MỞ KHÔNG GIAN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Anh em có mấy chiếc bánh?”.

Bertrand Russell từng là một Kitô hữu; nhưng về sau, ông là một nhà vô thần công khai. Katharine Tait – con gái ông – nói, “Đã một thời, tận trong sâu thẳm tâm hồn cha tôi, có một khoảng trống được lấp đầy; ông đã từng ‘mở không gian’ cho Chúa. Nhưng, một khi đã tống Ngài ra, ông không bao giờ tìm được bất cứ thứ gì để đặt vào đó!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay đề cập khoảng không gian đó với hai câu hỏi: một của các môn đệ, một của Chúa Giêsu. Câu hỏi thứ nhất – ‘khép không gian’ – “Trong nơi hoang vắng này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn no?”; câu hỏi thứ hai – ‘mở không gian’ – “Anh em có mấy chiếc bánh?”.

Mặc dù rất nhân bản; nhưng xét cho cùng, câu hỏi thứ nhất tiết lộ một sự nghèo nàn thiêng liêng. Với loại câu hỏi này, một nếp nghĩ, một tầm nhìn thiển cận – bi quan, hơi hướng thất vọng – sẽ hình thành khi chúng ta tự co rút để cam chịu một hoàn cảnh, một số phận xám xịt. Cách đặt vấn đề khá ủ dột này sản sinh một loạt câu hỏi biện minh cho sự bất khả trước nghịch cảnh. Nhiệm vụ là bất khả thi, tại sao tôi cố gắng? Lực bất tòng tâm, tại sao tôi mất thời giờ? Lối nghĩ này ngăn cản chúng ta mạo hiểm làm những điều tuyệt vời cho Chúa; và ngược lại, không còn mong đợi một điều tốt lành nào đến từ Ngài! Ngần ngại hay sợ hãi ‘mở không gian’ cho Chúa, chúng ta ‘vui hưởng’ thú đau thương trước những tình huống dường như vô vọng, và xem ra Thiên Chúa không toàn năng!

“Anh em có mấy chiếc bánh?”; ngược lại, là một câu hỏi hoàn toàn tích cực, tiềm tàng một niềm hy vọng và lạc quan – vì lẽ – nó ‘mở không gian’ cho Chúa. Qua đó, Chúa Cha có thể làm một điều gì đó để chứng thực quyền năng của Ngài. Chỉ cần một chút những gì sẵn có, cả khi chúng dường như ‘không đủ đến vô vọng’ – “bảy chiếc bánh và mấy con cá” – Ngài sẽ nhân lên để nuôi gần nửa vạn người. “Thiên Chúa dùng quyền năng của Ngài để làm nhiều điều lớn lao hơn tất cả những gì chúng ta dám cầu xin hay nghĩ tới” – Phaolô; dĩ nhiên, với điều kiện, mỗi người biết hào phóng cho đi những gì mình có!

Thật thú vị, Thiên Chúa cũng ‘mở không gian’ cho Ngài; đúng hơn, Ngài mở ra lòng thương xót trong cơn giận khi đuổi nguyên tổ ra khỏi Eden, “Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấy; dòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi!” – bài đọc một. Đó là “tiền Tin Mừng!”. Con cháu họ rồi sẽ nhận ra điều này, “Lạy Chúa, trải qua bao thế hệ, Ngài vẫn là nơi chúng con trú ẩn!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Anh em có mấy chiếc bánh?”. Chúa Giêsu tiếp tục hỏi bạn và tôi! Mỗi ngày, đến với Thánh Thể, chúng ta ‘mở không gian’ cho Ngài, dẫu đó là một không gian chật hẹp – và đôi khi – rất tăm tối; thế nhưng, Ngài vẫn thương hạ cố. Cũng ở đó, Ngài tiếp tục hỏi và chờ đợi phần ‘bánh cá’ còm cõi của mỗi người; để rồi Ngài có thể nhân lên, nhân lên hầu nuôi sống bao người. Ước mong sao, đền thờ tâm hồn chúng ta ngày càng sạch trong, xứng đáng cho Chúa Giêsu chiếm ngự; và mong sao, bạn và tôi biết dâng phần ít ỏi của mình vào tay Ngài.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giúp con luôn nhớ lời vị thánh trẻ, “Bớt chỗ của tôi, thêm chỗ cho Chúa!” – Acutis; may ra, con không hoá nên vô thần một khi cố tống khứ Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

************************************

Thứ Bảy Tuần V Thường Niên

Đám đông đã ăn và được no nê. Mc 8,1-10

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mác-cô.

1 Trong những ngày ấy, có rất đông dân chúng, và họ không có gì ăn, nên Đức Giê-su gọi các môn đệ lại mà nói : 2 “Thầy chạnh lòng thương dân chúng, vì họ ở luôn với Thầy đã ba ngày rồi mà không có gì ăn ! 3 Nếu Thầy giải tán, để họ nhịn đói mà về nhà, thì họ sẽ bị xỉu dọc đường. Trong số đó, lại có những người ở xa đến.” 4 Các môn đệ thưa Người : “Ở đây, trong nơi hoang vắng này, lấy đâu ra bánh cho họ ăn no ?” 5 Người hỏi các ông : “Anh em có mấy chiếc bánh ?” Các ông đáp : “Thưa có bảy chiếc.” 6 Người truyền cho họ ngồi xuống đất. Rồi Người cầm lấy bảy chiếc bánh, dâng lời tạ ơn, và bẻ ra, trao cho các môn đệ để các ông dọn ra. Và các ông đã dọn ra cho dân chúng. 7 Các ông cũng có mấy con cá nhỏ. Người đọc lời chúc tụng, rồi bảo các ông dọn luôn cá nữa. 8 Dân chúng đã ăn và được no nê. Người ta nhặt lấy những mẩu bánh còn thừa : bảy giỏ ! 9 Số người ăn độ chừng bốn ngàn người. Người giải tán họ. 10 Lập tức, Đức Giê-su xuống thuyền với các môn đệ và đến miền Đan-ma-nu-tha.


 

 

SỰ CHẾT – LM Nguyễn Tầm Thường, SJ

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ

Khi tôi được sinh ra là khởi điểm tôi bắt đầu đi về cõi chết.  Làm gì có sự chết nếu không có sự sống.  Làm gì có ngày người ta chôn tôi nếu không có ngày tôi chào đời.  Như thế, cuộc sống của tôi là chuẩn bị cho ngày tôi chết.

Ngay từ trong bào thai của mẹ, bắt đầu có sự sống là tôi đã cưu mang sự chết rồi.  Kết hợp và biệt ly ở lẫn với nhau.  Trong lớn lên đã có mầm tan rã.  Khi vũ trụ chào đón tôi, thì cùng một lúc, tôi bắt đầu từ giã vũ trụ từng ngày, từng giờ.

Mỗi ngày là một bước tôi đi dần về sự chết.  Bình minh mọc lên, nhắc nhở cho tôi một bước cận kề.  Hoàng hôn buông xuống, thầm nói cho tôi sự vĩnh biệt đang đến.

Không muốn nghĩ về sự chết tôi cũng chẳng tránh đuợc sự chết.

Tôi có thể không muốn nghĩ về sự chết nhưng tôi có ghét sự chết được không?  Tôi ghét sự chết là tôi ghét chính tôi.  Chết ở trong tôi. Tôi đang đi về cõi chết nên ngay bây giờ sự chết đã thuộc về tôi rồi.  Sự sống của tôi hàm chứa sự chết, nên tôi yêu sự sống thì tôi cũng phải yêu sự chết.  Vì vậy, cuộc đời có ý nghĩa vẫn chỉ là cuộc đời chuẩn bị cho ngày chết.

Trong dòng đời, tôi không sống một mình.  Cuộc sống của tôi là tấm thảm mà mỗi liên hệ yêu thương là một sợi tơ, mỗi gắn bó quen biết là một sợi chỉ, anh em, cha mẹ, người yêu.  Sự chết xé rách tung tất cả để tôi ra đi một mình.  Chẳng ai đi với tôi.  Vì thế, chết mang mầu ly biệt.

Sống là hướng về tương lai.  Tương lai là cái tôi không nắm chắc trong tay, vì vậy, tôi hay nhìn về tương lai bằng nỗi sợ bấp bênh.  Càng bấp bênh thì tôi càng tìm kiếm vững chãi, càng tích lũy.  Nhưng tích lũy xong, xây đắp xong, vất vả ngược xuôi để rồi ra đi trắng đôi tay thì đời tôi thành đáng thương hại.  Nếu tôi không đem theo được những gì tôi tích lũy, thì những gì tôi ôm ấp hôm nay chỉ làm tôi thêm đau đớn, nuối tiếc.  Nếu không muốn vậy thì chúng phải là phương tiện để chuẩn bị cho giờ ra đi của tôi.

Tích lũy cho tương lai có thể là dấu hiệu khôn ngoan đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra.  Mà cũng có thể là một thứ nô lệ.  Nếu suốt đời tôi lo âu tìm kiếm danh vọng, quá tham lam tiền bạc, lúc nào cũng bị vây khốn, băn khoăn thì đâu là niềm vui, tận hưởng.

Mà tận hưởng là gì?  Ðâu là ý nghĩa của sự tìm kiếm?  Tích lũy?

Kinh Thánh kể:

Có người trong đám dân chúng nói với Ðức Kitô: “Thưa Thầy, Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi.”

Ngài đã nói cùng họ: “Hãy coi chừng!  Hãy lo giữ mình tránh mọi thứ gian tham, vì không phải ai được sung túc, là đời sống người ấy chắc chắn nhờ của cải.”

Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: “Có người phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: ta phải làm gì?  Vì ta không còn chỗ nào mà tích trữ hoa mầu nữa.  Ðoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này: phá quách các lẫm đi, mà xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa mạ, và của cải vào đó, rồi ta nhủ hồn ta: Hồn ơi!  Mày có dư thừa của cải, sẵn đó cho bao nhiêu năm; nghỉ đi!  ăn uống đi!  hưởng đi!  Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Ðồ ngốc!  Ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi sự ngươi đã sắm sửa, tích góp kia sẽ về tay ai? (Lc 12,13-21).

Không ai sống hộ tôi.  Không ai chết thay tôi.  Không ai đi cùng tôi.  Tôi sẽ ra đi lẻ loi.  Họ sẽ quên tôi cũng như tôi đã quên bao người.  Có thể đôi khi họ nhớ tôi.  Cũng như đôi khi tôi nhớ người này, kẻ kia.  Nhưng nỗi nhớ chỉ là của riêng tôi, còn kẻ đã ra đi vẫn ra đi miền miệt.  Thì cũng thế, chẳng ai làm gì được cho tôi lúc tôi ra đi không trở lại.

Chết là mất tất cả.  Nhưng thánh Phaolô lại tuyên tín rằng chết là chiến thắng (1Cor 15,54).  Chết là đi về sự sống vĩnh cửu.  Chết là gặp gỡ.  Gặp Ðấng tạo nên mình.  Như vậy, chết là cánh cửa im lìm được mở ra để tôi về với Ðấng thương tôi.  Chết là điều kiện để sống.

Chúa ơi, chết là đi về với Chúa sao con vẫn lo âu?

Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con sợ con có thể không gặp Chúa.  Vì sợ không gặp nên chết mới là bản án nặng nề.  Mà tại sao con lại sợ không gặp Chúa?  Chúa luôn mong mỏi, đợi chờ con cơ mà.  Như thế, muốn gặp Chúa hay không là do ý của lòng con.  Con có quyền quyết định cho hạnh phúc của mình.

Chúa ơi, vì biết mình sẽ chết nên con băn khoăn tự hỏi bao giờ thì chuyến tầu định mệnh đem con đi.  Hôm nay hay ngày mai?  Mùa thu này hay mùa xuân tới?  Con âu lo.  Nhưng vì sao phải lo âu?

Phải chăng lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con chưa chuẩn bị đủ, là hồn con còn ngổn ngang.  Có xa Chúa thì mới sợ mất Chúa.  Sợ mất Chúa thì mới xao xuyến băn khoăn.  Con biết thế, con biết rằng vì không sẵn sàng, vì không chuẩn bị nên mới hồi hộp, mất bình an.  Con biết thế, con biết sau khi chết là hạnh phúc hay gian nan, là núi cao với mây ngàn cứu rỗi, hay vực sâu phiền muộn với đau thương.  Nhưng chuẩn bị cho giờ ra đi không đơn giản Chúa ơi.  Chúa biết đó, con đi tìm Chúa nhưng là đi trong lao đao.  Bởi yêu một vật hữu hình thì dễ hơn lắng nghe tiếng gọi từ nơi xa thẳm.  Giầu có và danh vọng cho con hạnh phúc mà con có thể sờ được.  Còn hạnh phúc của đức tin thì sâu thắm quá.

Chung quanh có biết bao mời mọc.  Kinh nghiệm cho con thấy rằng đã nhiều lần con bỏ Chúa.  Như vậy biết đâu con lại chẳng bỏ Chúa trong tương lai.  Nếu lúc đó mà giờ chết đến thì sao?

Chúa có nghĩ rằng khi con phải phấn đấu chối từ những rung cảm bất chính để sống theo niềm tin là thánh giá của con không.  Chối từ tiếng gọi của tội lỗi đã là một thánh giá.  Nhưng có khi lo âu vì không biết mình có từ chối được không còn là một thánh giá khác nữa.  Chính đấng thánh của Chúa mà còn phải kêu lên: “Ôi! những điều tôi muốn làm thì tôi chẳng làm, những gì tôi muốn trốn tránh thì tôi lại làm” (Rom 7,15-16).  Chúa thấy đó, vị tông đồ lớn của Chúa mà còn như thế, huống chi con, một kẻ mang nhiều đam mê, yếu đuối thì đường về với Chúa gian nan biết bao.

Ðể khỏi chết khi con chết, thì con phải chết trước khi con chết.

Cái chết đó là đóng đinh đời con vào thập giá.  Con không biết con can đảm đến đâu.  Con chỉ xin sao cho con tiếp tục đi mãi.  Ði xiêu vẹo vì yếu đuối của con, nhưng vẫn tiếp tục đi.

Thập giá nào thì cũng có đau thương.

Con không muốn thập giá.  Vì thập giá làm con mang thương tích.  Chúa cũng đã ngã.  Nhưng nếu sự sống của con mang mầm sự chết, thì trong cái chết của thập tự nẩy sinh sự sống.  Chúa đã chết.  Chúa hiểu nỗi sợ hãi của sự chết.  Con vẫn nhớ lời Chúa cầu nguyện: “Lạy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).  Hôm nay con cũng muốn nói như vậy đó, với Chúa.  Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa dạy con rằng chẳng có sự sống nào mà không phải qua sự chết.  Chết thì sợ hãi, nhưng nếu con yêu sự sống thì con phải yêu sự chết.

Con muốn chết để được sống.

Con sẽ đóng đinh đời con vào thập tự.  Chúa ơi, Chúa có cho những lo âu của con là dấu chỉ tình yêu của một tâm hồn yếu đuối, đang thao thức đi tìm Chúa vì sợ mất Chúa không.

Lạy Cha, trong tay Cha con xin phó thác đời con.

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ

Trích trong Nước Mắt và Hạnh Phúc

From: Langthangchieutim


 

H A P P Y  V A L E N T I N E ‘ S D A Y – “Ngày Tình Yêu”

Peter Nguyen

Thoảng qua gió thoảng mây bay,

“Nương nhau mà sống” đẹp thay tình người!

Cuộc đời liền với khóc cười,

Chìa khoá vàng sống gọi mời thăng hoa!

H A P P Y  V A L E N T I N E ‘ S D A Y

“Ngày Tình Yêu” cũng là ngày tình nghĩa dành cho người yêu, cũng là ngày nhớ đến công ơn dành cho ông bà cha mẹ, anh chị em thân bằng quyến thuộc và bạn bè!

1) Mỗi một con người hiện diện trên đất nước Hoa Kỳ hay các nước khác đều phải cần “Người Bảo Trợ” để có thể được định cư ở nước thứ ba, từ các trại tị nạn bằng đường biển hay đường bộ. Người bảo trợ đó có thể là một tổ chức của nhà thờ, một người thân hay bạn bè đã định cư trước, hay sau này được ra đi theo diện HO, hay theo chương trình ra đi có trật tự ODP. Tóm lại, tất cả và mỗi người được đi định cư, đều cần phải có “Người Bảo Trợ”.

Tại hạ và gia đình cũng không ngoại lệ! Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao ta dồn hết Tình Yêu Thương cho gia đình của riêng mình, mà hình như không tạo ra được một thói quen dễ thương là cũng dành ra cơ hội tốt này , để nhớ đến công ơn “Người Bảo Trợ”?. Tại hạ từng chứng kiến có rất nhiều gia đình Việt đã thực hiện nghĩa cử bày tỏ lòng biết ơn dành cho người bảo trợ đó đây, nhưng hình như chưa tạo ra được một phong trào đồng loạt!

“Ăn trái nhớ kẻ trồng cây,

Tình người tình đẹp đong đầy tương lai!”

2) “Ngày Tình Yêu” cũng là cơ hội bày tỏ lòng biết ơn dành cho người phối ngẫu. Đây là một mĩ tục mà các quốc gia Tây phương đã và đang thực hiện hàng năm đến hẹn lại mừng vào ngày Feb 14! Đây cũng là cơ hội nhắc nhở người đang yêu đã yêu và sẽ yêu, hoàn tất bổn phận và nghĩa vụ của một người tình. Tuỳ theo điều kiện và ý thích của đôi bên trai gái, quà tặng đó có thể là một món quà người tình ưa thích, một bữa ăn mừng, một nghĩa cử yêu thương bằng một cành hồng nhiều ý nghĩa!

3) “Ngày Tình Yêu” qua kinh nghiệm bản thân, nhìn vào con số thống kê có tới 50-60% các cuộc hôn nhân ở Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới đã đổ vỡ! Buồn, thật buồn, vì một khung trời hoa mộng, một giấc mơ hoa đã vỡ nát con tim, gây hệ lụy thương tổn cho đời con đời cháu, dẫu rằng con cháu vẫn có thể thích ứng thành công, nhưng… vết thương luôn còn đó! Câu hỏi đặt ra là: Vì đâu nên nỗi?

Qua một đêm thức trắng, tại hạ đã ghi lại bài viết “Nương Nhau Mà Sống” này, tuy đã cũ nhưng mạn phép dùng lại làm quà “Ngày Tình Yêu” gởi đến bà con bạn bè thân quen, với ước mong được quí vị và bạn hữu phản hồi! Tại hạ xin đón nhận trân quí lời bình của quí vị, bất kể khen hay chê.

Người bạn tốt là người đã dám nói sự thật, dám phê bình thẳng thắn, vì “chân lí sẽ giải thoát” chúng ta!

Chân thành cảm ơn!

Richmond TX

Feb 13, 2024

N ư ơ n g  N h a u  M à  S ố n g !

Trên đường đi chụp hoa Bluebonnet ở Brenham TX có hãng làm kem rất nổi tiếng Blue Bell . Trước mặt tiền của gian nhà chính của hãng kem có bức tranh được treo tường, là nơi trưng bày tiến trình hệ thống sản xuất, cũng như giới thiệu từng loại kem cho khách dùng thử. Bức tranh thoát thai từ một bức tranh cổ, do họa sĩ Grant Wood vẽ vào năm 1930, mô tả nét mặt của một cặp đôi đứng trước căn nhà của họ.

Dựa trên thần thái mô tả về một cặp vợ chồng, thoạt nhìn có vẻ có vấn đề, tựa như bất cứ một cặp vợ chồng nào trên thế gian này, đều có vấn đề không nhiều thì ít vì “sống trong chăn mới biết chăn có rận” hay “xấu che tốt khoe” mà! Chuyện chung sống lâu bền được hay không tùy thuộc vào bốn chữ vàng “nương nhau mà sống”. Điều muốn nói ở đây là nương nhau như thế nào? Khi một người cho là mình đúng, tất nhiên là người kia sai, nên cần đến một trung gian hòa giải để tìm ra giải pháp dung hòa.

Người Mỹ thường nói “Happy Wife Happy Life”, câu nói có vẻ thiếu công bình vì thiên vị về phía người vợ chăng? Mà sự thường thì trong tương quan nơi thế giới con người đều phải là “có qua có lại mới toại lòng nhau”. Đừng kể các bậc thánh nhân siêu thoát hay tình yêu cha mẹ dành cho con cái, là thứ tình cho không biếu không. Chân lý “có qua có lại mới toại lòng nhau” luôn đúng trong quan hệ anh chị em, vợ chồng hay bà con bằng hữu.

Thoát thai từ câu chuyện ngụ ngôn Ấn Độ, thiên hạ đã đưa ra một bức tranh vân cẩu gồm 3 con khỉ: con thứ nhất nhắm mắt, con thứ hai bịt tai, và con thứ ba bịt miệng. Thiển nghĩ nên thêm vào con khỉ thứ tư “mắt nhắm mắt mở” cho đủ “tứ trụ” mà nhiều người cho là kim chỉ nam giữ gìn gia đình hạnh phúc! Vậy thì câu nói vợ chồng cần “nương nhau mà sống” để giữ cho hôn nhân được lâu bền thì phải hành xử sao đây? Chẳng lẽ cứ phải bịt mắt bịt miệng và bịt tai, chấp hành tất tần tật mọi hành vi, lời nói và việc làm của người vợ hay người chồng suốt cả cuộc đời? Hà cớ gì lại thiên vị đứng về phía người vợ mà cho rằng “Happy Wife Happy Life”, bất chấp đúng hay sai, phải hay trái! Vậy thì cần đến một giải pháp dung hòa để quân bình trong đời sống gia đình, đó là chấp nhận chân lý: Tự bản chất con người bất toàn, không ai là không có khuyết điểm lỗi lầm cho dù “nhân chi sơ tính bổn thiện”, nhưng mỗi người sinh ra và lớn lên, hình thành một nhân cách tùy thuộc theo tâm tính, theo những điều kiện sinh sống và giáo dục của gia đình, của học đường và xã hội … Cái phông ấy uốn nắn thành một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, đầu đội trời chân đạp đất! Một khi chấp nhận chân lý ấy rồi tất nhiên cần đến một giải pháp dung hòa, là phải “nương nhau mà sống”, không thể cực đoan một chiều. Nói như vậy có nghĩa là cần đến giải pháp “mắt nhắm mắt mở”. Một mắt nhắm để bỏ qua cho nhau những khuyết điểm không hài lòng vì con người là bất toàn! Một mắt mở để nhìn ra cái tốt và ưu điểm của nhau. “Nương nhau mà sống” phải là quy luật vàng trong hôn nhân! Nếu không nương được nhau thì tất nhiên sẽ rơi vào con số thống kê 50% – 60% hôn nhân đổ vỡ bằng tờ ly dị!

Hệ lụy đau thương nhất là những đứa con thiếu cha hoặc thiếu mẹ, và dĩ nhiên tâm lý thiếu quân bình, cho dù chúng vẫn có thể sinh tồn thành nhân hay thành tài được theo bàn năng! Một giây phút thiếu nghĩ suy khi đem so sánh hơn thiệt người mình đã chọn trước đây với người này kẻ nọ; một cơn giận mất khôn khi đi đến một quyết định vội vã, một ham muốn nhất thời tìm kiếm của lạ khi đã chán cơm đâm ra thèm phở. Sâu xa hơn nữa là một cái tôi to đùng đầy cá tính bắt người khác phải phục tùng mình tựa như câu chuyện hai người bạn gái nhỏ to với nhau:

– Mẫu người mày chọn làm chồng trong tương lai ra sao?

– Tao không cần hắn phải đẹp trai như Tom Cruise; cũng không cần phải giàu có như Elon Musk. Tao chỉ cần hắn phải chiều chuộng làm theo ý tao muốn mọi nơi, mọi lúc.

– Xin lỗi mày, chỉ có con chó mới làm được điều mày vừa nói! Ha ha ha!

Còn thương trái ngọt gia đình,

Khéo co thì ấm vụng sinh ra thường.

Tập trung ưu điểm dễ thương,

Thuận buồm xuôi gió con đường trăm năm!

Tuệ Ngữ Nguyễn Đông-Khê

Richmond TX

 

Bịt miệng trí thức [1]: Đòn cuối cùng của một chế độ sợ hãi – Uyên Nguyên

Ba’o Tieng Dan

14/02/2025

Diễn đàn Thế kỷ

Uyên Nguyên

Khi người dân không còn sợ hãi, khi trí thức không còn chấp nhận sự kiểm duyệt, khi công lý không còn bị bóp méo bởi những điều luật phục vụ quyền lực, đó mới là lúc một tương lai thực sự có thể bắt đầu.

Tự do ngôn luận không phải là một đặc ân, mà là một quyền căn bản, là nền tảng của mọi nền dân chủ thực thụ. Khi quyền này bị bóp nghẹt, không những chỉ một cá nhân bị trừng phạt, mà cả một xã hội bị đặt vào tình trạng câm lặng, bị tước đoạt quyền suy nghĩ và bày tỏ. Một dân tộc không có tự do ngôn luận là một dân tộc đang bị giam cầm ngay trên mảnh đất của chính mình, không phải bởi song sắt của nhà tù, mà bởi nỗi sợ hãi, bởi những điều luật mơ hồ có thể giáng xuống bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào.

Việt Nam chưa bao giờ thiếu những bản án dành cho những người dám lên tiếng và trường hợp của Osin Huy Đức [2] chỉ là một minh chứng mới nhất cho điều đó. Nhưng điều đáng nói vốn không nằm ở số phận của một cá nhân, mà chính là sự tồn vong của cả một hệ thống giá trị: Khi những người dám nói sự thật bị trừng phạt, điều này đồng nghĩa với việc cả xã hội đang bị đặt vào một vòng kim cô của sự dối trá. Một chính quyền sử dụng pháp luật không phải để bảo vệ công lý mà để bảo vệ quyền lực cho chính nó, thì đó không còn là pháp quyền mà là một hình thức cai trị bằng bạo lực, được khoác lên lớp vỏ của sự hợp pháp.

Hiến pháp Việt Nam công nhận rằng công dân có quyền tự do ngôn luận, nhưng ngay sau đó lại ràng buộc bằng điều kiện “do pháp luật quy định”. Trong một hệ thống mà pháp luật không phục vụ nhân dân mà chỉ phục vụ giai tầng thống trị, thì điều này đồng nghĩa với việc mọi quyền tự do đều có thể bị tước đoạt bất cứ lúc nào, chỉ cần có một lý do được nhà nước đưa ra.

Những điều luật như “lợi dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích nhà nước” hay “tuyên truyền chống nhà nước” là những chiếc lưới vô hình, sẵn sàng siết chặt cổ bất kỳ ai dám lên tiếng. Một nhà báo viết về sự thật có thể bị coi là phản động, một học giả phân tích lịch sử có thể bị buộc tội bóp méo thực tế, một người dân bình thường lên tiếng về bất công có thể bị xem là gây rối trật tự công cộng. Trong một xã hội như vậy, ai còn dám suy nghĩ, ai còn dám phản biện, ai còn dám bảo vệ sự thật?

Nhưng câu chuyện không dừng lại ở đó. Khi một cá nhân bị kết án vì phát ngôn của mình, thì không riêng một mình người đó chịu hậu quả. Toàn bộ xã hội sẽ học được một bài học cay đắng: Sự im lặng là con đường an toàn nhất. Sự sợ hãi len lỏi vào từng góc nhỏ của đời sống, khiến con người ta tự kiểm duyệt trước khi nói, tự cắt bỏ những suy nghĩ phản biện trước khi chúng kịp hình thành.

Một xã hội không có tự do tư tưởng là một xã hội chết lâm sàng. Không có đổi mới, không có sáng tạo, không có tiến bộ, chỉ có sự trì trệ và dối trá kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhưng tệ hơn cả, đó là một xã hội đánh mất khả năng nhận ra sự bất công ngay cả khi nó hiển hiện trước mắt. Khi sự thật bị bóp méo quá nhiều lần, khi những lời dối trá được lặp đi lặp lại với tần suất dày đặc, con người ta sẽ dần chấp nhận nó như một thực tại không thể thay đổi. Và khi điều đó xảy ra, không cần đến một bộ máy đàn áp mạnh tay, chính những nạn nhân của sự cai trị sẽ tự biến mình thành những người bảo vệ cho hệ thống đã trói buộc họ.

Có một câu hỏi cần phải đặt ra: Vì sao Việt Nam có quá nhiều trí thức nhưng lại thiếu vắng những tiếng nói trí thức đích thực? Bởi vì rất nhiều người có học thức đã chọn cách im lặng, hoặc tệ hơn, chọn cách phục vụ cho hệ thống. Chúng ta khoác lên mình danh xưng trí thức nhưng không sử dụng tri thức của mình để bảo vệ lẽ phải, mà chỉ để bảo vệ vị trí và quyền lợi của bản thân. Chúng ta biết rõ những gì đang diễn ra, nhưng thay vì lên tiếng, chọn cách đứng ngoài hoặc thậm chí hợp tác với quyền lực để đàn áp những tiếng nói bất đồng.

Đây chính là bi kịch lớn nhất của giới trí thức Việt Nam: Sự thỏa hiệp với bất công, sự khiếp nhược trước quyền lực, sự phản bội đối với chính lý tưởng của mình. Nhưng lịch sử đã chứng minh rằng, những ai lựa chọn đứng về phía áp bức không bao giờ có thể thoát khỏi hậu quả của nó. Một khi hệ thống mất đi giá trị cốt lõi, ngay cả những kẻ từng được hưởng lợi từ nó cũng sẽ bị nuốt chửng.

Những quốc gia tiến bộ trên thế giới không phải ngẫu nhiên mà có. Họ đã trải qua những giai đoạn mà chính quyền muốn bịt miệng trí thức, nhưng giới trí thức ở đó đã không chấp nhận điều đó. Từ châu Âu đến Mỹ, từ Đông Âu đến Đông Á, những cuộc cách mạng tư tưởng đều bắt đầu từ những con người không chấp nhận bị kiểm soát bởi nỗi sợ hãi. Voltaire [3], Rousseau [4], Kant [5], Hayek [6], Orwell [7]– tất cả họ đều là những trí thức đã dám đối mặt với quyền lực để bảo vệ quyền được suy nghĩ, quyền được nói của con người. Nếu họ cũng chọn cách im lặng như nhiều người ngày nay, thế giới này sẽ vẫn còn chìm trong bóng tối của chủ nghĩa chuyên chế.

Nhưng, quay trở lại Việt Nam, điều quan trọng không phải là trách cứ ai đã sai, mà là đặt câu hỏi: Làm thế nào để thay đổi? Một quốc gia không thể phát triển nếu trí thức không dám phản biện, nếu xã hội không dám đòi hỏi quyền của mình. Những bản án dành cho những người như Huy Đức có thể làm nản lòng một số người, nhưng cũng có thể là động lực để những người khác nhận ra rằng: nếu không đấu tranh, chúng ta sẽ không còn gì cả. Một chính quyền không thể đàn áp mãi mãi nếu xã hội không chấp nhận bị đàn áp. Một bộ máy cai trị không thể kiểm soát tất cả mọi người nếu tất cả mọi người cùng lên tiếng.

Tự do ngôn luận không đến từ sự ban phát của chính quyền, mà đến từ sự đòi hỏi không ngừng nghỉ của người dân. Lịch sử nhân loại đã chứng minh điều đó hết lần này đến lần khác. Khi Nelson Mandela [8] bị giam cầm, điều đó không làm phong trào đấu tranh chống phân biệt chủng tộc ở Nam Phi yếu đi, mà còn làm nó mạnh mẽ hơn. Khi Václav Havel [9] đàn áp, điều đó không khiến phong trào dân chủ tại Tiệp Khắc [10] tan rã, mà còn là tiền đề cho cuộc Cách mạng Nhung [11].

Việt Nam không thiếu những người có đủ nhận thức để hiểu điều này, chỉ thiếu những người có đủ can đảm để hành động. Nhưng sự thay đổi không thể chỉ đến từ một cá nhân hay một nhóm nhỏ, mà phải là ý thức tập thể của cả một dân tộc. Khi người dân không còn sợ hãi, khi trí thức không còn chấp nhận sự kiểm duyệt, khi công lý không còn bị bóp méo bởi những điều luật phục vụ quyền lực, đó mới là lúc một tương lai thực sự có thể bắt đầu.

Bản án của Osin Huy Đức, dù có là gì đi nữa, cũng không phải là dấu chấm hết. Nó chỉ là một trong những dấu mốc trên con đường dài của một dân tộc đang tìm cách thoát khỏi bóng tối. Nhưng để thay đổi, câu hỏi không phải là ai sẽ làm điều đó, mà là liệu tất cả chúng ta tiếp tục cúi đầu hay đứng thẳng để đòi lại tiếng nói của mình.

________

[1] Trí thức không chỉ là những người có học vấn cao, mà quan trọng hơn, là những người mang trách nhiệm đối với sự thật và công lý. Trong mọi thời đại, trí thức luôn đóng vai trò khai sáng, thúc đẩy tiến bộ xã hội và phản biện quyền lực khi cần thiết. Nhưng ở Việt Nam, trí thức vừa đối diện với những thách thức tri thức, đồng thời với áp lực kiểm soát, sự đàn áp và nguy cơ bị bịt miệng. Một trí thức đúng nghĩa không phải là người chỉ thuần thục kiến thức, mà là người dám đặt câu hỏi, dám nói lên sự thật ngay cả khi nó không được chào đón. Thời đại Việt Nam hôm nay không thiếu người tài giỏi, nhưng thiếu những người dám bước qua nỗi sợ hãi để bảo vệ giá trị của trí tuệ. Khi trí thức trở thành công cụ của quyền lực, xã hội mất đi ánh sáng dẫn đường. Nhưng khi trí thức dám đứng lên, đó là khởi đầu của một kỷ nguyên mới.

[2] Osin Huy Đức (tên thật: Trương Huy San) là một nhà báo, nhà bình luận chính trị người Việt Nam, nổi tiếng với những bài viết phản biện sắc bén và tác phẩm “Bên Thắng Cuộc”, một cuốn sách gây tiếng vang về lịch sử Việt Nam sau 1975. Ông từng là phóng viên của nhiều tờ báo lớn trước khi trở thành cây bút độc lập. Hiện tại, Huy Đức đang bị cầm tù và đối mặt với nguy cơ bị kết án theo điều luật mơ hồ về “lạm dụng quyền tự do ngôn luận để chống phá nhà nước”, phản ánh tình trạng đàn áp tư tưởng và tự do báo chí tại Việt Nam.

[3] Voltaire (1694–1778): Nhà triết học, nhà văn và nhà khai sáng người Pháp, nổi tiếng với tư tưởng tự do ngôn luận, phản đối chế độ chuyên chế và sự áp bức của tôn giáo. Câu nói kinh điển của ông: “Tôi không đồng ý với điều anh nói, nhưng tôi sẽ bảo vệ đến chết quyền được nói ra điều đó.” dù chưa được xác nhận là của ông, vẫn thể hiện tinh thần đấu tranh mạnh mẽ cho tự do ngôn luận.

[4] Jean-Jacques Rousseau (1712–1778) – Triết gia Khai sáng người Pháp, tác giả Bàn Về Khế Ước Xã Hội(Du Contrat Social), đề xướng quyền tự do và chủ quyền nhân dân, ảnh hưởng sâu sắc đến Cách mạng Pháp và các nền dân chủ hiện đại.

[5] Immanuel Kant (1724-1804) – Nhà triết học người Đức, một trong những tư tưởng gia vĩ đại nhất của thời kỳ Khai sáng. Ông đề xướng “Triết học Phê phán”, nhấn mạnh vào lý trí, đạo đức và tự do cá nhân. Tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy” (1781) đặt nền móng cho nhận thức luận hiện đại, trong khi “Phê phán lý tính thực tiễn” (1788) và “Nền tảng Siêu hình Học về Đạo đức” (1785) khẳng định rằng con người phải hành động theo nguyên tắc đạo đức phổ quát, không bị ràng buộc bởi quyền lực hay lợi ích cá nhân. Kant tin rằng tự do ngôn luận và tự chủ trí tuệ là điều kiện cốt lõi để khai sáng xã hội.

[6] Friedrich Hayek (1899–1992) – Nhà kinh tế học và triết gia chính trị người Áo, tác giả của The Road to Serfdom (1944), một tác phẩm kinh điển cảnh báo về nguy cơ của chủ nghĩa toàn trị và sự kiểm soát nhà nước đối với tự do cá nhân. Hayek lập luận rằng một xã hội tự do chỉ có thể tồn tại khi quyền cá nhân, đặc biệt là tự do ngôn luận và tư tưởng, không bị nhà nước kiểm soát. Ông là người bảo vệ mạnh mẽ của kinh tế thị trường và tư tưởng tự do cổ điển.

[7] George Orwell (1903-1950) – Nhà văn, nhà báo và nhà phê bình chính trị người Anh, nổi tiếng với các tác phẩm “1984” và “Animal Farm”, trong đó ông cảnh báo về sự kiểm soát tư tưởng, chế độ toàn trị và nguy cơ thao túng sự thật. Orwell trở thành biểu tượng của tư tưởng chống độc tài, với những khái niệm như “Big Brother”“Doublethink”, và “Newspeak”, phản ánh sự bóp méo ngôn ngữ để kiểm soát nhận thức con người.

[8] Nelson Mandela (1918-2013) – Nhà lãnh đạo phong trào chống phân biệt chủng tộc ở Nam Phi, bị giam cầm 27 năm vì đấu tranh chống chế độ Apartheid. Sau khi được trả tự do, ông trở thành Tổng thống Nam Phi (1994-1999) và là biểu tượng toàn cầu của hòa giải, công lý và tự do.

[9] Václav Havel (1936–2011) – Nhà văn, nhà bất đồng chính kiến, và tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Séc sau khi chế độ cộng sản sụp đổ. Ông là một trong những lãnh đạo chủ chốt của Cách mạng Nhung (1989), phong trào bất bạo động dẫn đến sự chấm dứt chế độ cộng sản tại Tiệp Khắc. Với tư tưởng dân chủ, tự do ngôn luận và nhân quyền, Havel không chỉ là một biểu tượng đấu tranh chống độc tài mà còn là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn trong chính trị toàn cầu.

[10] Phong trào dân chủ tại Tiệp Khắc bắt đầu mạnh mẽ từ những năm 1970 với Hiến chương 77, một tuyên ngôn do Václav Havel và nhiều trí thức soạn thảo nhằm yêu cầu chính quyền tôn trọng nhân quyền. Đến năm 1989, Cách mạng Nhung bùng nổ khi hàng trăm ngàn người xuống đường biểu tình ôn hòa, buộc chính quyền cộng sản sụp đổ mà không đổ máu. Tiệp Khắc sau đó chuyển đổi thành nền dân chủ đa đảng, mở đường cho sự phát triển của Cộng hòa Séc và Slovakia ngày nay.

[11] Cách mạng Nhung (Velvet Revolution) là cuộc cách mạng ôn hòa diễn ra vào năm 1989 tại Tiệp Khắc (nay là Cộng hòa Séc và Slovakia), dẫn đến sự sụp đổ của chế độ cộng sản tại nước này mà không cần đổ máu. Dưới sự lãnh đạo của Václav Havel và phong trào đối lập, hàng trăm nghìn người dân đã xuống đường biểu tình, buộc chính quyền phải nhượng bộ. Cuộc cách mạng này là một trong những dấu mốc quan trọng của làn sóng dân chủ hóa Đông Âu cuối thế kỷ 20.


 

Không Tự do Dân chủ, “vươn mình” về đâu?- Hồ Phú Bông

Ba’o Tieng Dan

Hồ Phú Bông

15-2-2025

Sau khi được “giải phóng”, chúng tôi đã phải rời bỏ quê hương, vượt biên bằng đường biển. Ghe tôi vượt biên chỉ dài 11 mét, hết nước, hết thực phẩm, mạng sống như chỉ mành treo chuông thì được tàu Hohsing Arrow vớt đưa vào Singapore. Lúc đó mới biết ghe có 50 người cả trẻ em, bị lạc hướng, cách Philippines hơn ngàn hải lý.

Ngay hôm sau, đoàn JVA Mỹ (Joint Voluntary Agency) vào phỏng vấn, gặp người bạn cũ làm việc trong đoàn. Tâm tình sau đó, chị cho biết, người Mỹ rất quý trọng người can đảm. Vì thế những người đứng ra tổ chức vượt biên, dễ được nhận.

Điển hình, có ba anh em rất chân quê ở Đồng Tháp, đốn cây vông trong vườn đóng chiếc ghe vượt biên. Đã hẳn ghe đó ra biển không khác gì trẻ em xếp chiếc ghe bằng giấy thả trôi theo dòng nước. Chuyện phải đến đã đến. Ghe trôi dạt, may mà chưa chìm. Người anh chờ chết, hai người em cũng kiệt sức thì được tàu cứu. Người anh phải nằm tại bệnh viện ở Singapore hơn hai tuần. JVA phỏng vấn ngắn và nhận ngay, dù họ không liên quan gì đến VNCH. Nhưng họ xin đi Na Uy vì hy vọng có thể bảo lãnh được gia đình chỉ khoảng nửa năm, lúc đó Mỹ – Việt Nam chưa bang giao.

Thể hiện “Mỹ tính” qua phim, là hình ảnh anh cao bồi một mình một ngựa rong ruổi, tình cờ gặp bọn cướp hiếp dân lành, bất chấp nguy hiểm, đấu trí, đấu súng… pằng pằng. Tiêu diệt xong lại vó ngựa lên đường trước quyến luyến của dân làng, đặc biệt với đôi mắt ướt lệ, thẫn thờ của giai nhân.

Lịch sử xây dựng nước Mỹ không hiếm những người hùng như thế nên họ thích người can đảm, dám sống chết với bổn phận và trách nhiệm. Họ không có “văn hóa tuẫn tiết” như phương Đông.

– So sánh với chế độ XHCN Việt Nam hiện tại thì trái ngược. Những ai dám thể hiện bổn phận và trách nhiệm công dân, thẳng thắn bày tỏ chính kiến, dù hoàn toàn ôn hòa, vẫn bị chế độ độc tài đảng trị bịa chuyện để gán ghép tội. Các bản án đến 5, 10, 15 năm tù mà phiên tòa chỉ kéo dài 4 hay 5 tiếng đồng hồ!

Ở các nước tư bản báo chí được tự do điều tra những sai trái của chính quyền để đưa ra ánh sáng. Tổng thống Obama trong chuyến thăm Việt Nam kể là ông bị nhiều châm biếm, phê phán nhưng nhờ đó có thể điều hành việc nước tốt hơn.

– So sánh với báo chí phương Tây, truyền thông Việt Nam là dàn hợp xướng chỉ ca ngợi đảng. Lịch sử thời phong kiến, Tàu cũng như Việt, cho biết, khi vua thích nịnh thần thì triều đại đó sụp đổ! Dàn hợp xướng “kỷ nguyên vươn mình” đang mở công suất lớn ca ngợi ông Tô Lâm “bò dát vàng”.

***

Về phương diện tu, câu cửa miệng dân dã là: Thứ nhất, tại gia; thứ hai, tại chợ; thứ ba, tại chùa.

Tại gia, là tự hướng thượng. Tại chợ, là trực tiếp giữa đời thường tham/ sân/ si để buông bỏ ngã mạn. Tại chùa, là để thâm sâu về Phật pháp.

Sư Thích Minh Tuệ trực tiếp với đời thường, tu theo hạnh đầu đà ba y một bát, xưng con với mọi người, buông bỏ tham/ sân/ si. Nhiều lần sư xác nhận mình chỉ “đang tu học”.

Suốt 5 năm hành khất đơn độc Bắc/ Nam – Nam/ Bắc, tối ngủ ngồi nơi có thể, để tu học. Đến khi bị/ được các YouTubers phát hiện, người dân mới biết. Theo dõi rồi ngưỡng mộ, đổ xô tìm gặp để được đảnh lễ. Chỉ thời gian rất ngắn, hàng triệu người hướng về sư thì các chùa của Phật giáo nhà nước có tượng Phật lớn, có chùa nguy nga tráng lệ, có các “sư” “thông thái”, “uyên bác” bỗng chốc lại vắng tanh.

Qua hình ảnh hành khất Thích Minh Tuệ người dân được giác ngộ. Hướng về điều Thiện Lành.

Nếu là “chính quyền”, đã hẳn đây là cơ hội hiếm có phải chụp lấy để xiển dương. Một xã hội mà người dân hướng về điều Thiện Lành, đương nhiên xã hội đó phải tốt đẹp. Vì đạo đức là nền tảng để phát triển mọi mặt, như văn hóa, chính trị, kinh tế… được như thế người dân mới thật sự có tự do, hạnh phúc.

Chuyện người Nhật kéo xe ở Tokyo, phải mất hơn 3 tiếng đồng hồ tìm hỏi người khác mới đưa được vị khách nước ngoài, là cụ Phan Bội Châu (1), đến đúng nơi ghi trên danh thiếp nhưng nhứt định không nhận tiền tip.

Chuyện khác, mới hơn, là thảm họa sóng thần tsunami Tohoku, năm 2011 (2). Dòng người đói lả xếp hàng dài kiên nhẫn chờ cứu trợ, không trách cứ, than vãn. Có người còn nhường phần ăn cho người cần hơn. Trăm người khác thì tự nguyện ở lại, dù có thể chết, để khắc phục hậu quả rò rỉ phóng xạ tại nhà máy điện hạt nhân Fukushima, ra sức cứu thảm họa ô nhiễm môi trường.

Với vài chuyện “rất nhỏ” nói trên thì việc phát triển thần kỳ của nước Nhật, chỉ 25 năm sau khi đất nước tan hoang vì thua trận Thế chiến thứ II, chẳng có gì phải ngạc nhiên!

– Thế nhưng, 50 năm sau khi chiếm được miền Nam, chế độ XHCN Việt Nam làm ngược lại hoàn toàn.

Ví dụ, vào nửa đêm tại Huế, họ “úp sọt” sư Thích Minh Tuệ và khoảng gần trăm người. Ban ngày công an gìn giữ trật tự đoàn hành khất rất tốt. Tối, chọn chỗ cho đoàn ngủ nghỉ. Nhưng đến khuya thì đột kích, tấn công không khoan nhượng. Tống người lên xe, phân tán họ cách Huế vài chục cây số rồi đẩy xuống đường nơi vắng vẻ. Riêng sư Minh Tuệ biệt tích, mấy ngày sau công an mới phổ biến hình ảnh đang lăn tay làm căn cước. Sau đó nói sư “ẩn tu”. Dù “ẩn tu” là thoát ly xã hội, trong khi sư Minh Tuệ khất thực, là “tu giữa chợ đời”!

Giờ thì mọi chuyện khá rõ ràng, ép sư làm căn cước để làm hộ chiếu và visa. Trung ương tìm cách trục xuất sư khỏi nước.

Không chỉ thế, còn cử đặc vụ theo đoàn để kiềm chế. Thượng tá công an về hưu, có bằng “Tiến sĩ Tâm lý”, “tình nguyện” theo “Thầy” nhưng làm trưởng đoàn (!) trong khi sư Minh Tuệ chỉ muốn nhờ giúp đỡ làm giấy tờ và tìm hiểu lộ trình đi Ấn Độ.

Đoàn người hiện đang ở Thái Lan gặp nhiều rắc rối, nếu không muốn nói là hỗn độn. Sự hỗn độn không phải vô tình. Gây ra hỗn độn có mục đích.

***

Một chế độ khi người dân làm bổn phận và trách nhiệm công dân, dám nói lên sự thật, là độc tài đảng trị có nguy cơ đưa đất nước đến tai họa thì bị xử tù. Một mầm Thiện Lành quý hiếm mới phát hiện, qua hình ảnh hành khất Thích Minh Tuệ, được cả triệu người kính ngưỡng, thì tìm cách triệt tiêu.

Chế độ đó sẽ đưa đất nước về đâu? Bản thân chế độ sẽ về đâu? Không có tự do dân chủ “kỷ nguyên vươn mình” sẽ về đâu?

________

Chú thích:

(1) https://jasa.edu.vn/?chitiet=489&tinh-than-nhat-ban-qua-chuyen-phan-boi-chau-va-anh-phu-xe-o-tokyo.html

(2) https://www.buctranhvancau.com/new-blog/2020/3/7/nh-li-thm-ha-v-ng-khu


 

Mỹ trục xuất di dân Phi Châu và Á Châu, có cả Việt Nam, qua Panama

Ba’o Nguoi-Viet

February 14, 2025

WASHINGTON, DC (NV) – Hàng loạt di dân bất hợp pháp đến từ các quốc gia Phi Châu và Á Châu đang bị Hoa Kỳ trục xuất qua Panama, một bước đột phá về ngoại giao cho nỗ lực trục xuất hàng loạt của chính quyền Tổng Thống Donald Trump, theo các hồ sơ liên bang nội bộ được CBS News thu thập.

Hôm Thứ Tư, 12 Tháng Hai, Hoa Kỳ tổ chức một chuyến bay quân sự nhằm trục xuất di dân Á Châu đang bị giam giữ tại Hoa Kỳ qua Panama, theo ghi nhận đây là lần đầu tiên chính quyền Trump trục xuất di dân qua quốc gia Trung Mỹ. Di dân bị trục xuất gồm có người trưởng thành và gia đình có trẻ em xuất thân từ Afghanistan, Trung Quốc, Ấn Độ, Iran và Uzbekistan, các hồ sơ liên bang cho biết.

Theo kế hoạch, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tổ chức một chuyến bay quân sự khác nhằm trục xuất thêm di dân Á Châu qua Panama vào Thứ Năm, ngoài ra còn có một số di dân Phi Châu. Hồ sơ liên bang cho thấy một trong số các di dân Phi Châu là dân Cameroon.

Phi cơ Boeing C-17 của Không Lực Hoa Kỳ dùng để chở di dân bị trục xuất tại Căn Cứ Bliss, El Paso, Texas ngày 13 Tháng Hai, 2025. (Hình: JUSTIN HAMEL/AFP/Getty Images)

Trong một tuyên bố hôm Thứ Năm, Bộ Ngoại Giao Panama xác nhận rằng họ đã đón nhận chuyến bay đầu tiên hôm Thứ Tư sau khi đạt được thỏa thuận với chính quyền Trump nhằm cho phép Hoa Kỳ trục xuất những người không phải công dân Panama tới quốc gia Trung Mỹ.

Bộ Ngoại Giao Panama cho biết chuyến bay trục xuất hôm Thứ Tư chở 119 di dân bị trục xuất từ ​​Afghanistan, Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Nepal, Pakistan, Tích Lan, Thổ Nhĩ Kỳ, Uzbekistan và Việt Nam, đồng thời cho biết thêm rằng Hoa Kỳ sẽ thanh toán chi phí trục xuất như đã thỏa thuận.

Panama được là nơi trung chuyển trong làn sóng di cư hàng loạt xảy ra trong khu vực trong những năm gần đây nên chiến dịch trục xuất di dân qua quốc gia Trung Mỹ là một chiến thắng ngoại giao quan trọng dành cho tổng thống, cũng như kế hoạch thực thi luật nhập cư bất hợp pháp đang được toàn chính quyền Trump thực thi.

Sở dĩ Hoa Kỳ gặp khó khăn trong việc trục xuất di dân Phi Châu và Á Châu là vì Bán Cầu Đông là một khu vực xa xôi theo kế hoạch trục xuất, đồng thời chính phủ ở các châu lục đó quyết định hạn chế hoặc từ chối các chuyến bay trục xuất từ Hoa Kỳ. The New York Times là tờ báo đầu tiên đưa tin về chiến dịch trục xuất di dân Á Châu vào Thứ Tư.

Ngoài ra cũng có hai quốc gia chấp nhận đón di dân bị Hoa Kỳ trục xuất dù không phải là công dân là El Salvador và Guatemala. Thậm chí Tổng Thống El Salvador Nayib Bukele còn đề nghị đón nhận và giam giữ di dân bị tình nghi thuộc băng đảng Tren de Aragua có nguồn gốc từ Venezuela do Hoa Kỳ trục xuất.

Chính quyền Trump cũng đang nỗ lực thực hiện thêm các thỏa thuận trục xuất, dầu chưa rõ có thể tiếp tục nhất quán với những quốc gia nào cho các kế hoạch trục xuất, trong đó theo một kế hoạch đã được đề ra, Hoa Kỳ sẽ đưa công dân của quốc gia thứ ba tới quốc gia Nam Mỹ Guyana, hai viên chức Hoa Kỳ ẩn danh nói với CBS News.

Việc Panama sẵn sàng đón nhận di dân bị trục xuất cũng diễn ra trong thời điểm Tổng Thống Trump để mắt tới kế hoạch giành lại quyền kiểm soát Kênh Đào Panama, một khu vực có tầm quan trọng về chiến lược. Năm 1999, Hoa Kỳ từng nhượng lại kênh đào cho Panama. Các nhà lãnh đạo Panama thẳng thừng khước từ ý tưởng của Trump cũng như phản đối những tuyên bố do ông và các viên chức Hoa Kỳ đưa ra rằng Trung Quốc đang gây ảnh hưởng tới hoạt động tại kênh đào.

Trong chuyến công du quốc tế đầu tiên, Ngoại Trưởng Marco Rubio viếng thăm Panama ngay khi nhậm chức, đồng thời Bộ Ngoại Giao cho biết vào tuần trước rằng Hoa Kỳ đã đạt được một thỏa thuận cho phép các hạm đội Mỹ băng qua kênh đào mà không tốn lệ phí. Tổng thống Panama cho biết đôi bên vẫn chưa đạt được thỏa thuận như Hoa Kỳ đã nói đồng thời cho biết tuyên bố do Bộ Ngoại Giao Mỹ đưa ra là “giảo biện.”

Các phát ngôn viên Bộ Nội An và Bộ Ngoại Giao chưa trả lời yêu cầu bình luận liên quan tới các chuyến bay trục xuất qua Panama.

Tương tự Hoa Kỳ, trong những năm gần đây Panama không ngừng gặp rắc rối trong các vấn đề di cư.

Darién Gap, một khu rừng không có đường đi, đồi núi hiểm trở và từng là nơi bất khả xâm phạm ngăn cách Panama và Colombia, nay là nơi ngày đêm trung chuyển các đoàn di dân nuôi hy vọng vượt qua Trung Mỹ và Mexico để đặt chân tới Hoa Kỳ.

Năm 2023, hơn nửa triệu di dân phần lớn xuất thân từ Venezuela, vượt qua cánh rừng Darién rồi lọt vào Panama, một con số kỷ lục. Số lượng di dân đó giảm xuống còn hơn 300,000 vào năm 2024, mặc dù vẫn là số liệu thống kê hàng năm cao thứ nhì do chính quyền Panama ghi nhận. (TTHN)


 

Vì sao những người thường xuyên cầu nguyện có sức khỏe tốt hơn?

Để có được sức khỏe tốt nhất, dưới đây là một vài điều mà bạn cần làm: Thường xuyên vận động/tập thể dục, ăn thực phẩm lành mạnh/sạch và thô (ít chế biến), đưa cân nặng về ‘chuẩn’ – và cầu nguyện. Đúng vậy, cầu nguyện và thiền định thường xuyên sẽ mang lại lợi ích không ngờ, điều này đã được các nghiên cứu khoa học chứng minh.

Cầu nguyện được xem là giải pháp điều trị thay thế phổ biến nhất ở xã hội Mỹ ngày nay. Có hơn 85% những người phải đương đầu với bệnh nặng đã cầu nguyện, theo một nghiên cứu của Đại học Rochester. Tỉ lệ này cao hơn nhiều so dùng thảo mộc hoặc theo đuổi phương thức chữa bệnh phi truyền thống khác. Và đó là bằng chứng cho thấy việc cầu nguyện mang lại hiệu quả.

Không kể là bạn cầu nguyện cho chính mình hay cho người khác, để chữa lành bệnh hay vì hòa bình trên thế giới, hoặc đơn giản là ngồi trong im lặng và yên tĩnh tâm – những tác động dường như là tương tự. Nhiều phương pháp tinh thần loại này đã có khả năng giúp làm giảm bớt mức độ căng thẳng (stress) – vốn là một trong những yếu tố nguy cơ chính yếu gây bệnh cho con người, đồng thời chúng cũng là công cụ mạnh mẽ giúp người ta có cái nhìn tích cực, vượt qua những thử thách khó khăn trong cuộc sống.

Mối quan hệ giữa cầu nguyện và sức khỏe là chủ đề của nghiên cứu trong vòng nhiều chục năm qua. Tiến sĩ Herbert Benson, một chuyên gia tim mạch tại Trường Y Harvard và một người tiên phong trong lĩnh vực y học tâm – thân, đã phát hiện điều gọi là “phản ứng thư giãn” (response of relaxation) xảy ra trong thời gian cầu nguyện và thiền định. Vào những lúc như vậy, sự trao đổi chất của cơ thể giảm xuống, nhịp tim chậm, huyết áp giảm xuống, và hơi thở của chúng ta trở nên bình ổn và đều đặn hơn.

Trạng thái sinh lý này đi cùng với hiện tượng sóng não chậm hơn, và cảm giác kiểm soát sự tỉnh táo yên tĩnh và yên tâm. Điều này có ý nghĩa quan trọng vì theo TS Benson, có hơn một nửa những người đến thăm khám bác sĩ ở Mỹ ngày nay có vấn đề bệnh tật, như trầm cảm, huyết áp cao, viêm loét và đau nửa đầu… phân nửa gây ra bởi căng thẳng và lo lắng.

Tiến sĩ Andrew Newberg, Giám đốc Trung tâm cho Tâm linh và Tâm học tại Đại học Pennsylvania đã tiến hành một nghiên cứu về thiền định và cầu nguyện, cho thấy chúng làm giảm hoạt động trong não, làm tăng mức độ dopamine – vốn gắn liền với trạng thái hạnh phúc và niềm vui.

Ken Pargement của Đại học Bowling Green hướng dẫn một nhóm người bị chứng đau nửa đầu thiền 20 phút mỗi ngày lặp đi lặp lại lời cầu nguyện, chẳng hạn như “Chúa là bình an. Chúa là tình yêu thương“. Các nhóm khác sử dụng một câu không có ý nghĩa tâm linh, như: “Cỏ là màu xanh lá cây. Cát mềm.” Kết quả là những người thiền định và cầu nguyện (nhóm I) ít bị đau đầu hơn và chịu được các cơn đau tốt hơn so với nhóm còn lại.

Trong một nghiên cứu được tài trợ bởi National Institutes of Health, nhóm những người cầu nguyện hàng ngày ít bị huyết áp hơn đến 40% so với những người không một thực hành cầu nguyện thường xuyên. Nghiên cứu tại trường Y Dartmouth cho thấy những bệnh nhân phẫu thuật tim có niềm tin tôn giáo mạnh mẽ khả năng phục hồi hơn hẳn so với những người ít liên hệ tới tôn giáo. Một số nghiên cứu khác cho thấy cầu nguyện cải thiện hệ miễn dịch và giảm nguy cơ mắc (hoặc mức độ nghiêm trọng) nhiều bệnh, sống thọ hơn .

Nhưng câu hỏi đặt ra là: Cầu nguyện tác động lên sức khỏe thông qua cơ chế nào? Những nghiên cứu gần đây nhất TS. Herbert Benson cho rằng thực hành tâm linh hàng ngày lâu dài giúp vô hoạt các gen kích hoạt viêm và làm chết tế bào nhanh chóng. Như vậy là tâm linh/tinh thần có thể tác động để sự hoạt hóa/biểu hiện các gen trong cơ thể chúng ta, và cầu nguyện có thể ảnh hưởng đến các chức năng của cơ thể ở cấp cơ bản và quan trọng nhất.

Tất nhiên, theo các nhà nghiên cứu thì không thể nói là cầu nguyện có thể thay thế hoàn toàn các biện pháp điều trị y tế hiện đại, nhất là khi đang trong tình trạng cấp bách, nhưng rõ ràng đây là các kết quả chân thực, các con số đã thống kê được về lợi ích sức khỏe khi người ta thành tâm cầu nguyện.

Kiên Thành
(Theo Huffington Post)

https://songhanhphuc.net/tin-tuc/vi-sao-nhung-nguoi-thuong-xuyen-cau-nguyen-co-suc-khoe-tot-hon

Cầu nguyện khi cảm thấy dường như vô ích – Ronald Rolheiser

Ronald Rolheiser

Cầu nguyện không phải để thay đổi tâm trí Chúa, nhưng để thay đổi tâm trí của người đang cầu nguyện. 

”Cầu nguyện đặc biệt cần thiết nhất khi chúng ta cảm thấy cầu nguyện là vô ích.” Cố linh mục thần học gia Dòng Tên Michael J. Buckley (1931-2019), một trong những người cố vấn tâm linh quan trọng nhất của tôi đã viết những lời này. Ngài có ý gì khi nói như vậy?

Trước rất nhiều vấn đề, có khi chúng ta cảm thấy cầu nguyện là vô ích. Chẳng hạn trước một số vấn đề lớn của thế giới, chúng ta cảm thấy nản lòng và bất lực, chúng ta dễ dàng nói cầu nguyện là vô ích. Lời cầu nguyện của tôi sẽ có tác dụng gì với các cuộc chiến đang diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới? Giá trị của lời cầu nguyện của tôi là gì khi tôi phải đối diện với bất công, nạn đói, kỳ thị chủng tộc, kỳ thị giới tính? Lời cầu nguyện của tôi có tác động nào khi cộng đồng của tôi đang chia rẽ và thù hận? Thật dễ dàng để cảm nhận cầu nguyện trong những tình huống này là vô ích.

Cũng vậy khi chúng ta bị bệnh nặng. Liệu lời cầu nguyện có thể chữa khỏi bệnh ung thư ở giai đoạn cuối không? Chúng ta có thực sự mong chờ một phương thuốc phép lạ không? Phần lớn chúng ta không nghĩ vậy, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục cầu nguyện dù cảm thấy lời cầu nguyện của mình sẽ không thay đổi tình hình. Vì sao?

Vì sao phải cầu nguyện khi có vẻ như việc cầu nguyện là vô ích? Các thần học gia, các tác giả tâm linh giải thích cho chúng ta nhiều góc nhìn khác nhau về vấn đề này, tuy hữu ích nhưng không đầy đủ. Họ cho rằng, cầu nguyện không phải để thay đổi tâm trí Chúa, nhưng để thay đổi tâm trí của người đang cầu nguyện. Chúng ta không cầu nguyện để kéo Chúa về phía mình; chúng ta cầu nguyện để đặt mình về phía Chúa. Thêm nữa, chúng ta được dạy, lý do chúng ta cảm thấy Chúa không trả lời, vì Chúa như người cha yêu thương, biết điều gì tốt cho chúng ta và ban cho chúng ta những gì chúng ta thực sự cần chứ không phải những gì chúng ta ngây thơ muốn. Tác giả C.S. Lewis đã nói, chúng ta sẽ dành nhiều thì giờ trong cõi vĩnh hằng để tạ ơn Chúa vì những lời cầu nguyện Chúa đã không nhận lời.

Tất cả những điều này đều đúng và quan trọng. Đường lối của Chúa không phải là đường lối của chúng ta. Đức tin đòi hỏi chúng ta dành cho Chúa không gian và thời gian để Chúa là Chúa, không theo những mong chờ rất hạn hẹp và thiếu kiên nhẫn của chúng ta. Thực sự chúng ta nên tạ ơn Chúa vì điều này.

Nhưng dù vậy… khi Chúa Giêsu xin chúng ta cầu nguyện, Ngài không cảnh báo chúng ta: con phải xin những điều đúng đắn nếu con muốn Ta nhận lời. Không, Ngài chỉ nói: Hãy xin và con sẽ được. Ngài nói, một số con quỷ chỉ bị đuổi đi bằng ăn chay cầu nguyện.

Vậy, làm thế nào những con quỷ bạo lực, chia rẽ, hận thù, chiến tranh, đói kém, khí hậu nóng lên toàn cầu, nạn đói, phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính, ung thư, bệnh tim… có thể bị đuổi đi bằng lời cầu nguyện? Làm thế nào để cầu nguyện hữu ích một cách thiết thực khi đối diện với những vấn đề này?

Tóm lại, lời cầu nguyện không chỉ thay đổi người đang cầu nguyện mà còn thay đổi tình huống. Khi chúng ta cầu nguyện, thực tế chúng ta là một phần của tình huống mà chúng ta cầu nguyện. Lời cầu nguyện chân thành giúp chúng ta trở thành sự thay đổi mà chúng ta đang cầu nguyện để được. Chẳng hạn, cầu nguyện cho hòa bình giúp chúng ta bình tâm, mang lại cho thế giới thêm một trái tim thanh thản.

Dù điều này là đúng, nhưng cũng có một thực tế sâu đậm hơn. Sâu đậm vì khi chúng ta cầu nguyện, có điều gì đó đang xảy ra vượt ra ngoài cách chúng ta thường hình dung về sự tương tác đơn giản giữa nguyên nhân và kết quả. Khi thay đổi bản thân, chúng ta đang thay đổi tình hình; đúng vậy, nhưng theo cách sâu đậm hơn cách chúng ta thường tưởng tượng.

Là người có đạo, chúng ta nghĩ chúng ta là một phần của Nhiệm thể Chúa Kitô, và sự kết hợp của chúng ta trong Chúa không phải là sự kết hiệp của một cộng đồng lý tưởng. Nhưng, chúng ta là một phần của một sinh vật sống mà mọi bộ phận đều ảnh hưởng đến nhau, giống như trong một cơ thể vật lý. Vì lý do này, với chúng ta, không có một hành động nào là riêng tư – tốt hay xấu. Tôi ngần ngại khi nghĩ rằng điều này tương tự như hệ thống miễn dịch trong cơ thể con người, vì đây không chỉ là một phép so sánh. Nó là thực tế, hữu cơ. Giống như hệ thống miễn dịch bảo vệ sức khỏe cho toàn bộ cơ thể bằng cách tiêu diệt các tế bào và vi-rút gây nguy hiểm cho sức khỏe, thì bên trong Nhiệm thể của Chúa Kitô cũng vậy. Khi nào chúng ta, hoặc là những tế bào khỏe mạnh mang lại sức mạnh cho hệ thống miễn dịch bên trong Nhiệm thể Chúa Kitô, hoặc chúng ta là một loại vi-rút, một loại tế bào ung thư đe dọa cho sức khỏe. Cầu nguyện tạo nên sự khác biệt vì cầu nguyện giúp tăng cường hệ thống miễn dịch bên trong Nhiệm thể Chúa Kitô – chính xác giải quyết vấn đề chúng ta đang cầu nguyện. Mặc dù trên bề mặt, đôi khi lời cầu nguyện có vẻ vô ích, nhưng nó đang làm một điều gì đó quan trọng bên trong – điều cần thiết chính xác là khi chúng ta cảm thấy lời cầu nguyện của mình vô ích.

Ronald Rolheiser

Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch

Nguồn: https://giaophanlongxuyen.org

https://daminhbuichu.net/cau-nguyen-khi-cam-thay-duong-nhu-vo-ich/

Bà cụ New York mừng sinh nhật 104 tuổi bằng cách đi thăm nhà tù

Ba’o Nguoi-Viet

February 13, 2025

AVON, New york (NV) – Bà cụ ở New York mừng sinh nhật 104 tuổi bằng việc hiếm có ai làm: Đi thăm nhà tù, cảnh sát cho hay hôm Thứ Hai, 10 Tháng Hai.

Bà Loretta sống ở nhà dưỡng lão Avon Nursing Home ở Avon, Sở Cảnh Sát Livingston County (LCSO) cho biết trên Facebook.

Bà Loretta thăm nhà tù Livingston County, New York, nhân dịp sinh nhật 104 tuổi. (Hình: Livingston County Sheriff’s Office)

Thứ Bảy tuần trước, nhân dịp sinh nhật bà Loretta, nhân viên nhà dưỡng lão hỏi bà muốn làm gì. Bà đáp bà “muốn coi bên trong nhà tù của chúng tôi” vì bà chưa bao giờ đi tù, theo LCSO.

LCSO chấp thuận mong muốn của bà Loretta, và bà được mời tới thăm nhà tù quận hạt.

“Trước khi bà đi thăm, chúng tôi mừng sinh nhật bà bằng cà phê và bánh kem,” LCSO viết trên Facebook. “Và bà cho cảnh sát trưởng hay bí quyết sống lâu là ‘chỉ lo chuyện của mình!’”

Bà Loretta “rất vui khi đi thăm nhà tù của chúng tôi,” LCSO cho biết.

“Chúng tôi rất vui vì có thể biến ước mơ sinh nhật của bà trở thành sự thật,” LCSO thêm. “Cảm ơn bà vì giúp chúng tôi cười suốt ngày.” (Th.Long) [qd]


 

Tiệm ăn từ chối nhận danh hiệu đẳng cấp một sao của Michellin

Theo báo WSJ

Nhà hàng Giglio ở Lucca, Ý, đã yêu cầu xóa ngôi sao Michelin của mình khỏi sách hướng dẫn năm 2025.

Nhà hàng Giglio ở Lucca, Ý, đã yêu cầu xóa ngôi sao Michelin của mình khỏi hướng dẫn năm 2025. Ảnh: Alamy Stock Photo

Mùa thu năm ngoái, nhà hàng Giglio ở Lucca, Ý, đã đưa ra một yêu cầu bất ngờ: xóa ngôi sao Michelin của mình khỏi bản hướng dẫn ẩm thực năm 2025. Nhà hàng Tuscan này đã được trao tặng ngôi sao vào năm 2019 cho các món ăn Ý truyền thống với hương vị hiện đại, chẳng hạn như khoai tây với nước sốt mực, nấm mỡ vàng và rau mùi tây cay. Sau đó, lượng khách hàng mới xuất hiện với kỳ vọng cao hơn. Những người chủ, những người mong muốn một môi trường thoải mái hơn, đã coi giải thưởng này là một gánh nặng.

Stefano Terigi, một đầu bếp tại Giglio cho biết: “Sự công nhận như vậy đại diện cho thành tựu cao nhất mà một đầu bếp trẻ có thể mong muốn đạt được”. “Chúng tôi không có thời gian để tìm hiểu xem đó có thực sự là con đường của mình hay không; chúng tôi đã không tìm kiếm nó”. “Họ thường không đến vì chúng tôi mà vì ngôi sao”, Terigi, đầu bếp Giglio cho biết. “Chúng tôi cảm thấy hơi mất đi cá tính của mình”.

Trong hơn một thế kỷ, Michelin Guide đã hoạt động như một ngôi sao dẫn đường về ẩm thực cho các đầu bếp trên toàn thế giới, mang đến cho họ khách hàng quốc tế và danh tiếng dẫn đến các hoạt động như sách dạy nấu ăn, sản phẩm nhà bếp và nhiều thứ khác. Các hướng dẫn của công ty lốp xe Pháp, Michellin đã mở rộng trên toàn thế giới, tạo ra các hướng dẫn khu vực hàng năm liệt kê các địa điểm ăn uống hàng đầu do những người thử nếm ẩn danh của công ty xác định. Bây giờ, một số đầu bếp cho biết giải thưởng danh giá này có thể trở thành một chiếc lồng mạ vàng cho các nhà hàng chứa đầy những bất lợi về tài chính và sáng tạo.

Mặc dù không phải mọi nhà hàng được liệt kê trong hướng dẫn đều đạt được một ngôi sao, một số ít trong số đó đã được trao tặng từ một đến ba ngôi sao, một sự khác biệt được coi là đỉnh cao của thành tích đối với một đầu bếp. Hàng năm, công ty tung ra các hướng dẫn khu vực của họ trong các buổi lễ trên toàn thế giới; vào thứ Hai, hướng dẫn năm 2025 cho Vương quốc Anh và Ireland, đại diện cho một trong những địa phương có quy mô lớn hơn, đã được tổ chức tại một sự kiện ở Glasgow.

“Theo một số khía cạnh, danh tiếng một ngôi sao có thể hơi ngột ngạt,” Scott Nishiyama, đầu bếp kiêm chủ sở hữu tại Ethel’s Fancy ở Palo Alto, California, người đã được đào tạo dưới sự hướng dẫn của các đầu bếp đạt sao Michelin trước khi mở nhà hàng của riêng mình, cho biết. Ông cho biết khả năng một thanh tra Michelin bước qua cửa bất cứ lúc nào cũng có thể khiến bạn lo lắng: “Bạn không có đủ sự tự do hoặc niềm vui cần thiết để khám phá và mắc lỗi vì bạn chỉ lo mất ngôi sao đó hoặc cố gắng đạt được ngôi sao đầu tiên đó.”

Scott Nishiyama, đầu bếp và chủ sở hữu nhà hàng Ethel's Fancy ở Palo Alto, California, cho biết khả năng một thanh tra Michelin bước vào cửa bất cứ lúc nào cũng có thể khiến chúng ta lo lắng.

Scott Nishiyama, đầu bếp và chủ sở hữu tại Ethel’s Fancy ở Palo Alto, California, cho biết khả năng một thanh tra Michelin bước vào cửa bất cứ lúc nào cũng có thể khiến bạn lo lắng. Ảnh: Ethel’s Fancy

Simon Olesen, người điều hành quán bia nổi tiếng Møntergade ở Copenhagen, nơi được liệt kê không có sao trong hướng dẫn của Đan Mạch năm 2024, cho biết một ngôi sao cũng có thể gây hại cho thu nhập của nhà hàng. Ông cho biết nhiều nhân viên văn phòng chi tiền cho bữa ăn được trả bới chủ lao động sẽ tránh những nhà hàng có vẻ quá xa hoa. Một số loại hình công ty cho nhân viên  “có thể ăn ở đây ba lần một tuần”, Olesen cho biết. “Nếu chúng tôi có sao và họ không được phép đến, họ sẽ không chi tiền riêng của mình vì họ thích ăn ở đây hơn”.

Giám đốc quốc tế của Michelin Guide cho biết. “Michelin Guide thực sự là một phước lành”, ông nói. “Chúng tôi chú trọng vào tài năng”. 

Poullennec cho biết các nhà hàng không được lựa chọn không được Michelin công nhận, bất chấp những nỗ lực từ những nơi như Giglio, nhà hàng Ý có lượng khách hàng thay đổi sau khi được trao giải. “Họ thường không đến vì chúng tôi mà vì ngôi sao”, Terigi, đầu bếp Giglio cho biết. “Chúng tôi cảm thấy hơi mất cá tính”.

Poullennec coi những nhà hàng cố gắng trả lại ngôi sao của họ là những điều bất thường. Trong sáu năm Poullennec giữ chức vụ của mình, ông ước tính mình đã giải quyết bốn trường hợp nhà hàng không còn muốn giữ lại ngôi sao của mình, trong số hàng trăm trường hợp được trao tặng hàng năm. Ông nghi ngờ rằng một số nhà hàng này có thể không còn hoạt động ở cấp độ ngôi sao nữa và tin rằng họ sắp mất nó. Mặc dù Michelin cho rằng các nhà hàng không được quyết định về trạng thái ngôi sao của mình, Giglio vẫn được liệt kê trực tuyến trong hướng dẫn, nhưng không có ngôi sao nào xuất hiện bên cạnh tên của nó.

Mặc dù Cẩm nang Michelin nêu rằng chỉ những yếu tố như chất lượng nấu ăn và trình độ kỹ thuật mới được xem xét, một số chủ nhà hàng, bao gồm cả Olesen, cảm thấy họ cần phải duy trì sự hoàn hảo ở mọi cấp độ để đổi lấy một ngôi sao, ngay cả đối với giấy vệ sinh trong phòng tắm.

Đầu bếp Justin Kent, chủ sở hữu nhà hàng Milagro tại Paris, cho biết: 'Nếu tôi muốn đạt đến tầm cỡ đó [của một ngôi sao], tôi sẽ phải dành nhiều thời gian và công sức hơn nữa để thực hiện điều đó'.

‘Nếu tôi muốn đạt đến tầm cỡ đó [cấp độ một ngôi sao], tôi sẽ phải dành nhiều thời gian và công sức hơn nữa để thực hiện điều đó’, đầu bếp Justin Kent, chủ sở hữu nhà hàng Milagro ở Paris, cho biết. Ảnh: Lindsey Larson

 Một ngôi sao có thể dẫn đến sự gia tăng trong hoạt động kinh doanh và doanh số, nhưng sự sụt giảm về lợi nhuận gần như chắc chắn sẽ xảy ra sau đó, theo báo cáo năm 2021 về tác động của ngôi sao Michelin đối với các nhà hàng ở Thành phố New York được công bố trên Tạp chí Quản lý Chiến lược, một ấn phẩm nghiên cứu. Đối với một số nơi, đây có thể là một đòn chí mạng, vì họ phải vật lộn để duy trì các chi phí mới như nguyên liệu chất lượng cao hơn, tiền thuê nhà tăng từ chủ nhà định giá lại tài sản của họ và nhân viên yêu cầu trả lương tương xứng với giá trị mới được nhận thức của họ, báo cáo cho biết.


Phó Tổng Thống J.D Vance đe dọa trừng phạt quân sự để thúc đẩy Putin chịu thỏa thuận với Ukraine

Phó Tổng thống JD Vance cho biết ông nghĩ rằng thỏa thuận đạt được từ các cuộc đàm phán nhằm chấm dứt chiến tranh ở Ukraine sẽ khiến mọi người bị sốc.
Phó Tổng thống JD Vance cho biết ông nghĩ rằng thỏa thuận đạt được từ các cuộc đàm phán nhằm chấm dứt chiến tranh ở Ukraine sẽ khiến mọi người sốc. Ảnh: leah millis/Reuters

PARIS—Phó Tổng thống JD Vance hôm thứ Năm cho biết Hoa Kỳ sẽ trừng phạt Moscow và có khả năng sẽ có hành động quân sự nếu Tổng thống Nga Vladimir Putin không đồng ý ký một thỏa thuận hòa bình với Ukraine nhằm đảm bảo nền độc lập lâu dài của Kyiv.

Vance cho biết phương án gửi quân đội Hoa Kỳ tới Ukraine nếu Moscow không đàm phán một cách thiện chí vẫn “được cân nhắc“, thể hiện giọng điệu cứng rắn hơn nhiều so với Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth , người hôm thứ Tư đã gợi ý rằng Hoa Kỳ sẽ không triển khai lực lượng.

Vance cho biết: “Có những công cụ kinh tế để gây ảnh hưởng, tất nhiên cũng có những công cụ quân sự để gây ảnh hưởng” mà Hoa Kỳ có thể sử dụng chống lại Putin. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ The Wall Street Journal vài giờ sau khi Tổng thống Trump tuyên bố sẽ bắt đầu đàm phán với Putin để chấm dứt chiến tranh ở Ukraine, Vance cho biết: “Tôi nghĩ rằng sẽ có một thỏa thuận được đưa ra sau cuộc gặp này khiến nhiều người bị sốc”.

Phát biểu của phó tổng thống, được đưa ra một ngày trước cuộc gặp với Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky , thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ nhất từ ​​trước đến nay của chính quyền Trump đối với Kyiv trước yêu cầu của Nga về việc giải giáp và thay thế chính phủ hiện tại.

“Tổng thống sẽ không tham gia vào việc này với sự mù quáng”, Vance nói. “Ông ấy sẽ nói, ‘Mọi thứ đều nằm trên bàn, chúng ta hãy thỏa thuận.'”

Về Ukraine, Vance cho biết vẫn còn quá sớm để nói rằng bao nhiêu phần lãnh thổ của đất nước này sẽ vẫn nằm trong tay Nga hoặc Hoa Kỳ và các đồng minh phương Tây khác có thể cung cấp cho Kyiv những đảm bảo an ninh nào. Ông cho biết những chi tiết đó sẽ cần được giải quyết trong các cuộc đàm phán hòa bình.

“Có rất nhiều cách diễn đạt, cấu hình, nhưng chúng tôi quan tâm đến việc Ukraine có được nền độc lập có chủ quyền,” ông nói.

Tổng Thống Trump đã cho biết rằng ông Putin muốn chấm dứt cuộc xung đột mà nhà lãnh đạo Nga đã phát động cách đây ba năm với nỗ lực xâm lược toàn diện khiến hàng trăm nghìn người thiệt mạng và phá hủy nhiều vùng đất của Ukraine. Lực lượng Nga kiểm soát gần 20% lãnh thổ của Ukraine.

Vance cho biết chính quyền Trump muốn thuyết phục Putin rằng Nga sẽ đạt được nhiều thành quả hơn trên bàn đàm phán so với trên chiến trường. Vance đề nghị thiết lập lại mối quan hệ với Nga sau một thỏa thuận thành công về Ukraine, nói rằng sự cô lập hiện tại của Moscow khỏi các thị trường phương Tây khiến nước này trở thành đối tác cấp dưới của Bắc Kinh. “Putin không có lợi khi trở thành em út trong liên minh với Trung Quốc”, Vance nói.

Các quan chức châu Âu đang nỗ lực để đảm bảo cuộc gặp song phương với Vance hy vọng rằng chuyến thăm cấp cao đầu tiên của chính quyền Trump sẽ khởi đầu một cấp độ hợp tác mới với Hoa Kỳ vào thời điểm toàn cầu đang hỗn loạn và sẽ đưa ra thông tin chi tiết về kế hoạch chấm dứt chiến tranh ở Ukraine.

Thay vào đó, Vance cho biết ông sẽ nói với các nhà lãnh đạo rằng châu Âu phải chấp nhận sự trỗi dậy của chính trị chống lại chính sách cũ, đó là ngăn chặn di cư hàng loạt và hạn chế các chính sách cấp tiến (tả phái). Ông cho biết ông sẽ kêu gọi khôi phục các giá trị truyền thống và chấm dứt tội phạm di cư.

“Nó thực sự là về kiểm soát tội phạm và về hạn chế di cư, về nỗi sợ hãi mà Tổng thống Trump và tôi đang ưu tư, rằng các nhà lãnh đạo châu Âu đang xem nhẹ ký chính người dân của họ”, Vance nói. Ông cho biết ông sẽ thúc giục các chính trị gia Đức làm việc với tất cả các đảng bao gồm cả đảng cực hữu và chống nhập cư Alternative for Germany.

Khi các nhà hoạch định chính sách bắt đầu đến Munich vào thứ năm, cảnh sát Đức cho biết một người di cư Afghanistan đã lái xe vào đám đông người biểu tình của công đoàn trong thành phố, làm hơn hai chục người bị thương.

Ông cho biết, việc giữ các đảng cực hữu vận động chống di cư ra khỏi các liên minh chính phủ đang hạn chế ý chí của người dân, những người đã nhiều lần yêu cầu kiểm soát biên giới chặt chẽ hơn. “Tôi nghĩ, thật không may, ý chí của cử tri đã bị nhiều người bạn châu Âu của chúng ta phớt lờ”, ông nói.

Vance cho biết tỷ phú Elon Musk không đại diện cho Trump. Nhưng ông cho biết ông đồng ý với Musk rằng các nước châu Âu cần ngừng tiếp nhận số lượng lớn người di cư từ Trung Đông, Châu Phi và những nơi khác. Ông cũng cho biết các nhà lãnh đạo châu Âu đã sai khi chỉ trích Musk vì đã lên tiếng.


HẠNH PHÚC CHO NGƯỜI HY SINH VÌ CHÚA – Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

(Suy niệm Tin mừng Luca (6, 20-26) Chúa nhật 6 thường niên C)

Sứ điệp: Chấp nhận hy sinh chịu nghèo, chịu khổ vì Chúa thì sẽ được hạnh phúc dư đầy.

“Bần cùng sinh đạo tặc.” Quả đúng như vậy, có một số người trở thành trộm cướp vì đời sống của họ quá bần cùng, như người ta thường nói: “Đói ăn vụng, túng làm liều.” Như thế thì bần cùng, đói khát là tai hoạ cho con người và xã hội chứ đâu có mang lại hạnh phúc.

Thế mà Chúa Giê-su lại nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chúa là của anh em.” Tại sao?

Nếu đọc kỹ câu đầu của bài Tin mừng này (Lc 6,20), chúng ta thấy thánh sử Lu-ca viết như sau: Bấy giờ, “Đức Giê-su ngước mắt lên nhìn các môn đệ và nói: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó…”

warren-buffett-1799-1427710539.jpgMặc dù là tỷ phú giầu nhất thế giới nhưng theo tinh thần Tin Mừng thì ông Warren Buffett  lại được kể là có tinh thần nghèo khó vì luôn ở nhà cũ và ăn ở tiệm bình dân Mc Donald. Toàn bộ tài sản dâng hiến cho người nghèo. Ông còn nói cái giá (trăm tỷ đô) đó để mua nước Trời là quá hời. Ông có tinh thần nghèo khó theo Tin Mừng.

Khi tuyên bố những lời này, Chúa Giê-su vừa ngước mắt nhìn các môn đệ vừa nói. Vậy thì đây là những lời Chúa Giê-su nói trực tiếp với các môn đệ. Các môn đệ là đối tượng của những lời chúc phúc này.

Tại sao các môn đệ có phúc vì nghèo?

Trước đây, trong số các môn đệ của Chúa Giê-su có người làm nghề chài lưới, có thuyền có ghe, có thu nhập hằng ngày ổn định, có người làm nghề thu thuế kiếm bộn bạc… Thế rồi, khi lên đường theo Chúa, các ngài đã bỏ hết thuyền bè, nhà cửa, công việc làm ăn… nên bây giờ các ngài trở thành những người nghèo khó… Nghèo khó vì từ bỏ mọi sự để đi loan báo Tin mừng như thế thì mới là người có phúc, chứ không phải bất cứ ai nghèo khó là có phúc.

Rồi Chúa Giê-su nói tiếp với các môn đệ:

“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no lòng.”

Hunger for God - Day 22 - Word Alive Ministries International

Đói khát ở đây nghĩa là khao khát, thèm mong.  Khao khát thèm mong những gì thiện lành, quý trọng, vì cuộc đời càng ngày càng thấy băng hoại hơn, chung quanh mình điều ác được cổ võ, điều thiện bị dèm pha, chế diễu.

Với nghề chài lưới trên biển hồ nhiều tôm cá hoặc nghề thu thuế như Lê-vi đã làm… các môn đệ chưa biết đói khát là gì. Vậy mà từ ngày theo Chúa Giê-su, lang bạt từ làng quê lên phố thị, từ bờ biển đến chốn hoang vu… các ngài phải chịu đói khát… Đói khát vì ra đi xây dựng Nước Trời như các môn đệ ắt sẽ được đền đáp và sẽ được thỏa chí toại lòng.

Và Chúa Giê-su tiếp lời với các môn đệ:

“Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải khóc vì anh em sẽ được vui cười.”

Trước đây các môn đệ sống hạnh phúc với cha mẹ, vợ con trong mái ấm gia đình, nay theo Chúa là Đấng không có chỗ tựa đầu, lang bạt rày đây mai đó, rồi sau nầy các ngài bị bắt bớ, tù đày, bị giết hại… khiến các ngài phải khóc thầm… Khóc vì chịu khổ nạn vì Nước Trời như thế thì thật là diễm phúc và mai đây sẽ được vui cười.

Và điều phúc thứ tư:

“Phúc cho anh em khi vì Con Người mà bị người ta oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa. Ngày đó, anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”

Các môn đệ luôn kề vai sát cánh với Chúa Giê-su, đồng lao cộng khổ với Chúa và vì Ngài mà bị người đời “oán ghét, khai trừ, sỉ vả và bị xoá tên như đồ xấu xa”, cùng chịu khổ nạn với Chúa Giê-su, thì chắc chắn sẽ được vui hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng. Chính vì thế mà Chúa Giê-su nói: “Anh em hãy vui mừng nhảy múa, vì này đây phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.”

 Lạy Chúa Giê-su,

Xin cho chúng con sẵn sàng chấp nhận “nghèo khó” vì thực hành luật yêu thương Chúa dạy, chịu “đói” vì chia sẻ cơm áo cho nhau, chịu buồn phiền “khóc lóc” vì đạo Chúa, chịu “oán ghét, khai trừ, sỉ vả” vì Nước Trời như các môn đệ năm xưa, nhờ đó, muôn vàn phúc lộc của Chúa sẽ được ban tặng cho chúng con. Amen.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

From: NguyenNThu