KHOA HỌC DẪN ĐẾN THIÊN CHÚA – Nguyễn Hy Vọng

KHOA HỌC DẪN ĐẾN THIÊN CHÚA – Nguyễn Hy Vọng

Tiến sĩ Phan Như Ngọc bị nhồi nhét thuyết vô thần từ lúc nhỏ và lớn lên trong lòng Xã Hội Chủ Nghĩa. Nhân một chuyến công tác ở nước ngoài, ông đã xin tị nạn và gia nhập Đạo Chúa. Ông viết: “Sức mạnh nào khiến cho hàng tỷ người trên thế giới, trong đó có hầu hết các nhà khoa học vĩ đại mà tôi từng ngưỡng mộ, tin Kinh thánh?”

“Tính muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên, tính di truyền kỳ diệu: hạt giống nào sinh cây trái đó, vẻ đẹp tuyệt vời của những nàng hoa, sự hài hòa và hoàn thiện của cơ thể con người, sự hùng vĩ của bầu trời sao; tất cả những cái đó, cộng với những ý kiến các vĩ nhân mà tôi hằng kính phục, chính là sự chứng minh tuyệt vời và làm cho tôi tin rằng phải có Đấng Sáng Tạo. Đó chính là Thượng Đế toàn năng, toàn tri, toàn trí và toàn tại.”

Bác học Pasteur: “Càng nghiên cứu khoa học, tôi càng tin vào Thượng Đế.” ; “Mỉa mai cho lòng dạ con người, nếu chết là hết hoặc chết là trở về với hư vô.”

Bác học Becquerel: “Nhờ nghiên cứu khoa học đã dẫn tôi đến Thượng Đế và tôi có đức tin.”

Bác học Isaac Newton, vì nhìn thấy sự kỳ diệu và trật tự của bầu trời tôi đã thốt lên: “Tôi thấy Thượng Đế qua viễn vọng kính” ; “Kinh Thánh có nhiều biểu hiện chắc chắn về tính có thực hơn bất cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó.”

Bác học Bourgeois: “Không có gì cản trở tinh thần khoa học hòa hợp với tín ngưỡng đã được suy nghĩ sáng suốt. Trái lại, khoa học càng được đào sâu, thì tôn giáo lại càng được tăng thêm sức mạnh và bàn tay uy quyền của Thiên Chúa, Đấng Tạo hóa, lại càng được sáng tỏ hơn.”

Bác học Duclaux: “Nếu sự sống đầu tiên xuất hiện trên mặt đất do tình cờ, nơi mà (vũ trụ này) mọi sự đều có luật, thì sự xuất hiện kia nó kỳ dị như hòn đá tự bò lên sườn núi.”

Bác học Albert Einstein: “Khoa học không tôn giáo là mù lòa, tôn giáo thiếu khoa học là qùe quặt.”; “Tôi chưa hề gặp điều gì trong Khoa học của tôi mà lại đi ngược với Tôn giáo.” ; “Sự ác là do vắng bóng Thượng Đế trong tâm hồn.”

Giáo sư Edwin Carlson, nhà Sinh vật học Trường Đại Học Princeton, Hoa Kỳ: “Sự sống phát xuất từ sự tình cờ, thì cũng giống như một quyển từ điển, xuất hiện do kết quả của một vụ nổ xẩy ra ở một nhà máy in.”

Giáo sư James Simpson, người phát minh ra phương pháp gây mê trong phẩu thuật, khi được hỏi về những phát minh của ông, đã trả lời: “Phát minh quan trọng nhất của đời tôi là tìm được Chúa Cứu Thế Giêsu.”

Bác học Edison, đã ghi vào sổ vàng khi ông đến viếng tháp Eiffel: “Edison hết sức khâm phục và ca ngợi tất cả kỹ sư, trong đó gồm cả Thiên Chúa.”

Giáo sĩ Moreux, giám đốc đài thiên văn Bourges: “Tôi liên lạc với các vị giám đốc thuộc hết mọi đài thiên văn trên thế giới, tất cả đều tin có Thiên Chúa.”

Charles Nicolle, người đoạt giải Nobel Y học, năm 1928: “May mắn thay trong tôn giáo có những bí nhiệm. Nếu không tôi sẽ hoài nghi nó, vì cho rằng tôn giáo là do trí loài người tạo ra. Bí nhiệm làm tôi vững tâm. Đó là dấu ấn của Thiên Chúa.”

Alexis Carrel, tiến sĩ y khoa, giáo sư đại học Lyon, đoạt giải Nobel 1912. Ông là một nhà vô thần, nhưng sau khi chứng kiến phép lạ nhãn tiền tại Lộ Đưc (Lourdes , France), Marie Ferrand, từ một cô gái sắp chết, trở nên lành mạnh tức khắc, ông nói: “Thật là một chuyện không thể có nhưng có thực. Quả là bất ngờ, một phép lạ mới xẩy ra.” Không dám tin ở mình. Alexis Carrel mời hai bác sĩ bạn đến chứng kiến và cả hai đều xác nhận cô đã hoàn toàn bình phục. Alexis Carrel đã trở nên tín hữu Thiên Chúa giáo, trước khi về Nhà Cha trên trời.

Bác học Chevreul (1786-1889): “Tôi không thấy Thiên Chúa vì Ngài thiêng liêng, nhưng tôi thấy công trình tạo dựng của Ngài”.

Bác học Diderot: “Chỉ cần con mắt và cái cánh của con bướm, cũng đủ diệt tan mọi lý lẽ của kẻ vô thần.”

Bác học John Eccles, người đoạt giải Nobel: “Tôi chấp nhận tất cả những lý thuyết khoa học, nhưng những lý thuyết này không giải thích một chút nào về sự kiện, làm thế nào, tôi, một sinh vật biết suy nghĩ, đang hiện hữu và có thể làm nhiều điều… Sự sáng tạo linh hồn là một hành động thiêng liêng là điều khoa học không thể phủ nhận được, nó hoàn toàn nằm ngoài phạm vi của khoa học”.

Ông nói thêm: “Niềm tin của những người chủ trương duy vật chất đang hao mòn; họ không dẫn chúng ta đến đâu cả. Thuyết ‘khoa học duy vật’ đưa con người đến tuyệt vọng, trống rỗng, vô giá trị. Giá trị thật là vấn đề tâm linh, tình yêu thương, can đảm, bác ái”.

D’Alembert: “Cái tính hão huyền không muốn nghĩ tường như mọi người, là lý do tạo nên kẻ vô thần hơn là chứng lý sáng tỏ.”

Bác sĩ riêng của Lenine, lúc 83 tuổi, ông xuất bản hai cuốn sách: “Sự bí mật và sự khôn ngoan của thân xác (1958); và “Mầu nhiệm của sự sống” (1960). Ông nói: “Môn sinh vật học và môn phân tích tâm lý, đã làm cho tôi trở nên một kẻ hữu thần.”

Wernher Von Braun (1917-1977) thám hiểm Mặt Trăng thành công năm 1967. Ông cùng 3 phi hành gia bạn cắm cờ Hoa kỳ và đặt ca vịnh trên cung trăng ngợi khen Đấng Tạo Hóa. Năm 1976 khi diễn thuyết tại Philadelphia , Bang Pennsylvania , Ông nói: “Sự bao la huy hoàng của vũ trụ đã làm cho đức tin vào Đấng Tạo Hóa của tôi tăng thêm. Khoa học và đạo không mâu thuẫn nhưng là chị em ruột. Khoa học tìm thấy sự huy hoàng của vạn vật, trong khi đạo thì tìm thấy Đấng Tạo Hóa đã dựng nên vạn vật tốt đẹp lạ lùng. Đạo không phải là di sản mà người đời sau hưởng thụ và bảo vệ. Nhưng đạo cũng như khoa học phải thăng tiến. Người tín hữu phải tìm hiểu đạo, và nhà khoa học phải khổ công nghiên cứu mới thành bác học.”

Bác học T. Termier: “Cứ chung mà nói, mọi khoa học đều dọn trí khôn ta nhận biết Thiên Chúa hiện hữu. Hơn mọi người khác, nhà bác học dù chuyên về khoa nào, bao giờ cũng dễ dàng nhận thấy mọi vật đều biến chuyển, bị tạo, hỗn hạp, khuyết điểm, có cùng đích và rất phức tạp. Do đó, hơn những người dốt nát, nhà khoa học dễ có ý hướng về một Đấng bất di bất dịch, tự hữu, cần thiết, hoàn toàn, và là Đấng duy nhất an bài mọi sự. Chính vì thế mà người ta bảo : khoa học dẫn đến Thiên Chúa; và cũng chính vì thế mà người ta có thể nói : vũ trụ vật lý là bí tích của Thiên Chúa.”

A. Eynieu đã công bố bản thống kê: trong số 432 nhà bác học thuộc thế kỷ 19; 34 vị không biết lập trường tôn giáo, còn 398 phân chia như sau: 15 vị dửng dưng, 16 vị vô thần, 367 vị tin; như vậy là 92% các nhà bác học tin có Thiên Chúa.

Bác sĩ Dennert, người Đức cũng tuyên bố kết qủa tìm tòi của ông để biết quan niệm tôn giáo của 300 nhà bác học, tìm hiểu trong những số lỗi lạc nhất thuộc 4 thế kỷ qua. “38 vị tôi không rõ các ông quan niệm thế nào, còn 262 vị, thì 20 vị dửng dưng, 242 ông tin. Tức cũng 92% tin có Thiên Chúa.”

Nhà bác học người Mỹ, có ý mỉa mai và đánh giá những kẻ chủ trương vô thần như sau:

– Trong con người có một số nước, đủ giặt một cái khăn bàn.
– Chứa chất sắt, ……………………….đủ làm 7 cái đinh đóng móng ngựa.
– Có một số chất vôi, …………………đủ quét một bức tường nhỏ.
– Đốt ra than, ………………………….có thể làm được 65 cây viết chì.
– Chất phốt phát, …………………….đủ làm được hộp diêm.
– Và chất muối, ………………………. độ hai muỗng nhỏ.


Bán những thứ đó được 95 xu, đó là giá trị của kẻ vô thần.

NGUYỄN HY VỌNG
(Báo Mai 13/03/2015)


 

CHẶNG THỨ 5: Ông Si-môn vác Thánh Giá đỡ Đức Giêsu- Cha Vương

Ước mong bạn cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong mỗi việc làm hôm nay.

Cha Vương

Thứ 6, 3MC: 28/03/2025

CHẶNG THỨ 5: Ông Si-môn vác Thánh Giá đỡ Đức Giêsu

TIN MỪNG: Lúc ấy, có một người từ miền quê lên, đi ngang qua đó, tên là Si-môn, gốc Ky-rê-nê. Ông là thân phụ hai ông A-lê-xan-đê và Ru-phô. Chúng bắt ông vác thập giá đỡ Đức Giê-su. (Mc 15:21)

SUY NIỆM: Ông Si-môn BỊ BẮT vác thập giá đỡ thập giá chứ không phải ông ta tình nguyện hay sẵn sàng, điều đó cũng chẳng có gì ngạc nhiên cả bởi vì ông chỉ là người đi ngang qua, có thể ông biết chút ít về Đức Giê-su thôi. Bạn mới chính là người biết Chúa đó, vì bạn đã được rửa tội, hằng ngày bạn được nghe Lời Chúa và rước Chúa vào trong lòng mình. Bạn được nghe Chúa dạy về sự cần thiết của việc “vác thập giá mình” (Mc 8:34) và việc “mang gánh nặng cho nhau” (Gl 6:2), đáng lẽ ra bạn mới là người sẵn sàng và tình nguyện chứ!

XÉT MÌNH: Có bao giờ bạn tỏ thái độ lạnh nhạt hay coi thường người khác, hoặc vô cảm trước những mệt mỏi, chán nản, yếu đuối, và đau khổ của người khác không? Với những người trong gia đình, bạn có đối xử tàn tệ, lạm dụng, đay nghiến với cha mẹ, người phối ngẫu, con cái và họ hàng không? Với con cái, bạn có tích cực cộng tác với chồng, vợ, hoặc người có trách nhiệm để chăm sóc những nhu cầu cần thiết cho chúng, không để chúng được học đạo hay lãnh nhận các Bí tích, thiếu sửa dạy chúng, làm gương xấu, dạy điều xấu hay xúi chúng làm việc xấu, hay không nhận chúng là con không? Mời bạn bỏ ra đôi phút, trong thinh lặng hãy tự xét mình và xin ơn hoán cải trong lối suy nghĩ, trong cách cảm nhận, và trong hành động của mình.

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, Chúa dạy con “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy.” (Mt 25:40), xin giúp con sửa đổi chính mình để con biết cảm thông, chia sẻ, hy sinh, và mang lấy gánh nặng cho nhau trong đời sống hằng ngày. Amen. 

From: Do Dzung

****************************

Chúa Đau Cùng Con (Lời Nguyện Trong Cơn Đại Dịch) | Sáng tác: Sr. Quỳnh Thoại – Minh Nguyệt

50 năm sau chiến tranh: Hà Nội vẫn nuôi thù cả những nấm mồ

Ba’o Nguoi-Viet

March 27, 2025

Bài: Najma Sambul / Khiết Văn lược dịch

Đã 50 năm kết thúc chiến tranh, nhưng Hà Nội vẫn giữ sự căm thù với cả binh sĩ tử trận của phía VNCH. Thật khó hiểu khi thân nhân của của những ngôi mộ tại nghĩa trang quân đội Biên Hòa 4 cải táng hoặc dựng lại mộ cũng gặp vô cùng vàng những điều khó khăn từ ABC News của Úc Châu mới đây đã có phóng sự về điều này, với bài viết mang tựa đề “Người dân miền Nam Việt Nam muốn tìm và chôn cất những tử sĩ trong chiến tranh. Tại sao lại khó khăn đến vậy?” (South Vietnamese want to find and bury their war dead. Why is it so hard?)

Ông Hùng Trần ngập ngừng khi kể lại một ký ức ám ảnh ông trong nhiều thập kỷ, giọng ông run lên vì tức giận và buồn bã.

“Tôi vẫn có thể nhìn thấy khuôn mặt của họ – những người đàn ông đã cùng tôi chiến đấu, những người không trở về nhà. Họ đã chiến đấu, họ đổ máu và họ đã hy sinh vì đất nước”, người đàn ông 73 tuổi, người đã chiến đấu cho phía Việt Nam Cộng Hòa trong Chiến tranh Việt Nam, cho biết.

Nửa thế kỷ sau khi chiến tranh kết thúc, ông Trần và những người khác như ông vẫn đang đấu tranh để tìm kiếm và chôn cất thi thể những người đồng đội đã hy sinh.

“Họ không có mộ. Không có tên. Giống như họ chưa từng tồn tại vậy”, ông nói.

Quỹ Người Mỹ gốc Việt và các thành viên, bao gồm cả Hùng Trần đã làm việc để hồi hương thi thể của những người lính Nam Việt Nam trong nhiều thập kỷ.

Ông Trần, người đã sống ở Úc 40 năm sau khi chạy trốn khỏi Việt Nam với tư cách là người tỵ nạn, cho biết Nghĩa trang Quân đội Quốc gia Biên Hòa bên ngoài Sài Gòn – nay gọi là Thành phố Hồ Chí Minh – đó là một “nơi linh thiêng” trước năm 1975 đối với người miền Nam.

“Nhưng sau khi cộng sản tiếp quản, họ đã phá hủy nó. Họ đập vỡ bia mộ, đào bới các ngôi mộ và trồng cây để phủ kín đất.

“Mục đích của họ rất rõ ràng: xóa tên chúng ta khỏi lịch sử “, ông Hùng Trần nói.

Ông Hùng Trần (bìa bên phải)

Nhà sử học người Úc Robert Hall, người đã hỗ trợ chính phủ Việt Nam tìm kiếm nơi chôn cất binh lính Bắc Việt và trả lại các hiện vật cá nhân thu được từ chiến trường, cho biết thời gian tìm kiếm hài cốt của quân đội Việt Nam Cộng Hòa đang cạn dần.

“Tình hình vô cùng tồi tệ ngay sau chiến tranh. Các nghĩa trang quân đội Nam Việt Nam đã bị chính quyền cố ý san phẳng”, ông nói.

Mặc dù thời gian đã giúp cho thái độ của Hà Nội dịu đi và đã có tiến triển, Tiến sĩ Hall cho biết “những yếu tố nhạy cảm gia tăng” khiến cho việc tìm kiếm hài cốt trở nên khó khăn hơn.

Đại sứ Việt Nam tại Úc, Phạm Hùng Tâm, cho biết Hà Nội đã cho phép người thân khôi phục và di dời các ngôi mộ của binh lính Việt Nam Cộng Hòa tại các nghĩa trang như Bình An – trước đây là Nghĩa trang Quân đội Quốc gia Biên Hòa – hiện là nghĩa trang dân sự.

“Hàng ngàn ngôi mộ như thế này đã được người thân trùng tu, nhiều ngôi mộ trong số đó đã được đổ xi măng”, ông Tam nói với ABC News.

Ông cho biết thêm rằng nghĩa trang đã tiến hành các nỗ lực dọn dẹp và tân trang, bao gồm cả việc dựng các bàn thờ bằng đá.

Về thách thức lớn hơn trong việc tìm kiếm hài cốt, ông Tâm cho biết: “Nhiệm vụ tìm kiếm hài cốt của những cá nhân này là rất lớn, đầy thách thức, tốn kém và mất thời gian.

“Thậm chí hàng ngàn liệt sĩ yêu nước (Bắc Việt) của chúng tôi vẫn còn mất tích.”

(Ảnh: VAF)

Thách thức trong việc tìm kiếm những người lính Nam Việt Nam

Theo Trung tâm Phi tiêu của Đại học Columbia, sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc vào năm 1975, ước tính có khoảng 165.000 binh lính đã được đưa đến các “trại cải tạo” ở Bắc Việt Nam, thực chất đó là những trại tù không án, và không thời gian trả tự do cụ thể.

Ông Hùng Trần, một người sống sót từ một trong những trại tập trung như vậy, mô tả đây là “nơi tra tấn” đối với những người chiến hữu Việt Nam Cộng Hòa của ông.

“Nhiều người chết vì đói, tra tấn hoặc bệnh tật. Họ được chôn cất trong những khu rừng và ngọn núi xa xôi, ngôi mộ của họ không có bia mộ”, ông nói.

“Gia đình họ không có cách nào tìm thấy họ, chứ đừng nói đến việc đưa họ về nhà. ”

Tiến sĩ Hall, một cựu chiến binh người Úc và là giảng viên danh dự tại UNSW Canberra, giải thích rằng việc tìm kiếm hài cốt của những người lính đã hy sinh sau Chiến tranh Việt Nam đặc biệt khó khăn.

“Đối với những người lính Việt Cộng, thi thể của họ thường vẫn nằm lại trên chiến trường”, ông nói.

“Họ không có báo cáo chi tiết hoặc địa điểm chôn cất chính xác như chúng tôi. Trong nhiều trường hợp, họ sẽ báo cáo về các vụ chôn cất một cách mơ hồ — như một đồn điền cao su hoặc một quận rộng hàng ngàn mét vuông.”

Các tổ chức như Quỹ Người Mỹ gốc Việt hơn 50 năm vẫn tiếp tục vận động trả lại hài cốt của những người lính Việt Nam Cọng Hòa cho gia đình họ.

Đến nay đã tìm thấy 504 hài cốt, và còn rất nhiều hài cốt khác đang chờ nhận dạng và trao trả.

Tổ chức này đã khai quật nghĩa trang trại cải tạo Láng Đá ở tỉnh Yên Bái vào năm 2010 và thu thập được 12 bộ xương, trong đó có 11 bộ xương có chứa DNA còn sống.

Một bộ xương người được đặt trước bức ảnh của một người lính Việt Nam Cộng Hòa sau khi khai quật thành công ở Việt Nam (Ảnh: VAF)

Hài cốt của một người lính Nam Việt Nam được tìm thấy vào năm 2006 trong khuôn khổ nỗ lực của Quỹ người Mỹ gốc Việt và một nhóm chuyên gia bao gồm một nhà khảo cổ học. ( Cung cấp: Quỹ người Mỹ gốc Việt – VAF )

Nhà khảo cổ học Julie Martin sau đó đã viết trên một tạp chí học thuật rằng một nhóm đã khai quật bộ xương và phát hiện ra những vật dụng cá nhân như bát gốm và bàn chải đánh răng trong nhiều ngày bất chấp điều kiện đất đai và khí hậu khắc nghiệt.

Nhưng ông Hùng Trần cho biết những nỗ lực vận động của Quỹ người Mỹ gốc Việt với chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam thường chậm chạp và gặp nhiều khó khăn.

Quỹ này đã đề xuất xây dựng lại Nghĩa trang Quân đội Quốc gia Biên Hòa, nhưng vẫn chưa có hồi đáp từ chính quyền CSVN.

“Chúng tôi không muốn bất kỳ sự phô trương hay chính trị nào, chỉ cần một nơi an nghỉ trang nghiêm,” Ông Hùng Trần cho biết.

Hai người đang dùng xẻng đào đất khô trong khi nhiều người khác đang nhìn theo.

Quỹ Người Mỹ gốc Việt đã thu hồi được 504 hài cốt của những cựu chiến binh Nam Việt Nam sau nhiều thập kỷ làm việc. ( Nguồn: Quỹ Người Mỹ gốc Việt )

‘Hà Nội muốn xóa bỏ chúng tôi’

Hàng năm, các cựu chiến binh Hoa Kỳ và Úc trở lại Việt Nam để tưởng niệm những người đã khuất.

Cựu chiến binh Úc trong Chiến tranh Việt Nam giúp tìm thấy những người lính đã bị chôn vùi từ lâu. Họ thậm chí còn tham gia vào các sự kiện kỷ niệm Trận Long Tân.

Đối với ông Hùng Trần, điều đó làm tăng thêm nỗi đau khi nhìn thấy mà không thể giúp những người đồng đội của mình được yên nghỉ.

“Làm sao những người cộng sản Việt Nam có thể tuyên bố hòa giải với kẻ thù cũ trong khi lại đối xử với chúng tôi – những người có cùng ngôn ngữ, màu da và lịch sử – như kẻ thù?

“Đây là sự tàn ác mà không ai ngoài người Việt Nam có thể thực sự hiểu được”, ông nói.

Nhưng ông Tâm của Đại sứ quán Việt Nam cho biết những người Việt ở nước ngoài, bao gồm cả những thành viên cấp cao của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đã được chào đón trở về nước như một phần của nỗ lực hòa giải.

“Chính phủ Việt Nam luôn coi người Việt ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam”, ông nói.

(Ảnh: VAF)

Mặc dù các cựu chiến binh Úc có thể tưởng niệm những người đã ngã xuống ở Việt Nam, nhiều binh lính Việt Nam Cộng Hòa nói họ không bao giờ có được cơ hội như vậy.

Ông Hùng Trần cho biết việc tìm kiếm những người lính Nam Việt Nam mất tích vẫn là cuộc chiến lớn nhất mà ông từng chiến đấu.

“Chúng tôi không còn chính phủ nào đại diện cho chúng tôi nữa. Chúng tôi giống như cát bụi – mọi người đều muốn cuốn chúng tôi đi”, ông nói.

“Nhưng chúng tôi sẽ không ngừng chiến đấu. Những người chiến binh VNCH đó đã hy sinh mạng sống của mình vì điều họ tin tưởng. Họ xứng đáng được ghi nhớ.”


 

Sức mạnh của sự tha thứ –  TRẦM THIÊN THU

 TRẦM THIÊN THU

Một trong các khía cạnh tuyệt vời nhất của sự tha thứ là hệ quả tẩy rửa và cao quý, tạo nên tính cách của người tha thứ. Rõ ràng, người ta không chịu tha thứ vì chưa hiểu giá trị cao quý của lòng tha thứ. Người ta ít khi đạt tới đỉnh cao của sức mạnh và sự cao thượng nên khó loại bỏ cơn oán giận, khó tha thứ sai lầm của người khác. 

Chắc chắn sự trả thù không thể chấp nhận khi giải quyết xung khắc. Trong Bài Giảng Trên Núi, Chúa Giêsu đưa ra phương pháp tốt nhất mà không cần phải trả thù: “Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5:7). 

Thánh Phaolô cũng khuyên: “Hãy chúc lành cho những người bắt bớ anh em, chúc lành chứ đừng nguyền rủa: vui với người vui, khóc với người khóc. Hãy đồng tâm nhất trí với nhau, đừng tự cao tự đại, nhưng ham thích những gì hèn mọn. Anh em đừng cho mình là khôn ngoan, đừng lấy ác báo ác, hãy chú tâm vào những điều mọi người cho là tốt. Hãy làm tất cả những gì anh em có thể làm được, để sống hoà thuận với mọi người. Anh em thân mến, đừng tự mình báo oán, nhưng hãy để cho cơn thịnh nộ của Thiên Chúa làm việc đó, vì có lời chép: Đức Chúa phán: Chính Ta sẽ báo oán, chính Ta sẽ đáp trả. Trái lại, kẻ thù ngươi có đói, hãy cho nó ăn; có khát, hãy cho nó uống; làm như vậy, ngươi sẽ chất than hồng lên đầu nó. Đừng để cho sự ác thắng được mình, nhưng hãy lấy thiện mà thắng ác” (Rm 12:14-21). Thế nhưng nhiều người lại cho rằng đời sống thực tế phức tạp hơn nhiều, khó có thể yêu thương và tha thứ cho mọi người. 

Tuy nhiên, hãy cân nhắc các vụ khủng bố thường xuyên xảy ra và giết người bừa bãi ngày nay, đó là hậu quả của các cuộc xung đột giữa các quốc gia, sự tha thứ là khí cụ rất cần thiết để chữa lành các vết thương của thế giới đầy những thứ rắc rối này. Tha thứ là thách đố lớn vì hòa bình thế giới, tha thứ là điều cấp bách và không thể coi thường. Xã hội luôn cần có hòa bình và tha thứ. Các gia đình, các giáo xứ, các cộng đoàn tu trì, các hội đoàn, các nhóm, các tổ chức, các quốc gia, và cả cộng đồng quốc tế luôn rất cần sự tha thứ để phục hồi các hệ lụy đã bị rạn nứt hoặc bị tách rời

 Cựu Ước giới thiệu Thiên Chúa là Đấng “có lòng thương xót và hay tha thứ” (Đn 9:9). Đức Chúa là Thiên Chúa của ân sủng, thương xót không ngừng, và sẵn sàng tha thứ, mặc dù chúng ta “cứng đầu cứng cổ không vâng lệnh Chúa truyền, giả điếc làm ngơ, cũng chẳng thèm ghi nhớ những kỳ công Chúa làm” (Nkm 9:16). Trong Tân Ước, lòng tha thứ được thể hiện bởi Thánh Stêphanô và Thánh Phaolô, nhưng đỉnh cao và kiểu mẫu của sự tha thứ được diễn tả nơi Đức Giêsu Kitô. Trái tim tha thứ là biểu tượng của sự vĩ đại. Chúng ta có mẫu gương về sự chịu đựng, sự tử tế, lòng bác ái và lòng tha thứ mà Thiên Chúa đã tạo ra hoàn hảo nơi Chúa Giêsu, và chúng ta phải nỗ lực noi gương. 

Chúa Giêsu bị hành hạ, bị sỉ nhục, bị đội vòng gai, bị mỉa mai,… Nhưng Ngài vẫn chịu đựng mọi nhục hình mà con người áp đặt. Khi bị treo trên Thập Giá, Ngài đã nhìn những người lính Rôma bằng ánh mắt nhân từ và bênh vực họ trước mặt Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23:34).

 Chúa Giêsu đã tha thứ cho chúng ta đến giọt máu cuối cùng, vô điều kiện, thế thì chúng ta không thể không thương xót và không tha thứ cho nhau!

 TRẦM THIÊN THU

 (Viết theo DivineMercy.org)

From: NguyenNThu

Sống và yêu –  Trầm Thiên Thu

 Trầm Thiên Thu

 Chị Brittany Maynard, 29 tuổi, được chẩn đoán có khối u ác tính trong não ở giai đoạn 4 từ hồi tháng 4-2014, và bác sĩ nói chị chỉ còn sống thêm trong vòng 6 tháng.

 Ngày 1-11-2014, chị sẽ kết thúc cuộc đời với sự trợ tử của bác sĩ bằng phương pháp “an tử” (làm cho chết êm ái). Chị cho biết rằng chị không muốn chị và gia đình chịu nỗi đau khổ vì chứng ung thư não của chị. Chắc chắn đây là tình cảm tốt đẹp khi người ta không muốn những người thân chịu đau khổ, nhưng đó không phải là cách yêu thương! 

Các phương tiện truyền thông hết lời ca tụng quyết định của Brittany là can đảm. Thật mắc cười khi các phương tiện truyền thông khen chị dám chết vì không muốn gia đình đau khổ, và kêu gọi những người khác hủy hoại sự sống mà không cần bác sĩ trợ tử. Nhưng các phương tiện truyền thông ca tụng một phụ nữ trẻ mới kết hôn mà lại muốn chết chứ không muốn sống. Các phương tiện truyền thông ca tụng sự chết, dù đó là phá thai, an tử, hoặc trợ tử, họ gọi đó là sự chọn lựa, sự tự do, hoặc sự can đảm. Tuy nhiên, Thiên Chúa cấm chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể là gánh nặng cho người khác vì sức khỏe giảm sút hoặc cần được chăm sóc về y tế.

 Sợ hãi là động lực có thật: Sợ những gì ở phía trước, sợ đau khổ, sợ không thể kiềm chế,… Các phương tiện truyền thông và xã hội muốn chúng ta sống trong nỗi lo sợ vì nỗi lo sợ khiến chúng ta phải kiểm soát. Nỗi lo sợ biến chúng ta thành nô lệ dưới chiêu bài của sự tự do, sự can đảm, và sự tự tha thứ cho mình. Nỗi lo sợ xoay chúng ta hướng vào bên trong (tự hướng nội) và làm cho chúng ta tin rằng mình đáng bị thu nhỏ lại.

 Chân phước Chiara Luce Badano đã không sống trong nỗi lo sợ mặc dù Chị chịu đau khổ và chết vì chứng ung thư xương rất đau nhức khi còn ở độ tuổi thiếu niên. Thay vì đầu hàng nỗi đau đớn thể lý, Chị đã chịu đựng đau khổ và nhìn cha mẹ thấy Chị chống chọi với bệnh tật. Chị dùng đau khổ để thánh hóa chính mình và những người khác. Chị dùng đau khổ làm phương tiện để hy vọng.

 Ngược lại, chị Brittany Maynard lại dùng đau khổ làm phương tiện để tuyệt vọng! Buồn biết bao khi Brittany cho phép bóng tối làm tiêu tan chính mình. Chân phước Chiara được một người bạn đặt cho biệt danh Luce khi Chị gia nhập phong trào Focolare, vì Chị là ánh sáng cho người khác. Chị như ánh đuốc soi sáng trong bóng đêm của cuộc sống này để đi tới Chúa Giêsu và sự sống đời đời.

 Các phương tiện truyền thông chẳng bao giờ ca tụng những loại ánh sáng này của con người. Bạn sẽ không bao giờ nghe nói về những con người thầm lặng chịu đau khổ trên đời này, hoặc thời gian kỳ diệu mà họ cố gắng sống tốt, và hôm nay họ vẫn sống vô thường dù ngày mai họ sẽ chết, họ sống như thể là bất tử. Những con người này là những ánh đuốc sáng thực sự trong thế giới này, họ đối diện với bóng tối và tuyên bố: “Mi cứ làm điều tồi tệ nhất! Tôi sẽ không bị hủy diệt”. Những người này sống trọn vẹn tình yêu thương, hoàn toàn biết từ bỏ mình, ngay cả khi họ phải đối diện với tử thần, họ không bao giờ chịu thua sự cám dỗ của nỗi thất vọng, vì họ biết rằng SỰ SỐNG và TÌNH YÊU đáng tận hưởng. Dù sao thì cuộc đời cũng vẫn đáng sống, không đáng chấm dứt.

 Bạn sẽ chẳng bao giờ nghe nói về những con người như Ginnie Levin. Chị được chẩn đoán bị ung thư vú, mặc dù cắt cả hai vú và các khối u, chứng ung thư vẫn di căn tới nhiều bộ phận khác trên cơ thể. Chỉ còn ít thời gian ngắn ngủi trên thế gian này, chị muốn dành tất cả cho gia đình. Người bà và người mẹ của chị đã chết vì ung thư, người cha của chị cũng đang phải điều trị ung thư. Ginnie muốn tới thế giới của Walt Disney với gia đình một lần nữa, tạo ký ức vui mừng một lần cuối. Xin mọi người hãy cầu nguyện nhiều cho chị Gennie Levin!

 Trong một thế giới ca tụng việc hủy hoại sự sống, chúng ta hãy ca tụng Sự sống. Hãy tạo sự khác biệt trong cách sống của chúng ta hôm nay!

 Thánh nữ Teresa Margaret Thánh Tâm Chúa (Dòng Kín Chân Đất, 1747-1770) nói: “Không có gì phải than phiền, tôi sẽ chịu đựng mọi thứ vì yêu mến Chúa, tôi không có gì phải lo sợ”. Chân phước Chiara Luce được an táng với chiếc áo cưới vì Chị sẽ đi gặp Đức Lang Quân là Chúa Giêsu trong cõi trường sinh. Chết lúc mới 19 tuổi vì bệnh trầm kha, nhưng chân phước Chiara Luce vẫn khả dĩ nói: “Tôi không còn lại gì, nhưng tôi vẫn còn trái tim, và tôi có thể yêu thương bằng trái tim đó”.

 Chị Chiara Luce Badano sinh ngày 29-10-1971 tại ngôi làng nhỏ Sassello ở Ý quốc, qua đời ngày 7-10-1990 sau một năm đau đớn vì chứng ung thư xương. Chị được Giáo hội tôn phong chân phước ngày 25-9-2010.

 TRẦM THIÊN THU 

(Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

From: NguyenNThu

CHẶNG THỨ 4: Đức Chúa Giêsu gặp Đức Mẹ – Cha Vương

Chúc bạn ngày thứ 5 Mùa Chay được nhiều phúc lành và ân sủng của Chúa, Mời bạn tiếp tục đồng hành vời Chúa Giêsu qua việc suy niệm chặng thứ 4 của Đàng Thánh Giá hôm nay nhé.

Cha Vương

Thư 5, 3MC: 27/03/2025

CHẶNG THỨ 4: Đức Chúa Giêsu gặp Đức Mẹ

TIN MỪNG: Một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn Bà, để những tâm tư của nhiều người được tỏ lộ”. (Lc 2:35)

SUY NIỆM: Vì tội lỗi của nhân loại mà Chúa có thể làm tất cả! Vì Con mà Mẹ cũng có thể làm tất cả! Luật tự nhiên, không có cha mẹ nào chuẩn bị cho cái chết của con mình. Riêng đối với người mẹ thì chẳng nỗi mất mát nào lớn cho bằng mất đi đứa con yêu quý của mình, thế mà Mẹ Maria vẫn một lòng một dạ “xin vâng” nhìn con mình bị đối xử như kẻ gian ác và bị đưa đến nơi hành hình. Thật là một nỗi đau xé lòng!

XÉT MÌNH: Có bao giờ bạn thờ ơ lạnh nhạt với cha mẹ mình không? Trong đời sống gia đình, bạn có chu toàn bổn phận mà Thiên Chúa giao phó cho bậc làm cha mẹ: nuôi dưỡng và giáo dục con cái, đồng thời dạy cho chúng nên người Công Giáo, biết sống đạo tử tế và yêu thương tha nhân không? Mời bạn bỏ ra đôi phút, trong thinh lặng hãy tự xét mình và xin ơn hoán cải trong lối suy nghĩ, trong cách cảm nhận, và trong hành động của mình.

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, trên đường thương khó Chúa bị cô đơn và bị bao nhiêu người bỏ rơi nhưng Mẹ của Chúa vẫn đứng đó để đồng cảm và đồng hành. Xin cho con biết nâng đỡ và an ủi các cha mẹ đang bị bỏ rơi vì tuổi già hoặc đang đau khổ vì con cái, và xin cho con biết chu toàn bổn phận làm cha mẹ, làm con để mang lại hạnh phúc cho gia đình và thế hệ mai sau. 

From: Do Dzung

**************************

MẸ ĐỨNG ĐÓ | LM KIM LONG | PHƯƠNG KÁT ft CHIRON TUẤN

Phụ nữ Philippines có thẻ xanh ở Mỹ 50 năm, vẫn bị ICE bắt

Ba’o Nguoi-Viet

March 27, 2025 ebo

SEATTLE, Washington (NV) – Gia đình một kỹ thuật viên phòng thí nghiệm tại đại học University of Washington lên tiếng sau khi bị Cơ Quan Thực Thi Di Trú và Quan Thuế ICE bắt giữ gần đây dù có thẻ xanh.

Lewelyn Dixon, 64 tuổi, thường trú nhân hợp pháp tại Hoa Kỳ trong 50 năm, bị bắt giữ tại phi trường ở Seattle và bị ICE tống giam sau khi viếng thăm quê hương Philippines vào cuối Tháng Hai. Phiên điều trần liên quan tới vụ bắt giữ được ấn định vào Tháng Bảy, nhưng thân nhân đang kêu gọi trả tự do cho Dixon và nói với NBC News rằng bà luôn luôn gắn kết những người trong gia đình lại với nhau.

ICE chưa lập tức trả lời yêu cầu bình luận từ NBC News.

Lewelyn Dixon. (Hình do Melania Madriaga cung cấp)

Lani Madriaga, cháu gái của Dixon cho biết bà đang bị giam tại Trung Tâm Di Trú ICE Khu Vực Tây Bắc ở Tacoma, Washington, tại đó bà kết giao với những người cũng đang bị giam giữ, đồng thời phiên dịch và giúp đỡ họ nói chuyện với luật sư trước khi diễn ra phiên điều trần.

Luật sư đại diện Dixon, Benjamin Osorio, cho biết dường như Cơ Quan Biên Phòng Hoa Kỳ USBP phát giác ra một bản án kết tội bà biển thủ công quỹ từ nhiều thập niên trước trong hồ sơ khi bà quay về Hoa Kỳ, dẫn tới hành động bắt giữ. Dixon từng nhận tội thực hiện hành vi phi bạo lực năm 2000, nhận lệnh bồi thường và phải bị tạm giam 30 ngày, hồ sơ tòa án cho thấy. Dixon hoàn tất bồi thường năm 2019.

Dixon từng làm việc với tư cách thủ quỹ kiêm giám sát hoạt động tại nhà băng Washington Mutual Bank, lúc đó bà “rút tiền mặt từ ngân khố trong tám lần riêng biệt” mà không được nhà băng cho phép, theo thỏa thuận nhận tội của Dixon. Bà rút tổng cộng $6,460.

Dixon chưa từng kể với gia đình về bản án, Madriaga cho biết, và nói rằng đó là “góc khuất u ám nhất” của Dixon.

Và dầu cho Dixon có đủ điều kiện nhập quốc tịch Hoa Kỳ từ lâu, Osorio cho biết, nhưng bà đã hứa với cha mình rằng bà sẽ giữ nguyên quốc tịch Philippines để có thể giữ gìn tài sản và đất đai ở Philippines.

Dixon tới Hoa Kỳ năm bà 14 tuổi, lập tức giúp Madriaga và anh chị em ổn định cuộc sống nơi xứ lạ quê người sau khi di cư.

Nhưng khi một người chị em của Madriaga ly hôn và thành một người mẹ đơn thân, Dixon dời qua Washington để phụ giúp săn sóc các cháu và phụ trả tiền mướn nhà. Nhiều năm sau đó, Madriaga cũng ly hôn và cho biết Dixon cũng tiếp tục chung sống để giúp đỡ các cháu.

Trong công việc, Dixon là một nhân viên tận tụy trong phòng thí nghiệm, Madriaga cho biết. Thậm chí ngay trong đêm xuống phi trường, Dixon cũng có lịch làm việc, Madriaga nói thêm. Dixon ngấp nghé dịp kỷ niệm 10 năm phục vụ phòng thí nghiệm, trong thời gian đó bà sẽ được hưởng lương hưu. Thân nhân gia đình đang lo lắng rằng Dixon sẽ mất cả công việc lẫn lương hưu sau khi vắng mặt quá lâu.

Susan Gregg, phát ngôn viên Bệnh Viện University of Washington, không giải thích thêm về trường hợp của Dixon, nhưng cho biết bà làm việc với tư cách kỹ thuật viên xét nghiệm tại bệnh viện này từ 2015.

Madriaga cho biết gia đình bà đang lên tiếng thay cho Dixon và cũng mong mỏi giúp đỡ những người khác tự bảo vệ khỏi tình cảnh tương tự. (TTHN)


 

Dịu dàng đến kì lạ

 Thao Teres

Thật đúng những con người thuộc trọn về Chúa, không ngại hôi, không ngại bẩn, không sợ lây nhiễm, chăm sóc người bệnh với cả trí óc và con tim. Cũng chỉ vì một điều: họ thấy Chúa nơi những con người đó.

(Mái ấm Thiên Ân (Hoàng Mai, Nghệ An) nơi cưu mang gần 30 em bại não, tâm thần, tự kỷ, thiểu năng trí tuệ. Các em không tự chủ được hoạt động nên các sơ hầu như phải lo mọi thứ: thay quần áo, vệ sinh, cho ăn. Các sơ cũng làm nhiều công việc để có kinh phí trang trải hàng tháng. Nhiều khi các em lên cơn đập phá đồ đạc, ném chất bẩn khắp nhà, nhưng các sơ vẫn âm thầm dọn dẹp không một lời trách móc.)

Make Christianity Great As Always

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Gia tài của đảng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

26/03/2025

Tôi tình cờ vừa được biết thêm (chút xíu) về sinh hoạt của giới thanh niên/sinh viên hiện nay, qua trang mạng của HaNoi University of Industry :

“Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội đã tổ chức tham quan, dâng hương tại các ‘địa chỉ đỏ’ – địa danh lịch sử cách mạng tại dải đất miền Trung …  Đây là hoạt động vô cùng ý nghĩa của Đại học Công nghiệp Hà Nội trong những ngày tháng tư lịch sử.

Đến với các ‘địa chỉ đỏ’ trong những ngày này, các thế hệ cán bộ, viên chức được trở về với lịch sử hào hùng của dân tộc, cảm nhận sâu sắc hơn sự hy sinh anh dũng, lòng yêu nước và ý chí cách mạng của các thế hệ đi trước.”

Ngay tại Sài Gòn, “những địa chỉ đỏ” cũng đâu có ít. Báo Thanh Niên cho biết :

Bên phải góc đường Hai Bà Trưng – Lý Chính Thắng (TP.HCM) có một “địa chỉ đỏ” của chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Đó là quán phở Bình nổi tiếng của vợ chồng ông Ngô Toại (Ngô Duy Ái).

 Vì có vị trí chiến lược nên ngôi nhà số 7 Yên Đỗ (Lý Chính Thắng hiện nay) từ năm 1967 đã được chủ nhân cho cách mạng sử dụng làm cơ sở bí mật của Sở Chỉ huy tiền phương phân khu 6, tập kết các chiến sĩ biệt động để trực tiếp tham gia chiến đấu…

Ông Ngô Văn Lập, con trai ông Ngô Toại, nhớ lại: “Khi đó tôi mới 12 tuổi. Từ 20 tháng chạp năm 1968, mỗi khi có ai đến ăn phở đáp đúng mật khẩu theo quy định là tôi đưa họ lên tầng 2 cho các chú cấp cao …

Ngày 16.11.1998, ngôi nhà số 7 Lý Chính Thắng (quán phở Bình) được Bộ Văn hóa trao bằng xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia, trở thành niềm vinh dự cho gia đình ông Ngô Toại…Mang mấy tập hồ sơ dày cộp ra bàn, ông Ngô Văn Lập đưa chúng tôi xem bằng khoán điền thổ, trong tờ lược giải ngày 4.8.1967 có ghi rõ việc sang nhượng của chủ cũ cho ông bà Ngô Toại – Trần Thị Mỵ với giá tiền tương đương 3.600 lượng vàng.

Sau này, cả ba anh em tôi đều đi bộ đội, tham gia chiến trường Campuchia. Giải ngũ, tụi tôi về tiếp quản tiệm phở Bình buôn bán cho đến giờ kiếm sống mà không được hưởng chế độ gì. Bao năm qua vất vả, ba hộ gia đình chúng tôi gồm 16 người sinh sống trong khuôn viên quá chật hẹp do dành hết 1 tầng làm khu trưng bày di tích, phải cải tạo bếp ăn cũ ngày xưa để làm nơi trú ngụ.

Tôi bị bệnh nan y không có tiền chạy chữa, mà nhà cửa là di tích quốc gia nên không làm giấy tờ sở hữu hợp pháp để cầm cố ngân hàng vay mượn được. Mỗi khi tôi mang hồ sơ lên phường xin hợp thức hóa đều bị bác vì lý do “nhà đã xếp hạng di tích”, ông Lập bức xúc.

Ông Lập, tất nhiên, không phải là người đầu tiên hay duy nhất “bức xúc” như vậy. Quanh ông thiếu gì những kẻ đồng cảnh ngộ. Cách Phở Bình không xa là một “địa chỉ đỏ” khác – quán Thanh Bò Tơ, của Mẹ Việt Nam Anh Hùng Đỗ Thị Bê, ở  Hóc Môn – cũng đang lâm vào trường hợp oái oăm tương tự.

Quán vắng tanh. Hình chụp ghế úp vào bàn (chắc cho đỡ bụi) nhưng vì đây là “di tích quốc gia” nên không sang nhượng được. Trước tình trạng sống dở (chết dở) của chủ nhân, nhà báo Uyên Vũ góp ý :

“Ông Lập cứ xé quách cái quyết định di tích lịch sử đi, đồng thời đập bỏ cái bảng hiệu có ngôi sao vàng to tổ bố chẳng giống ai, rồi cho thuê mặt tiền để người khác kinh doanh những thứ bổ ích và sinh lợi. Chắc chắn ông sẽ có tiền chữa bệnh, có tiền thuê một chỗ khác sống cho thoải mái cuộc đời. Giữ mãi cái vòng kim cô làm gì!”

Rồi ra – có lẽ – cũng sẽ đến lúc chủ nhân của những cái địa chỉ đỏ trên toàn quốc buộc phải hành xử thế thôi (“đập bỏ cái bảng hiệu có ngôi sao vàng to tổ bố chẳng giống ai đi” – mẹ nó, sợ gì?) chứ cứ dính mãi với gia tài của Đảng thì chắc chết, chết chắc.

Tôi hoàn toàn đồng ý với đề nghị thượng dẫn nhưng vẫn còn rất băn khoăn về tình cảnh (thê thảm và bi đát hơn nhiều) của vô số những nạn nhân khác, nhất là phụ nữ. Tuy không có bất động sản bị in dấu (sao vàng) nhưng xác thân của chính họ thì đã mang đủ thứ thương tật về thể lý, cũng như tâm lý, không thể xóa nhòa.

Xin nghe qua mẩu chuyện nhỏ sau, về một cựu thanh niên xung phong – quê ở Nga Sơn, Thanh Hoá – đã từng “tình nguyện” phục vụ tại đường mòn Hồ Chí Minh :

Mỏi chân, chúng tôi rẽ vào một khu biệt thự kín cồng cao tường, vườn cây um tùm rồi ngồi xuống một chiếc ghế dài granito trông sang một vườn hoa nho nhỏ. Mất điện, tiếng máy nổ ầm ì ở trong mỗi biệt thự.

Như có trời xui, cách chúng tôi hai ba mét một phụ nữ ve chai ngồi tựa vào hông chiếc ghế dài trống không. Tôi bảo ngồi lên ghế thì lắc: “Cháu không quen ngồi vào thứ sang”. Cụ bạn bèn đến bên:

  • Bây giờ được ở trong các nhà thế này cô có quen không?
  • Không ạ!
  • Cô thấy nó đẹp không?
  • Đẹp… Nhưng cháu chỉ muốn Mỹ nó lại thả bom cho tan hết…

Chúng tôi trố mắt. Không ngờ tới câu trả lời dứt khoát, đanh thép này chút nào.

Người phụ nữ nói tiếp:“Thế hồi đánh nhau đâu có như thế này? Chả là đều nghèo như nhau cả thôi. Bây giờ đấy, đứa ăn chẳng có mà đứa thì sướng quá vua. Biết trước là ra một trời một vực thế này thì chả đi hy sinh làm gì.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).

François Guillemot còn viết cả một thiên tiểu luận (Trực Diện Với Cái Chết Và Nỗi Đau: Vấn Đề Thanh Niên Xung Phong Trong Chiến Tranh Việt Nam (1950-1975) về “hàng vạn thân thể phụ nữ bị hủy hoại, tàn phai, tật nguyền, và chao đảo mãi mãi.” Công trình nghiên cứu này đã được Phương Hoà chuyển ngữ, và đăng thành nhiều kỳ trên diễn đàn talawas (*).

Chúng tôi xin phép ghi lại đôi câu để rộng đường dư luận, cùng với ước mong cũng được xem đây như một lời tri ân để gửi đến tác giả và dịch giả:

“Họ là những người đi trước mà về sau. Trước những trận đánh, họ luôn luôn đi trước để mở đường, xây dựng chiến tuyến, rồi trực tiếp tham gia chiến đấu, cuối cùng, họ lại chính là những người về sau thu dọn chiến trường, tải thương, chôn cất liệt sĩ.”

“Đối với những cựu TNXP tuổi đời chỉ khoảng 20, việc quay về đời sống dân sự ở quê nhà là rất phức tạp. Sự hy sinh, khắc kỷ, dũng cảm trong những năm tháng chiến tranh tương ứng với thương tật, đớn đau và rối loạn tinh thần trong thời gian hòa bình… Những người này trở thành 5 không, sau khi cha mẹ mất đi: ‘không chồng, không con, không nhà, không chế độ, và độc thân.”

Thực là một “gia tài đồ sộ” mà “đến đời con chắc chắn chưa trả được” – theo như nguyên văn lời của nhà báo và nhà hoạt động xã hội Nguyễn Lân Thắng, trước khi ông bị bắt giam: “Người ta đã phản bội tất cả những gì đã hứa với dân để vun vén cho quần thần, cho gia tộc của họ. Tham nhũng tràn lan, đạo đức băng hoại, tài nguyên kiệt quệ, công nhân làm đĩ, nông dân ăn mày, trí thức hạ mình, tổ quốc lâm nguy, nợ nước ngoài đến đời con chắc chắn chưa trả được”

———————

(*) Chú thích của talawas: François Guillemot là chuyên viên nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia (CNRS), phụ trách kho tài liệu Việt Nam tại Viện Nghiên cứu Đông Á (IAO, Lyon, Pháp). Ông lấy bằng tiến sĩ về lịch sử tại Ecole pratique des hautes études (EPHE, Paris) năm 2003. Hiện ông nghiên cứu về những vấn đề văn hoá trong chiến tranh của người Việt, và về chủ nghĩa dân tộc phi cộng sản của người Việt, chẳng hạn như về Đảng Đại Việt. Tiểu luận này được thuyết trình lần đầu tại hội thảo quốc tế, “Bản sắc cơ thể ở Việt Nam: Chuyển hoá và Đa dạng”, tại Ecole normale superieure lettres et sciences humaines, Lyon. Tác giả cảm ơn Christopher E. Goscha, Agathe Larcher, Claire và William J. Duiker, Vatthana Pholsena, Tuong Vu, Edward Miller và Trang Cao đã giúp ông dịch (từ tiếng Pháp sang tiếng Anh) và hiệu đính tiểu luận này để đăng trên Journal of Vietnamese Studies vào mùa thu 2009.