NGƯỜI TỪ TRĂM NĂM VỀ NGANG TRƯỜNG LUẬT…- Lê Hữu

Lê Hữu

Đường Duy Tân, chợ Bến Thành

Chân ai thả bộ còn in khóe cười

(thơ Nguyễn Tất Nhiên)

Mỗi năm đến hè lòng man mác buồn…

Câu hát quen thuộc từng được nghe đi nghe lại trên các làn sóng phát thanh ở miền Nam một thời nào. Nỗi Buồn Hoa Phượng, tên bài hát của Thanh Sơn, có thể xem là bài “tình ca học trò” tiêu biểu thuở ấy với sân trường phượng vỹ, với tiếng ve gọi hè, với những tà áo nữ sinh và những lưu bút ngày xanh chuyền tay nhau của những cô cậu học trò dưới mái trường trung học.

Cho đến một ngày kia, những “tình ca học trò” này bỗng trổ sang một nhánh khác; nói khác hơn, được “nâng cấp” thành những bài “tình ca sinh viên”. Không còn những “phượng thắm sân trường”, những “cổng trường vôi tím”, những “một thời áo trắng”…

Sân trường trung học được thay bằng khuôn viên đại học, lớp học được thay bằng giảng đường, hình ảnh cô nữ sinh hay mơ hay mộng được thay bằng cô sinh viên hay buồn thường nhắc nhở những chiến công (Anh Không Chết Đâu Em, nhạc Trần Thiện Thanh). Lần đầu tiên người ta nghe được những câu hát:

Trả lại em yêu / khung trời đại học…

Buổi chiều khuôn viên / mây trời xanh ngát…

(Trả Lại Em Yêu, nhạc Phạm Duy).

hay là:

Kể từ sau đêm đó

sân vui đại học mất tiếng chim ca…

(Trên Đỉnh Mùa Đông, nhạc Trần Thiện Thanh)

Cũng đúng thôi, xong bậc trung học thì phải lên đại học chứ, và tình yêu cũng… chuyển trường. Có thể xem việc “nâng cấp” những bài tình ca học trò này là một cách “tạo dáng” (như cách nói bây giờ) và là cái mode thời thượng khá phổ biến vào thời ấy.

Trong số những bài “tình ca sinh viên” ấy, không thể không nhắc đến một bài hát trữ tình viết riêng cho những anh chàng, cô nàng sinh viên Luật khoa Sài Gòn, mặc dù trong bài hát không hề có câu, chữ nào nói về ngôi trường “Luật khoa đại học đường”. Bài hát chỉ nhắc đến tên của một con đường quen thuộc như là nét phác trong một bức họa đẹp.

Con đường Duy Tân / cây dài bóng mát

Chắc chắn đấy không phải là con đường có nhiều “cây dài” và “bóng mát” nhất ở Sài Gòn, thế nhưng con đường mang tên vị vua yêu nước của triều Nguyễn ấy như gắn liền với ngôi trường đại học Luật khoa, và trở thành một trong những “con đường tình ta đi” quen thuộc của những câu chuyện tình sinh viên, học sinh ngày ấy.

Duy Tân, con đường của những hàng cây sao già cỗi–như tuổi của ngôi trường cũ kỹ ấy–với những trái sao tròn nhỏ gắn đôi cánh mỏng dài và cong vẹt màu nâu đất, khi lìa cành bay là là và xoay tròn trong gió như những cánh chuồn chuồn của một thuở mộng mơ.

Con đường Duy Tân ấy, ngôi trường Luật ấy, Hồ Con Rùa (hay Công Trường Duy Tân) ấy và Nhà Thờ Đức Bà nữa, kết hợp thành một quần thể thân thuộc đối với những ai từng có thời kỳ gắn bó nơi chốn ấy, từng in những “dấu chân kỷ niệm” trên những lối đi, về ấy.

Trả Lại Em Yêu , bài hát của Phạm Duy được cất lên lần đầu với giọng lảnh lót của Thái Thanh đã hớp hồn tuổi trẻ ngày ấy, hóa thành bài tình ca một thuở của sinh viên trường Luật và những ai có ít nhiều kỷ niệm với ngôi trường này.

Bài hát kể về tình yêu trong một đất nước chiến tranh, khi mà đời sống con người luôn bị đè nặng, phủ trùm những âu lo và bất trắc. Những chàng “trai thời loạn” đành “xếp bút nghiên theo việc đao cung”, giã biệt tình đầu để lên đường theo tiếng gọi của non sông, không hẹn một ngày về.

Anh sẽ ra đi về miền cát nóng

Nơi có quê hương mịt mù thuốc súng…

Anh sẽ ra đi nặng hành trang đó

Anh sẽ ra đi chẳng mong ngày về…

Trả lại em yêu / mây trời xanh ngát…

Trả lại, trả lại hết những “con đường học trò”, những “mối tình vời vợi”, những mắt sáng môi tươi, những khung trời đầy trăng sao và những Chủ Nhật uyên ương hẹn hò đây đó / Uống ly chanh đường, uống môi em ngọt…

Trả Lại Em Yêu trở thành bài hát  khá tình tứ được nhiều đôi nam nữ ca sĩ trình bày. Có thể nói không ca sĩ nào ngày ấy mà không từng hát Trả Lại Em Yêu, không chàng sinh viên nào ngày ấy mà không từng nghêu ngao câu hát Trả lại em yêu khung trời đại học…

Một bài tình ca khác, gọi đúng tên, gọi đích danh ngôi trường đại học nằm trên con đường Duy Tân ấy.

Người từ trăm năm / về ngang trường Luật…

Bài hát là một bài phổ thơ của nhạc sĩ Phạm Duy, Thà Như Giọt Mưa. Bài hát được phổ biến tràn lan trên các làn sóng đài phát thanh, các băng cassette, trên những đường phố, trong những quán café hay những sân trường.

Thà như giọt mưa / vỡ trên tượng đá

Thà như giọt mưa / khô trên tượng đá…

Điều khá lý thú, bài thơ được phổ nhạc (“Khúc tình buồn”, thơ Nguyễn Tất Nhiên) không hề nói năng gì đến trường Luật, không hề có câu, chữ nào nói về ngôi trường ấy cả. “Về ngang trường Luật” là những chữ được nhạc sĩ Phạm Duy thêm vào một cách cố ý (hẳn ông phải yêu mến ngôi trường này lắm).

Điều này quả là bất ngờ và hẳn nhiều sinh viên Luật khoa cần cám ơn người nhạc sĩ đã đưa hình bóng “ngôi trường thân yêu” của mình vào trong bài hát, làm cho trường Luật được “lên điểm”, như cách nói ngày ấy. Trong bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên chỉ có những câu:

“Người từ trăm năm về qua sông rộng…

Người từ trăm năm về khơi tình động”…

Hoàn toàn không có vụ Người từ trăm năm về ngang trường Luật hay là thi rớt, thi đậu Tú Tài chi chi cả như là lời của bài hát mà người ta vẫn nghe Duy Quang và các ca sĩ khác kể lể nỗi niềm.

Thà Như Giọt Mưa là bài hát kể về câu “chuyện tình thư sinh” (chữ của nhạc sĩ Phạm Duy) của anh chàng thất tình vì ta hỏng Tú Tài, ta hụt tình yêu, với những lời lẽ vu vơ, phất phơ như là “sao cũng được”, “thế nào cũng xong”, “tới đâu thì tới”…, chỉ cốt rong chơi cho qua ngày tháng.

Thà như mưa gió / đến ôm tượng đá

Có còn hơn không / có còn hơn không

“Có còn hơn không” trở thành một “triết lý sống” dễ dãi, an phận của tuổi trẻ thời ấy. Hoặc những câu hát ngồ ngộ:

Người từ trăm năm / về như dao nhọn

Dao vết ngọt đâm / ta chết trầm ngâm

Chết… trầm ngâm là một kiểu chết mới, nghe giống như là “Trầm tư của một tên tội tử hình” (tên một tựa sách của học giả Hồ Hữu Tường). Điều lý thú khác, trong bài thơ được phổ nhạc không hề thấy có kiểu “chết trầm ngâm” nào như thế cả, mà chỉ có:

“Người từ trăm năm

về như dao nhọn

ngọt ngào vết đâm

Ta chết âm thầm

máu chưa kịp đổ”

Câu thơ được người nhạc sĩ đổi thành câu hát mang vẻ “triết lý lừng khừng” của một “triết nhân” tự nguyện chết cho tình yêu. Không rõ chàng thi sĩ đã phải gồng mình hứng chịu bao nhiêu là nhát dao “ngọt ngào vết đâm” như thế trong đời mình. Những vết đâm nghiệt ngã khiến…

Ta chạy vòng vòng / ta chạy mòn chân…

Ta chạy mù đời / ta chạy tàn hơi

quỵ té trên đường rồi…

Chuyện tình yêu của tuổi trẻ ngày ấy là vậy, là “chạy vòng vòng”, là “chạy mòn chân”, chạy hụt hơi để đuổi bắt chiếc bóng lung linh của tình yêu.

* * *

Trả Lại Em Yêu, Thà Như Giọt Mưa và những bài hát nào nữa đã khởi đầu cho một nhánh tình ca xanh tươi–tách ra từ dòng nhạc tình muôn thuở của nhạc Việt–gọi là “tình ca sinh viên, học sinh”. Có không ít những bài tình ca kể về những ngôi trường từng được hát, được nghe, được yêu thích một thời mà ai cũng dễ dàng kể tên ra được.

Không ai biết chắc sẽ còn bao nhiêu bài tình ca như thế nữa, nếu không có cơn bão của lịch sử ập đến vào một ngày tháng Tư năm 1975. Cơn bão tàn khốc đã quét sạch, đã cuốn phăng đi tất cả.

Qua bao mùa tang thương dâu bể, qua bao nhiêu vật đổi sao dời, thành phố ấy đã thay tên, con đường ấy đã đổi tên, ngôi trường ấy cũng thay hình đổi dạng như hóa thành một người nào khác. Tôi đứng đó, tần ngần, hụt hẫng trước bao cảnh đổi thay của từng góc phố, mỗi con đường. Ngôi trường nhìn tôi dửng dưng, xa lạ. Tôi đã như chiếc bóng mờ của “những người đã qua”.

Lịch sử đã sang trang, chiếc bánh xe nặng nề của thời gian đã lăn đi một vòng. Chỉ mấy mươi năm mà tôi tưởng chừng dài đến cả trăm năm. Người từ trăm năm…, lúc này đây tôi hiểu ra câu hát ấy, câu hát về những đời người đã cũ, về những ngày vui mơ hồ còn đọng lại trong tôi như những giấc mơ ngọt ngào không bao giờ tắt hẳn.

Con đường cũ ấy không còn những “cây dài bóng mát”. Những “bạn bè cũ, mới” của tôi nay đâu?! Câu hát ngày xưa chỉ còn ngân nga trong trí tưởng, nghe rớt lại một nỗi ngậm ngùi.

Người từ trăm năm …. về ngang trường Luật…

(Sài Gòn trong tôi/ Lê Hữu)

From: T. Nguyen

XUÂN VÀ TÌNH NGƯỜI TRÊN RỪNG THIÊNG NÚI THẲM-Vũ Đình Lưu

Lời Giới Thiệu của KB NgụySaiGon:

Việt-cộng gọi Họ là Ngụy Quân, Ngụy Quyền. Việt-cộng cũng ra sức tuyên truyền Họ là những người tàn ác mất tính người. Ăn gan uống máu đồng loại. Họ cũng bị VC lên án là tay sai bán nước cho Mỹ. Sau ngày tan chiến, Họ bước chân vào tù không có ngày về. Bước chân đầu tiên trên đất Bắc, Họ đã được chào đón bằng những trận ném đá dữ dội từ những đồng bào Miền Bắc căm thù Ngụy. Họ là ai? Là những chiến sĩ Quân Lực VNCH hiên ngang bất khuất ngày nào. Họ, là những toán Biệt Kích đã nhảy ra Bắc, Họ là những phi công đã từng bay những phi vụ Bắc Phạt , Họ là những Thiên Thần Mũ Đỏ , Họ là những Cọp Biển, Cọp Ba Đầu Rằn, Họ là những Kỵ Binh can trường, là những chiến sĩ Bộ Binh, Pháo Binh… dũng cảm. Một trong những điều tâm niệm của người chiến binh QLVNCH là :“Làm mất lòng dân là xô dân về phía giặc cộng”. Cho nên trong hoàn cảnh nào, Họ cũng tranh thủ được nhân tâm. Dù trong tù bị ngược đãi hành hạ bị tẩy não, bị bỏ đói, bị bắt lao động khổ sai , nhưng người chiến sĩ QLVNCH vẫn giữ tư cách, ngẩng cao đầu không hàng phục, không cúi đầu trước kẻ thù. Và những người dân sống quanh trại tù kể cả những thân nhân của cai tù đã cảm mến phong cách của người chiến sĩ sa cơ. Đã gọi Họ là anh lính Cộng Hòa hoặc Người Tù Áo Hoa bởi vì họ mặc quân phục của Nhảy Dù… với chan chứa tình cảm thương mến và cảm phục.

Đại Úy Vũ Đình Lưu, Chi Đoàn Trưởng Chi Đoàn lừng danh 2/5 Thiết Kỵ đã viết về tình quân dân như cá với nước của đồng bào Miền Bắc với những người tù từ một Miền Nam xa xôi nắng ấm. Sự giúp đỡ của những cô gái Miền Bắc đã cho thấy chính sách tuyên truyền nhằm bội lọ những người tù VNCH đã thất bại thê thảm.

Xin trân trọng cám ơn Đại úy Vũ Đình Lưu đã ghi lại một sự kiện có thật . Chính nghĩa bao giờ cũng thắng bọn hung tàn Cộng-sản. Xin trân trọng giói thiệu Quý độc giả bài viết ” XUÂN VÀ TÌNH NGƯỜI TRÊN RỪNG THIÊNG NÚI THẲM ” để nhớ, để ghi nhận một thời điểm khó khăn mà những chiến binh anh hùng QLVNCH phải chiến đấu để tồn tại khi Quân Lực của họ đã bị bức tử.

*******

Câu chuyện này đã xảy ra cách nay trọn 32 năm, tại vùng rừng núi Sơn La. Cuộc gặp gỡ tình cờ giữa những người tù khổ sai biệt xứ và những cô sơn nữ người dân tộc Mường. Tình người, như một phép lạ không tưởng đã hiển hiện, làm rơi lệ anh em chúng tôi trên vùng cùng trời, cuối đất này.

“Nước nào độc bằng nước Sơn La. Ma nào thiêng bằng ma Hòa Bình”. Ma Hòa Bình “thiêng” ra sao, dễ sợ như thế nào thì tôi không được biết, chứ còn nước ở vùng Sơn La này độc hại vô cùng. Có những con suối uốn cong, với những thác nước, những ghềnh, thật đẹp. Cành lá sà sát mặt nước trông thật thơ mộng và quyến rũ. Nước suối trong vắt, lạnh tanh, hoàn toàn không có một sinh vật nào tồn tại được dưới làn nước này. Nước, nếu uống khi chưa được đun sôi, sau chừng nữa giờ thôi, bụng sẽ đau quặn thắt. Chân lội nước khoảng một tiếng đồng hồ, da sẽ đỏ au, ngứa, gãi đến bung máu. Một trại tù đã mọc lên nơi đây từ tháng 6 năm 1976, để “tập trung” cả ngàn Sĩ Quan QLVNCH nơi rừng thiêng, nước độc mà ngày xưa là chiến khu Việt Bắc của Việt Minh.

Bấy giờ năm 1978 sắp hết, xuân Kỷ Mùi (1979) cũng gần đến. Vùng Sơn La nầy phải công nhận có hoa đào tuyệt đẹp. Chúng tôi đã từng ngạc nhiên, trầm trồ khen ngợi hoa đào trong hai mùa Xuân đầu tiên đến miền thượng du Bắc Việt lạnh giá. Chính những bông hoa tươi thắm đã làm thay đổi hẳn màu sắc rừng núi buồn hiu. Những cây đào đã trải qua một mùa Đông lạnh buốt, bây giờ trơ trụi, không còn một chiếc lá, cành mang toàn những búp to tròn và sẵn sàng chờ nắng mùa Xuân sắp đến sẽ thi nhau khoe sắc thắm: trắng, đỏ, hồng.

Hôm nay đội thợ mộc chúng tôi xuất phát đi lao động lúc 7 giờ sáng. Hành trang lên đường bằng một vỏ lon sửa bột Guigoz bên trong đựng vài khúc sắn luộc cho buổi ăn trưa. Một ống nứa chứa chừng 1 lít nước uống, một con dao “quắm” để chặt nứa. Vì công việc gian nguy nên chúng tôi đồng chọn bộ đồ trận ngày xưa được cấp phát từ Long Giao (tháng 6-1975) để mặc vì tính bền chắc của nó. Trên lưng áo viết một chữ Tù to tướng bằng sơn trắng từ lúc chúng tôi đặt chân đến miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Thường ngày chúng tôi ít mặc, ngoại trừ những ngày lao động như hôm nay. Theo thời gian, bộ đồ trận càng ngày càng rộng, đến nay mặc vào, ôi! sao mà rộng thùng thình, anh em chúng tôi nhìn nhau với cảm giác xót xa, buồn tủi.

Rời trại, “vệ binh” dẫn chúng tôi trực chỉ đến một ngọn đồi, bọn chỉ huy trại gọi là đồi “Pháo” vì Việt Minh đã đặt pháo phòng không để yểm trợ cho mặt trận Điện Biên Phủ. Chúng tôi đến chân núi sau một giờ, có đi ngang qua một làng Việt Nam – Tên làng này do chúng tôi đặt vì có nhiều người Kinh từ vùng đồng bằng đã lên đây lập nghiệp từ năm 1954 cũng vì “chính sách di dân vùng kinh tế mới” của Việt Minh. Thật ra, chỉ khoảng hơn mươi căn nhà xiêu vẹo, mái, vách làm bằng nứa, nằm rải rác hai bên con lộ nhỏ bé. Có một vài lần, những bậc cao niên đã có ý hờn trách rằng: “Chúng tôi nghĩ rằng các ông sẽ giải phóng miền Bắc, giải phóng kiếp sống bần cùng của chúng tôi, nào ngờ cơ sự như thế này”. Nghe sao quá đau lòng!!! Còn phần lớn cư dân địa phương là dân tộc Mường, Thái và Mèo, nhà cửa cũng cách nhau thật xa, họ sống trên những ngọn đồi cao khắp nơi trong vùng, hầu hết ở ngoài sự tổ chức của chính quyền địa phương.

Chúng tôi 20 anh em bắt đầu leo núi, ngọn đồi này thật cao, lối đi quanh co nhỏ bé lầy lội, hai bên là cây cối lẫn dây leo và đá tai mèo sắc bén. Một bên của đường mòn là vách núi cao dựng đứng, một bên là vực sâu. Sau một giờ đồng hồ chúng tôi dùng mọi cách để lên núi: đi, bò, đu dây, nhảy, người sau đẩy người trước, người trước kéo người sau thế rồi cũng đến một nơi tương đối bằng phẳng. “ Vệ binh” cho chúng tôi nghỉ mệt chừng 30 phút. Vừa ngồi nghỉ, chợt nhìn xuống chân đồi một đoàn sơn nữ người dân tộc Mường bắt đầu leo núi cũng theo con đường độc đạo này. Chúng tôi sắp tiếp tục hành trình thì các cô gái trẻ người Mường cũng đã đến, các cô cười nói vui vẻ một cách hồn nhiên và tiếp tục lên đồi. Sau một giờ đồng hồ nữa chúng tôi đến đỉnh đồi và bắt đầu công việc trại giao cho đội. Các bạn có biết cây gì đốt càng nhiều, thì càng dài không? Đó là cây tre, cây nứa. (Đốt ở đây là danh từ, không phải động từ).

Theo sự phân công của trại, chúng tôi đi chặt nứa mang về trại dựng cổng chào để mừng Xuân, vì cây nứa ở đồi này rất đặc biệt, lóng (đốt) rất đều, nứa già có màu đỏ hồng thật đẹp từ lúc còn tươi đến khi khô cứng. Khi chúng tôi gom nứa lại tại một bãi trống, là điểm tập trung mà “vệ binh”đã chỉ định trước để cột nứa thành từng bó. Ở đây, các cô gái Mường cũng đã lấy măng xong và ngồi quây quần, nói cười luôn miệng. Bên cạnh các cô là những gùi chứa đầy những mụt măng tre bụ bẩm, được ràng buộc cẩn thận. Hôm nay chúng tôi gặp một “vệ binh” trẻ người dân tộc địa phương khá dễ chịu, anh ta để mặc chúng tôi, còn anh mãi mê đi săn bắt chim rừng?

Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên, khi nhìn lại “tư trang” mang theo đã được tập trung nơi đây, trước khi tản mác vào rừng để chặt nứa, chỉ còn lại chiếc lon Guigoz; còn gói lá chuối, bên trong là sắn, đã biến mất. Chiếc lon nầy bây giờ chứa đầy đọt chè xanh, sau khi chúng tôi băng qua những vườn chè bên sườn núi. Đã từ lâu, cư dân địa phương âm thầm tặng cho chúng tôi những món quà như ít chè xanh, vài ba trái ớt, vài nhánh hồ tiêu, kể cả đôi củ tỏi, gừng, nghệ. Những món quà nhỏ bé ấy, với chúng tôi bây giờ không phải một thứ gia vị; đó là những vị thuốc dân tộc quí hiếm vô cùng, dùng để chữa bệnh, nó đã cứu chúng tôi thoát được những giờ phút nguy hiểm do sơn lam chướng khí của núi rừng Hoàng Liên Sơn. Lại càng ngạc nhiên hơn nữa, bên cạnh chiếc lon Guigoz có những vắt cơm nếp và ít thịt gà ram (đương nhiên là gà “đi bộ” rồi)! Ngay lúc đó các cô gái Mường tiến lại và nói với chúng tôi bằng những lời chân tình cảm động:

“Thưa các chú Lính Cộng Hòa, bọn cháu xin lỗi các chú, vì đã thay đổi khẩu phần ăn các chú mang theo. Các cháu đã dùng phần ăn đó, vì các cháu thèm sắn (hic), bây giờ các chú dùng tạm phần ăn này, các cháu sẽ bó nứa cho các chú”.

Chúng tôi nhìn nhau ngơ ngác, rồi nói xin cảm ơn tấm lòng của các cô và cùng nhau ngồi ăn một cách ngon lành vì quá đói. Bữa cơm trưa đã xong, các cô gái Mường cũng đã cột xong những bó nứa. Chúng tôi đều thắc mắc hỏi “tại sao các cô bó phần nứa của từng cá nhân thành hai bó, làm sao chúng tôi mang xuống núi được”. Thông thường chúng tôi chỉ bó thành một bó thôi, vì một tay ôm nứa một tay còn lại xử dụng để vịn, chống, đỡ khi xuống núi để giảm phần trợt té. Các cô lại cười, những nụ cười thật trong sáng, hồn nhiên của người con gái miền thượng du và nói:

“Các cháu sẽ mang nứa xuống núi giúp các chú, các chú mang hộ gùi măng xuống núi cho các cháu”.

Chúng tôi nhìn lẫn nhau ngỡ ngàng, trong lòng xúc động, lại chỉ biết nói hai chữ cảm ơn. Nhìn qua các gùi măng có quai mang như chiếc “ba lô”của người lính trận. Nhất lên thử, khá nhẹ, trọng lượng chỉ bằng một phần tư bó nứa của chúng tôi. Bây giờ đã 2 giờ chiều, các cô bắt đầu vác hai bó nứa bằng vai đi một khoảng ngắn đến triền đồi, bèn thay đổi tư thế bằng cách kẹp nứa vào hai nách và xuống núi. Chúng tôi sửa soạn lại y phục, bỏ áo vào quần nịt thật chặc bằng dây rừng, vì biết trước rằng xuống núi sẽ khó hơn gấp bội lần. Đường xuống núi, không những chỉ đi, mà còn phải bò, lết. Chúng tôi mang gùi măng lên vai và lục đục khởi hành. Nhìn về phía trước các cô gái Mường di chuyển hết sức lẹ làng, như chạy băng qua những trở ngại đầy bất trắc.Còn chúng tôi dường như phần lớn ai cũng ngồi bệt xuống đất và lết ở những đoạn có dốc đứng, nhờ độ trơn của bùn lầy, đẩy, kéo chúng tôi về chân núi. Những chướng ngại vật như cây chắn ngang đường đi, đá tai mèo lởm chởm, với những khúc quanh nguy hiểm làm chúng tôi trợt té, ngã lăn nhiều lần.

Khoảng một giờ gian nan, vượt nhiều hiểm nguy, rồi tất cả chúng tôi cũng… mò về đến chân núi. Các cô gái Mường đã sắp những bó nứa ngay ngắn và ngồi chờ chúng tôi. Khi chúng tôi vừa đến nơi các cô đồng đứng lên. Chúng tôi hết sức ngạc nhiên, vì sự không ngạc nhiên của các cô khi nhìn thấy thân hình của anh em chúng tôi bây giờ giống như những con trâu vừa ngoi lên khỏi vũng bùn lầy. Các gùi măng, mỗi gùi chỉ còn lại nhiều lắm là 3,4 mụt, có anh trao lại cho các cô chỉ một chiếc gùi trống. Những mụt măng kia đã văng xa khi chúng tôi té, bây giờ nằm đâu đó dưới vực thẳm. Các cô không ngạc nhiên, vì đây không phải là lần đầu tiên chia sẻ nhọc nhằn với chúng tôi, nhiều đội đã thay phiên nhau chặt nứa, đốn tre trên ngọn đồi này.

Lợi dụng “vệ binh” chưa về đến để đưa chúng tôi về trại, chúng tôi nói lời xin lỗi vì đã không làm tròn nhiệm vụ, và cảm ơn các cô, ghi sâu trong lòng, không bao giờ quên tấm lòng nhân nghĩa. Các cô đã giúp chúng tôi vượt được những khó khăn gian khổ dù chỉ một hai lần, đã chia sẻ những cùng cực, hiểm nguy với chúng tôi. Tri ân các cô đã nhường những phần ăn cho chúng tôi “một miếng khi đói bằng một gói khi no” thật sự quí hiếm vô ngần. Một điều làm cho anh em chúng tôi hết sức cảm động và hãnh diện là các cô đã gọi chúng tôi bằng “Chú Lính Cộng Hòa”. Đã từ lâu rồi, anh em chúng tôi không còn nghe được những từ thân thương, trìu mến đó. Mới có 2 năm, các cô đã hiểu biết được chúng tôi là những ai, những người như thế nào rồi sao?! Các cô cũng đã tâm sự rằng sắp đến mùa Xuân, Tết cận kề, biết chúng tôi bị tù đày, xa quê hương, xa gia đình, vợ con đang trông ngóng, biết chúng tôi buồn lắm, tủi thân lắm. Các cô làm những gì có thể được để chúng tôi có một niềm vui, dù rằng chỉ được những ngày giờ ngắn ngủi. Chúng tôi có hỏi tại sao các cô giúp chúng tôi? Câu trả lời của các cô gái trẻ người dân tộc Mường cho những người tù mà ngày xưa là những Sĩ quan QLVNCH, riêng cá nhân tôi sẽ không bao giờ quên vì đã hằn sâu trong tâm khảm. Câu trả lời đó là: “TÌNH NGƯỜI”.

Các cô còn bảo rằng biết đâu mai kia, mốt nọ chúng cháu sẽ không còn gặp các chú nữa với ánh mắt gợn buồn. Quả thật như vậy, cổng chào để mừng Xuân của trại chưa dựng lên. Tết cũng chưa đến, hoa Đào chưa nở rộ, chúng tôi phải đổi trại.

Ngọn đồi cũ mờ trong sương mù của núi rừng Sơn La, một thời để nhớ. Nhớ các cô gái Mường đã để lại một kỷ niệm không nguôi. Chúng tôi nhìn lại một lần cuối trước khi lên xe để về Yên Bái. Đây là đợt chuyển trại vội vàng về đồng bằng vì sắp có chiến tranh nơi biên giới Việt-Trung. Ngồi trong xe bít bùng tôi nguyện cầu cho những người ở làng Việt Nam được bình an trong những tháng năm còn lại. Các cô gái Mường gặp nhiều may mắn, gia đình các cô an vui, hạnh phúc. Cầu chúc các cô mau cảm nhận những tiếng “Kèn Nứa”(loại kèn làm bằng những ống nứa ghép lại của Dân tộc Mường) của các chàng trai thực lòng yêu thương các cô. Để mai kia, mốt nọ, các cô hân hoan cùng nhau lên đồi hái những Hoa Lau trắng về kết lại thành những chiếc gối xinh xắn gọi là lễ vật trong ngày cưới để biếu gia đình bên chồng. Một tập tục dễ thương đã có từ bao đời.

Ở Yên Bái không bao lâu, quân đội giao chúng tôi cho Bộ Nội Vụ quản lý. Và chúng tôi đến vùng trời nắng cháy: Tân Kỳ Nghệ Tỉnh để tiếp tục một quãng đời nghiệt ngã. Tiếp đến chiến tranh bùng nổ giữa Trung Quốc và Việt Nam năm 1979, tại các tỉnh cực Bắc Việt Nam.

Nguyện cầu cho tất cả mọi người còn ở lại, sẽ ở ngoài vùng khói lửa chiến tranh sắp đến. Không chia lìa, tang tóc, đau thương như đồng bào Miền Nam đã hằng hứng chịu trong suốt chiều dài cuộc chiến. Một lần nữa xin chào tạm biệt mọi người. 

Vũ Đình Lưu

From: T. Nguyen

Có bao giờ bạn cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong đời sống chưa?- Cha Vương

Ngày Chúa Nhật thật zui zẻ và hạnh phúc bên Chúa và Mẹ nhé.

Cha Vương

CN, 6PS: 25/5/2025

TIN MỪNG: Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em. (Ga 14:26)

SUY NIỆM: Trong sách Giáo Lý Công Giáo số 692 có viết: “Khi Chúa Giêsu loan báo và hứa rằng Chúa Thánh Thần sẽ ngự đến, Người gọi Chúa Thánh Thần là “Đấng Bào Chữa” (Paracletus), hoặc sát chữ là “Đấng được gọi đến bên mình”, ad-vocatus (Ga 14,16.26; 15,26;16,7).  Paracletus cũng thường được dịch là “Đấng An ủi”, và Chúa Giêsu là Đấng An ủi thứ nhất. Chính Chúa gọi Chúa Thánh Thần là “Thần chân lý”. 

    Có bao giờ bạn cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong đời sống chưa? Dù cuộc sống có trải thảm hoa để mời gọi, để đón bạn vào vinh quang của trần thế, nhưng vẫn không đưa bạn đến sự thanh thản trong tâm hồn, vẫn không chỉ ra cho bạn con đường nào dẫn đưa đến bến bờ hạnh phúc được. Khi phải đối diện với bao khó khăn của dòng đời ngược xuôi thì mỗi người Kitô hữu phải cậy nhờ vào niềm tin xác tín vào “Đấng Bảo Trợ” giúp đỡ mới có thể vượt qua được cạm bẫy của ma quỷ, khiến con người thường bị vấp ngã. 

Tuy nhiên, vì cuộc sống xô đẩy, nhiều khi làm đức tin của bạn chao đảo mà đánh mất đi sự trông cậy vào Thiên Chúa. Lúc đó bạn sẽ phải đối diện với những thử thách đức tin nơi cuộc sống trần gian này. 

Để vượt qua được thử thách này, bạn hãy năng chạy đến với Chúa Thánh Thần, để cầu xin Ngài ban cho bạn sức mạnh mà chiến thắng được những cạm bẫy trong đời sống hằng ngày bằng cách thường xuyên tham dự Thánh lễ và siêng năng lãnh nhận các Bí tích, đó là cách thức tốt nhất để nhận ra sự hiện diện của Chúa Thánh Thần trong cuộc sống.

LẮNG NGHE: Này con được THIÊN CHÚA phù trì, / thân con đây, CHÚA hằng nâng đỡ. / Con tự nguyện dâng Ngài lễ tế, / lạy CHÚA, con xưng tụng danh Ngài, / vì danh Ngài thiện hảo.  (Tv 54:6,8)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Thánh Thần, là Đấng An ủi lòng con, xin tăng thêm niềm tin cho con để con có thể vượt qua được những cạm bẫy của ma quỷ “đang rong ruổi khắp thế giới làm hại các linh hồn”. 

THỰC HÀNH: Đọc Chậm và suy niệm Kinh Đức Chúa Thánh Thần.

From: Do Dzung

**************************

Thánh Ca Về Chúa Thánh Thần Hay Nhất

Nguyên nhân thực sự đột quỵ và bài học xương máu- Bác sĩ Nguyễn Minh Đức

– Đột quỵ là tình trạng tắc hẹp mạch máu não còn nhồi máu cơ tim là tình trạng tắc hẹp mạch vành.

– Tuy nhiên chúng ta phải lưu ý tránh các động tác cúi gập người kéo dài. Theo như bạn bè của anh Tiến mô tả thì anh ấy bổ mít trong tư thế q.uỳ gối + gập người và cố sức bổ trái mít. Gương mặt anh ấy đỏ au và việc bổ mít kéo dài chỉ vài phút. Sau khi bổ xong anh ấy đứng dậy thì ngã và bất tỉnh. Như vậy, từ một tư thế đang tăng áp lực cao của ổ bụng và lồng ngực lại chuyển gấp sang tư thế khác khiến áp lực thay đổi quá đột ngột nên đưa đến đột quỵ, xuất huyết não, nhồi máu cơ tim, v.ỡ tim, v.ỡ động mạch chủ. 

– Chúng ta cần lưu ý có một động tác rất nguy hiểm mà ta hay làm hằng ngày đó là ngồi chồm hổm + cúi gập người cột giây dày. Mình đã từng chứng kiến vài ca xảy ra choáng, đột quỵ, nhồi máu cơ tim thậm chí tử vong.

 – Nhân các câu chuyện nêu trên mình mong tất cả hãy lưu ý, không nên ngồi chồm hổm + gập người, không nên q.uỳ gối + gập người trong tình trạng kéo dài trên vài phút. Thay vào đó ta ưu tiên các động tác: ngồi xếp bằng, cúi người nhẹ, ngồi co hai chân về phía người. Tuyệt đối khi thay đổi tư thế thì ngã người nhẹ về phía sau để giải phóng áp lực cho cơ hoành và lồng ngực trước khi đứng thoắt người đột ngột dậy. Khi nằm chuyển qua ngồi thì cũng nên từ từ nghiêng sang bên phải, chống tay rồi ngồi dậy, đừng làm quá nhanh rất nguy hiểm . 

– Nhưng ai từ 40 tuổi trở lên nên đi khám tầm soát nhồi máu cơ tim với siêu âm tim + điện tâm đồ. Còn đối với tầm soát nguy cơ đột quỵ thì cần làm MRI não có dựng ảnh mạch máu cảnh + não qua TOF3D. Siêu âm động mạch cảnh chỉ giúp thấy được mạch cảnh ngoài sọ còn tình trạng trong sọ gần như không thể đánh giá được và nguyên nhân đột quỵ nằm đến 80% là hẹp mạch cảnh và mạch não trong sọ.

 – Về việc dự phòng chúng ta cũng cần phải có một lối sống thanh thản thơ thới, cân nặng lý tưởng, một chế độ dinh dưỡng hợp lý, một thời khóa biểu tập thể dục loại động (thể thao) lẫn loại tĩnh (thiền định) phù hợp. Đừng có cố quá trong nhiều việc nếu không sẽ quá cố nha .

 Hy vọng thông tin trong bài hữu ích cho tất cả

 Bác sĩ Nguyễn Minh Đức chia sẻ

From: haiphuoc47 & NguyenNThu

Hạnh phúc không phải là trời yên biển lặng…

Lương Văn Can

Hạnh phúc không phải là trời yên biển lặng, mà là trải qua sóng gió nhưng vẫn đủ trầm tĩnh sáng suốt để chèo chống bình an.

Không có sự bình an trong cuộc đời mà chỉ có sự bình an trong tâm hồn. Đừng trách đời, trách người cũng đừng tự trách mình, điều quan trọng là ta vẫn tìm ra được chính mình dù trải qua bao nhiêu gian khó.

Hạnh phúc không đến từ cuộc đời, không đến từ người khác, hạnh phúc chỉ nảy nở từ bên trong khi mình biết sống trọn vẹn với chính mình, với những gì mình đang có.

Cuộc đời là bài toán khó mà đáp số không tìm thấy trong đó, vì nó chỉ có trong lòng mình.

Chúc bạn luôn được hạnh phúc!

  – sưu tầm

  – camxuc365

CẢNH VỰC THẦN LINH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”; “Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều!”.

“Tôi sẽ tìm kiếm thánh ý Chúa qua Lời Chúa và Thánh Thần. Nếu chỉ chiêm ngắm Thánh Thần mà bỏ qua Lời, tôi sẽ ảo tưởng! Nếu tự sức tìm hiểu Lời mà không được Thánh Thần dẫn dắt, tôi sẽ lạc hướng. Lời sẽ dẫn tôi đến nơi Thánh Thần muốn dẫn tôi đến, một nơi được gọi là cảnh vực thần linh!” – George Mueller.    

Kính thưa Anh Chị em,

‘Cảnh vực thần linh’ là cung lòng Chúa Cha, nơi Ba Ngôi ngự trị; nhưng thật bất ngờ, đó còn là tâm hồn của bạn và tôi, nơi Lời được sống, được giữ. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói, “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy; Cha Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy!”. Một tâm hồn được Chúa Cha và Chúa Con ở lại là ‘cảnh vực thần linh!’.

Hãy đọc lại những trang hồi ký của Giáo Hội sơ khai! Kìa, một nan đề nảy sinh – Cắt bì hay không cắt bì? – đó là khoảng thời gian của những bất đồng, xung đột và bất an – bài đọc một. Các lập trường ‘bảo thủ’ và ‘tiến bộ’ không thể giải quyết cho đến khi Lời và Thánh Thần trở nên kim chỉ nam; nói cách khác, “Hiệp nhất, yêu thương” được nắm giữ, và nhất là các tông đồ triệt để đặt mình dưới sự chỉ dạy của Thánh Thần. Bấy giờ, xung đột được giải quyết, bình an được thiết lập. Đó là ‘cảnh vực thần linh’ ngoạn mục đầu tiên mà Thánh Thần đã dẫn các tông đồ đến. Kết quả là ‘tông sắc’ “không cần cắt bì” ra đời. Thánh Vịnh đáp ca vỡ oà niềm vui, “Chư dân, hãy ca tụng Ngài, thân lạy Chúa, hết thảy chư dân hãy ca tụng Ngài!”.

Chúa Giêsu còn tuyên bố, “Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều!”. Thánh Thần không chỉ dạy chúng ta “biết” Lời Chúa, mà còn “thấm nhuần” và “sống” Lời đó. Ngài giúp chúng ta chuyển từ tri thức sang hành động, từ hiểu biết sang lòng yêu mến. “Nếu Thánh Thần không ở trong bạn, Thánh Kinh chỉ là chữ viết. Một khi Ngài ở trong bạn, chữ ấy trở nên sự sống!” – Augustinô. Như vậy, ở đâu có Thánh Thần, ở đó có bình an – ‘cảnh vực thần linh’ – dẫu không miễn trừ thử thách hay thập giá. Thật thú vị, ‘cảnh vực thần linh’ còn là thế giới yếu đuối luôn đổi thay mà Giáo Hội được kêu gọi để biến đổi; tuy thế, vẫn là một thế giới “viết chương trình nghị sự cho Giáo Hội”. Với Thánh Thần, Giáo Hội biến nó nên “Thành của Thiên Chúa Toàn Năng!” – bài đọc hai. Đó là Vương Quốc – ‘cảnh vực thần linh’ – mà mỗi thành viên của Giáo Hội hằng mơ ước và hướng về!

Anh Chị em,

“Thánh Thần sẽ dạy anh em mọi điều!”. Không để chúng ta mồ côi, Chúa Giêsu để lại một người bạn vô hình: Thánh Thần – người bạn biết rõ chúng ta hơn chính chúng ta, và biết phải dẫn chúng ta đi đâu. “Thánh Thần là người bạn đồng hành âm thầm của Lời. Không có Ngài, Lời ấy vẫn là văn bản; có Ngài, Lời ấy trở thành cuộc gặp gỡ!” – Carlo Martini. Như vậy, chính nhờ Thánh Thần, chúng ta ngày càng yêu mến và nên giống Chúa Giêsu; và như thế, Ba Ngôi sẽ đến cắm lều trong tâm hồn mỗi người. Nhờ đó, chúng ta được sống trong ‘cảnh vực thần linh’, hay ‘cảnh vực thần linh’ phủ lấy chúng ta. Đó chính là nơi mà Thánh Thần luôn muốn dẫn bạn và tôi đến!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giữa một thế giới tục luỵ, cho con luôn trở nên lãnh địa của Chúa Ngôi Ba; ở đó, anh chị em con sẽ gặp Giêsu – Đấng những ước mong dựng trại trong lòng họ!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

**************************************

 CHÚA NHẬT TUẦN VI PHỤC SINH, NĂM C

Thánh Thần sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.   Ga 14,23-29

23 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. 24 Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. 25 Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. 26 Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ 27 “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi. 28 Anh em đã nghe Thầy bảo : ‘Thầy ra đi và đến cùng anh em’. Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hẳn anh em đã vui mừng vì Thầy đi về cùng Chúa Cha, bởi vì Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. 29 Bây giờ, Thầy nói với anh em trước khi sự việc xảy ra, để khi xảy ra, anh em tin.”làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.


 

Trump dọa đánh thuế 50% hàng EU: Kinh tế toàn cầu tiếp tục chao đảo

Ba’o Dat Viet

May 24, 2025

Tổng thống Mỹ Donald Trump tiếp tục khuấy động sân chơi kinh tế toàn cầu khi ngày 23 Tháng Năm tuyên bố sẽ đề xuất mức thuế 50% đối với hàng hóa từ Liên minh châu Âu (EU), có thể bắt đầu áp dụng ngay từ đầu tháng tới. Động thái cứng rắn này được đưa ra trong bối cảnh chưa có bất kỳ thỏa thuận thương mại cụ thể nào giữa Washington với các đối tác lớn, khiến nền kinh tế toàn cầu càng thêm bất ổn.

Tờ Financial Times cùng ngày tiết lộ chính quyền Mỹ đang gây sức ép buộc EU đơn phương hạ thuế đối với hàng hóa Mỹ. Nếu không đạt được bước tiến trong đàm phán, Washington sẽ áp thêm mức thuế 20% nhằm trả đũa. Dù EU đã thống nhất một khung đàm phán, khoảng cách giữa hai bên vẫn còn rất xa, làm tăng nguy cơ xung đột thương mại leo thang.

Giới doanh nghiệp quốc tế đang cảm nhận sức ép rõ rệt từ những chính sách thuế bất định. Theo khảo sát mới nhất của tập đoàn tài chính Allianz (Đức) với 4.500 doanh nghiệp tại Trung Quốc, Mỹ và nhiều nước châu Âu – châu Á, gần 60% cho biết thương chiến đang gây tác động tiêu cực. Đáng chú ý, có tới 45% doanh nghiệp dự báo xuất khẩu sẽ sụt giảm nghiêm trọng, và 25% đang cân nhắc dừng sản xuất vì biến động thuế quan và tỷ giá.

Tại Mỹ, 54% doanh nghiệp tham gia khảo sát đã lên kế hoạch tăng giá sản phẩm để bù đắp chi phí thuế. Nếu điều này xảy ra, lạm phát tại Mỹ có thể tăng mạnh trong thời gian tới, làm suy yếu sức mua và gây thêm áp lực cho Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) trong điều hành chính sách tiền tệ.

Không dừng lại ở phương diện chi phí, các doanh nghiệp còn đang khẩn trương tìm tuyến đường vận chuyển mới để né thuế và hạn chế rủi ro. Họ cũng thắt chặt các điều khoản hợp đồng thương mại để phòng ngừa tổn thất do chính sách khó lường từ Washington.

Tại châu Á – Thái Bình Dương, viễn cảnh kinh tế cũng không sáng sủa hơn. S&P Global Ratings nhận định căng thẳng thương mại và chính sách thuế quan đang buộc các chuỗi cung ứng trong khu vực phải tái cơ cấu, làm gián đoạn dòng chảy thương mại vốn đã mỏng manh sau đại dịch. Bà Eunice Tan, Trưởng bộ phận nghiên cứu tín dụng tại S&P, cảnh báo rằng sự phân mảnh thương mại trong khu vực sẽ kéo theo làn sóng rút vốn đầu tư và tổn thương sâu hơn cho các nền kinh tế phụ thuộc xuất khẩu.

Kết quả kinh tế quý 1/2025 cho thấy những dấu hiệu rõ rệt của sự suy yếu. Nhật Bản ghi nhận tăng trưởng âm 0,7%, trong khi xuất khẩu ô tô – lĩnh vực chủ chốt – giảm gần 6% doanh thu trong tháng Tư do ảnh hưởng từ chính sách thuế Mỹ. Tại Đông Nam Á, 5 trong 6 nền kinh tế lớn nhất báo cáo tăng trưởng chậm lại so với cùng kỳ 2024, cho thấy đà phục hồi hậu COVID đang bị chặn đứng bởi một làn sóng bảo hộ mới.

Diễn đàn Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) trong báo cáo mới nhất cũng hạ dự báo tăng trưởng khu vực xuống chỉ còn 2,6% trong năm nay – thấp hơn nhiều so với mức 3,6% của năm 2024. Dự báo cho năm 2026 cũng không khả quan, chỉ nhích nhẹ lên 2,7%. Tại Hàn Quốc, Viện Phát triển quốc gia đã hạ mức dự báo tăng trưởng năm nay từ 1,6% xuống còn 0,8%.

Trong bối cảnh thương mại toàn cầu chao đảo, sự trở lại mạnh mẽ của ông Trump trên chính trường Mỹ đang tạo nên làn sóng lo ngại không chỉ về thương mại mà còn về trật tự kinh tế quốc tế. Thế giới một lần nữa đối mặt với câu hỏi cũ: Liệu chính sách “Nước Mỹ trên hết” có đang đẩy phần còn lại của toàn cầu vào khủng hoảng?


 

 Khoảng Trống Cuối Cuộc Đời – Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn- Truyen ngan HAY

 Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn

Anh Phi, anh Ruẩn thân mến,

Thật là tội cho bà cụ có hai người con như trong truyện, họ đã không còn bản tính như của người VN, cho dù họ cũng chỉ mới rời VN chưa lâu, chừng 20 năm.

Nhân dịp hai anh đều đã và đang sinh sống bên Thụy Sĩ, xin cho hỏi thăm về chuyện sinh sống của người già bên Thụy Sĩ:

  1. bên Thụy Sĩ có bắt buộc con cái phải nuôi cha mẹ không?
  2. nếu con cái không muốn chăm sóc thì sao? … người già có được trợ cấp để vào sống trong viện dưỡng lão không?
  3. tôi đã hỏi thăm vài viện dưỡng lão gần nhà, giá tiền tùy theo tình trạng sức khỏe, không cần trợ giúp của người già như 0%,10%,25%,50%,… và giá phí xê dịch từ US$5,000 đến US$15,000/tháng (năm ngàn đô đến mười lăm ngàn đô mỗi tháng). Bên Thụy Sĩ phí tổn thế nào?

Phí tổn chăm sóc người già bên Mỹ cao quá, nên nhiều người già cũng đang tìm cách bung qua các quốc gia khác với chi phí thấp hơn, ví dụ như VN, Phi, Thái Lan, Mexico, Portugal, v.v.

Xin phép “ní nuận” một tí cho vui, chúng ta cứ tìm cách sống dai, rồi phải lo lắng, mệt nhọc với chuyện chăm sóc cho bản thân khi về già thì mệt quá, có thật sự đáng không?

Thế gian chúng ta đều biết rõ những thứ hữu hình thì không bền chắc theo thời gian, bà cụ trong truyện nếu hiểu rõ mọi chuyện đều có thể thay đổi, ngay cả tính tình con người, thì có thể không thất vọng quá như vậy mà tự hủy mình.  Quan trọng hơn hết là đừng bao giờ trông mong quá nhiều nơi người khác.

Cảm ơn hai anh đã chia sẻ.

NĐTrọng

************

 Qua người bạn thân cùng lớp, tôi quen với gia đình bác Chấn, một gia  đình gốc Tây học, giàu có và thế lực của miền Nam trước năm 1975. Bác có hai người con, một trai, anh Quang hơn tôi 3 tuổi, một gái, chị Yến hơn tôi 1 tuổi. Hai người con của bác đều theo học chương trình Tây.

 Sự quen biết của tôi với gia đình bác rất sơ sài, không bước xa hơn những lời chào hỏi xã giao thông thường hay vài câu hỏi tò mò về thân thế, gia đình và học hành của tôi trong những lần tôi theo người bạn đến nhà bác chơi.

Sau này khi vừa xong tú tài, trong một lần ghé thăm bác Chấn, tôi được biết hai người con của bác đã đi du học tại Thụy Sĩ ngay sau khi tốt nghiệp bậc trung học Pháp tại Sàigon. Còn tôi không có điều kiện nên học đại học trong nước, sau khi tốt nghiệp xuống Cần thơ dạy học, tôi không có dịp nào đến chơi nhà bác Chấn nữa. Đầu năm 1974, trước khi nhận học bổng tu nghiệp ở Nhật Bản, tôi được người bạn cho biết bác Chấn trai đã bị mất vì ung thư. Bác gái vẫn sống với vài người cháu họ xa ở căn nhà khá lớn, sang trọng ngày xưa ở đường Ngô Tùng Châu rất gần với trung tâm Sàigon.

Rồi với bao nhiêu đưa đẩy của thời cuộc, cuối năm 1979 tôi rời bỏ Nhật Bản vì tìm được việc làm đúng với chuyên môn ở thành phố Zürich, vùng nói tiếng Đức, miền bắc Thụy Sĩ. Sang Thụy Sĩ được khoảng một năm tôi lập gia đình với người bạn gái người Nhật mà tôi đã quen biết nhiều năm trong thời du học tại đó.

Một lần vào năm 1983 gia đình tôi xuống Genève thăm người bạn, ngẫu nhiên tôi gặp được chị Yến, cô con gái của bác Chấn. Chị cho biết chị và anh Quang đã tốt nghiệp xong đại học Genève từ lâu. Cả hai đang đi làm, vẫn sống ở Genève, nhưng kẻ ở đầu tỉnh, người ở cuối tỉnh, lại bận rộn với công việc làm cho nên cũng rất ít gặp nhau. Chị Yến cũng cho biết cả hai vẫn chưa lập gia đình nhưng sống chung với người yêu đều là người Thụy Sĩ. Tôi cũng hơi ngạc nhiên vì cả hai đều đã xấp xỉ 40 tuổi mà vẫn độc thân, nhưng không dám thắc mắc vì có lẽ lối sống Tây phương là thế.

Trong lần gặp nhau đó, tôi cho chị địa chỉ, số điện thoại của gia đình, ân cần mời chị và anh Quang nếu có dịp đến chơi, coi như tìm được người bạn xa xưa nơi xứ lạ quê người. Nhưng tôi có cảm tưởng chị không có vẻ hân hoan với lời mời vồn vã, chân thành của tôi lắm. Vô tình hay cố ý, chị cũng không cho tôi biết địa chỉ! Tuy nhiên tôi cũng chẳng bận lòng vì nghĩ họ đã sống và lớn lên với nền văn hóa Tây Phương từ ngày còn bé, sự lạnh lùng, cách biệt với những người không cần thiết là lẽ tự nhiên mà thôi.

Chỉ có vậy, lần gặp nhau như thoáng qua, đã được quên đi dễ dàng. Bất thình lình, khoảng gần 2 năm sau ngày chúng tôi gặp nhau thoáng qua, nhạt nhẽo đó, tôi nhận được điện thoại của chị cho biết bác Chấn gái đã được anh em chị bảo lãnh sang đoàn tụ, hiện đang sống với chị ở   Genève đã được khoảng một tháng rồi. Chị có nói với bác Chấn về gia đình chúng tôi, bác mong muốn mời gia đình tôi đến chơi để tâm sự. Đặc biệt trong cuộc điện thoại này chị rất thân thiện, thân thiện đến nỗi tôi có cảm tưởng chị năn nỉ chúng tôi đến chơi với mẹ chị, giúp bà vui mà quên đi nỗi nhớ quê hương khi chưa quen biết ai ở Genève.

          Sau đó, một buổi sáng sớm thứ bẩy cuối tuần,vợ chồng tôi lái xe xuống Genève, chúng tôi đến tạm trú nhà một người bạn cũng ở trong Genève, nghỉ ngơi, nói chuyện một lúc. Khoảng 2 giờ chiều chúng tôi mới đến nhà chị Yến thăm bác Chấn. Trong lần gặp gỡ này có cả anh Quang cùng với 2 người Thụy Sĩ là bạn trai và bạn gái của họ. Ngay khi bước vào nhà, sau vài câu chào hỏi thông thường, vợ chồng tôi đã nhận thấy ngay bầu không khí nặng nề giữa bác Chấn với 2 người con của bác cũng như với 2 người bạn trai gái của họ.Bác Chấn hoàn toàn bị tách xa trong cuộc sinh hoạt của hai người con và bạn của họ, dù ngôn ngữ Pháp với bác không thành vấn đề. Sau vài câu xã giao bình thường, nói chuyện vu vơ với chúng tôi, nhóm con của bác Chấn cũng tự tách rời.

Họ nói chuyện, cười đùa, âu yếm nhau trước mặt chúng tôi, chẳng có tí ngại ngần rồi dẫn nhau vào phòng bên cạnh đùa giỡn trong âm thanh của âm nhạc khá ồn ào. Họ để bác Chấn tiếp đãi trò chuyện với chúng tôi. Bác Chấn có vẻ ngượng ngùng, nhưng chúng tôi cố làm ra vẻ không để ý,coi như chuyện bình thường của giới trẻ Tây phương. Chúng tôi ân cần mời bác lên nhà chúng tôi chơi bất cứ lúc nào, có thể ở với chúng tôi cả tháng trời cũng chẳng sao vì nhà khá rộng lại có vườn riêng để ăn uống ngoài trời.

Bác tỏ vẻ rất cảm động với nhiệt tình của chúng tôi. Bác càng thích hơn khi thấy vợ tôi cầm chiếc áo len mà bác đang đan nửa chừng, tò mò xem ra chiều hiểu biết và đồng sở thích thêu thùa. Lúc sửa soạn ra về, vợ chồng tôi có ý gặp hai người con để chào từ giã, nhưng với tí chút ngần ngừ trong vẻ ngượng ngùng bác nói:

– Thôi, các cháu cứ về đi, bác sẽ nói với chúng nó sau!

Từ giã bác Chấn, chúng tôi trở lại nhà người bạn ngủ qua đêm, sáng hôm sau, ngày chủ nhật, sau khi ăn sáng với gia đình người bạn xong chúng tôi từ giã ra về. Chiều ý vợ, tôi lái xe đi một vài vòng thành phố Genève cho vợ tôi xem tí chút về thành phố, trước khi về lại Zürich. Đang lúc chạy xe tôi thoáng thấy bác Chấn ngồi ở chiếc ghế của một trạm xe bus. Dừng xe vào lề đường tôi chạy vội đến nói với bác:

– Bác Chấn, bác đi đâu vậy? Bác lên xe cháu chở cho.

Bác giật mình khi nhìn thấy tôi, nhưng ngay lúc đó cảm giác ngượng ngùng buồn bã hiện rõ trên khuôn mặt, trong ánh mắt khi bác nhìn tôi. 

Chẳng đợi cho bác trả lời tôi nói tiếp:

– Cháu đang định chạy lòng vòng xem thành phố đây, bác đừng ngại gì cả, cứ lên cháu chở đi mà!

Nói xong tôi cầm tay, kéo bác về hướng chiếc xe, nơi đó vợ tôi đang mở cửa xe chờ đợi. Ngần ngừ tí chút, nhìn tôi như gửi gấm nỗi buồn kín đáo, bác nói như muốn khóc:

– Bác có muốn đi đâu đâu! Ở nhà buồn và cô đơn quá cháu ạ, chịu không được!  Ngày nào bác cũng ra ngồi ở các trạm xe bus, xe điện để nhìn người ta lên xe, xuống xe cho đỡ buồn đó mà thôi!

Nghe bác nói, tôi ngẩn ngơ, nhìn bác trân trối! Câu trả lời của bác xót đau quá! Tôi có cảm nhận người đàn bà xấp xỉ tuổi 70 đang đứng tước mặt tôi có rất nhiều tâm sự buồn đau khó nói. Hình ảnh cuộc gặp mặt chiều hôm qua ở nhà cô Yến, con gái của bác lại hiện ra, trở về trong ký ức tôi! Tôi thoáng hiểu một phần nào nỗi buồn, cô đơn của bác. Nhân dịp gặp lại trong ngẫu nhiên này tôi muốn được nghe bác tâm sự, biết đâu tôi lại tìm được điều gì đó giúp bác giảm được nỗi buồn mà bác đang chất chứa trong lòng ?!

Nghĩ như vậy, tôi thân thiện khoác tay lên vai bác, khẩn khoản tôi nói:

– Bác cháu mình tìm một quán nước nào đó nói chuyện đi! Bác đừng ngại ngần gì cả, ngày hôm qua cháu muốn nói chuyện với bác nhiều mà chưa hết. Hình như sự nhiệt lòng của tôi và cũng có lẽ vì quá buồn, bác im lặng đi theo. Sau một lúc chạy lung tung, chúng tôi vào một quán nước bên ngoài hành lang của một khách sạn trên đại lộ Quai du Mont Blanc, bên kia đường là hồ nước Lehmann. Bầu trời trong xanh, ánh sáng ban mai chiếu rọi lên mặt hồ nhấp nhô tạo ra những dải sáng lấp lánh tuyệt đẹp của một buổi sáng nắng tốt. Bác Chấn đã khóc gần như suốt thời gian ngồi kể cho tôi nghe về lý do của bác khi lựa chọn rời xa VN, sang Thụy Sĩ định cư.

Một lựa chọn mà bác nghĩ rằng đã sai lầm, đang làm cho bác buồn đau vì cô đơn.  Bác cho biết, với lời khuyên nhủ rất hợp lý, chân tình của hai con, bác đã bán căn nhà của mình ở trong nước, tiền bán nhà cùng với tất cả tiền bạc,nữ trang mà bác đã dành dụm từ khi mới kết hôn, bác đã giúp 2  con, mua cho mỗi người một căn hộ ở Genève. Căn hộ mà chúng tôi đến thăm hôm qua là của Yến. Một căn khác cho Quang, nhưng đến nay dù đã hơn một tháng ở Thụy Sĩ nhưng bác vẫn chưa có dịp đến xem nó ra sao!

Trước khi rời bỏ quê hương sang Thụy Sĩ, bác nghĩ rằng, tuổi đã già, bệnh hoạn, sống chết không biết lúc nào, vì vậy nếu được sống với chính con của mình là một điều rất hợp lý, vẫn hơn sống với những đứa cháu họ ở Việt Nam. Đã thế bác nghĩ với khả năng thông thạo tiếng Pháp, có lẽ bác chẳng khó khăn trong việc giao tế với người địa phương. Thêm vào đó với sở thích đọc sách báo, thêu thùa cũng sẽ giúp bác che lấp được những lúc nhàn rỗi, cô đơn khi các con đi làm. Với ý nghĩ lạc quan như vậy bác đã chờ đợi từng ngày được ra đi đoàn tụ với hai con. Nhưng khi đến Thụy Sĩ, chỉ sau một tuần lễ đầu tiên bác đã nhận thấy mình sai lầm! Cái sai lầm ra ngoài tưởng tượng, tính toán    của bác. Dù thích đọc sách,thích thêu thùa nhưng bác chẳng có được hứng thú mà là được như mong muốn!

Bác được Yến, người con gái mà bác thương yêu nhất, đón về sống chung. Mấy ngày đầu tiên, Yến nghỉ làm việc, dẫn bác đi lo giấy tờ hành chánh, bảo hiểm sức khỏe đồng thời chỉ dẫn bác cách mua vé, xử dụng các phương tiện giao thông công cộng như xe bus, xe tram của thành phố. Yến cũng không quên hướng dẫn bác xử dụng các máy móc trong nhà như máy giặt, máy sưởi cùng với những việc làm trong tập thể chung cư.

Mấy ngày đầu tiên còn bận rộn với những học hỏi, làm quen với cuộc   sống mới nơi xứ lạ quê người,bác không có thời gian để cảm thấy cô đơn. Nhưng chỉ một tuần sau,mọi hoạt động đã được đưa vào thứ tự và đều đặn. Buổi sáng Yến vội vàng đi làm,chiều tối về nhà, mệt mỏi nên cô ta chẳng có thì giờ và hứng thú để nói chuyện với bác ngoài vài câu hỏi sức khỏe vu vơ. Đã thế Yến thường về với người bạn trai, họ lại quây quần với nhau trong phòng riêng, chẳng thèm để ý đến bác. Bác sống im lìm như một chiếc bóng thừa thãi trong căn hộ.

Mấy ngày đầu tiên, có lẽ vì món ăn lạ hay nể nang công lao nấu nướng của bác, Yến và người bạn trai còn về nhà ăn cơm tối. Nhưng chỉ được vài ngày, họ chẳng còn thú vị với món ăn của bác nữa. Yến nói với bác đừng nấu cơm cho họ, họ tự lo được. Từ đó Yến và bạn trai thường ăn cơm ở đâu đó trước khi về nhà khá muộn. Thỉnh thoảng Yến mua đồ ăn nguội, rượu bia mang về bày ra bàn, ăn uống, nói chuyện cho đến khuya rồi chẳng thèm thu dọn. Sáng hôm sau khi thức dậy, nhìn thấy đống bát đĩa bác lại phải lau chùi, thu dọn! Không nói ra nhưng bác Chấn đã có cảm tưởng mình là người hầu hạ trong nhà, không còn là người mẹ được   con đón sang để phụng dưỡng nữa. Còn anh Quang, con trai của bác, thỉnh thoảng cùng với cô bạn gái đến chơi, thoáng qua một vài giờ đồng  hồ nói chuyện vu vơ với bác rồi từ giã ra về, cũng chưa một lần nào chở bác đến nhà để biết cuộc sống của anh ra sao!

Đôi lần thấy bác buồn, than van với các con là cô đơn không bạn bè…  Yến khuyên bác hãy làm theo lối giải trí, tìm vui của người Thụy Sĩ khi về già, không có việc gì làm. Họ tìm cách tránh thời gian rảnh rỗi, cô đơn bằng cách mua vé tháng của thành phố cho xe bus, xe tram… rồi sáng đi, tối về. Ngày ngày dùng phương tiện giao thông đi từ phố này, sang phố kia ngắm nhìn người ta buôn bán ở các siêu thị hay các công viên của thành phố… Buổi trưa hay lúc mệt mỏi thì tạt vào những nhà ăn bình dân rẻ tiền trong các siêu thị uống cà phê hay ăn trưa.

Nghe lời đề nghị của cô con gái, bác đã hình dung khá rõ con đường sống của mình sẽ ra sao nếu còn sống nơi đây. Bác chợt hiểu ra rằng hai đứa con của bác thật sự đã là dân Thụy Sĩ rồi, chúng sống, chúng suy nghĩ và chúng giải quyết theo xã hội, con người Thụy Sĩ. Chúng không thể nào nhìn thấy hay cảm thấy nỗi buồn, cô đơn của bác được nữa. Nói đến đây, bác Chấn ngước nhìn tôi với đôi mắt nhòa lệ, buông tiếng thở dài buồn bã bác than thở:

– Có lẽ bác phải về lại VN cháu ạ, sống ở đây chắc bác sẽ chết vì cô tịch mà thôi. Mấy ngày trước bác có liên lạc với tòa lãnh sự VN ở Genève để hỏi về việc hồi hương. Theo bác không khó khăn lắm, nhưng cần nhiều thủ tục để lấy lại hộ khẩu của bác ở VN và nhất là chứng minh được sự bảo đảm về tài chánh cho sự sinh sống của bác khi hồi hương. Thấy tôi im lặng, bác buồn rầu nói tiếp:

– Hiện nay bác chẳng có gì ở VN nữa, nhà cửa đã bán, tiền bạc, nữ trang cũng không còn. Bác đúng nghĩa một người nghèo, già lão đơn độc nếu về lại quê hương thì sống làm sao đây?

Tôi buột miệng hỏi:

– Tại sao bác không nói với anh Quang, chị Yến trả lại cho bác một ít tiền để có thể về VN sinh sống? Theo cháu biết thì không cần quá nhiều đâu vì cuộc sống và nhà cửa ở VN vẫn còn rất rẻ.

Lắc đầu ra vẻ thất vọng, bác cho biết tiền bán nhà, bán nữ trang vừa rồi rất lớn so với xã hội VN nhưng có đáng bao nhiêu so với Thụy Sĩ! Bác đã chia cho hai con để giúp chúng mua nhà, theo bác biết thì 2 người con cũng còn phải mượn ngân hàng hơn một nửa mới có đủ tiền để mua 2 căn hộ. Hiện nay tiền lời ngân hàng cùng với chi phí dịch vụ cho chung cư như thang máy, điện nước, lau chùi, cắt cỏ, xúc tuyết, làm vườn… tất cả không phải nhỏ, chẳng thua gì tiền đi thuê nhà. Bác cũng đã bàn với 2 con để trả lại bác một số tiền cho bác mua một căn nhà nhỏ ở VN, nhưng coi vẻ không được vì chúng vẫn phải trả nợ ngân hàng mỗi tháng, chẳng dư dả để đưa cho bác được! Đã thế khi về VN tiền sinh sống, thuốc thang, bệnh viện khi ốm đau cũng không thể coi là chuyện bỏ qua mà không tính toán được!

Nhẩm tính lại cuộc sống ở VN, tôi nói với bác:

– Theo cháu nghĩ nếu hai người con của bác giúp bác mỗi tháng 200 quan Thụy Sĩ (thời điểm 1986) chắc bác sống không khó khăn lắm đâu!

Bác Chấn mỉm cười với tí cay đắng, bác trả lời:

– Cháu tưởng đơn giản như thế sao? Giả dụ mà chúng nó gửi cho bác 200 quan mỗi tháng thì cũng chỉ đủ cho sinh sống bình thường mà thôi. Còn lúc ốm đau, chi dụng cho việc thuê nhà, cho người quen, họ hàng để người ta vui vẻ mà săn sóc cho mình làm sao mà đủ?! Tuổi già của bác đâu có thể sống độc lập được, mà phải dựa vào người khác, nhất là lúc ốm đau. Dù là họ hàng, quen biết cũng phải có tiền cháu ạ! Không dễ dàng và đơn giản như cháu nghĩ đâu!

Nghe bác tâm sự, tôi đã đã tạm hiểu hoàn cảnh của bác. Đúng như vậy, cái sai lầm lớn nhất là bác đã bán nhà, thu dọn tài sản để gửi cho con mong được sống gần con. Điều này nghe ra nó đơn giản và hợp lý nhưthói thường của gia đình văn hóa VN. Nhưng với hai người con của bác,nếp sống, sự suy nghĩ của văn hóa Tây phương đã thấm sâu vào con người họ, nó không còn là đơn giản nữa! Tìm một giải quyết cho bác không dễ dàng, họa chăng một hay cả hai người con bác biết cảm thông nỗi cô đơn, buồn bã của mẹ mà chính họ tìm cách giúp đỡ mà thôi. Bác  không nói ra, nhưng tôi có cảm tưởng 2 người con bác không như bác chờ mong.

Trước khi chia tay tôi ân cần nhắc lại lời mời của gia đình tôi, bất cứ lúc nào bác có ý muốn đến nhà tôi chơi nhiều tuần, vài tháng, hoàn toàn không có gì khó khăn. Hình như nhìn rõ sự chân thành của tôi, bác vuốt nhẹ bàn tay vợ tôi mỉm cười và hỏi vợ tôi:

– Cháu có phiền lòng nếu bác đến nhà cháu chơi không?

Dù ngôn ngữ VN chỉ hiểu lõm bõm, nhưng vợ tôi cảm nhận hoàn toàn ý nghĩa lời nói của bác qua ánh mắt, khuôn mặt và cả dáng điệu chân thành trong giọng nói, nụ cười của bác. Vợ tôi đưa tay ra dấu thêu đan, lõm bõm câu tiếng Việt:

– Bác cứ đến chơi đi, có nhiều việc làm với nhau lắm, bác đừng lo!

Có lẽ đây là lần đầu tiên trong cuộc gặp gỡ bác hôm qua và cả hôm nay, tôi mới nhìn thấy nỗi buồn bã biến mất trên nét mặt của bác. Thay vào đó là niềm vui thoáng hiện trong ánh mắt, nụ cười của người đàn bà xấp xỉ 70 tuổi mà tôi cũng chỉ quen biết thoáng qua trong quá khứ….

Trở về lại Zürich đã cả tháng trời, tôi cũng chẳng có dịp liên lạc với bác nữa.Đôi lúc trong lúc thảnh thơi tôi cũng nghĩ đến bác. Tôi cho rằng với thời gian bác sẽ làm quen với những người VN khác, rồi cũng giống như mọi người, đâu cũng vào đó mà thôi. Nhưng bất thình lình vào buổi tối khi tôi đang ăn giở bữa cơm thì bác gọi đến. Với giọng nói

thều thào, chứa đầy buồn bã, chán nản bác cho biết hiện đang ở bịnh viện đã gần một tuần lễ nay. Tôi hỏi lý do, bác không nói rõ ràng lắm nhưng có lẽ liên quan đến tim mạch lại thêm bị trầm uất vì buồn bã, cô đơn mà ra.

Bác khóc qua điện thoại cho biết hai người con chỉ đến thăm bác một lần duy nhất vào ngày đầu tiên, sau đó vì bận rộn họ chỉ điện thoại hỏi thăm mà thôi. Tôi buông tiếng thở dài, nói vài câu an ủi bác, hứa sẽ chở vợ đến thăm bác vào ngày mai hay ngày kia! Có lẽ cảm nhận được ý nghĩa tiếng thở dài của tôi trong điện thoại, bác nói rất nhẹ:

– Cám ơn vợ chồng cháu, biết là làm phiền cháu nhưng bác muốn gặp lại các cháu lắm. Vợ chồng cháu cố đến với bác lần nữa nhé! Chắc bác khôngcó dịp gặp lại vợ chồng cháu nữa đâu!

Tôi nghe mà rụng rời, tưởng như bác muốn gặp chúng tôi để nói lời trối trăn! Tôi nói vài câu an ủi, nâng đỡ tinh thần bác rồi tôi hứa chắc ngay ngày mai sẽ xin nghỉ làm một ngày đến thăm bác.

Xế chiều hôm sau vợ chồng chúng tôi đến bệnh viện của tỉnh, căn phòng khá  rộng có 4 bệnh nhân. Chúng tôi đã giật mình đến độ nghi ngờ thị giác của mình khi nhìn thấy bác xơ xác nằm như đang ngủ. Chỉ hơn một tháng trời mà sắc diện của bác thay đổi quá mau! Khuôn mặt tái xanh, hốc hác như người bệnh lâu năm, cơ thể như bị thu nhỏ lại nằm ép  dính xuống tấm nệm của chiếc giường! Cánh tay trái khẳng khiu, tái xanh thò ra ngoài chiếc chăn, được nối với sợi dây truyền serum treo lủng lẳng trên chiếc giá bằng alumin trắng. Tôi nhẹ nhàng nắm lấy cổ tay xương xẩu của bác,bác giật mình tỉnh dậy. Nhìn thấy chúng tôi, sự vui mừng, cảm động hiện rõ trên khuôn mặt già nua trắng bệch. Bác gật đầu nhẹ, đáp lại lời chào hỏi của vợ chồng tôi, rồi thều thào:

– Cám ơn hai cháu đã đến thăm bác,mời hai cháu ngồi!

Bác cho biết mấy ngày trước tự nhiên bị mệt mỏi,chóng mặt rồi bị xỉu, ngã ngay ở trong bếp vào ban đêm. Yến nghe tiếng động của chiếc ghế bịđổ, chạy ra mới biết và chở bác đến bệnh viện. Qua kiểm nghiệm bác  sĩ cho biết do chứng suy tim đã có từ trước kèm theo thận hoạt động không bình thường gây tắc trách sự tuần hoàn dẫn đến chứng lậm độc máu.

Sau vài giờ đồng hồ tâm sự, bác kể cho chúng tôi nghe những ngày tháng cô độc, buồn chán càng lúc càng đè nặng lên bác vừa qua. Tôi lắng tai nghe nhưng cũng chỉ biết khuyên nhủ để nâng đỡ tinh thần bác mà thôi.Chúng tôi ở với bác mãi đến buổi chiều, khi từ giã, bác nói với vợchồng tôi trong nước mắt:

– Chắc bác và vợ chồng cháu không còn có dịp gặp lại nhau nữa đâu! Dù thế nào thì bác rất cảm động với lòng tốt của các cháu đã vì thương bác mà nghe tất cả những lời tâm sự của bác. Bác cũng không ngờ cuối đời mình lại cô độc và buồn đau như thế này. Con của bác vì bận rộn hay vì vô tâm mà quên săn sóc bác. Biết làm sao hơn là im lặng! Nhưng

ít ra vào lúc cuối đời này bác cũng có một niềm vui đó là có hai cháu để hàn huyên, tâm sự…

Bác nói với chúng tôi nhiều lắm, toàn là những câu nói đượm buồn và kín đáo than van! Tôi có cảm tưởng tinh thần bác hoàn toàn suy sụp, buông xuôi. Nỗi chán nản cùng cực của bác không những thể hiện trên khuôn mặt mà còn trong những lời nói như trăn trối với vợ chồng tôi.

Tôi cố gieo vào bác lòng tin về tài năng của y học Thụy Sĩ, họ sẽ mang lại cho bác sức khỏe và niềm vui. Tôi hứa chắc chắn khi bác khỏe mạnh tôi sẽ xuống chở bác lên chơi với gia đình tôi vài tháng. Bác nghe lời hứa của tôi trong trạng thái bâng quơ hình như kín đáo che giấu sự thất vọng ở trong lòng.

Sau khi từ giã ra về, tôi tạt vào phòng y tá trực của dẫy phòng bácnằm,ý định gặp người y tá nào đó nói với họ vài lời cám ơn, nhân tiện nhờ họ thông báo cho tôi biết ngay nếu có gì cần thiết. Thật may, tôi gặp được cô y tá trưởng, biết nói tiếng Đức,nhờ vậy mà vấn đề giao tiếp, nhờ vả của tôi dễ dàng hơn. Tôi cũng chẳng ngần ngại nói rõ với cô ta sự thật về hoàn cảnh không vui của bác cùng với sự nhạt tình, thiếu săn sóc của hai người con. Tôi mong cô ta cảm thương nỗi cô tịch của bác mà đặc biệt quan tâm. Tôi cũng không quên đưa cho cô ta số điện thoại, ân cần xin cô ta báo tin cho tôi biết ngay, bất cứ giờ nào, ban đêm hay ban ngày nếu có gì bất trắc, để tôi kịp đến thăm viếng hay giúp đỡ bác nếu cần.

Trở về nhà, vừa được 2 ngày, vào buổi sáng khi đang sửa soạn đi làm thì cô y tá trưởng từ bệnh viện Genève gọi đến. Tôi giật mình, linh cảm có gì không may xẩy đến cho bác rồi. Cô ta cho biết bác hiện đang ở khoa cấp cứu, trong tình trạng tuyệt vọng! Với tí chút ngập ngừng cô ta cho biết đêm hôm qua vào khoảng nửa đêm, khi mọi người an ngủ, bác đã dùng kéo cắt đứt sợi dây truyền serum, rồi để nguyên mũi kim trong mạch máu ở khủy tay cho máu chẩy ra ngấm vào chăn và đệm! Khi người y tá trực đêm biết thì bác đã rơi vào hôn mê. Bác sĩ khoa cấp cứu chobiết rất khó hy vọng cứu chữa vì bệnh nhân đã bị sẵn bệnh về tim mạch lại bị mất máu nên cơ thể rất yếu. Theo cô ta, nếu tôi đến bệnh viêntrước buổi trưa hy vọng có thể gặp được bác lần cuối cùng.

Dù bị vướng bận với việc làm, nhưng tôi cũng xin nghỉ, lái xe một mình xuống Genève hy vọng gặp được bác thêm một lần nữa. Trên đường đi, tôicầu mong sự kiện không phải quá bi đát như lời cô y tá nói với tôi.

Đến Genève,người đầu tiên tôi tìm gặp là cô y tá, cô ta cho biết bác đã mất ngay sau khi cô ta điện thoại cho tôi, hiện đang nằm ở một phòng riêng gần khu nhà xác của bệnh viện để làm thủ tục cần thiết trước khi đưa vào nhà xác của bệnh viện. Tôi thẩn thờ khi biết mình đến quá chậm để không gặp được bác lần cuối cùng!

Mở cửa bước vào căn phòng nhỏ ở cuối hành lang của dẫy nhà phụ được tách biệt với khu vực chính của bệnh viện,chỉ có một chiếc giường duy nhất trên đó bác Chấn đang nằm. Cặp mắt của bác nhắm lại, bình thản như đang trong giấc ngủ! Chỉ có khác là khuôn mặt của bác hốc hác làm cho đôi gò má nổi hẳn lên giữa màu xám, tái xanh xấu xí của làn da mặt. Tôi im lặng đặt nhẹ bàn tay lên thân thể, lên cánh tay xương xẩu của bác như muốn cảm nhận rõ hơn cái lạnh lẽo của cơ thể cũng như nỗi buồn đau, cô độc của tâm hồn bác lúc ra đi.

Cũng chính lúc đó, lời tâm sự của bác mấy ngày trước khi vợ chồng tôi đến thăm bác ở bệnh viện hình như vang nhẹ bên tai tôi: Bác đã lầm lẫn chọn lựa! Cái lầm lẫn đã làm cho bác mất tất cả!Mất nhà cửa,mất tiền bạc nữ trang và có lẽ mất cả hai đứa con của bác nữa! Bác đã không thể hình dung ra cuộc sống xa quê hương nó lại mang đến cho bác thất vọng và buồn đau đến như thế! Nhưng ân hận cũng đã muộn, chẳng còn giải quyết nào khác hơn là phải chấp nhận những ngày tháng cô liêu đang đến.

Nhưng bác tự hỏi bác có can đảm để chấp nhận nó suốt cuộc đời còn lạicủa bác hay không? Tôi đưa mắt nhìn qua khung cửa sổ, bên ngoài ánh nắng hoàng hôn đổ dài trên con đường trải đá sỏi trong khung viên của bệnh viện.Vài con chim nho nhỏ chuyền nhẩy trên cành cây làm rung động những bông hoa cuối mùa đã khô vì nắng gió còn sót trên những đọt cây… Không gian thật vô tư, im lặng, chẳng có gì khác lạ để cảmthương cho một người mẹ đã vượt xa biết bao nhiêu khoảng cách trời đất, rời bỏ quê hương đến nơi đây với hy vọng được sống gần những đứacon, tìm cho mình một niềm vui đoàn tụ. Nhưng cuối cùng phải mang lấy nỗi buồn đau, cô tịch mà về với hư vô!

Switzerland, Zuerich, 19/10/2024

Lưu An Vũ Ngọc Ruẩn

From: ctkd-k & NguyenNThu


 

NHÂN LOẠI ĐANG RẤT CẦN BÌNH AN GIÊSU – Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

 Trong suốt chiều dài của lịch sử nhân loại, bình an luôn là khát vọng thiêng liêng và bất tận của con người.  Đây không chỉ là trạng thái không có chiến tranh, mà còn là điều kiện tiên quyết để con người sống và yêu thương nhau.  Quả thật, con người ở mọi nơi mọi thời luôn khao khát bình an, muốn sống tự do, hạnh phúc, không có chiến tranh.  Thế giới hòa bình giúp con người ngồi lại với nhau, bắt tay nhau xây dựng địa cầu.

 Trải qua bao thăng trầm, nhất là trong thế kỷ XX đầy biến động với hai cuộc chiến tranh thế giới và hàng loạt cuộc xung đột khu vực, nhân loại đã rút ra một chân lý không thể chối cãi: chiến tranh chưa bao giờ là lối thoát, hòa bình mới là đích đến. 

Thực tế cho thấy, chiến tranh dưới bất kỳ hình thức nào, luôn đi kèm với những hệ lụy, không chỉ tàn phá cơ sở vật chất, chiến tranh còn để lại những vết thương tinh thần kéo dài qua nhiều thế hệ.  Từ những thành phố đổ nát ở Ukraine, Dải Gaza, Sudan đến Yemen, Lebanon, Myanma…, hàng chục triệu người đã buộc phải rời bỏ nhà cửa, trở thành nạn nhân của các cuộc chiến mà họ không hề lựa chọn.

 Báo cáo mới nhất của Cao ủy Liên hợp quốc về người tị nạn cho biết, thế giới hiện có hơn 114 triệu người phải di tản, con số cao nhất trong lịch sử hiện đại.  Nạn nhân luôn là kẻ yếu người thua, dân thường, trẻ em và phụ nữ.

Giữa tiếng bom rơi và các loại máy bay tối tân gào rít trên bầu trời ở một số quốc gia, máu của người dân ở dải Gaza và ở Trung Đông cùng cuộc xung đột Nga – Ukraina kéo dài hơn 2 năm nay, đã và đang cướp đi hàng triệu người dân vô tội.

 Nền hòa bình của nhân loại đang bị đe dọa nghiêm trọng.  Những người có lương tri trên thế giới luôn theo dõi sát sao và kêu gọi các bên liên quan ngừng bắn để ngồi lại với nhau giải quyết thông qua đàm phán hòa bình. 

Trong bối cảnh đó, “bình an” càng trở nên có ý nghĩa.  Bởi lẽ, trong thế giới ngày nay, bình an không còn là điều hiển nhiên, mà là một lựa chọn có ý thức.  Bình an cần được nâng niu, trân trọng và gìn giữ Chúa đã nói với các tông đồ rằng: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con…” (Ga 14,27).  Thế giới hiện nay đang khao khát bình an của Chúa. 

Bình an của Đức Ki-tô

 “Bình an cho anh em!” (Lc 24,36) là lời đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi sống lại và hiện ra với các môn đệ ngày thứ nhất trong tuần. 

Câu hỏi được đặt ra: Tại sao là ‘bình an’ mà không phải là giàu sang, tài giỏi, sức khỏe hay điều gì khác?

 Thưa, vì nếu con người có tất cả những thứ đó mà không có bình an thì coi như chẳng có gì.  “Bình an” là quà tặng cao quý của Thầy để lại cho các học trò trước lúc ra đi.  Đó cũng là “Bình an” sau khi sống lại Chúa Giêsu sẽ tặng cho các môn đệ đang cửa đóng then cài vì sợ hãi.  “Bình an” là điều các ông đang cần đến hơn bao giờ hết.  Thế nên, với nghĩa nặng tình sâu trong tình thầy trò, đang lúc các môn đệ ưu sầu lo lắng.  Chúa Giêsu nói với các ông: “Anh em đừng xao xuyến!  Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy” (Ga 14,1); “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy.   Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian.  Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14,27).  Người ban cho họ bình an, sự bình an mà thế gian không thể ban tặng. 

Tại sao bình an của Chúa Giêsu thế gian không thể ban tặng? 

Thưa, vì Chúa Giêsu chính là bình an; là nguồn bình an, Người ban cho các các môn đệ chính bình an của Người, bình an nội tâm, bình an tuyệt đối, bình an vượt xa sự hiểu của con người.  Có bình an Giêsu, con người các ông hoàn toàn đổi mới, ngờ vực trở nên vững tin, nhút nhát nên người can đảm, sống cửa đóng then cài, nay đi rao giảng Chúa Giêsu chết bị chôn trong mồ đã sống lại hiển vinh, mà chính các ông làm chứng, không sợ chết. 

Bình An có tên là Giêsu

 Chúa Giêsu chính là bình an đích thực.  Có bình an của Chúa Giêsu đồng nghĩa với có chính Chúa, “Bình An Giêsu.”  Có được Bình An Giêsu người ta sẽ cảm nhận được tâm hồn thanh thản, thể xác lành mạnh, bình an cả xác hồn.  Bình an này hướng các môn đệ về mầu nhiệm cách chung, nhiệm cục cứu độ, chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể ban bình an này.

 Bình an nội tâm của con tim, của con người với chính mình và với Thiên Chúa.  Đây là sự bình an nền tảng nhất.  Không có sự bình an này, thì không bình an nào khác có thể tồn tại.  Chúa Giêsu đã chào các môn đệ: “Bình an cho các con,” Người cũng truyền cho các ông: “Vào nhà nào, trước tiên các con hãy nói: Bình an cho nhà này” (Lc 10, 5-6).

 Chúa Giêsu là chính sự bình an: “Thầy ban cho các con sự bình an của Thầy.”  Các ông chỉ có được khi tuân giữ lệnh Chúa truyền là “yêu thương nhau” (Ga 13, 34).  Về vấn đề này, Thánh Giáo hoàng Gio-an Phao-lô II nói: “Con đường của bình an chung cục phải đi qua trong tình thương và hướng tới việc tạo nên một nền văn minh tình thương.  Giáo hội chăm chú nhìn về Đấng là Tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con và bất chấp mọi đe dọa không ngớt gia tăng, Giáo hội không ngừng hy vọng, Giáo hội không ngừng kêu cầu và phục vụ hoà bình của nhân loại trên trái đất” (Dominum et Vivificantem đoạn 67).

 Không thể có bình an nếu không có sự tha thứ.  Hãy tuân giữ luật yêu thương, và tha thứ cho nhau, ngay cả kẻ thù của mình (Mt 5, 44), thay vì luật báo thù.  Bạo lực sẽ dẫn đến bạo lực.  Báo thù không dẫn đến hoà bình.  Chỉ có tình thương mới đem lại bình an thực sự, vì Thiên Chúa là Tình yêu là nguồn bình an (Ga 4, 8, 16; Rm 16, 20). 

Lạy Chúa, xin thương ban cho Hội Thánh được hiệp nhất và bình an.  Amen.

 Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

From: Langthangchieutim


 

Ngày mai, tôi ρhải đi viện dưỡng lão…

Chuyện tuổi Xế ChiềuCông Tú Nguyễn

 Không ρhải bất đắc dĩ, thì tôi cũng không muốn đi viện dưỡng lão đâu. Nhưng mà từ khi sinh hoạt hàng ngày không còn có thể tự xoay xở, mà con gái vừa làm việc bận rộn vừa ρhải chăm sóc cháu trai, không rảnh để quan tâm mình, đây dường như là sự lựa chọn duy nhất đối với tôi.

Điều kiện sống ở viện dưỡng lão không tệ: Một mình một gian ρhòng sạch sẽ, được lắρ các đồ điện đơn giản thực dụng, đầy đủ các loại ρhương tiện giải trí; đồ ăn cũng ngon miệng; ρhục vụ rất chu đáo, bày trí xung quanh cũng rất đẹρ.

Tuy nhiên giá cả đắt đỏ, tiền hưu của tôi nhất định không đủ trả. Nhưng tôi còn có nhà riêng của mình, đem bán nó đi, tiền cũng không còn là vấn đề nữa. Nhưng tài sản còn lại, trong tương lai tôi muốn để dành cho con cái. Con cái lại rất hiểu chuyện, chúng nói: “Tài sản của mẹ thì mẹ ŧùy ý sử dụng, không cần lo cho bọn con”. Số tiền còn lại đúng là tôi muốn chuẩn bị để vào viện dưỡng lão.

Sống trong nhà, kim chỉ cái gì cũng không thiếu, rương hòm, ngăn tủ, ngăn kéo đều đầy ắρ các loại đồ dùng. Quần áo bốn mùa, đồ dùng bốn mùa, chồng chất như núi; tôi thích sưu tầm, tem sưu tầm đã thành từng chồng lớn, ấm tử sa cũng đã hơn mười cái. Còn có rất nhiều vật linh tiпh cất giấu, nào là ngọc bích, hạt óc chó, vật trang sức. Đặc biệt là sách, cả một mặt tường là giá sách, chật kín đầy ắρ; rượu ngon thì Mao Đài, Ngũ Lương, rượu Tây cũng ρhải mấy bình.

Còn có nguyên bộ đồ điện gia dụng, dụng cụ nấu nướng, nồi niêu xoong chảo, củi gạo dầu muối, đủ loại đồ gia vị, nhét chật đầy ρhòng bếρ; còn hơn chục cuốn album ảnh, nhìn một ρhòng tràn đầy đồ vật, tôi cũng thấy ρhát rầu!

Viện dưỡng lão chỉ có một gian ρhòng, một cái tủ, một cái bàn, một giường, một ghế sô ρha, một tủ lạnh, một máy giặt, một TV, một bếρ điện từ, một lò vi ba, căn bản không có chỗ để lưu giữ của cải mà mình tích lũy.

Trong chớρ mắt, tôi đột nhiên cảm giác được, những của cải này đều là dư thừa, chúng cũng không thuộc về mình…

Tôi chẳng qua là nhìn một cái, chơi một chút, dùng một lát, chúng trên thực tế chỉ thuộc về thế giới này, những sinh mệnh lần lượt lướt qua ta, cũng chỉ là quần chúng.

Cố Cung là của ai, hoàng đế cho rằng là của trẫm đấy, nhưng bây giờ nó là của nhân dân, của xã hội, chỉ có thể trở thành lịch sử.

Tôi bỗng nhiên hiểu ra: Tại sao Bill Gates muốn đem cho toàn bộ tài sản của mình; tại sao Jack Ma tuyên bố muốn tặng toàn bộ đồ cất giữ cho viện bảo tàng? Đó là bởi vì bọn họ hiểu rồi: Tất cả vốn dĩ không ρhải của họ!

Bọn họ chẳng qua là nhìn một cái, chơi một chút, dùng một lát, sinh không mang theo, chết không mang đi, chi bằng tích đức làm việc thiện lưu lại ρhúc cho con cháu. Đó mới thật là sáng suốt!

Một ρhòng đồ đạc của tôi, thật muốn đem hiến tặng, nhưng lại không nỡ. Phải xử lý chúng trở thành một vấn đề khó khăn, con cháu lại chẳng dùng được bao nhiêu.

Tôi có thể tưởng tượng, lúc cháu mình đối mặt với những bảo bối tôi khổ tâm tích lũy thì sẽ đối xử thế nào: Quần áo chăn đệm toàn bộ đều vứt đi; hơn chục cuốn album quý báu bị đốt bỏ; sách bị coi như ρhế ρhẩm bán đi; đồ cất giữ không có hứng thú sẽ bị dọn sạch; đồ gỗ lim trong nhà không dùng, cũng sẽ đem bán giá rẻ. Giống như ρhần cuối Hồng Lâu Mộng: “Chỉ còn lại trắng xóa một mảnh, thật sạch sẽ!”

Tôi quay lại nhìn đống quần áo như núi, chỉ lấy vài bộ thích mặc; đồ dùng ρhòng bếρ chỉ chừa lại một bộ nồi niêu chén bát. Sách chọn lấy vài cuốn đáng đọc; ấm tử sa chọn lại một cái để uống trà. Mang theo chứng minh thư, giấy chứng nhận người già, thẻ y tế, hộ khẩu, đương nhiên còn có thẻ ngân hàng, vậy là đủ rồi!

Đây chính là toàn bộ gia sản của tôi ! Tôi đi rồi, từ biệt hàng xóm, đem trả ngôi nhà này lại cho thế giới này!

Đúng vậy, đời người chỉ có thể ngủ một giường, ở một gian ρhòng, dù nhiều hơn nữa đều là để nhìn chơi. Nhân sinh trên đời, quả thật không cần quá nhiều, đừng quá coi trọng vật chất, bởi vì tất cả cuối cùng đều ρhải trả lại cho thế giới này ! Chi bằng xem nhiều sách, ở bên cạnh người thân, yêu mến bạn bè bên cạnh, làm cho thế giới này bởi vì có tấm lòng yêu thươпg của bạn mà trở nên càng tốt đẹρ.

( Sưu tầm )