, con xin mọi người hãy hiểu: HỌC SINH CŨNG CHỈ LÀ CON NGƯỜI, KHÔNG PHẢI MÁY MÓC”.

st

  •  
     
     

NHÌN LẠI LỊCH SỬ

Đỗ Ngà

Sau 1945, thế giới phân cực mạnh mẽ, Mỹ lãnh đạo khối tự do, Liên Xô lãnh đạo khối CS. Nhờ được chia lửa ở mặt trận phía tây nên Liên Xô thắng Nazi Đức. Và trên đường truy kích quân Đức, Liên Xô đã hốt được nửa phía đông Châu Âu về phe mình để thành lập nên khối CS. Tiếp đến là 1949 Liên Xô có hạt nhân để đối trọng với Mỹ về sức mạnh quân sự.

Sự lớn nhanh của khối CS đã đe dọa thế giới tự do. Nền tự do của Mỹ và phương Tây có được nhờ 200 năm phát triển, với bao trí tuệ tiến bộ đổ vào trong đó, không thể để CS -một loại tổ chức man di ưa giết chóc và tàn phá có thể ập đến hủy sạch được. Thế là thời kỳ chiến tranh lạnh ra đời. 2 siêu cường đều có hạt nhân vắt trên người nên họ kìm chế không đánh trực tiếp. Thay vào đó họ bắt mấy con tốt đánh nhau. Lúc đó, vì phe này cứ sợ phe kia mở rộng mà 2 siêu cường giành nhau từng con tốt để nâng tầm ảnh hưởng của mình. Nơi tốt đánh nhau ác liệt nhất là Việt Nam và bán đảo Triều Tiên. Trong đó con tốt Hà Nội là con tốt đánh chém đồng bào mình hăng máu nhất.

Từ thái độ hăng máu như thế, Mỹ muốn tham chiến ở Việt Nam để chặn con tốt hung hăng – CS Hà Nội, vì nó quá nguy hiểm cho tự do. Thế là Mỹ muốn tham chiến và đó là lí do họ đưa quân đến Việt Nam. Họ đến để bảo vệ cho thế giới tự do mà họ đang lãnh đạo khỏi bị CS lấn dần kiểu tằm ăn dâu.

Như vậy, rõ ràng Mỹ tham chiến ở Việt Nam, mục đích của họ là chống sự lây lan của chủ nghĩa CS chứ không phải là họ cướp nước. Với vai trò lãnh đạo thế giới tự do, nên Mỹ xem việc này là cực kỳ quan trọng. Vì sao? Bởi vì khối XHCN do Liên Xô và Đông Âu lúc đó đang mạnh, và trong lòng nhiều quốc gia tự đó luôn có ĐCS hoạt động chuẩn bị cho cuộc lật đổ tự do. Như thế cuộc chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến mà Mỹ đã đưa đầy đủ những vũ khí chiến tranh hiện đại đến. Với khí tài quân sự vượt hẳn, quân Mỹ chỉ tử thương 58.000 binh sĩ trong suốt cuộc chiến, trong khi phía CS con số tính đến hàng triệu.

Năm 1972 Mỹ bắt tay Trung Cộng làm khối CS rạn nứt. Mục đích lớn đã đạt, thế là Mỹ buông miền nam để rút quân vì nó quá tốn kém và bị áp lực từ người thân của binh sỹ tham chiến. Trước khi rút, Mỹ soạn thảo hiệp định để các bên ký với nhau. Hà Nội làm eo không chịu ký, thế là Mỹ ném bom miền Bắc. Chịu không nổi nên Hà Nội phải gật đầu chấp nhận bò đến Paris để ký hiệp định, thế là chuyện ném bom kết thúc. Nếu 1972 Mỹ không phải đánh để Hà Nội quỳ gối xin ký, mà đánh để xóa sổ thì họ hoàn toàn hiện được.

Vụ ký hiệp định Paris về bản chất là vậy, nhưng CS lại oang oang cho rằng, họ đã chiến thắng “trận Điện Biên Phủ trên không”. Thực ra cuộc chiến nhìn theo cái nhìn toàn cục, nó chỉ là mục đích chặn CS, và sau khi chia rẽ được khối CS, Mỹ rút đi cho người Việt Nam tự xử với nhau. Chuyện ngày 30/04/1975 là chuyện người Việt Nam xử nhau chứ chả còn thằng Mỹ nào tham chiến nữa.Thế mà qua cái mồm của chính quyền CS thì họ thắng Mỹ với đủ thứ chiến công, nào tay không quật ngã trực thăng, dùng ná hạ trực thăng blah blah blah. Đấy là cú tự sướng kiểu phép thắng lợi AQ nó dùng để lừa dối nhân dân rằng, từ 2 đến 3 triệu sinh mạng dân Việt bị giết cho cuộc chiến phi nghĩa vì thứ chủ nghĩa hoảng tưởng là để “cứu nước”.

Phải nói rằng, “chống Mỹ cứu nước” là một cú lừa gạt nhân dân khốn nạn nhất lịch sử. Mục đích của nó là để hợp thức hóa cái việc nướng hàng triệu sinh mạng nhân dân vào cuộc chiến, chả có mục đích gì cho dân tộc cả, mục đích là chỉ để làm con tốt cho Nga Tàu “Ta đánh Mỹ đánh cho Liên Xô đánh cho Trung Quốc” Lê Duẩn khẳng định như thế. Đã 43 năm rồi, chúng ta cần phải nói rõ sự thật như thế. Không thể chìm mãi trong sự lừa dối được.

LẠI GỬI BÁC TRỌNG

Thuong Phan and Minh Văn Hoàng shared Tân Thái Bá‘s post.
Image may contain: 1 person, suit and text

Tân Thái Bá is with Quốc Vương.

Thưa bác, bộ tài chính
Vừa đề xuất, từ nay
Nhà trên bảy trăm triệu
Là phải đánh thuế ngay.

Không nói bác cũng biết
Rằng bây giờ dân ta 
Chịu bao nhiêu thứ thuế.
Nay lại đến thuế nhà.

Ta đánh đuổi thằng Pháp
Vì sưu cao, thuế cao.
Xin bác hãy xem lại,
Ta bây giờ thế nào?

Người dân đang khốn khổ,
Chật vật lo miếng ăn.
Không lẽ đảng, nhà nước
Chủ trương giết chết dân?

Nhà nước tiêu hoang phí,
Để tham nhũng tràn lan.
Sao mỗi lần thụt két
Lại bắt đền dân oan?

Bác, tổng bí thư đảng,
Chắc không lo chuyện tiền.
Nhưng dân thì khổ lắm.
Dân lấy đâu ra tiền?

Mời bác, dẫu rất bận,
Hãy lên mạng một lần.
Để một lần thực sự
Được nghe, hiểu lòng dân.

Đề nghị bác can thiệp
Không cho thu thuế nhà.
Thằng tài chính làm láo.
Phải đưa hắn ra tòa.

*
Tôi thấy thật xấu hổ
Rằng một đảng cầm quyền,
Mà mỗi lần thụt két
Lại đè dân moi tiền. 

Về cái chết bất ngờ của nhà văn Dương Hùng Cường

Về cái chết bất ngờ của nhà văn Dương Hùng Cường

Du Tử Lê/Người Việt

Bìa một tác phẩm của nhà văn Dương Hùng Cường. (Hình: Du Tử Lê cung cấp)

Viết về những năm tháng cuối cùng của nhà văn Dương Hùng Cường, cố nhà báo Hồ Nam, trong tác phẩm “100 Văn Nghệ Sĩ” (viết chung với nhà văn Vũ Uyên Giang), ghi nhận rằng, khi biến cố 30 Tháng Tư, 1975, xảy ra, nhà văn Dương Hùng Cường không di tản.

Thời gian này, vợ ông, bà Vương Thị Oanh, cựu nữ sinh Trưng Vương, mang thai đứa con thứ sáu; và lại là con trai: Niềm mong ước trong bao nhiêu năm của ông. Tuy nhiên, cuối cùng ông cũng không được thấy mặt con lúc ra đời vì đã sớm bị tập trung “cải tạo!”

Ký giả Hồ Nam kể, ông Cường từng khẳng khái nói với ông Trần Ngọc Tự (bạn thân của nhà văn Trần Tam Tiệp) rằng, ông Cường không cần thùng quà 2 “pao” của nhà văn Trần Tam Tiệp mà chỉ cần bài viết tố cáo chế độ Cộng Sản của ông, được phổ biến ở nước ngoài mà thôi.

Ký giả Hồ Nam cho rằng ông Cường chết vì bị rắn độc cắn trong phòng biệt giam Tháng Mười Một, 1987.

Cũng viết về những ngày cuối cùng của tác giả “Buồn Vui Phi Trường,” nhưng với tư cách bạn đồng tù, nhà văn Hoàng Hải Thủy, trong bài “Cái  Chết Của Nhà Văn Dương Hùng Cường” (*) có nhiều ghi nhận cụ thể, chi tiết hơn.

Ông kể, một buổi sáng Tháng Năm, 1984, khi ông ở biệt giam 10 và bạn tù Trần Ngọc Tự ở biệt giam 9, nhà tù Phan Đăng Lưu, Gia Định, chưa kịp nói gì nhiều với nhau, thì khi ghé mắt nhìn ra đầu hành lang hai ông thấy tác giả “Buồn Vui Phi Trường” bị công an áp tải vào phòng giam. Khi đó, nhà văn Dương Hùng Cường bận áo pull xanh, quần kaki – cái áo pull này chắc là của nhà văn Trần Tam Tiệp mới gởi về. Sau thủ tục gia nhập sổ hộ khẩu thường trú, khám quần áo, hỏi tên tuổi, tội trạng, ghi vào sổ, ông Cường được đưa vào biệt giam 15 hay 16 bên dưới xà lim của ông Thủy. Ông Dương Hùng Cường không thấy hai người bạn của mình! Mặc dù họ thấy ông Cường rất rõ.

Trong buổi sáng đó, nhà văn Hoàng Hải Thủy nói, ông được biết ông Khuất Duy Trác bị giam ở biệt giam 1. Biệt giam này ở ngay đầu hành lang, cạnh bàn làm việc của cai tù gác khu C1, nên ông Khuất Duy Trác không thể nói năng, hỏi han, trao đổi tin tức gì được với những bạn tù phòng bên.

Ông Thủy nhấn mạnh: “Như vậy là anh em tôi bốn người: Dương Hùng Cường, Trần Ngọc Tự, Khuất Duy Trác và tôi – được công an thành Hồ đem xe bông đến nhà rước đi. Trong cùng một đêm. Vài ngày sau chúng tôi được tin anh Doãn Quốc Sỹ cũng bị bắt, đang nằm biệt giam khu C2 đâu lưng với khu C1 của chúng tôi.”

Vì xà lim của nhà văn Dương Hùng Cường xa phòng biệt giam của ông Hoàng Hải Thủy và Trần Ngọc Tự, nên họ chỉ có thể chuyện với nhau qua “vệ tinh”… Nghĩa là nhờ người tập thể trước mặt, chuyển tin tức cho ông Cường, và ngược lại…

Khi ông Cường nghe ông Hoàng Hải Thủy và Trần Ngọc Tự nói qua “vệ tinh” rằng công an thành phố Sài Gòn đã bắt được cô Nguyễn Thị Nhạn, liên lạc viên can đảm, duy nhất đáng ca ngợi của ông Trần Tam Tiệp ở Paris, thì ông Cường nhắn lại là: “Phải giữ an ninh cho dì Út…”

“Dì Út” là tên các văn nghệ sĩ ở Sài Gòn dùng để gọi cô Nguyễn Thị Nhạn, nhân viên bưu điện trung ương thành phố Sài Gòn, người trung gian nhận thư từ, sách báo, thuốc men do ông Trần Tam Tiệp gởi về cho anh em. Ngược lại, cô Nguyễn Thị Nhạn cũng nhận chuyển bài vở, bản thảo của anh em gửi ra ngoại quốc. Điều trớ trêu theo nhà văn Hoàng Hải Thủy, là khi các nhà văn dặn dò nhau phải giữ an ninh cho cô Nguyễn Thị Nhạn, thì họ đâu biết rằng cô Nhạn đã bị bắt rồi thả, rồi lại bắt lại trước anh em văn nghệ cả tháng trời!

Về tình trạng tù đày của số văn nghệ sĩ bị bắt lần thứ hai, kể từ sáng 2 Tháng Năm, 1984, nhà văn Hoàng Hải Thủy ghi nhận rằng, sau thời gian bị nhốt ở biệt giam, gọi là thời gian cách ly, dài ngắn, lâu mau tùy theo từng người tù thì, ông Khuất Duy Trác được di chuyển về phòng tập thể 2, ông Dương Hùng Cường ở phòng tập thể 3, ông Hoàng Hải Thủy ở phòng tập thể 6… Mười hai tháng sau (Tháng Năm, 1985) nhóm văn nghệ sĩ bị gọi là “Những tên biệt kích cầm bút” – lại bị di chuyển qua khám Chí Hòa.”

Nhà văn Hoàng Hải Thủy viết: “…Đây là lần thứ nhất anh em tôi được ‘đoàn tụ’ trong vòng hai tiếng đồng hồ. Xe chở chúng tôi từ số 4 Phan Đăng Lưu sang nhà giam Chí Hòa là loại xe vận tải. Công an thành phố dùng loại xe này vừa chở hàng, chở gạo, chở heo và chở tù. Bọn ‘Biệt Kích’ lếch thếch xách giỏ, chiếu lên xe tù sáng ấy gồm sáu mạng: Doãn Quốc Sỹ, Dương Hùng Cường, Khuất Duy Trác, Trần Ngọc Tự, Hoàng Hải Thủy và hai nữ là Lý Thụy Ý, Nguyễn Thị Nhạn. Trên xe anh em văn nghệ sĩ cười nói râm ran, tưởng như đang cùng đi trên một chuyến xe dự đám cưới chứ không phải là xe chở tù! (…) Đây là lần thứ nhất, sáu anh em chúng tôi đặt chân vào ‘đất thánh Chí Hòa.’ Chỉ có cô Nguyễn Thị Nhạn là người bị bắt lần đầu, còn chúng tôi – kể cả cô Lý Thụy Ý – đều đã bị bắt một lần rồi, nhưng chưa ai ‘được’ vào Chí Hòa (…) Sau 2 giờ ‘đoàn tụ’ thân mật, vui vẻ trên xe chở tù, chúng tôi lại được ‘ưu ái’ chia ra mỗi tên ở một phòng.”

Ở khám lớn Chí Hòa, tác giả bài “Cái Chết Của Nhà Văn Dương Hùng Cường” thấy có nữ tu Thích Trí Hải – bị bắt trong nhóm Già Lam, gồm Tuệ Sĩ, Trí Siêu, Lê Mạnh Thát, Thượng Tọa Thích Đức Nhuận…

Ông nói: “…Khi vào phòng 10 khu ED Chí Hòa, tôi mới biết anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt đã từ Phan Đăng Lưu sang đây trước tôi đang ở phòng 11 cạnh phòng tôi…”

Nhà văn Hiếu Chân bị bắt sau nhà văn Hoàng Hải Thủy chừng hai tháng, và “…Hiếu Chân bị chứng huyết áp cao, qua đời vì cơn bệnh này trong một đêm đầu năm 1986…” nhà văn Hoàng Hải Thủy cho biết.

Riêng về cái chết của nhà văn Dương Hùng Cường, ông Thủy kể: “Giữa, hay cuối năm 1987, tôi bàng hoàng khi được tin Dương Hùng Cường đã chết ở số 4 Phan Đăng Lưu (…) Anh em nói tối hôm trước ở những phòng tập thể, họ còn nghe tiếng Cường hát ở cửa gió biệt giam. Nhưng 8 giờ sáng hôm sau, cai tù đi một vòng điểm số. Không thấy Dương Hùng Cường đứng đưa mặt ra ô cửa gió. Mở cửa vào phòng biệt giam, cai tù mới thấy người tù nằm ngửa, đã chết trên sàn xi-măng… Thi thể nhà văn Dương Hùng Cường được đưa từ số 4 Phan Đăng Lưu về nhà xác Chí Hòa. Vợ con anh được gọi đến nhà xác Chí Hòa nhìn mặt anh, chứng kiến tẩm liệm anh. Công an Cộng Sản tối kỵ việc cho thân nhân lãnh xác tù về nhà làm đám ma. Chúng cung cấp cho Dương Hùng Cường quan tài, xe chở lên chôn ở một nghĩa trang bên Lái Thiêu…”

Ra khỏi bài viết về cái chết của bạn, nhà văn Hoàng Hải Thủy viết: “…Hôm nay ngồi bình yên trên đất Virginia – Virginia đất của tình yêu, đất dành cho những người yêu nhau – Virginia is for Lovers – tôi nhớ lại hình ảnh Cường trong chiếc áo pull xanh, quần kaki, túi quần áo đặt dưới chân, đứng trong hành lang C1, chờ cai tù mở cửa phòng biệt giam. Dương Hùng Cường… Tôi đã gọi tên Cường một lần ở giữa lòng Sài Gòn bị chiếm đóng của chúng ta.” (Du Tử Lê)

———–
Chú thích:

(*) Theo nhà văn Ngộ Không ở trang mạng T. Vấn thì nhà văn Dương Hùng Cường bút hiệu Dê Húc Càn, Lão Dương… sinh ngày 1 Tháng Mười, 1934, tại Hà Nội. Ông qua đời ngày 21 Tháng Mười Một, 1987 tại nhà tù Phan Đăng Lưu, Gia Định, Sài Gòn.

BÀI HỌC TỪ MÙA XUÂN Ả RẬP

 

BÀI HỌC TỪ MÙA XUÂN Ả RẬP

Vào mùa hanh khô, cây cỏ dễ cháy. Một đám cháy nhỏ ở đầu ngọn gió có thể thiêu rụi khu rừng rộng lớn. Như vậy để bùng phát đám cháy thì phải có 2 yếu tố, thứ nhất là vật liệu cháy- cây khô, thứ nhì là có mồi lửa đúng lúc.

Ngày 17/10/2010, một thanh niên bán rau tên Mohamed Buazizi ở Tunisia bị cảnh sát cấm bán hàng rong trên đường phố. Điều này cũng có nghĩa là chính quyền triệt kế sinh nhai của anh ta. Nếu thời buổi kinh tế phát triển, anh ta dễ tìm đường khác để kiếm sống, nhưng lúc khó khăn, việc làm này của cảnh sát đã ép anh ta vào đường cùng. Nếu có sự chọn lựa trong việc kiếm tiền, tất sẽ không có sự phẫn uất đến mất khôn như vậy. Nhưng lúc khó khăn thì khác, nó là đường sống độc đạo, anh ta sẽ phản ứng một cánh mãnh liệt khó lường.

Nhìn bề ngoài việc trấn áp để dẹp những người bán hàng rong tưởng như chuyện bình thường, vì cảnh sát Tunisia cũng thường hay làm vậy. Thế nhưng không đơn giản như mọi lần, lần này Mohamed Buazizi lại phản ứng quá mãnh liệt. Anh ta tự thiêu để phản đối.

Cảnh sát chỉ là kẻ thừa hành, bọn họ làm theo mệnh lệnh cấp trên vì mục đích dẹp cho đường phố bớt đi cảnh nhớp nháp khó coi mà thôi. Thế nhưng, nếu chính quyền có trách nhiệm, họ đưa giải pháp để giải quyết khó khăn cho dân nghèo trước rồi mới ra tay dọn dẹp sau thì không có gì để nói. Đằng này, cũng tương tự chính quyền Việt Nam, chính quyền độc tài Tunisia chỉ biết đạp đổ chén cơm duy nhất của người nghèo mà không một trách nhiệm gì với họ cả. Trong lòng Mohamed Buazizi đã chất chứa phẫn uất chính quyền, giờ bị châm ngòi bởi hành động cảnh sát thế là anh ta tự thiêu. Thông điệp rõ ràng của anh ta là phản đối chính quyền.

Vì sự yếu kém trong điều hành, vì tham nhũng vv… đã dẫn đến vấn đề dân sinh bị bỏ phế. Dân cứ làm lụng vất vả để đóng thuế cho chính quyền, nhưng đổi lại, chính quyền chỉ biết vơ vét cho vào túi tham nhũng. Vấn đề dân sinh là trách nhiệm đương nhiên của chính quyền, nhưng họ lại không hề có trách nhiệm. Suốt 23 năm cầm quyền tổng thống Zine El Abidine Ben Ali đã không làm được vai trò gì cả, ngoài việc tham quyền cố vị để củng cố quyền lực mà trục lợi trên sự khốn cùng của nhân dân. Chính vì thế, có đến hàng triệu người đang chất chứa phẫn uất như Mohamed Buazizi chứ không phải chỉ cá biệt anh ta. Vì thế, cái chết tự thiêu của Mohamed Buazizi như một mồi lửa đúng lúc khu rừng đang hanh khô dễ cháy. Thế là hàng triệu người xuống đường đòi tổng thống phải từ chức. Kết quả, ngày 14 tháng 1 năm 2011 tổng thống El Abidine Ben Ali phải từ chức sau 24 năm nắm quyền.

Các nước trong thế giới hồi giáo có thể chế chính trị tương đồng. Cũng độc tài cá nhân cai trị thật lâu, cũng nạn tham nhũng, yếu kém quản lý đẩy dân nghèo vào cảnh tương tự Tunisia. Thế là nhiều rừng khô nằm cạnh rừng Tunisia cũng bắt lửa. Các nước như Ai Cập, Algeria, Maroc vv.. cũng sụp đổ theo. Người ta gọi nó là Mùa Xuân Ả Rập.

Mùa Xuân Ả Rập là một viễn cảnh mà CS VN rất sợ. Về kinh tế xã hội của Việt Nam và Tunisia lúc đó là khá tương đồng. Cũng tham nhũng, cũng yếu kém, chính quyền cũng lộng hành đạp đổ chén cơm dân nghèo. Thế nhưng phúc cho dân Tunisia là họ không bị giáo dục nhồi sọ và thông tin tuyên truyền dối trá của chính quyền làm cho hèn nhát như Việt Nam. Nên họ mới làm được Mùa Xuân Ả Rập, còn Việt Nam thì vẫn cứ chịu đựng. Thực ra trong lòng dân chúng họ có sức mạnh vô đối, nhưng họ không hề nhận ra. Một con hổ bị thay bằng não con cừu, nó đã tự xem nó là vô năng nên không hề nhận ra sức mạnh nội tại của nó.

Hiện nay CSVN sợ nhất là dân nhận ra sức mạnh số đông của mình. Cho nên, bằng cách này hay cách khác họ phải ngăn cản cho bằng được sự thức tỉnh của người dân. Để triệt đường thức tỉnh, họ tăng cường sự độc ác, thủ đoạn bẩn thỉu và bất chấp luật pháp. Họ càng ác chứng tỏ họ càng sợ. Với hành động hiện nay cho thấy, CS đang sợ sức mạnh nhân dân bị đánh thức.

Để phá vỡ sợ hãi thì có 2 yếu tố, thứ nhất là phá vỡ bức tường bưng bít thông tin cho dân tiếp cận sự thật, thứ nhì là sự khó khăn về kinh tế đẩy dân đến những ngõ cụt. 2 điều đó sẽ tích lũy phẫn uất, khi đạt đỉnh chỉ cần mồi lửa nho nhỏ sẽ bùng phát. Sự sợ hãi ư? Không sao cả, khi phẫn uất cao đến ngưỡng nó sẽ đạp đổ nỗi sợ hãi mà hành động thôi. CS cũng phải tới cảnh đó, vấn đề là sớm hay muộn.

CA NGỢI ĐIỀU GÌ?

Những kẻ độc tài và tước đoạt tự do cũng như sinh mệnh của dân chúng trên chính đất nước mình một cách tàn bạo thì cớ gì lại phải ủng hộ hoặc là bảo vệ chúng bằng những lời lẽ hay ho đến thế?
Thuong Phan shared Luân Lê‘s post.
Image may contain: text

Luân Lê Follow

Báo chí Việt làm khổ người dân Syria, vì nếu có mệnh hệ gì thì họ là người gánh chịu tất cả chứ vui mừng gì mà đổ xuống đường trong khi có chiến tranh với những vũ khí hiện đại có tính huỷ diệt rất lớn luôn thường trực nhắm xuống?

Tôi không hiểu lối ca ngợi này để nhằm mục đích gì và tạo nên giá trị gì?

Trước đây báo chí Việt Nam cũng tung hô Gaddafi tuyên bố là họ giành thắng lợi lớn và kiểm soát gần như toàn bộ các vùng quan trọng ở đất nước này, nhưng cuối cùng chỉ ít tháng sau đó thì hắn ta và chế độ độc tài của bọn chúng bị chính người dân của mình tiêu diệt vì người dân không ủng hộ chúng.

Tên độc tài khát máu Saddam Hussein cũng tuyên bố chống lại Mỹ đến giọt máu cuối cùng và coi Iraq là mồ chôn lính Mỹ vì sẽ thực hiện chiến tranh nhân dân, nhưng rồi thì hắn ta đã phải trả giá và bị Toà án hình sự quốc tế đem ra xét xử về tội ác chống lại loài người cùng 6 kẻ khác.

Những kẻ độc tài và tước đoạt tự do cũng như sinh mệnh của dân chúng trên chính đất nước mình một cách tàn bạo thì cớ gì lại phải ủng hộ hoặc là bảo vệ chúng bằng những lời lẽ hay ho đến thế?

Biển đảo quê hương đang gặp nhiều sóng gió và an nguy, chưa thấy thắng lợi nào được vang lên mà vẫn chỉ thấy bóng dáng những chiếc tàu lạ thường xuyên xuất hiện hung hãn đâm, phá tàu và bắn giết ngư dân ta ngay trên vùng biển của mình, sao không hướng về đồng bào và phía biển đảo là máu thịt của tổ quốc mình trước những kẻ đang lăm le bành trướng bất chấp tất cả để cướp đoạt?