https://www.facebook.com/HienTinhDatNuoc/videos/199047954052255/?hc_ref=ARQ-p4MeG4KyTGe0F4gs_Ikej6bx3PN7gm_GUqMu7YczS6OZbveROAuxwRswPAj8Gxk
BIỂU TÌNH CHỐNG TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG
https://www.facebook.com/RFAVietnam/videos/10156360016859571/?hc_ref=ARRsSn5XB7fvbxSTcm2QwKqnNDfFhcp-mIy6MP4gstH9q17a8RsW7TN2AjVguvrMisU
Anh ấy nói rất đúng nhỉ !
VanHieu Nguyen and Trong Nguyen shared Nguyễn Khoa Phước‘s post.

Giới đấu tranh VN chia sẻ kinh nghiệm bị bắt tù
Giới đấu tranh VN chia sẻ kinh nghiệm bị bắt tù
Năm 2017 đánh dấu một năm khắc nghiệt nhất đối với giới đấu tranh dân chủ ở Việt Nam, khi số lượng lớn các nhà hoạt động, bloggers bị bắt giữ và bỏ tù.
Nổi bật là hai bản án 9-10 năm tù đối với bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh “Mẹ Nấm” và bà Trần Thị Nga. Trong khi đó nhà hoạt động Phạm Đoan Trang thì liên tục phải lẩn trốn vì sự kiểm soát và sách nhiễu gắt gao của công an.
Và sắp tới, hôm 5/4 sẽ diễn ra phiên tòa xét xử luật sư Nguyễn Văn Đài và 5 thành viên của Hội Anh Em Dân Chủ.
Vì vậy, luật sư Lê Công Định nói ông và các nhà hoạt động lâu năm khác quyết định chia sẻ kinh nghiệm ứng phó khi bị bắt giữ và giam giữ.

Trả lời BBC hôm 31/3, ông Định nói ông chính là người khởi xướng hành động này.
“Tôi thấy đây là kinh nghiệm rất quý giá đối với những người tranh đấu, vì việc các cơ quan công an trấn áp những người tranh đấu, bắt họ lên đồn xảy ra thường xuyên hơn.
“Chia sẻ từ những người từng trải qua những việc như thế rất quan trọng với những người mới, muốn tham gia phong trào phản kháng.”
Làm gì khi bị bắt lên đồn?

Trong một bài viết chung giới đấu tranh gửi cho BBC, bà Đặng Bích Phượng chia sẻ bà đã bị bắt lên đồn công an 9 lần, có một lần bị tạm giữ 5 ngày, bị giam ở Trại Giam B14 “Hỏa Lò” 3 ngày.
Bà Phượng khuyên, “khi bị bắt, không có nghĩa vụ phải trình bày, “,”không ký biên bản” và “không đồng ý khám người đồ đạc”.
“Dù việc đó chẳng làm thay đổi được điều gì, vì công an vốn cho họ có quyền ngồi lên pháp luật, nhưng ít nhất tôi đang thực hiện quyền của tôi.”
Luật sư Lê Công Định, cũng là nhà bất đồng chính kiến bị tuyên án 5 năm tù, 3 năm quản chế vào 2009 vì hoạt động bị cho là nhằm lật đổ chính quyền”, nói các loại giấy mời, giấy triệu tập chỉ có tính bắt buộc “nếu việc triệu tập thuộc phạm vi một vụ án hình sự đã khởi tố,” còn không thì người dân có quyền từ chối.
Người dân cũng có thể từ chối làm việc sau 5 giờ chiều, vì “cơ quan an ninh có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của công dân”, ông nói.
Ông Định nhấn mạnh người bị thẩm vấn cần tận dụng quyền im lặng của mình.
“Người bị thẩm vấn có Quyền im lặng và, do đó, quyền từ chối trả lời mọi câu hỏi của cơ quan an ninh, bất kể có hay không có sự hiện diện của luật sư của mình, bởi vì đây là quyền luật định của mọi công dân.”
Làm gì khi bị điều tra, ra tòa?
Cựu tù nhân chính trị Phạm Thanh Nghiên, người từng bị tuyên án 4 năm theo tội tuyên truyền chống nhà nước, vào năm 2008 thì nói, qua bài viết chung:
“Không cần căm thù hay khinh ghét công an (điều tra viên) nhưng không bao giờ được tin họ.

“Một sự việc, một bài viết, một phát ngôn hoặc một hành vi của bạn có thể bị hỏi đi hỏi lại nhiều lần, mỗi lần có thể cách nhau vài ngày thậm chí vài tháng. Hãy nhớ những gì đã “khai” hôm trước để lặp lại vào những lần sau. Nếu lời “khai” khác nhau, là tự đem lại rắc rối cho mình.”
“Đừng sợ lời đe doạ của điều tra viên cũng như lời hứa của họ.
Và “Thừa nhận hết các việc, các hành vi mình đã làm nhưng khẳng định những việc đó không phạm pháp.
“Chế độ cộng sản thường hay đánh tráo khái niệm. Họ sẽ buộc tội bạn chống lại đảng, nhà nước tức là chống lại đất nước và nhân dân. Hãy cắt nghĩa cho họ hiểu các khái niệm trên và nhiều vấn đề khác.”
Bà Nghiên khuyên rằng nên có một hoặc hai luật sư, dù ở Việt Nam các phiên tòa đều được xử kín với án bỏ túi, nhưng những luật sư sẽ giúp liên lạc với gia đình.
Và “hơn nữa, luật sư sẽ là người nói với công luận về diễn biến phiên toà cũng như thái độ của bạn khi đứng trước vành móng ngựa.”
Cuối cùng, bà khuyên, “hạn chế hoặc không nhìn xuống” nếu không muốn hình ảnh mình xuất hiện trên báo đảng với tư thế “cúi đầu”.
“Phe độc tài không muốn bạn xuất hiện với hình ảnh hiên ngang thì bạn càng phải thực hiện cho được điều đó.”
Làm gì khi ở trong tù?
Chia sẻ cụ thể và chi tiết nhất là ông Nguyễn Ngọc Già, cũng bị kết án tù 4 năm tù giam theo điều 88 vào 2014. Ông ra tù sớm một năm vào tháng 12/2017.

Ông có tôn chỉ: “Chăm sóc bản thân tức là đang chăm sóc cho người thân”.
Ông nhắc người tù cần phải chăm sóc tinh thần lẫn thể chất bằng cách tập yoga, đọc sách báo giải trí.
Vì ở tù lâu ngày, thiếu chất dinh dưỡng, nhiều người tù đều có vấn đề về răng, ông khuyên “ngậm nước muối” hàng ngày.
Không tiết kiệm, mà nên mua nước sạch để dùng cũng như thuốc “trị ghẻ” vì hầu hết tù nhân đều bị bệnh này vì tình trạng sống ẩm thấp, chật chội.
Ông nói thêm rằng cơm dù chán vẫn nên ăn ngay, và ăn đủ bữa, ngủ nghỉ đủ giấc.
Về việc tuyệt thực, ông nói ông không khuyến khích, nhưng nếu nếu người tù vẫn muốn làm thì nên tuyệt thực từ từ để tránh nguy hại cho sức khỏe.

Nên chuẩn bị tinh thần từ trước?
Nhiều nhà hoạt động căn dặn rằng những ai đã tham gia hoạt động đấu tranh, thì “điều đầu tiên cần xác quyết rằng bạn có thể bước chân vào tù bất cứ lúc nào.”
“Nên vui vì có thể bản thân bạn ít được nhớ tới nhưng lý tưởng của bạn, khát vọng của bạn vẫn luôn được đồng hành,” bà Nghiên nói.
Và “hãy tự tin với suy nghĩ rằng: ‘Mình bị bắt chỉ vì dám nói lên sự thật. Mình đang tranh đấu cho chính nghĩa. Bởi vậy, hy sinh cho lẽ phải là một đặc ân số phận đã ban trao cho mình”.
Ông Định nói ông dự định sẽ khuyến khích thêm nhiều người từng bị cơ quan công an bắt thẩm vấn thậm chí ở tù chia sẻ nhiều hơn.
Bọn ác
Bọn ác
Thứ Bảy, 03/24/2018
Từ những năm 2000 khi ngồi trên những chuyến xe về đêm từ Sài gòn về Phan rang tôi hay ngạc nhiên nghe bác tài và phụ xe thi thoảng lại nói lớn với hành khách “bọn ác, bọn ác…”, ý họ bảo là trước mặt có nhóm CSGT mọi người phải cẩn thận. Không rõ họ quen cách dùng tín hiệu ấy từ lúc nào, ai không tin cứ gặp tài xế hay phụ xế nhà xe Quốc Hùng ở Phan Rang. Nhà xe Quốc Hùng hồi ấy rất thân thuộc với dân Phan Rang vì dùng xe 16 chỗ đưa đón khách tận nhà, cả ở Phan Rang lẫn Sài gòn giá cả rất hợp lý.
Từ ngạc nhiên đến suy tư về cách mà người dân thường gọi các chiến sỹ Công an nhân dân như vậy: “Bọn ác”, mãi đến giờ gần 20 chục năm trôi qua mới có dịp tâm sự tản mạn cùng các bạn. Lẽ ra một người hành nghề Luật sư và hay viết báo như tôi phải hiểu rõ hơn họ, những người dân bình thường, về bọn ác đã hoành hành trên quê hương đất nước mình như thế nào.
Tôi từng chứng kiến bọn chúng dùng còng treo ngược một tay cô gái mới 20 tuổi lên thành cửa sổ trong đồn Công an, mỗi thằng Công an đều có hứng thú đánh và doạ nạt cô bé ấy. Chúng dùng roi đánh vào người, dùng tay chân đấm đá cô ấy bầm tím khắp người. Cô ta bị vu là lấy trộm dây chuyền vàng của bạn cùng phòng trọ. Cô ta sợ quá cứ khai nhận là đã mang vàng ấy đi đánh bạc ở chỗ này chỗ nọ, chúng còng tay chở xe đến những chỗ ấy nhưng không có chỗ nào cụ thể, rồi cô lại khai đã đưa cho chú ruột giữ, nhưng khi tìm người chú ấy hoá ra đã về quê từ cả tháng trước ngày mất trộm. Khi tôi và gia đình đến thì mọi hướng xác minh lời khai đều sai. Chỉ có một sự thật rõ ràng nhất là cô gái ngây thơ yếu ớt cả đời chưa biết làm hại ai đã bị ngờ oan và bị đánh quá dã man hoảng loạn nên cứ khai bừa khai bậy. Khi bọn ác cho về thì cả thân người bầm tím. Đơn từ khiếu nại gửi kèm ảnh chụp cả thân người bầm tím khắp nơi nhưng mãi mãi về sau không ai trả lời. Gia đình đưa con về quê miền Bắc dưỡng bệnh mất nhiều tháng sau mới đỡ cơn hoảng loạn ngơ ngẩn của cô gái.
Đấy là những năm 2003-2004 khi Internet và mạng xã hội chưa phổ biến mạnh như bây giờ. Thử tìm kiếm những cụm từ: “chết trong đồn công an”, “công an đánh dân” “Công an giết dân” sẽ ra hàng triệu kết quả đính kèm video clip và hình ảnh xem vài tháng chưa hết. Rất nhiều cái chết do tra tấn đánh đập dã man, thậm chí bị cắt cổ như anh Nguyễn Hữu Tấn chỉ vì lá cờ vàng ba sọc đỏ mà bị truy bắt… sau này gia đình phải kêu oan tận Quốc hội Mỹ và đến giờ hầu như mọi sự như bị trôi vào quên lãng.
Bọn ác cướp nhà cướp đất thì nhiều vô kể và dân chúng đứng lên chống đối bất chấp tù tội cũng nhiều vô kể suốt từ Bắc chí Nam. Đất đai là nguồn sinh sống là “quê hương nhỏ trong quê hương lớn” mà bị cướp đi dưới lý lẽ thu hồi đất lại cho nhà nước, thu hồi lại cho “sở hữu toàn dân”, với giá đền bù rẻ mạt nhưng lại giao luôn cho một sở hữu tư nhân khác có nhiều tiền của hơn để đầu tư dự án. Đành rằng dự án to đẹp hơn nhưng sở hữu tư nhân vẫn thành sở hữu tư nhân, chỉ là một bên bị ép giá và cưỡng bức như bị cướp tài sản bằng vũ lực, bên nhận đất làm dự án thì thu lợi gấp nhiều lần và dĩ nhiên lại quả đậm cho “Bọn ác”. Nhiều nơi bọn cướp còn điều khiển cả quân đội kèm chó nghiệp vụ sẵn sàng cắn xé bắt bớ dân lành. Quân đội lẽ ra chỉ bảo vệ tổ quốc và nhân dân thì nay tham gia cùng với bọn ác đàn áp nhân dân.
Bọn ác CSGT thì hoành hành mạnh hơn trước nhiều, bọn chúng vẫn bảo kê cho xe quá tải, xe chạy vào giờ cấm, các nhà xe Container, xe tải thùng và xe hành khách đều quá rành các kiểu ăn của bọn ác, nhiều người còn tố cáo đám “chim lợn” làm tay sai cò mồi cho bọn ác bẫy người giao thông, dùng đám ấy đánh người nào dám quay video hay có sự chống đối. Cứ tìm kiếm video hay hình ảnh trên mạng thì ra hàng triệu bằng chứng về bọn CSGT ăn tiền, đánh dân, nhưng kết quả về đám ấy bị kỷ luật hay đi tù thì hiếm lắm.
Bọn ác ấy sống dai vì có bọn ác hơn, ma quỷ quyền phép hơn bảo kê ở trên cao nữa. Bọn ác nhỏ, bọn ác lính lác đi vơ vét tiền về cống nạp chia chác cho bọn ác lớn, bọn ác cao cấp, bọn ác ngồi ghế lãnh đạo được tô vẽ là có đạo đức sáng ngời, là người đi đầu phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ, là những người con ưu tú của Đảng… Bọn ác bề ngoài toàn nói lời hay ý đẹp một cách trơn tru kiểu lòng dân ý Đảng, theo kiểu đạo đức văn minh, nhưng bề trong bóng tối, dưới gầm bàn là những quyền lợi tiền tỷ, nhà cao cửa rộng, con cái đi học nước ngoài, xây nhà biệt phủ, tiền bạc phủ phê mà không phải đóng thuế cho ai cả, mà cũng chưa có cơ quan hành pháp tư pháp nào truy tầm được cụ thể nguồn gốc tiền của thứ của chìm của nổi ấy từ đâu mà có…
Tất nhiên là đừng vơ đũa cả nắm vì dân gian có câu “Thằng này là Đảng viên nhưng vẫn còn tốt lắm…”, thật ra bây giờ trong bọn ác cao cấp ấy thì người ít ác cũng là hiếm lắm. Không tin bạn cứ hỏi dân thường, hỏi người hàng xóm của mình cho dễ thôi, rằng những cán bộ có chức quyền các cấp, các ngành từ công an, Hải quan, thuế vụ, tài nguyên môi trường, y tế cho đến văn hoá thông tin, giáo dục … có tham nhũng hay không? Tại sao họ có nhiều tiền thế, nhà đất to đẹp, tiền nhiều, con cái cho đi du học nước nọ nước kia, tài sản đâu ra?
Bà phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan vẫn được báo chí nêu tên vì câu nói “Tôi càng đi càng thấy buồn, ăn của dân không từ một cái gì”, vâng, tâm trạng của tôi cũng không khác gì bà Doan khi kể ra những chuyện mắt thấy tai nghe hàng mấy chục năm trời nay…
Cái chức quan nhỏ xíu dễ bị coi khinh như tổ trưởng dân phố mà vẫn có cửa ăn tiền bạn có tin không?
Có những cách ăn tiền bạn khó mà tưởng tượng ra như việc Công an giám định tử thi vẫn ăn tiền trên xác người chết. Nhà có người chết thuộc trường hợp phải giám định tử thi, nếu không chi tiền thì nó cứ để đấy mặc kệ sự sốt ruột của người thân. Đoạn trường ai có qua cầu mới hay, mới thấu hiểu cái bọn ác nó chực chờ vơ vét tiền dân khắp mọi ngõ ngách, mọi ban ngành, mọi tình huống. Cứ đụng chuyện phải đến cửa quan gặp bọn có chức có quyền, gặp bọn được Đảng giao phó trọng trách giải quyết công việc là y rằng nhìn mặt bọn ấy thôi đã thấy ác rồi. Bọn chúng tự xem mình như ông trời và xem dân mình chẳng ra gì, người tốt có nhưng hiếm lắm, gặp được cũng là phước rồi.
Bọn ác được giao cho việc quản lý thị trường và chất lượng hàng hoá nhưng hàng chất lượng kém, thực phẩm bẩn cứ nhan nhản với bề ngoài tươi đẹp dễ nhầm lẫn khiến dân mình bị nhiễm bệnh, bị ung thư với tỷ lệ gần cao nhất thế giới. Bạn có tin không, cứ Gu-gờ (Google Search) tìm kiếm là biết môi trường sống ở Việt nam nguy hiểm thế nào, từ không khí ô nhiễm, thực phẩm bẩn, trộm cướp, cho đến tai nạn giao thông đều quá cao so với thế giới.
Bọn ác ấy ăn lương từ tiền thuế của nhân dân, được mặc sắc phục mang chỉ dấu quyền lực phô trương rằng dân thuận ý thông qua Pháp luật cho chúng cầm quyền (mặc dù mọi cuộc bầu cử đều giả dối và được dàn xếp). Bọn ác ấy vẫn họp chi bộ đều đặn làm công tác phê và tự phê trong nội bộ Đảng nhưng chỉ là dòm chừng nhau và dặn dò nhau mọi ăn uống hối lộ phải kín đáo đừng để lộ liễu cho dân chúng và báo chí chộp được. Bọn ác vẫn làm công việc liệt kê tài sản với nhau trong phạm vi nội bộ cơ quan, nhưng chủ yếu là tạo vỏ bọc và hợp thức hoá những tài sản công khai, còn mớ tài sản dàn xếp cho con cho cháu nắm giữ hộ thì đem cả hệ thống cơ quan điều tra cả nước truy tìm hàng thế kỷ chưa chắc đã tìm ra đầy đủ những tài sản vì ăn cắp của công vì tham nhũng mà có.
Bọn ác hoành hành với hệ thống bảo bọc thông suốt từ Trung ương đến địa phương và đảm bảo cho những kẻ ăn theo ủng hộ địa chia chác những quyền lợi trong công cuộc cai trị.
Bọn ác vì bảo vệ hệ thống băng nhóm làm ăn chia chác nhiều thứ quyền lợi nên sẵn sàng bắt bớ đàn áp bất cứ ai có tinh thần chống đối tố cáo chúng cho công luận. Bao năm qua, những người dám nói lên sự thật một cách ôn hoà, chỉ là bất đồng chính kiến, họ luôn bị theo dõi bị đe doạ và bị bắt tù hàng chục năm với những vu cáo ghê gớm như “lật đổ chính quyền nhân dân” như “tuyên truyền chống nhà nước” … năm nào bọc ác cũng đều đặn bắt người để duy trì sự đe doạ, duy trì sự sợ hãi.
Vâng, chính quyền nào chủ thuyết nào cũng có mục tiêu cho dân chúng khoẻ mạnh, giàu có, vui sướng và đất nước văn minh cường thịnh … dù là chế độ Cộng sản hay Cộng hoà, nhưng phải thấy rõ là bây giờ “Bọn ác” ngày càng ác hơn, ngày càng đông hơn chứ không giảm kể từ cái đêm ấy khi tôi mơ ngủ giựt mình nghe bác tài nhà xe Quốc Hùng Phan Rang nói giựt giọng “Bọn ác, bọn ác…”
© Tuệ Tâm
Trên đời này, những thứ quý giá nhất đều là miễn phí
Trên đời này, những thứ quý giá nhất đều là miễn phí
Trên cuộc đời này, nhiều người hay than thở rằng cuộc đời thật bất công, rằng “Ông trời không có mắt” nhưng bạn có biết rằng, nếu ông trời “không có mắt”, không yêu thương nhân loại, thì nhân loại đã chết từ lâu rồi không? Ông đã ban rất nhiều thứ miễn phí cho con người, chỉ có điều bạn coi đã coi nó là hiển nhiên và không nhận ra mà thôi.
Ánh sáng mặt trời là miễn phí
Trên thế gian này, không sinh vật nào có thể sống sót nếu thiếu ánh mặt trời. Thế nhưng có ai từng phải trả một đồng nào cho thứ ánh sáng kỳ diệu đó chưa?
Không khí là miễn phí
Một người chỉ cần là đang sống trên Trái đất này, có ai mà có thể không hít thở mà có thể sống được? Thế nhưng từ xưa đến nay, đã có ai từng phải trả tiền cho thứ không thể thiếu này chưa?
Tình yêu là miễn phí
Đoạn tình cảm sâu đậm cùng nhau vượt sóng gió đó, cuộc tình hoạn nạn có nhau đó, sự hòa hợp của hai tâm hồn cùng đồng điệu đó, chính là sự đồng cảm sâu sắc nhất và là chỗ dựa vững chắc nhất trong cuộc đời chúng ta. Tất cả những điều này, đều là miễn phí hết và là thứ mà có tiền bạc cũng không thể mua được.
Tình thân là miễn phí
Mỗi người chúng ta đều trần trụi khi đến với thế gian này và đều nhận được sự che chở vô bờ bến của cha mẹ, một thứ tình thương không mong báo đáp in sâu trong máu thịt. Nhưng không có người cha mẹ nào nói với con mình rằng: “Con cho mẹ tiền mẹ mới thương con”.
Tình yêu thương này của cha mẹ, sẽ không giảm giá trị vì bạn đã trưởng thành, càng không mờ nhạt vì họ đã già đi, chỉ cần cha mẹ còn sống ở trên đời này, bạn vẫn nhận được tình yêu thương này trước sau như một.
Tình bạn là miễn phí
Người âm thầm ở bên cạnh bạn khi bạn cô đơn, người giơ cánh tay ra đỡ bạn khi bạn ngã, người cho bạn dựa vào vai an ủi bạn khi bạn đau lòng, người luôn sẵn sàng xuất hiện mỗi khi bạn cần giúp đỡ, thế nhưng người đó có bao giờ đổi những thứ đã cho đi thành tiền mặt, sau đó kêu bạn trả không?
Mục tiêu là miễn phí
Bất luận là hoàng tử ăn sung mặc sướng, hay là người lang thang ăn mặc rách rưới, bạn đều có thể đặt ra mục tiêu riêng cho cuộc đời mình.. Mục tiêu này có thể là vĩ đại, cũng có thể là bình thường, vừa có thể là huy hoàng và cũng có thể là giản dị, chỉ cần bạn cảm thấy bằng lòng với nó là đủ rồi.
Tín ngưỡng là miễn phí
Mỗi một cơ thể máu thịt đều nên có một tín ngưỡng chính xác và kiên định để dựa vào. Đó là nơi nương dựa tốt nhất của linh hồn, là ngọn đèn soi sáng giúp chúng ta vượt qua được mọi khó khăn, trắc trở trên đường đời.
Còn có gió xuân, thì còn có mưa phùn, còn có ánh trăng trong vắt, thì còn có các vì sao lấp lánh trên trời…
Vậy nên bạn đừng có than thở với ông Trời nữa, ông Trời không những rất công bằng mà lại còn rất hào phóng. Từ lâu ngài đã đem mọi thứ quý giá nhất, ban tặng miễn phí cho mỗi người rồi, chỉ có điều là bạn có nhận ra hay không mà thôi.
Theo ĐKN
Châu Yến
Điều kỳ lạ của chúng ta!
Điều kỳ lạ của chúng ta!
Sau biến cố 11 tháng 9 năm 2001 tại Mỹ, con gái của một vị giảng thuyết nổi tiếng được mời trả lời phỏng vấn trên truyền hình và người hướng dẫn chương trình đã hỏi cô ta như sau:
“Tại sao Thiên Chúa lại có thể để xảy ra một thảm họa khủng khiếp như vậy?”
Câu trả lời của thiếu nữ này thật là thâm thúy: “Tôi nghĩ là Thiên Chúa rất buồn vì điều đó, ít nhất là Ngài cũng buồn bằng chúng ta. Từ bao năm nay, chúng ta đã yêu cầu Ngài đi ra khỏi trường học, khỏi chính phủ và khỏi đời sống của chúng ta. Ngài là người ‘quân tử’ nên đã lẳng lặng rút lui.
Làm sao chúng ta có thể mong Chúa ban ơn lành và che chở chúng ta khi chúng ta đã khẩn thiết xin Ngài để mặc chúng ta một mình ?
Về những biến cố mới xảy ra như tấn công khủng bố, bắn giết trong trường học, chiến tranh …, tôi nghĩ rằng mọi sự đã bắt đầu với Madeleine Murray O’Hare, khi bà ấy than phiền là không nên đọc kinh trong trường học nữa. Và chúng ta đã đồng ý!
Rồi lại một người khác lại có ý kiến là chúng ta không nên đọc Kinh Thánh nơi trường học, cũng chính quyển Kinh Thánh trong đó dạy chúng ta: ‘Chớ giết người, chớ trộm cắp, yêu thương tha nhân như chính bản thân mình, v.v…’, và chúng ta cũng đã đồng ý!
Sau đó bác sĩ Benjamin Spock lại nói là chúng ta không được đánh con cái mình khi chúng làm gì xấu, vì chúng ta có thể làm sai lệch nhân cách bé nhỏ của chúng và làm cho chúng không biết tự quý trọng bản thân mình nữa. Thế rồi con trai của chính vị bác sĩ ấy khốn thay đã tự tử. Người ta bảo rằng một chuyên viên chắc chắn phải biết mình nói gì, còn ông ấy nói với chúng ta điều mà chính thực tế gia đình ông ấy thất bại , và chúng ta cũng đồng ý luôn !!!
Bây giờ chúng ta lại tự hỏi là tại sao con chúng ta không có lương tâm, tại sao chúng không phân biệt được thiện ác, và tại sao chúng ta có thể nhẫn tâm giết chết một thai nhi, một người thân hay chính mình.
Có thế sau khi suy nghĩ chín chắn, chúng ta đi đến kết luận: chúng ta gieo nhân nào thì sẽ gặt quả ấy.
Điều Kì Lạ… là con người có thể vứt bỏ Chúa một cách dễ dàng rồi sau đó lại tự hỏi tại sao thế giới biến thành địa ngục.
Điều Kì Lạ… là chúng ta lại có thể tin những gì báo chí nói mà lại nghi ngờ những gì Kinh Thánh nói.
Điều Kì Lạ… là chúng ta gửi cho nhau những chuyện vui cười qua email và chúng được truyền đi tiếp như lửa rơm, nhưng khi gửi những thông điệp về Thiên Chúa thì chúng ta lại đắn đo suy nghĩ trước khi gửi đi tiếp.
Điều Kì Lạ… là khi bạn gửi đi thông điệp này, có thể bạn không gửi đi cho nhiều người lắm trong danh sách của bạn, vì bạn không biết họ có tin Chúa không hoặc họ sẽ nghĩ gì về bạn.
Điều Kì Lạ… là chúng ta lại hay lo sợ người đời nghĩ sao về chúng ta, hơn là những gì Thiên Chúa nghĩ về chúng ta.
Hãy chia sẻ thông điệp này, nếu bạn nghĩ nó đáng được gửi đi. Nếu không, bạn cứ vứt nó đi, cũng chẳng ai biết đâu!
Nhưng nếu bạn cắt đứt chuỗi suy nghĩ này, thì đừng bao giờ than phiền về tình trạng tồi tệ của thế giới chúng ta đang sống.
Nguồn: Dòng Đồng Công Hoa Kì
Nếu bạn thấy bài viết này bổ ích chính mình và người khác, hãy chia sẻ cho nhiều người khác nữa nhé! Nguyện xin Chúa chúc lành cho bạn và gia đình!
From vuisongtrendoi
CON TRAI CỤ PHẠM QUỲNH KỂ CHUYỆN ĐI CẢI TÁNG CHA TÔI ĐI CẢI TÁNG THẦY TÔI





Nguyễn Xuân Diện added 5 new photos.
CON TRAI CỤ PHẠM QUỲNH KỂ CHUYỆN ĐI CẢI TÁNG CHA
TÔI ĐI CẢI TÁNG THẦY TÔI
Phạm Tuân
Phạm Tôn’blog
Lời dẫn của Phạm Tôn: Ông Phạm Tuân là con trai út trong năm con trai của Phạm Quỳnh, sinh năm 1936 tại Huế, hiện định cư tại Mỹ.
…Năm 1948, anh Bích tôi (Phạm Tuân – PT ghi chú) lúc bấy giờ làm Bí thư cho Quốc trưởng Bảo Đại đã dò hỏi được nơi Thầy tôi bị giết và chôn nhưng không thực hiện được việc tìm kiếm. Phần vì địa điểm là một nơi xa xôi, hẻo lánh, hiểm trở, lại là một vùng “xôi đậu” thiếu an ninh. Phần vì nghe lời khuyên can của những người am hiểu tình hình: không nên mạo hiểm, vì rất có thể đây là cái bẫy…giăng ra để bắt và tiêu diệt những người có liên hệ với các nạn nhân…Một hình thức “nhổ cỏ phải nhổ cho sạch rễ” vậy.
Mãi cho đến năm 1956…bỗng một hôm gia đình chúng tôi được thông báo chuẩn bị sẵn sàng để đi nhận lãnh hài cốt Thầy tôi! Một niềm vui mừng khôn tả, đồng thời một nỗi xúc động vô biên tràn ngập trong lòng anh chị em chúng tôi. Lập tức chúng tôi đi tìm những tin tức chính xác hơn.
Được sự giới thiệu của ông Hoàng Hùng (Bộ trưởng Bộ Kiến Thiết) (là con trai một người bạn Phạm Quỳnh, từng ở nhà Phạm Quỳnh thời còn đi học ở Hà Nội – PT ghi chú) và ông Võ Văn Hải (Văn phòng Phủ Tổng thống), chúng tôi tìm đến gặp ông Võ Như Nguyện. Được biết ông Võ Như Nguyện (nguyên Tỉnh trưởng Bình Định) cùng ông Hoàng Ngọc Trợ (Quận trưởng quận Phong Điền, Thừa Thiên) là những người được Tổng thống Ngô Đình Diệm trao cho việc tìm kiếm (hài cốt cha con Ngô Đình Khôi, anh của Ngô Đình Diệm – PT ghi chú).
Việc tìm kiếm hài cốt không đơn giản mà là một công tác lớn lao, đòi hỏi nhiều thời gian, nhân lực, phương tiện và an ninh tuyệt đối
Ngày 5 tháng 2 năm 1956 (cận Tết) tôi và chị Hảo (Phạm Thị Hảo, con gái thứ ba trong tám con gái của Phạm Quỳnh – PT ghi chú) tôi đi Huế để cùng với một phái đoàn của chính phủ tìm và nhận hài cốt các nạn nhân.
…Thật “nghịch đời”, lúc sinh thời, Thầy tôi và cụ Khôi vì khác chính kiến nên đã trở thành thù địch, thề “không đội trời chung”, thế mà khi thác lại nằm chung một hố.
Chúng tôi (tôi và chị Hảo) phải ở lại Huế lâu hơn dự định, vì như đã tả ở trên, địa điểm là một nơi xa xôi, khó đi lại nên chính phủ phải huy động công binh khai quang, ủi đất làm đường, bắc cầu cho xe hơi đi…trên mười lăm cây số. Ngoài ra còn phải điều động binh sĩ đến giữ an ninh quanh vùng. Nói tóm lại là cả một công trình nan giải mà chỉ có một chính quyền mới thực hiện được mà thôi…
…Nhưng đôi lúc tôi tự hỏi, giả sử như Thầy tôi không bị chôn vùi cùng huyệt với cụ Khôi và ông Huân, những người thân của Tổng thống, thì chúng tôi có được sự giúp đỡ này không?
Suốt ngày 8 tháng 2 năm 1956, đào xới đất, kết quả chỉ bới lên được một bộ hài cốt không phải là của một trong ba người. Mọi người đều thất vọng, lại lo rằng sau mười một năm, trải qua bao mùa lũ lụt, có thể các di hài bị nước lũ cuốn trôi đi chăng?
Đến chiều hôm sau, cận Tết, dưới trời mưa lâm râm, bỗng xuất hiện một cụ già đi ngang qua. Cụ hỏi toán dò tìm: “Đã tìm thấy các cụ chưa? Đào mương nào, mương cũ hay mương mới?”. Thì ra có hai mương…Cụ già nói tiếp: “Cách đây mười một năm tại đây tôi có đào một con mương để dẫn nước từ sông lên ruộng. Hôm sau, ra tát nước thì thấy mương bị lấp. Du kích trong làng cấm không cho tới gần. Vài năm sau, có người đến thầu mấy thửa ruộng của tôi, cũng đào mương, thì bị khuyến cáo không được đào thẳng mà phải đào chếch sang một bên”.
Thì ra đây là “mương mới”, chỗ tìm ra hài cốt độc nhất nói trên. Toán công binh tiếp tục đào sâu hơn, với chu vi rộng lớn hơn, thì quả nhiên tìm được ba bộ hài cốt ở vị thế đúng như những chi tiết thâu lượm được.
Gần đến hài cốt, để tránh đụng đến xương, đám người có phận sự ngưng sử dụng cuốc, xẻng mà chỉ dùng đũa cả khơi đất ra từng mảng. Sau cùng lộ ra rõ rệt ba bộ hài cốt nằm chồng lên nhau.
Hài cốt của Thầy tôi rất dễ nhận vì dài và ngay cạnh, tôi nhận ra được đôi mắt kính cận…Hài cốt của cụ Khôi và ông Huân thì ngắn và nhỏ bé. Thân nhân nhà họ Ngô còn nhận ra được hai chiếc răng vàng và cái thắt lưng to bản (quân phục Nhật) của ông Huân.
Ban tổ chức đã chuẩn bị sẵn ba cái tĩnh, vải liệm trắng đỏ, ba chậu tráng men lớn chứa đầy cồn 90 để rửa xương.
Việc thử nghiệm, rửa hài cốt và tẩm liệm kéo dài đến khi trời tối
Tại làng Văn Xá, quan tài cụ Khôi và ông Huân được quàn dưới một lều vải lớn, có thể chứa cả trăm người, có đèn điện thắp sáng choang, vòng hoa phúng viếng bày la liệt, lính mặc lễ phục túc trực hai bên, các bộ trưởng thứ trưởng âu phục trắng cà vạt đen, các đại biểu, cán bộ đủ mọi cấp ra vào tấp nập…Tiếng cầu kinh của giáo chúng thập phương vang rền suốt đêm. Được biết, ngày hôm sau sẽ di chuyển hai quan tài về Hiền Sĩ. Tại đây, một nhà thờ lớn đã được dựng lên để cử hành tang lễ trọng thể theo nghi thức quốc táng, có đông người tham dự và sau mồng ba Tết mới đưa về Phú Cam chôn cất.
Trong khi đó, trên một ngọn đồi thấp cách đấy không xa, trong một chiếc lều nhà binh nhỏ bé, dưới ánh sáng mờ ảo của mấy ngọn nến, hai chị em tôi cùng cụ bà Ưng Trình (thông gia với gia đình chúng tôi) thay phiên thắp nhang bên linh cữu Thầy tôi.
Chúng tôi có mời một thượng toạ trụ trì tại một ngôi chùa nhỏ trong làng đến làm lễ cầu siêu. Bên chính quyền cũng cử một đại diện đến phúng điếu và phân ưu. Sau đó, cắt cử hai quân nhân mặc lễ phục nghiêm chỉnh túc trực bên quan tài.
Như trên đã nói, ban tổ chức có cung cấp ba tĩnh bằng sành để đựng hài cốt…Cả ba có nắp in hình thánh giá của công giáo, nên chị tôi đã tế nhị từ chối để chỉ dùng cái tĩnh đã mua sẵn dành riêng cho đệ tử nhà Phật với chữ “Vạn” trên nắp.
Quá tủi thân trước sự khắc biệt, lòng ngậm ngùi thê thiết, chị em chúng tôi quyết định thuê đò chở quan tài Thầy tôi về Huế ngay đêm hôm ấy… Tám giờ sáng hôm sau thì đến chùa Vạn Phước. Thượng toạ trụ trì đã chờ sẵn. Sau nghi thức đơn giản, đúng chín giờ thì hạ huyệt. Một số đông bạn học cũ của các anh chị tôi tại hai trường Khải Định và Đồng Khánh đến chia buồn và tiễn đưa.
Thời gian dài kế tiếp sau đấy, người dân Sài Gòn được thấy một con đường lớn, rộng từ phi cảng Tân Sơn Nhất vào trung tâm thủ đô mang tên đại lộ Ngô Đình Khôi… Rồi đến thời Đệ nhị Cộng hoà của Tổng thống Thiệu “nghe nói” tên Thầy tôi đã được đặt cho một con đường nhỏ, gần đường Triệu Đà trong Chợ Lớn… Chị tôi và tôi lân la đi tìm, nhưng chẳng thấy tăm hơi…Tất cả chỉ là một “dự tính” mà thôi.
Ôi, thế thái nhân tình…
P.T.
__________
(Trích bài Sống lại với ký ức thuở ngày xưa, báo Ngày Nay (tiểu bang Minesota), số 385, ngày 30-6-2005 và Việt Học tạp chí phổ thông, số 2 (Nam Califonia) tháng 6-2005).
Cựu Đại Tướng và nguyên Thủ Tướng VNCH Trần Thiện Khiêm theo đạo Công Giáo
Ông sinh năm 1922, như vậy ở tuổi 96, ông đã chính thức xin gia nhập đạo Công Giáo và lấy tên thánh là Phaolô.
Bí tích Rửa tội đã được cử hành tại phòng khách của một dưỡng đường tại thành phố San Jose, miền Bắc California Hoa Kỳ, nơi ông đang nằm điều dưỡng do bị gẫy xương chân. Ông đã được rước Mình và Máu Thánh Chúa
![]() |
Theo tin được biết việc xin gia nhập đạo Công Giáo do chính ông quyết định sau khi đã tự nghiên cứu và tìm hiểu từ lâu. Theo lời ông kể, trước đây ông theo Đạo Ông Bà; nhưng gia đình họ hàng của ông đã có rất nhiều người theo đạo Công Giáo, đã có những người làm Linh Mục, Ma Sơ. Và đặc biệt, cũng theo ông, Luật sư Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng Viện và là vị Phó Tổng Thống sau cùng là người anh bà con của ông.
Người đưa tin từ San Jose.
ÔNG HỒ TRONG ĐỀN VÕ TÁNH
Huỳnh Phi Long posted 2 updates.



ÔNG HỒ TRONG ĐỀN VÕ TÁNH
Đền thờ Võ Tánh, Mỹ Tho, Tiền Giang. Chính giữa, ngáng trước án thờ Võ Tánh là bàn thờ và bức tượng Hồ Chí Minh.
Nghe nói nhiều nơi, di tích, đền thờ miếu mạo giờ cũng hay đặt ông Hồ kiểu vậy.
Một cách “thờ” ông Hồ cực kỳ phản cảm, bậy bạ!
______________________
– truongduynhat.org
Tâm sự của một cựu du sinh VN: Vì sao Cờ Vàng đã khai sáng cho tôi?
httpv://www.youtube.com/watch?v=Ia7_1sil8BU&feature=share
Tâm sự của một cựu du sinh VN: Vì sao Cờ Vàng đã khai sáng cho tôi?
‘Bên Thắng Cuộc’ chỉ ra hạn chế của Đổi Mới
‘Bên Thắng Cuộc’ chỉ ra hạn chế của Đổi Mới

Một trong những thiếu sót lớn trong lĩnh vực Việt Nam Học của khoảng một thế hệ qua là không có một ghi chép đầy đủ hoặc thực sự uy tín về hiện tượng lịch sử Đổi Mới (Renovation trong tiếng Anh).
Dù đây là định hướng chính sách tháo khoán nhờ đảng-nhà nước khởi xướng ở Đại hội Đảng 6 hay tinh thần cải tổ chung trong cả nước cuối thập niên 1980, thì Đổi mới rõ ràng lực đẩy quan trọng trong đời sống trí thức, văn hóa, chính trị, kinh tế Việt Nam trong hơn 30 năm qua.
Tuy nhiên, các học giả nước ngoài quan tâm chủ đề này có xu hướng chỉ tập trung hạn hẹp vào một số góc cạnh Đổi Mới mà lại không xem xét toàn bộ hiện tượng.
Khi các sinh viên hỏi tôi tư liệu về Đổi Mới, tôi thường giới thiệu tác phẩm của Adam Fforde về kinh tế, Carlyle Thayer chính trị, Tường Vũ ý thức hệ, Ben Kerkvliet nông nghiệp, Hy Văn Lương văn hóa làng xã, Pam McElwee chính trị môi trường, Nguyễn Võ Thu Hương quan hệ giới, John Schafer văn học…
Nhưng thật khó tìm ra một bài báo, sách, hay một học giả nào cung cấp tổng quan về Đổi Mới – bao gồm lịch sử về nguồn gốc của nó, diễn trình thay đổi theo thời gian, và ảnh hưởng khác nhau lên các lĩnh vực đời sống người Việt.
Cái nhìn toàn cảnh
Một trong những thành tựu của sách Bên Thắng Cuộc (tác giả Huy Đức) là đem lại ghi chép tốt nhất, ở bất kỳ ngôn ngữ nào, về lịch sử và tầm quan trọng của Đổi Mới. Cuốn sách xem xét kỹ lưỡng cuộc khủng hoảng trong nước đã thúc đẩy đòi hỏi xã hội muốn có những cải tổ sâu rộng trong thập niên sau kết thúc Chiến tranh Đông dương lần hai.
Sách kể lại quá trình tiến hành cải tổ theo kiểu “tiến một bước, lùi hai bước”. Sách cũng mô tả các lý do cắt bỏ đột ngột nghị trình cải cách, đặc biệt về văn hóa và chính trị.
Tóm lại, Bên Thắng Cuộc cho chúng ta cái nhìn toàn cảnh về Đổi mới – giúp khám phá và giải thích những thành công và thất bại của nó.
Bên Thắng Cuộc xác định nguồn gốc Đổi mới là trong khủng hoảng tự tạo ra khiến Việt Nam khó khăn trong giai đoạn hậu chiến 1975-1986. Khủng hoảng này gồm bảy thành tố chủ chốt, được Huy Đức viết trong bảy chương:
- Giam cầm không qua xử án hàng trăm ngàn người miền Nam trong các trại cải tạo khắc nghiệt sau chiến tranh
- Đảng-Nhà nước đàn áp thành phần tư sản miền Nam, đóng cửa, hoặc quốc hữu hóa doanh nghiệp của họ, tịch thu của cải
- Trừng phạt dân số gốc Hoa. Ban đầu chính sách này chỉ là một phần của cuộc tấn công tư sản miền Nam, nhưng sau nó phát động lên thành một phần chiến dịch riêng loại bỏ “gián điệp” ở Việt Nam trong cuộc chiến biên giới chống Trung Quốc
- Quân đội Việt Nam tiến vào và chiếm đóng Campuchia từ 1978
- Hàng trăm ngàn người chạy trốn qua đường biển, trên bộ vào cuối 1970, đầu 1980, hy vọng thoát khỏi sự cai trị của người cộng sản và định cư ở nước ngoài
- Nỗ lực chính thức của chính phủ nhằm chuyển hóa miền Nam thông qua xóa bỏ văn hóa “suy đồi”. Các biện pháp gồm đốt sách, cấm “tác giả phản động”, kiểm soát việc mặc gì, thời trang, kiểu tóc, kiểm duyệt khắt khe về nghệ thuật, ưu tiên cho con em người lao động và cách mạng, phân biệt các gia đình từng làm cho chính thể cũ
- Miền Bắc chiến thắng áp đặt hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa kém cỏi lên miền Nam bị đánh bại

Thẳng thắn
Một trong những điều phi thường về Bên Thắng Cuộc là sự thẳng thắn đáng ngạc nhiên trong các phần này của sách, nhất là khi ta biết sách là của một nhà báo sống trong nước. Huy Đức mô tả các viên chức cộng sản nói dối thản nhiên và liên tục về thời hạn cải tạo. Ông mô tả các thành viên gia đình được khuyến khích khai báo về người thân. Ông liệt kê điều kiện khổ sở trong các trại, và sự đối xử tệ bạc với gia đình người bị giữ. Ông mô tả làn sóng chống tư sản, chống người Hoa là chiến dịch tham lam của ăn cướp, bóp nặn, cưỡng ép ra đi.
Phần viết về cuộc xâm phạm Campuchia nhấn mạnh sự trớ trêu trong quan hệ lịch sử gần gũi giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Pol Pot. Mô tả về làn sóng ra đi sau 1975 bộc lộ vai trò của giới an ninh địa phương thoái hóa khi họ tạo điều kiện và kiếm lời từ đợt chạy trốn. Ông cũng không ngần ngại mô tả việc “Bắc hóa” tai hại trong kinh tế miền Nam, là một chiến dịch xuất phát từ kiêu ngạo, ngu dốt và bám vào ý thức hệ.
Huy Đức trách Lê Duẩn về việc “Bắc hóa” nhưng ông cũng ngụ ý về vai trò Hồ Chí Minh khi đặt cạnh nhau phần nói về chính sách (chương 8) với đoạn về “Con đường của Bác”.
Trong “Con đường của Bác”, Huy Đức mô tả Hồ Chí Minh ủng hộ tập thể hóa kinh tế miền Bắc giai đoạn 1950 – trong đó có cuộc Cải cách Ruộng đất 1953-56 tai tiếng, tấn công tư sản miền Bắc là tiền đề cho tấn công tư sản miền Nam sau 1975.
Ở đây, Huy Đức vượt khỏi cách giải thích ngày càng phổ biến về chính trị cộng sản Việt Nam giai đoạn 1950, 60 xem Lê Duẩn quá khích khác Hồ Chí Minh trung dung (một cách nghĩ được phim tài liệu mới đây của Ken Burns áp dụng).
Huy Đức không phải là cây bút đầu tiên trong nước nhắc đến những phần tiêu cực này trong lịch sử hậu chiến Việt Nam. Nhưng đáng kinh ngạc là cách ông từ bỏ bút pháp quen thuộc của giới cầm bút trong nước (dùng uyển ngữ, nói tránh nói giảm).
Điểm tôi muốn nhấn mạnh ở đây là ghi chép của Huy Đức về khủng hoảng hậu chiến thật quan trọng không chỉ vì sự bộc trực, không úp mở mà còn vì cách nó giúp giải thích sự xuất hiện của chính sách Đổi mới giữa thập niên 1980.

Giống như phần mô tả về khủng hoảng dẫn tới Đổi mới, phần viết về quá trình cải cách của Huy Đức cũng bao gồm nhiều yếu tố phức tạp.
- Tường thuật các thử nghiệm về làm ăn tư nhân không được trên cho phép – thường gọi là phá rào – ở nhiều địa phương cuối 1970, tạo ra tăng trưởng và năng động trái ngược với trì trệ và thiếu hiệu quả của kinh tế xã hội chủ nghĩa
- Mô tả các lãnh đạo đảng bắt đầu ủng hộ các thử nghiệm tại Đại hội Đảng lần 6
- Tường thuật Việt Nam rút quân khỏi Campuchia nhằm tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn giúp Việt Nam mở rộng và củng cố cải tổ kinh tế
- Mô tả nỗ lực thành công phần nào trong cuối thập niên 1980 mở rộng tinh thần cải cách kinh tế sang lĩnh vực trí thức và văn hóa, thông qua giải phóng cho truyền thông và giảm kiểm duyệt nghệ thuật
- Mô tả thất bại của cố gắng mở rộng tinh thần cải tổ sang chính trị thông qua cổ vũ các hình thức đa nguyên và dân chủ đa đảng
Khủng hoảng 1975-1986 cung cấp bối cảnh rộng lớn cho Đổi mới được mô tả trong sách, ngoài ra, Huy Đức cũng chỉ rõ những yếu tố khác tác động việc áp dụng nghị trình cải cách. Một trong đó là môi trường toàn cầu mới có lợi bất ngờ cho cải cách ở Việt Nam. Môi trường này bao gồm giới lãnh đạo đổi mới ở Trung Quốc và Liên Xô, Bức tường Berlin sụp đổ, các đồng minh xã hội chủ nghĩa ngừng viện trợ, các tổ chức đa phương và phi chính phủ sẵn sàng giúp đỡ, và môi trường ngoại giao thay đổi trong Asean, EU và Mỹ.
Truyền thống đổi mới
Một yếu tố nữa là lịch sử lâu dài từ trước của cải cách kinh tế, hoạt động kinh doanh trong dân, đã đem lại truyền thống để từ đó Đổi mới phát triển.
Huy Đức mô tả các thử nghiệm quan trọng của Kim Ngọc với chủ trương “khoán hộ” ở Vĩnh Phú thập niên 1960, việc phá rào ở Long An của Bùi Văn Giao, Bí thư Tỉnh ủy Long An Nguyễn Văn Chính những năm 1970. Ở chương 16, ông kể thêm về sự nghiệp các doanh nhân thành đạt như Bạch Thái Bưởi giai đoạn thực dân, sự bền gan của thương nhân tơ lụa Trịnh Văn Bô trong Chiến tranh Đông dương lần một và những ngày đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Những ví dụ này báo trước sự lớn dậy tự phát của doanh nghiệp nhỏ thành công ở miền Nam trước thời Đổi mới, như vá ép áo mưa rách, bơm mực ruột bút bi, tái chế dép nhựa cũ, nấu xà bông. Số liệu ở đây cân đối thú vị với phần về bối cảnh toàn cầu để chứng tỏ năng lượng đổi mới cũng được dựng xây từ nền tảng trong nước trước đó. Nó cũng gợi ý rằng phát triển kinh tế thị trường giai đoạn 1980 có cả việc học lại tư duy đã lãng quên chứ không phải là phát triển những thói quen này từ điểm số không.
Theo Huy Đức, một yếu tố nữa định hình và khuyến khích cải tổ là việc giới trí thức Việt Nam tiếp xúc với các phiên bản quá khích của xã hội cộng sản châu Á từ giữa tới cuối 1970.
Ví dụ, ông cho rằng sau khi Nguyên Ngọc quan sát Campuchia thời hậu Khmer Đỏ bị tàn phá, ông đã đặt câu hỏi căn bản về tính chất của các hệ thống cộng sản: “Tại sao chỉ có các quốc gia cộng sản mới có cách mạng văn hóa và những cánh đồng chết?”
Hay cái nhìn tiêu cực về chủ nghĩa cộng sản của nhà báo đổi mới Kim Hạnh là do sau khi dự “Liên hoan Thanh niên, Sinh viên” tại Bình Nhưỡng trở về năm 1989, bà thấy Bắc Hàn “như một thứ trại tập trung có quy mô toàn quốc”.
Huy Đức cũng viết những người miền Bắc chứng kiến sự phồn thịnh vật chất của các đô thị miền Nam sau 1975 đã đặt câu hỏi về tuyên truyền nhà nước xoay quanh đời sống miền Nam. Sự say mê của người Bắc về tủ lạnh, xe máy khiến họ quan tâm đến cách làm của kinh tế tư bản miền Nam. Sự tiếp xúc với miền Nam đã “đánh thức nhu cầu văn hóa của người dân miền Bắc”.

Mới lạ
Với tôi, một phần bất ngờ khi đọc Huy Đức kể về sự trổi dậy của cải cách là vai trò của sinh viên đại học. Trong chương về Đa nguyên, ông kể lại lịch sử hoạt động sinh viên mà ít người biết trong thập niên 1980, khá giống với phong trào sinh viên chống độc đoán lúc đó ở Thái Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc.
Cuối cùng, cách Huy Đức giải thích về sự xuất hiện của Đổi mới tỏ ra chú ý khác lạ về các vai trò phức tạp của nhóm chóp bu trong Đảng. Điều này trái ngược với hầu hết ghi chép về Đổi mới ở phương Tây. Do thiếu dữ liệu về nguồn gốc gia đình, lịch sử nghề nghiệp, tính cách, xu hướng chính trị, triết lý, kết nối xã hội của các thành viên Bộ chính trị, các nghiên cứu cũ thường đặt các lãnh đạo cộng sản vào các nhóm thô sơ mang tính chất cố định, nhị nguyên.
Họ mô tả quan hệ chính trị ở Việt Nam cộng sản là cuộc đấu tranh nhị nguyên giữa các đại biểu của phe “bắc và nam”, “quốc gia, quốc tế”, “thân Trung, thân Liên Xô”, “ủng hộ cải cách, chống cải cách”. Sự trái ngược của Bên Thắng Cuộc thật kinh ngạc.
Cuốn sách mô tả thật chi tiết về tính cách, tiểu sử nhiều lãnh đạo cộng sản như Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Nguyễn Tấn Dũng, Phan Văn Khải, Nguyễn Phú Trọng.
Một chương 15 hấp dẫn chỉ nói về các cuộc đấu tranh liên quan đời tư, sự nghiệp và chính trị của Võ Nguyên Giáp.
Chương 14 thì so sánh hệ thống về sự nghiệp, gia đình, phong thái của Nguyễn Văn Linh và Võ Văn Kiệt. Chương 18 lại tìm hiểu quan hệ và cạnh tranh giữa Lê Đức Anh, Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt. Dữ liệu tiểu sử tập thể này cung cấp một phần quan trọng giúp ta hiểu về tiến trình cải tổ vì tính cách và quan hệ đóng vai trò lớn trong hệ thống chính trị khép kín.

Anh hùng rõ rệt trong Bên Thắng Cuộc là nhà cải cách Võ Văn Kiệt, nhưng người ủng hộ bất ngờ Đổi mới lại là Trường Chinh. Ông thay đổi suy nghĩ từ một nhà bảo thủ Marxist-Leninist thành người ủng hộ đổi mới vững chắc là chủ đề chương 10.
Dù đã 80, nhân vật linh động này thành thật nghiên cứu các vấn đề miền Nam và rồi ủng hộ, đề xuất giải pháp đổi mới. Nghiên cứu trước đây xem cải tổ bắt đầu khi Trường Chinh qua đời và Nguyễn Văn Linh lên làm lãnh đạo đảng năm 1986, nhưng Huy Đức ghi nhận đóng góp quyết định của Trường Chinh cho cải tổ.
Mặt khác, một số học giả phương Tây từng xem Nguyễn Văn Linh là thủ lĩnh đổi mới, nhưng ông này, trong sách Huy Đức, là nhân vật dao động và rốt cuộc thành người bảo thủ, đã bỏ lỡ cơ hội thúc đổi mới tiến lên sau tiến bộ ban đầu. Xu hướng hiện nay của Việt Nam – kinh tế thị trường gắn với hệ thống độc đảng không nhân nhượng, lạc hậu – đã củng cố từ thời Nguyễn Văn Linh.
Hạn chế của Đổi Mới
Hạn chế của đổi mới được xem xét trong các chương 12, 13 đánh giá số phận phức tạp của cải cách về tự do trí thức và thúc đẩy dân chủ. Sau khi mô tả sự cởi trói báo chí ngắn ngủi của Nguyễn Văn Linh cuối 1980, chương 12 kể nhiều về sự đàn áp phong trào Nhân văn Giai phẩm thập niên 1950.
Sự bịt miệng phong trào này dường như tương tự câu chuyện Huy Đức kể về việc Nguyên Ngọc mất chức lãnh đạo tạp chí Văn Nghệ cuối thập niên 1980.

Chương 13 bắt đầu với câu chuyện tích cực về giới thiệu bầu cử dân chủ trong trường đại học, nhưng giọng văn tối dần khi Đảng đối diện sự xuất hiện của Công đoàn Đoàn kết ở Ba Lan, và sau đó là sự biến mất đột ngột của chính thể cộng sản Đông Âu. Sau khi ghi lại phản ứng lúng túng, lạc lõng của ban lãnh đạo trước tiến trình dân chủ hóa ở Đông Âu, chương này mô tả thăng trầm của những người cổ vũ dân chủ như chính khách Trần Xuân Bách, nhà báo Bùi Tín, và tướng quân đội Trần Độ.
Trong các chương sau đó, những người cải cách rơi vào thế thủ, dính vào bê bối, mâu thuẫn nội bộ, không thể thúc đẩy nghị trình bên ngoài kinh tế. Đánh giá thấp của Huy Đức dành cho những lãnh đạo sau này như Lê Khả Phiêu và Nguyễn Tấn Dũng mang lại không khí bi quan trong các chương cuối. Sau hứa hẹn của cuối thập niên 1980, cải cách tại Việt Nam đã kẹt trong sa lầy của chính trị độc đoán trong nhà nước độc đảng.
Kiến thức từ bên trong ít người sánh bằng của Huy Đức về chính trị cấp cao cho phép ông mô tả các cuộc phiêu lưu cải tổ thời hậu chiến. Cuốn sách nổi trội nhờ chi tiết và sự sâu sắc hơn mọi ghi chép đã có.
Thật đáng tiếc các nhà xuất bản ngoại quốc lại thấy sách quá dài, quá chi tiết nên không muốn cho dịch. Nhưng tôi tin rằng một khi được ra mắt bằng tiếng Anh hay tiếng Pháp, Bên Thắng Cuộc sẽ thay đổi căn bản cách những nhà quan sát Việt Nam ở Tây phương suy nghĩ về giai đoạn quan trọng này trong lịch sử hiện đại của Việt Nam.
Đây là bài phát biểu trong buổi thảo luận về sách Bên Thắng Cuộc hôm 24/3, tại Hội thảo hàng năm của Hội nghiên cứu châu Á (Association for Asian Studies) ở Washington DC, Mỹ. Đây là hội thảo học thuật lớn nhất về châu Á ở Bắc Mỹ, với hơn 400 nhóm thảo luận các chủ đề, hơn 3.000 người dự.