Cận cảnh biệt thự của cựu TGĐ Gang thép Thái Nguyên vừa bị bắt giam

About this website

VIETNAMNET.VN
Thời điểm Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 – Gang thép Thái Nguyên nợ nần chồng chất thì ông Trần Văn Khâm – Chủ tịch HĐQT, kiêm tổng grám đốc xây căn biệt thự được cho là to đẹp nhất vùng ở TP Thái Nguyên.

Lo ngại nào khi Trung Quốc mua và thuê nhiều đất khu vực biên giới Tây Nam?

 

RFA.ORG

RFA
2019-12-27

Sân bay quốc tế Dara Sakor dài nhất ở Campuchia do Trung Quốc xây dựng ở giữa rừng.

Sân bay quốc tế Dara Sakor dài nhất ở Campuchia do Trung Quốc xây dựng ở giữa rừng.

 Courtesy: Ảnh chụp màn hình nytimes.com
Mua và thuê nhiều đất để làm gì?

Tại Hội nghị Quân chính Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), diễn ra vào ngày 26/12, Thiếu tướng Đặng Văn Hùng, Phó Tham mưu trưởng Quân khu 7 được Báo Thanh Niên Online trong cùng ngày dẫn lời cho biết có nhiều doanh nghiệp Trung Quốc mua và thuê diện tích lớn đất trên tuyến biên giới Tây Nam giữa Việt Nam và Campuchia; tuy nhiên lý do vì sao doanh nghiệp Trung Quốc chọn mua hoặc thuê đất trên tuyến biên giới Tây Nam lại không được báo giới đề cập tới.

Đài RFA ghi nhận trước thông tin vừa nêu, không ít người dân trong nước bày tỏ sự lo ngại rằng chiến lược “tằm ăn dâu” của Trung Quốc ngày càng lấn sâu vào Việt Nam không chỉ ở khu vực Biển Đông mà còn trong cả đất liền từ Bắc đến Nam.

Cựu Đại úy Võ Minh Đức, thuộc Quân đội Nhân dân đã giải ngũ, lên tiếng với RFA về quan điểm của ông:

“Nói về so sánh trên biển, về mặt quân sự, thì Việt Nam vẫn có những điều kiện thuận lợi hơn. Tôi nói về Trường Sa, quần đảo nằm ở phía dưới. Ví dụ tôi so sánh một cách đơn giản cho dễ hiểu là từ đất liền của Trung Quốc ra đến đảo Trường Sa của Việt Nam rất xa hoặc từ Đà Nẵng hay từ Bà Rịa-Vũng Tàu hoặc một số tỉnh dọc biển đi ra Trường Sa lại rất gần. Thế còn trên đất liền thì thật sự họ nắm giữ được các dải đất mà giáp ranh với Việt Nam thì họ quá thuận lợi và trong điều kiện mà Chính phủ hay những người cầm quyền ở Campuchia ủng hộ họ hay đồng ý cho họ làm như thế thì đúng là Việt Nam mình bất lợi rất nhiều thứ.”

Người Trung Quốc rõ ràng là họ nhìn rất xa, có thể bây giờ họ đã làm các căn cứ quân sự của họ ở Campuchia, nhưng phía Campuchia chối là không có. Vừa rồi họ có làm một đường băng rất rộng và dài gần 4000 mét ở trong rừng. Phía Campuchia nói là làm sân bay quốc tế cho Campuchia nhưng không rõ dùng vào việc gì bởi do tại sao lại làm ở giữa rừng mà không ở gần PhnomPenh hay gần các cảng biển. Tiếp theo nữa là hai cảng lớn gồm Shihanouk Ville và Koh Kong của Campuchia thì bây giờ giao cho người Trung Quốc, mà cảng ấy cách Việt Nam khoảng gần 300 cây số đường bộ, còn đường chim bay thì gần hơn rất nhiều, có nghĩa là chạy xe khoảng 3 tiếng đồng hồ là tới Tây Ninh và tầm 4 tiếng là vào tới Sài Gòn. Đương nhiên là Quân khu 7, Quân khu 9 đã để ý lâu rồi và người ta nói ra như thế để gây sự chú ý cho chính quyền, chứ người dân cũng đã biết về việc này
-Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp

Để tìm câu trả lời liên quan thắc mắc của dư luận trong nước rằng các doanh nghiệp Trung Quốc mua và thuê đất với diện tích lớn trên tuyến biên giới Tây Nam để làm gì, Đài RFA, vào tối ngày 27/12 nêu vấn đề với Tiến sĩ Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp, nhà nghiên cứu độc lập làm việc tại Singapore, và được ông cho biết thông tin Thiếu tướng Đặng Văn Hùng cho biết tại Hội nghị Quân chính Bộ Tư lệnh TP.HCM không có gì mới mẻ và việc doanh nghiệp hay người Trung Quốc thuê đất dài hạn lên đến 50 năm dọc theo biên giới Tây Nam của Việt Nam đã diễn ra cách nay xấp xỉ dưới 1 thập niên và vẫn đang tiếp diễn. Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp tiếp lời về ghi nhận của ông:

“Một là thuê đất rộng nhất để làm những trại điện mặt trời, bình thường rộng đến khỏang 100 hay 150 héc-ta. Phổ biến là những người quốc tịch Trung Quốc, các doanh nghiệp Trung Quốc vào mua các trại điện của người Việt Nam đã làm rồi dọc theo biên giới, đặc biệt ở vùng Tây Ninh và An Giang. Thế còn mua nhỏ hơn, một vài héc-ta thì để làm nhà xưởng, nhà máy chế biến thực phẩm hoặc là chế biến thức ăn gia súc và sản xuất…chứ không làm kinh doanh ở đấy.”

Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp còn lưu ý, tình trạng tương tự diễn ra ở phía bên biên giới Campuchia mà ông gọi là “nhộn nhịp và sầm uất” nhiều lần hơn do giá đất ở Việt Nam đắt hơn so với ở Campuchia. Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói rằng nhìn từ bên này biên giới của Việt Nam là có thể nhìn thấy các doanh nghiệp Trung Quốc mua và thuê hết tất cả đất của Campuchia dọc theo biên giới với Việt Nam để làm các nhà máy nhiệt điện, nhà máy điện mặt trời, trồng cây, trồng chuối…

Nhà nghiên cứu độc lập-Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nhấn mạnh:

“Người Trung Quốc rõ ràng là họ nhìn rất xa, có thể bây giờ họ đã làm các căn cứ quân sự của họ ở Campuchia, nhưng phía Campuchia chối là không có. Vừa rồi họ có làm một đường băng rất rộng và dài gần 4000 mét ở trong rừng. Phía Campuchia nói là làm sân bay quốc tế cho Campuchia nhưng không rõ dùng vào việc gì bởi do tại sao lại làm ở giữa rừng mà không ở gần PhnomPenh hay gần các cảng biển. Tiếp theo nữa là hai cảng lớn gồm Shihanouk Ville và Koh Kong của Campuchia thì bây giờ giao cho người Trung Quốc, mà cảng ấy cách Việt Nam khoảng gần 300 cây số đường bộ, còn đường chim bay thì gần hơn rất nhiều, có nghĩa là chạy xe khoảng 3 tiếng đồng hồ là tới Tây Ninh và tầm 4 tiếng là vào tới Sài Gòn. Đương nhiên là Quân khu 7, Quân khu 9 đã để ý lâu rồi và người ta nói ra như thế để gây sự chú ý cho chính quyền, chứ người dân cũng đã biết về việc này.”

Quang cảnh Hội nghị Quân chính Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh, diễn ra vào ngày 26/12/19.
Quang cảnh Hội nghị Quân chính Bộ Tư lệnh Thành phố Hồ Chí Minh, diễn ra vào ngày 26/12/19. Courtesy: Ảnh chụp màn hình vn.sputniknews.com

Quan ngại về an ninh quốc phòng

Vào ngày 22/12, tờ The New York Times đăng tải một bài xã luận của tác giả Hannah Beech có nhan đề tạm dịch là “Một phi đạo giữa rừng gây nghi ngờ về các kế hoạch của Trung Quốc ở Campuchia”.

Sân bay quốc tế Dara Sakor dài nhất ở Campuchia do Trung Quốc xây dựng ở giữa rừng, mà Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp vừa nói đến, được tác giả Hannah Beech dẫn lời của chuyên gia Sophal Ear, một nhà khoa học chính trị thuộc Đại học Occidental ở Los Angeles nhận định rằng “Phi đạo này sẽ là bàn đạp cho Không quân Trung Quốc triển khai sức mạnh ra toàn khu vực và thay đổi toàn bộ cuộc chơi”.

Trong một cuộc hội luận với RFA vào hạ tuần tháng 12, nhà báo Điếu Cày-Nguyễn Văn Hải cũng nêu lên ghi nhận của ông rằng:

“Việc triển khai những căn cứ quân sự và những dự án lớn thuê của Campuchia ở ngã ba biên giới Thái Lan-Campuchia hay sử dụng một phần quân cảng Ream cho thấy việc quân sự hóa ở khu vực Vịnh Thái Lan cũng như phía bên kia Ấn Độ Dương, hai bên của bờ kênh đào Kra chứng tỏ là Trung Quốc sẽ có xu hướng mở một đường đi qua kênh Kra. Và nếu như Trung Quốc mở ra con đường đi qua kênh Kra thì sẽ gây ra những xung đột ngay trong khối ASEAN.”

Qua trao đổi với một số người dân trong nước, Đài RFA được nghe họ nhắc lại vấn đề rất đang lo ngại bên trong lãnh thổ của Việt Nam, là các doanh nghiệp Trung Quốc luôn nhắm vào những dự án kinh tế, hay đặt nhà máy ở hầu hết các địa phương của Việt Nam, nhất là tập trung tại các khu kinh tế trọng điểm, các tỉnh ven biển, biên giới…Bên cạnh đó, sự kiện xung đột căng thẳng ở Bãi Tư Chính tại Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc trong năm 2019 được giới chuyên gia đánh giá có thể tiếp tục kéo dài trong thời gian tới và trong bối cảnh như thế tình hình an ninh, quốc phòng của Việt Nam rất bị rủi ro.

Cựu Đại úy quân đội Võ Minh Đức đưa ra tình huống giả định:

Trong trường hợp mà gọi là chiến tranh quân sự, ở góc độ hiểu biết của tôi, thì rõ ràng đây là bất lợi rất lớn về mặt quân sự, chống đỡ rất khó khăn. Dọc biên giới mà gọi là bắt đầu từ ngã 3 Đông Dương (giáp ranh giữa Việt Nam-Lào-Campuchia) ở tỉnh Kon Tum và chạy dài về biên giới phía Tây của Việt Nam xuống tới Kiên Giang, Hà Tiên gần cả ngàn cây số. Ví dụ như người Trung Quốc làm doanh nghiệp, kinh tế ở đó mà cho công nhân của họ đến ở mỗi tỉnh, mỗi vùng từ hàng ngàn đến hàng chục ngàn thì tôi cho rằng nguy cơ về mặt quân sự là những công nhân đó sẽ trở thành lính và rất bất lợi cho Việt Nam
-Cựu Đại úy Võ Minh Đức

“Trong trường hợp mà gọi là chiến tranh quân sự, ở góc độ hiểu biết của tôi, thì rõ ràng đây là bất lợi rất lớn về mặt quân sự, chống đỡ rất khó khăn. Dọc biên giới mà gọi là bắt đầu từ ngã 3 Đông Dương (giáp ranh giữa Việt Nam-Lào-Campuchia) ở tỉnh Kon Tum và chạy dài về biên giới phía Tây của Việt Nam xuống tới Kiên Giang, Hà Tiên gần cả ngàn cây số. Ví dụ như người Trung Quốc làm doanh nghiệp, kinh tế ở đó mà cho công nhân của họ đến ở mỗi tỉnh, mỗi vùng từ hàng ngàn đến hàng chục ngàn thì tôi cho rằng nguy cơ về mặt quân sự là những công nhân đó sẽ trở thành lính và rất bất lợi cho Việt Nam.”

Trong khi đó, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp có cái nhìn lạc quan hơn qua lập luận:

“Chiến lược quốc phòng của Việt Nam, theo cách nhìn từ bên ngoài vào và nhìn từ bên trong ra, là ‘chống thâm nhập’, nghĩa là phòng thủ. Họ bằng mọi cách bao gồm bằng vũ khí, bằng chính trị, bằng truyền thông, bằng chiến tranh tâm lý…trước hết là không thể để xảy ra chiến tranh; thứ hai nếu xảy ra chiến tranh hay đụng độ nhỏ do các bên không kiềm chế được thì không để lan tỏa ra và thứ ba trong trường hợp lan tỏa ra thì phía đối thủ là kẻ thù của Việt Nam không thể thâm nhập vào được tất cả các vùng của Việt Nam, không vào được biển, không lên được bờ, mà có vào được bờ thì cũng không vào được các điểm quan trọng như là thành phố hay khu vực nhà máy hoặc khu vực quân sự. Việt Nam phòng thủ chắc chắn lắm.”

Mặc dù vậy, nhà nghiên cứu độc lập từ Singapore, Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp cho rằng Chính phủ Việt Nam phải hết sức cẩn trọng trước “sức mạnh mềm” của Trung Quốc để thực hiện giấc mộng bá quyền Trung Hoa qua văn hóa, tiền bạc, kinh doanh…

Trở lại thông tin Thiếu tướng Đặng Văn Hùng cho biết doanh nghiệp Trung Quốc mua và thuê đất số lượng lớn trên tuyến biên giới Tây Nam của Việt Nam, được đăng tải trên Báo Thanh Niên Online hôm 26/12, Đài Á Châu Tự Do, vào ngày 27/12 ghi nhận thông tin này không còn xuất hiện trên Báo Thanh Niên Online nữa.

Những Vấn Đề Về Mắt Của Người Già! 

Những Vấn Đề Về Mắt Của Người Già! 

BS Nguyễn Quỳnh Anh & BS Hồ Văn Hiền

Hỏi: Mắt tôi vẫn thấy rõ, tại sao phải đi khám mắt định kỳ?

Hàn Lâm Viện Nhãn Khoa khuyên bịnh nhân 40-65 tuổi nên đi khám mắt ở bác sĩ chuyên môn (ophthalmologist) từ 2 đến 4 năm một lần dù không có bịnh. Trên 65 tuổi nên khám một lần mỗi năm là ít nhất, có thể thường hơn.

Lý do: Những thay đổi mắt ở người già xảy ra rất chậm, từ từ, làm bịnh nhân thích ứng với hoàn cảnh mà không để ý, không biết rằng mắt mình mờ hơn trước, hoặc thị trường (visual field) của mình bị thu hẹp lại, mình không còn thấy rõ những gì xảy ra ở ngoại biên tầm mắt mình, màu sắc các sự vật mình thấy không trung thực (ví dụ màu trắng mình tưởng là vàng), đêm tối lái xe, đèn phía trước chiếu vào mắt mình lóa không thấy rõ. Bác sĩ chuyên khoa mắt sẽ khám thấy những thay đổi đó và sẽ có những biện pháp thích hợp để chữa trị như cho đeo kính để điều chỉnh khúc xạ mắt (refraction correction), giải phẫu hay cho thuốc trị chứng cườm nước làm cao áp suất trong mắt, ngăn chặn những tổn thương có thể xảy tới cho mắt, giải phẩu lấy cườm và thay thế bằng thấu kính nhân tạo/artificial lens, giúp tránh tai nạn cho người lái xe.

*Hỏi: Tôi bị bịnh tiểu đường, mắt tôi không sao cả, tại sao bác sĩ bắt tôi đi khám mắt?

Bịnh tiểu đường (diabetes mellitus) không phải chỉ có triệu chứng đường được thải ra nước tiểu mà còn ảnh hưởng đến hầu hết các bộ phận trong cơ thể người bịnh. Mắt là bộ phận bị ảnh hưởng nặng do bịnh tiểu đường.

Bịnh võng mạc do tiểu đường (diabetic retinopathy), làm hư hại võng mạc (là màng phía sau tròng mắt, nơi nhận hình ảnh do ánh sáng từ ngoài mắt chiếu vào), là lý do hàng đầu gây ra bịnh mù ở người lớn.

Bịnh nhân cần được bác sĩ mắt nhỏ thuốc làm nở con ngươi và khám võng mạc kỹ lưỡng và chữa trị, theo dõi thường xuyên nếu bất bình thường. Ngoài ra, mổ cườm khô cho người tiểu đường dễ có biến chứng hơn ở người không tiểu đường.

Người bị tiểu đường cũng dễ bị cườm nước (glaucoma) hơn.

*Hỏi: Mắt tôi bị cườm khô (cataract), muốn mổ nhưng nhiều người bạn nói mổ xong vẫn thấy mờ, vẫn mang kính mà không rỏ. Vậy có cần mổ không?

Cataract, hoặc cườm khô, là trường hợp thấu kính (lens) của mắt bị vẩn đục, cản trở ánh sáng từ ngoài vào rọi trên đáy mắt (retina).

Muốn thị giác toàn hảo, ngoài việc thấu kính phải thông suốt, cần phải có một võng mạc (đáy mắt, retina) làm việc tốt (ví dụ không bị hư hoặc kém đi do đã bị thoái hóa vì tuổi già, hoặc hư vì bịnh tiểu đường như nói trên), và luôn những phần khác của hệ thần kinh phải nguyên vẹn. Cho nên, mổ mắt lấy cườm sẽ làm thị giác tốt hơn trước, thấy rõ hơn trước khi mổ, nhưng không nhất thiết là sẽ 20/20 (tối hảo) vì còn tùy thuộc các yếu tố khác của mắt và hệ thần kinh người bịnh.

Ngoài ra, nếu bị cườm khô (cataract), bác sĩ mắt không thể nhìn thấy rõ phần sau của mắt nên không theo dõi và chữa trị được những bịnh của võng mạc (retinopathy). Lấy cườm khô ra giúp cho công việc chăm sóc của mắt dễ dàng và tốt hơn.

*Hỏi: Thế tại sao mổ cườm khô rồi mà vẫn phải mang kính?

Ở người trẻ bình thường, không cần mang kính cũng thấy rõ vật ở thật xa (vô tận, infinity) cũng như vật ở gần (đọc sách chữ nhỏ). Sở dĩ được như vậy vì thấu kính (lens) trong mắt người trẻ có khả năng thích ứng (accommodation), thay đổi tính khúc xạ của nó (tựa như máy hình hiện đại có thể tự động zoom xa và gần).

Thấu kính nhân tạo (thế thấu kính bịnh đã đục) không có khả năng thích ứng theo nhu cầu nhìn xa nhìn gần này, nên phải lựa chọn giữa một loại thấu kính nhìn gần và một loại thấu kính nhìn xa. Thường thì khi mổ mắt cườm khô, một bên mắt thì bác sĩ gắn thấu kính nhìn gần, mắt kia thì bác sĩ gắn thấu kính nhìn xa để bịnh nhân có thể sinh hoạt bình thường mà không cần đeo kính. Tuy nhiên, những trường hợp như đọc sách chữ nhỏ, kéo dài, bịnh nhân cũng cần mang kính để mắt đỡ mệt và thấy rõ hơn.

Những tiến bộ trong vòng chừng mười năm nay của khoa giải phẫu chữa bịnh khúc xạ (refraction surgery) dùng laser để trị chứng cận thị, hay dùng thấu kính nhân tạo trong mắt (intraocular lens) để trị chứng viễn thị nặng giúp cho một số người cận thị (thấy gần mà không thấy xa) và viễn thị (thấy xa mà không thấy gần) khỏi cần mang kính nữa. Những tiến bộ này được áp dụng cho những người mổ mắt vì cườm khô cũng được hưởng những lợi ích đó, là thêm vào việc mắt họ sáng ra (vì hết bị đục), mắt họ còn được chữa các vấn đề khúc xạ (refraction errors), giúp cho họ khỏi nhờ cậy đến các kính dày cộm sau khi mổ, nhưng vẫn có thể cần mang kính một đôi khi.

*Hỏi: Mắt tôi hay bị “chèm nhem”, bác sĩ cho nhỏ thuốc là nước mắt nhân tạo, tôi nhỏ vài hôm thì khỏi, sau bây giờ vẫn bị lại như cũ?

Sở dĩ mắt chúng ta luôn luôn trong sáng vì nước mắt được tiết ra liên tục, giữ cho mắt ướt và có tác dụng ngăn chặn nhiễm trùng, đồng thời hệ thống ống dẫn thải nước mắt (tear duct) dư đi vào mũi ở phía dưới.

Người gìà, tuyến nước mắt làm việc kém đi, nhất là nếu mắc những bịnh làm giảm sút cơ năng hạch nước mắt, vì vậy mắt bị khô, nhất là lúc xem TV chăm chú, đọc sách lâu mà ít chớp mắt (“nhìn không chớp”). Do đó, mắt bị xốn, do phản xạ, nước mắt lại sản xuất tăng lên, chảy đi không kịp làm nhòa, nhòe mắt.

Dùng nước mắt nhân tạo có ích cho trường hợp này nhưng phải dùng thường xuyên, không phải bớt triệu chứng rồi ngưng.

Ngoài ra, nên nhớ chớp mắt thường xuyên lúc đọc sách, xem phim, mang kính mát hoặc tránh chỗ gió nhiều làm khô mắt nhanh hơn.

Một số trường hợp, bác sĩ chuyên khoa mắt có thể gắn một nút (plug) bằng plastic vào kênh dẫn nước mắt để giữ nước mắt lại cho mắt đở khô.

Một số người già mí mắt bật ra ngoài (ectropion) nên không giữ được nước mắt, phải chảy ra ngoài. Có thể giải phẫu nếu cần .

BS Nguyễn Quỳnh Anh & BS Hồ Văn Hiền

From: TU-PHUNG

Phạm Tín An Ninh – Con đường giải oan cho một cuộc bể dâu

Phạm Tín An Ninh – Con đường giải oan cho một cuộc bể dâu

Đỗ Trường (Danlambao) – Sau chiến tranh, tuy bị bức tử, nhưng Văn học miền Nam vẫn hồi sinh, phát triển, để bước sang một trang sử mới. Văn học Hải ngoại, một hình thức, hay tên gọi văn chương tị nạn, là sự nối dài của nền Văn học ấy. Và từ đó, ngoài các nhà văn tên tuổi, ta thấy, xuất hiện một loạt các cây viết mới. Họ xuất thân từ những người lính, tù nhân, thuyền nhân tị nạn, như: Cao Xuân Huy, Song Vũ, hay Phạm Tín An Ninh… Chiến tranh, con đường giải oan cho cuộc bể dâu ấy, là đề tài đã được các nhà văn đào sâu, tìm kiếm làm sáng tỏ một cách chân thực, sinh động. Và khi đi sâu vào nghiên cứu, ta có thể thấy, Phạm Tín An Ninh là một trong những nhà văn tiểu biểu nhất viết về đề tài này.

Nếu bút ký Phan Nhật Nam sắc nhọn, hừng hực khói lửa, thì vẫn nơi chiến trường ấy, ngòi bút, lời văn Phạm Tín An Ninh nhẹ nhàng, sâu lắng và trong sáng. Có thể nói, ngoài sự tài hoa, với bút pháp hiện thực, Phạm Tín An Ninh còn là một nhà văn đức độ, có sự cảm thông và tình yêu sâu sắc đối với tha nhân. Văn thơ Phạm Tín An Ninh như một luồng gió mới thổi vào hồn không chỉ những người lính đồng đội, bạn bè ông, mà còn cho cả những người lính một thời ở bên kia của chiến tuyến. Phải nói, ông là một trong những nhà văn mà tôi đã học được nhiều điều, khi đọc. Bút pháp, và tư tưởng ấy, Phạm Tín An Ninh đã gieo vào nhiều thế người hệ đọc, từ hải ngoại về đến quốc nội, dù cho đến nay, ông mới cho in ấn, phát hành 4 tác phẩm: Ở Cuối Hai Con Đường, Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân, Vẫn Còn Vương Tơ, và Sau Cuộc Bể Dâu. Bốn tập truyện ngắn, bút ký này, tôi đã đọc nhiều lần. Có thể nói, truyện nào của Phạm Tín An Ninh cũng sâu sắc, và cảm động. Kể cả truyện viết đầu tay. Một đặc điểm nổi bật nhất trong văn thơ Phạm Tín An Ninh ta có thể nhận thấy, không chỉ trong tư tưởng, bút pháp, mà lối hành văn, câu cú, chính tả cũng sáng, đẹp và chuẩn mực. Dường như, cho đến nay, không có nhiều nhà văn, trang sách hội đủ những đặc điểm này. 

Nhà văn Phạm Tín An Ninh sinh năm 1943 tại Khánh Hòa. Thi đậu tú tài, ông nhập ngũ, khóa 18 Sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Mười một năm lính chiến, để rồi sau tháng 4-1975, Phạm Tín An Ninh bị cải tạo, tù đày từ Nam ra đến Bắc. Năm 1984 ra tù, ông vượt biển, xin tị nạn ở Nauy. Hiện ông sống và viết văn tại Cali, Hoa Kỳ. 

Chiến tranh với cái nhìn chân thực của người lính

Có thể nói, sau mười một năm cầm súng, và gần chục năm cải tạo tù đày, cùng những tháng ngày trốn chạy, tị nạn nơi đất khách, quê người, Phạm Tín An Ninh có đủ độ lùi thời gian để nhìn lại cuộc chiến đã qua, một cách sâu sắc và trung thực nhất. Và chỉ có cầm bút người lính Phạm Tín An Ninh mới có thể tìm lại linh hồn đồng đội và chính mình. Sự trả tính chất cuộc chiến về đúng vị trí, tên gọi của nó, như một món nợ đối với người lính, tù nhân, tị nạn còn sống sót vậy. Do đó, về mặt tâm lý, Phạm Tín An Ninh hoàn toàn không có sự chuẩn bị để trở thành nhà văn. Tuy nhiên, chính những điều không tưởng này, cho Phạm Tín An Ninh một tâm lý thoải mái, tự nhiên khi viết, và sáng tạo. Từ những đặc tính riêng biệt ấy, (hiển nhiên) làm nên tên tuổi nhà văn Phạm Tín An Ninh. 

Cũng như Song Vũ, nhà văn Phạm Tín An Ninh đi lên từ một sĩ quan trẻ chỉ huy cấp trung đội. Mười một năm dài đằng đẵng lăn lộn khắp các chiến trường miền Trung, Cao Nguyên và ông trở thành một vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm chiến trường. Những ngày tháng gian khổ, bi thương ấy, như nhát dao đâm nát hồn người. Bởi, hằng ngày, hằng giờ ông phải chứng kiến cái chết, không chỉ của những người lính (trẻ cùng một dòng máu) ở bên kia chiến tuyến, mà còn phải vuốt mắt cho đồng đội, người thân của mình. Nỗi ám ảnh ấy, thường trực đeo bám ông. Và chỉ khi ngồi đối diện với ngòi bút và trang sách, thì dường như gánh nặng tâm hồn ông mới trút bỏ. Do vậy, ta có thể thấy, tính hiện thực xuyên suốt những tác phẩm của Phạm Tín An Ninh. 

Rời quân trường, Phạm Tín An Ninh ra đơn vị tác chiến, phải thế chỗ cho một trung đội trưởng vừa tử trận. Hiện thực ấy, tác động đến tâm lý, làm cho người sĩ quan trẻ không khỏi bùi ngùi giao động. Những Mùa Mưa Trong Ký Ức, tuy không phải là bút ký hay của Phạm Tín An Ninh, song đã nói lên phần nào cái không khí, cục diện mới của chiến tranh, cũng như tâm trạng chung của người lính lúc đó: 

“Nghi thức ra mắt vừa xong, tất cả tháp tùng ông tiểu đoàn trưởng đến Quân Y Viện Nguyễn Huệ để dự tang lễ của một ông thượng sĩ vừa qua đời do bị trọng thương trong cuộc hành quân tại Lâm Đồng tuần trước. Tôi bất ngờ và có cảm giác xốn xang khi biết ông thượng sĩ này là Trung đội trưởng Trung Đội 3/3 mà tôi là người đến thay thế ông…ngày đầu ra nhận đơn vị lại là ngày phải tiễn đưa người tiền nhiệm mà mình chưa hề biết mặt ra nghĩa trang, nên ít nhiều nghĩ tới phần số của mình trong nay mai và sớm bị ám ảnh bởi tiếng khóc than của người góa phụ”. 

Nếu ta đã đọc bút ký, truyện ngắn nơi chiến trường của những: Phan Nhật Nam, Cao Xuân Huy, hay Song Vũ… thì thấy được trước cái chết, sự hy sinh tình đồng chí, đồng đội, mới dừng lại ở sự miêu tả cái khoắc khoải, tàn khốc, đớn đau. Song đến Phạm Tín An Ninh đã có sự liên tưởng. Với phương thức liên tưởng này, cùng những ca khúc trữ tình, lãng mạn ấy, làm cho hình ảnh người lính dường như đi vào bất tử, và cái chết của họ nhẹ nhàng, dịu bớt nỗi đau trong lòng người đọc chăng?. Vẫn trích đoạn trong bút ký, Những Mùa Mưa Trong Ký Ức dưới đây, không chỉ chứng minh cho điều đó, mà còn cho ta thấy, nỗi đau và tình đồng đội của người lính: 

“Người tôi ướt đẫm máu, nước mưa, và cả nước mắt (cho người đồng đội thương binh không có chút hy vọng sống còn)… Khuya hôm ấy, anh lính bị trọng thương của tôi, vốn là một tân binh quân dịch, quê tận Gò Công, đã trút hơi thở cuối cùng trên tay tôi, sau khi giao cho tôi cái bóp có hai tháng tiền lương và thì thào lời trối trăng đứt đoạn, nhờ chuyển lại cho vợ và đứa con gái đầu lòng chưa đầy một tuổi, mà anh chỉ mới về phép thăm cháu một lần. Đó là người lính đầu tiên dưới quyền đã chết, trên tay tôi. Anh có cái tên rất dân dã mà tôi không bao giờ quên được: Nguyễn văn Tý. Trùng tên người nhạc sĩ sáng tác bài Dư Âm mà tôi thường hay hát. Và sau này, cứ mỗi lần nghe bản nhạc này, tôi lại nhớ đến anh…” 

Có thể nói, Chuyện Người Lính Trinh Sát là một trong những truyện ký hay nhất của Phạm Tín An Ninh. Đọc nó, tôi cứ bị ám ảnh mãi, bởi câu kết: “Trong cuộc chiến này, quả thật, có những điều mà người ta không thể nào hiểu được”. Dường như, đó là câu hỏi, một vấn đề buộc nhà văn, người lính Phạm Tín An Ninh phải đi tìm. Có lẽ, không một ai hiểu được tâm trạng của một người vợ có chồng theo Cộng sản, bị lính Việt Nam Cộng Hòa bắn chết, và người con trai duy nhất đi lính VNCH lại bị bộ đội giết?. Sự đau đớn ấy, không thể làm một phép tính so sánh, song cái giằng xé, đau đớn, âm thầm của bà nhân lên gấp bội, bởi không người xẻ chia, cảm thông. Thật vậy, thông qua bà, nhà văn Phạm Tín An Ninh đã cho ta thấy rõ, hình ảnh thu nhỏ của cuộc chiến hai mươi năm, anh em tương tàn này. Tuy nhiên, hơi bị tiếc, bởi tác giả dường như, chưa khai thác hết mâu thuẫn nội tâm của người vợ, người mẹ đau khổ này. Nếu tác giả khoét sâu vào khía cạnh này, tôi tin rằng, truyện hay lên gấp nhiều lần, và câu chuyện không dừng lại chỉ một người lính trinh sát can trường. Có thể, tác giả phải đặt lại tên “Chuyện Về Mẹ” thay cho truyện “Chuyện Người Lính Trinh Sát” không chừng. 

Vâng! Và cuộc chiến hai mươi năm được đặt lên đôi vai gầy của mẹ. Có cái đau nào bằng nỗi đau nhìn chồng chết mà không dám nhận, không dám khóc, không dám vấn khăn tang? Và có những nỗi đau chồng lên nỗi đau, khi bà mẹ nhìn con trẻ chết tan xác, bởi hỏa tiễn đồng đội của chồng, khi nỗi đau mất chồng chưa kịp nguôi ngoai? Đọc xong Chuyện Người Lính Trinh Sát, tôi cứ phân vân tự hỏi: Nếu có ghi tên vào Trang sử của chiến tranh, người vợ, người mẹ này thuộc về những người lính chiến VNCH, hay là của những anh Bộ đội? Và có phải đó là nỗi đau chung, nỗi đau khó xóa nhòa?. Ta hãy đọc lại những lời thoại, với sự cảm thông, chia sẻ giữa người lính VNCH và người đàn bà trong: Chuyện Người Lính Trinh Sát dưới đây, để thấy rõ cái trớ trêu, cũng như bản chất của cuộc chiến, và nỗi đau tận cùng của con người, hay của cả một dân tộc này: 

“Chờ cho người mẹ thắp hương và bớt xúc động, tôi hỏi nhỏ: 

– Ở làng Long Giang, chị có biết bà Lê Thị Đúng, có người con chỉ huy du kích, bị chết cách nay khoảng tám năm? 

Người mẹ ngạc nhiên nhìn tôi, thoáng dò xét rồi cúi xuống, nói thật nhỏ chỉ đủ tôi nghe: 

– Bà là mẹ chồng tôi, và con tôi đây là đích tôn, cháu nội duy nhất của bà. Vừa nói chị vừa đưa tay chỉ vào nấm mồ mới toanh trước mặt. 

Khi về lại đơn vị, tôi xin Ban Tài Chánh ứng trước nửa tháng lương. Trích ra một phần, bỏ vào bì thơ, tôi tìm đến đại đội trinh sát gặp và biếu cho bà mẹ của người lính trẻ vừa mới lẫm liệt hy sinh. Bà thoáng một chút xúc động ngạc nhiên nhìn tôi, nói lời cám ơn…Chia tay bà, trên đường trở về Bộ Chỉ Huy Chiến Đoàn, tôi suy nghĩ mông lung. Trong cuộc chiến này, quả thật, có những điều mà người ta không thể nào hiểu được.” 

Tôi không nghĩ, ngòi bút của nhà văn Phạm Tín An Ninh đại diện chung cho người lính VNCH. Nhưng tư tưởng, sự cảm thông mang tính nhân văn có được trên những trang sách, bởi ông đã nhận ra bản chất của cuộc chiến này. Thật vậy, đọc Người Góa Phụ Giờ Thứ 25, ta có thể thấy, ngoài sự dũng cảm với những cái chết tang thương của người lính, cùng sự cảm thông, kính phục, nhà văn Phạm Tín An Ninh còn chỉ ra, bàn cờ chính trị bẩn thỉu đã quyết định số phận người lính ở nơi chiến trường. Tôi đã đọc nhiều bút ký, hồi ký của những nhà văn từ cả hai phía viết cuộc chiến này, song phải nói, rất ít gặp được những nhận định rạch ròi, mang tư tưởng sâu sắc như Phạm Tín An Ninh: 

“Sau khi Mỹ bất chấp những phản đối của VNCH, đã tự cho mình ngồi ngang hàng với Cộng Sản Bắc Việt và đơn phương nhượng bộ quá nhiều điều trong Hiệp Định Paris ký kết ngày 27.1.1973, chứng tỏ ý định sớm bỏ rơi đồng minh, phủi tay cuộc chiến. Lợi dụng điều này, Cộng quân đã ồ ạt tung nhiều sư đoàn với lực lượng chiến xa, từ miền Bắc và Lào, theo đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập Nam Việt Nam, đồng loạt mở các cuộc tấn công qui mô vào các đơn vị phòng thủ của ta. Phước Long là tỉnh đầu tiên bị thất thủ vào ngày 6 tháng 1/1975 nhưng không có bất cứ dấu hiệu nào từ phía Hoa Kỳ can thiệp hay phản đối CSBV vi phạm hiệp định. Điều này đã báo hiệu cho số phận của VNCH.” (Người góa phụ giờ thứ 25) 

Có thể nói, đọc Phạm Tín An Ninh mở ra cho tôi nhiều kiến thức, cái nhìn (đa chiều) về cuộc chiến tàn khốc nhất của dân tộc mà ông, thế hệ ông đã đi qua. Tôi nghĩ, với lăng kính, cái nhìn khách quan như vậy, trang viết của ông không chỉ giá trị về mặt văn học, mà còn có giá trị về lịch sử. Đây là một trong những yếu tố quan trọng làm nên chân dung nhà văn Phạm Tín An Ninh. 

Tính nhân bản, lòng vị tha vượt lên trên ngục tối tù đày 

Đi sâu vào đọc và nghiên cứu, ta có thể thấy, truyện của Phạm Tín An Ninh luôn mang tính điện ảnh, kịch tính với mâu thuẫn, tình tiết éo le được đẩy lên cao độ, và bất ngờ. Tuy thắt nút được mở, cái kết vỡ òa có hậu, song làm cho nguời đọc không khỏi bùi ngùi, xót xa. Đà Lạt Trời Mưa là một truyện hay, tiêu biểu cho đặc tính này trong truyện ký, văn xuôi của ông. Thật vậy! Chiến tranh kết thúc, nhà tù, cải tạo là nơi người lính thất trận phải đi đến. Ở địa ngục trần gian này, cái chết chưa phải là điều đáng sợ nhất đối với người lính cải tạo tù đày, mà cực nhọc, đói khát, đày đọa về vật chất, giam hãm tinh thần mới là nỗi ám ảnh thường trực, kể cả khi họ đã thoát ra khỏi nơi địa ngục ấy. Ta hãy đọc lại trích đoạn trong Đà Lạt Trời Mưa dưới đây, để thấy rõ, cái chết rẻ mạt và bất ngờ của họ, dẫn đến những bi kịch của con người ở một xã hội luật pháp, đạo lý đảo lộn tùng phèo này: 

“Họ bắt chúng tôi phải tìm những cây gỗ lớn và thẳng. Có những thân cây lớn đến hai vòng tay ôm không hết. Trời mùa đông với những cơn mưa phùn không dứt, nên những con đường mòn trơn như mỡ…Ăn uống quá thiếu thốn, đám tù chúng tôi triền miên trong cơn đói. Sức ngày càng yếu mà phải lao động quá nặng nhọc… Thống mệt quá nên lảo đảo rồi ngã sấp trên thân cây, đúng lúc cây này lăn xuống suối, bật luôn theo Thống. Chúng tôi chỉ còn nghe tiếng hét của Thống trước khi anh bị văng xuống lòng suối nằm sâu dưới vực.” 

Tuy viết về chiến tranh, người lính, và cải tạo tù đày, song chất trữ tình là nghệ thuật đặc trưng nhất xuyên suốt truyện ngắn, văn xuôi của Phạm Tín An Ninh. Do vậy, đọc ông luôn cho ta cảm giác nhẹ nhàng, sâu lắng ăm ắp tình người. Ta có thể thấy, cùng với, Thằng Bé Đánh Giày Người Nghĩa Lộ, Ở Cuối Hai Con Đường là truyện ngắn hay nhất về tình người, lòng nhân đạo cao cả, sâu sắc của Phạm Tín An Ninh. Nếu ở, Thằng Bé Đánh Giày Người Nghĩa Lộ, sự cảm thông của người mẹ, người dân miền Bắc đối với những người lính cải tạo tù đày, thì Ở Cuối Hai Con Đường, thì cái tình người ấy, thể hiện ngay trong tình cảm, hành động của người quản giáo (một cựu tù binh ở chiến trường Kontum, đã được những người lính VNCH đối xử nhân đạo). Có thể nói, tôi đã đọc rất nhiều bút ký, hồi ký của những cựu cải tạo, tù nhân từ Nam ra đến Bắc, song có rất ít nhà văn, người viết tìm ra khía cạnh này. Tôi nghĩ, đây là cái nhìn công bình, không mang tính định kiến, hận thù của một nhà văn có tình yêu và lòng vị tha cao cả. Cho nên, trong một lần điện đàm, bàn luận về nhà văn Phạm Tín An Ninh, nhà thơ Trần Trung Đạo cho rằng: Phạm Tín An Ninh chinh phục được độc giả như vậy, vì khi viết anh có cái tâm trong sáng. 

Thật vậy, đoạn văn miêu tả tình cảm, tình người dưới đây, sẽ chứng minh cho chúng ta điều đó: 

“Đêm đó, như thường lệ, anh Thà xuống sinh hoạt với anh em bên bếp lửa. Anh bảo nhỏ anh đội trưởng: 

– Tôi để một giỏ cá đằng sau lán. Trước giờ ngủ, anh ra mang vào, chia cho mấy anh bị bệnh kiết lỵ đang mất sức để các anh bồi dưỡng. Nhớ giữ kín, đừng để trên biết. 

Bây giờ anh em mới hiểu, người mà chiều nay, đặt lờ bắt cá ngoài đồng ruộng chính là quản giáo Thà. Ai cũng cảm động. 

Biết là anh em tù bị đói triền miên, nhất là sau mùa đông dài, một buổi sáng đầu mùa xuân, quản giáo Thà đưa cả đội 50 người tù lên một đồi trồng toàn sắn của một hợp tác xã nào đó. Sắn đầu mùa, củ còn nhỏ. Anh chỉ cho anh em cách đào lấy củ mà thân sắn vẫn còn nguyên. Rồi đào mấy cái bếp “Hoàng Cầm” để luộc sắn mà không ai phát hiện có khói. Anh dắt hai anh tù xuống đồi xách hai thùng nước mang lên, căn dặn anh em thay phiên nhau luộc sắn ăn cho no. Anh đích thân ở lại đứng gác. Nếu có ai vào, anh vờ ra lệnh “chuẩn bị đi về”, anh em tức khắc giấu hết “tang vật” xuống một cái hố đã đào sẵn.” (Ở Cuối Hai Con Đường) 

Nghỉ Hè Ở Mallorca là một truyện ký, tôi cho rằng, hay, và toàn bích nhất của Phạm Tín An Ninh. Cùng với Ra Biển Gọi Thầm của Trần Hoài Thư, Nghỉ Hè Ở Mallorca là truyện độc đáo nhất về tình yêu ở nơi cải tạo tù đày. Tính chất trữ tình tựa như cơn mưa đầu làm dịu mát cái nắng nóng hừng hực giữa hè của văn chương về chiến tranh, tù đày sau 1975, ở hải ngoại vậy. Vâng! Vẫn thủ pháp nghệ thuật hồi tưởng, chập chờn ký ức của nhân vật lồng vào tác giả, Phạm Tín An Ninh đã đưa người đọc trở về với những ngày tù tội, nơi có mối tình cao thượng tuyệt đẹp, giữa một nữ kỹ sư lâm trường và người tù cải tạo. Tình yêu, và sự cao thượng trong hoàn cảnh ấy, tuy nghiệt ngã, song nó đã mở ra một lối thoát, một nghị lực sống của con người: 

“Tội nghiệp, em yêu anh Đôn trong một hoàn cảnh quá nghiệt ngã. Điều duy nhất mà em có thể làm được cho người yêu của mình là giúp anh trốn trại, vượt ra khỏi khung cảnh đày ải man rợ, để anh ấy luôn được xứng đáng với những điều anh đang có. Bởi vì chính những điều ấy đã làm cho trái tim em rung động, để em biết thế nào là một tình yêu, mà nếu không gặp anh ấy, có lẽ suốt cả đời em không có được. Quan trọng hơn, đó lại là thứ vũ khí tốt nhất, hiệu quả nhất giúp em đủ can đảm và nghị lực để chống lại số phận, mà trước đó em nghĩ là tới một ngày em sẽ phải đầu hàng, buông xuôi, bất lực.” (Nghỉ Hè Ở Mallorca) 

Dường như, càng bị đọa đày, thì Phạm Tín An Ninh càng tĩnh tâm hơn. Nhất là khi ông bước vào nghiệp viết. Lòng nhân bản, tình người giúp ông bước ra khỏi hận thù. Cho nên, mỗi trang viết của ông như một liều thuốc, lời ru làm xoa dịu nỗi đau của con người vậy. 

Quê hương với nỗi đau và mất mát 

Bước ra khỏi nhà tù nhỏ, nhưng con đường trước mặt Phạm Tín An Ninh còn bế tắc hơn nữa. Nỗi đau của đất nước, và gia đình như đám mây đen bao kín cả bầu trời. Và đi hết biển, con đường duy nhất, là nơi ông phải đến. Tâm trạng ấy, được Phạm Tín An Ninh ủ vào bài viết, mà tôi không thể gọi thành tên. Bởi, ông trộn tất cả các thể loại văn học vào trong đó. Vâng! Những Đám Mây Trên Đỉnh Núi Phổ Đà là bài viết như vậy. Có thể nói, đây là một trong những bài văn cảm động nhất của Phạm Tín An Ninh. Vẫn lối viết giản dị, lời văn mộc mạc, nhưng giàu hình tượng làm cho người đọc phải rưng rưng ngấn lệ. Những hình tượng so sánh ấy, trải ra, rồi cuộn tròn thành nỗi đau, nỗi u hoài trong lòng tác giả, trong lòng người đọc. Thành thử, tôi không thể lược bỏ bất cứ từ ngữ, câu cú nào trong đoạn trích dưới đây, dù có thể khá dài: 

“Chỉ có dãy núi Phổ Đà vẫn còn đứng nguyên ở đó. Hôm đầu tiên ra cổng nhìn lên, tôi không còn thấy cánh đại bàng hùng vĩ ngày xưa. Cả đỉnh núi bị bao phủ bởi những đám mây đen buồn thảm, làm tối cả một vùng trời ảm đạm. Tôi hình dung đến cha mẹ tôi, hai ông chú và cả những đồng đội bạn bè, trong đó có Phan. Tất cả như đang ẩn hiện trong các đám mây mù buồn thảm ấy. Lòng tôi đau đớn như đang có trăm ngàn vết chém. Tôi thắp hương, nhắm mắt tưởng nhớ và cầu nguyện cho tất cả được siêu thoát trong một thế giới bình an, không còn có đau khổ, hận thù. Nghe tiếng sấm chớp, tôi giật mình mở mắt ra. Trời đang vần vũ một cơn mưa. Nhìn mưa trút nước từ những đám mây đen trên đỉnh núi Phổ Đà, tôi có cảm giác như suối nước mắt của bao nhiêu người thân bất hạnh. Mưa dứt. Những đám mây đen biến mất. Tôi cũng vừa nhìn thấy cánh chim đại bàng trên vách núi vỗ cánh bay đi. Mất hút cuối chân trời.” 

Và Phạm Tín An Ninh đã đi gần hết biển. Xứ lạnh Na Uy là nơi ông cập bến đỗ. Cuộc sống yên bình, hạnh phúc nơi đây càng làm cho ông day dứt khôn nguôi. Với đồng đội, với quê hương, một món nợ, buộc ông phải trả. Như một cánh chim biệt xứ, ông biết về đâu, khi thành phố xưa đã thực sự không còn, và những dấu tích, kỷ niệm xưa chỉ còn là cổ tích. Một nỗi đau, không thể giãi bày. Hoàn cảnh ấy, chỉ có trang viết mới làm ông nguôi ngoai nỗi nhớ thương. Và khi viết Chim Bay Về Biển, dường như Phạm Tín An Ninh đã vắt hết nỗi đau, và niềm nhớ thương nơi quê nhà vào trong đó. Thật vậy, Chim Bay Về Biển là những trang văn đẹp nhất, và cũng buồn nhất, mà tôi đã được đọc trong thời gian gần đây. Ta hãy đọc lại một trích đoạn trích dưới đây, để thấy rõ điều đó: 

“Bỗng lòng tôi chợt thoáng lên một chút băn khoăn. Những cánh chim di xứ ấy sẽ bay trở về đâu, khi Nha Trang ngày xưa của họ đã thực sự không còn. Thành phố đã cho họ một thời tuổi thơ đẹp đẽ hoa mộng, nhưng cũng đã để lại trong lòng họ quá nhiều đớn đau, mất mát sau cuộc đổi đời. Những hang động tuổi thơ và dấu tích của những cuộc tình ngày xưa, tất cả giờ chỉ còn là cổ tích. Tôi nhớ lời thằng bạn còn ở lại Nha Trang, nhớ tới thầy tôi, nhà văn Cung Giũ Nguyên và tác phẩm Le Domaine Maudit viết từ năm 1961, như là một tiên tri của Thầy.” 

Có lẽ, thời gian đẹp, nhiều kỷ niệm nhất của Phạm Tín An Ninh là lúc mặc áo lính, nên truyện của ông chủ yếu viết về lính, viết về chiến tranh. Có điều đặc biệt, trên trang sách của ông, tôi ngửi thấy mùi khét của bom, nghe thấy tiếng súng, nhưng tôi không thấy có địch, có ta, không có hận thù và những cảnh khát máu giết người, mà chỉ thấy ngun ngút tình người trong đó. Và ước nguyện của Phạm Tín An Ninh, dường như cũng là ước nguyện chung cho tất cả những người lính đã đi qua cuộc bể dâu này. Chính vì vậy, tôi xin mượn một đoạn văn trong truyện ký: Tháng 4 Nhớ Bạn (của ông) nhằm làm sáng tỏ thêm chân dung nhà văn Phạm Tín An Ninh, cũng như để kết thúc bài viết này: 

“Lịch sử dân tộc nhất định sẽ có ngày viết lại những chiến công vinh quang hiển hách, và cả những hy sinh, đau đớn, khổ nhục mà thế hệ chúng tôi đã từng đạt được, trải qua, trong một giai đoạn bất hạnh và đau thương nhất của dân tộc.” 

Leipzig ngày 27-12-2019 

 Đỗ Trường

 danlambaovn.blogspot.com

Những đoạn kết… buồn hiu! 

Những đoạn kết… buồn hiu! 

Huy Phương

Cô đào thương biết lúc phải giã từ sân khấu lúc mình về già, khi nhan sắc đã tàn phai, giọng hát đã rã rời, đứt đoạn. Dù sự ra đi ấy có đem lại những thiệt thòi, đau xót, người trong cuộc cũng phải đành chấp nhận. Chính người hâm mộ cũng không bao giờ muốn thấy thần tượng của mình lúc xế chiều, mà họ muốn giữ lại cái hình ảnh đẹp đẽ của những ngày xưa.

“Limelight” là cuốn phim nổi tiếng nhất của Charlie Chaplin, một phim rất cảm động về tình đời. Trong phim, Charlie Chaplin đóng vai một ca sĩ hài hước về… chiều, thất bại vì tài năng đã đến lúc tàn tạ, “Rồi khi ánh đèn tắt lặng lẽ cô đơn, chìm trong bóng đêm, người ta lãng quên bẽ bàng…”

Chúng ta thương xót cho cuộc đời nghệ sĩ lúc về chiều, không còn ai hâm mộ, chết trong lãng quên, nhưng chúng ta cũng không muốn người nghệ sĩ kéo dài năm tháng trên sân khấu khi nhan sắc đã về chiều, tẻ nhạt và buồn phiền.

Người ta thường tự kết liễu thanh danh của mình bằng những đoạn kết… buồn.

Trong những con người đó chúng ta có thể kể đến Phạm Duy, một tên tuổi hay nói ví von hơn, là một “cây cổ thụ” trong làng âm nhạc Việt Nam, đã có một đoạn kết dở, khi ông đã tự phủ nhận tất cả chính kiến của mình để xoay chiều 180 độ. Những người đó, cũng là Trịnh Công Sơn, người đã được sự yêu thương của tất cả người Việt Nam, đã có một đoạn kết… buồn, khi dưới bạo lực… mềm, ông đã kéo dài thêm một quãng đời, khi đồng bào rên xiết, ông đã reo vui bằng những câu hát mê muội, “Em ở nông trường anh ra biên giới,” “ Huyền thoại Mẹ,” “Ra chợ ngày thống nhất,” và tệ hại hơn là “Ánh sáng Mạc Tư Khoa,” được xem như một bản “báo cáo công tác” sau khi ông được ân huệ của Cộng Sản trả công bằng một chuyến “tham quan” Liên Xô.

Liệu những “thiên tài” hay “đại thụ” có cần kéo lê thêm một đoạn đời như thế không?

Có những ca sĩ tên tuổi, được sự yêu mến của mọi người, giờ đây muốn thêm một kịch bản gọi là phần hai cho đời mình. Dù dưới mục đích cao đẹp “cần về quê hương hát cho đồng bào mình nghe,” hay thực tế là họ cần tiền và còn kiếm được tiền, thì những đoạn kết ấy cũng không mấy tốt đẹp, đánh mất tất cả niềm tin và sự thương yêu lâu nay người đời đã dành cho họ.

Nói như Nguyễn Du, “Đã buồn cả ruột, lại dơ cả đời!”

Tiểu thuyết Trà Hoa Nữ (La Dame Aux Camélias) được chuyển thành kịch bản là một tác phẩm nổi tiếng trên khắp thế giới, nhưng nếu chẳng may có ai đó dựng nên kịch bản “Hậu Trà Hoa Nữ” để cho Marguerite Gautier có dịp gặp tái hồi cùng Duval, như lấy nhau, thì vở kịch chán chường lố bịch biết bao.

Người đời thường thích những chuyện có “hậu” và phải hiểu đây là thứ hậu vuông tròn, đẹp đẽ (happy ending.) Chính vì vậy mà Nguyễn Du kéo dài truyện Kiều, nên nhân gian có thành ngữ “tái hồi Kim Trọng.” Trong phần tái hồi này Kim Trọng để chàng phải nài nỉ, phân bua “chữ trinh kia cũng có ba bảy đường,” cũng tính chuyện “động phòng.” May mà Thúy Kiều cứng rắn, cho mình là “hương dưới đất, hoa cuối mùa,” từ chối quyết liệt, Kim Trọng mới thẹn thùng đổi chuyện chăn gối ra chuyện cầm thơ.

Có nhiều người không tự biết mình, hay soi gương cũng chẳng thấy khuôn mặt mình, nhưng như vậy không có nghĩa là không ai thấy mình. Đó là những người chưa chết nhưng đã tự chôn mình. Họ cố ôm lấy những danh vọng hão, hết chức vụ này lại muốn nhảy sang cầm lấy chức vụ khác, hết làm chủ tịch thì quay sang làm cố vấn, họ nghĩ không có họ thì ai còn khả năng đứng ra cứu nước!

Trong khi ông nọ hết nhiệm kỳ làm tổng thống lại lui về chức thủ tướng chờ thời, rồi trở lại làm tổng thống, bà nọ không còn là thị trưởng thì ứng cử lấy chức nghị viên thành phố, người kia oanh liệt một thời cấp tiểu bang nay lại công danh thụt lùi về lại quận hạt. Như vậy còn chỗ nào cho người khác, trẻ tuổi và tài năng tiến thân. Cái giỏ cua bây giờ cua bò lên không bị ai kéo trở lại, nhưng đóng nắp rồi thì cũng không ai còn tìm được con đường tiến thân. Biết chấm dứt kịp lúc, đúng thời, đối với họ quả là chuyện khó khăn.

Lê Đạt trong phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm, năm 1956, đã có bài thơ “Ông Bình Vôi” để phê phán những cán bộ sống lâu lên lão làng nhưng “càng lớn càng đặc,” ôm lấy các chức vị, trong đó có những câu:

“Những kiếp người sống lâu trăm tuổi

Y như một cái bình vôi

Càng sống càng tồi

Càng sống càng bé lại…”

Nhà văn Phan Khôi, nhân mấy câu thơ của Lê Đạt, có viết một bài văn cũng mang tên là “Ông Bình Vôi” có những câu như: “vật gì sống lâu và to xác thì gọi bằng ‘Ông’ để tỏ lòng tôn kính, sùng bái.” Trong cộng đồng chúng ta bây giờ không thiếu những “Ông Bình Vôi!”

Ở Việt Nam có quy định tuổi về hưu cho các cấp chỉ huy, nhưng gần đây người ta cho tái bổ nhiệm một bà với một lý do rất buồn cười là vì bề ngoài, trong bà còn trẻ! Người ta trau chuốt công lao của bà và gần như đi đến kết luận, trong lúc này chưa ai thay thế được bà.

Ở Mỹ nếu một ông tổng thống làm đến 3 nhiệm kỳ thì… chán chết, trong khi đó, “Ong Bình Vôi” (*) Phạm Văn Đồng của “ta” ôm chức thủ tướng Việt Cộng tại vị lâu nhất đến 32 năm (1955-1987).

“Giai nhân tự cổ như danh tướng, bất hứa nhân gian kiến bạc đầu!”

Ai muốn nhìn một hoa hậu về già, tóc bạc, miệng móm?

Ông tướng chết giữa chiến địa có đoạn kết cho đời mình bi hùng, trong khi ông tướng về hưu chết trong nhà dưỡng lão có một đoạn kết… buồn hiu!

(*) “bằng đất nung cả, mà một thứ giống như cái hũ nhỏ, duy cổ eo, miệng loa…”

Huy Phương

NHÌN SANG NƯỚC BẠN THẤY MÌNH TE TUA

Image may contain: one or more people, people sitting and drink

Lê Vi

NHÌN SANG NƯỚC BẠN THẤY MÌNH TE TUA

Hôm sang Thái Lan, tôi và một người bạn dự định sẽ ăn tối và uống chút bia, lai rai ngắm nhìn đường phố Bangkok. Vào một nhà hàng giống quán nhậu ở Việt Nam, chúng tôi gọi 2 chai bia sau khi đã order vài món.

Thật bất ngờ là quán từ chối bán bia. Nhìn sang hàng loạt bàn ăn bên cạnh, đều không có ai uống bia hay rượu. Cả quán ăn đông đúc là vậy mà rất yên tĩnh, không ồn như quán ăn nhậu ở Việt Nam.

Tìm hiểu thì được biết Thái Lan áp dụng cấm bán bia rượu ở nhiều khung giờ và hạn chế người dân tiếp cận bia rượu ở nhiều nơi. Đó là lý do mà đi dạo trên đất Thái Lan thấy người dân rất hiền hòa, thư thái, an bình.

Và với chúng tôi, việc không uống bia giúp bữa ăn được ngon lành trọn vẹn. Hơn nữa, số tiền thanh toán rất thấp, chỉ khoảng 300 ngàn đồng cho hai người.

Mấy năm trước, khi đi du lịch Singapore, nhóm đàn ông trong đoàn Việt Nam chúng tôi muốn làm một thùng bia sau cả ngày tham quan trong tiết trời oi nắng. Rất may là cậu tiếp viên quán ăn cảnh báo trước rằng giá mỗi một chai Tiger tương đương 400 ngàn đồng Việt Nam. Thế là mọi người quyết định nhịn uống. Tôi nhớ khi đó nhóm khách Trung Quốc ngồi ăn bàn bên cạnh uống bia khá thoải mái. Có lẽ họ giàu có hơn chúng ta nhiều.

Chắc chắn là ở những đất nước tiến bộ như Thái Lan, Singapore, Malaysia, bia rượu được nhốt kỹ ở một góc nào đó trong cuộc sống. Chúng không thể thả rông thoải mái, khuấy đảo xã hội như Việt Nam.

Quan sát cách vận hành thị trường bia rượu trên thế giới, chúng ta dễ nhận thấy Việt Nam đang ở trong một túi cồn được tạo ra từ chính sách.

Đánh thuế rẻ mạt, cho mua bán tràn lan tận hang cùng ngõ hẻm, bất cứ ai cũng có thể tiếp cận và tiêu thụ rượu, bia. Đến bất cứ chỗ nào ở Việt Nam, từ cổng trường học ở thị thành hay tận sâu trong các bản làng heo hút đều dễ dàng mua được bia rượu.

Chúng ta nhìn thấy gì qua diễn biến này. Tôi nghĩ đó là một âm mưu đầu độc quy mô lớn.

Đàn ông cả nước cứ lấy tửu điếm giải khuây thì không bao giờ có thể ngóc đầu lên mà làm cái gì đó lớn lao cho đất nước. Quân cai trị sẽ chỉ cười khẩy khi thấy các gã say chém gió chửi bới bên bàn nhậu.

Nhậu say thì lăn quay ra ngủ. Vòng tròn cứ lặp đi lặp lại. Dù sao sau khi tỉnh dậy, đám này vẫn nai lưng ra làm đóng thuế, đóng BHXH, tiêu thụ, tiêu thụ và tiêu thụ cho nhu cầu cá nhân.

(VÌ MỘT VIỆT NAM THỨC TỈNH)

fb Quý Lâm

VÀI HÔM NỮA LÀ TRỞ THÀNH NƯỚC CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN..

Image may contain: one or more people

Giang Thanh

VÀI HÔM NỮA LÀ TRỞ THÀNH NƯỚC CÔNG NGHIỆP PHÁT TRIỂN..

 Nhìn lại đất nước từ năm 1954 (với miền Bắc) và từ năm 1975 (trên phạm vi cả nước) cộng sản VN bưng nguyên mô hình CNXH Xô viết, kinh tế thị trường bị kỳ thị, tẩy chay do vậy trừ kinh tế cá thể nhỏ lẻ, còn lại kinh tế tư nhân, trước hết là các doanh nghiệp tư nhân bị xóa sổ. Chưa kể đến một nền kinh tế của miền Nam thời VNCH…

Đến hôm nay Đảng cộng sản mới thừa nhận kinh tế thị trường là phương thức phát triển kinh tế năng động nhất mà nhân loại đã tìm ra, là sản phẩm của nền văn minh nhân loại mà tư duy vô sản của cs đã đi ngược lại nhân loại.

Họ đâu biết rằng nền tảng để cho một quốc gia phát triển đâu phải cứ hô khẩu hiệu, rồi kiên định với đường lối chính trị Mác- lê. Rồi cho nhân dân ăn bánh vẽ mấy chục năm qua không biết ngán, mà mới đây còn vẽ cho dân mình ăn thêm cái bánh đến năm 1945 là thành nước công nghiệp phát triển. Thay cho khẩu hiệu đến năm 2020..

Phải chăng nhà nước cộng sản cố bấu nếu để duy trì sự độc tài của chế độ..

Đến nay thu nhập GDP theo đầu người của Việt Nam năm 2018 chỉ đứng thứ 136/168 so với các nước tham gia xếp hạng của thế giới.

Theo Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, GDP bình quân đầu người của thế giới ngày một doãng xa so với Việt Nam.

Cách đây 30 năm, GDP bình quân đầu người của thế giới hơn của Việt Nam 3.900 USD, nhưng nay đã vọt lên hơn 7.500 USD, gần gấp đôi, theo chuyên gia kinh tế Nguyễn Quang Thái.

Sống và cầu nguyện…

https://www.facebook.com/Vaticannew/videos/2110094419300144/?t=8

Sống & Cầu Nguyện

🇻🇦 Lạy Chúa ! Xin đến giữa cuộc đời chúng con, giúp sức cho chúng con để chúng con luôn vượt qua mọi gian khổ thử thách trong cuộc sống.

Tổng thống Đài Loan đọc thư của thanh niên Hong Kong: ‘Đừng tin Cộng sản’

VOATIENGVIET.COM
Trích dẫn một lá thư của một thanh niên Hong Kong với nội dung kêu gọi mọi người “không tin vào Cộng sản”, Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn hôm 29/12 nói rằng Trung Quốc gây ra mối nguy hại cho đời sống dân chủ của hòn đảo.