Hoan hô nền công lý của thiên đường xhcn!?

Image may contain: 1 person, text
Văn Lang

Bị cáo Trần Thanh Tâm:
– Tuổi: 17,
– Tội: cướp 95.000 VNĐ,
– Xét hành vi: rất nguy hiểm cho xã hội,
– Tuyên án: 5 năm tù.

Bị cáo Phạm Nhật Vũ:
– Tuổi: 47
– Tội: đưa hối lộ 6.200.000 USD, gây thiệt hại cho nhà nước 6.500.000.000.000 VNĐ, Thủ lợi 5.800.000.000.000 VNĐ.
– Xét hành vi: không nguy hiểm, đã khắc phục hậu quả.
– Tuyên án: miễn tội.

Hoan hô nền công lý của thiên đường xhcn!

Hôm nay Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi như một sự tình cờ

..Một cuộc đổi đời thực sự, từ lưới cá đến lưới con người. Con người của mọi dân tộc là mối bận tâm của Thiên Chúa.Theo Chúa Giêsu là chia sẻ nỗi thao thức của Ngài về nhân loại, và đồng lao cộng khổ với Ngài trong sứ mạng cứu độ thế giới.

Simon và Anrê đã bỏ chài lưới, Giacôbê và Gioan bỏ thuyền và cha. Sự từ bỏ nào cũng gây ít nhiều xót xa đau đớn. Biển cả, sóng nước, thuyền bè, lưới cá, người cha, người vợ: biết bao giá trị phải bỏ lại, những người tôi đã và vẫn còn yêu mến.Từ bỏ chỉ khả thi nếu tôi gặp một giá trị cao hơn, một tình yêu lớn hơn.

Chúa không đòi mọi người phải sống đời tu, nhưng đòi phải từ bỏ mình.Từ bỏ đơn giản là đặt Thiên Chúa lên trên mọi thụ tạo khác, là chọn Giêsu trong giây phút hiện tại, là đón lấy cái bấp bênh. Bốn anh ngư phủ đã lên bờ để đi theo một ông thợ mộc bỏ nghề. Đời họ đã sang một trang mới. 

Hôm nay Chúa vẫn đi ngang qua đời tôi như một sự tình cờ. Ngài vẫn thấy, vẫn gọi, để tôi bỏ và đi theo. Không thấy và gọi, thì cũng chẳng ai từ bỏ và đi theo.Tiến trình này được lặp lại nhiều lần, làm nên hành trình Kitô hữu. Hôm nay tôi mong theo Chúa hơn. Ngài vẫn thấy, vẫn gọi, để tôi bỏ và đi theo.Hôm nay tôi mong theo Chúa hơn hôm qua, và ngày mai hơn hôm nay.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa.

(Thánh Têrêxa Calcutta).

 Trung Quốc Ngày Nay Qua Cái Nhìn Của Một Người Tàu – Nguyễn Thị Cỏ May

 Trung Quốc Ngày Nay Qua Cái Nhìn Của Một Người Tàu – Nguyễn Thị Cỏ May (Danlambao)

Thật may mắn – thật tình phải nói như vậy – còn không ít người Việt nam nơm nớp lo sợ nước Việt Nam rồi đây sẽ mất để trở thành một nước Tàu. Thế giới đang lo đối phó nạn bành trướng hết tốc lực và toàn diện của Tàu nhằm làm chủ thế giới. Vụ bắt bà Meng Wanzhou, Giám đốc tài chánh của Công ty Huawei, đúng là một cú đá giò lái quá nặng của Mỹ đối với Tàu trong chánh sách chạy đua thực hiện bá quyền của Tàu.

Tựa quyển sách của 2 nhà nghiên cứu người Pháp chuyên về chánh trị Tàu, Sophie Boisseau du Rocher và Emmanuel Dubois de Prisque (Odile Jacob, Paris, 2019) được tác giả trình bày dưới dạng chơi chữ “Tàu v(L)à thế giới” (La Chine e(S)t le monde – La Chine ET=VÀ nhưng có thêm S, đọc nguyên chữ EST=LÀ, động từ).

Nếu có người Việt Nam muốn viết một cuốn sách về sách lược bành trướng của Tàu, tưởng cuốn sách đó cũng nên có cái tựa viết giống như vậy, cùng cách chơi chữ, là “Việt Nam v(L)à Tàu” để báo động cho những người chưa thấy, chưa biết quốc nạn, không đọc sách mà chỉ thấy cái tựa thì cũng hiểu chuyện. Hiểu mối nguy sanh tử của Tàu đối với Việt Nam.

Tàu dưới con mắt thế giới

Huawei không chỉ là nhà sản xuất thứ hai trên thế giới về trang thiết bị viễn thông và smartphone mà đó thật sự là võ khí hàng đầu của chiến lược bá quyền của Tàu. Huawei nuôi tham vọng sẽ thay thế công nghệ Mỹ và, với tất cà phương tiện, sẽ nắm giữ vai trò chủ đạo của ngành này. Và đang tập trung vào 5G, không chỉ chiếm thị trường, mà nhằm chủ động và kiểm soát được thông tin về kỹ nghệ, về hoạt động của chánh phủ các nước, các thành phố, giao thông, các dịch vụ, ngân hàng,… Và nhứt là vũ khí. Tóm lại, kẻ thắng sẽ làm chủ thế giới. Giữa Mỹ và Huawei là cuộc chiến sanh tử. Nhưng với Bắc Kinh không chỉ có 5G phải đạt cho được mà là quyết tâm làm chủ trọn vẹn thế giới.

Sách lược tấn công thế giới của Tàu thật sự đã bắt đầu từ mười năm qua. Trước đây, Bắc Kinh còn giữ lời dạy của Đặng Tiểu-bình “Từ từ và giữ thế khiêm tốn” nhưng cuôc khủng hơảng kinh tế năm 2008 đã làm cho Tây Phương chao đảo, Bắc Kinh vội nắm ngay thời cơ, leo lên ngôi vị bá chủ.

Năm 2012, Xi Jinping nắm quyền, thay đổi chiến lược. Xi muốn kết hợp 2 nền độc tài – ngàn năm quân chủ và triều đại cộng sản – tiến lên tuyên bố nay là thời điểm “phục hưng nước Tàu”, một chánh sách xâm chiếm không giới hạn: chiếm Biển Đông, Bắc Cực, kiểm soát mười hải cảng có khả năng đón tiếp hải quân Tàu, tạo mười quốc gia chư hầu do ràng buộc về thương mại như thời đế quốc Tàu.

Trên mặt trận ngoại giao và đối với những cơ chế quốc tế, Tàu đã thoát khỏi cách ứng xử củ, sai khiến những chánh phủ chịu ảnh hưởng của mình để lũng đoạn những nguyên tắc nền tảng của Liên Hiệp Quốc, xâm nhập vào khối Liên Âu, mua chuộc một số quốc gia nhỏ bị kinh tế khủng hoảng để phá thế đoàn kết của Liên Âu, bảo vệ quyền lợi của Tàu, chống lại những tấn công nhơn quyền,…

Để thực hiện kỷ niệm 100 năm ngày lập đảng Cộng Sản và 100 năm ngày khai sanh nước Công Hòa Nhơn Dân Trung Hoa, Bắc Kinh bắt đầu bằng cách tỏ ra mình là một cường quốc hào phóng, có một hệ thống quyền lực vượt trội hơn những chế độ dân chủ Tây Phương, có khả năng đem lại sự tăng trưởng và sự ổn định. Tàu sẵn sàng mời những nhà lãnh đạo chánh trị các nước tới tu nghiệp, đều được hậu đãi, thanh niên ưu tú, ký giả, tới làm việc, tu nghiệp, được thù lao rộng rãi. Đồng thời, họ còn tài trợ cho hàng ngàn trung tâm nghiên cúu (think tank) trên thế giới. Hiện tại, Tàu có 350 000 sinh viên học ở Huê Kỳ và 35 000 ở Pháp, số tiền sinh viên đóng cho các đại học sẽ có khả năng làm cho các đại học ấy phải bỏ những môn mà Xi Jinping không hài lòng.

Một người Tàu nhìn Trung Quốc

Dưới cái nhìn của thế giới, Tàu không còn là một thách thức mà là mối nguy đang thật sự hăm dọa an ninh thế giới, nhứt là đối với Tây Âu và những giá trị của nó. Thế mà trong lúc đó, Tàu khoe khoang sự phát triển của họ hoàn toàn hòa bình và nhứt là trong DNA của họ không có chứa mầm chiến tranh. Nhưng ngân sách quốc phòng của Tàu tăng trưởng mau hơn sản lượng nội địa (PIB).

“Một người Tàu” nhìn Trung Quốc muốn nói trên đây là nhà văn Dai Sijie hiện ở bên Tàu để vận động tài chánh thực hiện bộ phim của ông, đồng thời ông cũng cho ấn hành ở Paris quyển truyện nói về cuộc đời của ông nội của ông.

Trong cách mạng văn hóa, ông là cậu bé mười tuổi và đã bị mọi người ghét, coi ông là người tội hình sự vì có ông nội là mục sư Tin Lành. Năm 1949, khi Cộng Sản chiếm trọn nước Tàu, ông nội của ông làm mục sư đang điều hành một cô nhi viện. Đó là trọng tội.

Sau năm 2011, Dai biến mất khỏi Pháp. Ông trở về Tàu nơi ông mô tả như một nước dễ thương một cách trung bình. Nhận xét nổi bật của ông là ở Tàu có lối “1% những người sống không sống chỉ vì tiền. Ngày nay, tiền trở thành cái đạo của người Tàu. Ông thấy một tỷ người Tàu thay đổi: trước kia, mọi người đều là cách mạng và ông đã sống trong xấu hổ vì ông thuộc gia đình một mục sư trong lúc những người khác thuộc gia đình thợ thuyền, nông dân, binh sĩ,… Nhưng ngày nay, nếu ai không kiếm được tiền mới là người đáng lấy làm xấu hổ”.

Ở Tàu, Dai có thể chạy ra tiền để làm phim nhưng ông không thể xin được giấy phép để in và phổ biến những tác phẩm của ông ở đó. Từ nhỏ đã mang đức tin Thiên Chúa Giáo, ông cứ nghĩ tới đời sống của Christ và ông nội của ông, người giúp đỡ rất nhiều cho người nghèo khổ và bản thân cũng bị đau khổ nhiều. Vậy phải chăng đó là hai điều song song với nhau? Ông nhớ lại cảnh bị đấu tố, người trong gia đình tố nhau với Hồng Vệ Binh,… Ông nhớ lại cha mẹ của ông, nguyên là y sĩ, bị cách mạng giam ở một nơi khác. Cảnh tịch thâu nhà cửa, của cải, khám xét, vô cùng khủng khiếp.

Một hôm vừa đi học về, Dai nghe những tiếng hò hét lớn, sỉ vả ông nội của ông là một tên nô lệ Tây Phương, tên phản quốc, một tên gián điệp. Ông còn nhớ ông nội của ông quì trên một bục cao, rồi có một Hồng Vệ Binh đá ông nội của ông làm cho ông té nhào xuống. Ông ngất liệm đi như chết. Mọi người chỉ đứng nhìn, không ai tới giúp đỡ. Rồi bỏ đi.

Cơn ác mộng hết sau khi Mao chết. Ngày nay, ở Tàu, Dai nhận thấy một điều lạ, không biết có phải là sự nghiệp của Mao để lại hay không, đó là ở Tàu có cả 100 triệu người Thiên Chúa Giáo. Không phải như ở Pháp, mà đó là những người giáo dân thuần thành, thật sự hành đạo, sống đời sống đạo nghiêm túc.

Trước kia, dưới thời Mao, ông nội của Dai cầu nguyện, đọc kinh trong bóng tối vì không dám đốt đèn. Ngày nay, tín đồ đi nhà thờ, nhà nguyện. Nhưng vẫn còn điều bị chế độ, tuy không còn Mao, cấm kỵ, đó là không được phép truyền đạo.

Dai không xin được phép in sách của ông ở Tàu vì sách viết bằng tiếng Tàu và trong sách, nhắc lại ông nội là một mục sư. Như vậy là phạm tội tuyên truyên tôn giáo.

Truyện của Dai đem thực hiện phim. Nhờ nhiều bạn bè làm điện ảnh, tài tử nổi tiếng vận động xin phép. Việc xin phép có thể được chấp thuận nhưng với điều kiện nhơn vật là mục sư phải thay đổi, như làm giáo viên, cán bộ, …

Ngày nay, nước Tàu phát triển, là cường quốc thứ nhì của thế giới. Dân Tàu đông đảo đi ra nước ngoài. Nhưng những thứ cộng sản đặc sệt vẫn còn nguyên và ở khắp nơi. Đó là tổ chức và quyền lực. Người ta thât sự không ai nói tới “độc tài” nhưng mọi thứ quyền lực đều nằm trong tay của một đảng duy nhứt.

Mọi người ai cũng đều có thể làm giàu nhưng, với điều kiện phải được đảng Cộng Sản ok. Mọi người đều có thể làm chuyện mình muốn, nhưng trước hết phải chờ đảng quyết định. Trong những xí nghiệp tư, phải có những đơn vị đảng dòm ngó dùm.

Tàu là nước tư bản nhưng đảng Cộng Sản mạnh hơn, nó kiểm soát tất cả, cả tư tưởng, cả mọi phản ứng tâm lý của dân.

Tuy nhiên có những chuyện mà cái đảng cực mạnh đó không thể kiểm soát được, không can thiệp được, nó chịu bất lực, đó là bịnh hoạn, chết. Những người lãnh đạo đảng như Xi, như Lý, như bịnh, chết, đảng Cộng Sản toàn quyền, triệt để, toàn diện, cũng chịu thua thôi.

Nguyễn Thị Cỏ May

danlambaovn.blogspot.com

Người Việt Và Triết Lý “Giàu Nhanh, Đi Tắt, Gồm Cả Phá Hoại” – Vương Trí Nhàn

Người Việt và Triết Lý “Giàu Nhanh, Đi Tắt, Gồm Cả Phá Hoại” – Vương Trí Nhàn

Người lao động VN – hình minh họa                 

Qua câu chuyện 39 người thiệt mạng tại Anh, tôi thấy nổi lên nhiều vấn đề có liên quan đến đến toàn thể cộng đồng Việt hiện nay, trước tiên là câu chuyện cách kiếm sống của con người và triết lý ẩn sau cách kiếm sống đó.

Cụ thể là người Việt hiện rất kém về mặt nghề nghiệp để tạo nên năng suất lao động cần thiết trong khi đó nhu cầu có một cuộc sống tiện nghi lại quá mạnh mẽ và quyết liệt, khiến cho người ta sẵn sàng làm bậy kiếm tiền, những người vốn ngại ly hương thì sẵn sàng ra đi tìm cách kiếm ăn ở nước ngoài dù đôi khi phải đổi lấy mạng sống.

Mà có thoát chết chăng nữa thì tuy có một cuộc sống bề ngoài đầy đủ về mặt vật chất nhưng thật ra trong đó bao giờ cũng không thiếu những yếu tố của sự đau khổ .

Nên biết thêm tình trạng kém cỏi về mặt nghề nghiệp là tình trạng của người Việt trong lịch sử nó khiến cho một quyển sách như “Cuộc nổi dậy của nhà Tây Sơn” đã viết đại ý 1/3 ba người dân ở đây là kẻ cướp, 2/3 còn lại sống dưới mức nghèo khổ

Qua đó cho thấy chiến tranh đã tàn phá xã hội Việt Nam như thế nào cụ thể là làm hỏng con người Việt đi như thế nào.

Tôi cũng cần thấy thêm là trong việc kiếm sống hiện nay có một triết lý phổ biến ngấm ngầm chi phối người Việt “chỉ có những việc không làm được chứ không có những việc không được làm”

Đây cũng là dấu hiệu của sự tàn phá con người về mặt đạo đức do chiến tranh mang lại.

Nó khiến chúng ta rất khó hội nhập với thế giới hiện đại.

Về trình độ kiếm sống của người Việt và cái triết lý đi kèm với tình trạng này tôi đã từng viết nhiều lần, lần cuối là trên blog của tôi tháng 2/2018:

Kiếm sống chỉ là cách nói nôm na của khái niệm ” trình độ sản xuất ” của một xã hội. Trong bài này tôi muốn đi từ hoạt động của những người dân mà nghĩ dần lên tới các vấn đề tồn tại của xã hội. Đề tài quá rộng và cũng là quá sức với bản thân, tôi đưa ra ở đây với ý nghĩ” nếu không phải chúng ta thì ai sẽ nghĩ thay ta đây” và rất mong các bạn cùng nghĩ.

 Kiếm sống bằng mọi giá

Thời tiết oi ả, đang nóng bỗng lạnh đang lạnh bỗng nóng, nhiều nhà đêm trước vừa mở điều hoà, đêm sau đã phải lôi chăn mùa rét ra đắp, khí trời năm nay ở đồng bằng sông Hồng độc quá!

Chẳng những con người nhoai ra mà đến cả các giống vật cũng khó sống: ở vùng ngoại ô tôi đang ở, sáng sáng trên mặt hồ vô khối cá chết nổi lềnh bềnh.

Có cá chết là có người đi vớt, bởi thứ cá này đun lên còn cho lợn cho chó ăn được.

Mấy người dạy sớm lại chuẩn bị sẵn vợt, cá vớt được dễ đến cả rổ.

Đến lượt một ông già nọ, lộc giời chẳng còn bao nhiêu, đi lui đi tới ngắm nghía mãi mới thấy một hai con sót lại.

Cá thì nằm khá xa mà trong tay ông không có lấy một cái que cái sào nào cả. Nhưng ông không chịu.

Thoạt đầu thấy ông nhặt gạch hòn to hòn nhỏ vun thành đống lùm lùm tôi chưa hiểu để làm gì. Bỗng nghe tũm tũm gạch ném xuống nước, thì ra ông lấy gạch để lái cho cá trôi dần vào bờ. Liên tiếp, có đến vài chục viên gạch được sử dụng. Khi mùi cá chết nồng nặc xông lên thì cũng là lúc tôi nghe cái túi nilon trong tay ông gìa sột soạt.

Có thế chứ. Thoát làm sao được khỏi tay ta, hỡi những chú cá không biết mới chết đêm qua hay từ hôm kia mà thân hình đã mủn cả ra trên mặt nước.

Tôi đứng nhìn ông già lấy gạch dồn cá mà nghĩ đến cách kiếm sống của con người hiện nay. Nào ông có khác với nhiều thanh niên trai trẻ háo hức vào đời, nhất là những thanh niên nông thôn đang đổ lên đô thị:

  • Tay trắng lập nghiệp.
  • Nghề ngỗng chẳng có.
  • Đồ nghề không tức là công cụ không.
  • Có miếng ngon miếng sốt thì lớp người đi trước dành hết cả rồi.

Thành thử có gì là lạ khi họ chỉ còn cách lăn xả vào bất cứ việc gì người ta thuê mướn dù là mồ hôi đổ ra nhiều mà đồng bạc thu về chẳng khác mấy con cá trôi nổi trên mặt hồ.

Trách họ thì oan cho họ quá.

Thế nhưng cái đáng sợ nhất vẫn là cái “triết lý” toát lên từ cái việc kiếm sống đơn giản này.

Nhìn đống gạch được ném xuống nước, tôi cứ định nói với ông già rằng như thế tức là trực tiếp phá huỷ môi trường.

Vụ nước máy ô nhiễm tại Hà Nội gần đây nêu lại vấn đề ý thức và trách nhiệm                 

Ai cũng thích thì làm, hôm nay mươi viên mai vài chục viên ném xuống hồ, hỏi còn gì là cái mặt nước thân yêu?

Chẳng phải là chỉ mấy năm nay nước hồ đã đen dần vì nước cống, lòng hồ đã bồi cao lên vì các loại phế thải xây dựng và rác rưởi ?

Nhưng tôi không mở miệng nổi.

Từ cái việc mà ông già thản nhiên và hào hứng theo đuổi, tự nó đã toát ra một lời tuyên bố: để kiếm sống, con người ta có quyền làm bất cứ việc gì họ có thể làm, bất kể là có hại cho người chung quanh hoặc tàn phá môi trường sống chung quanh đến như thế nào.

Lại nhớ nhà văn Nga Anton Chekhov (1860 – 1904) từng có một đoản thiên kể chuyện một người mugich hồn nhiên tháo đinh bù loong trên đường sắt về rèn mấy cái đinh thúc ngựa. Sắt ê hề ra đấy mà làm gì, tháo một vài cái có sao, không tàu hoả thì đi bộ đã chết ai? -ông ta lý sự.

Còn ở ta những năm chiến tranh có những người coi kho phá cả một cỗ máy để lấy mấy cái vít.

Xét về mặt lý lẽ mà người trong cuộc đưa ra để biện hộ, giữa cái hành động của người mugich Nga thế kỷ XIX với việc người Việt thế kỷ XXI đã và đang làm:

  • rải đinh trên đường cao tốc,
  • bán đủ các loại rau quả vừa phun thuốc trừ sâu,
  • đá bóng vào lưới nhà để thực hiện hợp đồng bán độ,
  • rồi chặt phá rừng vô tội vạ,
  • rồi mua bán bằng cấp và chức sắc,
  • rồi kê đơn cho bệnh nhân toàn những thuốc đắt tiền để ăn hoa hồng,
  • rồi đưa ma tuý vào trường học rủ rê con nhà lành vào con đường nghiện ngập cốt bán được ít hàng quốc cấm…

Các hành động ấy bắt nguồn từ những ý nghĩ có khác nhau là bao?

Ở đâu thì cũng cùng một lý lẽ ấy, lý lẽ của ông già ném gạch dồn cá, vốn đã bắt rễ trong tiềm thức nhiều người chúng ta hôm nay.

Khi độ nguy hiểm của nó ta còn chưa cảm thấy rõ ràng thì làm sao đủ sức để chống lại?

Vận tải thô sơ                 

Từ kiếm sống đến hình thành tính cách

Từ trường hợp của những ông già ném cá ở phần trên, tôi xin thử nêu lên một vài đặc điểm làm nên cách kiếm sống dân ta xưa và nay:

  1. Từ thời tiền hiện đại trong cuộc mưu sinh, dân ta còn đang dừng lại ở tư duy hái lượm tức là sẵn có cái gì của thiên nhiên thì nhặt lấy mang về.

Con người trong xã hội đa số là vô nghề nghiệp và không đạt tới đỉnh cao trong việc làm nghề.

Các ngành nghề không được chăm lo cải tiến nên chỉ có giậm chân tại chỗ.

Khi tiếp xúc với các nền kinh tế khác chúng ta lại không chịu học hỏi đàng hoàng kỹ lưỡng nên cứ kém mãi.

  1. Chiến tranh là nhân tố chủ yếu chi phối khuôn mặt của xã hội Việt Nam trong suốt trường kỳ lịch sử.

Trong các thế kỷ trước, nhất là hai thế kỷ XVII – XVIII sa vào nội chiến, ở ta, việc sản xuất nông nghiệp chỉ phát triển trong mức độ bảo đảm cho các cuộc chiến tranh giữa các phe phái được duy trì. Vậy mà nạn đói vẫn luôn luôn xảy ra. .

Điều này càng rõ nếu xét tình hình từ 1945 tới nay.

Trong chiến tranh bao nhiêu con người giỏi giang đổ hết cả ra mặt trận.

Đến cả lương thực cho người dân miền Bắc cũng phải nhập của nước ngoài.

Súng ống đạn dược xe pháo dùng trong chiến tranh là của ngoại nhập tất.

Năm 1975: tác giả nói về người Việt Nam rằng ‘sau chiến tranh hầu hết chúng ta là những kẻ vô nghề nghiệp’ AFP Photography, LLC            

Ở hậu phương mọi công việc như xây dựng nhà cửa đường xá hoàn toàn ngưng trệ.

Sau chiến tranh hầu hết chúng ta là những kẻ vô nghề nghiệp.

Để đắp điếm che giấu sự thiếu thốn này xã hội chỉ tổ chức ra một nền giáo dục “thiếu tháng”, “bất thành nhân dạng”, còn cả việc học hỏi về nghề nghiệp lẫn học kiến thức cơ bản đều chắp vá qua loa.

Trong khi không biết xấu hổ trước trình độ sản xuất nội địa ở mức lè tè thì ta lại đang lao đầu hưởng thụ, lấy việc kiếm được hàng hóa sản xuất từ các nước khác làm niềm vui thích.

  1. Có lần trên mạng thấy loan tin các cơ quan khoa học quốc tế người ta đánh giá rằng nước mình là một xứ mà việc quản lý các tài nguyên khoáng sản là loại đội sổ, kém nhất thế giới.

Không cần có mặt ở các loại mỏ, chỉ từ tình hình chung cũng đoán ra hết.

Những người chủ trì công việc làm ăn ở các vùng tài nguyên đó, theo sự nhìn nhận của tôi thật cũng chẳng khác gì mọi người dân thường.

Ta chỉ trách những quan chức này là họ tham nhũng.

Ta quên rằng họ cũng đang là những người kiếm sống không có nghề ngỗng gì hết, và kiếm sống với bất cứ giá nào.

Trong khi khai thác tài nguyên theo kiểu thổ phỉ vậy, tự họ đã tước đi khả năng tồn tại và phát triển của cái nguồn lực đáng lẽ nuôi sống cộng đồng và chính họ trong một thời gian lâu dài. Họ cũng từ bỏ luôn cái cơ hội tốt để họ và con cháu họ tử tế nên người.

  1. Một đặc điểm khác chi phối việc kiếm sống của người mình, nhất là con người hiện đại.

Là ta có lối suy nghĩ rất thiển cận, trong khi phấn đấu để vượt lên số phận nghèo khó đã không chịu tự nhận lỗi về mình không chịu thành tâm học hỏi theo hướng chuyên môn hóa…mà lại chỉ muốn đi tắt đón đầu nhăm nhăm tính toán sao cho có thể đạt đến mọi mục đích tầm thường của mình bằng Con đường Ngắn nhất.

Nhân danh nghèo khó, cho là mình có quyền làm mọi điều xấu xa và sẽ chẳng có thần phật nào trừng trị chúng ta cả.

Tiếp đó là bày ra đủ thứ lý luận để cãi trắng cho sự hư hỏng của mình.

Cả một đội quân tuyên truyền góp phần vào việc tự biện hộ này.

Chúng ta đã đi tới sự tự lừa dối tự lúc nào không biết.

Đến lúc này thì người ta nói rằng cả con người và xã hội đã vô phương cứu chữa.

Vương Trí Nhàn

https://www.bbc.com/vietnamese/forum-50425379

Không có chữ quốc ngữ thì không có Đảng Cộng sản Việt Nam

Nền chính trị hậu phong kiến và tiền Cộng sản hay Cộng sản sơ khai Việt Nam, nếu nhìn trên khía cạnh lãnh tụ thì đương nhiên, Hồ Chí Minh là người khởi xướng, là cha già của Đảng. Nhưng nếu nhìn trên dòng chảy văn hóa và những run rủi lịch sử, huông đúc chính trị thì lại khác, và có vẻ như nó hoàn toàn nhờ vào chữ quốc ngữ.

About this website

RFA.ORG
Nền chính trị hậu phong kiến và tiền Cộng sản hay Cộng sản sơ khai Việt Nam, nếu nhìn trên khía cạnh lãnh tụ thì đương nhiên, Hồ Chí Minh là người khởi xướng, là cha già của Đảng. Nhưng nếu nhìn trên dòng chảy văn hóa và những run…

Tưởng nhớ GS Nguyễn Văn Bông: Đối Lập Chính Trị

Tưởng nhớ GS Nguyễn Văn Bông: Đối Lập Chính Trị

Posted on 10/11/2019 by webmaster1 in Tham Luận /

….”Nguyễn Văn Bông dầu được chánh quyền mời về, nhưng ông không e dè đăng đàn thuyết trình đề tài “Ðối lập chánh trị trong chế độ dân chủ” ngày 1 Tháng Tám năm 1963, nhân buổi lễ khai giảng năm học, trước cử tọa gồm viện trưởng, khoa trưởng, giáo sư cùng hàng ngàn sinh viên.”…

Trích bài phát biểu của GS Trần Văn Chi nhân ngày giỗ GS Nguyễn Văn Bông Little Saigon, 10/11/2006)

Đối Lập Chính Trị – GS Nguyễn Văn Bông

I – Định Nghĩa Và Các Quan Niệm Về Đối Lập

Nói đến Dân Chủ là chúng ta nghĩ ngay đến vấn đề đối lập, mà đối lập là gì? Và được quan niệm như thế nào?

A – Định Nghĩa

Chúng ta đã dùng nhiều danh từ đối lập. Mà đối lập là gì? Thế nào là đối lập? Đứng về phương diện lịch sử mà suy xét, đối lập phát sinh ở sự thực hành chính trị và liên quan đến lịch trình biến chuyển của chế độ Đại Nghị. Nói đến đối lập tức là nói đến cái gì ở ngoài đa số, ngoài chính phủ. Đối lập là khía cạnh nghị viện của vấn đề. Ý niệm đối lập cần phải được phân tích rõ ràng hơn nữa để phân biệt nó với những hiện tượng tương tự. Đối lập có ba đặc điểm: Một sự bất đồng về chánh trị, có tánh cách tập thể và có tính cách hợp pháp.

  1. Trước nhất, đối lập phải là một sự bất đồng về chánh trị. Hiện tượng đối lập chỉ có, khi nào những kẻ chống đối có thể tổng hợp lại tất cả những vấn đề được đặt ra, đưa những vấn đề ấy lên một mực độ đại cương và phán đoán theo một tiêu chuẩn chính trị. Có thể có một số đông người dân chận đường chận xá để phản đối một chính sách của chính phủ, có thể có một số đông sinh viên, một đoàn thể văn hóa hay tôn giáo biểu tình đòi hỏi những cái gì. Đành rằng những sự kiện ấy có thể có hậu quả chính trị, nhưng đó không phải là đối lập. Đó chỉ là một sự khước từ, kháng cự hay phản đối. Hiện tượng đối lập chỉ có, khi nào sự khước từ ấy, sự kháng cự ấy, sự phản đối ấy được chính trị hóa.
  2. Là một sự bất đồng về chính kiến. Đối lập phải có tính cách tập thể. Trong bất cứ lúc nào, luôn luôn có những người bất đồng chính kiến với chính quyền. Có thể có một thiểu số đông anh em, thỉnh thoảng họp nhau, rồi trong lúc trà dư tửu hậu, bàn quốc sự, có một thái độ chống đối đường lối, chủ trương của chính phủ. Đó là những kẻ chống đối, những cá nhân đối lập. Và những kẻ chống đối ấy có thể có trong chính thể Độc Tài, Cộng Sản. Đó không phải là đối lập.

Đối lập chỉ có khi nào sự bất đồng chính kiến ấy có tính cách tập thể, khi nào nó là kết quả biểu hiện một sự hành động có tổ chức của những kẻ chống đối. Nói đến sự hành động có tổ chức là nghĩ ngay đến chính đảng. Chỉ có đối lập khi nào có một chính đảng đối lập.

  1. Là một sự bất đồng về chính kiến có tính cách tập thể, đối lập phải hợp pháp nữa. Có thể vì một lý do gì mà một đoàn thể phải dùng võ lực chống lại chính quyền. Có thể vì một lý do gì mà một chính đảng phải hoạt động âm thầm trong bóng tối. Những hành động ấy, đành rằng nó có tính cách tập thể và kết quả của một sự bất đồng chính kiến, không được xem là đối lập. Những hành động ấy chỉ được xem là những cuộc âm mưu phiến loạn hay kháng chiến, nó không còn là đối lập nữa. Vì đối lập chỉ hoạt động trong vòng pháp luật.

B – Các Quan Niệm Về Đối Lập

Một khi đã ý thức được danh từ “đối lập” và nhận định tầm quan trọng của nó trong cuộc sinh hoạt chính trị, vấn đề then chốt được đặt ra là xác định vị trí của đối lập trong các chính thể. Nếu tinh túy của dân chủ là lòng độ lượng, khoan dung và tự do chính trị, thì lẽ tất nhiên lòng độ lượng, khoan dung và tự do chính trị ấy được thể hiện trên bình diện chính trị, qua những quyền của đối lập và sự hiện diện của đối lập chỉ là kết quả của sự thừa nhận tự do chính trị. Đối lập chỉ có giá trị và hiệu quả trong một chế độ mà triết học chính trị là Dân Chủ Tự Do. Vì đối lập dựa trên tinh thần khoan dung, trên sự chính đáng của bất đồng chính kiến. Vì thừa nhận tính cách tương đối của chân lý chính trị.

Một quan niệm đối lập như thế, dựa trên Chủ Nghĩa Tự Do, Chính Thể Độc Tài không thể chấp nhận được. Trong chính thể này, chính quyền là tất cả, còn đối lập chẳng những vô ích mà còn nguy hiểm nữa. Vô ích vì những nhà độc tài luôn cho rằng ý thức hệ của mình là bất di bất dịch và vai trò của cơ quan công quyền không phải tìm lấy một ý chí đi sát với nguyện vọng của quốc gia mà trái lại chỉ có nhiệm vụ áp dụng mệnh lệnh của chính đảng nắm quyền lãnh đạo. Chẳng những vô ích, đối lập còn nguy hiểm nữa. Nguy hiểm cho sự thực hiện nguyện vọng của quần chúng, vì hành động của đối lập phân ly quần chúng. Bởi thế, đối lập cần phải được thanh trừng và những cái mà người ta gọi là Dân Chủ, quyền tự do công cộng, những lợi khí mà đối lập dùng để hoạt động, lợi khí ấy cần phải được cấm nhặt.

Bị khước từ bởi những chính thể Độc Tài, đối lập chỉ được thừa nhận trong chính thể Dân Chủ, chẳng những trên bình diện triết lý chính trị, đối lập còn được chứng minh qua khía cạnh cuộc điều hành thực tiễn của định chế. Chính sự hiện diện của đối lập phản ảnh tính cách chân chính của ý chí quốc gia. Trong những chế độ mệnh danh là “nhất tề – nhất trí”, trong những chế độ mà người ta chỉ nghe 99 phần trăm, đành rằng không phải không thể có được, nhưng sự vắng mặt của đối lập làm cho người ta lắm lúc phải hoài nghi. Chỉ trên bình diện thực tại, vai trò của đối lập chứng tỏ rằng, mặc dù bị loại ngoài hệ thống chính quyền, đối lập cần có mặt và phát biểu.

Một quan niệm quá ư rộng rãi về Dân Chủ, lẽ tất nhiên – dựa trên một sự đối lập chân thành, xây dựng. Nhưng ý niệm đối lập ngày nay quá biến chuyển. Một hiện tượng mới đã xảy ra, một đối lập, không phải trong chính thể, mà chống chính thể Dân Chủ, một sự đối lập hoàn toàn phủ nhận nguyên tắc Dân Chủ, một sự đối lập về ý thức hệ. Tất cả vấn đề là thử hỏi, trước một sự đối lập như thế, thái độ của chính thể Dân Chủ phải như thế nào. Một vấn đề hết sức phức tạp, tế nhị và trên bình diện quốc tế, những giải pháp bảo vệ chính thể Dân chủ tùy thuộc hoàn cảnh thực tại chính trị của mỗi nước.

Dù sao, để trở lại vấn đề đối lập trong chính thể Dân Chủ, không ai có thể chối cãi tính cách chính đáng của sự hiện diện của đối lập. Nhưng đối lập, chẳng những phải có mặt mà còn phải có thể phát biểu nữa. Mà đối lập phát biểu để làm gì và hành động của đối lập sẽ có tác dụng gì trong guồng máy chính trị quốc gia? Và theo thủ tục nào, dưới hình thức nào, với những bảo đảm nào, đối lập có thể mạnh dạn và thành thực phát biểu ý kiến?

Đó là hai vấn đề cực kỳ quan trọng, vấn đề vai trò của đối lập và vấn đề qui chế của đối lập, hai vấn đề căn bản mà chính thể Dân chủ cần phải giải quyết một cách phân minh để ổn định cuộc sinh hoạt chính trị và để đối lập làm tròn sứ mạng của nó.

II- Vai Trò Của Đối Lập

Trong chính thể Dân Chủ thật sự, hiện diện của đối lập là một điều hết sức chính đáng. Chính đáng vì thừa nhận đối lập tức là thừa nhận tự do chính trị. Chẳng những chính đáng, đối lập lại còn cần thiết nữa. Cần thiết cho phẩm tính, đối lập còn cần thiết cho sự hiện hữu của chính quyền nữa. Trong cuộc sinh hoạt chính trị ổn định, đa số ở đâu ra, chính quyền hiện tại ở đâu ra, nếu không phải là sự kết tinh của sự tranh chấp với đối lập? Trên khía cạnh này, đối lập đóng vai trò căn bản, vai trò hợp tác với chính quyền, đó là hai khía cạnh của vai trò đối lập.

A – Vai Trò, Hạn Chế Và Kiểm Soát Chính Quyền

1- Hạn chế và kiểm soát chính quyền. Đó là một trong những hoạt động cốt yếu của đối lập ở bất cứ lúc nào trong cuộc sinh hoạt chính trị. Trước hết, ở giai đoạn tuyển cử đối lập có mặt, có thể phát biểu ý kiến, đối lập có quyền phủ nhận làm cho chính quyền bỏ bớt thái độ cứng rắn, những chương trình mỵ dân, những hứa hẹn hão huyền. Đối lập chận đứng lại những tư tưởng hẹp hòi, những quan điểm thiển cận, tư tưởng và quan điểm không phải của một chính phủ quốc gia mà hoàn toàn lệ thuộc vào mệnh lệnh của đảng phái.

2- Đối lập bảo đảm tính cách đích xác công khai của những quyết định của nhà nước. Thật vậy, khi mà chúng ta nói đến ý chí của toàn dân, ý chí của quốc gia, cần phải nhận định rằng đó chỉ là ý chí của đa số. Ý chí của đa số là ý chí của quốc gia, cái phương trình ấy chỉ có giá trị khi nào quyết định của đa số được chấp thuận trong một bầu không khí cởi mở, sáng tỏ và tự do. Chính đối lập bảo đảm tính cách đích xác của quyết định của đa số và bắt buộc đa số nắm chính quyền phải tham dự một cuộc tranh luận công khai. Vẫn biết rằng, trong chế độ Tổng Thống hay trong chế độ Đại Nghị mà chính phủ có đa số ở Quốc Hội, đối lập không thể ngăn cản chính quyền hành động theo ý của họ. Nhưng, tự do chỉ trích, đối lập bắt buộc địch thủ phải tiết lộ dự định của họ, những lý do của một quyết định của họ. Và như thế, đối lập bảo đảm rằng, khi một biện pháp hay chính sách được chấp thuận, những lý lẽ chống đối hay bênh vực biện pháp, chính sách ấy, đều được công khai đưa ra dư luận. Vai trò hạn chế và kiểm soát chính quyền, đối lập đảm đương một cách thiết thực hơn nữa trên diễn đàn Quốc Hội.

3 – Với phương tiện nào đối lập đóng vai trò của nó trên bình diện nghị viện? Đành rằng cơ cấu chính phủ nước này không giống nước kia, nhưng trong bất cứ chính thể Dân Chủ nào, người ta cũng tìm thấy từng ấy phương tiện cho phép đối lập phát biểu công khai ý kiến của họ. Trong những lúc bàn cãi và biểu quyết ngân sách quốc gia, sự hiện hữu của đối lập bắt buộc chính quyền bỏ hẳn chương trình mỵ dân, thái độ cứng rắn, và nhứt là chính quyền hết sức dè dặt khi bắt buộc toàn dân phải hy sinh quá độ. Cuộc đối thoại giữa chính phủ và quốc hội – chung qui giữa chính quyền và đối lập – qua những cuộc tranh luận, những câu hỏi, những cuộc tiếp xúc với ủy ban hay giữa phiên họp công khai là những dịp mà các vị Dân Biểu đối lập nói lên những lạm dụng của cơ quan hành chánh, hay nhận được – qua cuộc trình bày của các vị Bộ Trưởng – tin tức về một vấn đề nhất định hay câu trả lời đích xác. Vai trò hạn chế và kiểm soát chính quyền được biểu hiện một cách thiết thực nữa qua nguyên tắc trách nhiệm chính trị. Chúng ta biết rằng trong chế độ Đại Nghị, chính phủ bắt buộc phải từ chức khi đa số ở Quốc Hội biểu quyết chống chính phủ. Yếu điểm này sẽ là một ảo mộng nếu không có một đối lập thực sự.

Vậy qua từng giai đoạn của sự khởi thảo chương trình và trong hành động hàng ngày, chính quyền luôn luôn để ý đến lập trường của đối lập, tự kiểm soát lấy mình và trong việc ấn định kế hoạch quốc gia, lắm lúc phải nhận lấy chủ trương của đối lập. Thái độ này không nhằm làm vui lòng đối lập mà cho toàn dân, vì để ý đến lập trường của đối lập trong việc xác định đường lối chính trị, chính quyền hướng về nguyện vọng của quốc gia.

4 – Hạn chế và kiểm soát chính quyền. Vai trò tối quan trọng này, không phải đối lập luôn luôn đảm đương với tất cả hiệu quả thật sự. Không, vấn đề không phải ở chỗ đó. Vấn đề là ở khía cạnh tâm lý của toàn dân. Vấn đề là mỗi công dân có thể chắc chắn rằng, ngoài Quốc Hội hay trên diễn đàn Quốc Hội, có những người đại diện có thể phát biểu ý kiến của mình, không phải theo đường lối của chính quyền mà khác hẳn chính quyền. Và dù rằng ý kiến không được chấp thuận đi nữa, họ có cảm giác rằng sự kiện ấy do nơi quyền lợi tối cao của quốc gia, chứ không phải vì tính thị hiếu nhất thời, chuyên chế. Cần phải nhận định rằng, đối lập không những là tượng trưng cho một khuynh hướng chính trị, đối lập còn có giá trị tự bản chất nó nữa. Vì chỉ có đối lập và bởi đối lập mà việc kiểm soát của toàn dân mới có tính cách chân thành và hiệu lực trong một chế độ thương nghị, không những hạn chế, kiểm soát chính quyền, đối lập còn cộng tác với chính quyền nữa.

B – Vai Trò Cộng Tác Với Chính Quyền

Cho rằng đối lập cộng tác với chính quyền, đó là một khẳng định có hơi mâu thuẫn. Tuy nhiên chính đó là khía cạnh tích cực của vai trò đối lập. Và chúng ta có thể quả quyết rằng cái lợi của chính quyền là dung túng đối lập.

1 – Qua những cuộc tranh luận trong một bầu không khí cởi mở, những ý tưởng khích động tinh thần, những định kiến bớt phần cứng rắn, những ý kiến được chọn lọc và uy quyền sáng tỏ. Bất cứ một chính quyền nào cũng có khuynh hướng tự giam mình trong tình trạng cô đơn, chỉ nghe lời của đồng chí và lấy quyết định phù hợp với ảo vọng hoang đường qua những nhận xét riêng biệt của mình về thời cuộc. Đối lập có mặt, nhắc lại cho đoàn thể ở chính quyền tính cách phức tạp của thực tại chính trị, đem lại những màu sắc chính trị và đôi khi phản kháng lại những truyền tin báo cáo đơn phương của chính phủ. Qua những hành vi tích cực ấy, chính quyền thâu lượm được những dấu hiệu quý giá về tình trạng tinh thần của dư luận. Chẳng những trong lãnh vực thông tin, vai trò cộng tác với chính quyền của đối lập nổi bật lên nữa qua khía cạnh nghị viện.

2 – Tất cả những công việc thuộc về thiết lập chương trình nghị sự, về những vấn đề cần phải được thảo luận, những dự án ưu tiên, những cuộc tiếp xúc v.v…, tóm lại, vấn đề liên hệ đến việc tổ chức công tác của Quốc Hội, sự thỏa thuận giữa đối lập và chính quyền là điều kiện cốt yếu của một tình trạng chính trị ổn định. Và lịch sử đã chứng minh rằng, trong những trường hợp đặc biệt, trong những tình trạng khẩn cấp, tối cần, trong những trường hợp mà sinh tồn của quốc gia được đặt ra, trong những trường hợp ấy, lịch sử đã chứng minh rằng đối lập từ khước độc lập và lắm lúc lại ủng hộ chính quyền để bảo vệ uy thế của chính quyền lúc phải đương đầu với mọi cuộc ngoại xâm.

3 – Hướng dẫn chính quyền tham gia vào cuộc điều hành công tác Quốc Hội, một sự đối lập có tổ chức, có hệ thống đóng một vai trò cực kỳ quan trọng là chủ trương một chính sách để thay thế cho chính sách chính quyền. Cần phải nhấn mạnh đặc điểm này. Trong những xứ mà tình trạng chính trị chưa ổn định, trong những xứ mà đối lập vắng mặt, người ta luôn luôn lo ngại cho tương lai chính trị quốc gia. Ai sẽ thay thế nhà lãnh tụ hôm nay? Viễn tượng những cuộc cách mạng đẫm máu, những cuộc chính biến, viễn tượng những gián đoạn chính trị đầy hậu quả làm cho cuộc sinh hoạt chính trị kém phần tích cực. Đối lập, trong chính thể Dân Chủ, cho phép Quốc Gia xoay chiều, đổi hướng trong khung cảnh của định chế và không tổn thương đến sự liên tục của cuộc sinh hoạt chính trị. Đối lập là chính phủ của ngày mai, đối lập tượng trưng sự tin tưởng vào định chế quốc gia, đối lập duy trì sự liên tục của chính quyền.

Một sự đối lập hữu hiệu là một lực lượng tích cực. Cần phải nhận định rằng đối lập không phải là lực lượng luôn luôn chống đối chính quyền. Đối lập và chính quyền là hai yếu tố căn bản của thế quân bình chính trị trong chính thể Dân Chủ.

Hạn chế và kiểm soát chính quyền, cộng tác với chính quyền, một khi đã hiểu như thế, vai trò của đối lập, vấn đề được đặt ra bây giờ là thử hỏi trong điều kiện nào đối lập có thể làm tròn sứ mạng của nó trong một bầu không khí khoan dung, khi mà một số quyền hạn của đối lập được xem là bất khả xâm phạm và đồng thời đối lập thông suốt nhiệm vụ của mình. Kê khai những quyền hạn ấy, ấn định nghĩa vụ của đối lập, tức là bàn đến vấn đề quy chế của đối lập.

III – Quy Chế Của Đối Lập

Vấn đề ấn định quy chế của đối lập tùy thuộc mỗi quan niệm riêng về đối lập. Nếu đối lập chỉ được xem là một quyền đối lập, nó chỉ là hậu quả tất nhiên của thể chế chính trị Dân Chủ Tự Do. Đối lập tức là có quyền xử dụng tất cả những tự do hợp pháp. Trái lại, nếu đối lập được đưa lên hàng một chức vụ rất cần thiết cũng như chính quyền, nếu đối lập được xem không phải là một việc bất đắc dĩ, mà là một liều thuốc kích thích chính quyền, thì theo quan niệm này, quy chế chẳng những bảo đảm tự do của đối lập mà còn chú ý tới công hiệu của nó nữa. Tổ chức đối lập, định chế hóa đối lập đó là quan niệm thứ hai của đối lập.

Nhưng dù có được định chế hóa hay không, đối lập để có thể đảm đương vai trò chủ yếu của nó, phải là một đối lập tự do và xây dựng. Nói đến đối lập tự do là phải nghĩ ngay đến quyền hạn của nó; nói đến đối lập xây dựng là nghĩ đến ngay nghĩa vụ của nó.

A – Một Trong Những Quyền Hạn Của Đối Lập

1 – Là quyền không thể bị tiêu diệt. Vì đối lập luôn luôn là một chướng ngại, chính quyền hay có khuynh hướng thừa một cơ hội nào đó, tẩy trừ phần tử rối loạn ấy đi. Vẫn biết rằng, có những lúc, những giờ phút nguy nan, đối lập hoặc tự mình, hoặc thỏa thuận với chính quyền, ngưng hẳn những phê bình hay chỉ trích. Nhưng đó chỉ là im hơi, lặng tiếng; chớ quyền sinh tồn vẫn là quyền tối cao của đối lập. Tiêu diệt đối lập tức là dọn đường cho Chủ Nghĩa Độc Tài. Đối thoại trở thành độc thoại.

2 – Quyền thứ hai của đối lập là quyền phát biểu. Và quyền phát biểu này được thể hiện bởi những cái mà người ta gọi là tự do công cộng. Số phận của đối lập sẽ ra sao nếu đối lập không tự do có ý kiến khác hẳn ý kiến chính quyền, và tự do phát biểu ý kiến ấy trên báo chí và sách vở? Nếu đối lập không được tự do hội họp? Chỉ có đối lập thật sự trong một chế độ mà các tự do này được ấn định và chế tài một cách hợp lý.

Chúng ta có nói rằng thừa nhận đối lập tức là thừa nhận tính cách tương đối của chân lý chánh trị Dân Chủ. Tính cách tương đối này được thể hiện qua sự tự do tuyển cử. Tự do tuyển cử tức là tự do trình ứng cử viên, tự do cổ động và nhất là sự bảo đảm tính cách chân thành của kết quả cuộc bầu cử.

Trên bình diện đại nghị, đối lập cần phải được đặc biệt bảo vệ. Trường hợp Dân Biểu đối lập bị bắt bớ hay tống giam không phải là những trường hợp hiếm có. Vì thế mà quyền bất khả xâm phạm của Dân Biểu là một thực tại.

Những quyền hạn mà chúng tôi đã sơ lược kê khai không phải chỉ dành riêng cho đối lập. Đó là quyền bảo vệ tất cả công dân trong chính thể Dân Chủ. Nhưng phải thành thật mà nhận định rằng tự do phát biểu, tự do tuyển cử, quyền bất khả xâm phạm v.v… là những điều kiện quí giá cho đối lập luôn luôn bị chính quyền đe dọa.

Đó là điều kiện tối thiểu. Một quan niệm cấp tiến đã đi đến chỗ định chế hóa đối lập. Đối lập trở thành một thực thể có hiến tính. Đó là trường hợp của Anh Quốc vậy.

Ở nước Anh, đối lập có một tước vị chính thức “đối lập của Nữ Hoàng”. Và đối lập của Nữ Hoàng có cả chính phủ riêng của họ, một nội các bóng trong Hạ Nghị Viện. Vị lãnh tụ đối lập của Nữ Hoàng là một nhân vật cao cấp đầy uy thế, luôn luôn được mời đến cùng vị Thủ Tướng tham dự những buổi lễ chính thức và luôn luôn được tham khảo ý kiến về những vấn đề chính trị trọng đại. Và xin nhắc lại một điều rất lý thú là “nhà nước lại phải trả lương cho vị lãnh tụ đối lập”.

Nhưng dù sao, định chế hóa hay không, quyền sinh tồn và những điều kiện thuận tiện để tự do phát biểu, chỉ có ý nghĩa khi nào đối lập tin tưởng có quyền nắm lấy chính quyền. Chính sự bình đẳng trong vận hội ấy làm cho cuộc sinh hoạt chính trị thêm phần phấn khởi.

Đối lập có vài quyền hạn để đảm đương vai trò của nó. Nhưng đối lập không phải chỉ có quyền. Một số nghĩa vụ hạn chế hoạt động của đối lập, nghĩa vụ nhằm mục tiêu tôn trọng tinh thần Dân Chủ.

B – Những Nghĩa Vụ Của Đối Lập

Một trong những nghĩa vụ của đối lập là thừa nhận quy luật đa số. Những ai quan tâm đến cuộc bầu cử đều rõ rằng có thể xảy ra trường hợp mà vị Tổng Thống đắc cử hay một chính đảng chiếm đa số ở Quốc Hội trong lúc phiếu của mình lại kém địch thủ thất bại. Nhưng đó chỉ là hậu quả kỹ thuật của luật tuyển cử. Và công lý là một chuyện, mà hợp pháp là một chuyện khác nữa. Trường chính trị là một cuộc tranh đấu công nhận quy luật đa số, tức là thẳng thắn tham gia cuộc đấu tranh bởi đó là luật lệ của nguyên tắc dân chủ.

Nghĩa vụ thứ hai của đối lập là hoạt động một cách ôn hòa xây dựng và có tinh thần trách nhiệm. Những chỉ trích vớ vẩn, những vu khống không có căn bản chính trị của những kẻ tự cho là chính khách, những phê bình chỉ đem lại hoài nghi và bất mãn, đó là những tệ đoan của sự đối lập không xứng đáng với danh hiệu của nó. Vì đâu lại có một hiện tượng bất thường như thế? Ngoài tham vọng cá nhân, hiện tượng này phát sinh từ một hệ thống chính đảng nhất định và liên quan đến khía cạnh ý thức hệ của một vài chính đảng.

Trong một xứ, một hệ thống đa đảng là một thực tại chính trị, khi mà không một chính đảng nào chiếm đa số hay ưu thế trên sân khấu chính trị. Chính phủ luôn luôn là một chính phủ liên hiệp. Mà liên hiệp tức là tập hợp những khuynh hướng mâu thuẫn, dung hòa những chính sách tương phản. Chính cái viễn tượng không bao giờ tự mình chiếm được hoàn toàn quyền và thực hiện những chương trình hứa hẹn làm cho chính đảng thiếu ý thức xây dựng và tinh thần trách nhiệm. Tính cách rời rạc và chia rẽ của đối lập, chỉ biết phá hoại biến đổi hẳn mối tương quan truyền thống giữa đa số và thiểu số. Đối lập không còn là đối lập ngoài và chống chính phủ, đối lập ở đây là đối lập trong chính phủ.

Chẳng những thế, khía cạnh ý thức của một vài chính đảng là nguyên do thứ nhì của sự thiếu tinh thần xây dựng. Đối lập chỉ có nghĩa trong một khung cảnh chính trị nhất định. Nếu chúng ta đồng ý về một nguyên tắc căn bản, nếu chúng ta thừa nhận chủ quyền nhân dân, nguyên tắc phân quyền, tự do chính trị, nếu chúng ta tôn trọng nhân vị, sự độc lập của Thẩm Phán hay quyền tự do phát biểu, thì cuộc tranh chấp chính trị chỉ nằm trên lãnh vực thực tiễn qua những nguyên tắc thứ yếu. Trái lại, nếu đối lập nhằm chống lại, không phải một khuynh hướng chính trị hay một chính sách nhất định, mà chính cả nền tảng của xã hội, nghĩa là chống cả chính thể, thì khẳng định rằng đối lập là chính phủ tương lai không còn giá trị nữa. Vì đặc tính của đối lập về ý thức hệ là chiếm chính quyền để rồi thủ tiêu quyền đối lập.

Trong một tình trạng như thế, trước tình trạng mà đối lập không thi hành nghĩa vụ của nó, những quyền hạn không còn lý do tồn tại nữa. Và “Chính Thể Dân Chủ” cần phải có những biện pháp thích nghi để đối phó. Sa thải những phần tử bất chính trong hành chính, bắt buộc đối lập phải có một chương trình và có năng lực nắm chính quyền trước khi lật đổ chính phủ, sửa đổi luật bầu cử, đặt ngoài vòng pháp luật những chính đảng quá khích, đó là một vài ví dụ cụ thể về biện pháp được áp dụng để bảo vệ Chính Thể Dân Chủ.

IV – Đối Lập Trong Các Quốc Gia Chậm Tiến

Phác họa như thế, vai trò và “qui chế đối lập” trong “chính thể dân chủ” qua sự biến chuyển của ý niệm trong xã hội cận đại, chúng ta không khỏi tự nhủ rằng đó là lý tưởng. Và tự hỏi rằng lý tưởng ấy có phù hợp với những quốc gia trên đường phát triển, với hiện tình những nước vừa thu hồi độc lập.

Thực tại chính trị cho chúng ta biết rằng, đối lập nếu không hoàn toàn vắng mặt, thì chỉ được dung túng một phần nào, một phần nhỏ nào, trong những nước mới này, những nước mệnh danh là Dân Chủ và đồng thời cũng được xem là những chính thể không độc tài. Tại sao lại có một sự kiện oái oăm như thế?

Lý do thứ nhất mà người ta đưa ra là sự đe dọa trầm trọng của độc tài Cộng Sản. Những nước mới này, là những nước bị nạn Cộng Sản đe dọa và có nước đang chiến đấu một mất một còn với Cộng Sản. Dung túng đối lập tức là cho Cộng Sản cơ hội núp sau lá cờ đối lập để phá hoại nền dân chủ. Đối lập Cộng sản là đối lập về ý thức hệ, và chúng ta biết rằng đối lập về ý thức hệ là đối lập chống chính thể Dân Chủ.

Lý do thứ hai là trình độ giáo dục của quần chúng. Người ta cho rằng dân chúng chưa có một trình độ giáo dục về chính trị khá đầy đủ để cho có thể xử dụng một cách hoàn hảo những quyền tự do công cộng. Và như thế, đối lập chỉ có hại vì nó sẽ là bức bình phong của những tham vọng cá nhân của những kẻ không cơ sở chính trị chỉ dựa trên cuộc chính đồ sinh hoạt. Hơn nữa, thì giờ gấp rút, nâng cao mực sống của toàn dân là một việc tối cần, lúc kiến quốc không phải lúc bàn cãi, phê bình hay chỉ trích.

Những lý do mà chúng ta vừa nêu ra rất là chính đáng. Nhưng chính đáng không có nghĩa là phải chấp nhận. Trong lĩnh vực chính trị và xã hội, sự hoàn hảo của một định chế chính trị là kết quả của kinh nghiệm. Làm sao hy vọng một nhận thức khá cao của quần chúng, nếu hôm nay không có học tập hướng về Dân Chủ? Không phải nhất thiết áp dụng tất cả những gì đã có hay đang có ở Tây Phương. Thực tại chính trị xã hội văn hóa của mỗi nước là yếu tố căn bản. Nhưng điều kiện tối thiểu phải có để đối lập được phép khởi đầu và phát triển.

Vả lại, vì thiếu đối lập mà Cộng Sản và những phần tử phản Dân Chủ nắm mất chính nghĩa đối lập và lợi dụng khai thác những bất mãn, than phiền của quần chúng.

Vậy để tránh mọi sự ngộ nhận giữa chính quyền và nhân dân, để cho trạng thái tinh thần khủng hoảng của dư luận được thể hiện một cách ôn hòa, để cho phần tử phiến loạn hết cơ hội lợi dụng tuyên truyền và khai thác, vấn đề đối lập tự do và xây dựng cần phải được đặt ra. Và như thế không những trong những nước tiền tiến, mà chính ngay trong những tân quốc gia, công cuộc kiến quốc và cứu quốc, công cuộc xây dựng nền Dân Chủ phải là kết tinh của hoạt động song phương giữa chính quyền và đối lập.

Giáo Sư Nguyễn Văn Bông

 

TIN VUI CHO TỬ TÙ HỒ DUY HẢI

Image may contain: 1 person, selfie and closeup
Tan Nguyen DuyFollow

TIN VUI CHO TỬ TÙ HỒ DUY HẢI.

Sau 11 năm ngồi tù oan sai với bản án tử hình; hôm nay Hồ Duy Hải đã được XOÁ ÁN, để điều tra lại.
…………………
.
Vào ngày 30/11/2019; Viện Kiểm Sát Nhân Dân Tối Cao quyết định: “hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm năm 2008 và Bản án phúc thẩm năm 2009 để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.”
……
.
.
.-Nguồn:..
https://thanhnien.vn/…/vien-ksnd-toi-cao-khang-nghi-giam-do…
.
.
Theo Viện KSND tối cao, vụ Hồ Duy Hải và kỳ án Bưu điện Cầu Voi có nhiều mâu thuẫn cùng những thiếu sót, vi phạm tố tụng nghiêm trọng, trực tiếp ảnh hưởng đến giá trị chứng minh của chứng cứ theo quy định pháp luật…

Liên quan vụ Hồ Duy Hải và kỳ án Bưu điện Cầu Voi, Viện KSND tối cao vừa kháng nghị giám đốc thẩm, đề nghị Hội đồng thẩm phán (HĐTP) TAND tối cao xét xử thủ tục giám đốc thẩm, hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm năm 2008 của TAND tỉnh Long An và Bản án phúc thẩm năm 2009 của Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM đã xét xử bị án Hồ Duy Hải tử hình về tội “giết người”, “cướp tài sản”, để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.
Quyết định kháng nghị mới nhất này thay thế quyết định không kháng nghị của Viện trưởng Viện KSND tối cao tại thời điểm năm 2011.

Theo Viện KSND tối cao, bản án sơ thẩm và phúc thẩm có nhiều nhận định và kết luận chưa phù hợp với tình tiết khách quan vụ án; việc thu thập, đánh giá chứng cứ, tài liệu chưa đầy đủ; nhiều nội dung cần chứng minh của vụ án còn mâu thuẫn nhưng chưa được làm rõ.
Các cơ quan tiến hành tố tụng có nhiều vi phạm nghiêm trọng trong thủ tục tố tụng như: bỏ sót những chứng cứ vụ án, không trưng cầu giám định vết máu; không đưa lời khai của Hồ Duy Hải và người làm chứng vào hồ sơ vụ án dẫn đến sai lầm trong giải quyết vụ án.
Đồng thời, Viện KSND tối cao xác định lời khai đầu tiên ngày 20.3.2008 của Hồ Duy Hải không nhận tội nhưng bản khai này và một số lời khai nhân chứng không được đưa vào hồ sơ vụ án. Những tài liệu này có trong hồ sơ lưu trữ của cơ quan điều tra.

Ngoài ra, theo Viện KSND tối cao, cơ quan tiến hành tố tụng đã không lấy lời khai của anh Phùng Phụng Hiếu, nhân chứng đầu tiên phát hiện vụ án. Ngoài các dấu vân tay tại hiện trường chưa xác định được của ai thì còn có đối tượng tình nghi là Nguyễn Văn Nghị, Nguyễn Mi Sol không được điều tra làm rõ.
Kháng nghị giám đốc thẩm của Viện KSND tối cao nêu rõ những mâu thuẫn từ lời khai, chứng cứ, dấu vết tại hiện trường chưa được làm rõ, cùng những thiếu sót, vi phạm tố tụng nghiêm trọng đã trực tiếp ảnh hưởng đến giá trị chứng minh của chứng cứ theo quy định pháp luật, ảnh hưởng nghiêm trọng đến những căn cứ kết luận hành vi phạm tội của bị cáo.
Vì vậy, Viện KSND tối cao cho rằng những vấn đề trên cần phải khắc phục để bảo đảm việc giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội và không bỏ lọt tội phạm.
Trước đó, sáng 14.1.2008, dư luận chấn động trước thông tin 2 nữ nhân viên của Bưu điện Cầu Voi (đóng tại ấp 5, xã Nhị Thành, H.Thủ Thừa, tỉnh Long An) bị sát hại dã man ngay tại nơi làm việc. Sau đó, bản án sơ thẩm và phúc thẩm tuyên án tử hình đối với Hồ Duy Hải.
Sau khi những bản án được tuyên, mẹ bị án Hồ Duy Hải liên tục kêu oan cho con. Nhưng ngày 24.10.2011, Viện trưởng Viện KSND tối cao ban hành quyết định không kháng nghị vụ án của Hồ Duy Hải.
Năm 2014, TAND tỉnh Long An cho biết sẽ tổ chức thi hành bản án tử hình đối với tử tù Hồ Duy Hải.
Tuy nhiên, trong ngày 4.12.2014, Văn phòng Chủ tịch nước có văn bản thông báo tới các cơ quan chức năng, về việc Văn phòng Chủ tịch nước đã nhận được đơn kêu oan của mẹ bị án Hồ Duy Hải nên đã yêu cầu Chánh án TAND, Viện trưởng Viện KSND và Thủ trưởng Cơ quan thi hành án hình sự tỉnh Long An tạm dừng thi hành án để xem xét cho kỹ trước khi tước đoạt sinh mạng một con người.
.
.-Nguồn:..
https://thanhnien.vn/…/vien-ksnd-toi-cao-khang-nghi-giam-do…

NHÀ KHOA HỌC BỊ TỬ HÌNH

NHÀ KHOA HỌC BỊ TỬ HÌNH

Đó là Antoine Laurent de Lavoisie, một trong những nhà hóa học vĩ đại nhất lịch sử. Ông đã có những đóng góp vô cùng to lớn như tìm ra định luật bảo toàn khối lượng, đề ra lý thuyết về sự ôxi hóa các chất năm 1777, đã đập tan sự thống trị từ nhiều thế kỷ trước đó của thuyết nhiên tố.

Với những đóng góp đó, ông trở nên bất tử trong ngành hóa học, được xem là cha đẻ của ngành hóa học hiện đại. Tuy nhiên cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 đã khiến ông bị xử tử khi mới 51 tuổi. Do là quan chức thu thuế nên ông trở thành kẻ thù của cách mạng.

Ông bị kết án tử hình ngày 8 tháng 5 năm 1794.

Trước khi bị xử tử, ông đã xin phép được hoàn thành nốt một thí nghiệm quan trọng nhưng quan tòa nói rằng: “Nền cộng hòa không cần các nhà khoa học hay hóa học…” và ông bị xử tử ngay chiều hôm đó.

Nhà toán học Joseph Louis Lagrange, một trong những người bạn của ông, đã phát biểu: “Chỉ trong phút chốc người ta chặt cái đầu của Lavoisier nhưng nước Pháp trong một trăm năm nữa cũng không thể tìm đâu được một cái đầu như thế!”.

@@@@

Cứ cho rằng hai vị giáo sĩ truyền đạo (linh mục) Francisco De Pina và Alexandre de Rhodes tạo ra chữ viết tiếng Việt là nhằm mục đích truyền đạo, một phần trong chính sách xâm lược Việt Nam của các thế lực thực dân phương Tây vào thế kỷ 17. Cứ cho là thế đi để khỏi tranh luận mục đích ban đầu tạo ra chữ viết tiếng Việt của hai vị này là gì, có phải vì yêu Việt Nam hay không.

Tôi muốn phát biểu ý kiến là thái độ của chúng ta có nên đồng nhất hai nhà khoa học ngôn ngữ có công cực kỳ to lớn trong việc duy trì, truyền bá và phát triển tiếng Việt với hai nhà truyền đạo thuần tuý? Không có hai ông ấy vẫn còn có hàng trăm nhà truyền đạo khác?

Thực dân Pháp xâm lược và cai trị, bóc tột tài nguyên và sức người chúng ta. Họ xây dựng thành phố, đường xá, cầu cống. Chẳng nhẽ ta phải đập đi hết vì những thứ đó là sản phẩm của Chủ nghĩa Thực dân hay sao?

Họ xây trường học, bệnh viện, trường Mỹ thuật v.v. với mục đích đào tạo cán bộ cho họ trong hệ thống cai trị thuộc địa.

Họ đưa văn hoá, khoa học kỹ thuật và nghệ thuật hiện đại vào Việt Nam lúc đó quá ư lạc hậu.

Song cũng chính từ những trường thuộc địa nói trên đã sản sinh ra những nhà văn hoá, chính trị quân sự lỗi lạc của Việt Nam và cũng chính những sản phẩm của nền giáo dục đô hộ đó đã lãnh đạo nhân dân lật đổ ách đô hộ.

Tôi không tưởng tượng được ngày 2/9/1945 cụ Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập nếu không có chữ quốc ngữ thì cụ viết và người đời sau đọc bằng thứ chữ giun dế gì?

Hai nhà khoa học ngôn ngữ Francisco De Pina và Alexandre de Rhodes có xứng đáng được vinh danh hay đáng xử tử giống như nhà hoá học lỗi lạc người Pháp?

PHAN CHI

Image may contain: 3 people, hat and closeup