Lời Chúa

10 Anh em không tin rằng Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy sao? Các lời Thầy nói với anh em, Thầy không tự mình nói ra. Nhưng Chúa Cha, Đấng luôn ở trong Thầy, chính Người làm những việc của mình.

11 Anh em hãy tin Thầy: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm.

12 Thật, Thầy bảo thật anh em, ai tin vào Thầy, thì người đó cũng sẽ làm được những việc Thầy làm. Người đó còn làm những việc lớn hơn nữa, bởi vì Thầy đến cùng Chúa Cha.

13 Và bất cứ điều gì anh em nhân danh Thầy mà xin, thì Thầy sẽ làm, để Chúa Cha được tôn vinh nơi người Con.

14 Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì, thì chính Thầy sẽ làm điều đó.

From Annie P trong Group me gởi

Nghị sĩ Canada hy vọng kiến nghị Biển Đông sẽ khiến Việt Nam hành động


Tàu chiến và máy bay chiến đấu của hải quân Trung Quốc tham gia tập trận trên Biển Đông hôm 12/4. Canada vừa thông qua một khuyến nghị chỉ trích cách ứng xử 'thù nghịch' của Trung Quốc trên Biển Đông.
Tàu chiến và máy bay chiến đấu của hải quân Trung Quốc tham gia tập trận trên Biển Đông hôm 12/4. Canada vừa thông qua một khuyến nghị chỉ trích cách ứng xử ‘thù nghịch’ của Trung Quốc trên Biển Đông.

Bản kiến nghị do thượng nghị sỹ gốc Việt thuộc đảng bảo thủ bảo trợ đã được Thượng viện Canada thông qua hôm 24/4 với tỷ lệ 43/29 phiếu.

 
 
 Kiến nghị được đưa ra từ năm 2016 tuy nhiên chỉ mới được thông qua sau 2 năm tranh luận ở Thượng viện, theo nghị sỹ có nhiều hoạt động trong cộng đồng người Việt tại thành phố Ottawa.

“Trong kiến nghị của tôi, tôi muốn Canada đóng một vai trò chủ đạo trong vấn đề thúc giục các quốc gia tranh chấp trong vùng (biển Đông) phải công nhận luật pháp quốc tế và chấm dứt mọi hành động làm leo thang tranh chấp để bảo vệ nền an ninh trong vùng biển Đông.” 

Sen. Thanh Hai Ngo

“This week, adopted my motion to urge the government to take the steps necessary to de-escalate tensions and restore peace and stability in the South China Sea” http://senatorngo.ca/statement-on-the-adoption-of-the-south-china-sea-motion/  It is now up too @CanadaFP to take action

 

Statement on the Adoption of the South China Sea Motion

April 24, 2018 Senator Thanh Hai Ngo today made the following statement regarding the adoption of the Senate motion to urge the government to take the steps necessary to de-escalate tensions and…

senatorngo.ca

Một ngày sau khi bản kiến nghị được thông qua, Trung Quốc lên tiếng phản pháo, nói rằng kiến nghị không có tính ràng buộc của Thượng viện Canada, kêu gọi chấm dứt các hành động của Trung Quốc trên Biển Đông là “vô trách nhiệm và sẽ “khuấy động rắc rối.”

Trong một thông cáo, Đại sứ quán Trung Quốc tại Ottawa nói nghị sĩ Ngô Thanh Hải đang tìm cách “khuấy động rắc rối” một tình hình đang yên ổn.

Trong những năm qua từ khi TQ tăng cường lấn chiếm biển Đông bằng cách xây dựng các cơ sở quân sự trên biển Đông, không có quốc gia nào đứng ra tiếp tục lên án TQ.
Ngô Thanh Hải, Nghị sỹ Canada

Giải thích lý do ông đứng ra bảo trợ kiến nghị này, Thượng nghị sĩ đại diện cho tỉnh bang Ontario cho biết ông muốn thông qua kiến nghị để “yêu cầu chính phủ Canada phải chủ động ủng hộ các quốc gia đồng minh ngoại giao của mình tại vùng Đông Nam Á” vì “chính phủ Canada không thể làm ngơ trước thực tế đang phát sinh từ các cuộc tranh chấp trên biển Đông.”

“Trong những năm qua từ khi TQ tăng cường lấn chiếm biển Đông bằng cách xây dựng các cơ sở quân sự trên biển Đông, không có quốc gia nào đứng ra tiếp tục lên án TQ,” theo nghị sỹ Canada. “Họ im lìm để cho các quốc gia có liên quan tại vùng Đông Nam Á phải đương đầu trực tiếp với TQ.”

Công trình xây dựng của Trung Quốc trên Đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa mà Việt Nam cũng có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông qua hình ảnh vệ tinh được CSIS công bố tháng 6/2017.
Công trình xây dựng của Trung Quốc trên Đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa mà Việt Nam cũng có tuyên bố chủ quyền trên Biển Đông qua hình ảnh vệ tinh được CSIS công bố tháng 6/2017.

Đô đốc Mỹ Philip Davidson hôm 17/4 nói Trung Quốc đã “bắt đầu” phát triển các tiền đồn quân sự trên Biển Đông từ tháng 12/2013, và từ đó tới nay đã “bồi đắp xây đảo nhân tạo”, “xây hanga chứa máy bay” và các hệ thống phòng thủ.” Trung Quốc phủ nhận các hoạt động này.

Phillipines từng đưa Trung Quốc ra tòa án trọng tài quốc tế ở La Haye và tòa án này bác bỏ đường lưỡi bò 9 đoạn của Trung Quốc trong đó nước này muốn mưu chiếm hầu như toàn bộ biển Đông. Tuy nhiên Trung Quốc không công nhận phán quyết của tòa trọng tài quốc tế đưa ra vào đầu tháng 7/2016.

“Trung Cộng không bao giời chấp nhận phán quyết của tòa án quốc tế La Haye do đó tời giờ phút này vấn đề đó vẫn chưa giải quyết được,” Nghị sỹ Canada nhận định với VOA. “Với hành động đó chúng ta thấy rằng Trung Cộng có thể dùng biển Đông để áp lực tất cả các quốc gia trên thế giới. Trung Cộng muốn làm bá chủ vùng châu Á Thái Bình Dương.”

Hy vọng (Đảng) Cộng sản Việt Nam sẽ nhận thấy rõ vai trò của mình đối với nhân dân Việt Nam là không thể nào để mất được Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngô Thanh Hải, Nghị sỹ Canada

Thượng nghị sĩ Ngô Thanh Hải, từng phục vụ trong vai trò Thẩm phán Di trú và Quốc tịch tại Ottawa, nói “Nếu chúng ta không quan tâm đến vấn đề biển Đông cứ để TQ xâm chiếm và không ai lên án thì TQ sẽ làm tới, chiếm đóng và mặc hồi phân giải.”

Việt Nam, trong chưa đầy 1 năm qua, đã phải 2 lần dừng dự án thăm dò dầu khí trên biển Đông vì áp lực của Bắc Kinh. Chính phủ Việt Nam chưa lên tiếng chính thức về động thái này nhưng tập đoàn dầu khí nhà nước PetroVietnam trong 1 lần hiếm hoi đã lên tiếng thừa nhận rằng tình hình căng thẳng trên biển Đông sẽ ảnh hưởng đến các hoạt động dầu khí của tập đoàn trong năm nay.

View image on Twitter

Press.Info.Dept.@PressDept_MoFA
  in response to media question concerning China’s recent activities in the area of Hoang Sa (Paracel) and Truong Sa (Spratly) archipelagos
Gần đây nhất, Trung Quốc lắp đặt các thiết bị tác chiến điện tử mới gây nhiễu sóng trên Đá Chữ Thập và Đá Vành Khăn. Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm 24/4 đã liên tiếng phản đối các động thái này nhưng một số chuyên gia nghiên cứu Biển Đông nhận định với VOA rằng những lời “phản đối” lập đi lập lại của Việt Nam trước những hành động hung hăng của Trung Quốc ở Biển Đông tạo ra một vòng “luẩn quẩn”.

Tiến sỹ Nguyễn Nhã, một nhà sử học nhiều năm nghiên cứu về Biển Đông, nói với VOA rằng nếu không phản đối, theo luật pháp quốc tế, kể như Việt Nam công nhận những gì Trung Quốc làm là thuộc chủ quyền của Trung Quốc, cho nên đó là một việc làm đương nhiên”.

Theo Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, động thái “phản đối” của Việt Nam “ sẽ không đủ vì Trung Quốc hung hăng lắm. Họ cứ thế mà làm thôi. Việt Nam cứ phản đối, còn họ cứ làm.”

Về kiến nghị vừa được thông qua, Thượng nghị sĩ Canada Ngô Thanh Hải hy vọng “(Đảng) Cộng sản Việt Nam sẽ nhận thấy rõ vai trò của mình đối với nhân dân Việt Nam là không thể nào để mất được Hoàng Sa và Trường Sa” trên Biển Đông.

Hạnh phúc là chia sẻ phúc lành bằng cả tấc lòng trong sáng (*).

 
 
Phan Thị Hồng is with Hoang Le Thanh and Đào Nguyên.

Tác giả: GS Phan văn Tường.

…Năm 1963, 17 tuổi, tôi bị cướp sạch tài sản trong đêm đầu tiên du học Pháp…

Năm ấy là năm 1963, tôi 17 tuổi.

Thật tôi sẽ nhớ mãi cái năm Mão ấy, tôi vừa bước chân tới nước Pháp để du học, thì tôi đã bị một người đồng hương tước mất gần hết tài sản ngay đêm đầu tiên.

Nếu vào thời điểm ngày hôm nay thì thực tình mà nói số tiền tôi mất hồi đó cũng không quá to, 3 ngàn đô-la. Nhưng đó là tất cả số tiền tôi đem đi để làm vốn cho ít nhất hai năm học, đối với một sinh viên không có nhà cửa gia đình anh em bên cạnh thì nó to lắm. Mà nó cũng rất to đối với cha mẹ tôi, vì đó cũng là tất cả số tiền cha mẹ tôi dành dụm để chuẩn bị cho con đi học ở nước ngoài. Với đồng lương công chức của cha tôi thì đó là công dành dụm từ nhiều năm về trước.

Thế nhưng ngay hôm đầu tiên tôi tới Pháp, mắt nhắm mắt mở, chân ướt chân ráo, giờ giấc ngược xuôi, thì tôi đã bị tước mất số tiền đó do một băng đảng du đãng ăn chơi, họ chuyên môn đón đầu những sinh viên còn ngây thơ vừa bước sang nước xa lạ. Tôi đã bị dọa bởi vũ khí, và tôi đã để tuột tất cả những gì có trong tay, cả số tiền khổng lồ được dành dụm bằng tình yêu của cha, được gói ghém từ bàn tay của mẹ. Và từ một thanh niên mới ra đời với nhiều ưu đãi, tôi đã biến trong khoảnh khắc thành một thằng bé vô gia cư, chưa có nghề nghiệp và nhất là không còn gì trong tay để phấn đấu, cũng như không có chỗ vịn thực sự, trên một đất nước mà mình chưa nói sõi tiếng người, chưa hiểu thực văn hóa, chưa có bạn, chưa có cả một tấm mền để trải nằm ban đêm.

Ngày đó đâu có như bây giờ, không có điện thoại di động, chỉ có telegram để báo tin khi cần, nhưng linh tính đã khuyên tôi không thông báo cho gia đình ở nước nhà. Vì chuyện đã rồi, việc báo tin chỉ làm cho cha mẹ lo thêm.

Thế là tôi một mình ôm bí mật rằng tôi đã trắng tay.

Vài chục năm sau, khi nghĩ lại sự cố đã xảy ra cho mình, thì tôi mới ngỡ ra là chính cái sự cố vô cùng bi đát ấy đã giúp cho tôi, một thằng bé 17 tuổi, sớm thành người.

Trùng lúc ở bên Pháp tôi bị trắng tay hết tiền, thì cha tôi lại bị sự cố tại nước nhà.

Một người bạn của cha đi công cán sang Pháp mới cho tôi thông tin không mấy vui về cha. Mẹ tôi có gửi ông bạn đó một lá thư trong đó mẹ dặn đi dặn lại là con cố cầm cự với số tiền mang theo càng lâu càng tốt, rồi đến khi gia đình ổn định trở lại thì mẹ sẽ gửi tiếp. Nào mẹ có biết sự thật phũ phàng phía bên này… Và tôi cũng viết vội vài hàng gửi mẹ qua tay của ông bạn rằng “mẹ đừng lo, số tiền cha mẹ cho con còn nguyên và nhờ đó con sẽ sống được thoải mái nhiều năm sắp tới”. Đó là lần đầu tiên tôi đã nói dối mẹ.

Vào những năm 60, xã hội Pháp không như ngày nay, đó là một xã hội tuy không kỳ thị nhưng vẫn khép kín. Người Pháp thì đã đành, nhưng ngay cả người Việt sống bên Pháp cũng không cởi mở như ngày nay. Ngày đó, chưa có các tiệm fastfood hay hamburger như McDonald’s hay Kingburger, nơi mà một người trẻ như tôi có thể kiếm việc dễ dàng để tự nuôi sống.

Thế nhưng, cũng vì tôi sang Pháp trễ so với niên học, nên tôi chỉ được đăng ký vào nội trú một trường ở ngoại ô xa, trường Francisque Sarcey ở Dourdan, cách Paris hơn 50 km. Cũng may cho tôi là tôi không được nhận vào các trường tại Paris, vì có lẽ tôi sẽ phải bỏ dở việc học do đời sống Paris quá đắt đỏ. Ngày ấy tại Dourdan, cái gì cũng rẻ, thêm vào đó, đây là một thị trấn rất nhỏ, gần như một cái làng lớn. Chính vì Dourdan nhỏ bé mà tôi đã tìm ra nơi nương tựa.

Trước hết tôi phải kể tới Cha Paul. Cha là cố đạo của nhà thờ Dourdan. Không có Cha có lẽ tôi đã không có ngày hôm nay.

Lần đầu tôi gặp Cha, là chính tôi đã mạnh dạn đến gõ cửa nhà thờ. Tối hôm đó, bụng đói, tôi đã mạo muội tìm đến nơi Thánh. Tôi vào nhà thờ, lòng bất an. Nhưng cánh cửa bên trong nhà thờ bất thình lình mở và Cha xuất hiện. Cha hiểu ngay tôi đang có vấn đề. Cha mời tôi vào nơi Cha tiếp khách. Cha không hỏi han gì mà lại chia ngay với tôi một khúc bánh mì. Cha nói: “Em vào đây chia sẻ bữa cơm của tôi.”

Thị trấn Dourdan – Nay trở thành một địa điểm du lịch tại Pháp.

Từ ngày hôm đó, tôi mới thực sự có một người bạn đầu tiên trên đất Pháp, đó chính là Cha Paul. Cứ đến chủ nhật là tôi đến giúp việc trong nhà thờ Dourdan và được Cha cho một bữa cơm ấm áp. Lần đầu ra đời gặp “nhân loại” tôi đã có ngay được cảm nhận là nhân loại không phải là một ý niệm gì trừu tượng, mà là những gương mặt cụ thể và tích cực. Gương mặt đầu tiên của nhân loại đối với tôi là Cha Paul.

Cha đã có những nghĩa cử đơn giản nhưng chứa chan tình người. Cha Paul đã là người đầu tiên làm cho tôi thấu hiểu được rằng hạnh phúc là một thứ gì rất chân thật, trong sáng, ấm áp. Và chỉ cần mỗi tuần một buổi sáng chủ nhật giúp việc trong lễ nhà thờ cũng đủ cho tôi cảm nhận phẳng phất được niềm hạnh phúc đó suốt tuần.

Và cũng không có gì sung sướng hơn là biết rằng Chúa ở trên cao đã đoái nhìn xuống ban cho tôi phúc lành, mà vẫn biết rằng phúc lành chỉ là một mẩu bánh mì mộc mạc.

Trong đời sống nhà trường, tôi được nội trú, tôi còn nhận được sự yêu thương của vợ chồng gác dan. Nhìn từ ngoài, ông bà Jean trông rất dữ dằn. Có lẽ nghề gác cửa, cấm kẻ lạ xâm nhập vào khu vực nhà trường, cấm học sinh thoát ra ngoài đi bụi đời đã vẽ lên nét mặt của cặp vợ chồng tất cả cái nghiêm nghị của thế gian. Tuy nhiên, trái tim của họ bằng vàng. Ông bà Jean đã thấu hiểu cảnh ngộ của tôi ngay từ lúc tôi nhập học ngày đầu.

Bà ấy thường hay rày tôi, nhưng lúc nào bà cũng quan tâm. Một hôm bà bảo tôi: “Mày giặt giũ làm sao? Trông mày dơ bẩn thế kia, mày cởi hết quần áo ra đưa tao giặt”. Thế là tôi được bà giặt quần áo miễn phí, bà còn ngụy biện rằng đằng nào ông bà cũng có máy giặt, nhiều ít gì cũng thế. Tuy nhiên, bà còn ủi thẳng thắn cho từng chiếc sơ mi, chiếc quần. Đến khi tôi chụp ảnh gửi về cho mẹ thì mẹ tôi rất ngạc nhiên hồi âm ngay hỏi rằng ai giặt và trông nom cho tôi mà áo quần ngay ngắn thế. Sau này khi mẹ tôi sang Pháp, mẹ đã tỏ ý muốn đến cám ơn tận nơi ông bà Jean.

Tôi thì cứ bị bà Jean mắng hoài hoài, nhưng tôi hiểu đó là lời mắng của sự quan tâm, lời mắng để cải thiện một thanh niên không được sống bên gia đình của mình. Những lời mắng này thật mát mẻ trong lòng tôi.

Ông Jean thì lại thương tôi một cách cụ thể hơn. Cứ đến hai ngày cuối tuần, ông rủ tôi đi làm thêm. Ông chuyên sửa điện nước, đổ rác, sơn nhà, đổ nền, nạo ống khói… Thế là ông và tôi chia nhau việc. Ông nhận việc chuyên môn, còn tôi thì việc chân tay. Có lần, tôi nạo xong ống khói mặt mũi đen đủi quần áo lọ lem làm mọi người cười. Tôi cũng cười, cái cười của một đứa thanh niên thật hãnh diện vừa nhận được chút tiền để tự nuôi thân. Ông bà Jean dần dần coi tôi như một đứa cháu trong nhà. Tôi cảm nhận được hạnh phúc sâu đậm đó, rằng tôi đã được người bản xứ nhận lãnh. Chỉ được nhìn nhận như vậy thôi cũng đủ để làm cho tôi cảm thấy mình thật quá may mắn.

Ở trong trường tôi còn được một người khác giúp đỡ tôi rất nhiều. Đó là bà Monique, bà là y tá săn sóc sức khỏe của học sinh nội trú. Gọi là bà, nhưng bà chưa có chồng tuy đã quá trạc 50. Người ác miệng nói là bà không có nhan sắc nghiêng thành do đó mới khó lấy chồng. Nhưng đối với tôi, thì bà là một con người nhân hậu mà tôi sẽ không bao giờ quên. Tôi gặp bà lần đầu lúc tôi bị bệnh. Mùa đông năm 1963 kỷ lục lạnh, nhiệt độ xuống hơn 15 độ âm. Tôi thiếu quần áo ấm và sau một lớp thể dục ngoài trời tôi bị lạnh phổi và được đưa vào nằm phòng bệnh hai tuần.

Bà Monique mới hỏi tôi gia đình ở đâu, vì trên nguyên tắc, học sinh nhuốm bệnh phải được trả về gia đình, chứ giường bệnh nội trú chỉ là tạm thời, quá lắm là 2, 3 ngày. Sau khi tôi khai hết cảnh ngộ thì không những bà cho phép tôi ở lại mà bà còn chăm lo cho tôi thật tận tụy. Sau này, tôi thường hay lên thăm bà trong giờ chơi, tôi hay tặng bà một miếng bánh sô cô la hoặc là một bó hoa tôi hái trong rừng. Bà cũng thường viết thư trấn an mẹ tôi. Đây không phải là trách nhiệm của bà, tôi cảm nhận đó là lòng thương. Từ lúc đó, tôi mới lại hiểu cụ thể hơn thế nào là hạnh phúc. Hạnh phúc rút cục là sự cảm nhận tình thương mà mọi người dành cho mình. Nhưng trên hạnh phúc đó, còn có cái duyên mà Đấng trên cao đã sắp sẵn cho mình. Tại sao mình lại được hưởng đặc ân đó thì mình thực sự không biết.

Trường học của tôi có một tục lệ là cứ mỗi 15 ngày thì nhà trường tổng vệ sinh nên yêu cầu tất cả học sinh nội trú ra ngoài trong hai ngày cuối tuần. Tất cả học sinh đều đợi dịp đó để về với gia đình nên họ vui tíu tít. Ngược lại đối với tôi thì dịp đó lại gây cho tôi nhiều khó khăn vì tôi không có gia đình, không có nơi để về… Vào hai ngày cuối tuần đó người ta dọn giường của sinh viên nội trú, mở toang cửa số, khóa máy sưởi, rải thuốc Javel, phun vòi nước sát trùng để tổng tẩy uế.

Bà Monique là người đầu tiên cứu tôi, bà đề nghị tôi ở lại trong trường, nhưng ở tạm trong căn phòng dành cho người bệnh. Bà coi đó là một trường hợp bất khả kháng, do đó tôi không thể coi đó là giải pháp thường trực.

Tôi cũng có mấy người bạn Việt Nam ở trong nhà Lào Việt tại Cư Xá quốc tế cho phép tôi trải nệm ngủ lậu qua đêm. Ở đây ông gác dan biết chuyện nhưng ông ấy cũng tốt nên ông không cằn nhằn.

Nhưng riêng tôi lại còn có thêm một phương án khác. Một hôm, tôi gặp lại một bạn xưa tên là Lân, Lân mới rủ tôi tới nhà chị Trà. Chị Trà là một phụ nữ đã đứng tuổi có chân tu.
Nhà của chị Trà là một căn hộ nhỏ bé, vỏn vẹn có một phòng, ở ngoại ô Levallois. Tuy căn nhỏ bé nhưng lúc nào cũng đông sinh viên tới xin ngủ qua đêm. Chị bảo nhà của chị là nhà của Chúa, các em cứ tới trú.

Thế là đêm nào cũng có đứa trải nệm nằm la liệt dưới đất, có hôm năm đứa chúng tôi phải nằm sít gần nhau vì căn phòng nhỏ quá. Nhưng chúng tôi rất vui, vì không những được qua đêm miễn phí nhưng còn có sẵn một bếp nhỏ để nấu xào. Đông như thế làm cho chúng tôi như có gia đình bên cạnh. Hơn thế nữa, chính vì gặp gỡ nhau tại nhà chị Trà mà chúng tôi truyền cho nhau công việc làm để kiếm tiền thêm. Lân thì rủ tôi cùng đi hầu bàn, Hà thì chỉ cho những chỗ để mua trái cây rẻ, những hoa trái già héo sắp thối nhưng vẫn còn ăn được. Huy thì lại chỉ cho tôi một chỗ làm đêm được trả rất hậu hĩnh. Đó là những dịch vụ tại bệnh viện ít ai muốn làm và có chút rủi ro nếu không cẩn thận.

Từ lúc thường gặp những người bạn mới này, tôi không thiếu việc. Hễ mình chấp nhận viêc khó hoặc nặng nhọc thì kế sinh nhai đơn thuần không phải là một vấn đề. Nhận định này cho tôi có được tự tin. Tự tin rằng mình sẽ chẳng bao giờ sợ đói, chỉ một ý tưởng đó thôi đã làm cho tôi thấy cuộc đời đượm tươi màu hồng. Thật vui, thật hạnh phúc. Duy một cái là trong lớp học tôi không được xuất sắc cho lắm.

Trường Francisque Sarcey ngày nay

Cuối niên học 63-64, cuối cùng tôi cũng thi đậu. Điểm suýt soát, nhưng vừa vặn để lên Đại Học. Vừa đúng lúc đó thì cha tôi cũng hồi sức. Bao nhiêu mây đen phủ trên bầu trời của tôi như dần dần tản bay.

Phải mấy chục năm sau, tôi mới dám hồi tưởng lại cái thời kỳ kinh khủng đó. Vì khách quan mà nói, nó kinh khủng quá. Nhưng tại sao tôi không giữ lại một chút đắng cay là một điều tôi khó lý giải. Mẹ tôi, khi gặp lại tôi vài năm sau đó mới rõ sự thật, bà cứ khóc mãi, bà tự trách sao trót để đứa con yêu lâm vào cảnh ngộ quái dị như vậy. Nhưng trong lúc mẹ khóc thì tôi lại vui cười sung sướng ôm mẹ. Tôi còn nói với mẹ: “Mẹ ạ, suốt năm học ấy con không khổ chút nào mà rất sung sướng mẹ ạ, mẹ đừng khóc nữa vì chẳng có gì để khóc.”

Một hôm, vào năm 1994, tôi được cô thư ký đưa lên một đơn xin việc, lúc đó tôi đang làm phó Tổng giám đốc một tập đoàn đa quốc gia. Hồ sơ xin việc có cả hình của người nộp đơn. Tôi nhận ra ngay, đúng hắn, không thể sai, người đã cướp hết tài sản của tôi vào lúc tôi đang tập tễnh ra đời. Cô thư ký nể tôi, cứ mỗi khi có người Việt xin việc thì cô hay báo cáo trực tiếp cho tôi.

Tôi đã hít một hơi thở thật mạnh. Và chỉ trong một chớp mắt, tôi đã chỉ đạo “để cho Ban nhân sự xử lý bình thường đơn xin việc”, tôi không để lộ cho ai chuyện riêng của tôi. Có lẽ hắn cũng đã quên tôi và cả sự việc rồi, hơn 30 năm đã qua. Trong lòng tôi không có chút hận thù mà ngược lại tôi lại có cảm giác nhẹ nhõm hơn, cứ như đã trút được cái gì còn vướng mắc.

Nghĩ lại chuyện của tôi, tôi không khỏi bàng hoàng và cùng một lúc tôi có cảm giác hạnh phúc. Bàng hoàng vì có lẽ tôi sẽ không bao giờ sẵn sàng sống lại một thời kỳ như thế.

Nhưng tại sao tôi lại có cảm giác hạnh phúc từ sự trải nghiệm đó thì thực tình tôi không rõ.

Phải chăng tôi đã được hưởng trọn niềm hạnh phúc của một con người tự tạo nên. Từ bàn tay trắng tôi đã thành con người tôi ngày nay. Tôi đã lông bông nhưng chưa bao giờ bụi đời. Tôi mới khám phá ra rằng tôi đã được hưởng một cái ADN cứng cỏi, lấy tính hiền từ làm cách hành xử. Lấy nụ cười can trường để làm khiên bảo vệ. Những thứ đó như có sẵn trong cơ thể. Rõ ràng tôi chỉ biết mỉm cười mà không biết khóc.
Phải chăng đó là do tính lạc quan. Tôi chưa bao giờ nhìn nỗi khó trước mặt như là một cực hình mà ngược lại tôi đã chỉ trông thấy những cơ hội được mở ra, thậm chí những thách thức rất đáng sống.

Phải chăng là tôi đã hiểu rất sớm rằng hạnh phúc bắt nguồn từ tình yêu thương. Tôi đã được nhà trường Dourdan yêu thương, Cha Paul yêu thương, ông bà gác dan yêu thương, bà y tá Monique yêu thương, chị Trà thánh thượng yêu thương. Thế giới của tôi vào lúc đó chỉ có thế nhưng đó là thế giới của những người tình nghĩa. Tình nghĩa và đoàn kết, biết cảm nhận, biết xót xa, biết chia sẻ. Chia sẻ hột cơm, chia sẻ mồ hôi, chia sẻ ngọt bùi.

Phải chăng là tôi luôn luôn có trong người tế bào hy vọng. Tương lai sẽ luôn luôn sáng nếu còn hy vọng. Thực ra, chính khi mình nằm tận đáy thì mình mới bám vào hy vọng để trông chờ. Từ đáy thì mình chỉ có thể vươn lên, tương lai chỉ có thể sáng hơn.

Phải chăng là tôi có một niềm tin mãnh liệt nơi Đấng trên cao. Tôi đã cầu nguyện rất nhiều. Nhưng, trong lời cầu nguyện tôi luôn luôn chỉ xin có thêm sức mạnh và sự soi sáng của Thượng đế chứ tôi chưa bao giờ xin những thứ khác. Và tôi ngạc nhiên tôi chưa bao giờ bị Đấng trên cao bỏ rơi.

“Hạnh phúc là cái gì con cảm nhận được khi con đã chia sẻ thật nhiệt tình, với tất cả lòng trong sáng từ bi”.

Có lần tôi hỏi cha tôi: “Bố ạ, thế nào là thành công? Thế nào là một cuộc đời sung mãn và hạnh phúc ?”

Ông nhìn đứa con và chậm rãi trả lời: “Người thành công là người muốn khẩn khoản chia lại những gì phúc lành đã ban cho mình. Chia lại tài sản, chia lại kiến thức, chia lại kinh nghiệm sống”.

Tôi lại hỏi cha: “Còn thế nào là hạnh phúc?” thì cha mới mỉm cười và ôn tồn chia sẻ với tôi: “Con ạ, hạnh phúc là cái gì con cảm nhận được khi con đã chia sẻ thật nhiệt tình, với tất cả lòng trong sáng từ bi.”

Và cha còn nói thêm: “Con hãy đem cả thân thế của con để xây dựng tình người, con hãy dùng tài sản riêng tư như là những viên gạch để kết nối và đoàn kết người với người. Con đừng bao giờ nhìn lên hay nhìn xuống mà coi mỗi người như là một người bạn đồng hành, đón nhận họ với những cá tính của họ, con hãy quý trọng ý kiến của mỗi người, vì chỉ có sự đa dạng mới làm nên một xã hội hùng mạnh, một đất nước trù phú.”

Những lời của cha còn văng vẳng bên tai. Nghĩ lại tôi vẫn choáng váng, và tôi chỉ mong suốt cuộc đời xứng đáng với ước niệm của cha.

Phan Văn Trường

Ảnh: Gs. Phan Văn Trường ký tặng sách.

***
(*): Tiêu đề do người đăng tự đặt.
Hạnh phúc là chia sẻ phúc lành bằng cả tấc lòng trong sáng.

Về tác giả:

Giáo sư Phan Văn Trường là chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực đàm phán quốc tế, và là cố vấn của chính phủ Pháp về thương mại quốc tế. Ông được Tổng thống Pháp đã trao tặng Huy chương Hiệp sĩ Bắc Đẩu Bội Tinh (Chevalier de la Légion d’Honneur) năm 2007 nhờ công lao đóng góp vào việc phát triển nước Pháp.

Ông từng tham gia vị trí quản lý cấp cao của nhiều tập đoàn lớn trên thế giới, tham gia đàm phán các dự án lớn tại hàng chục quốc gia với tổng giá trị các hợp đồng hơn 60 tỷ USD. Ông là tác giả cuốn sách “Một đời thương thuyết”, gồm rất nhiều câu chuyện, kinh nghiệm hàng chục năm đàm phán ở hàng chục quốc gia.

*
Hạnh phúc bắt nguồn từ tình yêu thương.
Nhiệt thành giúp đỡ người không may và vị tha là niềm hạnh phúc vô biên.
Giàu có không nên là tiêu chuẩn đánh giá sự thành công.
Được cống hiến, được sống với đam mê, được nhìn nhận nhân phẩm… là đã hạnh phúc tuyệt vời.
Phan Thị Hồng

Image may contain: 3 people, people sitting
 

 

CÁI THẾ PHẢI HÒA

Huỳnh Phi Long and 2 others shared a post.
Image may contain: outdoor
Image may contain: one or more people, people standing, suit and outdoor

Bong Lau is with Trịnh Việt Anh and 7 others.

Cộng Sản ở đâu và thời nào đều mang bản chất lật lọng hiếu chiến và tàn bạo như nhau.

Tuy nhiên lãnh tụ Bắc Hàn Kim Jong Un rất phong độ và ngạo nghễ khi dám chửi lộn tay đôi với TT. Trump và chĩa hỏa tiễn dọa san bằng Washington. Trong khi đó lãnh đạo Việt Cộng thì hèn hơn, một mặt vuốt đuôi nịnh bợ đế quốc Mỹ, mặt ngầm thì vẫn chống Mỹ cứu nước và bưng bô cho Nga Tàu, mặt ngầm khác thì vơ vét của cải của dân nghèo để đi định cư bên xứ giãy chết.

Năm 1973 Hà Nội bị buộc ngồi vào bàn hội nghị để ký Hiệp Định Paris, sau khi TT. Nixon ra lịnh oanh tạc Bắc Việt đêm ngày vào Giáng Sinh 1972. Mở màn cho cái gọi là “rút lui có danh dự”.

Năm 1973 Hoa Kỳ bị đặt vào cái thế phải ép buộc VNCH ký đại vào cái Hiệp Định tháo chạy của phe đồng minh và cho phép mấy trăm ngàn quân CSBV ở lại miền Nam.

Nixon nhượng bộ để cứu mấy trăm tù binh con tin Mỹ đưa về nước. Chính quyền Nixon – Ford muốn đánh nữa cũng không được vì Quốc Hội thiên tả do đảng Dân Chủ nắm quyền đã bắt đầu khóa sổ hầu bao. Và đa số dân Mỹ khi ấy không muốn dính líu tới Việt Nam nữa.

Nhiều người hay tin vào thuyết âm mưu cho rằng Mỹ bán miền Nam cho Trung Cộng. Nhưng thực tế là Quốc Hội Hoa Kỳ nắm ngân sách quốc phòng. Và khi ngân sách ấy bị khóa sổ thì Tổng Thống và Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ chỉ ngồi ngáp ruồi.

Sau khi Hoa Kỳ rút quân, VNCH cô đơn chống trả đối chọi lại hàng hàng lớp lớp quân Cộng nô được Liên Xô, Trung Cộng và cả một hậu phương lớn của Cộng Sản quốc tế yểm trợ. Và dư luận thế giới khi ấy bị lừa bịp cho rằng phe CSBV có chính nghĩa, là cuộc giải phóng dân tộc. Đó là cái thế Nam Việt phải thua. Thua trong cô đơn.

Ngày hôm nay tình thế đảo lộn hoàn toàn ở bán đảo Triều Tiên. Bắc Hàn đang ở một vị trí cô đơn như VNCH trước khi mất nước 1975. Bắc Hàn đang đối đầu với cả thế giới, với các đồng minh hùng mạnh của Hoa Kỳ như Nhật, Nam Hàn, Úc, Âu Châu v.v. và nhứt là với các phi đạn mang đầu nổ nguyên tử của Mỹ sẵn sàng biến xứ thiên đàng Hàn Cộng thành một khối thủy tinh, nếu cần phải nhấn “những cái nút bự hơn”.

Đa số dân Mỹ cảm thấy bị Hàn Cộng đe dọa. Nhứt là không thích bị ăn hỏa tiễn liên lục địa của Kim Jong Un nên quần chúng Mỹ ủng hộ lập trường cứng rắn của chính quyền Trump. Hình ảnh Kim Jong Un đối với dân Mỹ là một thằng điên nguy hiểm.

Trong khi đó đồng minh thân cận của Bắc Hàn là Trung Cộng bị chính quyền Trump gây áp lực, để hợp tác phong tỏa cấm vận chế độ Kim Jong Un đến tận chân tơ kẽ tóc.

Trump có một ê kíp kinh doanh chuyên nghiệp biết cách bóp bao tử đối phương hiệu quả hơn các đợt cấm vận của những chính quyền Hoa Kỳ trước đây.

Những yếu tố áp lực trên làm Kim Jong Un tìm một lối thoát ôn hòa. Để cứu vãn một nền kinh tế đang hấp hối. Tổng Thống Nam Hàn Moon Jae-In đã cho Kim Jong Un lối thoát danh dự đó.

Kim Jong Un và Moon Jae-In thân ái nắm tay nhau là hình đẹp của “hòa hợp hòa giải” làm nhiều người cảm động. Nhưng đó là bề ngoài. Hãy đợi đến cuộc họp Thượng Đỉnh giữa Kim Jong Un và Trump trong một hai tháng tới để phối kiểm thêm một lần nữa về những toan tính của lãnh tụ Hàn Cộng.

Sau đó là các báo cáo của tình báo đồng minh về các chương trình phóng phi đạn mang đầu đạn nguyên tử của Kim Jong Un. Nếu không có dấu hiệu đe dọa nữa. Khi ấy chúng ta sẽ an tâm chào mừng nền hòa bình ló dạng trên bán đảo Triều Tiên. Dân tộc họ sẽ ấm no và hùng mạnh.

Bỗng nhớ lại lịch sử nước nhà vào thập niên 60 khi công dân Nam Hàn ùa qua miền Nam kiếm việc làm. Bi giờ thì công dân Việt Nam ùa qua Nam Hàn để mần dziệc. Nhưng điều kiện và tư thế bi thảm hơn.   

Ngày trở về của “người thua cuộc”

Phía thất thế.

Ngày trở về của “người thua cuộc” (Đúng hơn là người của Phía THẤT THẾ)

Người đàn ông râu tóc bạc phơ trong ảnh là nguyên Đại tá VNCH Nguyễn Công Vĩnh. 13 năm sau ngày chiến tranh kết thúc (1975-1988), ông từ trại cải tạo trở về theo chuyến xe lửa dừng lại ga Hòa Hưng, Sài Gòn.

Người vợ vẫn còn phảng phất nét xuân sắc một thời, duy chỉ có những chiếc răng đã rụng dần theo năm tháng chờ trông. Người con trai tóc ngã hoa râm đã nắm tay cha và khóc như một đứa trẻ. Nhiều người nhìn tấm ảnh này cũng đã khóc theo anh, như để chia sẻ nỗi đau ngút ngàn mà anh đã trải qua và niềm hạnh phúc mà gia đình anh đã tìm lại được sau những tháng năm đầy ác mộng. Dù sao “người thua cuộc” Nguyễn Công Vĩnh cũng còn có những năm tháng cuối đời được sống trong vòng tay thương yêu của gia đình. Nhiều người bạn tù của ông không có được diễm phúc này, họ vĩnh viễn gửi nắm xương tàn nơi đất lạ quê người.

Image may contain: 4 people, people smiling, people standing
 

30 Tháng Tư

 
 
Phan Thị Hồng

Tác giả: Nguyễn Tài Ngọc

Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2012, với những bài viết linh hoạt về đời sống tại Mỹ kèm theo hình ảnh tại chỗ do chính ông chụp. Nhiều bài và hình ảnh của ông hiện được phổ biến trên mạng internet, một số đã thành sách “Xin Em Tấm Hình” và tập truyện mới, “Bắc Kỳ”. Sau đây là bài mới ghi chép sơ lược ngày 30 tháng Tư năm xưa.

Hình ảnh một thời rất quí mà tác giả còn giữ: Căn cước VNCH, áo sơ mi mặc ngày ra đi, mảnh tin báo Mỹ tháng Năm 1975.

***

30-4 là một ngày không một người Việt nào có thể quên. Phe thắng, chính quyền Bắc Việt, chọn 30-4 là ngày lễ ăn mừng. Phe thua, Việt Nam Cộng Hòa, với một số đông người Việt chạy tỵ nạn Cộng Sản sang định cư ở khắp các nước tự do trên thế giới, ghi thêm trên giấy những kỷ niệm hãi hùng của ngày 30-4.

Tôi rời SàiGòn trong khi đang học lớp 11. Tôi vẫn còn giữ chiếc áo mặc ngày ra đi, (hình trên, bên trái)

Tôi cũng vẫn còn giữ nhiều giấy tờ, hình ảnh, tiền bạc mà tôi đã mang theo.

Bây giờ đọc lại thẻ căn cước làm ngày 20-2-1973, tôi mới biết lúc 15 tuổi tôi cao 1.57 mét (5.1 inch), nặng 34 kg (75 lbs). Nhờ cái thẻ căn cước đó tôi mới biết bây giờ tôi quá phì lũ. 182 lbs (83 kg)! Tôi mập hơn xưa gấp hai lần rưỡi. Trời đất quỷ thần thiên địa ơi!

Cùng với chiếc áo, tôi giữ lại những bản tin về Việt Nam sau tháng 4 1975. Thời đó, tôi cắt những bản tin này trong báo rồi dán vào một tập vở, giữ cho đến bây giờ. Tôi dịch lại vài bản tin đó để nhớ lại một quãng thời gian không thể nào quên:

*

Tựa đề bản tin 12-05-1975:

NAM VIỆT NAM LÊN ÁN HOA KỲ VỀ VIỆC DI TẢN

12-May-1975:

Chính phủ (Lâm thời) Nam Việt Nam lên án chính quyền Ford đã bắt buộc dân chúng Việt Nam di tản và bắt cóc trẻ con đem ra nước ngoài. Ủy ban Điều tra Tội phạm Chiến tranh Đế quốc Mỹ ngụy Gây ra mới tuyên bố lên án chính quyền Ford đã phạm tội với dân chúng Nam Việt Nam:

“Việc bắt cóc con nít và bắt buộc người lớn di tản từ nhà của họ vừa được giải phóng là vô nhân loại, bất hợp pháp, và phạm tội ác.”

“Hành động quá táo bạo này vi phạm luật pháp quốc tế căn cứ theo Hiệp Định Geneva năm 1949 là phải bảo vệ dân sự trong thời chiến, cấm đoán việc bắt buộc di tản, …..”

“Chính quyền Hoa Kỳ đã phạm tội với dân chúng Nam Việt Nam, xâm phạm quy định của Tòa Án Quốc Tế tại Nuremberg, nhúng tay vào tội ác diệt chủng Hiệp Định Geneva ngày 9-12-1948 cấm cản”.

– Ghi chú: “Bắt buộc dân chúng Việt Nam di tản?” “Bắt cóc trẻ con?” “Mỹ Ngụy phạm tội ác?”…. Đọc những lời lẽ này làm tôi nhớ lại ngày xưa sống ở Việt Nam tối ngày cứ nghe những lời nói quá láo khoét của người Cộng Sản.

*

Tựa đề bản tin:

ĐỜI SỐNG DỄ THỞ Ở SÀIGÒN ĐÃ CHẤM DỨT

Hãng thông tấn AP,

25-May-1975:

… Hôm qua, thanh niên nam nữ xuống đường ở đường Tự Do lên án nhạc và văn hóa đồi trụy miền Nam, ảnh hưởng của Đế quốc Mỹ. Cuộc sống dễ thở của 3.5 triệu người SàiGòn trong thời Mỹ viện trợ chấm dứt nhanh chóng khi Cộng Sản bắt đầu xiết gông cùm kiểm soát.

… Một việc xẩy ra ngoài đường hôm Thứ Ba phản ảnh chính trị vẫn âm ỷ cháy: Tại quảng trường trước Quốc Hội cũ với bức tượng lính của VNCH xây cất đã bị giật sập đổ, một người vất vào đống rác ở đó một lá cờ Bắc Việt, một lá cờ Mặt Trận Giải Phóng miền Nam, rồi châm lửa tự thiêu.

Bộ đội Cộng Sản đến tịch thu một xấp lá thư người tự thiêu để lại, không cho đám đông biết nội dung là gì.

… Phim ảnh Tây Phương bị cấm chiếu. Nhà cửa người tỵ nạn bỏ chạy để lại bị tịch thu cùng với tất cả vật dụng. Lính bộ đội vào chiếm đóng khách sạn cùng nhà cửa của dân lành.

*

Tựa đề bản tin UPI:

VIỆT NAM CẤM, RA LỆNH ĐỐT SÁCH

Hãng Thông Tấn UPI, 1975:

Cả trăm sinh viên xuống đường ủng hộ chiến dịch hủy diệt sách báo và băng thu thanh của chính quyền mới SàiGòn.

Các nhật báo tiếng Việt và tiếng Hoa in chữ in lớn “Cấm bán và tàng trữ sách báo, băng thu thanh để thực hành việc hủy diệt vết tích của Đế quốc Mỹ và tay sai ngụy để lại.”

Những nhật báo này nói rằng các sinh viên sẽ thi hành chiến dịch hủy diệt tất cả sách báo của chế độ cũ để bắt đầu một nền tảng mới của cách mạng văn hóa.

Tất cả tiệm bán sách báo đã được lệnh đóng cửa, cấm bán sách báo chính quyền ngụy. Cả trăm nghìn người ở SàiGòn đốt sách ở nhà để khỏi bị bắt về tội gìn giữ sách ngụy.

Phim ảnh Tây Phương bị cấm triệt để. Rạp ciné ở SàiGòn chỉ chiếu phim Bắc Việt, hầu hết về chiến tranh.

Truyền đơn sinh viên phân phát in: “Chúng ta phải hăng say tham gia tiêu diệt văn hóa phản cách mạnh, nô lệ, và tồi bại của Mỹ Ngụy. Phim ảnh, sách báo đồi trụy, nhạc ủy mị của chế độ cũ là thuốc độc giết hại thế hệ thanh thiếu niên.”

Ghi chú: Nhạc “đồi trụy” của quân Ngụy cần phải hủy diệt năm 1975 bây giờ được dân chúng ưa chuộng số 1 từ Móng Cái đến Cà Mau, được ca sĩ gốc Bắc lẫn gốc Nam trình diễn khắp nơi từ Hà Nội đến SàiGòn.

*

Tựa đề bản tin UPI:

1546 NGƯỜI TRỞ VỀ VIỆT NAM

Hãng Thông Tấn UPI, 28-Oct-1975:

Hồng Thập Tự của Quân đội Giải Phóng loan báo một con tầu chở 1546 người Việt tỵ nạn khởi hành từ Guam đã cặp bến ở Nam Việt Nam vào ngày 27-Oct, mặc dù chưa được phép hồi hương của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời.

Con tày này tên là Việt Nam Thương Tín, rời Guam vào ngày 16-Oct. Hồng Thập Tự của Quân đội Giải Phóng đã gửi bác sĩ đến bến để chăm sóc cho những người cần y tế.

Một hành khách chết trên đường đi đã được thủy táng.

Hồng Thập Tự của Quân đội Giải Phóng lên án chính quyền Tổng Thống Ford ngoan cố không nghe lời cảnh cáo của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời nên đã có những hành động vô trách nhiệm với những người bệnh tật, già yếu, thai nghén trên tầu Việt Nam Thương Tín.

Phát ngôn viên Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời tuyên bố chấp nhận thuyền trở về Việt Nam vì lý do nhân đạo. Còn những người tỵ nạn khác được Mỹ di tản nhưng muốn trở về Việt Nam thì phải nộp đơn xin phép. Mỗi trường hợp sẽ được xét xử riêng biệt.

Hồng Thập Tự của Quân đội Giải Phóng nói rằng hai phần ba người trên tầu trở về quê hương là “binh lính tay sai và công chức của chính quyền Ngụy.”

Ghi chú: Tháng Sáu 1975 gia đình tôi ở trại tỵ nạn ở Guam. Một ngày tôi có dịp chứng kiến một đám đông sau hàng kẽm gai la hét ầm ĩ, đốt lửa vài vật dụng. Lính Mỹ đến khống chế họ. Tôi hỏi thì mới biết những người này di tản đến Mỹ nhưng bây giờ muốn đòi trở về Việt Nam. Có một chiếc tầu to -Việt Nam Thương Tín- có thể dùng để họ lái về nước nhưng người Mỹ phải sửa soạn lương thực và xem xét tầu an toàn ra biển. Sự sửa soạn này làm việc đi về bị trì hoãn nên họ biểu tình phản đối Mỹ đình trệ.

Ai cũng biết hậu quả xấu số của những người ngu dại này khi trở về Việt Nam. (Tất cả đều bị lột truồng, kiểm soát tịch thu mọi vật dụng, sau đó tống vào trại tù cải tạo). Đã đến thiên đường Mỹ mà còn không biết!

*

Tựa đề bản tin:

SAIGON SỤP ĐỔ NHANH CHÓNG LÀM CỘNG SẢN NGẠC NHIÊN

New York Times, 1976

Tầng lớp lãnh đạo Cộng Sản không dự định là cuộc tấn công tối hậu vào VNCH năm ngoái sẽ đoạt lấy chiến thắng vĩnh viễn, rất ngạc nhiên là SaiGon sụp đổ quá nhanh chóng, căn cứ theo Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Cộng Sản.

Tướng Văn Tiến Dũng nói khi nghe tin cả chục nghìn binh lính VNCH và dân sự bỏ chạy trong hoảng sợ từ miền Trung Pleiku, bắt đầu một cuộc rút lui vô trật tự, ông ta không tin là chuyện ấy lại có thể xẩy ra: “Tại sao lại bỏ chạy?” “Ai đã ra lệnh tháo quân?”

Văn Tiến Dũng tiết lộ thêm những điểm sau đây:

– Sau khi bàn thảo chiến thuật từ 18-Dec-1974 đến 8-Jan-1975, Hà nội quyết định đánh Ban Mê Thuột trước.

– Lý do Ban Mê Thuột và các tỉnh vùng cao nguyên được chọn là khởi điểm bị tấn công vì tình báo CS cho biết Nguyễn Văn Thiệu nghĩ là CS sẽ đánh vào Tây Ninh, do đó Thiệu tập trung quân ở Tây Ninh, chỉ để binh lính rời rạc giữ vùng cao nguyên.

– CS biết Tướng VNCH Phạm Văn Phú đoán lầm là CS sẽ tấn công vào Kontum và Pleiku, nên Phú chỉ giữ một Trung đoàn ở Ban Mê Thuột.

– Văn Tiến Dũng đồng ý với lời phàn nàn của Nguyễn Văn Thiệu và người Mỹ ở VN là quyết định cắt giảm viện trợ làm VNCH không đủ sức đánh nhau. Dũng đoán sự cắt giảm này giảm súng ống đạn dược của VNCH đến 60%.

– Vào mùa thu 1974, trong khi bàn thảo quyết định tổng tấn công VNCH, các nhân vật lãnh đạo CS bàn cãi sôi nổi không biết Mỹ có nhẩy vào vòng chiến nếu VNCH bị tấn công. Cuối cùng, Hà Nội quyết định cứ đánh vì nghĩ rằng Mỹ sẽ không tham gia vì vụ Watergate và kinh tế Mỹ đang đi xuống.

Ghi chú : Theo Frank Snepp, làm cho CIA với chức vụ Giám Đốc phân tích chiến lược Cộng Sản Bắc Việt, trong quyển Decent Interval (Khoảng Cách Vừa Đủ) thì khi Cộng Sản tấn công vào vùng Cao Nguyên, Thiệu quyết định bỏ miền Trung, rút quân vào SàiGòn. Lý do không những để bảo vệ Thiệu chống quân Cộng Sản, mà Thiệu nghi ngờ phe Nguyễn Cao Kỳ nhân cơ hội đảo chánh nên Thiệu cần quân đội thân cận bảo vệ mình.

*

Tựa đề bản tin:

ĐIỂM THI CỦA HỌC SINH MỸ THUA HỌC SINH TỴ NẠN

Oceanside (San Diego), 1976:

Một giáo viên tiết lộ là chương trình giáo dục của Mỹ thất bại thảm hại sau khi khám phá điểm thi của học sinh tỵ nạn Việt Nam cao hơn học sinh Mỹ rất nhiều.

J. Paul Adkins, giáo viên dạy lớp Bốn ở Tiểu học San Luis Rey School nói: “Theo ý tôi, chương trình giáo dục của chúng ta (Hoa Kỳ) đang xuống dốc. Chúng ta có trách nhiệm nặng nề đã không đào tạo một nền giáo dục xuất sắc cho con em chúng ta.”

Adkins nói là ông tổ chức một kỳ thi cho 33 học sinh tỵ nạn Việt Nam và 100 học sinh Mỹ. Về môn Toán, nhóm học sinh Việt Nam làm 93% đúng, trong khi nhóm học sinh Mỹ làm đúng chỉ có 29%.

….Adkins nói là sau khi nói chuyện với tất cả các giáo viên trong trường, ông ta mới biết là học sinh tỵ nạn Việt Nam dẫn đầu học sinh Mỹ trong tất cả các môn, ngoại trừ mỗi một môn về tiếng Anh.

Ghi chú: Tôi sang Mỹ học lớp 12 ở Trung Học Hoover High, San Diego. Ở cấp Trung học, lối dạy của Mỹ khác với Việt Nam và các quốc gia Á Châu. Ở Việt Nam học sinh không có quyền chọn lựa môn học. Chương trình đã định sẵn, tất cả phải theo. Trong khi ở Mỹ học sinh có quyền chọn lựa. Bộ Giáo Dục ấn định số lượng “units” phải học xong nếu muốn tốt nghiệp Trung học.

Tôi nói thí dụ: Thí dụ Trung học ở VN khi học hết lớp 12 thì mọi học sinh đều phải học xong 30 units Hình Học, 30 units Lý Hóa… chẳng hạn. Nhưng ở Mỹ thì chỉ cần học xong tối thiểu 10 units Hình Học, 8 units Lý Hóa… Thành ra học sinh nào không thích môn Toán, Lý Hóa thì chỉ cần học units tối thiểu thôi (học sinh giỏi vẫn tiếp tục học hơn units đòi hỏi, 20, 30 units…).

Chính vì sự không bắt buộc này mà tôi nghĩ trình độ Toán, Lý Hóa, ngoại ngữ… của một học sinh lớp 12 của Mỹ có lẽ chỉ bằng trình độ của một học sinh lớp 10 của Việt Nam. Đây là lý do khi học sinh Việt tỵ nạn vào học Tiểu học, Trung học ở Mỹ thời bấy giờ, báo chí Mỹ thường đăng tải là học sinh tỵ nạn quá giỏi! Ngoại trừ lớp sinh ngữ tiếng Anh, dĩ nhiên!

*

Những ngày tháng đầu tiên định cư ở Mỹ là thời gian “rầu thúi ruột”, nhớ bạn học, nhớ láng giềng, nhớ trường lớp, nhớ xóm Bàn Cờ, nhớ bồ, và nhớ nhà. Để kết luận, tôi copy lại bài thơ “Nhớ Nhà” tôi làm ở những năm đầu tiên trên nước Mỹ (thơ trước tuổi đôi mươi):

NHỚ NHÀ

ta ngồi đây bên ánh đèn mờ ảo,
trong đêm không, trong bóng tối chập chùng.
bao năm qua xa dấu chốn quê hương,
lòng lặng chết như màn đêm áo não.

ngày ra đi tấm lòng vang rộn rã,
rời quê hương, nơi bốc ngút chiến tranh,
nơi đau thương tràn ngập khắp thị thành,
nơi cửa nát nhà tan đầy khắp lối.

nơi con thơ khóc gào niềm mất bố,
nơi vợ hiền cay đắng ngắm xác chồng,
nơi mẹ già điên dại bên xác con,
nơi cháu nhỏ thững thờ bên xác cố.

để đến đây bên phương trời Mỹ quốc,
nơi tự do tràn ngập khắp mọi người,
nơi an lành ngự trị khắp muôn nơi,
nơi tương lai rực ngời như ánh đuốc.

tuy sung sướng tinh thần lẫn vật chất,
thế nhưng ta đã mất thật nhiều điều:
mất ngôi trường cũ rích nhưng đáng yêu,
mất những con đường cây dài, bóng mát.

mất tiếng rao bán hàng tang tảng sáng,
mất giọng cười trong trẻo chị bánh cam.
mất tiếng xe nổ giòn bác xe lam,
mất giọng nô đùa trẻ con trai gái.

ôi quê hương, biết bao giờ trở lại?
ta ra đi không hẹn một ngày về.
sống ở đây như ngủ trong giấc mê,
khi tỉnh giấc, nhớ nhà, lòng tê tái.

Nguyễn Tài Ngọc
April 2018. Sài Gòn Ocean – Home

Image may contain: people standing
Image may contain: 1 person
No automatic alt text available.

Quyết – FLC nhận tiền của Tàu Cộng để mua nước Việt Nam hộ Tàu.

Image may contain: 1 person, closeup
No automatic alt text available.

Phạm Thành is with Võ Hồng Ly and 18 others.

1. Đã từ lâu tôi nghi ngờ tay đại gia Quyết – FLC này và một số đại gia khác đã nhận tiền của Tàu Cộng để mua nước Việt Nam hộ Tàu Cộng. Nhưng trên mạng truyền thông xã hội chưa có bộc lộ ra bằng chứng, sợ nói ra, không có mấy người tin, nên không dám viết. Nhưng nay, đã có thông tin xác thực, Trịnh Văn Quyết (Quyết – FLC) lộ mặt vay tiền của Ngân hàng Công thương Trung Quốc: 105 tỷ đồng. Không phải ngẫu nhiên con số vay tiền của Tàu Cộng được công khai lộ ra. Con số này lộ ra là có chủ đích. Bởi tình hình thôn tính Việt Nam đến hồi Trung Quốc phải ngã bài, sau cú ngã bài năm 2017, 2018, Việt Nam phải ký 27 văn bản nhập nước Việt Nam vào nước Trung Quốc.

Con số vay 105 tỷ công khai này, cũng là con số nhỏ xíu, trong một dãy số tiền tệ lớn mà Tàu Cộng đã bơn cho đại gia Quyết – FLC này. Không thế, sao từ một thằng ất ơ vô nghề nghiệp, bỗng dưng năm 2008 vốn điều lệ có 18 tỷ đồng, đến năm 2014 vốn điều lệ đã tăng lên 3.140 tỷ, năm 2015 tăng lên 8.400 tỷ… sau 7 năm vốn tăng lên gấp hơn 465 lần, một mức tăng siêu tưởng. Nhờ đâu mà Quyết – FLC lớn nhanh như thổi vậy? Chưa kể, với số vốn ban đầu chỉ vỏn vẹn 18 tỷ, liệu Quyết – FLC có thể mua nổi những miếng đất vàng trị giá hàng chục nghìn tỷ hay không?

Một tên trộm tài ba trong nghề cướp nhà băng, cũng không thể giàu có nhanh chóng đến mức chóng mặt như vậy.

Quyết có tiền từ đâu? Hiện tại tổng số nợ của Quyết la 4.500 tỷ đồng. Quyết nợ ai, bao nhiêu? Nếu được bạch hóa, hẳn sẽ lộ ra, ai là chủ nợ của Quyết, ai thực sự là ông chủ chăn dắt Quyết.

Tôi dám chắc, phi Tàu Cộng, không còn có ai khác.

2. Hãy xem bước chân của đại gia Quyết thường đi đến đâu và nhìn ngắm ở chỗ đất, nước nào của nước ta, cũng có thể đoán định được.

Mặc dù Quyết có đầu tư kinh doanh ở Hà Nội, Sài Gòn với những dự án khủng, nhưng chỉ là đắp chiếu để đó. Chẳng hạn như dự án trúng thầu 6,4 ha ở quận Nam Từ Liêm, Hà Nội, với số vốn đầu tư tới cả ngàn tỷ đồng, nhưng đến tháng 4 năm 2018, đã qua 8 tháng trúng thầu mà dự án vẫn đứng yên tại chỗ, thậm chí tiền mua đất (quyền sử dụng đất), Quyết – FLC còn nợ tới 762 tỷ đồng. Vậy mà quan chức Hà Nội vẫn bảo kê là chưa có lý do để bác kết quả trung thầu của Quyết, trong khi quy định phải nộp tiền đầy đủ không quá 20 ngày sau khi nhận thông báo kết quả trung thầu. Bản chất Quyết – FLC đầu tư ở Hà Nội hay Sài Gòn chỉ là nhằm lấy tiếng, thậm chí là cái khiên che lá chắn nhằm che mắt thiên hạ, làm mù lòa thiên hạ để không mấy ai nghi ngờ khi Quyết – FLC thự hiện nhiệm vụ chính của mình theo kế hoạch chỉ định của Tàu Cộng.

Mục tiêu trọng tâm của Quyết – FLC là phải mua cho kỳ được đất nước Việt Nam ở những vị trị quan trọng xung yếu nằm dọc theo bờ biển từ Thanh Hóa cho đến Nha Trang, Khánh Hòa. Tại Thanh hóa, điểm Quyết – FLC phải mua kỳ được là bãi biển Sầm Sơn. Tại Khánh Hòa, Quyết FLC phải mua cho được bãi biển ở gần Vịnh Cam Ranh.

Tại sao Quyết lại hăm hở, rốt ráo, quyết tâm mua cho kỳ được đất, nước ở những vùng biển này? Vì đây là hai địa điểm mà tàu chiến của Trung Quốc sẽ đổ bộ khi tiến hành đánh chiếm Việt Nam. Người Trung Quốc cần có hoa tiêu, cần có cơ sở và lực lượng cài cắm trước, để kế hoạch đổ bộ đạt kết quả tối ưu. Mua cho kỳ được, rồi tiến hành xây dựng cơ sở vật chất tại đây, là nhiệm vụ bắt buộc Quyết – FLC phải làm trước khi trở nên giàu có nhờ tiền đầu tư của Tàu Cộng.

Sau Quyết – FLC lộ mặt, tới đây, ông chủ Tàu Cộng sẽ còn bật mí nhiều đại gia Việt Nam trở nên giầu có nhưng đang phải gánh món nợ khổng lồ từ Tàu Cộng. Trong số đó không thể không có đại gia Tiên Văn Vũ.

Ảnh hướng tân công tư biển vào đất liện Việt Nam của Tàu Coongjj.

Kim Jong-un và Hội nghị Thượng đỉnh Nam – Bắc Triều Tiên.

 
 
 
Image may contain: 2 people, people smiling, people standing and suit
Image may contain: 2 people, people smiling, people standing and suit
Image may contain: 4 people, people smiling, people standing
Image may contain: 2 people, people sitting and outdoor
Image may contain: 2 people, people smiling, people standing
+2

Phan Thị Hồng is with Hoang Le Thanh and 4 others.

Việc trong nước viết không hết, nhưng cũng xin góp chút xíu quan điểm về việc nhà cai trị tối cao của cộng sản Triều Tiên – kể từ năm 1953 – lần đầu tiên bước chân qua vĩ tuyến 38.

Hôm nay 27/4/2018, nhiều hình ảnh “thân thiện”, những cái bắt tay “nồng ấm”, những nụ cười “cởi mở”, những lời nói “chân thành” vang lên ở làng Hòa bình Bàn Môn Điếm trong một khu phi quân sự Hàn quốc – Triều Tiên.

Báo chí cả thế giới lên tiếng chúc mừng và ca ngợi.

Tôi cảm thấy rất vui và sung sướng cho một cơ hội hòa bình cho đất nước Nam-Bắc Triều Tiên (!?).

Tự thưởng cho mình một niềm vui êm ái, giơ bàn tay nhỏ vuốt mái tóc sau gáy, tôi bổng giật mình kinh hoàng cho sự “ăn mừng” quá sớm của cả thế giới.

Thông báo chung: Chỉ toàn là những lời HỨA HẸN và SẼ GIẢI TRỪ, mà – chúng ta – ai cũng biết: Cộng sản hứa hẹn thì cũng như nước đổ lá môn.

Một nguồn tin ngoại giao riêng, báo chí Nhật cho biết: Trong chuyến gặp gỡ với Tập Cận Bình tại Bắc Kinh, Kim Jong Un đã tuyên bố Bắc Hàn có thể cân nhắc xem xét việc từ bỏ vũ khí hạt nhân, với điều kiện Hoa Kỳ chấp thuận 3 yêu cầu sau:

1- Hoa Kỳ giúp Kim Jong Un bảo vệ chế độ cộng sản hiện tại, bảo vệ vị trí lãnh đạo hiện tại của cộng sản Bắc Triều Tiên.
2- Hoa Kỳ rút quân khỏi Nam Hàn và bán đảo Triều Tiên.
3- Hoa Kỳ bỏ cấm vận và viện trợ cho Bắc Hàn cũng như ký kết các hiệp định thương mại song phương.

Điều này cho thấy Kim Jong-Un – Chủ tịch Bắc Triều Tiên – chỉ muốn duy trì chế độ độc tài và bảo vệ ngôi vi lãnh tụ độc tôn của mình. Kim Jong-Un – một tên cai trị tàn ác – không hề có thiện chí hòa bình hay tấm lòng vì sự thống nhất đất nước, dân tộc dân chủ, tự do cho đất nước bán đảo Triều Tiên !

Chẳng có gì bảo đảm là vài năm sau Kim Jong-Un – Chủ tịch Bắc Triều Tiên – lại không lật lọng ra lệnh cả nước chuẩn bị chiến tranh, tiếp tục khôi phục và thử nghiệm hạt nhân.

Kim Jong-Un đã từng 2 lần không giữ lời cam kết, lật lọng chữ ký của chính mình. Nếu thêm một (hay vài lần lật lọng nữa) thì cả thế giới cũng chỉ biết bản chất nó là cộng sản, tự trách mình chứ không làm gì được tên cộng sản độc tài và man rợ !

Tên cộng sản Kim Jong-Un mặt dày, cộng sản nói chung, tất cả bọn chúng đều quen thói dối trá, không có lòng tự trọng ! Người cộng sản luôn sẵn sàng nói láo, lừa bịp, lật lọng mà không một chút ngại ngùng !

Xin ghi lại vài lời nhắc nhở của của những người cộng sản đã từng nắm giữ các cấp lãnh đạo tối cao:

*Cựu Tổng bí thư đảng cộng sản Liên xô Mr. Gorbachev: “Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng cộng sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng cộng sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá”

*Cố Tổng thống Nga Boris Yeltsin: ” Cộng sản không thể nào sửa chữa, mà cần phải đào thải nó.”

*Tổng thống Nga Putin: “Kẻ nào tin những gì cộng sản nói là không có cái đầu. Kẻ nào làm theo lời của cộng sản, là không có trái tim“.

Phan Thị Hồng

Quốc Hận!

 
 
 
Image may contain: water and nature

Van Pham

Quốc Hận!

Nước đã mất, nhà đã tan, gia đình ly tán! Ý nghĩ nầy in sâu vào trong trí não của những người đang lênh đênh trên biển cả, trong những chiếc thuyền nhỏ bé mong manh, phú thác mạng sống của mình cho vận mệnh rủi may, những mong thoát khỏi ngục tù của những người cộng sản từ miền Bắc, đang xây cất trên toàn cõi quê hương yêu dấu.

Trên đường trốn chạy, lìa bỏ quê cha đất tổ, đã có hàng trăm ngàn người vùi thây trong biển cả, trong bụng cá, trong bàn tay sát nhân của bọn hải tặc khát máu. Cũng có những người vượt thoát bằng đường bộ, xuyên qua ngã Cambochia, Lào, và cũng không ít người đã chết đói vì lạc đường, hoặc bị giết bởi bọn Miên cộng, Lào cộng. Số còn lại, hơn 2 triệu người đã đến được bến bờ tự do với hai bàn tay trắng, và có rất nhiều người bỏ lại sau lưng những người thân yêu trong gia đinh, dòng họ. Hầu hết những thuyền nhân đó đã nói với các phái đoàn tiếp nhận định cư của các nước: “Thà chết trên biển cả còn hơn sống trong chế độ của Việt cộng (tạm dịch: Rather die on the high sea than live under the Vietnamese communist regime). Điều đó đã nói lên cái ý chí liều chết để đi tìm TỰ DO.

Thảm cảnh đó đã làm cho thế giới bàng hoàng, xúc động. Họ đã gọi những người trốn chạy khỏi quê hương nầy bằng một biệt danh, mà trong lịch sử loài người chưa từng có: “BOAT PEOPLE” (Thuyền Nhân).

Thảm cảnh đó khởi đầu vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày mà bọn cộng sản Việt Nam, từ miền Bắc, đã bất chấp hiệp định Paris 1973, với sự trợ giúp của khối cộng sản quốc tế, đã tấn công và chiếm lãnh miền Nam, nước Việt Nam Cộng Hòa, với sự hững-hờ của thế giới không cộng sản.
Cái hận đã mất nước và cái hận đã bị đồng minh phản bội, đưa đến cảnh nước mất nhà tan, gia đình phân cách, chia ly, đã tạo nên sự thống hận trong lòng người dân Việt kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Từ đấy, chúng ta, những người Việt hải ngoại và kể cả đồng bào quốc nội, gọi ngày 30 tháng tư hàng năm là NGÀY QUỐC HẬN.

Không có từ ngữ nào để diễn tả ngày đó chính xác hơn từ ngữ Ngày Quốc hận. Nó diễn tả không những đúng về mặt hiện thực mà còn đúng về mặt tâm linh. Ngày đó, đời sống của những con người Việt Nam trên toàn quốc đã bị thay đổi một cách toàn diện, từ tốt đẹp biến thành cùng khổ; từ tương lai trong sáng trở thành tăm tối, không có ngày mai. Trong lòng mỗi người đều bị đè nặng bởi nỗi niềm u uất, căm phẫn vì đang bị một lũ người vong bản, tay sai của ngoại bang, dốt nát, tàn ác cai trị bằng chánh sách vô nhân nhứt trần gian. Đời sống của người Việt Nam không hơn không kém gì với đời của một con vật: ngoan ngoãn thì được cho ăn, bằng không thì bị bỏ đói cho đến ngày tàn tạ.

Trong lòng mỗi con dân Việt, ai mà không nhớ đến ngày 30 tháng tư, ngày đổi đời đó? Tuy nhiên, mỗi người nhớ đến nó một cách khác nhau.

Cái nhớ sâu sắc nhất, không bao giờ quên là tuổi thanh niên đã bị hủy hoại trong các nhà tù gọi là trại “cải tạo”. Những rường cột của Quốc Gia đã bi kềm hãm trong ngục tù khổ sai, ăn không đủ no, bệnh không thuốc chữa. Bọn người ác độc lợi dụng sức người hom hem yếu đuối đó, bắt họ đi làm muớn, làm thuê, làm những việc khổ sai, chúng lấy tiền bỏ vào những cái túi tham không đáy. Những người tù “cải tạo” đó, bị hành hạ không những trên thể xác, mà cả tinh thần của họ cũng bị dày vò cả ngày lẫn đêm, bằng những lời chửi bới,hăm dọa, kể cả những đòn thù bằng đánh đập, biệt giam trong những thùng sắt ngột ngạt, nóng bỏng khi nắng lên, không cho nước uống, và còn nhiều trường hợp đem người chống đối bọn chúng ra xử bắn tại nơi đông người. Những hành động nầy, bọn cai tù tàn ác, gọi là những bài “học chính trị”, do “Bác” và Đảng chủ trương đối với những người sa cơ, thất thế.

Những người tù lương tâm đó là ai?

Họ là những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã xả thân mình để bảo vệ phần đất miền Nam của Tổ Quốc, giữ gìn an ninh cho người dân miền Nam được sống một đời sống thanh bình, an cư lạc nghiệp.

Họ là những công chức phục vụ cho chánh quyền Việt Nam Cộng Hòa, để xây dựng một quốc gia hùng mạnh phú cường, có phần trội hơn so với các nước lân bang như Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Thái Lan, Đại Hàn, Đài Loan.

Họ là những nhà tư bản đã góp công xây dựng nền kinh tế phồn thịnh cho nước Việt Nam Cộng Hoà.

Họ là những người trong ngành giáo dục, đã tận tụy và miệt mài với trách nhiệm mở mang trí óc cho những thanh thiếu niên, mong xây dựng nên một thế hệ kế tiếp, văn minh, thông thái hữu dụng cho quốc gia.

Những người tù lương tâm nầy đã bị buộc tội là đã phục vụ cho chánh quyền trước, đã giúp đỡ cho “Ngụy Quân, Ngụy Quyền” chống phá lại “cách mạng của nhân dân” (sic).

Ngoài những người đã bị bắt đi tù “cải tạo”, những người dân thường sống tại các đô thị cũng bị đày đọa không kém. Họ đa bị ép buộc đi đến những nơi hoang dã, thâm sơn cùng cốc, mà bọn cầm quyền ác ôn là “nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” (hiện giờ là cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), gọi là “vùng kinh tế mới”. Nơi đây chỉ với hai bàn tay trắng, không thể nào tìm được cách sinh nhai. Sau khi đuổi họ đi vùng kinh tế mới, “nhà nước” đã tịch thu tất cả tài sản, cơ ngơi của họ để phân phát cho những cán ngáo (ngố), đã có công với “nhà nước” trong việc cưỡng chiếm miền Nam.

Ở nông thôn, không còn ai có quyền có ruộng đất, dù rằng những mảnh đất do ông cha từ nhiều đời trước để lại cho con cháu. Tất cả ruộng đất đều quy về “hợp tác xã”. Người nông dân canh tác trên những mảnh đất ruộng vuờn đó, được thu hoạch do quyết định của bọn đầu sỏ xã ấp, bằng một chính sách gọi là “bảng chấm công”. Ai nịnh bợ hay theo phe chúng thì được chia nhiều hơn. Do vậy, đời sống của người ở nông thôn thiếu thốn rất trầm trọng, có nơi đã có người chết vì đói, mà điều nầy chưa hề xảy ra trong lịch sử của miền Nam Việt Nam.

Tóm lại, sau khi bọn cường bạo cộng sản Việt Nam nhờ súng đạn của Trung cộng, của Liên sô, đã cưỡng chiếm được nước Việt Nam Cộng Hòa, thì toàn thể trên 26 triệu người dân miền Nam, bị cướp giựt một cách trắng trợn, không khoan nhuợng, bị nhốt trong một nhà tù vĩ đại, đó là quê hương của mình, bị đày đọa vô cùng tàn ác, sống như một con thú không hơn không kém.

Tình cảnh của người dân Việt Nam hiện nay, năm 2018, đã qua 43 năm, không khác gì ngày bắt đầu cuộc đổi đời 30 tháng 4 năm 1975. Có khác chăng là lối sống giàu sang, xa hoa, trụy lạc của những “cán bộ” Việt cộng và gia đình họ. Còn người dân ngày càng bị đàn áp mạnh mẽ hơn, bằng những thủ đoạn, bằng những xảo thuật nghề nghiệp, gian manh hơn, ác độc hơn.

Đã là người Việt Nam thì không ai có thể quên, trong lòng ai cũng đang âm ỉ một nỗi hận. Những kẻ nào quên đi là họ cố ý bị “bịnh quên” để đổi lấy những đồng tiền dơ bẩn, đẫm ướt máu của đồng bào quốc nội. Họ đã quên đi ơn nghĩa của quốc gia cưu mang họ như một người tỵ nạn. Họ đã quên đi lòng bao dung của cộng đồng tỵ nạn đã đùm bọc, giúp đỡ họ, đến khi họ thành tài, nổi tiếng, thì vì họ xem đồng tiền lớn hơn bánh xe trâu (câu nói khinh miệt của dân miền Nam), họ phủi hết đi ơn nghĩa, trở lại hợp tác với kẻ thù, tiếp tay với bọn Cộng Phỉ, đàn áp ngược lại đồng bào của mình.

Để kết luận, cầu mong tất cả đồng bào Việt Nam hãy ghi nhớ, ngày Quốc Hận 30 tháng 4, bởi vì ngày đó là ngày mang đến nỗi hận xót xa cho cả nước, chúng ta hãy tưởng niệm đến quê hương đã mất đi, tưởng nhớ và tri ơn đến những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa, đã hy sinh mạng sống để bảo vệ tự do cho quê hương và đồng bào. Hãy tưởng nhớ đến những người tỵ nạn kém may mắn đã chết trên đường đi tìm tự do. Và quan trọng nhất là hãy làm một vài việc gì đó mà mình có thể, để góp bàn tay với đồng bào quốc nội, đập nát chế độ Việt cộng, để sớm gây dựng lại một Nước Việt Nam Tự Do Nhân Bản và Phồn Vinh, để cho ngày quốc hận trở thành không còn hận nữa, mà chỉ còn là ngày đen tối nhất được ghi lại trong lịch sử Việt Nam.

Nhìn cái hình đủ các quan văn võ hai Miền Triều Tiên hôm nay tôi bật khóc.

Thái Hòa Lê shared a post.

Vn không có cha già dân tộc thì đã sánh vai với Nam Hàn rồi!

 
Image may contain: 17 people, including Minh Le, people smiling, people standing, suit and wedding

Nguyễn Tấn ThànhFollow

Nhìn cái hình đủ các quan văn võ hai Miền Triều Tiên hôm nay tôi bật khóc.

Nó làm cho tôi liên tưởng tới hai Miền Việt tưởng như cùng cảnh ngộ, bởi hai dân tộc bị chia đôi sau Thế chiến 2.

Tôi khóc vì nước Việt không may mắn để có thằng trẻ con như Ủn lãnh đạo, mà lại là một cha già lãnh đạo, để rồi đem súng đạn Nga, Tàu về tàn phá dân tộc Việt này.

Đau hơn khi rất nhiều người dân Việt còn nghĩ cha già dân tộc đó là có công lớn lắm mà không biết đích thị là nhận lương Quốc tế cộng sản, đem súng đạn về điêu linh nước Việt.