BỆNH VIỆN VÀ NGHĨA TRANG

Xuyên Sơn

Chị thì thầm vào tai anh:

“Còn mấy hôm nữa là rằm tháng Giêng chắc mình phải về nhà chứ.”

Anh kéo chiếc mền mỏng lên ngang ngực, chiếc mền ngắn quá, lòi cả nửa ống chân ra ngoài. Anh nhìn chung quanh một vòng, ngượng ngùng co chân lại.

“Về sao được em, phải chờ chứ, còn nước còn tát, mấy hôm nay thằng bé cũng thấy khá hơn một chút.”

Hai vợ chồng đang nằm ngủ ngay trước cửa Bệnh Viện Ung Thư, con trai họ 12 tuổi kiếm được một chỗ nằm chung một giường với một đứa trẻ khác bên trong,

(sau khi anh chị đưa cho y tá trực ở đó hai lần hai cái phong bì.)

Dưới gầm giường thì có bố mẹ của đứa bé kia rồi, không còn chỗ cho anh chị nữa.

Họ lên đây từ trước Tết, đợi mãi mới tới phiên con được khám. Trong khi chờ thì cứ ngồi, nằm, ngay ở hành lang bệnh viện.

Anh chị không phải là cặp vợ chồng duy nhất ngủ ở ngoài này.

Số người chờ khám cho thân nhân hay chờ khám cho chính mình nhiều hơn số giường của bệnh viện có, nên người chờ đợi, ăn, ngủ, tràn lan ra tới hành lang.

Trời mưa lụt, nước tràn ngập cả trong phòng đợi, người ngồi, kẻ nằm trên những chiếc ghế nhựa trông thật thảm thương.

Ngày khô thì chiếu trải la liệt dưới đất.

Anh chị từ Hòa Bình mang con về Hà Nội chạy chữa, thằng bé 12 tuổi đang đi học bỗng ngã bệnh, chữa mãi Bác Sĩ tỉnh nhà không khỏi, thử máu, chụp hình mới biết là bị ung thư màng óc.

Chị lại thì thầm:

“Tết mình đã không có mặt ở nhà để cúng ông bà, thì Rằm cũng phải về cúng Phật chứ anh. Hay em ở lại với con, anh về mấy hôm đi.”

“Anh về cũng chẳng an tâm được.

Mấy hôm ngủ ngoài sương thấy em đã bắt đầu ho.Thôi, Trời Phật cũng thông cảm cho mình.”

Chị im lặng một lúc, lại ngập ngừng nói: “Thôi anh cứ yên tâm về đi, còn bà nội thằng Tí ở nhà nữa, anh về đi kẻo mẹ trông, em biết là mẹ mong anh về lắm.”

Người chồng ngồi hẳn dậy,co hai chân lên vòng tay ôm qua đầu gối, thở dài.

“Ừ, chắc anh nên về, em nói đúng,bà nội thằng Tí đang mong tin lắm.

Anh đã chia tiền ra từng gói nhỏ để em tiện chi tiêu.Tiền trả cho Bệnh Viện chữa trị,tiền đưa bác sĩ thì anh để riêng,tiền đưa y tá, tiền lao công anh cũng để riêng.”

Người vợ ngồi hẳn dậy,quấn lại cái chăn cho gọn,thu xếp mấy cái túi đựng cả một gia đình lưu động của mình.

Chị nhìn chung quanh một vùng bao quát, trong ánh nắng sớm mai yên tĩnh mọi người chưa thức dậy hết.

Họ nằm ngang, nằm dọc, hay xoay chân ngược chiều nhau.

Những bàn chân gầy gò, và những cái đầu xơ xác tóc, họ đang ngủ hay đã thức rồi mà vẫn còn nằm im lo lắng bất an.

Mặt trời sẽ lên, thêm một ngày chờ đợi, đến bao giờ mới tới phiên mình, hay phiên của người thân mình.

Số tiền mang trong túi, cài hai ba cái kim cho chặt, liệu có đủ trả tiền chạy chữa, tiền thuốc và tiền phong bì không?

Nói đến phong bì chị bỗng nhớ, hỏi anh:

“Tiền anh lo đủ rồi nhưng anh quên chưa mua phong bì cho em.

Đưa thẳng tiền mặt ra ai đứng gần cũng nhìn thấy, không tiện đâu.”

Anh ngẩn người ra, ừ nhỉ mấy hôm nay bận quá, cứ lo chỗ ăn chỗ ngủ cho con bên trong bệnh viện, cho hai vợ chồng ngoài hành lang, anh quên hẳn việc phải mua sẵn một lố phong bì.

Anh nhìn trước nhìn sau thấy một xấp báo còn mới, ai đó vứt sang chỗ anh chị nằm.

Anh nhặt lên nói với chị:“Báo còn mới, em cứ lấy con dao,rọc vuông vức rồi gói tiền vào đó cũng được. Nhưng phải nhớ để riêng vào túi trong, túi ngoài, kẻo nhầm của người này lại đưa cho người kia.”

Chị cười nhẹ:“Anh đừng lo, tiền thì em cẩn thận lắm.”

Chị đón xấp báo còn mới trong tay anh, báo trong tay thì dĩ nhiên là chữ trước mắt, chị đọc qua một chút trước khi đi tìm dao rọc.

Sau mấy phút chị ngẩn người ra,để rơi tờ báo xuống lòng.

Anh thấy lạ hỏi:“Tin gì vậy em?”

Chị không nói, đưa tờ báo cho anh.

Báo chí trong nước cho hay,chính quyền thành phố Hà Nội hôm 1/2 công bố quy hoạch được thủ tướng phê duyệt về xây nghĩa trang “phục vụ nhu cầu an táng cán bộ cao cấp của đảng và nhà nước; các anh hùng, danh nhân của đất nước”.

Tin cho hay, nghĩa trang Yên Trung nằm dưới chân núi Ba Vì, cách trung tâm Hà Nội 40 cây số về phía Tây, giáp Vườn Quốc Gia Ba Vì; phía Đông giáp đồi núi và đường cao tốc Hòa Lạc-Hòa Bình; phía Nam giáp đồi núi và khu dân cư.

Tổng diện tích nghĩa trang là 120 hécta, gồm khu an táng 72 hécta, với 2,200 – 2,500 ngôi mộ, mỗi ngôi mộ có khuôn viên 25-35 mét vuông và khu đệm cây xanh cảnh quan trên 47 hécta, có sức chứa 5,000 người.

Nguồn vốn dự kiến hơn 1,430 tỷ đồng (hơn $63 triệu) sẽ lấy từ ngân sách nhà nước.

Thời gian thực hiện dự án khoảng 36 tháng.

Anh đọc tiếp ở một trang khác: Vẫn theo các báo, với tổng diện tích 120 hectare, tương đương một phường lớn ở nội thành Hà Nội,dự án có vị trí ở huyện Thạch Thất,dưới chân núi Ba Vì, cách trung tâm Hà Nội 40 kilomet về phía tây.

Thông tin từ bản quy hoạch cho thấy sẽ có 105 hộ dân phải di dời để nhường chỗ cho dự án.

Anh đọc xong nhìn sang chị,thấy chị vẫn thẫn thờ nhìn mông lung ra một nơi xa lắc xa lơ nào đó.

Anh hỏi: “Sao vậy em, nhà nước xây nghĩa trang thì dính dáng gì tới mình mà em buồn quá vậy?”

Chị quay lại nhìn chồng,hai mắt mở to:

“Sao mấy ông lớn không nghĩ đến việc xây thêm mấy cái bệnh viện cho người đau ốm, xây thêm trường học cho trẻ em? Họ bỏ ra tới 1,400 tỷ đồng để lo “chôn “ những người chưa chết.

Rồi lại thêm 105 gia đình phải mất nhà mất cửa cho họ thêm chỗ.

Anh nhìn đi, cả bao nhiêu năm nay bệnh nhân cũng như người thân của bệnh nhân nằm màn trời chiếu đất trước cửa bệnh viện. Trẻ con nghèo không đủ cơm đã đành ngay cả trường lớp cũng thiếu thốn..

Có ông lớn nào quan tâm tới không?”

Anh nhìn vợ với cặp mắt thương hại,nói nhỏ:

“Thế bây giờ em định làm gì, em cầm biển ngữ đi biểu tình đòi nhà nước xây bệnh viện, trường học thay vì xây nghĩa trang cho các ông lớn hả.

Em có muốn vào tù vì tội chống phá nhà nước, trong khi con em đang bị ung thư không?”

Chị nhìn anh một lúc, không trả lời.

Hai con mắt chị ánh lên một nét giận dữ, chị mở tung những cái giỏ ra tìm con dao, chị nín thở rọc tờ báo ra từng miếng nhỏ để làm những cái phong bì,chị dằn mạnh từng nhát dao đi qua những hàng chữ:“nghĩa trang, “phục vụ nhu cầu an táng cán bộ cao cấp của đảng và nhà nước”

“Nguồn vốn dự kiến hơn 1,430 tỷ đồng (hơn $63 triệu) sẽ lấy từ ngân sách nhà nước.” “105 hộ dân phải di dời để nhường chỗ cho dự án.”

Chị cắt ngang, cắt dọc tờ báo tưởng như cắt đứt được những dự án làm chị uất ức.

Chị cắt được hơn mười cái phong bì, chia ra bốn túi khác nhau, cho bác sĩ, y tá và lao công.

Chị biết, muốn cứu con chị thì không thể nào tránh né được cái khoản chi trả thêm này.

Chị nhìn anh đang thu xếp về nhà với mẹ để kịp cúng Rằm.

Thật ra chị biết, cúng Rằm chỉ là phụ, việc chính là anh về nhà chạy thêm tiền, số tiền anh chị đem theo được so với số tiền sẽ phải dùng tới cách xa nhau nhiều quá. Nghĩ đến những món nợ sẽ phải trả, chị thấy như có một khối đá đè lên ngực.

Hai con mắt chị vẫn còn ánh lên những tia giận dữ, cái giận dữ của một người hoàn toàn bất lực trước một việc xấu mà sức mình không làm gì được.

Một khu nghĩa trang 5000 huyệt mộ. Quan chức cao cấp Đảng ở đâu mà nhiều thế?

Chắc chắn các đại gia sẽ có phần mộ ở đây.. Có khi cả ca sĩ nổi tiếng có tiền cũng dọn vào.

Chưa chắc các danh nhân và anh hùng tử sĩ đã có chỗ, vì phần đông gia đình họ nghèo và họ đã tắt tiếng nói (may ra có một tấm bia chung).

Chị kêu thầm trong ngực.

Nước mắt chị ứa ra.

Có ai trả lời cho chị không?

(st)


 

THÁI TỬ BÌNH AN MANG ĐẾN SỰ CHIA RẼ – Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ 

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ 

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay chứa đựng những điều được cho là nghịch lý.  Giê-rê-mi-a cũng như Chúa Giê-su đều có những hành động, ngôn từ gây sốc.

 Giê-rê-mi-a

 Thời Giê-rê-mi-a, thành Giê-ru-sa-lem đang bị quân Ba-by-lon vây hãm.  Dân chúng và vua Sê-đê-kia mong đợi hòa bình, Giê-rê-mi-a lại công bố một sứ điệp “ngược dòng”: ông nói rằng cuộc kháng cự sẽ thất bại, và kêu gọi đầu hàng như một hình thức hoán cải và trở về với Thiên Chúa.  Nhưng dân chúng, đặc biệt là các thủ lãnh tâu vua rằng: “Chúng tôi xin bệ hạ cho lệnh giết người này, vì nó cố ý nói những lời làm lũng đoạn tinh thần chiến sĩ còn sống sót trong thành này và toàn dân.  Thực sự tên này không tìm hòa bình cho dân, mà chỉ tìm tai họa” (Gr 38, 4-6).

 Các thủ lãnh phẫn nộ với Giê-rê-mi-a, cáo buộc ông làm nản lòng dân và gây nguy cho đất nước, họ xin vua xử tử ông.  Dù vua Sê-đê-kia nhu nhược không bảo vệ ông, nhưng lại để mặc cho các quan ra tay.  Họ ném Giê-rê-mi-a xuống một cái giếng bùn, không phải để giết ngay, mà là để ông chết dần chết mòn trong cô lập và tuyệt vọng.

 Dân chúng đang tìm kiếm hòa bình mà ông lại mang đến tai họa.  Quả là bi thương và đầy kịch tính cho ơn gọi, sứ mạng và cuộc đời của ông.  Thiên Chúa sai Giê-rê-mi-a đến để kêu gọi dân Ít-ra-en sám hối, lại bị chính đồng bào lên án và hãm hại.  Giê-rê-mi-a là hình ảnh báo trước sứ mạng của Chúa Giê-su. 

Sứ mạng của Chúa Giê-su

 Đến lượt Chúa Giê-su, Người cũng tuyên bố những lời chưa bao giờ các môn đệ nghe thấy: “Các con tưởng Thầy đến để đem sự bình an xuống thế gian ư?  Thầy bảo các con: không phải thế, nhưng Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12, 51-52).

Vậy chúng ta nghĩ sao đây khi Chúa Giê-su được I-sai-a loan báo là Thái Tử Hòa Bình, và ngày sinh nhật của Người được các thiên thần chào đón với những lời ca tiếng hát: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm”, (Lc 2, 14) và khi đi rao giảng, Người cũng đã từng công bố: “Phúc cho những ai xây dựng hoà bình” (Mt 5, 9).  Cũng chính Chúa Giê-su, khi bị bắt, đã truyền cho Phê-rô: “Hãy xỏ gươm vào bao!” (Mt 26, 52).  Nay lại tuyên tuyên bố: “Thầy đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12, 51).  Chúng ta giải thích sự mâu thuẫn này như thế nào? 

Lửa” là gì?  “Lửa” trong Thánh Kinh thường là biểu tượng của Thánh Thần, của sự thanh luyện, và của ơn soi sáng chân lý (x. Cv 2,3).  Đó là ngọn lửa thiêng liêng đốt cháy tội lỗi, bẻ gãy sự an toàn giả tạo, và làm bùng lên lòng mến Chúa.  Khi Chúa Giê-su nói “Thầy đã đến đem lửa xuống thế gian” (Lc 12,49), Người nói đến công trình cứu độ, sự sống mới trong Chúa Thánh Thần, và tác động chuyển hóa sâu xa trong tâm hồn nhân loại. 

Câu tiếp theo: “Thầy phải chịu một phép rửa, và lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi hoàn tất” (Lc 12,50).  Nói đến cuộc Khổ nạn sắp đến.  “Phép rửa” ở đây không chỉ là nghi thức thanh tẩy, mà là dìm mình trong đau khổ, một sự tự hiến hoàn toàn trên Thập giá để khai lối mở đường đến ơn cứu độ.’

 Thái Tử Bình An mang đến sự chia rẽ

 Đoạn kết trong Tin Mừng hôm nay gây bối rối: “Vì từ nay năm người trong một nhà sẽ chia rẽ nhau, ba người chống lại hai, và hai người chống lại ba: cha chống đối con trai, và con trai chống đối cha; mẹ chống đối con gái, con gái chống đối mẹ; mẹ chồng chống đối nàng dâu, nàng dâu chống đối mẹ chồng” (Lc 12, 53).  Tuy nhiên, sự “chia rẽ” ở đây không phải là bạo lực hay thù địch, mà là hệ quả tất yếu của việc chọn lựa sống theo chân lý.

 Không phải Đức Giê-su có ý đến để đem sự chia rẽ và chiến tranh, nhưng điều Người mang đến, không thể tránh được sự chia rẽ và sự chống đối, bởi vì Người đặt dân chúng trước một sự lựa chọn.  Và khi đối mặt với sự cần thiết phải lựa chọn theo ánh sáng hoặc theo bóng tối.  Chúng ta biết rằng sự tự do con người sẽ phản ứng nhiều cách khác nhau.  Và chính trong sự chọn lựa dứt khoát đó, những mối quan hệ thân thiết nhất, gia đình, bạn bè, có thể bị thử thách.  Không phải vì Chúa Giê-su mang đến sự chia rẽ, nhưng vì sự thật vốn gây xáo trộn nếu người ta không đón nhận. 

Chúa Giê-su là “Thái Tử Hòa Bình“, nhưng bình an Chúa ban không phải sự yên ổn bề ngoài hay  đồng thuận cho qua chuyện.”  Đó là bình an dù phải chịu mất mát. 

Một người chọn sống đức tin nghiêm túc, lại bị chính người thân hiểu lầm, cho là “cực đoan” hay “khác người.”  Người sống theo giá trị Tin Mừng, không tham nhũng, thì có thể bị mỉa mai.  Một người dấn thân sống công chính, có thể bị chống đối ngay trong cộng đoàn.

 Người dám nói thật, sống liêm chính, chống lại sự bất công như Giê-rê-mi-a trong Bài đọc I sẽ bị loại trừ.  Ánh sáng luôn gây khó chịu cho bóng tối.  Đó là chia rẽ cần thiết để thanh luyện, hoán cải và sinh ơn cứu độ.

 Chúng ta được mời gọi đừng sợ sự “chia rẽ vì Tin Mừng.”  Đôi khi, chính sự “bị tách ra” khỏi đám đông là bằng chứng ta đang đi đúng hướng.  Nhưng không ai bị bỏ rơi, ngọn lửa Thánh Thần vẫn đang hoạt động, và bình an thật vẫn đang được ban tặng, không phải là tránh khổ, mà là vượt thắng trong khổ. 

Chúa Giê-su là Thái Tử Hòa Bình đem đến bình an nội tâm sâu xa, nhưng hành trình đến đó đi ngang qua thử thách, từ bỏ, và cả chia rẽ.  Bài Tin Mừng hôm nay là lời cảnh tỉnh nhưng cũng là lời mời gọi hy vọng: Hãy đón nhận ngọn lửa Thánh Thần, chấp nhận phép rửa đau khổ, và bước đi trên con đường hẹp, vì chính đó là con đường dẫn đến bình an vĩnh cửu trong Thiên Chúa.

 Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

From: Langthangchieutim


 

TỬ TẾ VỚI NGƯỜI NGOÀI – NÓNG NẢY VỚI NGƯỜI NHÀ

Tu Le

TỬ TẾ VỚI NGƯỜI NGOÀI – NÓNG NẢY VỚI NGƯỜI NHÀ

Trời cuối đông, mưa bụi giăng như một tấm màn mỏng trên con phố nhỏ nơi vợ chồng anh Minh sống. Ánh đèn vàng hắt ra từ những ngôi nhà, đọng lại thành vệt sáng lung linh trên mặt đường ướt. Tiếng rì rào của mưa, tiếng gió len qua khung cửa tạo thành bản nhạc nền trầm buồn cho một buổi tối tưởng chừng bình yên.

Anh Minh vừa rời công ty, bước đi vội vã trong cái lạnh, áo sơ mi còn lấm tấm vệt bùn do xe tạt nước. Cả ngày anh đã phải căng mình trước áp lực công việc: dự án bị trễ, khách hàng liên tục phàn nàn, sếp thì cau có. Ở văn phòng, anh cố giữ nụ cười, cố nói năng chừng mực, kiềm chế từng lời, từng cử chỉ.

Vậy mà vừa mở cửa bước vào nhà, thấy đôi dép của con trai để lệch trước cửa, bồn rửa bát chất đầy chén đĩa, anh cau mày gắt:

– Sao nhà cửa bừa bộn thế này? Chẳng ai làm được việc gì tử tế à?

Chị Lan – vợ anh – đang đứng bên bếp, tay đảo nồi canh cá thơm dìu dịu. Chị khựng lại, quay sang nhìn chồng, ánh mắt thoáng buồn. Cậu con trai 12 tuổi đang ngồi xếp lego ở phòng khách bỗng dừng tay, định nói gì đó nhưng rồi im lặng, lặng lẽ bước vào phòng mình. Trong khoảnh khắc ấy, tiếng mưa ngoài hiên như rõ hơn, và không khí trong nhà nặng xuống.

Chị Lan không cãi, chỉ cúi xuống nhặt đôi dép, chỉnh lại ngay ngắn rồi nhẹ giọng:

– Anh ăn cơm trước nhé, hôm nay em về muộn nên chưa kịp dọn.

Lời nói nhẹ như mưa bụi, nhưng trong lòng chị là khoảng trống hụt hẫng. Cả ngày, chị cũng tất bật ở công ty, vẫn cố ghé chợ mua cá tươi vì nhớ anh thích món canh cá nấu dọc mùng. Chị cũng từng như anh – ra ngoài thì nhẫn nhịn, dịu dàng; về nhà lại để sự mệt mỏi trút xuống người thân. Nhưng rồi, năm tháng dạy chị rằng: một câu nói gắt có thể để lại vết xước rất lâu trong lòng người mình thương.

Hôm sau, ở công ty, chị Hạnh – đồng nghiệp – vô tình làm đổ cà phê lên tập hồ sơ của anh Minh. Anh mỉm cười:

– Không sao đâu, chị lau qua rồi để tôi sắp xếp lại là được.

Chính giây phút đó, anh giật mình. Với đồng nghiệp, anh có thể nhẹ nhàng bỏ qua, vậy mà với gia đình – những người luôn ở cạnh, yêu anh nhất – anh lại dễ nổi nóng vì những chuyện vụn vặt. Hình ảnh ánh mắt buồn của vợ tối qua, dáng lặng lẽ của con trai, khiến lòng anh nhói lên.

Tối ấy, anh về sớm hơn mọi ngày. Mưa vẫn rơi ngoài hiên, hắt vào mùi đất ẩm ngai ngái. Thấy con trai lại để dép lệch, anh cúi xuống chỉnh ngay ngắn, rồi xoa đầu con:

– Lần sau nhớ xếp gọn nha con. Nhưng dép lệch cũng không sao, ba chỉ muốn con để gọn cho dễ tìm thôi.

Cậu bé ngẩng lên, nụ cười tươi như xua tan màn mưa. Chị Lan từ bếp nhìn ra, bắt gặp ánh mắt dịu dàng của chồng, lòng bỗng ấm như bát canh cá đang sôi lục bục trên bếp. Bữa cơm tối hôm ấy, tiếng cười nói át hẳn tiếng mưa rơi.

Anh Minh hiểu rằng, tử tế không chỉ dành cho người ngoài. Người thân – dù gắn bó bền chặt – cũng mong manh như sợi chỉ. Giữ được hay đánh mất nhiều khi chỉ nằm ở một cái chau mày hoặc một lời nhẹ nhàng. Khi ta học cách kiềm chế nóng giận ở nhà, ta không chỉ giữ được mái ấm, mà còn giữ được trái tim của những người thương mình thật lòng.

Bạn thân mến,

Nếu câu chuyện này chạm đến điều gì đó trong bạn, hãy thử dành một chút dịu dàng cho người thân ngay tối nay.

Nhấn “Theo dõi” để không bỏ lỡ những câu chuyện sâu sắc, giúp ta sống nhân hậu, bao dung và giữ gìn những mái ấm.

____

Tu Le

#gotacoffee – #ngườiviếtgiữahaimiền


 

Nhà văn Sơn Nam (11 Tháng 12, 1926 – 13 Tháng 8, 2008)

Ba’o Nguoi-Viet

August 13, 2025

Đoàn Xuân Thu

Ngoài tài viết văn và am hiểu sâu sắc vùng đất Nam Bộ, nhà văn Sơn Nam còn là người rất thẳng thắn, dám lên tiếng bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống và con người bình dị miền Nam.

Ông từng được một số đạo diễn người Pháp mời làm cố vấn phong tục văn hóa trong việc dựng phim L’amant (The Lover – Người Tình), nhằm giữ cho cảnh phim đúng bản sắc vùng Nam Kỳ xưa. Trong một cảnh đám cưới tại chợ Sa Đéc, có mấy chục ông già, bà lão đóng vai nhà trai, nhà gái.

Khi đến giờ nghỉ trưa, ông nhìn thấy các cụ diễn viên phụ ngồi bệt dưới đất ăn cơm, trong khi cả đoàn phim vào nhà hàng sang trọng dùng bữa. Sơn Nam tức giận đứng giữa nhà lồng chợ gọi đạo diễn ra nói chuyện. Chủ nhiệm đoàn phim vội vàng ra lệnh nhân viên dọn bàn ghế mời các ông bà diễn viên ăn cơm tử tế.

Điều đó cho thấy Sơn Nam không chỉ là người am tường văn hóa mà còn rất trân trọng con người bình dị, không để ai bị xem thường dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Ông học tiếng Pháp đủ để đối đáp, thậm chí “xổ” tiếng Tây rổn rảng như bẻ mía, cự nự các vị Tây đạo diễn rằng ít ra họ cũng nên biết nghe và tôn trọng phong tục địa phương, chớ đừng xem thường những con người quê mùa, vốn mang nặng văn hóa sông nước Miền Tây.

Nhưng sang thời cộng sản, mọi chuyện khác hẳn. Cái “đàn khảy tai trâu” – cách Sơn Nam gọi chế độ áp đặt, không muốn nghe gì cả, dù là tiếng nói của chính người dân.

Bà con mình ai cũng từng bực bội, bị hành hạ vì cái “hộ khẩu” của chế độ mới chiếm miền Nam. Những người làm văn chương như Sơn Nam cũng thường xuyên bị công an khu vực sách nhiễu, gây khó dễ. Ai mà không bực mình?

Nhớ lại đám tang nhà thơ Bùi Giáng, có những người tai to mặt lớn tới đi đám. Sơn Nam được Hội Nhà Văn mời đọc điếu văn. Đây là cơ hội để ông nhắn nhủ: “Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài… nhưng văn thơ anh ngay ngắn đường hoàng. Anh không nề hà cháo chợ cơm hàng, cả cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh dùng sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh lang thang, khi chùa khi chợ không cố định đâu đâu. Mà bữa nay anh đi có quân canh lính gác, có vòng hoa của thành ủy, ủy ban, có Hội Nhà Văn, vậy là anh có hộ khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh.”

Lời nói chua chát đó như ngậm ngùi cho cái chính sách hộ khẩu ác ôn, khiến cho những người dân lương thiện bị đày đọa, bị kiểm soát, kềm kẹp.

Trong truyện “Âm dương cách trở” của Sơn Nam, ông già hớt tóc vỉa hè bị công an khu vực xét hộ khẩu. Ông già nói: “Tôi sống ở đây gần trọn một đời người, chỉ biết mình là công dân của Tổ Quốc Việt Nam thôi.”

Tay công an hỏi: “Vậy theo ông thế nào là Tổ Quốc?”

Ông già trả lời: “Với tôi, Tổ Quốc là một nơi kiếm sống được bằng một việc lương thiện nào đó, không bị ai làm khó dễ, có vài người bạn chơi được, không ba trợn.”

Đó chính là lời khẳng định hồn nhiên, giản dị nhưng đầy ý nghĩa về tình quê, về cuộc sống bình yên mà ông già hớt tóc ấy và Sơn Nam đều khao khát.

Tóm lại, chính sách hộ khẩu của CS để theo dõi, kiểm soát người dân lương thiện là một chính sách độc đoán, phi lý và điên rồ của những kẻ hoang tưởng, nghi ngờ khắp mọi nơi.

Nhà văn chỉ có cây bút trong tay, ngoài ra chẳng có quyền lực nào để bảo vệ mình. Khi gặp những chuyện trái tai gai mắt, ông chỉ biết “sùy” ra một chút qua các tác phẩm để vơi bớt nỗi tức giận.

Ông vốn là người hiếu hòa, chín bỏ làm mười, luôn nói: “Với tôi, hạnh phúc lớn nhất là không gây thù chuốc oán với ai, không ai ghét mình. (Nếu lỡ người ta oán ghét mình thì cũng đành cam chịu!) Chỉ cần có người tới thăm nói dóc chơi.”

Có lẽ từ thuở bé, mẹ ông đã dặn dò: “Đi học xa nhà, thân thể ốm yếu, tránh đừng sanh sự với ai. Lỡ có chuyện gì thì hổng ai binh!”

Sau năm 1975, khi đất nước đổi thay, Sơn Nam cũng đổi đời theo chiều hướng khó khăn, từ nghèo thành… mạt.

Trong bài viết “Cầu xin hai chữ bình an,” ông kể lại những ngày đầu Sài Gòn thất thủ, khi nhiều người tới “kiếm cơ sở” xác nhận thân phận ông. Ông thẳng thắn nói: “Tôi không phải đảng viên cộng sản, không có dính líu với cơ sở nào cả. Có chăng tôi là thành viên ban chấp hành Hội Văn Bút (Pen Club), một tổ chức nghe ra có vẻ ‘quốc tế’ nhưng chắc không được ưa thích.”

Nhiều người bạn hiền lành thủ thỉ chuyện “vượt biên,” nhưng ông không mặn mà. Ông chẳng biết tiếng Anh, nghĩ rằng biết chút ít tiếng Pháp là đủ rồi. Dòng họ, bà con đều còn ở U Minh, ông quan điểm rằng: “Quê hương là đủ rồi.”

Mười năm – một quãng thời gian ngắn trong lịch sử văn học, nhưng ông tin rằng ngày tự do và quyền tự do ngôn luận sẽ trở lại, trắng đen sẽ rõ ràng.

Những tác phẩm quý báu của ông, nếu loại bỏ những đoạn bị thêm vào bởi bọn bồi bút văn nô cộng sản, sẽ được lớp hậu sinh chùi rửa sạch vết nhơ để tỏa sáng.

Tin tôi đi! Nhà văn Sơn Nam là một biểu tượng lớn của vùng đất Nam Kỳ, của miền đồng bằng sông Cửu Long với bao nhiêu câu chuyện, con người, và phong tục tập quán.

Ông là người yêu thương đất đai quê hương, dành trọn đời mình để viết, để lưu giữ những hình ảnh chân thật, giản dị mà sâu sắc về miền Nam.
Tình yêu và sự thủy chung của ông với văn chương và quê hương mãi còn trong ký ức và trái tim những người yêu văn hóa Nam Kỳ Lục tỉnh.

Đó cũng là niềm an ủi lớn lao cho những người cầm bút như ông, những người sống với cây bút như người bạn tri kỷ, để tiếp nối công cuộc giữ gìn và phát triển văn hóa dân tộc.

***

Sơn Nam sống giản dị, không màng danh vọng, không thích được xưng tụng. Ông ứng xử nhẹ nhàng với cuộc đời, biết thích nghi với hoàn cảnh để theo đuổi nghề văn:

“Tới đây thấy vịt cũng lùa

Thấy duyên cũng kết, thấy chùa cũng tu.”

Ông chọn nghề văn, dù nghèo, như quê hương Miệt Thứ của ông: “Xứ mình nghèo quá, mình được đi học, Phải làm cho người ta biết đến xứ mình như thế nào.”

Nhờ công lao của nhà biên khảo Sơn Nam mà bà con biết kha khá về miền Tây thời khẩn hoang. Dù chưa đủ đầy, nhưng ai nối tiếp sự nghiệp ấy, hẳn còn là câu chuyện tương lai.
Giờ đây, trong nước có những âm thanh rầm rộ, đánh trống thổi kèn tưng bừng, ỏm tỏi về đất miền Tây, nhưng chỉ là đồ giả kim, so với công trình của ông.

Nhà văn Sơn Nam qua đời cách nay đúng 17 năm, ngày 13 Tháng Tám, 2008 tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, hưởng thọ 82 tuổi.


 

Nợ Công Mỹ Vượt 37.000 Tỉ USD, Cảnh Báo Sức Ép Lên Kinh Tế và Đời Sống Người Dân

Ba’o Dat Viet

August 13, 2025

Ngày 12 Tháng Tám, Bộ Tài chính Mỹ công bố báo cáo gây lo ngại: nợ công liên bang đã vượt mốc kỷ lục 37.000 tỉ USD – sớm hơn nhiều năm so với dự báo trước đó của Văn phòng Ngân sách Quốc hội (CBO). Hồi năm 2020, CBO từng ước tính phải đến sau năm tài chính 2030 Mỹ mới chạm ngưỡng này. Tuy nhiên, thực tế đã vượt xa kịch bản thận trọng nhất.

Nguyên nhân chính dẫn đến đà tăng phi mã của nợ công, theo các chuyên gia, bắt đầu từ đại dịch Covid-19 – khi chính phủ liên bang phải vay hàng ngàn tỉ USD để cứu trợ nền kinh tế đang lao dốc. Thế nhưng, làn sóng nợ mới còn được thúc đẩy bởi các chính sách tài khóa được thông qua dưới thời Tổng thống Donald Trump, trong đó có kế hoạch cắt giảm thuế và tăng chi tiêu liên bang vừa được ký thành luật đầu năm nay. Ước tính, đạo luật này sẽ “bơm” thêm 4.100 tỉ USD vào tổng nợ công trong thập kỷ tới.

Theo dữ liệu Bộ Tài chính, chỉ trong vòng 7 tháng, nợ công đã tăng thêm 3.000 tỉ USD: từ 34.000 tỉ vào Tháng Giêng, lên 35.000 tỉ vào Tháng Bảy, rồi 36.000 tỉ vào Tháng Mười Một, và nay đã vượt 37.000 tỉ.

Tình trạng này đang làm dấy lên lo ngại về hệ quả dài hạn đối với nền kinh tế Mỹ. Văn phòng Trách nhiệm Giải trình Chính phủ (GAO) cảnh báo rằng nợ công cao sẽ đẩy lãi suất lên cao, làm tăng chi phí vay mượn của người dân – từ mua nhà, xe cho đến đầu tư giáo dục. Đồng thời, các doanh nghiệp nhỏ có thể phải giảm lương hoặc cắt giảm đầu tư do tiếp cận vốn khó khăn hơn. Hệ quả là giá cả hàng hóa, dịch vụ có nguy cơ tiếp tục leo thang, kéo theo áp lực lạm phát dai dẳng.

Bên cạnh đó, báo cáo của Bộ Tài chính cũng cho thấy thâm hụt ngân sách trong tháng 7 đã tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái – dù Mỹ đang ghi nhận mức tăng thuế quan đáng kể. Riêng trong tháng 7, chính phủ thu về 21 tỉ USD từ thuế quan, tăng 273% so với năm ngoái – phần lớn đến từ các biện pháp thuế mới mà Tổng thống Trump áp đặt.

Tuy nhiên, nguồn thu không đủ bù đắp tốc độ chi tiêu. Một quan chức giấu tên từ Bộ Tài chính thừa nhận, chi ngân sách vẫn phình to do nhiều nguyên nhân: lãi suất tăng làm chi phí trả nợ cao hơn, cùng với đó là ngân sách cho các chương trình an sinh xã hội và chăm sóc y tế tiếp tục mở rộng.

Các nhà kinh tế cảnh báo, nếu không có chiến lược cắt giảm chi hợp lý và cải cách thuế toàn diện, gánh nặng nợ công sẽ không chỉ ảnh hưởng đến thị trường tài chính, mà còn giáng đòn mạnh lên tầng lớp trung lưu và người lao động – những người vốn đã chật vật trong một nền kinh tế đầy bất ổn sau đại dịch. Trong lúc đó, chính quyền Mỹ vẫn chưa đưa ra kế hoạch cụ thể nào để “hãm phanh” đà nợ đang leo thang từng tháng.


 

 Bỏ bùa cho sư – Gió ViVu 

LƯƠNG VĂN CAN K 76 – Kimtrong Lam

 Gió ViVu 

 12 tháng 8, 2025

Một vụ tai tiếng tình dục nổ lớn đã làm rung chuyển Hội Phật Giáo Thái Lan.

Ba cô đội gạo lên chùa,

Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư.

Sư về sư ốm tương tư,

Ốm lăn, ốm lóc cho sư trọc đầu.

Ai làm cho dạ sư sầu,

Cho ruột sư héo như bầu đứt dây?

(Khuyết danh)

Có người bảo rằng “Ba cô” trong bài thơ “Ba cô đội gạo lên chùa” chính là Tam độc: Tham, Sân, Si, trong thuyết pháp của Phật giáo. Chỉ cần có “một” trong “ba thứ độc” đó sẽ khiến người ta triền miên sống trong khổ hạnh.

Một chuyện không nhỏ đã nổ lớn ở Thái Lan, xứ sở mà Đạo Phật và các chư tăng rất được ngưỡng mộ, sùng bái.

Có một phụ nữ Thái Lan rất xinh đẹp, tên Wilawan Emsawat, biệt danh là “Sika Golf” khoảng 35 tuổi, đã bị cáo buộc dụ dỗ nhiều nhà sư Phật giáo, quan hệ yêu đương rồi ép buộc họ phải chi trả những món tiền lớn để che giấu tội lỗi. Theo Globalnews.

Các nhà sư Thái Lan, tu theo Theravada – phái Tiểu Thừa, phải hãm mình, sống độc thân không có sắc dục. Có đến 9 vị cao tăng, hầu hết là các vị “chưởng môn” trụ trì đã có quan hệ tình dục với cô Wilawan. Những cao tăng phạm tội này đã phải cởi bỏ áo cà sa và bị trục xuất khỏi giới tăng lữ. Sau hơn 10 ngày điều tra, tổng số các nhà sư can tội dính líu ái tình với cô Wilawan lên đến 25 người.

Việc phạm giới luật của nhiều vị cao tăng đã làm rúng động các chùa, không chỉ thu hút sự chú ý của công chúng, Hoàng gia và chính quyền Thái Lan cũng đang quan tâm và muốn làm sáng tỏ vấn nạn.

Vụ án được điều tra và phơi bày ra những khoản tiền lớn quyên góp của phật tử, bá tánh cho các ngôi chùa đã được chuyển cho Wilawan, sau khi các nhà sư có mối quan hệ tình cảm với cô.

Cảnh sát Thái Lan cho biết, Wilawan cố tình nhắm vào các “cao tăng” để trục lợi. Trong 3 năm đi “Bỏ bùa cho sư”, cô Wilawan đã nhận khoảng 385 triệu baht, tương đương $11.9 triệu. BBC đưa tin. Phần lớn số tiền này đã được “vung vít” vào các trang cờ bạc trên mạng.

Cảnh sát điều tra và kiểm tra điện thoại của cô Wilawan, phát hiện hơn 80,000 tấm hình và video, chat, ghi lại cảnh làm tình và lời tình tự của cô với một số nhà sư. Cô Wilanwa đã dùng những “bằng chứng” này để tống tiền các cao tăng sa ngã bị sa bẫy. Cảnh sát cho thủ đoạn này là MO (Modus Operandi) “Kiểu mẫu” của Wilawan, kẻ thủ mưu dụ dỗ các nhà sư.

Những vụ bê bối, tai tiếng trước kia thường không liên quan đến giới tăng lữ “cao cấp” nên bị coi như “chuyện nhỏ,” nhưng, vụ tai tiếng “khủng” này khiến Hội Tăng Già, cơ quan quản lý phật giáo và chính quyền Thái Lan phải xem xét, thúc đẩy những hình phạt nghiêm khắc đối với các nhà sư vi phạm quy chế tu viện và ban hành các luật lệ có liên quan đến quỹ tài chính minh bạch của các chùa chiền, nhằm khôi phục niềm tin của thiện nam, tín nữ Phật giáo.

Thái Lan có hơn 90% dân số theo đạo Phật, các chư tăng rất được tôn sùng và kính trọng.

Ai ngờ, chỉ đi “Bỏ bùa cho sư” mà kiếm được lợi nhuận “khủng”!

***

Đọc bài thơ “Ba cô đội gạo lên chùa” tôi bỗng nhớ đến câu chuyện ngày xa xưa mà bạn bè thường hay nhắc nhở gọi tên “Xá Lợi tình sử.”

Trường nữ trung học Gia Long, ngôi trường cổ kính, có lịch sử lâu đời nhất ở Sài Gòn, sau năm 1975, đổi tên là Nguyễn thị Minh Khai. Gần sát bên trường Gia Long là ngôi chùa Xá Lợi linh thiêng, uy nghi có cái tháp chuông cao cao và nhiều di vật quý giá của Phật Giáo Việt Nam.

Cảnh chùa thường yên tịnh, trang nghiêm. Vì là “láng giềng” nên các cô nữ sinh thích rủ rê nhau vào chùa, không chỉ ngồi một góc đọc sách, học bài hay rù rì, thầm thì kể cho nhau nghe chuyện cái Loan, cái Thúy,… mà có cô lại phá phách khiến sư ông và chú tiểu phải nhắc chừng là đừng nói cười lớn tiếng, đừng leo trèo rồi té ngã, đừng bẻ cây bẻ lá trong chùa,…

Hơn thế nữa, bên ngoài cổng chùa còn bị quấy động ồn ào bởi những xe bò bía hấp dẫn với mùi lạp xưởng, tôm khô và hàng đậu đỏ bánh lọt ngọt bùi mà các cô thích ghé vào thưởng thức.

Tuổi nhỏ thường hay có những “vụng dại” vừa dễ thương, vừa dễ ghét…! Một đứa bạn trong lớp tôi đem lòng yêu thương một “chú tiểu.” Nhỏ Phương thấy chú tiểu hay quét dọn sân chùa, nó lân la đến hỏi chuyện vớ vẩn, vậy mà yêu nhau lúc nào không biết. Nhiều người cho đó là “tiếng sét ái tình,” nhưng bạn bè thường hay thắc mắc… “Phương bỏ bùa cho sư hay bị sư bỏ bùa?”

Hỡi ơi chú tiểu trên chùa

Chú tu sao nỡ bỏ bùa cho (tôi) Phương

Cả ngày thơ thẩn bồi hồi

Không yên trong dạ, đứng ngồi sao đây…

(Ca dao Việt)

Tôi kể chuyện tình của nhỏ bạn với chú tiểu, mẹ tôi lo ngại và cứ mãi dặn dò chị em tôi “Các con hãy nhớ đừng yêu con của Chúa hay con của Phật, vì sẽ bị trừng phạt đấy!” Tôi ngoan lắm, luôn nhớ lời mẹ dặn.

Thường hẹn hò nhau trong sân chùa với chuyện học hành và sách vở, mối tình của cô học trò nhỏ và chú tiểu tưởng chỉ là “gió thoảng mây bay” của một thời mới lớn…

Sư ông và gia đình đều khuyên bảo vì không muốn con mình vướng vào chuyện yêu đương với người đang tu hành. Nhưng, “làm sao chối bỏ được tình yêu.” Lớn lên, chú tiểu cầu xin sư phụ rời chùa, đành đứt đoạn đường tu, trở về với cuộc sống trần duyên. Sau khi tốt nghiệp trường Đại Học Bách Khoa, “chú tiểu” Minh Hòa xin cưới Phương, một nha sĩ, một giảng sư của trường Đại Học Nha Khoa.

Ai cũng chúc phúc cho hai người sống an vui đến răng long đầu bạc. Giờ đây, đã hơn 60 năm cuộc đời, họ vẫn vui vẻ bên nhau, bên con cháu, sống hạnh phúc như “mây suốt đời vẫn chung tình với gió.”

Bao năm qua, chàng vẫn ăn chay trường và nàng thường âu yếm gọi chồng là “Đường Tăng” (*)

***

(*) Theo tiểu thuyết “Tây Du Ký” của Ngô Thừa Ân, sư “Đường Tăng” đi thỉnh kinh phải vượt qua 81 khổ nạn, phải đối mặt và chiến đấu với đủ loại yêu quái để đạt thành chánh quả.

Tài liệu tham khảo: Globalnews, BBC)


 

TỬ TẾ KHÔNG PHẢI LÀ MỘT KỸ NĂNG – ĐÓ LÀ MỘT NỀN GIÁO DỤC…

Wendy Phan

Không cần nhìn học vị. Không cần nghe danh xưng. Chỉ cần NGỒI CẠNH 5 PHÚT – sẽ biết người đó có được dạy TỬ TẾ hay không.

Tử tế không nằm ở tấm bằng treo tường. Không nằm ở những lời đạo lý hoa mỹ. Mà nằm trong CÁCH HỌ SỐNG – NHỎ NHẤT.

Có người ra đường là quát xe ôm, quát nhân viên. Trong nhà thì cao giọng với cha mẹ. Lên mạng thì viết những câu nói tử tế. Vậy là đủ để thấy: HỌ HỌC GIỎI NHƯNG SỐNG NGHÈO.

Người được dạy tử tế – không phải người biết nói “cảm ơn” khi đông người, mà là người âm thầm nhặt rác giữa nơi không ai nhìn.

Không phải người hay đăng triết lý, mà là người biết đứng dậy nhường ghế cho cụ già trong khoảnh khắc rất bình thường.

Tử tế không cần phải phô trương. Vì “TÂM TỬ TẾ” là thứ lan tỏa tự nhiên – khiến người khác thấy an lòng mà chẳng cần nói gì.

Họ nhẹ nhàng, không vì yếu đuối. Họ nhường nhịn, không vì sợ hãi.

Họ tôn trọng cả người chẳng mang lại lợi ích gì cho mình – vì đó là NỀN GIÁO DỤC họ được gieo từ nhỏ.

Người TỬ TẾ – là người được lớn lên bằng YÊU THƯƠNG và SỰ DẠY DỖ đúng đắn.

Và xã hội này không thiếu người thành công. Chỉ thiếu những con người khi đứng cạnh – ta cảm thấy ẤM LÒNG…..

Nguon: St

#Wendyphan – #suutam – #ThoTimToi – #ynghiacuocsong


 

KHÔNG GIỚI HẠN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?”.

“Nếu Chúa đã ra lệnh tha bảy mươi lần bảy – nghĩa là tha luôn luôn – thì bản thân Ngài làm sao thoát khỏi việc tha không giới hạn?” – Robert Short.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay cho thấy sự tương phản giữa khuynh hướng tha thứ của con người và khuynh hướng của Thiên Chúa, một Thiên Chúa không thoát khỏi việc tha ‘không giới hạn!’.

Hẳn Phêrô đã nghĩ, mình thật rộng lượng khi tha thứ cho anh em đến bảy lần, Chúa Giêsu sẽ ấn tượng trước đề nghị hào phóng này? Nhưng nào ai có thể vượt qua lòng thương xót của Thiên Chúa! Lòng thương xót của Ngài đơn giản là ‘không giới hạn’; do đó, mỗi người càng không có giới hạn cho lòng thương xót dành cho người khác. “Tha thứ của chúng ta chỉ là chạm vào rìa của lòng thương xót vô tận nơi Thiên Chúa!” – Thomas Merton.

Vậy bạn đã làm gì khi tìm kiếm sự tha thứ của Chúa trong cuộc sống? Dụ ngôn “Người đầy tớ không tha thứ” cho thấy sự tha thứ vẫn có một cái giá: Tôi phải tha thứ cho anh em tôi ở mức độ tương tự. Người đầy tớ được tha một khoản tiền ‘không trả nổi’ đòi bằng được bạn mình nợ anh ta một khoản nhỏ. Nghe biết điều này, nhà vua đã rút lại lòng thương xót. “Lòng thương xót nhận được buộc phải trở thành lòng thương xót trao đi!” – C.S. Lewis.

Như vậy, tha thứ không phải là một lựa chọn trừ khi chúng ta hoàn hảo và không mắc nợ Chúa. Ai nghĩ như thế, người ấy phi thực tế, vì “Mọi người đều đã phạm tội và thiếu mất vinh quang Thiên Chúa!” – Phaolô. Do đó, điều thiết yếu là chúng ta phải tha thứ mọi lúc, mọi nơi, vô điều kiện, ‘không giới hạn’ và không do dự như Ngài. “Chần chừ trong tha thứ là chần chừ trong bình an!” – John C. Maxwell.

Trong cuộc sống, nhiều lúc tha thứ là điều không thể như việc dân Chúa qua sông – bài đọc một. Ấy thế, với sức mạnh của hòm bia, Israel đi bộ qua Giorđan. Hòm bia biểu trưng Chúa Giêsu; với Ngài, mọi sự đều có thể. Như Israel, bạn và tôi – nhờ sức mạnh của Đấng Phục Sinh – vượt qua chính mình để tha thứ cho người khác; và rồi, cũng có thể hát lên “Halleluia!” – Thánh Vịnh đáp ca. “Halleluia!” không chỉ là tiếng reo mừng của đêm Vọng Phục Sinh nhưng còn là tiếng reo của một tâm hồn vượt qua chính mình để tha thứ ‘không giới hạn!’. 

Anh Chị em,

“Ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao?”. Đó là lập luận giản đơn của Chúa! Và “Nếu Chúa đã ra lệnh cho chúng ta phải tha thứ không giới hạn thì làm sao Ngài thoát khỏi việc phải tha vô hạn?”. Đúng thế! “Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi khi tha thứ!”. Nhưng tréo ngoe ở chỗ, chúng ta chỉ có thể hưởng được sự tha thứ ‘không giới hạn’ của Ngài khi hết lòng tha thứ cho anh chị em mình. Đó là sự phi lý của Thiên Chúa nhưng cũng là ‘thực tế rất thực’ của con người. Và nếu đó là cuộc đấu tranh của bạn, hãy ăn năn thống hối ngay hôm nay và xin Chúa trút bỏ nó!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đổi mọi vết thương của con thành dòng chảy thương xót không bao giờ cạn. Đừng để món nợ nhỏ của người khác che khuất núi thương xót của Ngài nơi con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*************************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần XIX Thường Niên, Năm Lẻ

Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.      Mt 18,21 – 19,1

18 21 Khi ấy, ông Phê-rô đến gần Đức Giê-su mà hỏi rằng : “Thưa Ngài, nếu anh em con cứ xúc phạm đến con, thì con phải tha đến mấy lần ? Có phải đến bảy lần không ?” 22 Đức Giê-su đáp : “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.

23 “Vì thế, Nước Trời cũng giống như chuyện một ông vua kia muốn đòi các đầy tớ của mình thanh toán sổ sách. 24 Khi nhà vua vừa bắt đầu, thì người ta dẫn đến một kẻ mắc nợ vua mười ngàn yến vàng. 25 Y không có gì để trả, nên tôn chủ ra lệnh bán y, vợ con y, cùng tất cả tài sản mà trả nợ. 26 Bấy giờ, tên đầy tớ ấy sấp mình xuống lạy lục : ‘Thưa Ngài, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả hết.’ 27 Tôn chủ của tên đầy tớ ấy liền chạnh lòng thương, cho y về và tha luôn món nợ. 28 Nhưng vừa ra đến ngoài, tên đầy tớ ấy gặp một người đồng bạn, mắc nợ y một trăm quan tiền. Y liền túm lấy, bóp cổ mà bảo : ‘Trả nợ cho tao !’ 29 Bấy giờ, người đồng bạn sấp mình xuống van xin : ‘Thưa anh, xin rộng lòng hoãn lại cho tôi, tôi sẽ lo trả anh.’ 30 Nhưng y không chịu, cứ đi tống anh ta vào ngục cho đến khi trả xong nợ. 31 Thấy sự việc xảy ra như vậy, các đồng bạn của y buồn lắm, mới đi trình bày với tôn chủ đầu đuôi câu chuyện. 32 Bấy giờ, tôn chủ cho đòi y đến và bảo : ‘Tên đầy tớ độc ác kia, ta đã tha hết số nợ ấy cho ngươi, vì ngươi đã van xin ta, 33 thì đến lượt ngươi, ngươi không phải thương xót đồng bạn, như chính ta đã thương xót ngươi sao ?’ 34 Rồi tôn chủ nổi cơn thịnh nộ, trao y cho lính hành hạ, cho đến ngày y trả hết nợ cho ông. 35 Ấy vậy, Cha của Thầy ở trên trời cũng sẽ đối xử với anh em như thế, nếu mỗi người trong anh em không hết lòng tha thứ cho anh em mình.” 

19 1 Khi Đức Giê-su giảng dạy những điều ấy xong, Người rời khỏi miền Ga-li-lê và đi đến miền Giu-đê, bên kia sông Gio-đan.


 

Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. (Mt 14:22-23)- Cha Vương 

Một ngày thật hạnh phúc bên Chúa và những người thân yêu nhé.

Cha Vương 

Th 4: 13/08/2025  cn-23

TIN MỪNG: Sau khi dân chúng được ăn no nê, Đức Giê-su liền bắt các môn đệ xuống thuyền qua bờ bên kia trước, trong lúc Người giải tán dân chúng. Giải tán họ xong, Người lên núi một mình mà cầu nguyện. (Mt 14:22-23)

SUY NIỆM: Những tiến bộ của khoa học và kỹ thuật đang cung cấp cho con người quá nhiều phương tiện để giữ gìn thân xác mình được sạch, khoẻ và lành mạnh. Còn phần linh hồn thì sao nhỉ? Có phải Chúa Giêsu đã từng nói: “Lời lãi cả thế gian để làm gì, nếu để mất linh hồn?” (Mt 16:26) Linh hồn con người cũng cần được nuôi dưỡng hằng ngày, cần được săn sóc, được thanh luyện để khỏi bị những vết nhơ của tính kêu ngạo, ích kỷ và tội lỗi làm hại đến linh hồn. Thử hỏi, lương thực cần thiết cho linh hồn là những gì? Thưa đó là CẦU NGUYỆN! 

Cầu nguyện là ống dẫn thức ăn (feeding tube), là hơi thở cho linh hồn, là nhịp đập của con tim. Bạn hãy nhìn vào gương của Chúa Giêsu đi. Sau khi chu toàn bổn phận, lo cho họ ăn no nê, “Ngài lên núi một mình mà cầu nguyện” để kết hiệp với Chúa Cha. Bạn hãy nhìn vào gương các thánh coi. Các ngài chấp nhận sống từ bỏ những của cải vật chất, chấp nhận thiếu thốn và những gì cần thiết trong thân xác của họ, thế mà các ngài luôn luôn sống an vui, hạnh phúc vì linh hồn họ được no thỏa tràn đầy tình yêu, họ có niềm tin thật mạnh mẽ vào Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện liên lỉ. Các ngài nối kết với Chúa bằng một sợi dây nối kết thường trực, luôn có đó để buộc hai người lại với nhau, luôn luôn, mỗi giây mỗi phút trong ngày, chẳng bao giờ rời. Có phải đó là sợi giây liên kết giữa hai trái tim của hai kẻ đang yêu—luôn gần nhau và nhớ nhau, mọi nơi mọi lúc, trong ý thức và trong vô thức, ban ngày và ban đêm, khi thức và khi ngủ. Nối kết như thế là hoà tan vào nhau làm một. Có bao giờ bạn cầu nguyện và kết hiệp với Chúa đến độ như vậy chưa? Hay là chạy đến Chúa là xin xỏ mấy câu rồi BIẾN!

LẮNG NGHE: Anh em đừng lo lắng gì cả. Nhưng trong mọi hoàn cảnh, anh em cứ đem lời cầu khẩn, van xin và tạ ơn, mà giãi bày trước mặt Thiên Chúa những điều anh em thỉnh nguyện. Và bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí anh em được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su. (Pl 4:6-7)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, dù đang mang gánh nặng gia đình và những lo toan của bản thân, xin Chúa giúp con biết đặt ưu tiên cho việc tìm kiếm sự sống đời đời qua việc cầu nguyện và lãnh nhận lương thực thần linh là Mình Máu Chúa hằng ngày để cho Lời Chúa hướng dẫn con đến đời sống vĩnh cửu.

THỰC HÀNH: Thái độ của bạn khi cầu nguyện là gì? Xin xỏ, than thở, trách móc… hay là ca ngợi, tạ ơn, tâm sự, kết hiệp…? Tự thay đổi cách cầu nguyện một tí.

From: Do Dzung

***************************

CON CẦN CHÚA ..Bài thánh ca giúp bạn đứng lên khi gục ngã…

YouTube player