MB.DKN.TV
TQ thề ‘trả đũa’ nếu ông Trump ký dự luật Nhân quyền Hong Kong

Joshua Wong được quốc hội Anh trao Giải thưởng Westminster về nhân quyền

Lm Trần Chính Trực is at Lm Jos Trần Chính Trực.
Joshua Wong được quốc hội Anh trao Giải thưởng Westminster về nhân quyền và dự định sẽ rời Hong Kong 20 ngày vào tuần tới để nhận giải tại Cung điện Westminster 12/12, đồng thời tham gia các phiên họp của quốc hội Anh và phát biểu tại 6 nước châu Âu.
Tuy nhiên, ngày 19/11 Wong bị Thẩm phán Esther Toh của Tòa án Tối cao Hong Kong bác đơn xin thay đổi các điều kiện bảo lãnh và gỡ lệnh cấm xuất cảnh; do dính cáo buộc tổ chức hội nghị trái phép bên ngoài trụ sở cảnh sát quận Wan Chai hồi 21/6/2019. Bà Toh còn nói rằng, thay vì tới Anh, Wong nên ở lại Hong Kong để giúp ổn định đặc khu!
Joshua Wong vừa đăng tải trên FB cá nhân bức thư!
——
“Xin lỗi tất cả người dân Hong Kong!
Theo lịch trình, tôi được quốc hội châu Âu, quốc hội Mỹ, quốc hội Ý, quốc hội Đức và hạ viện Anh mời đi đi 6 nước theo lịch trình 20 ngày với các hoạt động tham dự các buổi diễn thuyết, điều trần, hội thảo.
Do vậy, tôi đã làm việc với tòa án Hong Kong để thay đổi các điều khoản bảo lãnh và chuẩn bị cho chuyến đi, nhưng đã bị tòa án từ chối.
Hôm nay, thẩm phán của tòa án tối cao cũng tiếp tục từ chối phê duyệt cho tôi rời Hong Kong và tuyên bố tôi có thể diễn thuyết qua video call, không cần thiết xuất ngoại.
Tôi không rõ làm cách nào qua video call mà có thể nhận được giải thưởng phía Anh dự kiến trao cho tôi. Ngoài ra, từ khi thành lập Oxford Union năm 1823 đến nay, chưa có khách mời nào lại diễn thuyết qua video call cả.
Tòa án tối cao còn buộc tội tôi có ý định bỏ trốn. Đây là một cáo buộc chính trị, vì sau chuyến thăm Đức, Mỹ và Đài Loan hồi tháng 9 vừa qua, tôi vẫn quay về Hong Kong tiếp tục dự phiên điều trần. Vì vậy, việc thẩm phán nghi ngờ tôi có động cơ bỏ trốn là không có căn cứ.” ©Lucy Nguyen lược dịch.
——–
Tin mới nhất, chiều 19/11 (giờ Washington, tức khoảng 6:25 sáng giờ VN ngày 20/11), Thượng viện Hoa Kỳ đã thông qua Dự luật Nhân quyền và Dân chủ Hong Kong (S.1838). Dự luật sẽ được chuyển đến Hạ viện trước khi TT Trump có thể ký ban hành. Đây là một thông điệp khá rõ ràng của Hoa Kỳ gửi đến người Hong Kong đang đấu tranh cho các quyền tự do và quyền tự chủ của mình!
(Bài viết của Lê Nguyễn Hương Trà)
KHI NÀO CUỘC ĐỜI CHÚNG TA VIÊN MÃN?
KHI NÀO CUỘC ĐỜI CHÚNG TA VIÊN MÃN?
Rev. Ron Rolheiser, OMI
Khi nào cuộc đời chúng ta viên mãn? Đến một lúc nào đó trong đời, chúng ta có thể nói được: “Chính là đây! Đây là cao điểm! Từ giờ tôi chẳng thể làm gì hơn thế này nữa. Tôi đã dốc hết sức mình!”
Lúc nào thì chúng ta nói được như thế? Sau khi đạt đến đỉnh cao sức khỏe và sức mạnh thể chất? Sau khi sinh con? Sau khi nuôi dạy con cái thành công? Sau khi có một tác phẩm bán chạy? Sau khi nổi tiếng? Sau khi thắng chức vô địch lớn? Sau khi mừng kỷ niệm 60 năm ngày cưới? Sau khi tìm được tri kỷ? Sau khi bình an trở lại, thoát được cơn dằn vặt kéo dài? Khi nào thì chúng ta có thời điểm đó? Khi nào chúng ta đi đến tận đỉnh con đường trưởng thành?
Nhà thần nghiệm thời trung cổ, Gioan Thánh Giá nói cho rằng chúng ta đạt đến điểm này khi đến được “tâm điểm thâm sâu nhất của mình.” Nhưng với ngài, tâm điểm thâm sâu nhất trong linh hồn này, lại không giống với quan niệm thường có của chúng ta. Với thánh Gioan, tâm điểm thâm sâu nhất này chính là điểm tối đa có thể trong sự tiến triển của con người, sự trưởng thành thâm sâu nhất có thể đạt được trước khi chết. Nếu thật là thế, thì với một bông hoa, tâm điểm thâm sâu nhất, điểm tột đỉnh tiến triển của nó, sẽ không phải là lúc nở hoa, mà là lúc nó chết và tạo thành hạt giống. Đó là sự tiến triển xa hơn, là thành tựu tối cùng của nó.
Vậy còn điểm tiến triển tối hậu của chúng ta là gì? Tôi cho rằng chúng ta có khuynh hướng nghĩ nó như một thành tựu tích cực và cụ thể, như thành công trong sự nghiệp, hay một thành tích về thể thao, trí tuệ hay nghệ thuật đem lại cho chúng ta sự thỏa mãn, công nhận và danh tiếng. Nhưng nếu nhìn từ quan điểm ý nghĩa sâu xa, có lẽ chúng ta sẽ trả lời theo kiểu khác, nói rằng thành tựu tối hậu của chúng ta là một hôn nhân trọn vẹn, được làm cha mẹ, hay sống cuộc đời phục vụ tha nhân.
Vậy nếu như một bông hoa, khi nào chúng ta sẽ tạo thành hạt giống đây? Henri Nouwen cho rằng người ta sẽ có những câu trả lời rất khác nhau cho câu hỏi này. “Với một số người, đó là tận hưởng ánh hào quang của danh tiếng, với số khác, là khi họ được hoàn toàn quên lãng, với một số là khi họ đạt đến tột đỉnh sức mạnh, với số khác là khi họ yếu đuối và vô lực, với một số là khi năng lực sáng tạo triển nở, với số khác là khi họ mất hết tự tin vào năng lực của mình.”
Vậy lúc nào thì Chúa Giêsu tạo thành hạt giống của Ngài, sự viên mãn của Ngài? Với Chúa Giêsu, đây không phải là ngay sau phép lạ làm cho dân chúng kinh ngạc, cũng không phải khi Ngài đi trên mặt nước, hay khi Ngài vang danh khắp cõi Israel đến nỗi dân chúng muốn tôn Ngài lên làm vua. Không phải như thế. Vậy lúc nào Chúa Giêsu không còn gì nữa để vươn đến?
Và Henri Nouwen lại một lần nữa cho chúng ta câu trả lời này. “Tuy nhiên, chúng ta biết một điều, với Con Người, mọi sự đến hồi viên mãn, khi Ngài mất hết tất cả, mất quyền uy để lên tiếng và chữa lành, mất sự thành công và tầm ảnh hưởng, mất môn đệ và bạn bè, thậm chí là mất cả Chúa của mình. Khi Ngài bị đóng đinh trên cây thập tự, bị tước hết phẩm giá con người, Ngài biết rằng mình đã đến thời điểm đó, và nói, ‘Mọi sự đã hoàn tất!’”
Chữ hoàn tất ở đây có gốc Hy Lạp là Tetelesti. Đây là một diễn đạt được các họa sĩ dùng để nói rõ rằng tác phẩm đã hoàn thiện và không thêm thắt gì nữa. Nó còn được dùng để thể hiện việc gì đó đã xong. Ví dụ như, chữ Tetelesti được đóng dấu trên các bản án sau khi phạm nhân đã mãn hạn tù, còn được ngân hàng dùng đóng trên giấy ghi nợ đã trả xong, được gia nhân dùng khi báo cáo với chủ đã hoàn thành công việc, và được các vận động viên thốt lên khi băng qua vạch đích.
Đã hoàn tất! Một bông hoa chết đi để tạo thành hạt giống, nên cũng hợp lý khi đây là những lời cuối cùng của Chúa Giêsu. Trên thập giá, vẫn trung tín đến cùng với Chúa Cha, với lời của mình, với lòng yêu thương mà Ngài đã giảng dạy, Ngài thôi sống và bắt đầu chết, và đấy là khi Ngài tạo thành hạt giống của mình, khi thần khí Ngài bắt đầu ngấm vào thế giới. Ngài đã đến tâm điểm thâm sâu nhất của mình, cuộc đời Ngài đã viên mãn.
Vậy khi nào chúng ta thôi sống và bắt đầu chết? Khi chúng ta đi từ đóa hoa nở rộ đến tạo thành hạt giống? Nhìn qua, thì dĩ nhiên là khi sức khỏe, uy lực, danh tiếng và sự thu hút của chúng ta bắt đầu suy giảm và mờ nhạt đi, bị đẩy dần ra rìa và xuống dốc. Nhưng khi nhìn qua lăng kính cuộc đời Chúa Giêsu, thì chúng ta thấy rằng khi mờ nhạt đi, như một bông hoa đã qua thời điểm bung nở, chúng ta bắt đầu tạo ra một sự gì đó còn hấp dẫn hơn cả nở hoa. Đó là khi chúng ta có thể nói, “Đã hoàn tất!”
Rev. Ron Rolheiser, OMI
From: Langthangchieutim
CỤ PHAN KHÔI VIẾT VỀ HAI ÔNG: ÔNG BÌNH VÔI VÀ ÔNG NĂM CHUỘT
CỤ PHAN KHÔI VIẾT VỀ HAI ÔNG: ÔNG BÌNH VÔI VÀ ÔNG NĂM CHUỘT
Cụ Phan Khôi sinh năm 1887, khi viết về Ông Bình Vôi (1956) và Ông Năm Chuột (1958), cụ đã ở tuổi 71 trước khi qua đời ở tuổi 72 (1959). Chúng tôi là kẻ hậu sinh viết bài này nhân kỷ niệm 60 năm giỗ cụ : Kỷ Hợi 1959—Kỷ Hợi 2019.
Giả dụ một sinh viên Việt Nam sanh sau 1975 bất ngờ đọc lại lịch sử dân tộc qua nhiều loại tài liệu từ những nguồn khác nhau, anh ta có thể ngỡ ngàng tự hỏi Phan Khôi là nhân vật lịch sử nào, một người có thực hay chỉ là một huyền thoại như Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân Âu Cơ ? Anh ta lại càng không thể tin rằng cụ là linh hồn phong trào của một số văn nghệ sĩ, trí thức can trường phê phán đảng Công Sản Việt Nam trong một thời gian ngắn ngủi 1956-1958 tại miền Bắc Việt Nam.
Đó là phong trào Nhân Văn Giai Phẩm ( viết tắt NVGP).
Hầu như vết tích về phong trào này bị xóa sạch trong các tài liệu chính thống lưu hành trong nước trong suốt ba mươi năm từ sau khi phong trào bị đập tan năm 1958.
“Ngày 4 tháng 6 năm 1958, Đai Hội Văn Nghệ III ở Hà Nội kết thúc “Trận Chiến Đấu
Chống Bọn Phá Hoại Nhân Văn Giai Phẩm” với bài báo cáo tổng kết của Tố Hữu, nghị quyết của 800 văn nghệ sĩ lên án “Bọn NVGP” , và các Hội Văn Nghệ thi hành các biện pháp kỷ luật” ( xem sách “Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn Đề Nguyễn Ái Quốc—Thụy Khuê—trang 38).
Phong trào chính thức ra mắt công chúng bằng tờ báo Giai Phẩm Mùa Xuân vào tháng 1 -1956 do các thi sĩ Lê Đạt (1929-2008) và Hoàng Cầm (1922-2010) chủ biên. Như vậy từ lúc khai sinh đến khi chết, phong trào sống được hai năm sáu tháng.
Phong trào được tạo ra bởi những văn nghệ sĩ, học giả, giáo sư đại học vừa có tài học vừa có đạo đức nhân bản và tâm hồn dân tộc, nhưng họ đã bị chế độ gọi là “Bọn phá hoại”.
Trong tiếng Việt, chữ “Bọn” bao hàm nghĩa khinh bỉ, thù địch. Thí dụ trong chế độ quân chủ ngày xưa, triều đình gọi những phong trào nông dân nổi loạn là bọn giặc cỏ, bọn phỉ, bọn lục lâm, bọn hảo hán giang hồ…Ngược lại phía nông dân nổi loạn gọi triều đình là bọn hôn quân bạo chúa, bọn quan lại thối nát, bọn cường hào ác bá…Cùng phát xuất từ nguồn triết học của Karl Marx, nhưng đảng Cộng Sản Việt Nam gọi những nhà cách mạng theo khuynh hướng của Leon Trotsky như Tạ Thu Thâu ( 1906-1945 ), Phan văn Hùm ( 1902-1946) là ….bọn tờ-rốt-kít phản động.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam từ 1954 đến 1975, chính thể Cộng Hòa gọi chính thể Cộng Sản là bọn cộng nô, bọn tay sai Nga Tàu ; ngược lại chính thể Cộng Sản gọi chính thể Cộng Hòa là bọn liếm gót giày đế quốc tư bản. Tuy nhiên từ 1975 đến nay chính thể Cộng Sản Việt Nam lại tự khoác lên mình danh xưng đó. Đây là diễn trình theo biện chứng pháp duy vật hay duy tâm ?
Tài liệu chính thức được chế độ phát ra là tập sách dày 370 trang nhan đề “Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước Tòa Án Dư Luận” in năm 1959, cũng do những văn nghệ sĩ trí thức theo lệnh chế độ viết nhằm hạ nhục, bôi bẩn những vị trong phong trào.
“Phần cuối sách, có một chương nhỏ trích “ lời thú tội” của các thành viên NVGP, còn toàn thể dành cho phía công tố “phát hiện tội”, với lời lẽ vô cùng khiếm nhã khó thể mường tượng từ miệng hoặc từ ngòi bút của giới gọi là “trí thức văn nghệ sĩ” đối với đồng nghiệp và bạn hữu của mình đã tham gia NVGP “ ( sđd…trang 27 ).
Tác phẩm của tác giả Thụy Khuê là một công trình nghiên cứu công phu suốt từ 1984 đến 2012 mới xuất bản thành sách dày 969 trang do nhà xuất bản Tiếng Quê Hương, Virginia, USA.
Tác giả đã dựa trên một số tài liệu hiếm hoi và nhất là trên những buổi phỏng vấn trực tiếp, sống động với môt vài vị chủ chốt của phong trào còn sống sót : nhà tư tưởng Nguyễn Hữu Đang
(1913-2007), thi sĩ Lê Đạt ( 1929-2008 ), thi sĩ Hoàng Cầm ( 1922-2008 ), họa sĩ Trần Duy
(1920-2014).
Những tài liệu hiếm hoi có thể kể ra: Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc ( Hoàng Văn Chí-1913-1988 )—Cent Fleurs Ecloses Dans La Nuit Du Viet Nam ( Georges Boudarel- 1926-2003)
—Năm Mươi Năm Sau :Trăm Hoa Đua Nở Ở Việt Nam ( Heinz Schutte—1923-2007 )—Bọn Nhân Văn Giai Phẩm Trước Tòa Án Dư Luận (nhà xuất bản Sự Thật—Hà Nội-1959 )—Kẻ Bị Khai Trừ-Un Excommunie (Nguyễn Mạnh Tường- 1909-1997)—Tiếng Vọng Trong Đêm –Une Voix Dans La Nuit (Nguyễn Mạnh Tường )—Phê Bình Nắng Chiều của Phan Khôi ( tác giả Đoàn Giỏi)—Vụ Nhân Văn Giai Phẩm Từ Góc Nhìn Một Trào Lưu Tư Tưởng Dân Chủ, Một Cuộc Cách Mạng Không Thành (Lê Hoài Nguyên==nguyentrongtao.org–2010 )
Cụ Phan Khôi (1887-1959) cùng những thành viên khác của phong trào NVGP đều bị hạ nhục, bôi bẩn về mặt tinh thần. Vì cụ qua đời trước khi có những biện pháp trừng phạt nên cụ không phải trải qua những thảm cảnh của kẻ bị khai trừ trong 30 năm sa mạc như nhà tư tưởng Nguyễn Hữu Đang, luật sư Nguyễn Mạnh Tường, triết gia Trần Đức Thảo (1917-1993), thi sĩ Lê Đạt, Hữu Loan ( 1916-2010), Hoàng Cầm, Trần Dần, Phùng Cung (1928-1998), Phùng Quán, (1932-1995 ) , họa sĩ Trần Duy ( 1920-2014 ).
Tác giả Hoàng Văn Chí đã kể ra 5 bài viết của cụ Phan Khôi khiến cụ bị liệt vào hàng đầu não chống chế độ : Phê Bình Lãnh Đạo Văn Nghệ– Tìm Ưu Điểm—Ông Bình Vôi—Ông Năm Chuột— Nắng Chiều ( Sđd Phần II—Phái cựu học—Phan Khôi ).
Trong bài viết nhỏ này, chúng tôi chỉ xin mạn phép bàn về hai tiểu phẩm Ông Bình Vôi và Ông Năm Chuột.
I/ ÔNG BÌNH VÔI
Thế hệ trẻ sinh từ 1975 , thậm chí 1970 không thể nào hình dung ra cái bình vôi là vật dụng gì. Giữa thế giới kỹ thuật hiện đại, cái bình vôi đúng là một cổ tích, nhưng trong cả ngàn năm nó gắn liền với đời sống của người dân Việt từ nhà nghèo đến nhà giầu. Nó dùng để đựng vôi ăn kèm với trầu cau. Nó hợp với cái bình bằng đồng đựng lá trầu, quả cau gọi là cái cơi trầu, và cái ống nhổ thành một bộ đồ trầu . Người ta thường nói người Việt có tục ăn trầu cau với vôi vừa để ngừa sâu răng vừa để trị giun sán. Ngày xưa làm gì có kem đánh răng.
Cụ Phan Khôi mở đầu bài viết như sau “ Khắp nước Việt Nam có tục ăn trầu, cho nên ở đâu cũng có bình vôi”. Bài viết chỉ dài có gần ba trang sách , và cụ gọi là một bài khảo cứu nhỏ, đăng trong Giai Phẩm Mùa Thu tập II xuất bản ngày 30 tháng 9 năm 1956.
Theo tác giả, bình vôi làm bằng đất nung, có hai loại, một cho nhà hạng sang, một cho nhà hạng trung. Loại trung có cổ eo và miệng loa , không có quai. Nhà cụ Phan Khôi là nhà quan nên thuộc hạng sang, dùng loại bình có quai và thân bình được tô màu lục hay hồng. Cả hai đều có một cái chìa vôi dùng để lấy vôi từ trong bình ra quệt vào lá trầu. Loại trung dùng chìa bằng tre, loại sang dùng chìa bằng sắt.
Thái độ của người ăn trầu đối với bình vôi như thế nào? Sau mỗi lần quệt vôi vào lá trầu xong, người ăn trầu quệt chìa vào miệng bình cho sạch. Lâu năm , miệng bình càng ngày càng dầy lên cho đến khi kín mít thì bỏ bình mua cái khác. Bà nội của tác giả gọi việc quệt ấy là “ cho Ông Bình ăn”. Ban đêm, bà rút cái chìa vôi ra khỏi miệng bình vì bà nghĩ rằng “Ông Bình linh lắm, đêm hôm có kẻ trộm kẻ đạo, Ông sẽ mách cho mình, mà nếu để cái chìa lấp cái miệng thì không mách được”.
Ai ăn trầu cũng đều có thái độ kính ngưỡng như vậy đối với cái bình vôi. Khi miệng bình bị kín mít rồi,coi như vô dụng , người ta không vứt bỏ vào thùng rác mà coi như một vật thiêng liêng để thờ . Hoặc người ta thờ trong sân nhà chung trên một bàn thờ với các thần Đất ( Thổ công ), thần Bếp ( Táo công), thần Phúc Đức gọi là Tam Vị. Hoặc người ta đem ra thờ trên những bức tường thành của đình hay chùa. Năm này qua năm khác, trên những bức tường thành này có một dãy cả chục, cả trăm những bình vôi vô dụng như thế được tôn thờ như những linh vật.
Tại sao dân gian từ giầu tới nghèo lại có cái tín ngưỡng kỳ lạ như vậy ? Kính ngưỡng với thần Đất, thần Bếp, thần Phúc Đức, còn có thể hiểu được vì liên quan đến cái ăn, cái ở, cái họa cái phúc trong đời sống cụ thể. Đối với giới trẻ trong thời đại mới, tín ngưỡng đó đúng là lòng mê tín, hoàn toàn thiếu tinh thần khoa học.
Cụ Phan đã thử phân tích tâm lý thứ tín ngưỡng đó. Thứ nhất là tâm lý sợ hãi trước những vật gì có thể làm tổn hại đến đời sống ; thứ hai là tâm lý nể trọng, sùng bái những vật gì sống lâu năm.
Tâm lý sợ hãi đưa đến việc con hổ được tôn xưng là Ông Cọp ; con chuột là Ông Tý ; con khỉ là Ông Trưởng.
Tâm lý nể trọng, sùng bái đưa đến việc ba cái đầu rau nấu bếp được gọi là Ông Núc ; cái bình vôi được gọi là Ông Bình Vôi….
Cụ Phan nhớ lại năm 18 tuổi ( 1905 ), cụ không tin như mọi dân làng nữa về sự linh thiêng của những Ông Bình Vôi. Vào một đêm tối trời, chàng trai trẻ Phan Khôi và một nhóm thiếu niên tinh nghịch đi dọc theo những bức tường thành của đình chùa gạt hết những bình vôi vô dụng cho đổ xuống đất. Nhưng sáng hôm sau như có bàn tay vô hình chúng được xếp lên trở lại.
Câu hỏi quan trọng : Động lực nào trong tâm khiến lũ thiếu niên làm như thế?. “Chúng tôi cứ làm như thế, không có lý luận”.
Đoạn văn kế tiếp làm cho người đọc khó hiểu : “Tuy vậy, đó không phải cái tội riêng một mình tôi. Bấy giờ bọn thiếu niên chúng tôi hầu như đứa nào cũng làm như thế được cả. Nếu ngày nay tôi phải tự kiểm thảo, thì lũ thiếu niên ấy, bạc đầu rồi, cũng phải tự kiểm thảo như tôi”.
Tại sao hất đổ những bình vôi vô dụng lại mang tội ? Mang tội với ai ? Ai có quyền kết tội ? Mà kiểm thảo là cái gì ? Kiểm thảo trước mặt ai? Lũ thiếu niên cùng thời với cụ hồi 1905 tới nay—1956– đều đã già rồi cũng phải bị kiểm thảo, họ là những ai ?
Để trả lời những câu hỏi này, chúng tôi xin đề cập ba vấn đề :
1/ Ý nghĩa của từ ngữ “kiểm thảo”, “tự kiểm thảo”
2/ Nghệ thuật ẩn dụ, tượng trưng trong văn chương
3/ Thế hệ của cụ Phan Khôi cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 gồm những nhân vật lịch sử nào ?
**********
1/ Kiểm thảo và tự kiểm thảo:
Ý thức đạo đức trong một con người bình thường được biểu hiện qua hai trạng thái tâm lý : tàm ‘ ( shame )và quý ( dread ). Tàm là sự hổ thẹn từ nội tâm về một hành vi bất thiện mà mình đã làm, đó là sự ăn năn ray rứt –quý là sự sợ hãi hậu quả mà mình phải gánh lấy như sự khinh chê, trừng phạt của người khác. Loài vật không có tàm quý; những hạng người gọi là nhẫn tâm cũng không có tàm quý.
Còn sự theo đuổi một lý tưởng tâm linh, văn nghệ, chính trị, xã hội ở mỗi cá nhân một khác. Sự khác biệt đó không phải là tội , trái lại là yếu tố tích cực cho sự tiến bộ văn minh của nhân loại.
Tự kiểm thảo và kiểm thảo là sự tự phê bình và để người khác phê bình những khuyết điểm của mình trong hành động và lời nói không phù hợp với một lý tưởng, một quan điểm nào đó. Không phù hợp không có nghĩa là phản nhân tính, vô đạo đức.
Hai từ ngữ này là đặc trưng trong chế độ cộng sản. Những người quen sống trong một xã hội có tự do tư tưởng, tự do ngôn luận sẽ không thể nào hiểu được ý nghĩa của chúng.
Kẻ hậu sinh xin dẫn tài liệu của một vị cha chú có thẩm quyền nói về vấn đề này. Đó là tác phẩm KHU RỪNG LAU của nhà văn Doãn Quốc Sỹ (sinh 1923—). Khu Rừng Lau là một bộ trường thiên tiểu thuyết gồm bốn truyện dài :
-Ba sinh Hương Lửa ( Khu Rừng Lau I—xb năm 1962-Sài Gòn )
-Người Đàn Bà Bên Kia Vĩ Tuyến ( Khu Rừng Lau II—xb năm 1964—Sài Gòn)
-Tình Yêu Thánh Hóa ( Khu Rừng Lau III—xb năm 1965—Sài Gòn )
-Đàm Thoại Độc Thoại ( Khu Rừng Lau IV—xb năm 1966—Sài Gòn )
( Xem www.doanquocsy.com)
Truyện dài “Ba Sinh Hương Lửa” có ba phần : Phần I : Câu Chuyện Khởi Đầu—Phần II: Màu Tím Hoa Lau—Phần III : Giã Từ
Trong Phần III, xin đọc Chương 3 : Phong Trào Tam Phản Khóa Bảy.
Nhân vật Hiến trong truyện sinh năm 1922. Trong bối cành lịch sử Việt Nam, đất nước còn trong sự cai trị của thực dân Pháp khởi đầu từ tháng 9 năm 1858 khi người Pháp dùng quân sự đánh chiếm Đà Nẵng. Từ đó cho tới ngày 9 tháng 3 năm 1945, thực dân Pháp mới bị lật đổ bởi phát xít Nhật. Trong thời gian gần một thế kỷ đó, thực dân Pháp đã phạm rất nhiều tội ác với dân tộc Việt Nam, giết, bỏ tù, lưu đầy biệt xứ bao nhiêu anh hùng dân tộc từ Trương Công Định ( 1820-1864), Nguyễn Trung Trực ( 1838-1868 ), Phan Đình Phùng ( 1847-1895 ), Hoàng Hoa Thám ( 1858-1913 ), Phan Bội Châu ( 1867-1940 ), Phan Châu Trinh ( 1872-1926 ), Nguyễn An Ninh ( 1900-1943 ) , Nguyễn Thái Học ( 1902-1930 )……
Tư tưởng, tâm hồn và nhân cách của các vị ấy đã là tấm gương sáng cho tuổi trẻ Việt Nam như được tác giả Doãn Quốc Sỹ mô tả trong tác phẩm Khu Rừng Lau qua những nhân vật chính sanh ở lứa tuổi 1920 đến 1926 : Hãng 1921; Hiến 1922; Tân 1923; Kha 1924; Miên 1926.
Các nhân vật này đang độ tuổi thanh niên đầy lòng yêu nước khi Nhật thất trận đầu hàng Đồng Minh vào tháng 8 -1945, tưởng là dân tộc đã thoát ách thực dân phát xít. Ai ngờ, những thế lực tư bản và cộng sản quốc tế đã thỏa thuận với nhau đưa thực dân Pháp trở lại cai trị dân Việt. Ngày 19 tháng 12 năm 1946 là ngày toàn dân từ Nam ra Bắc đứng lên kháng chiến chống Pháp.
Nhân vật Hiến mới đậu Tú Tài ban toán năm 22 tuổi ( 1944 ), nhân vật Kha đậu Tú Tài ban triết học văn chương năm 21 tuổi ( 1945 ). Họ được coi là thành phần trí thức thành thị đã bỏ thành đô ra chiến khu kháng chiến. Nhưng những người lãnh đạo kháng chiến lại là những người theo ý hệ cộng sản kiểu Stalin ( 1878-1953) và Mao Trạch Đông ( 1893-1976 ), không những chống khuynh hướng quốc gia dân tộc mà còn chống cả khuynh hướng cộng sản kiểu Trotsky ( 1879-1940). Leon Trotsky bị Stalin ám sát tại Mexico năm 1940. Tất cả những người theo tư tưởng Trotsky đều là kẻ thù của những đảng cộng sản Stalinit-Maoit.
Khi Hiến và Kha gia nhập hàng ngũ kháng chiến do Việt Minh lãnh đạo kể từ 1947 thì chỉ ít lâu sau họ nhận thức ngay họ không thể hòa nhập được với ý hệ cộng sản. Nhất là sau khi Mao Trạch Đông thống nhất Trung Hoa vào năm 1949 thì đảng cộng sản Việt Nam coi như lệ thuộc vào đảng cộng sản Trung Hoa với những cố vấn Tàu có mặt trong mọi cơ cấu chính quyền. Như trong đơn vị y khoa mà Miên phục vụ như một nữ y tá có viên cố vấn thủ thuật là một đại tá quân y Tầu ( xem Chương 3 –Phần II- Khu Rừng Lau) . Trong đơn vị quân đội của Kha, Hiến có viên sư đoàn trưởng cố vấn ( Chương 3—Phần III—Khu Rừng Lau ).
“Đầu năm 1953, Việt Bắc chính thức phát động phong trào đấu tố, khởi đầu là bà
Cát Thanh Long” ( Chương 5—Phần II—Khu Rừng Lau ). Bà Cát Thanh Long là địa chủ ở Thái Nguyên trong những ngày đầu kháng chiến đã giúp rất nhiều cho chiến sĩ nhưng lại bị Đảng Cộng Sản bội ơn đem ra đấu tố đến chết. Mục đích của đấu tố là moi ra những thành phần không thuộc tầng lớp nông dân, đó là những địa chủ, trí thức thành thị đang ở trong hàng ngũ kháng chiến.
Năm 1953, trường lục quân Trần Quốc Tuấn Việt Nam phải dời sang Trung Hoa, đóng tại Phụng Minh Thôn thuộc huyện Côn Minh ( Vân Nam ). Hiến được biên chế vào học khóa 8.
Anh tính đúng ba ngày sau khi đến đơn vị là ngày giỗ cha mẹ. Anh bày hương hoa ở đầu giường và rì rầm khấn vái. Bỗng một đám cán bộ lãnh đạo của trường ào vô phòng, dường như có kẻ báo cáo .
Một anh cán bộ trông dáng vẻ xuất thân từ tầng lớp bần cố nông hách dịch hỏi Hiến
“Đồng chí còn nặng tư tưởng phong kiến lạc hậu thế đấy “
………………Chúng tôi chẳng biết đồng chí cúng ai và tưởng niệm cái gì ở khoảng trống này”
Hiến nghiến răng trừng mắt : “Anh câm mồm, bàn thờ cha mẹ,bàn thờ các liệt vị anh hùng chính là bàn thờ giá trị dân tộc, giá trị chính mình ! Chỉ có những kẻ vô giá trị mới nhìn lên bàn thờ mà thấy là khoảng không”
………Anh cán bộ bần cố nông chỉ vào mặt Hiến nói giọng lên án cảnh cáo : “Đồng chí còn nặng đầu óc cá nhân tiểu tư sản thoái hóa, tối nay giờ sinh hoạt, đồng chí sẽ tự kiểm thảo trước toàn thể anh em” ( Chương 3, Phần III—Khu Rừng Lau ).
Tự kiểm thảo và bị kiểm thảo tức là tự thú những sai lầm của mình không phù hợp với quan điểm của cách mạng vô sản . Suốt buổi tối cho đến hai giờ khuya Hiến bị “quần” bởi “anh em” với những câu hỏi cố ý dồn cho nạn nhân phải gục ngã chấp nhận việc mình cúng bái cha mẹ là sai trái, là bệnh tiểu tư sản thoái hóa . Hiến và các bạn cùng hoàn cảnh vẫn nhìn những nhà cách mạng Phan Bội Châu ,Phan Châu Trinh, Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thái Học …là những nhà cách mạng dân tộc nhân bản chân chính mà thế hệ thanh niên phải tiếp nối sự nghiệp. Cách mạng mác-xít không phải là đường lối duy nhất đúng cho hướng đi của dân tộc.
May sao, Hiến đã gặp được một người bạn đồng hội đồng thuyền. Đó là một cán bộ đang phụ trách tờ nội san cuả hiệu bộ tức là ban giám đốc trường lục quân. Anh ta tên Kha kém Hiến hai tuổi, từng đỗ tú tài ban triết học văn chương năm 1945 tại Hà Nội trước khi ra khu kháng chiến. Kha đã học qua khóa bảy và kể lại thảm kịch kiểm thảo theo khuôn mẫu của đảng cộng sản Trung Hoa, gọi là Phong Trào Tam Phản.
Đó chính là một cuộc đấu tố tư tưởng diễn ra qua ba bước:
“1-Thoạt tiên đương sự tự bộc lộ mình đã nghĩ điều gì, làm điều gì qua từng biến cố.
2-Các đồng chí trong tổ tâm giao trong tiểu đội, trung đội sẽ căn cứ vào những lời đương sự tự tố cáo đó mà nêu nghi vấn, rồi chất vấn để soi tỏ đường đi mà tìm ra căn bệnh. Có mấy căn bệnh chính là : cầu an, hưởng lạc, giao động, hủ hóa .
3-Cấp lãnh đạo sẽ căn cứ vào kết quả trên , dùng ‘ánh sáng lý luận Mác-Lê” mà quyết định thành phần đương sự” ( Sđd)
Kết quả là những nạn nhân bị dồn đến đường cùng : tự sát. Theo Kha cho biết, khóa bảy có nhiều người tự sát nhất trong trung đoàn pháo binh Lê K.. Mỉa mai thay, Lê K.lại là con trai của bà Cát Thanh Long, làm phó chính ủy lãnh đạo học tập . “Đã có kẻ dùng dây thừng tự tử; đã có kẻ bẻ vụn những lưỡi dao cạo râu mỏng hòa với nước uống rồi ra sân chơi bóng rổ, được nửa cuộc thì gục xuống chết” ( Sđd ).
Cụ Phan Khôi bị Việt Minh bắt ra khu kháng chiến sau ngày toàn quốc đứng lên chống Pháp, ngày 19 tháng 12 năm 1946. Như vậy cụ đã sống trong chế độ cộng sản mười năm , thời gian đủ để cụ hiểu thế nào là cái giá sinh tử của tam phản , tự kiểm thảo và kiểm thảo .
2/ Nghệ thuật ẩn dụ và tượng trưng trong văn chương
Xin nêu một thí dụ đơn giản về ẩn dụ trong ca dao Việt Nam :
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng
Nói cái cò, con cò nhưng để chỉ người phụ nữ vất vả nuôi chồng nuôi con. Khi nói hay viết về Ông Bình Vôi, cũng thế, nhà thơ Lê Đạt và nhà văn Phan Khôi ám chỉ một loại người nào đó. “Tóm lại, cái bình vôi, vì nó sống lâu ngày, lòng nó đặc cứng, miệng nó bít lại, ngồi cú rũ trên trang hoặc trên tường thành, cũng như pho tượng đất hoặc gỗ không nói năng, không nhúc nhích, thì người ta tôn thờ sùng bái mà gọi bằng Ông.
Tôi viết cái bài khảo cứu nhỏ này cốt để cắt nghĩa mấy câu thơ của Lê Đạt :
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại
(Xem Hoàng Văn Chí—sđd )
Những câu thơ này được trích từ một bài thơ đăng trong Giai Phẩm Mùa Xuân tháng 1-1956 : Ông Bình Vôi
Tôi mới hai muoi lăm tuổi
Chung quanh tôi bao cuộc đời mệt mỏi
Thất bại cúi đầu
Công thức xỏ dây vào mũi
Những kiếp người sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại
Tôi đã sống rất nhiều ngày thảm bại
Khôn ngoan không dám làm người
Bao nhiêu lần tôi không thực là tôi
(Xem Thụy Khuê—sđd—trang 70 )
Ông Bình Vôi chỉ hai hạng người :
-Thứ nhất là những văn thi sĩ tiền chiến vốn đầy cảm xúc sáng tạo bây giờ đã xơ cứng tình cảm nhân bản (lòng nó đã đặc), ngậm miệng làm quan văn nghệ viết khẩu hiệu ( miệng nó bít lại, ngồi cú rũ trên tường thành như những pho tượng ..). Họ đã trở thành những “Con Ngựa Già của Chúa Trịnh” như nhà văn Phùng Cung mô tả trong truyện ngắn đăng trong Nhân Văn số 4 ( ra ngày mùng 5 tháng 11 năm 1956).
Như thi sĩ của tình yêu lãng mạn ngày xưa, Xuân Diệu ( 1916-1985 ) đã trờ thành một tên phường tuồng hò hét cổ vũ cho thảm kịch Cải Cách Ruộng Đất :
………..
Thắp đuốc cho sáng khắp đường
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống, đọa đầy chết thôi
( xem Hoàng Văn Chí—sđd )
Thi nhân trở thành sát nhân như Tố Hữu:
Giết, giết nữa bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong
Cho đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao chủ tịch, thờ Sít ta lin.. bất diệt
(xem Hoàng Văn Chí—sđd )
Thi sĩ không còn là hoàng tử của chữ nghĩa quê hương dân tộc mà trở thành kẻ cuồng tín mù lòa thờ những bạo chúa ngoại tộc.
-Thứ hai là những lãnh tụ gọi là cách mạng. Họ đã trở thành những bù nhìn nhận chỉ thị từ những thế lực ngoại bang. Khuôn mẫu xô viết, phong trào tam phản, cải cách ruộng đất từ đâu mà có ?
Trong bối cảnh xã hội như vậy , nhà thơ Lê Đạt đã phải chấp nhận thái độ sống “Khôn ngoan không dám làm người”.
3/ Những nhân vật đương thời với cụ Phan Khôi
Năm 1905, cụ Phan 18 tuổi; năm 1906 đỗ tú tài Hán học. Nhưng từ đó trở đi chàng trai trẻ Phan Khôi từ bỏ Hán học mà quay sang học Quốc ngữ và Pháp ngữ. Có thể từ hồi đó chàng đã thấy cái học khoa cử từ chương của Hán học là vô dụng trước tình hình đất nước. Có thể chàng đã coi những cậu tú, cậu cử, những ông nghè ông cống, những ông quan trong triều đình nhà Nguyễn là những Ông Bình Vôi. Dân trí thì thấp , sùng bái họ . Đúng là chàng trai Phan Khôi và bằng hữu tỉnh thức đương thời muốn đập bỏ những bình vôi đó, tức là theo tư tưởng dẹp bỏ nền quân chủ, muốn mở mang dân trí về hướng dân chủ phương Tây. Vì thế chàng Phan mới bỏ quan trường mà lao vào nghiệp làm báo. Trong những năm từ 1904 đến 1909, Phong trào Đông Du do nhà cách mạng Phan Bội Châu đề xướng khắp nước, cũng như Phong trào Duy Tân do nhà cách mạng Phan Châu Trinh phát động ở Trung kỳ đã tác động rất mạnh đến tâm hồn những chàng trai thế hệ Phan Khôi . Đập bỏ những bình vôi vô dụng có ý nghĩa tượng trưng là thanh niên Việt Nam phải mạnh dạn bỏ cái học từ chương để tiếp nhận khoa học kỹ thuật tân tiến mà nước Nhật là gương sáng. Việc chọn hướng đi cho mình với lý tưởng đưa đất nước thoát vòng phong kiến thực dân đâu có phải là một tội mà phải xưng tội , phải tự kiểm thảo ? Lòng yêu nước thương nòi vốn là hồn dân tộc nằm sâu trong mọi tầng lớp dân gian, không cần ai phải giảng dậy mới có. Cái gọi là chủ nghĩa yêu nước chỉ là một lý thuyết đến sau.
Thời thanh niên, chàng trai trẻ Phan Khôi đập bỏ những bình vôi hủ nho; thời lão niên, cụ Phan đập những bình vôi hủ mác-xít.
********************************************
II/ ÔNG NĂM CHUỘT
Truyện ngắn “Ông Năm Chuột” đăng trên báo Văn số 36 ngày 10 tháng 1 năm 1958 tại Hà Nội. Theo tác giả Hoàng Văn Chí, “Chính vì bài này mà tờ báo Văn bị đóng cửa ngay tức khắc” ( HVC—sđd ). Đó là câu chuyện kể về những khám phá bất ngờ của Phan Khôi về một con người mà bề ngoài chỉ là một thứ dân hèn mọn nhưng ẩn chứa bên trong một nhân cách sâu sắc đáng kính trọng. Hành trình khám phá kéo dài mấy chục năm.
Năm 1901, cậu bé Phan Khôi mới 14 tuổi vốn sinh ở làng Bảo An, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam, đi học ở nơi xa, thỉnh thoảng về làng thăm nhà. Mỗi lần về cậu lại nghe nói về Năm Chuột đang sống lang thang trong làng, không nhà cửa, không vợ con, sinh nhai bằng nghề thợ bạc là chính, nghề phụ là sửa đồng hồ, bút máy, xe đạp, khóa tây. Nghe nói anh ta vốn người làng Kỳ Lam nằm phía tây bắc của Bảo An. Anh ta nổi tiếng là thợ khéo nhất trong chốn đô hội,
Huế, Đà Nẵng, Hội An . Nhưng có tiếng đồn anh ta hay ăn cắp vàng bạc khi nhận làm, mà ăn cắp tinh vi không ai bắt được bao giờ. Người ta còn xì xào một cách bí mật là anh ta dám đúc súng, làm bạc giả mưu đồ làm “giặc”. Tệ hơn nữa, người ta còn khinh miệt anh ta là kẻ nói láo, nói phét thuộc cái hạng “mười voi không được bát nước xáo”. Đến độ người ta chỉ nói chuột quá tức là láo quá.
Cậu thiếu niên Phan Khôi nghe qua rồi cũng chẳng để tâm. Cậu đang lo học chữ Nho nhằm đỗ thủ khoa kỳ thi hương vài năm nữa. Hơn nữa , cậu là con trưởng của quan tri phủ Phan Trân, có tiếng học giỏi, thuộc giai cấp thượng lưu , hơi đâu để ý dến một anh thợ bạc hèn mọn.
Năm 1906, sau khi đậu tú tài nhưng không được thủ khoa, cậu về Bảo An rồi đi Xuân Đài thăm bà ngoại và ông cậu vốn là tri phủ đã về hưu ( mẹ Phan Khôi là con gái của Tổng Đốc Hoàng Diệu, người đã tuẫn tiết khi Hà Thành thất thủ vào tay quân Pháp năm 1887, đúng năm sinh của cụ). Chính tại nhà bà ngoại, cậu Phan đã gặp Năm Chuột. Bây giờ Phan đã thành chàng thanh niên 20 tuổi. Chàng miêu tả Năm Chuột “…đầu trọc, quấn cái khăn vải đen, áo cộc cúc giữa, quần đến đầu gối, chân mang dép da sống. Người ấy lúc vào đến cửa, hai tay cắp cái nón lá ngang ngực cúi chào cậu tôi…….
Cậu tôi chào như không phải chào :
-Anh Năm phải?
-Dạ, lâu lắm, có thể quan lớn quên tôi
Chàng Phan về trước, không biết Năm Chuột đến nhà ông cậu có việc gì.
Nhưng trên đường đi được một đoạn bỗng thấy đàng sau có tiếng gọi, chàng thấy Năm Chuột đang tiến gần mình. Anh ta tự giới thiệu:
“-Tôi là Năm Chuột đây…Rồi đột ngột hỏi tôi: -Nghe nói cậu đậu tú tài mà cậu khóc, có phải không ? Giả sử cậu được đậu thủ khoa thì cậu làm nên cái trò trống gì?
Một gáo nước lạnh xối vào xương sống. Tôi bẽn lẽn, ấp úng cười hì hì không trả lời được”
Đấy là lần đầu tiên chàng Phan lãnh một câu nói xúc phạm từ một dân hèn đối với giai cấp thống trị.
Năm Chuột nói tiếp ông cậu từng là tri phủ mà keo kiệt trả cái dọc tẩu hút thuốc phiện khảm xà cừ nạm vàng có năm đồng bạc. Chàng Phan mới biết anh ta đến nhà ông cậu để cầm đồ. Phan tìm cách bào chữa cho cậu, nói cậu về hưu làm gì có tiền . Năm Chuột nói :
“Quan lớn hồi xưa ( chỉ Tổng Dốc Hoàng Diệu, ông ngoại ) làm đến Tổng Đốc vừa chi, mà không có tiền lợp nổi cái nhà của ông bà để lại đã tróc ngói; còn ông phủ ( chỉ cậu tôi)mới làm tri phủ có ba năm về “chung dưỡng” mua được những mười mẫu ruộng, tôi biết là hạng đất tốt nhất, thế sao nói không có nhiều tiền ?”
Đòn thứ hai giáng xuống khiến chàng Phan chưa kịp phản ứng thì đã lãnh đòn thứ ba :
“-Ai có đời, cha đánh Tây mà con trở đi làm quan với Tây”.
Anh ta còn nói chính ông cậu tri phủ đã giúp Tây đàn áp nghĩa quân chống Pháp. Lại còn chuyện ông cậu hút thuốc phiện, làm trái với gia ước mà cụ Hoàng Diệu đã làm với anh em trong nhà cấm hút thuốc phiện.
Trước khi chia tay, anh ta xin lỗi chàng Phan vì lần đầu gặp gỡ mà nói toàn chuyện mếch lòng, nhưng ngỏ ý muốn gặp lại chàng một lần khác.
“Tôi vừa đi về nhà vừa nghĩ :’À ra Năm Chuột là con người như thế đấy.Là một anh thợ bạc, sao lại nói được những điều như thế, tôi lấy làm lạ”
Về nhà chàng kể chuyện Năm Chuột cho cha nghe. Cụ Phan Trân nói : “Cái thằng láo đến thế là cùng”.
Đúng là giai cấp bị trị, tức là nhân dân, dám moi móc phê phán giai cấp thống trị, tức là giai cấp quan lại. Chữ láo vừa có nghĩa nói phét, vừa có nghĩa hỗn xược.
Mười năm sau, khoảng 1920, chàng Phan đã 33 tuổi từ Hà Nội về làng, mới biết Năm Chuột đã lấy vợ, xin làng được một vạt đất nhỏ trên Cồn Mũi Gươm gọi là đất Chó Ỉa, dựng một túp lều tranh, phía trước đặt đồ nghề là một cái bễ thổi lửa để làm nghề rèn.
Chàng Phan đến thăm, anh ta tỏ ra vui mừng nhưng lần này gọi chàng là Ông. Chàng nói vẫn muốn được nghe những chuyện đại loại như mười năm trước. Anh ta nói :
“-Thôi thôi, đã lâu nay tôi không còn nói những chuyện như thế nữa. Nói không có người nghe mà còn có hại. Giá tôi còn cứ nói cái lối đó thì không thể nào lấy vợ và lập gia cư ở làng ông được”
-Đã thế thì đến phiên tôi. Trước kia ông không sợ mếch lòng tôi, thì bây giờ tôi cũng không sợ mếch lòng ông mà hỏi ông một vài điều”.
Năm Chuột sẵn sàng chịu sự phản pháo của chàng. Chàng hỏi anh ta rằng người ta đồn đại anh ta hay ăn cắp vàng khi nhận làm đồ, có thật thế không.
“Anh ta lại cười một cách xỏ lá : Thứ ăn cắp mà kể gì? Có những kẻ ăn cướp thì không ai nói đến. Tôi có ăn cắp vàng thật đấy, nhưng cũng tùy chỗ, tùy người, ở làng Bảo An đây thì tôi không thèm”
Anh ta bèn kể một thành tích đánh tráo vòng vàng của một cô hầu non của quan Tổng Đốc tỉnh Quảng Nam Nguyện Hữu Thắng vào năm Thành Thái thứ Mười Hai, và nhiều vụ khác nữa ; “Kể ra cũng không ít.Nhưng tôi đều ăn cắp ở bọn ăn cướp như Tổng đốc, Bố chánh, Án sát, Phủ, Huyện……….Những việc như thế tôi cũng chẳng giấu, cứ hay đem nói với người ta, cũng như nói với ông đây, cho nên mang tiếng, chứ thuở nay đã có ai bắt được tôi ăn cắp đâu”
Anh ta biểu diễn tài cân đồ vàng chỉ bằng cách nhấc nhấc bàn tay, không cần dùng cân tiểu ly. Kiến thức của anh ta về các loài kim, công thức hợp kim thế nào như hợp đồng với kẽm sẽ ra hợp chất gì làm cho chàng kinh ngạc. Chàng buột miệng hỏi anh ta học từ thầy chuyên môn nào, anh ta cười đắc ý, vỗ vào đùi chàng:
“Xưa nay mới có người hỏi tôi câu ấy là ông. Tôi chẳng học với thầy nào hết; tôi chỉ đọc có một cuốn sách là cuốn Kim Thạch Chí Biệt”
“Tôi sửng sốt nghĩ bụng : té ra anh này còn biếtt chữ nữa kia. Cái tên sách ấy tôi chưa hề nghe, cũng không dám ngờ là anh ta bịa đặt.”
Chàng không muốn bày ra cái dốt của mình nên không hỏi gì thêm, về nhà hỏi cha cũng không biết . Lâu sau bất ngờ đọc Lỗ Tấn Toàn Tập mới thấy tên cuốn sách đó. ( Lỗ Tấn : 1881-1936 nhà văn Trung Hoa ).
“Tôi nghĩ mà lấy làm thẹn, sao mình đã không biết mà lúc bấy giờ không hỏi ngay anh ta
Chỉ vì nghĩ mình là người học thức, viết báo viết biếc mà tỏ cái dốt trước một anh thợ bạc thì ê quá”.
Sau cuộc khám phá bất ngờ ấy, chàng Phan càng tò mò về con người này khiến chàng trở lại nhiều lần những năm sau đó. Hình như gặp được tri kỷ, anh ta bộc lộ hết trí tuệ của anh ta.
Có lần anh ta chê ông Tú già dốt, nói trong làng chỉ phục có hai người, là ông Tám Thứ và ông Biện Chín.
Chàng Phan không biết nhiều về ông Tám Thứ. Nhưng ông Biện Chín thì rõ ràng, vì đó là ông Phan Định , chú ruột của chàng, là cha của Phan Bôi và Phan Thanh.
“Chú tôi là dân tráng, nghèo,cố gắng làm mới cho con đi học được nhưng đúng là người cần kiệm liêm chính lại khảng khái nữa, chính tôi cũng phục chú tôi mà sợ thầy tôi”.
Chàng thầm khen Năm Chuột có mắt tinh đời, phê bình đúng. Nhưng không thấy anh ta nhắc đến cha mình là quan tri phủ Phan Trân, thì trong lòng hơi nghi ngại. Hay là cha của chàng có làm điều gì trái đạo lý chăng ?
Mãi lâu sau có lần anh ta bỗng hỏi về cha chàng. Tại sao mới 38 tuổi mà cụ đã cáo lão về hưu ? Chàng trả lời vì cụ cãi nhau với viên công sứ người Pháp. Anh ta vặn hỏi lại nếu đã không hợp tác với Tây thì ngay từ đầu đừng đi làm quan, đâu cần chờ đến khi cãi nhau với nó. Chàng Phan bí lối không trả lời được.
Anh ta bèn giải thích lý do sâu trầm tại sao cụ tự ý rút khỏi quan trường. Từ xa xưa rồi, làng Bảo An không phải là đất phát quan lớn như làng Đông Mỹ và Xuân Đài từng có Tổng đốc.
Nhiều người làng Bảo An học giỏi nhưng chỉ làm đến tri huyện, tri phủ thì thị cách. Ông cụ của chàng biết thế nên kiếm cớ tự rút lui không để bị cách.
Chàng Phan chỉ đành chịu chuyện mà phục cái lý luận chắc chắn của anh ta. Nhưng một sự kiện cuối cùng làm chàng sửng sốt nhất. Có lần chàng bỗng nhìn thấy lẫn lộn trong thùng đồ nghề của anh ta một cuốn sách chữ Hán đã cũ, nhem nhuốc, nhiều trang đã bị xé mất. Chàng tò mò rút ra, thấy nhan đề Thương Sơn Thi Tập.
Chàng biết thi tập này có 10 cuốn, mới hỏi anh ta sao chỉ có một cuốn . Anh ta nói giấy sách tốt nên quấn thuốc lá hút lá ngon lắm.
“Ông có xem không?
-Thơ của ông Hoàng, mình xem thế nào được.Tôi chỉ xem được có một bài Mại Trúc Diêu.
Tôi phát lạnh người”
Chàng có đọc sơ qua thi tập này nhưng không biết bài này thế nào, không dám hỏi vì sợ lòi cái dốt của mình.
Khi về nhà, chàng lục tìm trong bộ Thương Sơn mới thấy bài này, chàng bèn dịch ra Việt ngữ, đăng vào báo Phụ Nữ Tân Văn rồi sau nữa in chung trong tập Chương Dân Thi Thoại.
“Lục ra đây để bạn đọc thưởng thức cái mức thưởng thức văn học của anh thợ bạc:
Bài hát bán tre
Ngày đốn hai cây trúc
Bán đi để dằn bụng
Trong cửa tre đầy kho
Ngoài cửa tiền chẳng cho
Không nói thì cũng khổ
Nói thì roi dài sẽ quật chú
Rày về sau đừng đốn tre nữa
Đói nằm trong tre chết cũng đủ
Từ khi biết Năm Chuột có chữ nghĩa ẩn tàng, ông Phan Khôi thường đến chơi bàn luận thơ phú. Năm Chuột chỉ nghe, hỏi mà không góp ý kiến gì. Ông có vẻ trách điều này thì Năm Chuột nói :
“Người ta, cái gì biết ít thì chỉ nên nghe chứ không nên nói ; tôi không nói chuyện văn chương chữ nghĩa với ông, cũng như ông không dạy nghề thợ bạc cho tôi”
Năm 1944, cụ Phan Khôi đã 57 tuổi, thân phụ qua đời, cụ về nhà cư tang mấy tháng.
Rồi nhớ Năm Chuột, cụ ra Cồn Mũi Gươm thì chỉ thấy đất trống, túp lều tranh của vợ chồng Năm Chuột không còn nữa. Người ta nói anh ta đã dọn đi đâu từ lâu.
“Từ đó tôi mất Năm Chuột của tôi”.
Cụ nói “Năm Chuột của tôi” y như nói về một vật gì thân thương đã rời xa vĩnh viễn.
Có lần một người dân làng gọi Năm Chuột bằng ông. Ông Tú Già gọi lại mắng :”Mày gọi thằng Năm Chuột bằng ông, thì gọi tao bằng gì?”
Cụ Phan Khôi biết việc , bèn viết truyện ngắn này với đầu đề Ông Năm Chuột.
**************************
Làng Bảo An là biểu tượng thu nhỏ của một xã hội rộng lớn trong đó có một giai cấp thống trị, một giai cấp bị trị và một tầng lớp trung gian. Trong trường hợp làng Bảo An, quan tri phủ, tri huyện về hưu thuộc giai cấp thống trị ; Năm Chuột thuộc giai cấp bị trị ; ông tú già, ông Biện Chín thuộc tầng lớp trung gian. Ngôn ngữ Việt dùng hai từ ông và thằng để phân biệt giai cấp. Quan tri phủ nói “cái thằng láo quá”, ngay cả ông Biện Chín cũng khinh miệt Năm Chuột.
“Tôi có hỏi chú tôi và thuật lại lời Năm Chuột khen phục chú, thì chú tôi trách tôi sao lại đi nghe chuyện của Năm Chuột. Thì ra chú tôi cũng có thành kiến đối với Năm Chuột như thầy tôi, như người làng”. Ông tú già, không làm quan mà cũng mắng người dân “Mày gọi thằng Năm Chuột
bằng ông, thì gọi tao bằng gì?”
Ngược lại, giai cấp bị trị đâu có dám gọi người thuộc giai cấp thống trị bằng tiếng thằng mặc dù ai cũng biết nhân cách vô đạo đức của “ông quan đó” . Năm Chuột biết rõ ông cậu tri phủ của cụ Phan Khôi là theo Tây đàn áp nghĩa quân, là tham nhũng gộc trong ba năm mà mua được mười mẫu ruộng hạng tốt, là hút thuốc phiện, phản lại gia ước của huynh trưởng , thế mà khi gặp vẫn ngả nón ngang ngực bẩm quan lớn. Trong khi thực sự nhân cách và trí tuệ của Năm Chuột đáng được gọi bằng ông.
Có lẽ mặc cảm tự ty đã ăn sâu vào tâm não người bị trị; còn mặc cảm tự tôn cũng ăn sâu vào tâm não người thống trị. Nếu vào năm 1906, cậu tú Phan Khôi không tình cờ nói chuyện với Năm Chuột thì “việc gì phải để ý đến chuyện một anh thợ bạc” vì là cậu cả con quan tri phủ mà.
Đó là thái độ kiêu ngạo giai cấp thống trị mục hạ vô nhân đối với người dưới, tự cho là ở tầng cao trí tuệ. Chỉ sau khi nhận vài độc chiêu từ Năm Chuột, cậu tú mới tỉnh ngộ.
Qua câu chuyện Năm Chuột, cụ Phan Khôi đưa ra mấy luận điểm :
a/ Giai cấp lãnh đạo che giấu sự thối nát tưởng là nhân dân không biết.
b/ Giai cấp lãnh đạo không thể dạy văn chương nghệ thuật cho văn nghệ sĩ trí thức được
( cũng như cụ Phan không thể dạy nghề thợ bạc cho Năm Chuột được)
c/ Trí tuệ nhân dân còn cao hơn giai cấp lãnh đạo.
d/ Lòng yêu nước của nhân dân sâu đậm hơn vì giai cấp lãnh đạo dễ bị ngoại bang lũng đoạn.
e/ Giai cấp lãnh đạo ăn bám vào nhân dân
Có lẽ đảng cộng sản Việt Nam nhận ra thâm ý này của tác giả nên đóng cửa ngay tờ báo Văn số 36.
Hành động dó phải chăng xuất phát từ bệnh tự tôn, kiêu ngạo cộng sản? Không hẳn như vậy , vì từ triết học của Karl Marx ( 1818-1883) tỏa ra nhiều khuynh hướng chủ nghĩa cộng sản. Theo triết gia Merleau Ponty ( 1907-1961), có thể chia ra ba khuynh hướng chính, xét tương quan giữa ba thế lực : Giai cấp vô sản—Lịch sử nhân loại—Đảng cộng sản.
*Khuynh hướng của Lenin ( 1870-1924 ): Giai cấp vô sản chỉ có thể làm sứ mệnh lịch sử là tiêu diệt giai cấp tư bản thông qua sự lãnh đạo của Đảng cộng sản gồm những người cách mạng chuyên nghiệp. Sau này triết gia Jean Paul Sartre ( 1905-1980) nói một cách triết lý hơn : giai cấp vô sản chỉ hiện hữu được bằng cách tự đồng hóa với Đảng cộng sản.
*Khuynh hướng của triết gia George Lukacs (1885-1971). Theo triết gia người Hungary này, giai cấp vô sản và Đảng cộng sản là hai thế lực riêng biệt nhưng tương tác với nhau để hướng đạo cho lịch sử nhân loại. Như vậy Lukacs không coi Đảng là độc tôn.
*Khuynh hướng của Leon Trotsky ( 1879-1940) : Động lực chính đưa lịch sử đến thời sụp đổ của chủ nghĩa tư bản là giai cấp vô sản ; Đảng cộng sản chỉ là yếu tố phụ.
(Merleau Ponty—Les Aventures De La Dialectique—Gallimard—Paris 1955—Bản dịch Anh ngữ của Joseph Bien : Adventures of The Dialectic—Northwestern University Press—USA-1973)
Sau khi Lenin chết, Stalin ( 1878-1953) tuyệt đối theo khuynh hướng Lenin và triệt hạ hai khuynh hướng kia. Từ 1924 đến 1940 Stalin thanh trừng tất cả những đối thủ còn sót lại trong đảng cộng sản Liên xô và trở thành một thứ Nga Hoàng mới. Đảng cộng sản Liên xô và những đảng cộng sản chư hầu ở những nước khác trở thành những đảng chuyên chế toàn trị. Trong nhân loại , ngoài hai giai cấp lớn vô sản và tư bản, xuất hiện một giai cấp mới mà người Nga gọi là giai cấp Nomenklatura gồm những đảng viên cao cấp hưởng những đặc quyền đặc lợi vô giới hạn.
Theo triết gia Merleau Ponty, đảng cộng sản của Stalin từ 1924 đến 1953 không còn tính cách mạng của thời trước và trong năm 1917 nữa. Nó biến thành một guồng máy thư lại.
Nói theo ngôn ngữ bóng bẩy của Lê Đạt, Phan Khôi , đó là guồng máy của những Ông Bình Vôi, vì “lòng nó đã đặc, miệng nó bít lạị”.
Những người cộng sản theo khuynh hướng Lenin dễ mắc bệnh tự tôn giống như những ông quan triều đình luôn luôn nhìn giai cấp Năm Chuột là những thằng ngu si hèn mọn. Họ coi “bọn tờ-rốt-kít đệ tứ” là thụ động vì không chủ động dẫn đạo lịch sử.
Cụ Phan Khôi viết về hai ông, ông bình vôi thuộc giai cấp thống trị, ông Năm Chuột thuộc giai cấp bị trị. Một đàng, vì sợ mà gọi bằng ông ; một đàng vì phục mà gọi bằng ông. Hai ông đó có nằm trong tiến trình biện chứng chính đề-phản đề đấu tranh nhau để đi đến một tổng đề nào không? Người ta thường gọi đó là biện chứng chủ nô. Là nhà văn, cụ Phan Khôi chỉ mô tả cái hiện tượng mâu thuẫn chủ nô mà thôi.
Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Cụ Phan Khôi qua đời, kẻ hậu sinh chúng tôi vì tò mò nhìn lại một chặng đường lịch sử dân tộc, mạo muội viết vài hàng tưởng niệm Cụ. Chắc chắn có những điều kẻ hậu sinh hiểu không đúng, một phần vì kiến thức ít ỏi, một phần vì lịch sử mù mờ quá , kính mong hương hồn Cụ bao dung tha thứ .
Đào Ngọc Phong
California ngày 8 tháng 11 năm 2019
Tài Liệu Tham Khảo
*Hoàng Văn Chí—Trăm Hoa Đua Nở Trên Đất Bắc—Mặt Trận Bảo Vệ tự Do Văn Hóa—In lần thứ nhất, Sài Gón 1959—in lần thứ hai USA 1990 ).
*Thụy Khuê —Nhân Văn Giai Phẩm Và Vấn Đề Nguyễn Ái Quốc—nxb Tiếng Quê Hương-Virginia—USA -2012
*Merleau Ponty—Les Aventures De La Dialectique—Gallimard –Paris 1955—Bản Dịch Anh Ngữ của Joseph Bien- Adventures of the Dialectic—Northwestern University—USA 1973—Những Bước Phiêu Lưu của Phép Biện Chứng )
*Lê Mạnh Hùng –Nhìn Lại Sử Việt—Thời Cận Hiện Đại—1945-1975—Tổ Hợp Xuất Bản Miền
Đông Hoa Kỳ –2015.
*Nguyễn Minh Cần –Đảng Cộng Sản Việt Nam Qua Những Biến Động Trong Phong Trào Cộng Sản Quốc Tế–Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ-2016
*Lê Hoài Nguyên—Vụ Nhân Văn Giai Phẩm Từ Góc Nhìn Một Trào Lưu Tư Tưởng Dân chủ, Một Cuộc Cách Mạng Không Thành—Blog Nguyễn Trọng Tạo.Org.
*Doãn Quốc Sỹ –Khu Rừng Lau—www.doanquocsy.com
*Heinz Schutte –Năm Mươi Năm Sau: Trăm Hoa Đua Nở Ở Việt Nam 1954-1960 –Talawas,com
(Nguyên tác Đức ngữ : Funfzig Jahre danach: Hundert Blumen in Viet Nam 1954-1960)
From: Bác sĩ: Phùng Văn Hạnh
CHUYẾN BAY CUỐI CÙNG TỪ ĐÀ NẴNG
Bài này trich từ cuốn ” Nước mắt trươc cơn mưa ” của Larry Engelmann
Do Nguyễn Bá Trạc dịch.
PART 1
CHUYẾN BAY CUỐI CÙNG TỪ ĐÀ NẴNG
JAN Wollett
(Nữ Trưởng Tiếp Viên Hàng Không)
“Tại sao họ bắn? Chúng tôi là những người bạn tốt”
Ngày 29/3/1975 đáng lẽ nhân viên khách sạn Sài Gòn phải đánh thức tôi dậy lúc 5 giờ sáng . Tôi là tiếp viên trưởng của một chuyến bay khứ hồi ra Đà Nẵng . Nhưng 5 giờ sáng hôm ấy không có ai đánh thức tôi dậy. Khoảng 6 giờ sáng mới có điện thoại của Val Witherspool, một nữ tiếp viên khác. Cô ấy bảo: “Chị xuống ngay phòng đợi khách sạn trong vòng 5 phút.” Khoác bộ đồng phục, tôi lập tức chạy xuống cầu thang. Ông Ed Daly và Val đang chờ tôi ở dưới nhà. Bruce Dunning, làm việc cho hãng tin CBS cũng đã có mặt. Tôi bảo Bruce: “Bọn này phải ra Đà Nẵng”. Anh ta nói: “Có tin thành phố này rơi vào tay Bắc Việt rồi” Tôi nói: “Nếu thành phố này đã mất thì chúng tôi đâu có đi” Bruce yêu cầu được đi theo chuyến bay. Ông Daly bảo: “Muốn đi thì đi. Có mặt ở phi trường Tân Sơn Nhất trong vòng một giờ đồng hồ nữa.”
Bruce tập họp Mike Marriotte, chuyên viên quay phim và Mai Văn Đức, chuyên viên âm thanh, rồi chở họ ra phi trường. Chúng tôi bước lên chiếc World Airway Boeing 727. Là tiếp viên trưởng, tôi được thông báo là sẽ có một hay hai tiếp viên người Việt đi thông dịch, sẽ có binh sĩ bảo vệ để đương đầu với đám đông. Hôm trước, chúng tôi đã gặp khó khăn ở Đà Nẵng, và chúng tôi cũng sẽ phải mang theo nước ngọt, nước cam, bánh mì săng-uých cho hành khách.
Vừa vào phi cơ, tôi nói với Val và Atsako Okuka, một nữ tiếp viên khác: “Các bạn hãy xem xét ngay mọi thứ.” Chúng tôi thấy không có đồ ăn thức uống. Đó là dấu hiệu đầu tiên cho biết một cái gì bất thường đang xẩy ra…Không nước ngọt, không nước cam, không bánh mì, không đồ ăn thức uống trên phi cơ. Cũng không có tiếp viên người Việt, cũng chẳng có binh sĩ bảo vệ nào hết.
Chúng tôi thảo luận xem có nên bay ra hay không. Lúc ấy Daly và phi hành đoàn đã lên phi cơ rồi. Dunning và toán làm tin CBS cũng vậy. Hai nhân viên cơ quan USAID leo lên. Họ trấn an chúng tôi là mọi việc ở Đà Nẵng cũng tốt thôi, không cần gì đến binh sĩ bảo vệ.
Lúc đó 8 giờ sáng, quá muộn so với giờ ấn định máy bay cất cánh. Ông Daly quyết định cứ đi Đà Nẵng để đón một số người tỵ nạn gồm đàn bà và trẻ em mà khỏi cần đến binh lính hộ tống hay thông dịch viên.
Chuyến bay ra khá êm. Chúng tôi mang theo một nhà báo người Anh và một người nữa của hãng tin UPI. Trong chuyến bay chúng tôi chuyện trò thân mật với nhau.
Phi cơ bắt đầu đổi cao độ để hạ xuống Đà Nẵng. Theo kế hoạch, sau chúng tôi 20 phút sẽ có một chuyến World Airway 727 khác do Don McDaniel lái. Sau anh ta, lại một chuyến 727 nữa do Dave Wanio điều khiển. Chúng tôi dự tính sẽ đậu từ 10 đến 15 phút để lấy khách rồi cất cánh, để chuyến thứ hai, rồi thứ ba đáp xuống. Với cách ấy chúng tôi có thể đem đi được 3 chuyến trong vòng dưới một tiếng đồng hồ.
Nhưng khi hạ cánh có một cái gì rất lạ lùng.
Không hề thấy một bóng người.
Không một ai, cả phi trường hoàn toàn hoang vắng. Đột nhiên trong lúc phi cơ đang “chạy taxi” trên đường vào bến, đoàn người chợt xuất hiện. Họ chạy ào ra từ những nhà chứa máy bay, Hàng ngàn con người-tôi nói đúng nghĩa là hàng ngàn con người đua nhau chạy đến chúng tôi- Họ chạy bộ, chạy xe gắn máy, chạy xe thùng, xe Jeep, xe hơi, xe đạp…Họ chạy đến phía chúng tôi bằng bất cứ phương tiện nào họ kiếm được.
Chúng tôi đã có một kế hoạch là ông Daly và Joe Hrezo, trưởng trạm của hãng World Airways sẽ ra khỏi phi cơ. Họ sẽ lo việc sắp hàng hành khách ở lối vào cầu thang phía sau. Tôi sẽ đứng ở phía trước phi cơ, Atsaco ở giữa còn Val đứng ở khoảng sau.
Chúng tôi cho phi cơ chậm lại. Lúc ấy tôi đang đứng trong phòng lái nhìn ra cửa sổ trước, chợt thấy có điều kỳ lạ. Một nhóm người lái chiếc xe vận tải nhỏ đuổi bên cạnh chiếc tàu bay. Một người đàn ông nhảy khỏi xe, chạy đến trước chúng tôi. Tôi nhìn về phía anh ta, lúc ấy chúng tôi đang đi chậm, anh ta rút một khẩu súng lục, bắn vào chúng tôi.
Đột nhiên tôi có cái cảm giác kinh dị y như đang đứng giữa khung cảnh của một phim cao bồi. Tôi đã nghĩ rằng: “Tại sao họ bắn chúng tôi? Chúng tôi là những người bạn tốt!”
Chúng tôi cho tàu chạy khỏi người đàn ông có súng và đi chậm lại ở phía xa. Bây giờ tôi bắt đầu chờ người khách đầu tiên lên phi cơ. Chúng tôi dự tính sẽ cho họ ngồi vào ghế, bắt đầu từ những hàng trước, lần lượt đến phía sau, sẽ sắp đặt họ trong vòng trật tự.
Rồi những người lính bắt đầu lên.
Họ chạy xồng xộc với cặp mắt man dại. Chừng chín người lính đã lên, tôi xếp họ ngồi vào ghế. Rồi người thứ mười lên, nhưng hắn không chịu ngồi. Hắn bị kích động, cứ chạy lên chạy xuống la lớn bằng tiếng Anh: “Bay đi! Bay đi! Bay đi! Chúng nó sắp pháo kích vào phi trường kìa!” Hắn cứ la hét như thế mãi. Tôi nắm lấy hắn, tôi cũng hét lên: “Im mồm, tôi bảo ông ngồi đâu thì ông ngồi xuống đó.” Tôi đẩy hắn xuống ghế.
Nhưng có điều lạ: rất ít người lên phi cơ. Vì vậy tôi nghĩ cần phải ra sau xem có chuyện gì…Tôi thấy Daly dưới chân cầu thang đang bị dằn xé. Áo ông rách vụn. Joe Hrezo biến đâu mất. Val đang cố giúp Daly lôi người lên cầu thang trong lúc tàu bay cứ tiếp tục chạy trên phi đạo. Còn dưới chân thang, hàng trăm người tuyệt vọng, điên cuồng, la hét cố bấu víu lấy Val và Daly. Đoàn người tiến đến không ngừng. Họ từ khắp phía, chạy đến cầu thang không ngớt. Tôi leo xuống. Daly ở dưới thang, ông cố lập trật tự bằng khẩu súng lục vung lên trời. Val cố giúp những người đang leo qua cạnh cầu thang. Một gia đình 5 người chạy đến phía tôi cầu cứu. Đó là bà mẹ, ông bố, hai đứa con nhỏ, một trẻ sơ sinh còn ẵm trên tay mẹ. Tôi có thể nhìn rõ nét sợ hãi trên khuôn mặt khi họ cố chạy đến phía tôi. Tôi quay lại định nắm tay người mẹ kéo lên. Trước khi tôi kịp nắm tay bà, một người đàn ông đứng sau đã nổ súng vào 5 người này. Họ ngã gục cả xuống, đám đông đạp ngay lên xác họ. Cái hình ảnh cuối mà tôi thấy là họ biến mất dưới chân đám đông. Chỉ vài tiếng nổ lớn, họ biến mất, tất cả những người ấy. Còn gã đàn ông vừa bắn xong đã đạp ngay lên thân họ để leo tới cầu thang. Hắn đè lên mọi người, chạy vào lòng phi cơ. Tất cả mọi thứ quá sức hỗn loạn điên cuồng. Tôi còn nhớ vào giây phút điên dại ấy, tôi nghĩ: “Chốc nữa sẽ tính chuyện này”, tôi tiếp tục kéo người lên phi cơ. Chợt cảm thấy một người đàn bà đang níu tôi từ phía hông cầu thang, bà nắm cánh tay tôi, cố lọt lên bực thang. Tôi muốn giúp bà ta nhưng cũng sợ bị rơi tuột khỏi thành cầu. Tôi bèn quay lại nắm cánh tay người đàn bà, kéo qua thành cầu. Nhưng một người đàn ông ở phía sau đã níu lấy, giựt bà khỏi tay tôi. Khi bà rơi xuống, người đàn ông kia đạp ngay lên lưng, lên đầu người đàn bà để leo lên thang. Hắn dùng người đàn bà như một hòn đá kê. Daly nhìn thấy chuyện xảy ra. Liền khi gã đàn ông tung được chân qua thành cầu, Daly nắm khẩu súng đập một cú vào đầu gã. Tôi nhớ lúc ấy đột nhiên tôi thấy vòi máu vọt ra, gã đàn ông rơi xuống, người ta đạp lên hắn. Tôi nhớ tôi đã nghĩ: “Đáng kiếp”. Gã đàn ông này biến mất dưới bàn chân dày xéo của đám đông.
Lúc ấy người đổ ùn ùn vào phi cơ, tôi chạy trở vào xem Atsatko có xếp nổi chỗ ngồi không. Cô nắm lấy tay tôi, bảo: “Đại úy Ken Healy đang cần chị”. Tôi đến phòng lái gõ cửa. Cửa mở, Đại úy Healy bảo: “Joe Hrezo đã lạc khỏi phi cơ. Khi nào hắn trở lại được cho biết.” Tôi đáp: “OK.” Chuyện xảy ra là Joe và thông tín viên người Anh đã bị đám đông kéo tuột khỏi tàu, không trở vào được nữa. Chúng tôi lạc mất cả hai người. Joe tự chạy tới đài kiểm soát không lưu, người kiểm soát viên cho anh ta vào. Sau đó Joe liên lạc được với máy bay. Ken Healy cho biết chúng tôi sẽ “chạy taxi” đi rà trên đường vào bãi và yêu cầu Joe phóng ra khi máy bay tới gần. Chúng tôi sẽ không dừng một giây nào. Liền khi Joe lọt vào phi cơ, chúng tôi sẽ cất cánh. Đại úy Ken Healy bảo: “Khi thấy chắc chắn Joe vào phi cơ rồi, gõ lên cánh cửa cho tôi hay”. Tôi đi sau, bảo Val: “ Val, canh chừng cầu thang, thấy Joe vào thì giơ tay, tôi sẽ ra hiệu cho Ken biết”
Trong khi đợi phi cơ chạy qua đài kiểm soát, người ta tiếp tục ào tới. Chúng tôi ấn họ xuống, 5, 6 người một ghế. Trong lúc làm việc, tôi nhớ là đã tự hỏi: “Thế còn đàn bà, trẻ con đâu hết?” Hóa ra, mọi hành khách đều là binh sĩ. Sau đó, tôi đếm chỉ có 11 người đàn bà và trẻ con. Tất cả chỉ có thế! Còn lại đều là binh sĩ…
Mọi người ngồi trên ghế với những bộ mặt căng thẳng. Gã khùng vẫn tiếp tục la lối: “Bay đi! Bay đi! Bay đi!”
Khi tàu đến gần đài kiểm soát. Daly vẫn còn đâu đó dưới cầu thang để kéo người vào. Tàu chạy rà qua đài kiểm soát được một lát, Val quay người lại, giơ tay lên. Tôi gõ vào cửa phòng lái. Phi cơ bắt đầu rồ máy. Chúng tôi gia tăng vận tốc. Gã khùng lúc trước la lối đòi bay, bây giờ sợ hãi thét lên: “Ối! Ối! tàu bay đang cất cánh trên cỏ.”
Thật ra, chúng tôi chạy để cất cánh từ phi đạo, lối vào bãi đậu, và Ken đã rồ máy để cảnh cáo người ta tránh ra, nếu không chúng tôi sẽ cán qua mà chạy.
Phi cơ leo lên cỏ vì đã vào cuối đường bến, không còn cách nào trở lại được. Chúng tôi cứ tăng tốc lực bay vượt lên, do đó đã đụng phải một chiếc xe và một cọc hàng rào gây hư hỏng cho cánh phi cơ. Nhưng hư hỏng trầm trọng nhất là do đạn và lựu đạn ném vào một bên cánh. Ở trong phi cơ, chúng tôi không thấy được hư hại, không rõ tình trạng thế nào. Nhưng đại úy Ken Healy biết rất rõ.
Dầu thế, chúng tôi vẫn phải bay lên. Phải thoát khỏi Đà Nẵng. Chưa một giây phút nào tôi nghĩ là không thể thoát. Không ai có thì giờ để nghĩ những điều như vậy giữa cơn rối loạn. Sau này tôi khám phá được suýt chút nữa chúng tôi đã không thoát. Đáng lẽ chúng tôi đã mất mạng vì các hư hỏng của phi cơ. Với 358 con người ở lòng tàu, còn lại 60 người khác trong khoang chở hàng, có cả người mắc trên bánh xe. Chiếc máy bay này thật sự chỉ dùng để chở có 133 hành khách thôi.
Sau này Ken Healy gởi cho hãng Boeing những con số thống kê liên hệ đến chuyến bay. Người ta cho chạy điện toán rồi bảo chúng tôi: Theo cách tính của họ, phi cơ chẳng thể nào cất cánh. Vậy mà chúng tôi đã cất cánh được. Sau Ken cũng gởi cho Boeing một điện tín khác, nói: “Quý ông quả đã chế được một cái tàu bay tốt hết xảy.”
Sau khi cất cánh, tôi bắt đầu đếm hành khách. Tôi chú ý một người ngồi ghế trước, mặt tái xanh, bị thương nặng, ruột đổ lòng thòng. Tôi dùng tay nhét đại ruột vào, giật cái khăn trên cổ một người nào đó quấn quanh bụng ông ta lại. Tôi kéo thùng cứu thương xuống. Thuốc men mất đâu cả từ Sài Gòn. Chúng tôi không có bất cứ một vật dụng y khoa nào trên tàu. Trống trơn. Không thuốc men bông băng gì. Sau khi tạm ổn thỏa với người đàn ông ghế trước, tôi nhìn ra lối đi, thấy một người khác đang bò lết đến bên tôi. Tôi nhận ra gã, đầu bê bết máu. Máu vấy đầy mặt. Chính là gã đàn ông đã kéo người đàn bà ra khỏi tay tôi. Đó là gã đàn ông bị Daly nện với khẩu súng lục. Lần sau chót tôi thấy hình ảnh người đàn bà bị nghiến trên mặt đất. Cũng lần sau chót tôi thấy gã đàn ông này bị đám đông đạp lên. Vậy mà sao gã cũng lết được vào phi cơ? Bây giờ gã đang bò. Tôi nhớ đó là lần duy nhất trong ngày tôi đã cầu nguyện, tôi cầu: “Lạy chúa. Xin đừng để cho gã này tiến lại gần con”. Gã cứ lồm cồm lết đến. Gã nắm lấy ống quần tôi. Gã nhìn lên tôi. Gã chỉ nói: “Xin cứu tôi”
Thế là tôi nắm đại một người, kéo khỏi ghế, tôi giúp gã ngồi vào ghế. Đầu gã nứt, tôi có thể nhìn thấy bên trong máu lầy nhầy. Không có gì để cầm máu cả. Tôi biết nếu tôi không giúp cho máu cầm lại, gã sẽ chết ngay trên tay tôi. Một người lính ngồi bên cạnh mặc cái áo tác xạ. Tôi xé toạc cái áo, bốc một nắm mạt cưa nhét vào vết thương. Tôi cứ nhồi mãi mạt cưa vào để chận vòi máu. Chắc chắn giới Y khoa Mỹ sẽ giật mình với phương pháp này, nhưng nó đã tỏ ra hữu hiệu. Tôi giật lấy cái sơ mi của một người khác, buộc quanh đầu gã để giữ mạt cưa lại…
Gã được bình yên suốt chuyến bay. Gã thật mạnh, không bị bất tỉnh lần nào. Tôi đi về phía sau lần nữa, thấy Val, Daly và Joe Hrezo đang cố kéo một người đàn ông mắc kẹt trong cầu thang sau. Cửa máy bay sau không đóng được. Người ấy bị kẹt trong thang, gẫy chân. Sau cùng họ lôi được người này ra, mang vào trong phi cơ. Val và tôi cố bó cái chân gẫy với một miếng gỗ – Lúc ấy Joe bảo tôi rằng thông tín viên người Anh không trở lại được. Anh ta bước ra phi đạo Đà Nẵng để thu hình đám đông, rồi vô phương trở vào phi cơ trong lúc rối loạn. Anh ta còn ở trong đài kiểm soát. Ken Healy hứa sẽ có một chiếc trực thăng Air America đến đón. Về sau, anh ta cũng đã trở vào được Cam Ranh. Val, Atsako và tôi tiếp tục cấp cứu cho mọi người trên tàu. Việc này chiếm hết thì giờ và tôi đoán là khi đã bay được một giờ đồng hồ thì chúng tôi mới bắt đầu nhìn đến các hành khách khác không bị thương. Tôi thấy vẻ kinh sợ trên mặt họ. Cuối cùng, họ nhận thức được họ đã làm những gì. Họ bắt đầu hỏi “Còn những chuyến bay khác nữa không?”
Chúng tôi trấn an bằng cách nói thác: “Còn chứ, còn nhiều chuyến nữa.” Những người này bây giờ đã hiểu ý nghĩa việc bắn giết đồng bào để leo vào chuyến bay. Bây giờ họ ân hận. Đành nói dối thôi, chứ chúng tôi cũng biết sẽ không còn chuyến nào ra Đà Nẵng nữa. Đây là chuyến chót. Những người đi sau không ra nữa. Ken Healy đã liên lạc với Don McDaniel của chuyến 727 kế, bảo anh ta đợi chúng tôi ở Phan Rang, và bảo anh ta điện cho Dave Wanio quay lại Sàigòn để sửa soạn việc hạ cánh khẩn cấp. Tàu chúng tôi hư hỏng nặng, Ken không dám chắc bánh xe buông xuống được khi chúng tôi xuống Sàigòn. Tôi hiểu điều đó có nghĩa gì.
Trong lúc ấy, phi cơ nóng kinh khủng mặc dù thang máy bay phía sau vẫn hạ xuống, cửa sau vẫn mở trống hốc. Người ta không thể thở nổi trong máy bay với chừng ấy con người – chúng tôi nhờ Đức, chuyên viên âm thanh của CBS luôn luôn nhắc nhở bằng tiếng Việt trên máy phát thanh là “Yêu cầu đừng hút thuốc.” Hành khách tuyệt đối cấm hút thuốc, và nếu có người hút thuốc là hỏa hoạn sẽ xảy ra lập tức.
Sau công tác cứu thương cho hành khách, tôi nhận ra trên máy bay không có gì cho họ uống. Nhưng có một ngăn nước đá đã chảy, bây giờ đầy nước lạnh. Tôi bảo Bruce Dunning xé tấm màn ra từng miếng vải vuông nhỏ, nhúng nước. Tôi lấy những mảnh vải ướt, đi lên đi xuống chuyển cho hành khách tạm thời lau mặt. Người nào cũng nhễ nhại mồ hôi. Tôi bảo Val và Atsako làm một cái gì để nâng tinh thần những người này. Sau những gì họ đã làm với chính các bè bạn, chiến hữu họ, sự xúc động đang chậm chạp kéo đến dày vò họ. Họ đã bỏ gia đình. Họ đã giành giật, bắn giết nhau để lấn vào tàu. Bây giờ cơn náo loạn biến mất, nhận thức về cái ghê tởm đã xảy ra đang ngấm dần.
Vì thế, chúng tôi đi quanh, nói chuyện, vỗ vai, chùi mặt mày, lau tay, cố làm một vài điều giúp họ thoải mái đôi chút.
Lúc ấy, tôi cũng chết khát. Daly đến bên, mở áo sơ mi ló ra cho thấy một chai coca. Ông bảo “ra phòng lái.” Tôi đi ra phòng lái, ngồi xuống ghế quan sát viên, Daly tiến đến với một chai coca. Ông mở nút đưa tôi. Tôi nhớ tôi đưa chai coca lên miệng, nhưng nước cứ trào khỏi cằm, chảy xuống bộ đồng phục. Tôi không nuốt nổi. Chúng tôi chuyền cái chai coca độc nhất quanh phòng lái. Một lần nữa, Ken Healy nói với tôi về các hư hỏng của chiếc tàu bay. Ông bảo không dám chắc cái bánh xe mũi có thể buông xuống được, nếu nó xuống được, chưa chắc sẽ chịu đựng được thân tàu. Ông báo động: phải sẵn sàng đối phó bất cứ điều gì khi hạ cánh xuống Sàigòn.
Tôi trở lại khoang hành khách, phục vụ loanh quanh. Chợt mọi người đều xúc động nhìn qua phía trái. Chúng tôi đã bay đến Phan Rang. Don McDaniel và phi hành đoàn đang bay ở cao độ 35,000 bộ, họ đang chờ chúng tôi. Cuối cùng họ thấy một chấm đen ở phía dưới, họ nhận ra chúng tôi và đang bay xuống phía chúng tôi. Chúng tôi nhìn ra cửa sổ. Ngoài kia, tương phản với bầu trời xanh tuyệt vời, trên đám mây trắng nõn là chiếc tàu bay World 727 xinh đẹp màu đỏ và trắng. Một cảm giác sảng khoái đột nhiên chạy qua khắp chiếc tàu, và lúc ấy tôi biết cái cảm giác này cũng đi suốt qua tôi. Chúng tôi biết một chiếc phi cơ chị em đã tìm ra chúng tôi. Chúng tôi sẽ an toàn vì cô chị chúng tôi nay đang hộ tống chúng tôi trở về bình an.
Thế là anh chàng Don McDaniel lái chiếc tàu bay của anh ta lượn quanh chiếc tàu bay chúng tôi để lượng giá những hư hỏng. Anh ta gọi Ken Healy, bảo “’Hình như có một xác chết lủng lẳng trên bánh xe của bạn.” Ken đã hỏi anh ta về việc đó. Một người bị cán khi bánh xe lùi lại. Nhưng cái chết của người này đã cứu mạng sống của tám người khác dưới guồng bánh xe vì xác chết đã cản cần máy lại, không làm cho bánh xe lùi thêm nữa.
Như vậy lúc đó chúng tôi biết sẽ phải đương đầu với nhiều vấn đề gây ra bởi bánh xe. Các cửa khoang chở đồ mở toang, cầu thang sau còn treo thòng xuống, cửa sau cũng mở trống, vành xếp của cánh máy bay bị đạn bắn sẽ không hoạt động khi hạ cánh. Chúng tôi đang ở tình trạng khó khăn nghiêm trọng.
Phi cơ tiếp tục bay về Sàigòn.
Tôi nói với Val “vào phòng rửa mặt,” ở đây tôi nói cho Val biết những cái trục trặc của tàu bay. Lúc hạ cánh, tôi sẽ ngồi hàng ghế trên, Val sẽ ngồi sau khoang phi cơ. Tôi bảo không biết chúng tôi thoát được không. Tôi dặn dò vài điều nhắn cho gia đình tôi trong trường hợp Val sống sót và nếu tôi không thoát được. Tôi bảo “Hãy cho gia đình tôi biết mọi sự cũng ổn thôi. Tôi đã không hề sợ hãi gì. “Tôi không khóc. Cô cũng vậy. Người ta không có thì giờ dành cho xúc cảm, mà hiển nhiên đây là lúc đầy cảm xúc, nhưng người ta đành phải giấu đi thôi.
Thế rồi phút cuối cùng của chuyến bay phải đến. Từ sau thân tàu, tôi bắt đầu đi lên, và đây là lúc một hành động tự phát xuất hiện. Một người đàn ông trao vào tay tôi khẩu M.16. Anh không nói tiếng Anh, tôi không nói được tiếng Việt, tôi không rõ anh ta muốn gì. Nhưng rồi tôi hiểu: anh muốn tôi hãy nhận lấy khẩu súng của anh. Vì thế tôi khoác cái khẩu súng khốn nạn lên vai, trong lúc bước đi, người ta bắt đầu trao thêm cho tôi mọi thứ khác. Khi đến phòng lái, trên vai tôi đã có vài khẩu M.16 lủng lẳng, một băng đầy đạn, một nắm đạn rời. Một vài người đã trao một hay hai viên, vài người khác trao cho tôi nhiều hơn, tôi còn có hai khẩu súng lục treo trên ngón tay. Chính lúc ấy – khi tôi đang nắm những viên đạn nhỏ và những thứ vũ khí trong tay – đột nhiên một cảm giác rõ rệt bừng ra – cuộc chiến của những người này đã chấm dứt. Họ không muốn súng đạn hay bất cứ gì nữa. Điều ấy thực chua chát: chính họ cũng đã ở cuối đường.
Khi tôi gần đến phòng lái, một gã khùng đặt một quả lựu đạn lên trên các thứ trong tay tôi. Tôi nhìn xuống, tự nghĩ “Trời ơi – một quả lựu đạn!” Phản ứng bản năng tôi là định xoay người, ném xuống phía sau máy bay. Nhưng tôi sợ nó đụng cầu thang phát nổ, tôi nghĩ “Chúa-ơi-tôi-sẽ-làm-gì-với- những-thứ-này?” Tôi đi về phòng lái, đá cửa. Charlie Stewart, kỹ sư chuyến bay mở ra. Tôi nói với anh: “Charlie, cầm lấy mấy cái này!” Tôi chưa bao giờ từng chạm tay đến một quả lựu đạn. Charlie cầm lấy. Anh ta và Mike Marriott vội tìm băng keo quấn lại. Họ quấn băng keo quanh quả lựu đạn, và mọi thứ tôi mang vào. Nếu lỡ có gì phát nổ, họ muốn bọc bớt lại càng nhiều càng tốt.
Đã đến lúc hạ xuống Sàigòn. Tôi gọi Mike Marriott tới bên cửa hông, chỉ cho anh cách mở cửa khẩn cấp và cách bung cầu tuột. Thông thường, đó là việc của Atsako, nhưng cô là tiếp viên mới, tiếng Anh không thạo, không chắc cô sẽ đối phó được trường họp khẩn cấp. Cho nên tôi muốn có một người đàn ông ngồi đấy.
Lúc tôi đang ngồi ở ghế trên với Bruce Dunning thì Daly từ phòng lái bước ra, ông yêu cầu Bruce xuống phía sau tàu. Ông muốn Bruce mang các phim ảnh quay được ở Đà Nẵng ra phía sau, nếu không ai sống sót thì các phim ảnh vẫn phải được bảo toàn. Tất cả đều cảm thấy mãnh liệt: Nếu chúng tôi không thoát, thế giới vẫn cần phải biết những gì xảy ra hôm ấy.
Daly đến, ngồi xuống cạnh tôi. Ông hỏi tôi có biết gì tình trạng chiếc máy bay không. Tôi nói biết. Ông hỏi tôi có sợ không. Tôi nói “Không, tôi không sợ chết.” Ông choàng cánh tay ôm tôi, nói “Cô bảnh lắm. Tôi sẽ đãi cô nhậu một chầu nếu mình thoát ở Sàigòn.” Tôi nói “Ông Daly, nếu sống sót, xin ông mua cho tôi một két bia.” Ông ta cười.
Rồi Daly lại bảo tôi “Những người này không hề biết súng của tôi trống rỗng.” Ông đã bắn hết đạn trong lúc cố duy trì trật tự ở cầu thang máy bay tại Đà Nẵng. Ông bảo “Tôi sẽ giữ khẩu súng để kiểm soát họ khi hạ cánh, như thế cô sẽ có thì giờ mở cửa và bung cầu tuột.” Tôi đáp “Tốt lắm.”
Chúng tôi bắt đầu một cuộc hạ cánh khá dài để xuống Sàigòn. Phi cơ bay hơi nhanh, tất nhiên không nên bay nhanh như vậy để hạ cánh, nhưng chúng tôi không điều chỉnh được vành xếp ở cánh. Và tôi ngồi ở cái ghế đặt ngay vị trí bánh xe mũi, ngồi đấy, tôi có thể cảm thấy bánh mũi có hạ xuống không? Có chống được thân tàu hay không? Rồi tôi cảm thấy bánh xe chính chạm phi đạo, tôi thấy phi trường bay vượt qua. Tôi cố chờ để cảm thấy cái bánh xe mũi hạ xuống mặt đường. Nhưng Ken đã giữ cho mũi máy bay cách khoảng mặt đất thật lâu. Tôi không hiểu làm thế nào anh đã giữ được như thế. Bỗng tôi thấy các toà nhà vút qua. Tàu chúng tôi đang chạy ngay trên phi đạo. Tôi hiểu bánh mũi đã hạ và chịu đựng được. Thế mà tôi không cảm thấy nó hạ xuống lúc nào. Ken đã khéo léo điều khiển chiếc 727 đáp xuống Sàigòn một cách nhẹ nhàng như thế. Rồi phi cơ cứ vùn vụt chạy trên phi đạo, vì chúng tôi không thể ngừng. Cảm ơn Thượng Đế, Sàigòn có được cái phi đạo dài 14,000 bộ! Bốn chiếc xe cứu hỏa chạy nhanh, kèm bên chúng tôi. Cuối cùng, chúng tôi quẹo qua đường vào bến. Phi cơ ngừng, không tỏ dấu hiệu rõ rệt nào là có sự nguy khốn cả. Tôi nhảy ra, mở cửa, nhưng không bung cầu cấp cứu. Joe Hrezo đã đứng trên mặt đất, hẳn anh ta đã chạy xuống bằng thang sau. Cùng một lúc, Joe và tôi la lên: “Xe tải thương, cáng cứu thương! Chúng tôi cần xe tải thương, cáng cứu thương.”
Người ta mang cầu thang đến cửa trước. Mọi người bên trong ngồi im lặng. Qua máy phóng thanh, Đức nhắc đi nhắc lại: “Ngồi yên, đừng di chuyển.” Không ai nhúc nhích. Sau đó chúng tôi bắt đầu chuyển người ra. Tôi nhớ có một người đàn ông châm một điếu thuốc. Ngay khi anh ta tới cửa trước, tôi yêu cầu anh không được hút thuốc vì có xăng. Anh ta ném điếu thuốc, dí chân lên điếu thuốc cháy đỏ. Tôi thấy anh ta đi chân không. Tôi nghĩ “Chúa ơi, thế thì đau lắm.” Nhưng anh không cảm thấy. Không ai trên tàu còn cảm thấy gì nữa.
Hầu hết hành khách được lùa sang một bên. Cáng tải thương mang vào tàu, họ khiêng người đàn ông với vết thương nặng trên đầu, rồi khiêng người đàn ông bị đổ ruột. Khi mọi người ra hết, chúng tôi bắt đầu kiểm điểm. Val và tôi bước qua lối đi, nhặt nhạnh súng, đạn, những quả lựu đạn bỏ lại trên ghế. Tôi nhận ra chúng nặng quá sức. Tôi bảo Val “Thôi kệ – Bỏ lại – sẽ có người khác đến lo chuyện ấy.”
Tôi và Val rời tàu. Chúng tôi là hai người cuối cùng rời tàu. Nhìn những chỗ hư hỏng của chiếc máy bay, chúng tôi sợ hãi khi thấy những mảng kim khí đã toác ra. Chúng tôi cũng sợ hãi nhìn những lỗ đạn trên cánh. Lúc ấy tôi nói với Val “Thật đáng ngạc nhiên là chiếc phi cơ này đã có thể bay được.”
Val và tôi được đón đến ban phi vụ, rồi đến khách sạn Caravelle. Người ta đưa chúng tôi tới văn phòng ông Daly, nơi đây thông tín viên NBC đang phỏng vấn tất cả mọi người. Tôi ngồi trên chiếc ghế dài uống bia trong lúc họ quay phim.
Trong phòng bên, vài chục phóng viên khác đang chờ. Họ đều muốn phỏng vấn chúng tôi. Tôi hỏi Daly “Chúng ta nên nói gì?” Ông ấy bảo: “Cứ nói sự thật.”
Daly đưa tất cả chúng tôi đi ăn tối hôm ấy. Khi về lại khách sạn, tôi tắm rất lâu. Tôi nằm xuống giường, nhưng không ngủ được. Tôi cứ nhìn thấy mãi hình ảnh những người buổi sáng hôm ấy ở Đà Nẵng. Tôi thấy người đàn bà bị đẩy đạp đến chết. Tôi có thể thấy cả quần áo của bà ta và cái xác máu me nát bấy. Tôi thấy gia đình năm mạng người bị bắn từ sau lưng ngã gục xuống. Rồi người đàn ông bò lồm cồm ở lối đi trên máy bay, lết đến bên tôi. Tôi nhận ra suốt đêm tôi sẽ không thể ngủ được. Tôi nhỏm dậy, ra ngồi ở bàn viết. Tôi nghĩ có lẽ tôi có thể viết lại. Tôi đã cố. Tôi viết được đôi chút. Nhưng thật khổ, chuyện ấy quá lớn đối với chữ nghĩa. Tôi không biết viết thế nào về câu chuyện đã xảy ra.
Thời gian trôi. Tôi mất ý niệm về thời gian. Chợt chuông điện thoại reo. Tôi bốc máy trả lời. Điện thoại viên bảo có một cú điện thoại viễn liên quốc tế. Tôi nhìn đồng hồ, nhận ra đã 7 giờ sáng. Rồi giọng một người đàn bà, nói trong điện thoại từ một đài phát thanh ở Los Angeles. Bà ta muốn phỏng vấn tôi. Bà đã xem cuốn phim CBS về chuyến bay Đà Nẵng trong mục tin tức. Thế là tôi kể cho bà nghe tất cả những gì đã xảy ra. Cuối cuộc phỏng vấn, bà ta nói một câu ngu ngốc nhất. Chưa bao giờ trong suốt đời tôi nghe ai có thể nói một câu ngu ngốc thế. Bà ta bảo: “Cô Wollett, nghe chừng cô còn buồn bực lắm!” Tôi không thể tin được sự ngây ngô như thế trong nhận xét của bà ta. Lúc ấy, biết bao ý nghĩ diễn ra trong trí. Nhưng tôi chỉ còn có thể nói: “Thưa bà, hãy đặt vấn đề như thế này: Đây không phải là câu chuyện mà người ta có thể chứng kiến mỗi ngày.”
Bà ta nói “Thôi, cảm ơn, cô Wollett. Nhân tiện, xin chúc cô một lễ Phục sinh vui vẻ.” Đến lúc ấy, tôi mới nhận ra: đó là ngày chủ nhật mùa lễ Phục sinh.
“…Đây không phải là câu chuyện mà người ta có thể chứng kiến mỗi ngày…”
From: Bác sĩ Phùng Văn Hạnh
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Hồng Kông, vì lòng tốt sẽ quay trở lại…

2 giờ tới
Vì Đâu Sụp Đổ Tan Tành & Những Tác Động Diệu Kỳ Từ Đôi Tay Biết Nói
httpv://www.youtube.com/watch?v=BB6_kg9mTw8
Vì Đâu Sụp Đổ Tan Tành-Nhờ Đâu Oán Hận Tan Thành Khói Mây-Cha Micae Phạm Quang Hồng
httpv://www.youtube.com/watch?v=19LabAY9Cik
Những Tác Động Diệu Kỳ Từ Đôi Tay Biết Nói-Cha Micae Phạm Quang Hồng
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Hong Kong đêm nay

18.11.2019
Ngay lúc này thiết giáp vận của Trung cộng đã xuất hiện tại Hong Kong.
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Hong Kong đêm nay…Để có người cầu nguyện cho chúng ta sau này…😥
HONGKONG là một VIỆT NAM CỘNG HÒA thứ 2.

HONGKONG là một VIỆT NAM CỘNG HÒA thứ 2. Nếu nhân dân HongKong thất bại thì không phải chỉ đơn giản là chấm dứt một cuộc xung đột, nhưng cái giá phải trả cho sự “ổn định” kiểu ấy là “hàng ngàn năm chìm trong bóng tối nô lệ của những thế hệ kế tiếp”, như lời tổng thống Reagan đã nói. Đó là nỗi nhục lớn nhất của nhân loại. Mỹ và châu Âu phải hiểu điều đó.
XÃ HỘI ĐÈN DẦU

XÃ HỘI ĐÈN DẦU
Tác giả: Đào Hiếu
*
Chúng ta đang sống trong một thời đại mà sự thật bị bao vây tứ phía, bị cải trang bằng nhiều son phấn, nhiều mặt nạ. Cái tốt đẹp bị che chắn, bị vùi lấp… còn cái xấu, cái ác thì được phát biểu, được thể hiện với kèn trống với vòng hoa.
Đây là thời đại mà những chính khách có thể nói dối, có thể lừa gạt mọi người bằng sự hùng biện đầy thuyết phục được hỗ trợ bằng những giọt nước mắt xúc động. Họ thường nói những câu đại loại: “Tôi đang móc ruột ra nói với các đồng chí” mà quên rằng trong ruột chứa đầy những thứ chẳng thơm tho gì.
.
Xưa nay nhiều người vẫn tin tưởng rằng cái tốt sẽ thắng, chính nghĩa – dù có trải qua muôn vàn khó khăn – rốt cuộc cũng sẽ thắng. Nhưng nếu chịu khó quan sát thế giới một chút, chúng ta sẽ thấy ngay rằng cái xấu, cái ác đang thắng, đang tồn tại. Chẳng phải đó là điều đang xảy ra ở Việt Nam, Afghanistan, Bắc Triều Tiên, Cu Ba, châu Phi, Trung Đông… và nhiều nơi khác trên thế giới nữa hay sao?
Đây là sự thật ê chề nhất mà nhân loại phải gánh chịu!
.
Những người đã sống gần hết cuộc đời trên thế gian này, những người có học thức, có suy nghĩ độc lập mà nhiều khi còn rối trí không biết tìm đâu ra chính nghĩa, ra cái tốt, huống chi là lớp trẻ (nhất là thanh niên, học sinh, sinh viên Việt Nam ngày nay) gần như mù tịt: phải, trái, thiện, ác… lẫn lộn. Họ lâm vào cảnh “nhận giặc làm cha”, “xe duyên cùng tướng cướp”…
Họ giống như kẻ đang lạc vào một siêu thị bán toàn đồ giả, đồ nhái, không biết chọn cái nào, họ đành quay lưng, bỏ ra ngoài, tìm những nhu cầu khác.
.
Sự ra đời của những trang web, những blog cá nhân đã góp phần “giải vây” cho chính nghĩa, “tẩy trang” cho sự thật, nhằm cố gắng hé lộ bộ mặt thật của một xã hội, một chế độ chính trị, một sự kiện…
Như thế, sự thiếu vắng của các trang web hay blog này là những mất mát lớn cho cả một thế hệ đang lạc lõng, đang trôi giạt, đang đánh mất tự do và tính cách của mình.
Thế hệ này tìm thấy sự bình yên, sự hài lòng trong cái tôi nhỏ bé với những nhu cầu vụn vặt, dễ dãi, dễ kiếm. Lớp người này ngày càng làm phình lớn cái xã hội tiêu thụ, thụ động, lười biếng và vô cảm. Đó là cái xã hội đang tiêu diệt mọi nhân cách và tiêu diệt chính nó, cái xã hội đang biến dạng – một cách chắc chắn, ung dung và không gì ngăn cản nổi – thành một bầy đàn hạ đẳng.
.
Một xã hội bao gồm nhiều cá nhân, nếu mỗi cá nhân là một ý thức độc lập, có sự sáng tạo tự do, thì xã hội đó sẽ rực rỡ vì mỗi cá nhân có ánh sáng riêng của mình, muôn màu muôn vẻ.
Nếu trong một xã hội mà mỗi cá nhân đều suy nghĩ giống nhau, sáng tạo giống nhau, ca ngợi và đả đảo giống nhau thì mỗi cá nhân đã tự dập tắt ngọn đèn của mình và được phát cho một ngọn đèn dầu. Xã hội đó sẽ là một xã hội đèn dầu, chỉ tồn tại trong thứ ánh sáng lờ mờ, u ám. Chỉ có những đốm mắt của bọn linh cẩu, chó sói và hổ báo là rực lên trong đêm đen.
*
Đảng đã cho ta một mùa xuân đầy ước vọng. Một mùa xuân tươi tràn ánh sáng khắp nơi nơi
Những câu hát ấy đã vang lên trong nhiều thế hệ thiếu niên nhi đồng Việt Nam và sẽ còn vang lên hoài như thế. Nhưng liệu có phải đó là sự thật không? Có phải ở Việt Nam hiện đang có một “mùa Xuân tràn ánh sáng khắp nơi nơi” không? Nếu không thì sao? Chẳng lẽ từ thế hệ này sang thế hệ khác cứ tiếp tục hát như thế?
Trên ti-vi, trong các lớp học, trong các cuộc họp… cũng thế: các thầy cô giáo, các nhân viên nhà nước, các quan chức, nghệ sĩ sân khấu, cán bộ hưu trí, học sinh sinh viên, thậm chi cả những người lao động nghèo, những bác nông phu chân lấm tay bùn… khi được phỏng vấn cũng đều trả lời cùng cái giọng “Đảng đã cho ta một mùa Xuân” như thế.
.
Những em bé mẫu giáo, học sinh tiểu học chắc là không ý thức được mình đang nói gì, hát gì, còn những cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước thì biết mình đang nói dối nhưng hoặc là vì nịnh bợ để mưu lợi cá nhân, hoặc là nói cho qua chuyện, cho xong một cuộc phỏng vấn, một bài phát biểu.
Có một thành phần đặc biệt hơn, đó là những kẻ mới sinh ra là đã biết vâng phục, không hề có ý thức phản biện một cái gì, khi họ là cán bộ, đảng viên, họ biến thành những bõ già của Đảng, những ông từ giữ cái chùa Mác Lê Nin suốt đời mãn kiếp. Họ đang sống mòn, sống cho hết cái kiếp gia nô buồn thảm, đìu hiu!
.
Nhưng đáng xấu hổ nhất là những kẻ ngụy tín, quen thói nói dối, nhập thân vào sự dối trá của mình một cách chân thật và cố thuyết phục người khác hiểu cái “sự thật” ấy.
Hãy tưởng tượng một đàn vịt đang lạch bạch đi trên bờ ruộng. Bỗng nhiên một con kêu: “cạc cạc!” rồi con thứ hai cũng kêu “cạc, cạc”, con thứ ba, thứ tư, con thứ mười… đều kêu “cạc, cạc”. Rồi tất cả đồng loạt kêu “cạc cạc”… Ta sẽ thấy rất buồn cười, nhưng không sao, có khi còn dễ thương nữa vì chúng chỉ là đàn gia cầm.
.
Nhưng thử tưởng tượng có một đám người, đủ mọi thành phần: nông dân, giáo viên, tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, học sinh, sinh viên, nhà văn, nhà thơ, diễn viên điện ảnh, hoa hậu, á hậu, người mẫu thời trang, giáo sư đại học, cán bộ công nhân viên, học sinh mẫu giáo… vừa đi vừa kêu “cạc cạc” như thế thì sẽ ra sao?
Đó không phải là một xã hội nữa, đó là một bầy đàn.
.
Rất may là đã có một thành phần dám nói sự thật. Đó là những trang web kiểu như Talawas, Bauxite… những blog cá nhân kiểu như Osin, Mẹ Nấm, Lề Trái…họ đã lần lượt bị bắt nhốt, bị đe dọa, bị đóng cửa. Họ là những tập thể, những cá nhân đã tỏa sáng và đang bị dập tắt.
Xã hội hiện nay chỉ còn hiu hắt những ánh đèn dầu của đám người mờ nhạt, bị thuần hóa, bị gia súc hóa một cách thảm hại.
.
Như thế, rõ ràng là hiện nay chúng ta đang có hai nước Việt Nam: một Nước Việt Khốn Khổ, bị rút ruột, bị đục khoét, bị bán tài nguyên, bán máu, bán phẩm giá, bị xâu xé, cướp bóc tả tơi và nợ như chúa Chổm. Và một Nước Việt Ảo đang được vẽ vời bằng những lời nói dối, nịnh bợ, cơ hội, lừa mị… của đủ mọi thành phần, từ cán bộ lãnh đạo, cho tới…học sinh mẫu giáo.
.
Mỗi ngày có một bộ phận người Việt đang sống và làm việc trong cái Nước Việt Ảo ấy, trong khi một bộ phận người Việt khác lại đang sống và làm việc cùng một Việt Nam khác: khốn khổ, trần trụi, tơi tả.
Hôm nay Talawas không còn, ngày mai có thể Bauxite cũng sẽ mất, nhưng những người tâm huyết với đất nước với dân nghèo thì mãi tồn tại, tiếp nối, bền bỉ và bất tận.
NHÌN HONGKONG ĐI!
Liên Trà
(Cafe đắng đầu tuần)
Quốc Ấn Mai
HongKong, đang ở thời khắc có lẽ đen tối nhất lịch sử của mình. Người HongKong đang tranh đấu cho những giá trị sống cơ bản nhất về quyền làm người. Và mọi chuyện chỉ thực sự tồi tệ khi HongKong được trao trả về cho Trung Quốc.
Nếu tìm hiểu sâu về những địa danh như Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông khi rơi vào tay chính quyền Trung Quốc sẽ thấy những hiện thực tàn khốc. Lại tiếp tục tìm hiểu về cách chính quyền Trung Quốc tạo ra “đại nhảy vọt”, cải cách văn hoá”, Thiên An Môn và nhất là ứng xử với người tập Pháp Luân Công, người Duy Ngô Nhĩ sẽ thấy sự khốc hại “thành nếp”.
Hãy nhớ cảnh sát HongKong tuân thủ luật pháp thế nào trước khi họ bị “đồng hoá” bằng sự tàn ác của “mẫu quốc”. Thật thảm thương, trăm năm dân chủ HongKong gần như bị xoá sạch sau chừng hai thập kỷ khi đất Hương Cảng trao về tay chính quyền Trung Quốc.
Hai thập kỷ ấy “lộ ra” hôm nay làm tôi liên tưởng đến hai thập kỷ nhà Minh đô hộ nước Việt. Đó là hai thập kỷ của máu tươi căm hờn và biết bao sinh mệnh ngã xuống để thoả mãn tư tưởng bành trướng Đại Hán.
Thứ tà quyền tàn ác ấy, nay đã vươn xa đến tận Châu Phi, Châu Mỹ chứ không chỉ tại câc quốc gia Châu Á. Không còn là những cuộc xâm lăng xưa cũ mà là nhưng bẫy nợ, những dự án tàn phá môi trường, biến dạng đời sống lẫn lòng người.
Nhìn HongKong đi! Nhìn lại lịch sử đi! Và nhìn Việt Nam hôm nay đi!
Để thấy rằng nếu một ngày nào đó con quái vật từng ăn sinh mệnh nhân dân ta qua những chiếc tàu cá vỡ nát, qua những cột khói độc xả lên trời, những dòng nước thải chảy ngầm ra sông, ra biển,… Trong từng cái chân gà đông lạnh giữ thế kỷ trước tuồn sang, trong viên kẹo hoá chất trẻ con đang ngậm, trong chiếc áo ra màu gây ung thư da,…
Cả những công trình mà con chúng ta, cháu chúng ta phải trả nợ tiếp ông bà, cha mẹ dù chúng chẳng gây một xu nợ công nào…
Đêm qua, ngay cả các bác sĩ muốn cứu người cũng không được thể hiện lòng nhân ở Đại học Bách khoa HongKong. Họ bị bắt! Có một phụ nữ bị thương đã chết…
Có lẽ, nếu không nhìn thẳng vào tà quyền ấy và dành một tâm thế chuẩn bị;
thì một ngày nào đó, chúng ta sẽ van lơn “đừng đánh những đứa trẻ!” “đừng bắn những đứa trẻ!” khi kẻ thù muốn giết con mình?
P/s: Chả sao, gì chứ khi bị dồn đến đường cùng thì người Việt vẫn chưa quên mã gene “mắt trả mắt, răng trả răng” ngàn đời. Đối với lũ cướp nước lẫn lũ bán nước!
.


