TBT bị yêu cầu công khai tài sản trước Hội nghị Trung ương 7

Thuong Phan and Son Ngo shared a post.
Image may contain: 2 people

Đài Á Châu Tự Do

TBT bị yêu cầu công khai tài sản trước Hội nghị Trung ương 7

Ngày 6-5-2018, ngay trước ngày khai mạc Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII (Hội nghị Trung ương 7) xuất hiện bức thư ký tên tập thể các đảng viên đảng cộng sản yêu cầu Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng phải công khai tài sản của mình.

54 người ký tên trong bức thư là những trí thức tên tuổi hiện nay như ông Nguyễn Trọng Vĩnh, nguyên Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền VN tại TQ, nhà văn Nguyên Ngọc, Tiến sĩ Nguyễn Quang A… Ngay sau đó, 16 đảng viên, công dân của xã Đồng Tâm – Hà Nội cũng ký tên vào Thư yêu cầu.

Theo nội dung bức thư, ngày 3-10-2017 Ban Bí thư Trung ương ĐCSVN ban hành quyết định số 99/QĐ-TƯ yêu cầu phải công khai các bản kê tài sản của cán bộ, đảng viên các cấp, và các bản kê này sẽ phải được công khai trên phương tiện thông tin đại chúng, cổng thông tin điện tử, niêm yết tại trụ sở cơ quan, đơn vị…

Tuy nhiên cho đến nay là hơn 7 tháng nhưng người dân vẫn chưa thấy được những điều này chính vì vậy, các nhân sĩ trí thức ký tên kêu gọi “Tổng Bí thư hãy làm gương là người công khai ‘Bản kê tài sản’ của mình trên báo chí, cổng thông tin điện tử và Internet trước tiên.”

Việc yêu cầu công khai tài sản của người đứng đầu đảng Cộng sản VN diễn ra giữa lúc “chiến dịch chống tham nhũng” của ông Nguyễn Phú Trọng đang đến hồi cao trào, khi hàng loạt tướng tá công an, quân đội bị bắt giam, xét xử vì các sai phạm khác nhau.

Nguyên Ủy viên Bộ Chính Trị Đinh La Thăng cũng phải lãnh nhận 2 bản án 13 năm tù và 18 năm tù vì tội “Cố ý làm trái quy định của nhà nước gây hậu quả nghiêm trọng” trong chiến dịch này.

Theo những người ký tên “Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với tinh thần chỉ đạo “không có vùng cấm trong chống tham nhũng“ lâu nay của chính Ngài Tổng Bí thư: “Trước người ta bảo chỉ đánh từ vai đánh xuống, bây giờ thì ngay trên đầu làm mạnh hơn, tức là Trung ương còn nghiêm hơn cả địa phương”. Rõ ràng, đúng như lời Tổng Bí thư nói, Trung ương cần làm gương cho địa phương, và người đứng đầu Trung ương không ai khác chính là Tổng Bí thư.”

Khóc không thành tiếng

Image may contain: 1 person, sitting and indoor

Nam TranFollow

Khóc không thành tiếng …

Một bệnh nhân nữ đã bị bác sĩ cắt thực quản trong khi là phải mổ bướu cổ. Vụ việc xảy ra tại bệnh viên đa khoa Đồng Tháp khiến bệnh nhân đã bệnh nay bệnh còn nặng hơn. Bệnh nhân bị bướu cổ, tuy nhiên một bác sĩ ở bệnh viện Đa Khoa Đồng Tháp lại cắt đứt thực quản của bệnh nhân. Vị bác sĩ này từng giải phẫu khiến hai bệnh nhân tử vong, nhưng bệnh viện che giấu.

Theo báo Tuổi Trẻ, chị Phạm Thị Đen (25 tuổi, xã Mỹ Hiệp, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp) phát hiện trên cổ có khối u lạ bằng đầu đũa. Bác sĩ bệnh viện Đa Khoa Đồng Tháp chẩn đoán là u lành tính và khuyên giải phẫu cắt bỏ bằng “kỹ thuật nội soi tuyến giáp qua đường nách” để bảo đảm thẩm mỹ. Gia đình chị Đen cứ nghĩ đây là giải phẫu đơn giản, tuy nhiên không ngờ sau đó lại mang di chứng nặng nề.

“Hai ngày sau mổ cơ thể em tôi sưng vù, nhất là vùng mặt và cổ. Bác Sĩ Bé Ba khám rồi đẩy vô phòng mổ để làm gì đó mà không nói rõ với gia đình. Sau này bác sĩ này mới giải thích là giải phẫu lần trước thất bại, những ca như vậy ông phải giải phẫu lại,” anh Phạm Duy Khánh, người nhà của chị Đen, cho biết.

Cũng theo lời kể của gia đình, sau ca mổ thứ hai, chị Đen vẫn trong tình trạng giảm cân nhanh, xanh xao, vết mổ thường xuyên chảy ra dịch màu vàng, càng về sau dịch chuyển sang màu đen.

Nhiều lần người nhà yêu cầu chuyển đến bệnh viện khác nhưng Bác Sĩ Bé Ba không đồng ý và cam đoan “sẽ không có vấn đề gì.”

“Hôm đó, Bác Sĩ Bé Ba đi vắng, bác sĩ khác cho đi nội soi rồi tức tốc cho chuyển viện liền. Lên tới bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn, bác sĩ kêu trời nói nếu đi trễ một ngày là khỏi cứu rồi,” ông Phạm Văn Thương, cha của chị Đen, kể lại. Hiện tại, chị Đen vẫn không thể ăn bằng đường miệng mà phải đổ thức ăn xoay nhuyễn qua đường ống. Ngoài ra, bệnh nhân này còn giảm hơn 13 kg so với trước giải phẫu và trước mắt sẽ phải tiến hành nhiều cuộc giải phẫu vá thực quản.

“Con tui còn quá trẻ, còn cả tương lai phía trước ai có ngờ đi mổ bướu bằng ngón tay lại bị biến chứng nặng nề như vậy,” ông Thương bất bình nói.

Ngoài ra, theo báo SGGP, cũng tại bệnh viện này, hai bệnh nhân sau khi giải phẫu cũng bị tử vong.

Vào cuối Tháng Mười Một, 2017, bà Đoàn Thị Xuân (69 tuổi, ngụ huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) được giải phẫu cắt khối tá tụy. Sau ca mổ, bệnh nhân bị sốc nhiễm trùng nặng, sốc nhiễm khuẩn, suy đa tạng – viêm phổi; phải chuyển lên bệnh viện Chợ Rẫy trong tình trạng nguy kịch. Dù được cứu chữa tích cực nhưng bệnh nhân không qua khỏi.

Tiếp đó, bà Lê Thị Viễn (ngụ huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp) cũng được giải phẫu cắt khối tá tụy và sau đó cũng gặp biến chứng, tử vong.

Tất cả ca mổ gây biến chứng dẫn đến tử vong đều do Bác Sĩ Lê Văn Bé Ba, trưởng khoa Ngoại Tổng Hợp của bệnh viện này, thực hiện.

Chiều 4 Tháng Năm, ông Trần Văn Lườm, phó giám đốc Sở Y Tế tỉnh Đồng Tháp, cho biết đã tạm đình chỉ hoạt động chuyên môn Bác Sĩ Lê Văn Bé Ba vì có nhiều lỗi kỹ thuật trong các ca giải phẫu, và tạm ngừng thực hiện các kỹ thuật giải phẫu tá tụy, nội soi cắt tuyến giáp qua đường nách tại bệnh viện này.
Theo vietbf.com

Làm rõ thêm ý kiến của LS Lê Công Định về Karl Marx

Làm rõ thêm ý kiến của LS Lê Công Định về Karl Marx

Nguyễn Ngọc Già (Danlambao)

  1. Lê Công Định viết:

“Hôm nay tròn 200 năm ngày sinh của tên tội đồ của nhân loại mang tên Karl Marx (ở Việt Nam gọi là Các Mác). Nhân đây xin bàn thêm về một trong những luận điểm khôi hài nhất bào chữa cho sự thất bại thảm hại của học thuyết phi nhân của Marx trên toàn cầu: các mô hình xã hội chủ nghĩa nhân danh Marx được vận dụng và thực hiện sai, chứ chủ nghĩa Marx xét về phương diện học thuyết vẫn đúng đắn.

Chủ nghĩa Marx được tung hô (ở các nước XHCN) là học thuyết cải tạo thế giới hoàn hảo. Nếu nhằm mục đích “cải tạo thế giới” ắt hẳn đó phải là một học thuyết không chỉ có giá trị trên lý thuyết, mà còn có giá trị trên phương diện thực hành, nghĩa là nó phải dự liệu một mô hình có thể thực hiện trên thực tế.

Vậy mà mọi mô hình áp dụng nó, từ Liên Sô đến Đông Âu, sang Mỹ Châu như Cuba và Venezuela, rồi Á Châu như Trung Quốc, Việt Nam và Bắc Triều Tiên, đều mang đến những xã hội nghèo đói, kém phát triển và chà đạp nhân phẩm con người.

Những mô hình vận dụng chủ nghĩa Marx theo chiều này và chiều ngược lại, thậm chí trung dung nửa vời cũng đều thất bại thảm hại. Vậy mô hình nào đúng đắn? Đó là thứ chủ thuyết thần thánh gì mà cứ phải hy sinh tương lai các dân tộc và thân phận hàng tỷ người chỉ để mãi thử nghiệm, sai đâu sửa đó, nhằm cố tìm cho ra một mô hình đúng đắn, dẫu có thể phải mất hàng trăm năm?

Nói cách khác, mãi mãi chẳng có mô hình thực nghiệm nào đúng cho nó, ngoài hậu quả nghèo đói và bản chất phi nhân của nó là vĩnh viễn không sai.

Luận điểm nguỵ biện nói trên khôi hài ở chỗ rồi đây sẽ có hàng trăm kẻ ngớ ngẩn bỗng dưng một ngày đẹp trời tuyên bố thành lập các học thuyết vớ vẩn, rồi bảo học thuyết của tôi là đỉnh cao tư tưởng, chỉ chúng sinh thực hành sai, chứ nó luôn luôn đúng, vì tôi chỉ đưa ra những quy luật lý thuyết mở tuyệt đối không sai. Tin được không?

Người ta nói, nhìn quả biết cây. Nếu quả nào sinh ra cũng độc hại cho con người, thì chỉ còn cách đốn bỏ cây đó mà thôi. Bao giờ người Việt mới trắng mắt và đủ can đảm đốn bỏ cái cây ung nhọt vô dụng và lạc loài mang tên Marx khỏi xã hội này, để tìm đến những mô hình hiệu quả và thực dụng hơn, mà không cần đến những lý thuyết ảo tưởng, phi thực tế?”

Ý kiến của một người Nhật Bản – ông Hirota Fushihara – đang là nghiên cứu sinh tại Đại học quốc gia Hà Nội – Khoa Luật: 

“Xin lỗi. Tôi không nghĩ ông ấy là tội đồ của nhân loại.

Ông ấy đã vạch ra bản chất của chủ nghĩa tư bản trong hoàn cảnh đương đại ông ấy đang sống. Qua đó đã góp phần cho những cách tiếp cận để bảo vệ quyền của người lao động, nêu cao giá trị nhân bản của những người bị bóc lột trong thời đại đó. Đó là ý nghĩa thực chất của kính tê học của ông ấy.Hiện tại, Kinh tế học của ông ấy vẫn có thể là một trong những góc nhìn hữu hiệu cho những khía cạnh của tư bản với mức độ nhất định.

Giá trị tư tưởng của ông ấy không hơn không kém là một cách tiếp cận khoa học kinh tế. Vì thế các nước tư bản, các nước đã phát triển kể cả Nhật Bản vẫn có những trường đại học và nhà nghiên cứu dạy và học về kinh tế học của ông ấy. Hiện nay, đó như một học thuyết kinh tế cổ điển, có nhiều hạn chế để theo kịp cách thức vận hành nền kinh tế thực tế.

Còn giả sử có tội đồ thì đó không phải là ông ấy. Đó là ai thì có khi không phải bình luận nếu đã rỏ ràng.

Cmt trên của tôi cũng hoàn toàn không theo lập trường mà anh phản biện là “học thuyết đúng, áp dụng sai”.

Việc viết một ý kiến khác như vậy ở stt của anh, nhiều người sẽ cho là dại bởi chắc nhiều người hâm mộ anh sẽ có những phản ứng mạnh mẽ với cmt này, hoặc với cá nhân tôi. Tôi biết tôi hơi dại. Nhưng tôi mong sự thông cảm của mọi người”.

Ý kiến của Nguyễn Ngọc Già:

Marx sinh ngày 5/5/1818. Năm nay, tròn 200 năm.

Tác phẩm chính của Marx gồm: Tuyên ngôn Chủ nghĩa cộng sản và bộ Tư Bản Luận cùng nhiều bài báo và các tiểu luận khác. Tuy nhiên, cho đến khi mất, Marx vẫn dở dang bộ Tư Bản Luận.

Trong những tác phẩm chính của Marx, người ta không nhìn thấy “thuộc tính vận động” của sự vật và hiện tượng – Một thuộc tính triết học, buộc phải có cho bất kỳ nghiên cứu nào. Đó là sai lầm lớn nhất của Marx. 

Vì vậy, tôi đồng ý với ông Hirota Fushihara, khi viết rằng: “Marx …vạch ra bản chất của chủ nghĩa tư bản trong hoàn cảnh đương đại ông ấy đang sống…”. 

Nói cách khác, Marx “thấy gì nói đó” ngay trong hoàn cảnh kinh tế – xã hội và lịch sử – chính trị vào lúc bấy giờ. 

Thật vậy, Marx phớt lờ và thậm chí tỏ ra không biết đến học thuyết “Tam quyền phân lập” do Nam tước Montesquieu (1689 – 1755) đặt nền móng. Nghĩa là, khi vị Nam tước qua đời, học thuyết “Tam quyền phân lập” (vốn đảm bảo thuộc tính vận động) vẫn bị Marx bỏ qua, dù Marx nhỏ hơn Montesquieu hơn trăm tuổi. Điều đó, chứng tỏ Marx khá ngạo mạn, khi đưa ra một hệ tư tưởng mới, lại thiếu tham khảo những học thuyết đã có chỗ đứng quan trọng và đảm bảo khoa học đối với thế giới.

Nói cách khác, Marx chỉ có nhãn quan nhất thời vào lúc bấy giờ. 

Một khi, không công nhận mối liên hệ không bao giờ tách rời giữa lý thuyết và thực tiễn, tất cả các học thuyết đều thất bại. Bởi suy nghĩ luôn dẫn dắt hành động.

Quả vậy, lý thuyết (tư tưởng) là ở trong đầu (thuộc suy nghĩ). Theo đó, chưa hành động, chưa ra tay thì không sai, không có tội, không mắc lỗi v.v… Vì lẽ đó, tôi đồng ý với LS Lê Công Định, khi ông viết: “…Người ta nói, nhìn quả biết cây. Nếu quả nào sinh ra cũng độc hại cho con người, thì chỉ còn cách đốn bỏ cây đó mà thôi…”. Tuy vậy, Marx không phải là “kẻ trồng cây”.

Vì thế, tôi tiếp tục đồng ý với Hirota Fushihara, khi ông không xem Marx là “tội đồ”.

Marx, theo ý kiến của tôi, là một người “bướng bỉnh”, nhưng không ác. Nếu phải dùng chữ “tội đồ”, thì chính kẻ đã viết thư cho A.M. Gorky [*] mới xứng đáng. Trong bức thư có đoạn: “…Các lực lượng trí tuệ của công nông đang trưởng thành vững mạnh trong cuộc đấu tranh lật đổ tư sản và bọn đồng lõa, lũ trí thức – đầy tớ của tư bản, những kẻ tưởng mình là bộ não của quốc gia. Trên thực tế, bọn chúng không phải là bộ não mà là cứt…”

“Đỉnh cao” của tội ác không ai khác, chính là Stalin.

Thử hỏi có thực tế sinh động nào không được giải quyết dựa trên một tư tưởng, một học thuyết, một chủ nghĩa? Vì lẽ đó, mới có chuyện cả thế giới chê những tội danh như: 79, 88, 258 trong BLHS là “mơ hồ”. Thêm vào đó, “hình sự” nghĩa là phải định lượng được những tổn hại thông qua hành vi – tư tưởng không phải là hành vi, bởi nó thuộc phạm trù “Ý Thức”, không phải thuộc phạm trù “Vật Chất”. 

Ngay cả trong “Luật giám định tư pháp”, không có một dòng chữ nào nói rằng phải “giám định tư tưởng” cho những người bị “kết tội này”. Đó là điều mà Viện kiểm sát và Tòa án luôn phớt lờ. Nói thẳng ra, vi phạm pháp luật rất nghiêm trọng.

Ông Hirota Fushihara viết: “… Vì thế các nước tư bản, các nước đã phát triển kể cả Nhật Bản vẫn có những trường đại học và nhà nghiên cứu dạy và học về kinh tế học của ông ấy (Marx)…”. Thật may mắn cho người Nhật và các dân tộc khác, chỉ “học” về Marx mà không buộc phải… “hành” và cũng không phải… “tập”.

Chú thích:

[*] https://hung-viet.org/a8985/toan-van-buc-thu-trong-do-lenin-goi-tri-thuc-la-cut

07.05.2018

Nguyễn Ngọc Già

danlambaovn.blogspot.com

Vụ Trịnh Xuân Thanh: Càng để lâu càng khó

Vụ Trịnh Xuân Thanh: Càng để lâu càng khó

Thủ tướng Slovakia, Peter Pellegrini, và thủ tướng Đức, bà Angela Merkel trong động thái chưa từng có của lịch sử ngoại giao châu Âu đã cùng công khai nói với báo chí hôm 2/5/2018 về vụ ‘bắt cóc Trịnh Xuân Thanh’. Ảnh: BBC

Vụ “Trịnh Xuân Thanh ra đầu thú” đang trở thành một vấn đề (xì căng đan) “quốc gia”, ở Đức và Slovakia. Theo thông tin của tờ Thời Báo ở Berlin, cơ quan hữu trách Đức đã điều tra, lần hồi truy ra manh mối, chỉ đích danh những người cầm đầu bộ công an VN, như thượng tướng Tô Lâm và hai viên trung tướng phụ trách hai cục an ninh và cục phản gián, cùng một số nhân sự khác, là những người “có can dự” vào cuộc “bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Berlin”.

Đến nay thái độ của nhà nước VN là “nhập nhằng”, lỡ phóng lao phải theo lao, dứt khoát không nhìn nhận có can dự vào việc “bắt cóc”. Điều này nguy hiểm, như dùng giấy gói lửa. Thông báo chung của bà thủ tướng Merkel với ông thủ tướng Pellegrini của Slovakia hôm 2 tháng Năm, tờ Thời Báo Berlin có đưa tin, hai quốc gia này sẽ hợp tác với nhau để “điều tra đầy đủ” vấn đề “bắt cóc một người VN tên là Trịnh”.

Việt Nam từ lâu đã không có “uy tín cao” trong mắt những chính trị gia Mỹ và Châu Âu. Đây là một quốc gia mà chỉ số “dân chủ” quẩn quanh ở số thấp nhứt. Về “nhân quyền”, VN là một quốc gia luôn đứng đầu trong những vụ vi phạm nhân quyền, từ các việc trấn áp tự do ngôn luận, tự do tôn giáo… Nhà nước VN đã bỏ tù nặng những người có ý kiến khác với đảng CSVN.

Vì vậy lãnh đạo CSVN đừng hoài vọng vào các “lốp by hành lang”, dùng tiền bạc để “mua chuộc” các chính trị gia Châu Âu, hy vọng đạt được một “thỏa thuận” với Đức và Slovakia nhằm “giữ thể diện” cho VN. Bà Merkel, cũng như ông Pellegrini, là những chính trị gia mà tất cả tài sản chính trị của họ đến từ lá phiếu cử tri. Họ không thể “nể tình” VN mà hy sinh sự nghiệp chính trị của mình.

Nếu không có một giải pháp “đột biến” từ VN để giải quyết vấn đề theo đúng trình tự của luật quốc tế, vụ “bê bối” đổ bể ra VN sẽ trở thành một “quốc gia côn đồ”.

Quốc gia “côn đồ” là quốc gia không tôn trọng luật chơi quốc tế, là quốc gia xâm phạm chủ quyền của quốc gia khác.

Quốc gia Pháp trị (Etat de Droit) nào muốn tiếp tục quan hệ “hữu hảo” với một quốc gia côn đồ?

Nước Đức đã tạm thời chấm dứt “quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” với VN, mặc dầu vấn đề “còn đang điều tra”, tòa chưa “kết án”. Quyền lợi của đất nước và dân tộc bị đe dọa, chưa lường được hết hậu quả nhưng dự đoán là sẽ rất nặng nề.

Nhà ngoại giao Đặng Xương Hùng hôm qua có nói trên BBC rằng Bộ ngoại giao cần phải “tìm giải pháp”, ngay cả việc phải “xin lỗi để mong họ thông cảm”, chớ không phải tìm cách “để đối phó”. Tôi hoàn toàn ủng hộ ý kiến của nhà ngoại giao.

Đầu tháng Tám năm ngoái tôi có viết trên Facebook đề nghị ông Tô Lâm cần giải trình trước Quốc hội vụ “Trịnh Xuân Thanh”.

Đại khái tôi viết rằng chuyện “bắt cóc” Trịnh Xuân Thanh mau chóng trở thành một “affaire d’Etat” tại Đức.

Đối với quốc gia Đức, sự việc mật vụ VN sang Đức để “bắt cóc” một người đang sinh sống trên lãnh thổ nước Đức, được pháp luật Đức bảo vệ, là một hành vi xâm phạm chủ quyền nước này.

Ngay cả khi TX Thanh là một kẻ tội phạm cướp của, giết người, gây nợ máu ở VN và sống trốn chui trốn nhũi ở Đức… thì hành vi mật vụ VN sang Đức “bắt cóc” ông này vẫn là một hành vi xâm phạm chủ quyền và vi phạm pháp luật nước Đức.

Công an mật vụ VN, cho dầu thẩm quyền có ngang với ông trời, thì thẩm quyền này cũng bị giới hạn, trong vòng lãnh thổ nước VN mà thôi.

Tôi có đề nghị ông Tô Lâm, nhân giải trình trước Quốc hội, nhận lỗi về mình vì đã hiểu lầm ý định của nhà nước Đức đồng thời diễn giải sai luật pháp của nước Đức.

Tôi có viết rằng vụ TX Thanh “càng để lâu càng khó”. Không phải khó cho đảng CSVN mà khó cho quốc gia VN. Quyền lợi dân tộc VN bị tổn hại. Tiếng nói trên trường quốc tế của VN không còn uy tín.

Từ lâu VN đã sử dụng vũ khí “luật quốc tế” để bảo vệ mình trước những gây hấn của TQ ở Biển Đông. Không ngoại lệ, các “nước nhỏ” ngày hôm nay, ngoài “luật quốc tế”, thì không có cách nào để tự bảo vệ mình trước các cường quốc khác.

VN không tôn trọng luật quốc tế, thì từ nay VN lấy cái gì để bảo vệ quyền lợi chính đáng của quốc gia ở Biển Đông?

Dầu vậy nhiều người vẫn không ý thức được, đến nay vẫn còn bênh vực hành vi của nhà nước CSVN. Làm như họ vẫn còn tâm trạng “địch – ta” trong thời chiến tranh lạnh.

Nhiều năm nay, các thế hệ lãnh đạo CSVN cố gắng “lột xác”, cởi bỏ “nón cối dép râu” với cây súng AK và khẩu B40. Họ cố gắng “hội nhập”, khoát lên bộ vét tông, ôm cặp táp “làm kinh tế”. Nhưng xem ra những “giá trị cốt lõi” của người cộng sản không dễ thay đổi như vậy.

Đến nay những người ở “thượng tầng kiến trúc” chưa thấy ai lên tiếng về sự việc tai tiếng này. Ngoài tuyên bố của Phát ngôn nhân BNG VN năm ngoái rằng “Việt Nam rất tiếc trước những hành vi phản đối của nhân viên Bộ Ngoại Giao Đức”.

Nhà nước CSVN vẫn “trụ” với tuyên bố của bộ công an là “Trịnh Xuân Thanh đã ra đầu thú”.

Ngoài ra còn có ông Lê Hưng Quốc, “chuyên gia đối ngoại, Nguyên Phó Giám đốc thường trực Sở Ngoại vụ, trực thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam”, tháng Tám năm ngoái trả lời phỏng vấn trên RFA rằng :

“Đây không phải là vấn đề chính trị. Đây là vấn đề tham nhũng. Tham nhũng thì nước nào cũng có, cũng phải có biện pháp để trị. Các quốc gia không ủng hộ chuyện tham nhũng”.

Ông này cũng cho rằng “không loại trừ khả năng có những thoả thuận. Thế nhưng không phải thoả thuận nào cũng công bố trên báo đài đâu?”

Bây giờ thì VN khó mà “nói xuôi cũng được, nói ngược cũng xong”.

Ngay cả khi ông TX Thanh có chứng cớ quả tang tham nhũng. Và khi tất cả các quốc gia đồng thuận không ai chứa chấp tham nhũng. Thì công an, mật thám VN vẫn không thể sang một quốc gia khác để bắt cóc mọt người như vậy.

Tuyên bố chung của bà Merkel nước Đức và ông Pelligrini của Slovaquie cho thấy không có thỏa thuận nào giữa VN và Đức về TX Thanh hết cả. (Ngay cả khi hiện hữu một thỏa thuận nào đó, thì VN vẫn không thể cho người sang Đức để bắt cóc TX Thanh như vậy. Cái gì cũng phải làm theo trình tự của pháp luật).

Theo tôi, như đã viết năm ngoái, vụ TX Thanh là một vấn đề “chính trị nội bộ VN”, nếu không nói đây là việc “cá nhân” của ông Trọng. Nhiều lần TX Thanh bêu rếu đảng CSVN đồng thời tung tài liệu về cá nhân ông Trọng.

Bộ công an của ông Tô Lâm, bất chấp quan hệ quốc tế, bất chấp sỉ diện và quyền lợi đất nước, đã cho người sang Đức bắt TX Thanh. Đích thân ông To Lâm đã sang Slovaquie để “hộ tống” TX Thanh về VN. Mục đích là để thỏa mãn tự ái cá nhân của ông Trọng.

Việc chống tham nhũng ai cũng ủng hộ. Tôi là một trong những người đầu tiên chủ xướng phải tiêu diệt nạn tham nhũng. Trong các bài viết của tôi về chủ đề này, tôi luôn nhắc đến việc các quốc gia phát triển thành công như Nhật, Nam Hàn, Đài loan, Singapour… là những quốc gia thành công trong việc tiêu diệt nạn tham nhũng.

Và tôi cũng là một trong nhũng người đầu tiên hô hào VN phải xây dựng “nhà nước pháp trị”. Mọi quan hệ trong xã hội phải dựa trên pháp luật. Người lãnh đạo làm gì cũng phải theo luật mà làm. Các nước phát triển, quốc gia nào cũng là “quốc gia pháp trị”.

Ông Trọng “đốt nóng lò diệt tham nhũng”. Công trình “diệt tham nhũng” của ông Trọng không đặt trên nền tảng pháp luật mà đặt trên ý chí của cá nhân (ông Trọng), thể hiện qua việc “kỷ luật đảng”.

Tức là những hành vi chống tham nhũng của ông Trọng (và phe nhóm) là “không chính danh”.

Trở lại vấn đề, ai là người chịu trách nhiệm (về hành vi ngu xuẩn) cho mật vụ qua Đức bắt cóc TX Thanh?

Thừa hành là ông Tô Lâm và hai ông Trung tướng. Nhưng chắc chắn người đứng sau là ông TBT Nguyễn Phú Trọng.

Thời điểm này tôi có cùng ý nghĩ với nhà ngoại giao Đặng Xương Hùng, là vẫn còn có thể cứu vãn. Nhưng tôi e ngại rằng danh dự của ông Trọng vẫn lớn hơn quyền lợi và danh dự của đất nước và dân tộc VN.

Thời này, cái vô giáo dục đã ngự ngay trong môi trường giáo dục

Thời này, cái vô giáo dục đã ngự ngay trong môi trường giáo dục

Tranh LAP.

Từ thuở xa xưa, xã hội là một môi trường hỗn tạp có thiện có ác. Lúc xã hội suy đồi thì cái ác thịnh, cái thiện suy. Trước một biến cố, bao giờ cũng có điềm báo. Đó là những dấu hiệu sự suy đồi xã hội ngày một tăng. Trong cái suy đồi đạo đức, nếu cộng hưởng thêm bế tắc kinh tế nó sẽ dẫn đưa xã hội đến điểm cùng cực và lúc đó sẽ sinh biến. Nhìn xã hội Việt Nam, chúng ta thấy đạo đức đang trượt theo hướng suy đồi. Kinh tế đang trượt về hướng bế tắc.

Về kinh tế, núi nợ công đang phình, thòng lọng thuế đang siết. Trò cướp đất, tham nhũng, tranh ăn, thanh trừng đang xảy ra ào ạt. Con tàu kinh tế cứ đang trôi về đó, trôi về điểm bế tắc, đất nước kiệt quệ dân đói rách.

Giáo dục là nơi cung cấp con người biết sống đúng nghĩa cho xã hội. Giáo dục vốn là thành trì đẩy lùi cái xấu, nay nó lại bị cái xấu tấn công và xâm nhập vào mọi ngóc ngách. Như ta biết, môi trường giáo dục từ xưa đến giờ vốn được xem là môi trường tạo nhân cách cho thế hệ trẻ. Nhiệm vụ giáo dục rất cao cả, nó cách li học sinh với cái xấu, nó dạy học sinh làm người, và dạy cho học sinh kiến thức khoa học thường thức làm nền tảng. Ngược lại với giáo dục tức là vô giáo dục hay còn gọi là sự “mất dạy”. Nơi đó, tội ác được xem là giá trị tạo nên sức mạnh, nhân cách là thứ vô giá trị và sẵn sàng bị chà đạp vì những đồng tiền dơ bẩn vv.. đó là mặt trái của xã hội. Mặt trái sẽ chiếm lĩnh xã hội nếu giáo dục không đẩy lùi nó, và nếu giáo dục yếu, nó tấn công luôn vào giáo dục.

Nếu nền giáo dục tốt, nó sẽ cho ra lò những con người có đạo đức, lòng bác ái, trách nhiệm với xã hội với đất nước để xây dựng đất nước yên bình và đáng sống. Những lớp người mới được giáo dục tốt sẽ ra đời tạo một xã hội tốt đẹp hơn, ít tội phạm hơn. Ở Hà Lan, người ta phải đóng cửa phần lớn nhà tù vì thiếu vắng tội phạm. Còn ở Việt Nam? Cứ mỗi dịp lễ tết, chính quyền cho thả bớt tù nhân để trống chỗ nhốt lớp tù nhân mới, vấn đề nghiêm trọng này được chính quyền dùng mỹ từ “ân xá” để né tránh thực trạng ê chề của một xã hội đầy rẫy tội phạm.

Đấy là thực trạng nhà tù Việt Nam, còn ngoài xã hội? Ở Việt Nam, con người có thể bị tước đoạt mạng sống chỉ vì một va vẹt giao thông. Ở Việt Nam, con người có thể bất chấp mạng sống đồng loại trộn hoá chất vào thực phẩm để kiếm lời vv… Trong học đường, cái xấu đã xâm nhập mọi ngóc ngách. Học sinh đánh nhau như đám du thủ du thực, thầy đánh trò, trò đánh thâỳ, giáo viên chửi học trò như một lũ vô học vv… Môi trường giáo dục giờ trở nên bát nháo vì những sản phẩm vô giáo dục được show hàng khắp mọi nơi.

Ngày nay, chuyện vô giáo dục như chuyện cô giáo “đ…” chả có gì là lạ cả. Nhiều chuyện như thế đã xảy ra nhiều, clip chẳng qua là phần nổi của tảng băng. Một thực trạng đáng buồn là, hiện nay ở Việt Nam, chuyện giáo viên có nghiệp vụ chửi cao hơn nghiệp vụ sư phạm không phải là hiếm. Chuyện học sinh thì kỹ năng đánh nhau giỏi hơn tri thức cũng đầy ra đó. Thực sự giáo dục Việt Nam đã lùi bước trước cái xấu.

Thế là đã rõ, trong tay ĐCS, ngành giáo dục đã không đủ khả năng tạo hạt giống tốt cho xã hội, và thậm chí nó còn không trụ vững trước cái xấu. Nước sạch đã bị ô nhiễm ngay trên thượng nguồn. Giáo dục được xem là một thượng nguồn của xã hội. Nó đã bẩn lấy đâu ra xã hội tốt đẹp? Như bể nước bị cấp bởi vòi nước bẩn, bể sẽ ngày một bẩn hơn. Như vậy câu hỏi đặt ra là, sự quản lí nhà nước như thế nào mà để cái ác, cái vô văn hóa chiếm lĩnh giáo dục? Vậy thì chính quyền này tồn tại để làm gì? Đấy là lí do mọi người cần phải quan tâm đến chính trị.

Ai cũng từng học trong môi trường giáo dục XHCN và nay con cái nhà ai cũng phải lớn lên hình thành nhân cách trong môi trường giáo dục XHCN này thì cũng nên nghĩ cách để mà lên tiếng cho một xã hội tốt hơn. Im lặng tức là chấp nhận để CS phá nát tiềm năng con mình. Đấy là cái tội.

Phó bí thư Thành Ủy Sài Gòn ‘bị kiểm điểm’ vụ bán đất ở Nhà Bè

Phó bí thư Thành Ủy Sài Gòn ‘bị kiểm điểm’ vụ bán đất ở Nhà Bè

Ông Tất Thành Cang. (Hình: Báo Công An)

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Chiều 6 Tháng Năm, tuy là ngày Chủ Nhật nhưng Ban Thường Vụ Thành Ủy Sài Gòn bất ngờ tổ chức họp báo công bố sai phạm của Phó Bí Thư Thường Trực Thành Ủy Sài Gòn Tất Thành Cang liên quan đến vụ bán đất cho Công Ty Quốc Cường Gia Lai.

Trong thương vụ Công Ty Đầu Tư và Xây Dựng Tân Thuận (100% vốn thuộc Văn Phòng Thành Ủy Sài Gòn) bán khu đất ở huyện Nhà Bè cho Công Ty Quốc Cường Gia Lai với giá chỉ 1,290,000 đồng ($56.7)/mét vuông hồi Tháng Sáu, 2017, ông Cang bị cáo buộc chịu trách nhiệm chính về việc “gây thất thoát cho ngân sách nhà nước hơn 2,000 tỷ đồng (hơn $87.9 triệu).

Ban Thường Vụ Thành Ủy Sài Gòn đưa ra kết luận ông Cang “đã chấp nhận chủ trương chuyển nhượng không đúng thẩm quyền” và rằng Công Ty Tân Thuận “đã sang nhượng trái phép tài sản có giá trị lớn,” “không đặt lợi ích của Đảng Bộ Thành Phố lên hàng đầu,” “vi phạm nghiêm trọng.”

Tuy công bố sự việc là “nghiêm trọng” nhưng Ban Thường Vụ Thành Ủy Sài Gòn cũng nói “hiện chưa phát hiện dấu hiệu tiêu cực, lợi ích cá nhân trong việc bán đất này.”

Buổi họp của Ban Thường Vụ Thành Ủy Sài Gòn làm dấy lên suy đoán hình thức kỷ luật tối thiểu dành cho ông Cang là “cảnh cáo” chứ không phải khiển trách. Điều này đồng nghĩa với việc ông Cang sẽ bị mất ghế phó bí thư hoặc chuyển công tác, khép lại sự nghiệp chính trị tại đây.

Khu đất rộng hơn 30 hécta tại xã Phước Kiển, huyện Nhà Bè được bán cho Công Ty Quốc Cường Gia Lai với giá chỉ 1,290,000 đồng ($56.7)/mét vuông hồi Tháng Sáu, 2017. (Hình: Báo Công An)

Cũng trong vụ này, theo báo Tuổi Trẻ, Ban Thường Vụ Thành Ủy Sài Gòn chỉ đạo đình chỉ chức vụ tổng giám đốc Công Ty Đầu Tư và Xây Dựng Tân Thuận (đối với ông Trần Công Thiện), chỉ đạo Ủy Ban Kiểm Tra Đảng Thành Ủy thanh tra toàn diện công ty này, rà soát các dự án khác, hoàn chỉnh các quy chế, báo cáo Thành Ủy trong Tháng Sáu, 2018.

Cũng cần nói thêm, thời điểm khu đất 32.5 hécta được bán, thành phố Sài Gòn đang trống vị trí bí thư thành ủy do ông Đinh La Thăng đã được Bộ Chính Trị điều động về làm phó Ban Kinh Tế Trung Ương, trong lúc ông Nguyễn Thiện Nhân chưa được điều về. Thành Ủy Sài Gòn thời điểm đó do ông Cang điều hành.

Vài ngày trước khi Ban Thường Vụ Thành Ủy Sài Gòn công bố kết luận, một văn bản giải trình vụ việc đóng dấu “mật” được cho là của Phó Bí Thư Thường Trực Thành Ủy Sài Gòn Tất Thành Cang đã bị rò rỉ với nội dung: “Tôi xin có ý kiến giải trình, nhận trách nhiệm cá nhân trước tập thể Thường Trực Thành Ủy về thiếu sót và thiếu cẩn trọng của mình, qua đây nghiêm túc rút kinh nghiệm.”

Truyền thông Việt Nam cho hay, Công Ty Quốc Cường Gia Lai yêu cầu bên bán bồi thường thiệt hại bằng cách trả lãi, bù đắp trượt giá với khoản tiền mà hai bên đã thỏa thuận trước đây, vì bị đơn phương chấm dứt hợp đồng. Tuy vậy, đến nay, Công Ty Tân Thuận “chưa thể quyết định,” và “cần phải báo cáo với chủ sở hữu, là Văn Phòng Thành Ủy Sài Gòn để có hướng giải quyết tiếp theo.” (T.K.)

LÝ DO TÔI VIẾT

Trần Bang shared a post.

 

Ly’ DO TÔI VIẾT

Thời gian gần đây, rất nhiều bạn bè lo lắng khuyên tôi cẩn trọng khi viết về ông Tất Thành Cang (Phó Bí thơ Saigon), về khu đô thị Thủ Thiêm và những vấn đề hết sức nhạy cảm của thành phố Saigon. Tôi chỉ cười…!

Kể cả sau khi tôi viết về những đề tài nhạy cảm này, khi thương vụ khủng Tân Thuận – Quốc Cường Gia Lai bị Thành ủy chặn đứng và có khả năng nhiều quan chức lãnh đạo cao cấp “nhúng chàm” tại Saigon sẽ bị rớt ghế, tôi vẫn cười….!

Hôm nay, ngày lành tháng tốt , tôi xin chia sẻ rằng động lực chính yếu để tôi tham gia tìm hiểu và viết loạt bài này chính là hình ảnh của những cụ bà 70, 80 tuổi đầu tóc bạc phơ và nhiều gia đình suốt hơn chục năm qua lang thang đi kêu cứu vì quy hoạch “bất bình thường” tại Thủ Thiêm.

Điều khiến tôi và rất nhiều đồng nghiệp làm báo dũng cảm tại Saigon đau xót nhất chính là việc rất nhiều người dân lương thiện, kể cả những Đảng viên cư dân Thủ Thiêm xưa, bỗng nhiên biến thành những con người bị xua đuổi, gần như bị xem như tội phạm, bị quản thúc và theo dõi…chỉ vì họ muốn bảo vệ những ngôi nhà, mảnh đất nơi mấy chục năm trời gia đình họ từng sống.

Nhiều giá trị đã bị đảo lộn trong suốt gần 20 năm qua ngay tại Sài Gòn phồn hoa, thật đáng sợ khi nó lại bắt đầu từ chính CHIẾC BẢN ĐỒ QUY HOẠCH THỦ THIÊM bị thất lạc.

==> Những gia đình tan nát, chồng con đều chết…
==> Những người mẹ khóc hết nước mắt nhìn con mình bị đánh đập…
==> Những thanh niên thay vì như chúng bạn được học hành, công tác, nay lại vùi đầu vào mớ hồ sơ kêu cứu oan ức cho gia đình…

Càng đau xót tận cùng, nếu bất kỳ người có lương tri khi bước đến Thủ Thiêm để xem khu đất hoang tàn khi xưa chính là Ngôi chùa Liên Trì. Và nếu tôi và các nhà báo không lên tiếng, khu di tích Giáo xứ Thủ Thiêm – một cơ sở tôn giáo mang đậm tính lịch sử được lập từ 1840, có thể cũng sẽ không còn.

20 NĂM QUA, câu chuyện Thủ Thiêm đã trở thành vận mệnh đen tối, đối đầu giữa người dân và các thế lực muốn thôn tính đất với giá rẻ mạt, bất chấp lương tri và công lý.

Các thế lực đen tối này đe dọa tôi rất nhiều, tung tin kiểu như tôi được đặt hàng 10 tỷ đánh ông Tất Thành Cang, tôi đánh nhau vì phe phái…Thật đáng nực cười và hổ thẹn vì những trò hề đó ! Người dân Thủ Thiêm mặc áo bà ba, những bộ đồ sờn rách và cái chòi tạm cư thì làm gì có tiền để đặt hàng này nọ.

Cũng chẳng có đại gia nào “to gan lớn mật” dám đặt hàng đánh ông Phó Bí thơ quyền lực nhất Sài Thành đương nhiệm cả !

Chính ông Phó Bí thơ Sài Gòn Tất Thành Cang cần phải xem lại đạo đức công vụ của mình trong suốt 29 năm qua.

Tại sao trong hàng ngàn cán bộ lãnh đạo tại Sài Gòn này – ông là một trong thiểu số ít người bị người dân bêu tên thù ghét. Theo tôi, thay vì ông căm ghét dân và nhà báo vì “lật tẩy” bộ mặt của mình, ông nên cảm thấy xấu hổ và gập đầu trước Đức Phật, Thiên Chúa vì những hành động trong quá khứ của mình.

Tôi – một Nhà báo đương công tác báo chí chính thống, truyền thống 3 đời làm báo, sẽ không ngu dại viết mà không có bằng chứng.

Tôi – người sinh ra và lớn lên trong gia đình nội ngoại gồm các Đảng viên lâu năm, được làm việc trong tổ chức tuân thủ pháp luật, bất kỳ bài viết nào của tôi cũng được báo cáo với các cấp thẩm quyền có trách nhiệm.

Tôi cũng xin lỗi vì hàng ngàn comment chống lại chế độ này sẽ không tồn tại trên fb của tôi. Không phải vì tôi sợ hay bưng bít, mà tôi không có nhu cầu trở thành anh hùng, càng không muốn mình viết vì các tranh cãi ý thức chính trị khác biệt.

Chỉ đơn giản tôi viết vì “nếu chúng ta không dũng cảm lên tiếng vì công lý và lương tri, ai cũng hèn nhát, ai cũng sợ hãi trước cường quyền…thì đến bao giờ các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước biết được sự thật từng bị các nhóm lợi ích chôn vùi !”

Cảm ơn các thế hệ nhà báo dũng cảm Tùng Quang (Đại Đoàn Kết), Hà Phan (Tiền Phong), Nguyễn Công Khế – Hoàng Hải Vân (Thanh Niên), Trương Huy San (Sài Gòn Tiếp Thị), Vũ Kim Hạnh (Tuổi Trẻ), Đặng Tâm Chánh (Sài Gòn Tiếp Thị), Hoàng Linh (Tuổi Trẻ)… chính các anh chị thế hệ đi trước là đèn soi sáng cho lớp nhà báo sau kế tục viết về đề tài Thủ Thiêm oan khiên khắc nghiệt.

Làm báo trong bất kỳ quốc gia nào, dưới bất kỳ thể chế nào, trong bất kỳ thời kỳ nào, đã là dấn thân nguy hiểm.

Nhưng nếu sống mà không viết, thấy lẽ phải bị chôn vùi mà câm lặng. Khác gì đã chết !

By Steven Nguyễn

#ThủThiêm
#Mãikhônglãngquên

—–
Ảnh 1: Ký ức về Chùa Liên Trì và vùng đất hoang tàn ngày nay.

Ảnh 2: Tác giả trong vòng tay thương yêu của bà con dân oan Thủ Thiêm

Ảnh 3: Giáo xứ Thủ Thiêm và khu nhà dòng các Sơ đang ở, trước nguy cơ bị thôn tính – ảnh của nhà báo Minh Tú (CafeF)

Hãy cứu lấy Hiến

Hoa Kim Ngo and 2 others shared a post.
Image may contain: 2 people, hat and outdoor

Lê Văn SơnFollow

Hãy cứu lấy Hiến

Chưa lúc nào một tên giết người lại được người dân ủng hộ và xin tha tội chết. Hắn là Đặng Văn Hiến, người tạo ra tiếng súng ở Tây Nguyên gây rúng động.

Hiến là người đồng bào từ vùng Tây Bắc xa ngái vào Tây Nguyên lập nghiệp. Vùng đất, nơi ban đầu Hiến đến, không đường, không điện, không người… Chỉ có muông thú với rừng xanh là bạn.

Nhờ bàn tay của vợ chồng Hiến, đường sá thành hình, nương rẫy sum suê. Người dân đến cư ngụ cũng đông dần và hình thành nên một cộng đồng đoàn kết, thân thiện…

Đang yên, đang lành thì bỗng nhiên công ty Long Sơn xuất hiện. Với “lệnh bài” thu hồi đất trên tay, chúng biến nơi đây thành “chiến trường” đổ máu. Người dân ngày đêm nơm nớp lo sợ, thay nhau canh giữ trước sự phá hoại nhà cửa, vườn tược. Cả thập niên như vậy, Long Sơn trở thành kẻ đứng phía bên kia “chiến tuyến”, thành “giặc ngoại xâm” của người dân nơi đây.

“Cuộc chiến” này đã không cân sức, khi chính quyền địa phương đứng ngoài cuộc, bỏ mặc cho người dân tự mình chống chọi với “giặc”.

Đêm định mệnh. Khi cả nhà Hiến đang ngủ. Hàng trăm người của Long Sơn đến vây ráp. Chúng chia nhau ủi rẫy, che chắn bọc lót tấn công ngôi nhà Hiến ở.

Tình thế hết sức nguy kịch, chó bị dồn vào đường cùng còn cắn lại, huống chi là người và súng đã nổ.

Sau 2 phát súng chỉ thiên, nhóm người Long Sơn không tỏ ra lo sợ và còn dùng đá tấn công vào nhà Hiến, nơi có vợ và con nhỏ. Hiến đã nổ súng vào nhóm người này.

Tiếng súng của Hiến không phải của một tên tội phạm khát máu. Tiếng súng làm thức tỉnh lương tri. Tiếng súng gióng lên hồi chuông cảnh báo sự vô cảm của chính quyền…

Tiếng súng, ở góc đô xã hội, không phải là tội phạm.

Chỉ còn 2 ngày nữa, ngày một 7/5 sinh mạng của Hiến sẽ phụ thuộc vào lương tâm của các vị quan tòa.

Phán quyết họ sẽ như thế nào…Tôi thực sự rất hồi hộp!

Tôi hi vọng họ đọc được những dòng chữ này của tôi.

Ls Nguyễn Kiều Hưng

 Đức Cha và cô tiếp viên hàng không

 Đức Cha và cô tiếp viên hàng không

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Vào một ngày cuối năm 1965. Trên một chuyến máy bay đưa các Giám Mục người Mỹ trở về từ Ý sau khi đã dự Công Đồng Vatican 2, có một nữ tiếp viên hàng không rất xinh đẹp, tận tình và nhã nhặn phục vụ hành khách. Thế nhưng, trong suốt hành trình, cô tiếp viên hàng không trẻ đẹp này rất bực bội và rất mất tự nhiên vì có một người đàn ông, xem ra thiếu đứng đắn, cứ liên tục đảo đôi mắt chăm chú nhìn mình. Càng đáng bất bình hơn, khi đó là một người đàn ông đã lớn tuổi. Cô lại càng khó chịu hơn, vì ngay sau đó cô được biết, người đàn ông ấy chính là đức cha Fulton Sheen, Tổng Giám Mục thành New York, một con người nổi tiếng về khoa ăn nói, giảng dạy và đạo đức. Ngài là một Giám Mục tông đồ lừng danh nước Mỹ. Thật là quái gỡ không thể tưởng tượng! Một kẻ xem ra thiếu tư cách ấy, lại là con người của thành công, của sự nổi tiếng sao? Cô không hiểu nổi và thầm chê trách coi khinh vị Giám Mục già kia.

Đến lúc chiếc phi cơ hạ cánh, kỳ quái thật, vị Giám Mục già bị coi là “thiếu đứng đắn” kia lại không xuống cùng lúc với các hành khách. Không hiểu ngài có toan tính gì mà lại đợi mọi người trên máy bay xuống hết, chỉ còn mỗi mình ngài là vị khách xuống sau cùng. Đã vậy, khi đến cầu thang máy bay, Đức Cha Fulton Sheen còn ghé sát mặt mình vào tai cô tiếp viên hàng không nói thầm thì những lời gì đó, ngoài cô gái, chẳng ai có thể nghe thấy…

Câu chuyện đến đó, tưởng chừng kết thúc. Những tưởng sự khó chịu của cô gái tiếp viên hàng không rồi cũng trôi qua, cái nhìn tưởng như khiếm nhã của vị Giám Mục già rồi cũng chẳng còn ai nhớ, có chăng một ánh mắt dù khiếm nhã (theo như ý nghĩ của cô gái), thì cũng chỉ là một ánh mắt thoáng qua như bao nhiêu ánh mắt mà cô gái bắt gặp trong đời mình?

Không phải thế. Mọi sự không trôi đi, không mất. Bởi vào một buổi trưa, Đức Cha Futon Sheen nghe tiếng gõ cửa, và sau đó là sự bất ngờ của Đức Cha khi ngài mở cửa. Trước mặt ngài là cô gái tiếp viên hàng không trẻ tuổi có sắc đẹp mặn mà trên chuyến bay hôm nào, đã từng có ánh mắt thiếu thiện cảm với ngài.

Cô gái lên tiếng chào Đức Cha và hỏi: “Thưa Đức Cha, Đức Cha có nhớ con không?” Đức Cha Fulton Sheen từ tốn trả lời: “Cha nhớ chứ. Con chính là cô gái tiếp viên hàng không trên chiếc máy bay đưa chúng tôi trở về từ Công Đồng Vatican II”. Cô gái nói tiếp: “Vậy Đức Cha có nhớ Đức Cha đã nói nhỏ vào tai con điều gì không?” Đức Cha trả lời: “Nhớ! Cha nhớ, Cha đã khen con đẹp lắm. Và cha hỏi con rằng, có bao giờ con đã cảm tạ Chúa vì Chúa đã ban cho con sắc đẹp tuyệt vời kia chưa?” Cô gái sung sướng nói tiếp: “Kính thưa Đức Cha, điều Đức Cha nói đã làm con băn khoăn nhiều. Cũng chính vì điều đó mà hôm nay con đến gặp Đức Cha. Vậy, theo ý Đức Cha, con phải làm gì để tạ ơn Chúa?” Hơi bất ngờ, Đức Cha Fulton Sheen lặng người suy nghĩ một chút. Sau đó Đức Cha dẫn cô gái tới trước tấm bảng đồ thế giới treo trên tường, vẫn giọng nói ôn tồn, Đức Cha hỏi: “Có bao giờ con nghe nói tới một trại phong cùi nào ở Việt Nam mang tên là trại phong Di Linh chưa?” Cô gái ngước đôi mắt xanh như dọ hỏi: “Kính thưa Đức Cha, có lần con đã đọc được trên báo. Con cũng đã được nghe ai đó kể một vài chuyện về trại cùi Di Linh.”

Đức Cha dõi mắt nhìn vào khoảng xa xăm trước mặt: “Này con, cách đây chưa lâu, cha nghe nói Đức Giám mục giáo phận Sài Gòn tên là Gioan Cassen đã từ chức Giám Mục Sài Gòn để đến phục vụ anh chị em trại phong Di Linh. Con có muốn cảm tạ Chúa bằng cách thử một lần đến trại phong Di Linh, gặp Đức Giám Mục Sài Gòn và ở lại với anh chị em bệnh phong khoảng sáu tháng không?” Quá bất ngờ trước lời đề nghị của Đức Giám Mục thành New York, cô gái không thốt lên một lời, lặng lẽ cúi chào Đức Cha rồi rút lui trong sự bàng hoàng của chính nội tâm của cô…

Một lần nữa, người ta cứ tưởng rằng câu chuyện thật nhẹ nhàng, nhưng cũng thật mãnh liệt của Đức Cha Fulton Sheen và cô tiếp viên hàng không kia đã chấm dứt. Nhưng thật lạ lùng, chỉ bằng ấy lời đề nghị nhẹ nhàng, nhưng dứt khoát của Đức Cha, đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của cô tiếp viên hàng không xinh đẹp.

Những tháng đầu năm 1966, người ta đọc thấy một bảng tin đáng khâm phục trên các phương tiện truyền thông của Sài Gòn và của Việt Nam nói chung: Một nữ tiếp viên hàng không rất trẻ, rất đẹp của một hãng hàng không Hoa Kỳ đã xin nghỉ nghề làm tiếp viên hàng không để đến trại phong Di Linh của Việt Nam, tình nguyện chăm sóc các bệnh nhân phong.

Thật đẹp, đẹp làm sao. Chỉ chừng ấy lời của một vị Giám Mục khả kính thôi, tâm hồn quả cảm của một cô gái lãng du thích phiêu bồng khi chọn cho mình nghề tiếp viên, rày đây mai đó, đã có thể chấp nhận trút bỏ tất cả tương lai đẹp như chính cái vẻ đẹp của cô để sống, không phải sáu tháng, nhưng là suốt đời cho một lý tưởng cũng đẹp không kém: TẠ ƠN THIÊN CHÚA.

Chỉ chừng ấy thôi, lời của một vị Giám Mục khả kính đã biến một cô chiêu đãi viên hàng không xinh đẹp thành một nữ tu. Bởi chính cô, sau một thời gian phục vụ anh chị em phong, đã tự nguyện khoác lấy chiếc áo nữ tu trong Hội Dòng Nữ Tử Bác Ái Vinh Sơn Việt Nam. Từ nay, bước vào đời sống tu trì, Người Nữ Tu, cô gái xinh đẹp của chúng ta, hoàn toàn trút bỏ mọi vướng bận của đời thường để yên tâm sống lý trưởng cảm tạ Chúa bằng việc phục vụ anh chị em phong của mình. Người nữ tu đã từng làm tiếp viên hàng không ấy, đẹp quá. Chị đẹp, không chỉ là một sắc đẹp thân xác, mà chính là một vẻ đẹp lộng lẫy của tâm hồn. Người Nữ Tu ấy, không ai khác hơn, nhưng đó chính là Chị Louise Bannet.

Chị Louise Bannet đã tình nguyện ở lại trại phong Di Linh suốt đời. Nhưng biến cố của năm 1975 gây ra nhiều biến động, khiến Chị không thể tiếp tục ý nguyện của mình. Sau mười năm phục vụ người phong, Chị đã phải lên đường về nước. Một thời gian sau, Chị lại xin Nhà Dòng cho đi phục vụ bệnh nhân phong ở Tahiti. Năm 1982, sau nhiều ngày bị căn bệnh ung thư quái ác hoành hành, Chị Louise Bannet đã qua đời giữa sự tiếc thương vô cùng của cộng đoàn anh chị em phong tại Tahiti. Và trong tình liên đới, cũng như trong lòng biết ơn của mình, cũng là chính lòng tiếc thương của các bệnh nhân phong Việt Nam nói chung và tất cả những ai sống tại trại phong Di Linh nói riêng.

Người Vợ Mù

Người Vợ Mù

Sưu tầm 

Trong một chương trình radio mang tên “Nẻo về của trái tim”, một cô gái mù đã gửi cho những người làm chương trình câu chuyện của mình. 
Mong muốn của cô là được chia sẻ niềm hạnh phúc mà mình đang có và gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới một người.

***

Tôi là một kiến trúc sư vui vẻ, hoạt bát. Cách đây một năm, tôi là người vợ hạnh phúc nhất.
Khi thức dậy cùng người mình yêu vào mỗi sáng, chúng tôi thường cùng nhau thưởng thức một tách trà trong không gian yên tĩnh đầu ngày.
Chúng tôi xây dựng cho mình một thói quen: sẽ luôn cố gắng chia sẻ với nhau những suy tư và cảm nhận chân thật nhất của mỗi người để gìn giữ hạnh phúc.

Cuộc sống của chúng tôi êm đềm trôi qua cho tới một ngày. Trên đường từ bến xe buýt vào tới công ty, tôi thấy mọi thứ như nhòa đi trước mắt, chỉ còn lại những tiếng còi xe inh ỏi. Rồi tôi lập tức được đưa vào bệnh viện. Ngày hôm đó, tôi vẫn còn nhớ rất rõ ràng cảm giác khi nghe câu kết luận của bác sĩ: 

“Đây là một căn bệnh thoái hóa nên chúng tôi cũng không thể giúp được gì”. 

Bác sĩ còn giải thích rất nhiều điều nữa, nhưng trong đầu tôi chỉ còn đọng lại duy nhất câu nói: “Cô sẽ sớm bị mù”.

Tôi không biết các bạn sẽ cảm thấy ra sao khi đối diện với sự thật này. Còn tôi, tôi đã đầu hàng một cách hèn nhát. Tôi khóc, tôi cáu bẳn thậm chí nhiều lần gắt gỏng, đặc biệt khi chỉ có tôi và anh, trong căn nhà hạnh phúc của chúng tôi.
Tôi đã rất sợ, sợ bị rơi vào bóng tối, sợ phải làm một người mù và sợ nhất rằng tình yêu của anh dành cho tôi cũng sẽ không còn.
Tôi không còn dùng trà vào mỗi buổi sáng với chồng nữa. Bởi tôi muốn tất cả phải chịu trách nhiệm về căn bệnh của mình, đặc biệt là chồng tôi.
Trước sự thay đổi chóng mặt của vợ, chồng tôi không nói gì, anh chỉ lẳng lặng quan sát và chịu đựng những cơn nóng giận vô cớ. Hơn thế anh giúp tôi làm mọi công việc nhà bất chấp sự phản đổi đầy ngang bướng của tôi. 

Thời gian đó, ông chủ vẫn sắp xếp cho tôi một công việc nhỏ trong văn phòng. Nhờ đó, tôi có thể được ra ngoài vào mỗi sáng. Được đi làm đã trở thành niềm hạnh phúc nhất của tôi khi ấy. Công việc cho tôi cảm giác tôi không phải là người thừa, tôi được chứng minh sự mạnh mẽ của mình và thỏa mãn cái tôi đang bị tổn thương ghê gớm.
Tôi quyết định vẫn đi xe buýt tới công ty như tôi luôn làm trước đây. Tôi biết mình đã rất quen với con đường và tôi cũng đã dần thành thục việc sử dụng cây gậy cho người mù.  
Chồng tôi đề nghị, hãy để anh đưa tôi đi làm mỗi sáng và trở về đón tôi mỗi buổi chiều.
Nhưng tôi từ chối, tôi không muốn anh phải vất vả như vậy, bởi nơi chúng tôi làm việc cách nhau rất xa.
Chồng tôi không phản đối, anh chỉ nói: “Hãy cẩn thận khi qua đường nhé, ngã ba đó khiến anh lo lắng hơn cả”.
Tôi giữ im lặng trước lời dặn dò của anh.
Mọi chuyện sau đó diễn ra suôn sẻ ngoài mong đợi của tôi. Có lẽ sư lo lắng của tôi và chồng đều là thái quá. Khi dừng đèn đỏ ở ngã ba đầu tiên, tôi nhớ lại lời của chồng và bắt đầu cảm thấy sợ. Ngay lúc ấy có một giọng nói nhỏ nhẹ vang lên:

“Cô ơi, cô có thể dẫn cháu qua đường không?” 

Tôi quá đỗi ngạc nhiên với câu hỏi của cậu bé, hình như cậu bé không biết tôi bị mù.
 

“Cháu à, cô xin lỗi, nhưng cô sẽ không bảo đảm an toàn được cho cháu vì cô không nhìn thấy…” Tôi chưa kịp nói hết câu thì cậu bé chen vào.

“Cháu biết cô bị mù, cháu xin lỗi ý cháu là cô không nhìn thấy, nhưng không sao. Cô là người cao lớn, những người lái xe sẽ nhìn thấy cô, họ sẽ tránh chúng ta. Còn cháu sẽ dắt cô qua đường, cháu sẽ làm đôi mắt cho cô ở ngã ba này nhé.”

Trước lời nói ngây thơ của cậu bé, tôi thấy mũi mình cay cay. Chuyển gậy dò đường sang tay phải, tôi chìa bàn tay còn lại để nắm lấy bàn tay nhỏ bé đó. Cậu bé nắm tay tôi thật chặt. Cái siết tay của cậu khiến tôi có thêm rất nhiều tự tin. 

Hóa ra tôi vẫn còn có ích, vẫn có thể giúp đỡ một ai đó chứ không hoàn toàn là “đồ vô dụng” như tôi luôn nghĩ về mình sau khi không còn nhìn thấy. Bên trong tôi bất giác thấy lại được niềm vui.

Cậu bé quả là một người dẫn đường tài tình, chúng tôi đã qua đường an toàn và dường như không làm một người lái xe nào nổi giận. Khi chia tay ở ngã ba, cậu bé nói:

“Cháu hy vọng mai cô sẽ lại ở đây nữa, vì sáng nào cháu cũng phải đi qua ngã ba này để đến trường. Cảm ơn cô nhiều nhé. Giờ cháu đi học đây.”

Cậu bé chào tôi và chạy đi nhanh như một cơn gió. Trước khi đi, cậu bé quay lại, nói thật to: 

“Hẹn cô ngày mai nhé, cháu sẽ chờ cô đấy”.
Cậu bé khiến nụ cười trở về trên môi tôi, đôi má tôi cũng ửng hồng. 

Một cảm giác ấm áp khiến những căng thẳng bao ngày qua tan mất. Có lẽ ai đó nhìn thấy tôi lúc ấy sẽ phải thắc mắc: Cô gái mù ấy sao lại cười rạng rỡ thế?

Không để tôi thất vọng, ngày hôm sau và ngày hôm sau nữa, cậu bé vẫn xuất hiện và chúng tôi đã trở thành đôi bạn “chinh phục ngã ba” từ đó.
Đôi lúc chúng tôi còn nán lại nói chuyện với nhau. Tôi đã biết cậu bé thiên thần ấy (chí ít là với tôi) tên là Jimmy. Jimmy nhỏ người, mặt nhiều tàn nhang, tóc màu hung và có một cái mũi hơi kì lạ. Đó là dáng vẻ mà cậu bé tả về mình cho tôi nghe.

Nhờ Jimmy bé nhỏ, tôi dần lấy lại niềm vui trong cuộc sống của mình. Tôi cũng đã có thể đối đãi dịu dàng trở lại với chồng, không còn nặng nề với anh nữa. Nhưng cảm giác muốn mở lòng để chia sẻ với chồng vẫn chưa trở về.

Niềm vui của tôi chỉ kéo dài được một tháng.
Sáng hôm đó, khi ở ngã ba tôi không thấy Jimmy, cậu bé đến muộn chăng? Tôi chợt hiểu ra rằng hình như những đứa trẻ đã kết thúc năm học và Jimmy sẽ không đến trường ngày hôm nay.
Tôi chưa biết làm thế nào để qua đường khi không có người hoa tiêu nhỏ bé, tiếng lanh lảnh quen thuộc vang lên: “Cô James chờ cháu.”

“Cháu đấy à, cô mừng quá, cô cứ nghĩ là cháu sẽ không đến”.

“Cháu không thể để cô một mình qua đường được. Đó là lời hứa danh dự. Nhưng cháu sắp theo bố mẹ về quê với ông bà rồi. Cô biết mà, trường học đã nghỉ hè và hôm nay là ngày cuối cùng cháu ở đây”.

Tôi cảm thấy lo lắng và hơi buồn, nhưng cố trấn tĩnh. Tôi hỏi Jimmy về “lời hứa danh dự” của cậu bé, điều khiến tôi cảm thấy rất tò mò.

“Cháu đã hứa với một người. Nhưng chú ấy không cho cháu nói điều này với cô.”
 
Chúng tôi cùng nhau băng qua đường trong im lặng. Nhưng khi tới nơi, cậu bé níu tay tôi lại, hỏi rằng tôi có thể đi với cậu bé một chút không? Tôi đồng ý và chúng tôi thả bộ cùng nhau trong một công viên gần đó. Hóa ra cậu bé muốn kể cho tôi nghe về lời hứa danh dự của mình.
Ngày đầu tiên chúng tôi gặp nhau, đã có một người đàn ông nhờ cậu bé dắt một phụ nữ xinh đẹp nhưng bị mù qua đường.
 
Người đàn ông ấy giải thích với cậu bé rằng, đó là vợ chú. Cô ấy vừa bị mất đi đôi mắt và chú không thể yên tâm để cô ấy một mình đi qua con phố đông đúc này. Nhưng chú cũng không thể tự tay dắt cô sang đường, vì cô đang đóng cửa tâm hồn mình với chú.

Nước mắt tôi bắt đầu rơi. Cậu bé tiếp tục kể.
Cậu bé đã đồng ý giúp người đàn ông lạ mặt đó.
“Không chỉ một lần, cháu không biết tại sao nhưng khi nghe chú ấy kể về cô, cháu nhớ đến cách bố cháu nói về mẹ, đầy yêu thương. Vì thế, cháu đã hỏi chú ấy có cần cháu giúp những ngày tiếp theo không. Đôi mắt của chú ấy lúc đấy rạng rỡ như mắt cháu lúc được đi chơi hay ăn kem vậy”.

“Đó là lý do vì sao sáng nào cháu cũng ở đây chờ cô?”
 
“Vâng, nhưng không chỉ chờ cô, cháu chờ cả chú ấy nữa. Chú ấy ngày nào cũng đi qua đường với chúng ta mà.
 
Chú chỉ lặng lẽ đi cạnh cô, cách cô một đoạn để cô không cảm thấy sự có mặt của chú ấy.
 
Chỉ khi cô cháu mình sang đường an toàn chú ấy mới đi làm”. “Thật vậy sao?”.
 
Tôi không còn biết nói gì hơn. “Cháu không định nói chuyện này cho cô nghe. Nhưng ngày mai cháu đi rồi. Cháu sợ cô sẽ thấy hoang mang vì không có cháu.
Thêm nữa cháu sợ cô vẫn giận chú”. “Vậy hôm nay chú ấy có đi cùng chúng ta không, Jimmy?” 
Chồng tôi đã đứng đó từ bao giờ. Anh đã lắng nghe câu chuyện của cô cháu tôi. Tôi không biết khuôn mặt anh lúc ấy như thế nào.. Chỉ biết có một bàn tay to lớn, ấm áp và rất quen thuộc nắm lấy bàn tay tôi, nhẹ nhàng dắt tôi đi hết quãng đường từ công viên tới văn phòng.

Sau ngày hôm ấy, tôi đồng ý để chồng chở đi làm, và buổi chiều tôi đi xe buýt về, anh đã nhờ được một người bạn trong công ty đưa tôi ra bến xe. Tôi còn được biết, công việc mà ông chủ sắp xếp cho tôi chính là nhờ anh đã tới gặp và thuyết phục ông.

Đó là câu chuyện tình yêu mà tôi muốn chia sẻ với các bạn.
 
Những ngày tháng vừa qua đã khiến tôi nhận ra rằng: Trong cuộc sống nhiều đau khổ này, tình yêu thực sự hiện hữu, và nó mang một sức mạnh chữa lành thật to lớn. Khi nghĩ về sự nhẫn nại của anh suốt thời gian cùng tôi và Jimmy sang đường, khi cảm nhận được rằng trái tim chan chứa thiện niệm của anh luôn nghĩ cho cảm giác của tôi, nghĩ đến việc làm thế nào để tôi an toàn và hạnh phúc nhất, tôi mới hiểu ra thế nào là thực sự yêu một ai đó..
 
Chia sẻ câu chuyện này cũng là cách tôi muốn anh biết:
 
Từ tận đáy lòng, tôi biết ơn tình thương và những điều anh đã dành cho tôi.
 
Và hơn thế, anh và Jimmy bé nhỏ đã cho tôi hiểu và học được rằng yêu thương một người là dành cho người đó sự bao dung, nhẫn nại và những điều thiện lành nhất mỗi ngày.
 
  
Sưu tầm 

Xin đồng hành cùng Nhà thờ Thủ Thiêm và Hội Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm.

 
 
Cat Bui shared a post.
 
 
Image may contain: 1 person, smiling, standing and outdoor
Image may contain: sky, house, tree, outdoor, nature and water
Hiếu Minh Vũ

Để phục vụ dự án đô thị Thủ Thiêm, ngày 8-9-2016, 400 CSCĐ đã san bằng Chùa Liên Trì ( Bí thư Tp HCM lúc đó, Đinh La Thăng, bây giờ đang ở tù, bố mất cũng không được về chịu tang, một số người cho rằng đây là quả báo, theo giáo lý nhà Phật, khi dám đụng đến các công trình tâm linh) để giải phóng mặt bằng.

Năm nay, mặc dù đã chuẩn bị định hướng dư luận bằng cách để báo chí lên đồng về Hội Thánh Đức Chúa trời, nhưng chính quyền khó có thể lấy được Nhà Thờ Thủ Thiêm và Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm.

Đằng sau nhà thờ, dòng tu không chỉ có giáo dân của giáo xứ ấy hay các nữ tu của nhà dòng nhưng là toàn thể Giáo Hội Công giáo, một tổ chức chặt chẽ, là cả Tổng giáo phận Saigon với hàng trăm ngàn tín hữu. Đây có thể là phép thử thăm dò quan điểm của các ứng viên Tổng Giám Mục Saigon khi giáo phận đang trống tòa bởi sự ra đi của Đức Tổng Đọc.

Đó cũng là phép thử về sự liên đới của các tín hữu Công giáo. Liên đới không phải để chống đối nhưng liên đới để công lý được thực thi. Nếu tín hữu Công giáo để Nhà tờ Thủ Thiêm và Dòng Mến Thánh giá bị san bằng thì sẽ là tiền lệ để chính quyền có thể san bằng bất kì ngôi nhà thờ nào khác. Hơn nữa, các nhà khoa học, kiến trúc sư đều đang lên tiếng đề nghị giữ lại công trình hơn 170 năm này như một dấu ấn lịch sử giữa đô thị hiện đại. ( Dinh Thượng Thư được xây từ thời Pháp thuộc ở Q. 1 cũng đang trong diện bị phá dỡ để xây dựng khu TT hành chính)

Về mặt pháp lý, theo bản đồ quy hoạch bản sao mà hội dòng có trong tay thì đất của nhà thờ và tu viện cũng như nhiều hộ dân khác không nằm trong diện quy hoạch.

Bây giờ tất cả đang yêu cầu chính quyền trưng ra bản đồ gốc năm 1996, nếu trong bản đồ gốc đó quy hoạch Hội dòng và nhà thờ thì cũng sẽ sẵn sàng di dời. Tuy nhiên, đến lúc này chính quyền nói bị mất bản đồ đó và chưa tìm ra.

Xem trò lố bịch đó tại https://news.zing.vn/that-lac-ban-do-quy-hoach-thu-thiem-la…

Ảnh 1: Hòa thượng Thích Không Tánh ngồi khóc trên phần đất chùa Liên Trì, Q. 2 đã bị san bằng

Ảnh 2: Nhà thờ Thủ Thiêm và Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm nằm trong 9 lô đất vàng sắp được bán đấu giá

Xin đồng hành cùng Nhà thờ Thủ Thiêm và Hội Dòng Mến Thánh giá Thủ Thiêm.

Những vấn đề biển Đông: 5 ngụy biện của Trung Quốc.

 
 
Hoang Le Thanh is with Phan Thị Hồng.

29 Tháng 3 2016 · 

Những vấn đề biển Đông: 5 ngụy biện của Trung Quốc.

Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích

Người dịch: Nguyễn Duy Vinh

Phần 1 : Nhân đọc bài của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích viết trước khi ông mất

Lời người dịch:
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích đột ngột qua đời lúc 12 giờ sáng ngày 3/3 (giờ miền đông Hoa Kỳ) khi đang trên chuyến bay tới thủ đô Philippines tham dự một hội nghị cổ súy cho chủ quyền Việt Nam ở Biển Đông. Trước khi lên đường GS Nguyễn Ngọc Bích (NNB) có gửi bài viết bằng tiếng Anh của mình cho tờ Viet-Studies [1] mà tôi đã đọc và cố gắng ghi lại đây những điều tôi hiểu bằng tiếng Việt. Giáo Sư NNB dùng chữ “fallacies” mà tôi tạm dịch là “những ngụy biện” của Trung Quốc về biển Đông Nam Á. Giáo Sư nói về 5 ngụy biện của Trung Quốc và tôi xin tuần tự trình bày dưới đây:

Ngụy biện thứ nhất của Trung Quốc : Không có một bản đồ Trung Quốc (TQ) nào cho thấy chủ quyền của TQ trên các đảo ở biền Đông ngoài đảo Hải Nam, trừ những bản đồ TQ tạo dựng sau này trong thế kỷ 20.

Ngày nay, nhờ vào những sách vở và công trình nghiên cứu của các nhà sử học, các nhà khảo cổ học, các khoa học gia phiêu lưu thám hiểm về vùng Đông Nam Á, khắp nơi trên thế giới người ta đều biết là phần lớn những bản đồ cũ của TQ còn lưu lại từ đời nhà Thanh cho đến năm 1909 đều ghi rõ là biên thùy xa nhất của TQ về phía Nam dừng lại ở đảo Hải Nam. Trong khi đó những bản đồ cũ của Âu Châu còn lưu lại từ thế kỷ 16, 17 đều gọi “biển Nam Hải” là biển Champa. Chủ quyền của Việt Nam đã thay thế sự bành trướng của dân tộc Chàm vào cuối thế kỷ 15 và vào thế kỷ 17, các hải đội Việt Nam (VN) đã thường xuyên đưa thuyền ra đóng ở các đảo của biển được gọi là biển Đông. Các hải đội này thâu nhặt đem về nhiều thứ gồm có nào là hải sản hoặc các đồ vật tìm được trong những kiện hàng bỏ lại từ những tàu bị đắm. Trong Phủ Biên Tạp Lục do chí sĩ Lê Quý Đôn (1726-1784) biên soạn, ông đã mô tả chi tiết các vùng lãnh thổ của nhà Nguyễn ở Thuận Hóa và các tỉnh Quảng Nam như trích đoạn dưới đây :

“Phủ Quảng Ngãi, huyện Bình Sơn, có xã An Vĩnh ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng dài, ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Bên đảo có vô số yến sào, các thứ chim có hàng nghìn hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không tránh. Bên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân thì có ốc tai voi to như chiếc chiếu, bụng có hạt to bằng đầu ngón tay, sắc đục, không như ngọc trai, cái vỏ có thể đẽo làm tấm bài được, lại có thể nung vôi xây nhà; có ốc xà cừ, để khảm đồ dùng; lại có ốc hương. Các thứ ốc đều có thể muối và nấu ăn được. Đồi mồi thì rất lớn. Có con hải ba, tục gọi là trắng bông, giống đồi mồi mà nhỏ, vỏ mỏng có thể khảm đồ dùng, trứng bằng đầu ngón tay cái, muối ăn được. Có hải sâm, tục gọi là con đột đột, bơi lội ở bên bãi, lấy về dùng vôi xát qua, bỏ ruột phơi khô, lúc ăn thì ngâm nước, cua đồng cạo sạch đi, nấu với tôm và thịt lợn càng tốt.

Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 08 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân [tức là Huế sau này] để nộp, cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng ra các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về”…

“Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai các đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quí ít khi lấy được.”

Như vậy thật rõ ràng theo Phủ Biên Tạp Lục là từ thế kỷ 17, người Việt Nam đã có tổ chức hải thuyền thường xuyên (hàng năm) khai thác quần đảo Hoàng Sa (Hoàng Sa hay Bãi Cát Vàng cho người Việt, Xisha cho người TQ) và một phần của quần đảo Trường Sa, một văn bản lịch sử không có một tài liệu nào của TQ có thể so bì kịp. Rồi còn hàng trăm bản đồ lịch sử còn lưu lại ở Âu Châu trong những thế kỷ 17 đến 20 dẫn chứng rõ rệt là Hoàng Sa (và đôi khi Trường Sa) thuộc về triều đình Việt Nam, còn được gọi là Cochinchine (hay Đằng Trong theo tiếng Việt) và vào thế kỷ 19 thì được gọi là vương quốc An Nam (Empire d’Annam) – và đây, một lần nữa, là những chứng cứ mà không sách vở lịch sử TQ nào sánh kịp.

Thật thế, năm 1816 hoàng đế Gia Long của VN đã thân chinh ra thăm viếng Hoàng Sa để đánh dấu chủ quyền của VN và năm 1836, vua Minh Mạng, người kế vì vua Gia Long, đã ra lệnh cho lập địa đồ Hoàng Sa và được ghi chú là một quần đảo của vương quốc Đại Việt (theo Đại Nam Nhất Thống Toàn Độ, năm 1838, được hoàn thành bởi Quốc Sử Quan).

Trong quyển từ điển Nam Việt Dương Hợp Tự Vị của ông J.L. Taberd (một tu sĩ của Giáo Sứ Lyon, Pháp, 1794-1840) in năm 1838 tại Serampore (Ấn Độ), một bản đồ mang tên An Nam Đại Quốc Họa Đồ cũng ghi quần đảo Hoàng Sa thuộc về Việt Nam (hình do tác giả bài viết này tìm được trên mạng, cắt gọn và dán kèm vào bài dưới đây).

H1

Ngụy biện thứ hai của Trung Quốc : TQ đã từng khước từ chủ quyền về quần đảo Hoàng Sa trong quá khứ

Bà Monique Chemillier-Gendreau, một nhà nghiên cứu về Á Châu và về những yêu sách chủ quyền các đảo Hoàng Sa và Trường Sa của TQ và của VN, vừa là chuyên gia pháp lý vừa là giáo sư đại học, đã viết như thế này về những lập luận của TQ : “Hiện nay, không có một chứng cớ hay dấu vết nào của TQ chứng tỏ TQ đã phản đối những tuyên bố của vua Gia Long và những vua triều Nguyễn kế vì vua Gia Long, từ suốt thế kỷ thứ 18 và nhất là trong suốt thế kỷ 19 khi các vua triều Nguyễn tổ chức việc quản trị cũng như việc khai thác các đảo nằm trong quyền tài phán của triều đình Việt Nam” (trong quyển “La souveraineté sur les archipels Paracels et Spratleys”, Paris, l’Harmatan, 1996).

Hơn cả thế, tài liệu lịch sử TQ lại còn xác nhận chủ quyền VN trên các đảo này. Tờ Haiguo tuzhi (bản đồ và biên khảo về các nước thuộc vùng biển, năm 1730) đã viết “Vạn Lý Trường Sa là một bãi cát dài nổi lên giữa biển. Bề dài khoảng ngàn dặm và được dùng như một hàng rào vây chắn cho biên thùy vương quốc An Nam”.

Ngài Shi Dashan (Thích Đại Sán), một tu sĩ TQ được mời sang giảng dạy trong triều thời Chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725) vào cuối thế kỷ 17 cũng đã viết trong hồi ký của mình : “Những cồn cát nằm thoai thoải dọc bờ biển chạy dài từ Đông Bắc xuống Tây Nam với những hang động dựng đứng như những bức tường và những bãi biển nằm ngang cùng mặt nước, cát khô cứng rắn như sắt mà thuyền nào không may đập vào sẽ vỡ tan thành từng mảnh. Dãi cát đó rộng trải dài trên cả trăm dặm với bề dài thên thang mà vì vậy người ta gọi nó là Vạn Lý Trường Sa, và người ta không thể nhìn thấy cây cỏ hay sự hiện diện của cư dân với tầm mắt của mình ….. Vào đời chúa nhà Nguyễn cuối cùng (Nguyễn Phước Trần, 1687-1691), mỗi năm các thuyền đánh cá được phép đi dọc theo bãi cát dài để thu nhặt vàng, bạc và các thứ đồ vật khác từ những thuyền bị đắm vì đập vào những bãi này.” (Thích Đại Sán, Hải Ngoại Ký Sự, được dịch sang tiếng Việt bởi tác giả Cheng Ching-ho, Đại Học Huế, 1963).

Nhưng cái bằng chứng đanh thép nhất để chứng minh rằng TQ luôn khẳng định là Hoàng Sa là của Việt Nam là sự kiện của những chiếc tàu của những công ty Âu Tây bị đắm ở Hoàng Sa, chủ nhân của những công ty này đòi chính quyền Quảng Đông bồi thường và được trả lời là những đảo này không thuộc chủ quyền TQ mà là thuộc chủ quyền của triều Nguyễn ở Việt Nam.

Ngụy biện thứ ba : những yêu sách giả dối của TQ trong thế kỷ 20

Nhiều học giả TQ tuyên bố là thị trưởng Quảng Đông, ông Zhang Yen-jun, đã cho một tiểu đội hải quân ra đảo Hoàng Sa năm 1909 và ở đây 3 tuần để đòi chủ quyền đảo này cho TQ. Nhưng sự thực thì tiểu đội này đến Hải Nam và dừng lại đây 2 tuần, và cuối cùng họ ra Hoàng Sa ngày 06 tháng 06 và quay về lại Quảng Đông ngày hôm sau. Đây rõ ràng không phải là một khiếu nại đứng đắn của TQ.

Một cuộc thám hiểm khác của TQ nghe nói xảy ra năm 1902 để lại những mốc dấu (markers) mà TQ hô lên là “không thể tranh cãi” đã được tìm ra vài năm sau vào thập niên 1970 trên đảo. Một nhà nghiên cứu người Pháp của viện nghiên cứu IRASEC (Institut de Recherche sur l’Asie du Sud-Est Contemporaine, Bangkok, Thái Lan), ông François Xavier Bonnet, đã đưa ra bằng chứng gian dối của TQ trong bài nói chuyện của ông ở Manila trong hội nghị về biển Đông (tháng 03 năm 2014). Ông nói TQ đã chỉ huy một cuộc đổ bộ bí mật ra đảo Hoàng Sa dưới sự lãnh đạo của Huang Qiang vào tháng 06 năm 1937 để chôn dấu những mốc dấu (markers) có khắc năm 1902, 1912 và 1921 trên nhiều đảo của vùng quần đảo Hoàng Sa. Đây rõ ràng cho thấy cách TQ ngụy tạo những “bằng chứng” về chủ quyền trên đảo Hoàng Sa, vào thế kỷ 20 !

Ngụy biện thứ tư : chính là những tên đảo do TQ đặt

Người đã đưa ra những bằng chứng hùng hồn nhất về những sự dối trá của TQ về chủ quyền biển Đông là ông Bill Hayton trong quyển sách ông viết và xuất bản năm 2014 (“The South China Sea – The Struggle for Power in Asia” , Đại Học Yale, USA). Trong quyển sách này ông Hayton cho biết là trong những năm Pháp đô hộ VN, Pháp đã thu nạp 6 đảo trong quần đảo Trường Sa vào tháng 07 năm 1933, mặc dù bị phản đối từ phía TQ. Như tờ báo Shenbao thuật lại, vào lúc đó, ông lãnh sự TQ ở Manila, ông K.L.Kwang, không biết những đảo này nằm đâu trong khi TQ đưa ra yêu sách đòi chủ quyền những đảo này. Ông lãnh sự này đã đi gặp người đại diện Hoa-Kỳ ở Manila để hỏi về những đảo này thuộc quần đảo Trường Sa. Sau khi biết được là những đảo này không thuộc về Hoàng Sa, chính quyền Nam Kinh (tức là TQ) đã quyết định hủy bỏ những yêu cầu chính thức của mình.

Trong cuộc họp ở Manila năm 2014 về biển Đông, ông Bill Hayton có nói đến một chuyện khá ngộ nghĩnh về tên của những đảo bằng tiếng TQ của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Vào năm 1935, như lời ông Hayton tuyên bố trước hội nghị 2014, chính phủ quốc gia của ông Tưởng Giới Thạch ở Nam Kinh đã ra lệnh cho một nhóm nghiên cứu hoàn thành một bảng tên cho tất cả các đảo trên biển Đông. Cả thảy có 132 đảo, đá và bãi cạn trên biển Đông mà TQ nghĩ họ có thể đòi chủ quyền (vô tình hay cố ý, con số 132 đảo này lại khá gần với số 130 đảo mà chí sĩ Lê Quý Đôn đã viết đến vào năm 1777, cho thấy là cách đây 250 năm Việt Nam đã có sự khảo sát và hiểu biết tường tận về các đảo ở biển Đông). Cái mỉa mai nhất, theo ông Hayton, là cái nhóm nghiên cứu của TQ chưa bao giờ đặt chân tới biển Đông. Vấn đề họ đặt tên cho các đảo không cách nào không có sai xót. Và cho đa số các trường hợp, tên đặt bằng tiếng TQ hoàn toàn xa lạ với những tên đã có sẵn từ lâu vì những tên đặt đó toàn là những từ dịch từ những tên của các đảo bằng tiếng Anh hoặc những tiếng phiên âm. Tỉ dụ như North Danger thì họ dịch là Bei Xian (Bắc Hiểm theo tiếng Việt), Antelope Reef trở thành Linh Yang (Linh Dương) và Money Island thành Yin Dao (Kim Ngân đảo). Những việc làm lộ chân tướng sự giả mạo của TQ cho thấy tính cách nông cạn trong cái mà TQ gọi là chủ quyền lịch sử trên đảo Hoàng Sa, đó là chưa nói đến những đảo như Scarborough Reefs thuộc về Phi Luật Tân hay là đảo Trường Sa cách đảo Hải Nam đến tận 800 hải lý. Khi Hải Nam luôn được người TQ xem là biên thùy xa nhất của TQ về phương Nam.

Ngụy biện thứ năm : được phơi bày qua việc TQ dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa và một phần của Trường Sa, vụ cưỡng chiếm này đã bị Liên Hiệp Quốc lên án

TQ rất mưu mô tính toán trong việc tấn công Hoàng Sa vào tháng giêng năm 1974. Mặc dù lực lượng hải quân Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) được gửi ra để chống trả cuộc tấn công của TQ không thích hợp với tình thế (hải quân Trung Cộng mạnh thế hơn rất nhiều), cuộc chiến đấu anh dũng của hải quân VNCH đã đánh đắm 2 tàu chiến TQ trong trận thủy chiến và một trong hai tàu bị đánh đắm này là tàu chỉ huy của TQ. Trận thủy chiến này đã đưa đến sự hy sinh của hạm trưởng Ngụy Văn Thà cùng 73 thủy thủ. 74 tử sĩ VNCH đã trở thành những anh hùng của nước VN, không những cho những người dân miền Nam mà còn cho cả những người trẻ và đa số dân của miền Bắc Cộng Sản.

Nhờ vào sự chiến đấu dũng cảm này, và mặc dù thua trận, 74 tử sĩ của trận thủy chiến Hoàng Sa, hơn bao giờ hết, đã bảo đảm và trưng bày với khắp thế giới về đòi hỏi chính đáng của VN về chủ quyền đảo Hoàng Sa, đảo bây giờ được coi như lãnh thổ bị chiếm đóng bởi TQ chứ không phải là một hòn đảo được lấy lại vì TQ luôn rêu rao coi nó là thuộc chủ quyền TQ.

Tác giả bài viết này chú thích thêm : một ngày sau cuộc tấn công Hoàng Sa bởi TQ, ngoại trưởng ngoại giao VNCH Vương Văn Bắc đã viết một công điện cho ông Kurt Waldheim (tổng thư ký LHQ) phản đối mãnh liệt cuộc tấn công quân sự của TQ ở đảo Hoàng Sa và khẳng định một lần nữa chủ quyền của VN trên quần đảo Hoàng Sa [2].

Ảnh: Bản đồ An Nam Đại Quốc Họa Đồ ghi quần đảo Hoàng Sa thuộc về Việt Nam của J.L. Taberd, Pháp (1794-1840).

Tài liệu tham khảo :
[1] http://www.viet-studies.info/ki…/NNBich_ChineseFallacies.pdf
[2] www.gio-o.com/ngobac.html

Nguyễn Duy Vinh (dịch)
(Douala, mùa mưa năm 2016).
——————————–

Xin xem tiếp : Phần 2: Nhà cầm quyền Việt Nam phải có thái độ mạnh mẽ hơn trước những hành xử hung hăng của Trung Quốc (ABS 01/4/2016)
https://www.facebook.com/hoang.lethanh1/posts/1989207634431041

No automatic alt text available.