
Một tấn gà tây thối, 10 tấn lòng lợn bốc mùi… vào tiệc tất niên

Khi chuẩn bị lên chuyến bay từ Boston đến Bắc Kinh, môt nhà khoa học Trung Cộng, tên Zheng Zaosong bị nhân viên quan thuế cản bước và kéo anh sang một bên. Bên trong hành lý ký gửi của anh Zheng, các nhân viên tìm thấy 21 lọ chất lỏng màu nâu được bọc trong một túi nhựa và sau đó nhét vào trong một chiếc vớ, và các lọ hóa chất này có chứa tế bào ung thư.
Năm 2004, một cuộc khảo sát mức độ quốc gia tiến hành với 1.100 bác sĩ, được thực hiện bởi Công ty HCD Research, Viện Tôn giáo và Xã hội học Louis Finkelstein thuộc Chủng viện Thần học Do Thái (Jewish Theological Seminary) tại thành phố New York, Mỹ đã phát hiện 74% bác sĩ tin rằng phép lạ từng xảy ra trong quá khứ, 73% tin rằng những điều kỳ diệu đó vẫn diễn ra trong thời buổi hiện nay.
Cuộc thăm dò cũng chỉ ra rằng các bác sĩ Mỹ có niềm tin vào tín ngưỡng đáng kinh ngạc, với 72% cho thấy họ tin rằng tôn giáo mang đến một định hướng đáng tin cậy và cần thiết cho cuộc sống.
Những người được khảo sát có tín ngưỡng rất đa dạng: Cơ đốc giáo (Công giáo La Mã, Tin lành, Cơ đốc giáo chính thống…), Do Thái (Chính thống, Bảo thủ, Cải cách và thế tục) và các tôn giáo khác như Hồi giáo, Ấn Độ giáo và Phật giáo.
“Khảo sát cho thấy các bác sĩ, mặc dù có lẽ có trình độ học vấn trung bình cao hơn so với bệnh nhân, nhưng không nhất thiết phải khác biệt hơn hoặc hoàn toàn khác biệt so với bệnh nhân về quan điểm tôn giáo,” Tiến sĩ Alan Mittleman, Viện trưởng Viện Finkelstein cho biết.
“Công việc của chúng tôi là xác định nhu cầu và yêu cầu của bác sĩ phù hợp với môi trường chăm sóc sức khỏe; nghiên cứu này là cơ hội tuyệt vời để chúng tôi sử dụng phương pháp của mình để khám phá tâm linh và niềm tin cá nhân của bác sĩ”, Glenn Kessler, Đồng sáng lập và người quản lý các đối tác của HCD Research ở Flemington, NJ, Hoa Kỳ cho biết. Nghiên cứu đã khẳng định các cuộc thăm dò trước đó được thực hiện bởi HCD cho thấy mối tương quan giữa niềm tin tâm linh và sự bảo thủ chính trị của bác sĩ.
Các phát hiện cho thấy:
– 58% các bác sĩ được khảo sát tham dự các hoạt động tôn giáo ít nhất một lần mỗi tháng.
– 46% các bác sĩ tin rằng cầu nguyện là rất quan trọng trong cuộc sống của họ.
Có vẻ như niềm tin tôn giáo, đặc biệt là niềm tin vào phép lạ, giảm đi khi trình độ giáo dục tăng lên. Nhưng điều này dường như không đúng với các bác sĩ. Có lẽ vì liên quan thường xuyên đến các vấn đề của sự sống và cái chết, các bác sĩ cho thấy sự cởi mở đáng kể đối với tôn giáo.
– 37% bác sĩ tin rằng những câu chuyện thần kỳ của Kinh thánh là đúng theo nghĩa đen trong khi 50% tin rằng chúng là ẩn dụ. 12% cho biết họ không tin vào mô tả phép lạ của Kinh thánh
– 9% tin rằng Kinh thánh được viết bởi Thiên Chúa, 58% tin rằng Kinh thánh được Thiên Chúa truyền cảm hứng và 34% coi đó là văn học cổ đại của con người.
– 55% tin rằng thực hành y tế nên được hướng dẫn bởi giáo lý tôn giáo (44% không đồng ý)
Có lẽ kết quả đáng ngạc nhiên nhất của cuộc khảo sát là phần lớn các bác sĩ (55%) nói rằng họ đã từng chứng kiến điều kỳ diệu xảy đến với kết quả điều trị cho bệnh nhân. Có nhiều bác sĩ cầu nguyện cho nhóm các bệnh nhân của họ (51%). Thậm chí, 59% bác sĩ từng cầu nguyện cho từng bệnh nhân riêng lẻ.
67% bác sĩ khuyến khích bệnh nhân của họ cầu nguyện. Trong số các bác sĩ đó, 5% tin rằng Chúa sẽ đáp ứng lời thỉnh cầu của họ, 32% thấy có lợi ích tâm lý và 63% tin vào cả hai lý do trên. 33% bác sĩ không khuyến khích bệnh nhân của họ cầu nguyện.
Các bác sĩ có nhận thức khác nhau về ảnh hưởng đối với kết quả điều trị bệnh bởi các phương pháp y học so với sự tác động của các hiện tượng siêu nhiên hoặc hành vi của Thiên Chúa.
35% người Công giáo tin rằng toàn bộ hoặc rất nhiều kết quả điều trị là do những những tác động phi y học này, 46% người Tin lành đồng tình trong khi chỉ có 20% người Do Thái cho rằng kết quả có ảnh hưởng bởi sự tác động phi y học.
Một nghiên cứu khác năm 2005 của Đại học Chicago, Hoa Kỳ cho thấy có đến 76% các bác sĩ tin vào Chúa, trong khi đó chỉ có 39% các nhà khoa học và khoảng 70% dân chúng tin vào Chúa.
Báo cáo cũng chỉ ra rằng những người có thu nhập cao thường có ít niềm tin vào tín ngưỡng. Tuy nhiên, sự tương quan này không đúng với các bác sĩ, những người có thu nhập nằm trong top 5% của xã hội.
Báo cáo cho thấy các tỷ lệ các bác sĩ tin vào Chúa nhiều hơn các nhóm khác có cùng mức thu nhập. Có lẽ do thường xuyên đối diện với những tử vong và cái chết không thể đoán trước, các bác sĩ luôn nhớ rằng một bệnh nhân không thể dùng tiền mua lối thoát khỏi những bệnh nan y, và an ninh về tài chính cũng không nhất định giúp được họ thoát khỏi những nguy cơ đó.
Báo cáo của Đại học Chicago có một điểm thú vị rằng môi trường làm việc khiến các bác sĩ luôn phải chứng kiến những sự kiện kinh khủng mà hầu hết người khác đều cho rằng không công bằng, như người tốt bụng luôn đau yếu, những đứa trẻ mất cha mẹ, hay những đứa trẻ ngây thơ phải chịu bệnh tật… Nhiều người đặt câu hỏi rằng chứng kiến những hoàn cảnh như vậy có thể khiến các bác sĩ mất đi niềm tin vào Chúa. Nhưng, nghiên cứu đã chứng minh rằng hầu hết họ vẫn tin vào Chúa.
Điều này rất khó giải thích, nhưng có lẽ là do sự yên bình và thanh thản đến bất ngờ mà các bệnh nhân khi tử vong thể hiện ra hoặc do quan sát nhiều sự kiện tưởng là “xấu” lại không nhất định đơn giản như những điều “tốt hay xấu” theo cái lý thông thường, khiến các bác sĩ vẫn đặt niềm tin lớn hơn vào các sức mạnh của Thượng đế cho dù bất kể lý do bất hạnh của con người là gì.
NĂM 2020: VÌ SAO VN TRỞ THÀNH NƯỚC “SẠT NGHIỆP”?
Hổm rày, nhiều Fbker trích phát biểu của Nông Đức Mạnh hồi năm 2006 đã nói rằng: “Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng mở ra một giai đoạn phát triển mới… để đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại” với hàm ý rằng, ông Mạnh cho dân ăn cái “bánh vẽ – công nghiệp hiện đại”.
Nhưng tôi không trách ông Mạnh, vì ông chỉ là kẻ “nói theo”. Lê Duẩn mới là người chủ xướng cái “bánh vẽ – công nghiệp” này.
Lê Duẩn là “nhà tiên tri” từng phán: “Lạm phát chỉ xảy ra ở các nước tư bản, XHCN không có lạm phát”, nên năm 1985 ông cho đổi tiền lần cuối, thì sang năm 1986, khi ông chết, lạm phát lên 3 con số: 774,7%, để “thành kính phân lô”!
Ngay sau 30/4/1975, Lê Duẩn đã vạch ra chủ trương “3 dòng thác cách mạng”: Cách mạng quan hệ sản xuất; cách mạng văn hóa tư tưởng; và cách mạng khoa học kỹ thuật.
Riêng “Cách mạng khoa học kỹ thuật”, Lê Duẩn chỉ đạo: “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”.
Nhưng thực chất “cách mạng khoa học kỹ thuật” là đánh vào các trí thức tư sản và tước đoạt tài sản của các tư sản thương nghiệp vả công nghiệp (nói tránh đi là “tư liệu sản xuất”)
Sài gòn – Chợ lớn – Gia định có 38.000 cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp lớn nhỏ, trong đó có 766 công ty và 8.548 cơ sở công nghiệp tư nhân – chiếm 80% năng lực sản xuất của cả miền Nam, đã bị quốc hữu hóa (quốc doanh) và tập thể hóa (HTX)
Cách mạng khoa học kỹ thuật (CMKHKT) là bắt GS Nguyễn Duy Xuân (Viện trưởng Viện ĐH Cần thơ, làm bộ trưởng giáo dục chỉ 2 ngày) đi cải tạo và chết trong trại năm 1986.
CMKHKT là thay GS Nguyễn Chung Tú (Hiệu trưởng ĐH Khoa học Sài gòn) bằng PTS Lý Hòa (khi tập kết mới học lớp 4) và cho GS Phạm Hoàng Hộ (nhà thực vật học Đông dương) làm hiệu phó bù nhìn.
Trí thức tìm cách vượt biên, ông Võ Văn Kiệt (bí thư Thành ủy TPHCM) phải sai ông Huỳnh Kim Báu (chủ tịch Hội trí thức yêu nước) đi lãnh các trí thức bị bắt vì vượt biên về, như GS Châu Tâm Luân.
Hãng máy may Sinco bị quốc doanh vẫn phải lưu dụng người cũ có tài như Ông Quang Nhiêu. Anh Đào Hiếu kể trên trang cá nhân, khi còn làm PV Tuổi Trẻ, anh có đưa tin, ông Nhiêu và tập thể KS đã chế tạo thành công cái thuyền (phụ tùng duy nhất phải nhập từ chính hãng Sinco).
Máy may Sinco 100% nội địa hóa, nhưng với sự “lãnh đạo tài tình của Đảng ủy công ty”, Sinco ngày nay không hề sản xuất máy may, mà chuyên sản xuất máy xay lúa, máy chế biến tiêu đen, và máy giết mổ gia cầm!!!
Với sự lãnh đạo tài tình của Đảng ủy công ty, Sinco phải bán trụ sở và nhà máy ở Bình Chánh (dọn về Bến Lức) và hàng trăm cửa hàng bán máy may ở nội thành Sài gòn cho tập đoàn Điện máy Nguyễn Kim.
“3 dòng thác cách mạng” trở thành “3 dòng thác lợi ích”.
Tương tự, Nhà máy dụng cụ đo cơ khí Nhà Bè (nơi sản xuất palme và thước cặp duy nhất trong nước), nhờ CMKHKT, nhà máy này phải bán các máy móc cơ khí có độ chính xác 1 phần ngàn milimet cho tư nhân, và bán nhà xưởng cho đại gia địa ốc xây chung cư, rồi sáp nhập công nhân vào Caric.
Caric là hãng đóng tàu lớn nhất Đông dương, ở Thủ Thiêm bị giải tỏa, phải dời về Q.7 và chỉ sửa chữa tàu biển để nuôi đám “tàn quân” (công nhân còn sót lại)!
Sau 30/4/1975, Công ty cơ khí miền Nam, Công ty luyện kim đen (miền Nam luyện sắt từ sắt phế liệu, miền Bắc luyện từ quặng), Công ty luyện kim màu (luyện vàng bạc, đồng thau)… được lập ra để quản lý nền kỹ nghệ tân tiến ở miền Nam thành kỹ nghệ… lụn bại.
Lãnh đạo, cán bộ các công ty và công nhân cùng ăn cắp nguyên vật liệu đem bán ra chợ trời. Cũng nhờ “tính ăn căp XHCN” mà các tổ hợp và cơ sở sản xuất tư nhân mới có phụ tùng thay thế máy móc và có nguyên liệu sản suất hàng tiêu dùng.
Cũng nhờ các cơ sở SX tư nhân này, mà khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, VN không thiếu hàng tiêu dùng, mà trái lại du học sinh và lao động hợp tác người Việt còn mang hàng tiêu dùng “Made in Hồng Kông – bên hông Chợ Lớn” sang Đông Âu bán, và nhiều người thành đại gia như Phạm Nhật Vượng, Bầu Kiên…
Do kế hoạch hóa, các chỉ tiêu sản xuất cho các NM quốc doanh đều do các Bộ giao xuống, nên không phù hợp nhu cầu, vì vậy sản xuất mặt hàng chính (mặt hàng A) không đủ trả lương công nhân. Nhờ thế, các NM quốc doanh được phép sản xuất mặt hàng phụ (mặt hàng B, mặt hàng C) để trả thêm phụ cấp công nhân.
Thí dụ, mặt hàng A của Sinco là máy may, mặt hàng phụ là máy xay lúa. Mặt hàng A của NM Dụng cụ đo cơ khí Nhà Bè là thước cặp và Palme, thì mặt hàng phụ là khung xe đạp và xích xe đạp.
Do quá đà sản xuất mặt hàng phụ, nên không cải tiến măt hàng chính và để mất thị phần.
Năm 1990-1991, do mô hình TCT 90, 91, mẹ và con, nên “các công ty cơ khí miền nam, công ty luyên kim màu, luyện kim đen chấm dứt CMKHKT. Rồi, TCT tiến hành cổ phần hóa (tức bán cho tư nhân), CMKHKT bị “đổi màu” thành “Kinh tế thị trường theo định hướng XHCN”.
Cuối năm 1997, thủ tướng Võ Văn Kiệt họp chính phủ tại Dinh Thống Nhất, tôi hỏi bộ trưởng Bộ Công nghiệp Đặng Vũ Chư: “Tại sao trong 6 ngành mũi nhọn để đến năm 2020 VN thành nước công nghiệp hiện đại, lại không có ngành luyện kim? Vì nếu luyện kim không chế ra đủ loại thép carbon (VN mới sản suất được thép C45) và thép hợp kim thì “ngành mũi nhọn chế tạo máy” lấy nguyên liệu ở đâu mà chế?”
Bộ trưởng Chư cười: “Anh ở báo Phụ Nữ hỏi chi chuyện chuyên môn sâu vậy?”.
Và, đúng như tôi thắc mắc, đến năm 2020, ngành luyện kim không cán được sắt tấm, phải nhập cuộn sắt tấm về để cán sóng và mạ kẽm thành tole lợp nhà; hoặc bẻ sắt tấm thành sắt hộp, sắt V, sắt Z, sắt U, sắt I để phục vụ ngành xây dựng, do đó “ngành mũi nhọn cơ khí chế tạo máy” không chế tạo được ốc, vít như nhiều người đã nói!
Sau cùng đến đời thủ tướng 3X, nhóm lợi ích đã thâu tóm các ngành trọng yếu của quốc gia, vì được vay nợ nước ngoài để đầu tư bừa bãi, rồi bỏ túi riêng như: Dầu khí – Điện lực – Ngân hàng – Viễn thông – Hàng không – Khu chế xuất – Khu công nghệ – Dịch vụ du lịch – Dịch vụ xuất cảnh lao động….
Vì vậy, “bánh vẽ” CMKHKT đã tan tành! Năm 2020 VN không thành “nước công nghiệp hiện đại” mà thành “nước sạt nghiệp hại điện”!
MAI BÁ KIẾM
CƠ ĐỒ
Về cái câu tự sướng mà các báo quốc doanh đang tung hô, rằng “Đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ như hôm nay”, chúng ta cần thấy:
-Đó cũng chỉ là dạng tư duy cùn mòn, kiểu như so với trước cách mạng tháng 8 thì nông thôn bây giờ có nhiều nhà ngói hơn, thậm chí có cả nhà mái bằng, nhà 2 tầng.
-Chỉ nhìn vào thực tế trong nước rồi tự bảo ta đã tiến được thế này thế nọ, sao không thấy trong cùng thời gian ấy xứ người ta đã có cơ đồ bằng mấy mình. Nói đâu xa, chỉ sang Thái Lan là biết, chứ chưa cần Hàn, Nhật.
-Sao không tự hiểu, nếu không có các vị, cơ đồ của đất nước bây giờ có khi còn lớn gấp bao nhiêu lần cái cơ đồ đang có.
-Suốt mấy chục năm, cụ thể là 44 năm sau chiến tranh, tức là gần nửa thế kỷ, nay mới chỉ đạt được cơ đồ thế này, đáng nhẽ phải thấy nhục chứ không phải là vênh vang đắc chí. Lãng phí tiêu phí của cả dân tộc biết bao là thời gian, còn khoe mẽ nỗi gì.
– Nguyễn Thông
Hãy cùng nhau đoàn kết, hợp tác, hành động để sông Mê Công mãi là dòng chảy của hòa bình, là kết nối sinh tồn bền vững, thịnh vượng đến muôn đời của những quốc gia, người dân trong khu vực.
Cuối năm, chính xác là vào ngày 18 tháng 12 năm 2019, FB Thanh Hieu Bui (hốt hoảng) báo động về một tai họa … đã hơi bị cũ: “Cái tin này mới đáng sợ này, đồng bằng Cửu Long là vựa lúa lớn nhất nước, chuyện này liên quan khủng khiếp đến đời sống nhân dân. Một trong những nguyên nhân là bọn Tàu Khựa nó lấy nước nguồn sông, khiến mực nước sông xuống thấp, nước mặn tràn vào.”
Nạn ngập mặn ở đồng bằng sông Cửu không phải là hiện tượng mới mẻ gì đâu, ông Lái Gió ạ:
“Mười ngày trước Giáng Sinh, ngư phủ Nguyễn Văn Chơn và vợ cư ngụ tại huyện Lấp Vò Tỉnh Đồng Tháp đã lưới được một con cá đuối khổng lồ trên sông Tiền, đoạn giữa hai Xã Tân Mỹ và Tân Khánh Trung. Con cá đuối có chiều dài hơn 4 mét ngang 2 mét và nặng tới 270 ký.
Cá đuối hay Selachian, tên khoa học là chondrichthyes, thuộc loài cá sụn (cartilaginous fishes) gồm các giống cá mập, cá nhám, cá đuối và là cá nước mặn. Đây cũng là lần đầu tiên ngư dân Đồng Bằng Sông Cửu Long lưới được một con cá nước mặn lớn như vậy rất xa biển và trên một khúc sông nằm sâu trong đất liền… Cho sẻ thịt bán ngay tại bến số tiền thu được lên tới ngót 2 triệu đồng tính ra khoảng 140 đô la như món quà Giáng Sinh mà cả hai vợ chồng anh đã không thể nào ngờ tới. Nhưng ‘Có biết đâu niềm vui đã nằm trong thiên tai’ như lời thơ Nguyễn Đình Toàn, bởi vì khi mà nước sông Cửu Long xuống mức thấp nhất so với 73 năm trở lại đây và có nơi mực nước sông chưa được hai thước gây sạt lở hai bên bờ làm thiệt hại nhà cửa và cả nhân mạng.
Nhiều chuyên gia Việt Nam ở ngoại quốc và cả trong nước đã lên tiếng báo động về hiểm họa hạn hán với sông Cửu Long có thể cạn dòng do các công trình xây đập ngăn nước của các quốc gia Thượng Nguồn Thái Lào và nhất là chuỗi tám con đập bậc thềm khổng lồ Vân Nam Trung Hoa mà lâu nay chánh quyền Hà Nội vẫn không hề lên tiếng phản đối…
Và khi một con cá đuối nước mặn lớn như vậy có thể vào tới Đồng Tháp thì đó là báo hiệu nạn ngập mặn (salt intrusion) đã vào rất sâu trong vùng châu thổ, nơi vốn là đất của ‘sữa và mật ngọt’ hay đúng hơn vùng đất của ‘phù sa, lúa gạo, cây trái và tôm cá đầy đồng…’ (Ngô Thế Vinh. Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng, Westminster, CA: Văn Nghệ, 2000).
Cùng vào thời điểm này, trong một cuộc phỏng vấn do Nguyễn Mạnh Trinh thực hiện – vào tháng 11 năm 2000 – tác giả của tác phẩm thượng dẫn cũng bầy tỏ sự lo ngại về “giai đoạn toàn vùng Đồng bằng Sông Cửu Long đã ô nhiễm đã hoàn toàn ngập mặn thì vĩnh viễn chẳng còn đâu một nền Văn Minh Miệt Vườn và cũng không còn đâu Vựa Lúa để nuôi sống ngót 100 triệu dân của cả nước.”
Nỗi bận tâm và bi quan của Bùi Thanh Hiếu và Ngô Thế Vinh, tiếc thay, không được Bộ Trưởng Tài Nguyên & Môi Trường (kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Sông Mê Công Việt Nam) hiện nay đồng tình hay chia sẻ. Nhân vật này vốn rất lạc quan. Mọi “sự cố” về môi sinh đều được đương sự lấp liếm rằng sự việc “chưa đáng quan ngại,” vẫn ở ngưỡng “an toàn” hay “vẫn trong qui chuẩn.”
Tại Hội Nghị Toàn Thể Ủy Ban Sông Mê Công Việt Nam lần thứ nhất của năm 2018, Trần Hồng Hà “đánh giá cao chương trình hành động của uy ban” do … chính ông ta làm chủ tịch! Cái ủy ban này hoạt động ra sao? Câu trả lời có thể tìm được trong nhiều mẩu tin, đọc được trong năm 2019:
Nhà nước VN đã chủ động “đối phó với nguy cơ xoá sổ” này bằng … nghị quyết: N.Q 20/NQ-CP, ban hành ngày 17 tháng 11 năm 2017: “Đưa ra những chiến lược có tầm nhìn mới, định hướng chiến lược, các giải pháp toàn diện, căn cơ, đồng bộ, huy động tối đa các nguồn lực và sự tham gia của các thành phần kinh tế để phát triển bền vững ĐBSCL.”
Qua năm 2018, VTC NEWS (đọc được vào hôm 20 tháng 6) ái ngại cho hay: “1,7 triệu người đã rời khỏi đồng bằng Sông Cửu Long.” Thế là Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc ký thêm cái Quyết Định 417/QĐ-TTg để ban hành chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) thích ứng với biến đổi khí hậu.”
Thiệt là “quyền biến” và “linh động” hết biết luôn!
Chỉ có điều đáng phàn nàn là những khẩu hiệu, cũng như những Nghị Quyết (và Quyết Định) quyết liệt của ông T.T – xem ra – không có tác dụng gì ráo trọi đến vấn đề sống còn của 18 triệu dân nơi ĐBSCL!
Thế còn Quốc Hội?
Nếu tôi nhớ không lầm thì thảm trạng của ĐBSCL, dù đã được nhiều vị thức giả đề cập đến từ cuối thế kỷ trước, chưa bao giờ được đưa vào nghị trình để bàn thảo một cách nghiêm trang và thấu đáo ở Quốc Hội Việt Nam cả. Cứ như thể đây là nơi tụ hội của những người bị tật (đui và điếc) vậy. Tôi còn e rằng không vị dân biểu nào biết là có một cơ quan chính phủ “chuyên trách” về vấn đề này nữa.
Trụ sở Ủy Ban Sông Mêkong của nước Lào nằm sát cạnh bờ sông. Đôi khi, đi ngang qua toà nhà này – vào mùa nước lớn – tôi vẫn nghĩ vui rằng: Nếu đứng từ ban công mà quăng cần, dám câu được cá lắm nha, gẩn xịt hà. Còn Trụ sở Ủy Ban Sông Mêkong của nước ta thì nằm ở số 23 phố Hàng Tre – quận Hoàn Kiếm, Hà Nội – cách dòng sông Cửu đâu cỡ ngàn cây số. Cũng còn may là nó chưa bị đưa lên đến tận Hà Giang.
T.S Nguyễn Thái Nguyên cho rằng: “Không thể đổ hết lỗi cho El Nino hay cho bọn ‘cướp nước’ Trung Quốc được, mặc dù đó là hai nhân tố khách quan rất lớn.” Trong viễn ảnh ĐBSCL bị xoá sổ thì tôi e rằng yếu tố chủ quan còn lớn hơn nhiều. Đó là cái thái độ hoàn toàn vô trách nhiệm của tầng lớp lãnh đạo VN hiện nay trước mọi vấn đề (lớn/nhỏ) của đất nước. Khi giới người này đủ nhẫn tâm để có thể tháo cạn nước của một dòng sông, và đốt cháy nguyên một khu rừng (chỉ vì cần có vài con cá nướng trui để nhậu chơi) thì hiểm họa về môi sinh đang đe doạ dòng sinh mệnh của cả dân tộc, chứ nào có riêng chi chỉ dòng sông Cửu.