Lòng nhân ái, khoan dung ‘chó đẻ’!

Lòng nhân ái, khoan dung ‘chó đẻ’!

HUY PHƯƠNG

Lòng nhân ái, khoan dung ‘chó đẻ’!

HUY PHƯƠNG

Biết nhau qua một thời gian khá dài, trong và ngoài nước, chắc bạn đọc và bằng hữu của chúng tôi công nhận là tôi có thói quen dùng loại văn chương tử tế, chưa bao giờ phải nổi giận, dùng loại văn chương chì chiết, dung tục và thô bạo để diễn tả ý nghĩ của mình.

Nhưng hôm nay, xin tất cả bỏ qua, vì trong trường hợp này, Phật trên tòa sen cũng phải nổi giận, Chúa cũng phải cau mày vì một câu nói hỗn xược, ngang ngược của một viên tướng CSVN tên là Nguyễn Chí Vịnh. Câu nói đó lại được thốt ra trong ngày 30 Tháng Tư năm nay là: “Bảo là không có kẻ thắng người thua là không đúng. Thắng rồi nhưng tôi không có trả thù. Thắng rồi tôi khoan dung. Thắng rồi tôi tạo điều kiện cho anh quay trở lại cuộc sống bình thường. Đó là tấm lòng nhân ái của đảng và nhà nước mình.”

Câu nói này na ná phát biểu của tên tướng “đồ tể” Lê Đức Anh mấy chục năm về trước: “Lòng nhân ái làm nên ngày 30 Tháng Tư, 1975!”

Cả triệu triệu người Việt Nam còn ở trong nước hay đã ra hải ngoại, có mắt thấy tai nghe, đã biết những kinh nghiệm xương máu, thực tế phũ phàng, đã trải qua những ngày dở chết dở sống từ khi quân Bắc Việt tiến chiếm Sài Gòn, như là một đại họa cho dân tộc, như cơn đại hồng thủy nhấn chìm số phận bi thảm của con người, đã cho chúng ta thấy cái đại ác mang mặt nạ “nhân ái, khoan dung,” mà bọn xâm lược Hà Nội dành cho những người thua trận, được Nguyễn Chí Vịnh và Lê Đức Anh ca tụng, chính là thứ nhân ái, khoan dung “chó đẻ,” không hơn không kém.

Nguyễn Chí Vịnh là con trai của Nguyễn Chí Thanh, năm 1975 còn là học sinh trường cấp 3 Lý Thường Kiệt.

Trước hết câu nói của Nguyễn Chí Vịnh là hỗn xược, đã tạt gáo nước lạnh vào mặt những giới chức đi trước, cao cấp, tiền bối của y, là không nhập nhằng gì cả, phải có kẻ thắng người thua.

Trước đó, tướng của Vịnh là Trần Văn Trà đã từng phát biểu: “Đối với chúng ta không có kẻ Thua người Thắng, mà chỉ có dân tộc Việt Nam chúng ta Thắng Mỹ.”

Võ Văn Kiệt cũng đã từng nói: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu…”

Từ đó đến nay, CSVN luôn luôn hô hào hòa hợp, hoà giải, kêu gọi người Việt hải ngoại xóa bỏ hận thù, quên quá khứ, để cùng nhau bắt tay xây đựng đất nước. Bộ Ngoại Giao CSVN đã lập ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài, Hà Nội đã thường xuyên tổ chức Hội Nghị người Việt ở nước ngoài, Sài Gòn tổ chức đoàn văn nghệ phục vụ kiều bào nhân dịp Tết, vinh danh những người bỏ nước ra đi vì chế độ là … “khúc ruột ngàn dặm…,” “máu thịt của tổ quốc,” tất cả đều vì đồng đô la, nghe là lợm giọng! Chúng ca tụng “Những nghĩa cử cao đẹp, trân quý của kiều bào ta thể hiện tinh thần “tương thân tương ái” – vốn là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam!” Gần đây, ủy ban nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, đã động viên và khen ngợi việc ủng hộ, đóng góp cho công tác phòng, chống dịch COVID-19 của đồng bào nước ngoài. Mặt khác, còn tư duy hận thù, đắc thắng, Nguyễn Xuân Phúc lại kêu gọi “chống dịch phải tranh thủ từng giờ, từng phút, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam.”

Trước hết câu nói ngụy biện để bệnh vực cho chế độ của tướng Phát-Xít quân phiệt, Nguyễn Chí Vịnh là “không có trả thù!” Bắn giết, chôn sống, dội nước sôi xuống đầu (*) ngay cả những người đầu hàng, san bằng nghĩa trang của phe thua trận, giam cầm gần một triệu người đối đầu và khác chính kiến vào trại tập trung! Điều này không phải là trả thù và được gọi là khoan dung sao?

Kỳ thị kẻ mới người cũ, phân biệt “gia đình có công với Cách Mạng” với “tàn dư Mỹ Ngụy,” “có nợ máu,” hạn chế con em miền Nam không có cơ hội học hành. Điều này không phải là trả thù và được gọi là khoan dung sao?

Nói đến Cộng Sản Việt Nam là nói đến cái ác. Biểu tượng của lòng nhân ái, khoan dung chính là một cây búa hiện nay đang được trưng bày tại ở bảo tàng quân đội Việt Nam, Hà Nội, được chú thích như sau: “BÚA. Đồng chí Nguyễn Văn Thắng, huyện đội phó huyện Mỏ Cày (Bến Tre) đã dùng để bổ chết 10 tên ác ôn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.”

Một cây búa lừng danh “nhân ái” khác là cây búa “khảo cổ” mà đàn em Lê Duẫn đã dùng để đập đầu Giáo Sư Nghiêm Thẩm, giám đốc Bảo Tàng Viện Sài Gòn, chỉ vì vị giáo sư anh hùng này không chịu hoàn thành đơn đặt hàng của bí thư Lê Duẩn, chứng minh “dân Việt Nam là thủy tổ các dân tộc Đông-Nam Á-Châu!”

Ngay đối với những người dân thường không có “nợ máu,” Bắc Việt với chính sách trả thù nhắm vào nhân dân miền Nam vì “chúng” quá tự do, quá giàu sang, quá sung sướng bằng chính sách tịch thu nhà cửa, cướp cạn tài sản của người giàu, hai lần ăn cướp công khai bằng thủ đoạn đổi tiền, đày ải dân lành đi vùng kinh tế mới. CSVN dùng chính sách hộ khẩu, phân bố lương thực, dân không kiếm ra công ăn việc làm, xô đẩy người miền Nam vào bước đường cùng, phải rời nước ra đi, bỏ thây trên biển cả. Điều này Nguyễn Chí Vịnh chắc không đến nỗi ngu đần mà không nhận ra, nhưng chẳng qua vì tham vọng mà bỏ lương tri, nói cương để được lòng chế độ.

Bây giờ là lúc Nguyễn Chí Vịnh nói huỵch toẹt ra, là không hòa hợp, hòa giải gì cả, là tao thắng là mày thua.

– “Thắng rồi, tôi tạo điều kiện cho anh quay trở lại cuộc sống bình thường.”

Nguyễn Chí Vịnh nếu có đủ trí khôn của thời niên thiếu, hay có đông đủ họ hàng, bạn bè nói lại cho nghe thì cũng biết rằng miền Nam thua trận có hằng trăm ngàn chuyên viên đủ mọi ngành nghề cấp cao, nhiều cán sự lành nghề… nhưng tất cả đều chỉ có một con đường đi cuốc đất, đạp xích lô, bán thuốc lá lẻ, xăng lẻ, vá xe vệ đường hay bôn ba chốn chợ Trời… Nếu không, cũng tìm đường ra đi, để công sở, trường học, nhà máy, công trường… lại cho bọn lợn lòi từ hang động trở về. Chính sách “hồng hơn chuyên” cố chấp, đầu đặc đã là tiêu hao bao nhiêu tài nguyên của đất nước, khi chúng quan niệm “chất xám” trí tuệ không giá trị bằng một nắm phân nơi “vùng kinh tế mới!” Đó là “tạo điều kiện cho anh quay trở lại cuộc sống bình thường” đó ư?

Đúng là “không có kẻ thắng người thua là không đúng,” nhưng bất hạnh cho miền Nam thất trận, không may mắn thất trận vào tay một kẻ hào hiệp để có được một Hiệp Ước Của Người Quân Tử – The Gentlemen’s Agreement- mà mất nước vào tay thảo khấu, lục lâm, mới ra cớ sự “dãi thây trăm họ,” oán hận ngút trời, như sau cuộc chiến tương tàn Việt Nam…

Hôm nay đến ngày 30 Tháng Tư lần thứ 45, người dân miền Nam ai cũng mang một vết thương chưa lành. Bao nhiêu năm qua, chúng ta đã quá hiểu nhau tính cách của nhau. Đây không phải là lúc dùng những luận điệu tuyên truyền trẻ con và xảo trá ấy nữa! 45 năm trôi qua, thời buổi này mà kẻ côn đồ, dao búa còn nói chuyện trịch thượng tha thứ hay cho rằng mình là kẻ khoan dung, nhân ái, thì đây đúng là thứ khoan dung, nhân ái loại “bà Tú Để,” loại “chó đẻ” mà chẳng ai muốn nghe.

Một lần nữa, xin bạn đọc tha thứ nếu chúng tôi đã làm bẩn mắt quý vị, nhưng với loại người ấy, chúng ta không thể dùng một loại từ ngữ nào đúng hơn! Hồn ông Bùi Bảo Trúc có linh thiêng xin về chứng giám!

 
*** 

HÌNH:Các Thương Phế Binh VNCH, những người bị phân biệt đối xử sau 30 Tháng Tư, 1975, đang chờ đợi nhận quà từ thiện tại Chùa Liên Trì, thành phố Sài Gòn ngày 9 Tháng Tư, 2015. Hơn 40 năm sau cuộc chiến Việt Nam, CSVN vẫn cai trị đất nước bằng bàn tay sắt. Nhưng với chủ nghĩa tư bản hoang dã, tham nhũng và bất bình đẳng xã hội, lời tuyên bố “chiến thắng” chỉ là sự trống rỗng. (Hình: HOANG DINH NAM/AFP/Getty Images).

Image may contain: 1 person, sitting and indoor

Bài học nghiêm khắc từ Covid – 19

Bài học nghiêm khắc từ Covid – 19

Một lần nữa bài học về đạo lý tình người và sự lương thiện đang dần giúp con người chiêm nghiệm và tỉnh ngộ ra. Một trận đại dịch lại có thể phơi bày cùng lúc cả hai hình thái đối lập nhau: Cao cả, nhân văn và phi nhân tính của con người một cách rõ ràng.

Trong thế kỷ 21, khi văn minh đạt đến đỉnh cao, nhất là công nghệ hiện đại và tiện nghi vật chất gần như hoàn hảo, nhu cầu hưởng thụ lại quá đầy đủ, ít ai nghĩ đến có một lúc con người phải đối diện với một thảm cảnh nghiệt ngã như hôm nay – Covid 19, trận dịch lớn nhất lịch sử trong thế kỷ qua, chợt khởi như một cơn ác mộng đã khiến cho nhân loại phải kinh hoàng. Trước khi diễn ra đại dịch toàn cầu, chúng ta tự cho mình là cái rốn của vũ trụ. Chúng ta luôn ảo giác trái đất này như tên nô lệ để phục vụ những yêu cầu của mình một cách bất tận. Lúc bình an và sung túc nhiều người trong chúng ta dễ sanh ra sự ỷ lại, tự mãn, luôn sống trong sự hối hả mà chưa từng nhìn lại, kiểm thảo và chiêm nghiệm cuộc sống, bởi họ xem việc đó là triết lý của thầy tu, của những kẻ bi quan hay những người không đủ khả năng tạo ra đồng tiền.

Vì quá say mê trong sự hưởng thụ xa hoa đã làm cho chúng ta quên đi mình là ai trên hành tinh này? Chân thành mà nói, chúng ta không có gì đáng để kiêu ngạo và tự hào khi mình chỉ là một con nợ – nợ xã hội và nợ ngân hàng thiên nhiên rất lớn. Và cái gì vay mượn thì một lúc nào đó chúng ta cũng phải trả, trả sòng phẳng cả vốn lẫn lời. Đây là quy luật công bằng của vũ trụ, một sự thanh lọc có điều kiện không hề thiên vị. Chỉ cần con vi rút Corona nhỏ bé xuất hiện, nó bắt đầu trở thành phép thử khắc nghiệt cho lòng can đảm, đức hy sinh, tình yêu thương, sự chia sẻ, tính lương thiện hay những thói hư tật xấu, ích kỷ, tham lam, của mỗi con người trong xã hội. Một trận dịch xảy ra, nó vừa là một nguy cơ nhưng cũng vừa là cơ hội để nhắc nhở cho con người thức tỉnh lại, biết nhìn lại mình, biết sống hợp đạo lý, tình người, biết tôn trọng người khác, không còn sống hối hả, mù quáng và bất chấp tất cả nữa.

Khi khó khăn bất ngờ xảy đến chúng ta dễ dàng bộc lộ bản năng. Nhiều hình ảnh rất hiếm thấy ở một số quốc gia trong giai đoạn trước khi dịch Covid – 19 lan tràn, như: một vài người Nhật sẵn sàng đấm đá nhau khi giành mua khẩu trang; hay tại Úc người ta có thể đánh nhau trong siêu thị chỉ vì giành giấy vệ sinh; một cụ già ở thành phố Melbourne nhìn chằm chằm vào kệ siêu thị trống trơn rồi bật khóc sau khi hàng hóa đã bị vơ vét hết; một số người Mỹ cực đoan sẵn sàng đe dọa, mắng chửi, kỳ thị  những người bị nghi ngờ nhiễm virut hay những ai nghiêm túc đeo khẩu trang; một số nước châu Âu có những nhóm người lo sợ thái quá, mất kiểm soát nên kỳ thị và đánh đuổi những người trở về quê hương từ tâm dịch…Trước những hình ảnh đó, hào quang của những đất nước được xem là văn minh, lịch sự đáng ngưỡng mộ đã có dấu hiệu bị lu mờ.

Khi trận dịch toàn cầu diễn ra, nó phá vỡ rất nhiều trật tự trong cái mác văn minh  mà con người đã tự dựng lên và tô vẽ rất mỹ miều. Điều đó cho chúng ta thấy rằng, nếu không xuất phát từ cái tâm có tu tập và đạo đức vốn có thì mọi thứ lịch sự, văn minh đó có vẻ hào nhoáng hơn là giá trị thực, nó được duy trì khi cuộc sống an lành. Lịch sự và nồng hậu trong các dịch vụ khách sạn hay những nơi vui chơi giải trí, đều phải được trả bằng tiền, càng lịch sự bao nhiêu thì người được phục vụ phải trả giá càng cao bấy nhiêu. Nếu không có tiền chúng ta có nhận được sự đãi ngộ như thế không? Những thứ mặt trái luôn tiềm ẩn trong tâm con người chỉ vì chưa có dịp để biểu lộ mà thôi.

Thế giới nói chung hay một xã hội nói riêng cần nương tựa nhau để tồn tại. Con người là một thành phần trong một đại thể, theo triết lý Phật giáo gọi đó là Nhân duyên sinh. Bạn không thể tồn tại độc lập, sự có mặt và tồn tại của người này là điều kiện cần và đủ cho sự có mặt và tồn tại của người kia và ngược lại, kể cả muôn loài. Một đất nước vô cảm, thiếu trách nhiệm, cả thế giới chịu ảnh hưởng. Một người vô cảm, thiếu trách nhiệm, đương nhiên sẽ làm hại nhiều người khác. Thế giới này không phải của riêng ai và không phải để phục vụ cho cá nhân nào (Nothing belong to anyone). Vì vậy, bạn đừng cho rằng mọi thứ trên cuộc đời này chỉ để phục vụ cho sự hưởng thụ của bạn, hay những quốc gia có quyền, có tiền mới đáng sống, còn những quốc gia nghèo nàn, lạc hậu trên thế giới này thì không cần thiết để có mặt . Sự độc quyền của đồng tiền một thời đã đến lúc phải nhường chỗ lại cho cuộc sống cộng đồng, tình thương và đạo lý (Money is not everything). Những cường quốc số một thế giới, với đủ các loại vũ khí sẽ làm được gì trước sự tấn công không khoan nhượng của một con vi rút bé tí; những quốc gia lắm tiền nhiều của thì đang dần kiệt quệ và khủng hoảng trước đối thủ dường như không hề cân sức.

Bạn nên biết rằng, mọi chúng sanh trên cuộc đời, dù là cây cỏ, con kiến, con cá… đều có vai trò bình đẳng cho sự tồn tại trong một trật tự của vũ trụ, không một ai  được sự ưu đãi đặc biệt trong quy luật đó. Vạn vật sinh ra trong tự nhiên để nương tựa vào nhau, cùng sanh cùng diệt cộng hưởng nhau, không thừa không thiếu trong một mắc xích dây chuyền. Hủy hoại một mắc xích cũng là hủy hoại chính mình. Con người cũng chỉ là một mắc xích bình đẳng trong chuỗi trật tự đó. Và, chúng ta cũng sẽ bị phản công một cách tan tác như những gì mà mình đã từng gây ra cho vạn vật trong thế giới này. Con người đã ăn tận diệt những loại ăn côn trùng thì con người phải chịu hậu quả côn trùng độc hại sinh sôi nảy nở lan tràn tấn công. Chính con người đã khiến vô số loài đã tuyệt chủng, đang nguy cơ tiệt chủng thì số phận của chủ nhân gây ra cũng có muôn vàn lý do để đối mặt với sự tiệt chủng tương tự. Biến đối khí hậu môi trường đã khiến loài khủng long từng là vua trên trái đất một thời, bây giờ chỉ còn là những hóa thạch thì con người đang là, nếu không có một kế hoạch dừng hay kìm hãm sự hủy hoại môi trường thì việc tiệt chủng sự sống sẽ được lặp lại trên trái đất này là điều khó tránh khỏi. Đừng than trời trách đất mà chỉ cần bình tĩnh nhìn lại mình thì mới thấy chính con người là một thủ phạm đáng sợ nhất hành tinh!

Vì tham vọng làm giàu và phục vụ nhu cầu hưởng thụ của loài người mà các quốc gia trên thế giới cạnh tranh phát triển ngành công nghiệp đáng kinh ngạc. Hệ quả tất yếu của nó là từ không khí cho đến nguồn nước hầu như đều bị ô nhiễm nặng, hiệu ứng nhà kính báo động từng ngày và mọi hiện tượng bất thường của thiên nhiên xảy đến liên tục, dù có sợ hãi nhưng dường như không mấy ai bận tâm. Loài người chưa từng cám ơn thiên nhiên đã tạo đủ yếu tốt tốt đẹp để mình được tồn tại, trái lại chúng ta khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hủy diệt và trả lại thiên nhiên bằng những chất thải độc hại. Chưa ai trong chúng ta cám ơn những chúng sinh đã nằm xuống cho bữa ăn của mình mà trái lại chúng ta tận diệt chim trời cá nước không chừa bất cứ một chủng loài nào, kể cả trứng và con non. Vì không tôn trọng sự sống của muôn loài, giết chóc bừa bãi và vô nhân đạo thì có lúc chúng ta phải trả giá cho sự lạnh lùng và vô tâm đó. Chúng ta đang hủy diệt sự sống của mình từng ngày trên hành tinh này mà cử ảo tưởng rằng mình đang tận hưởng.  

Lời nhận định của một nhà báo mà tôi rất tâm đắc: “Khi thiên tai địch họa xảy ra, con người thường xót xa coi mình là nạn nhân của tự nhiên, số phận. Mấy ai nghĩ được sâu xa, hàng ngày chính họ cũng góp phần để trở thành hung thủ?”. Đây là lời nhận định rất chính xác, nhằm phản ánh cho tự ngã của con người. Chính  cái “tôi” quá lớn, nên nó đã che mờ cả lý trí để chúng ta không còn nhận ra những khuyết điểm của mình, và mọi thứ cản trở cái “tôi” điều trở thành cái khả ố, đáng ghét, đáng phải bị loại trừ.

Thông thường, con người cứ tưởng mình là loài khôn ngoan và rất mạnh, nhưng thật ra chúng ta chỉ là những sinh vật nhỏ bé, rất mong manh và dễ vỡ trên hành tinh này. Thực tế là chúng ta có thể bỏ mạng một cách dễ dàng chỉ vì một con vi rút rất nhỏ đến độ không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Nếu so với vũ trụ, chúng ta chỉ bằng một con vi rút đang ngo ngoe dưới kính hiển vi. Mọi hành vi và tính chất của chúng ta, vũ trụ đều giám sát và phân tích như một nhà bác học y khoa đang phân tích vi trùng trong từng giây một.

Xác thân của người vốn được nâng niu, tâng bốc, tôn trọng trước và sau khi chết như một đạo lý truyền thống ở mỗi quốc gia. Khi trận dịch xảy ra, vi rút Covid có sự lây lan khó lường nên hầu như ai cũng sợ hãi, kể cả người trực tiếp làm nhiệm vụ thì nỗi sợ hãi lại càng lớn hơn vì có nguy cơ lây nhiễm cao hơn. Thông qua báo đài, chúng ta có dịp chứng kiến nhiều hình ảnh thương tâm xảy ra nhiều nơi trên thế giời: Tại Tây Ban Nha, các bệnh viện đều quá tải, nơi phòng cấp cứu, các Bác sĩ phải chọn để bệnh nhân nào chết, vì có quá nhiều người đang hấp hối cùng lúc, và ưu tiên cho người trẻ bởi họ có cơ hội sống sót cao hơn. Một số người già nhiễm bệnh bị bỏ mặc tại nhà đến chết. Một vài quốc gia xử lý thi thể của người nhiễm bệnh qua đời một cách nhanh gọn không còn được tổ chức nghi lễ trang nghiêm, không còn ai đưa tiễn bằng những lời khóc than hay kèn trống nhạc. Họ ra đi trong sự lạnh lùng, sợ hãi trên những chiếc xe tải quân đội chở tử thi đi hỏa thiêu hoặc những hố chôn xác tập thể trước sự bất lực, vô vọng của người thân. Nhiều bệnh nhân nhiễm vi rút Corona cảm nhận được họ sắp ra đi, họ khẩn cầu Bác sĩ cho họ được trò chuyện với con cháu lần cuối, nhìn mặt người thân để trăn trối hay nói lời vĩnh biệt. Tuy đau nhói tim can nhưng Bác sĩ đành bất lực! Họ cô độc đi từ giường bệnh đến lò thiêu. Họ có mang theo được những gì mà họ đã từng lao nhọc kiếm tiềm đi theo bên mình để làm hành trang hay chỉ mang bao nỗi niềm hối tiếc, ân hận, đau khổ và sợ hãi. Lúc đó chúng ta mới thấm thía đạo lý gia đình, sự yêu thương, quan tâm chăm sóc cho nhau nó thiêng liêng và quan trọng thế nào trong kiếp nhơn sinh tạm bợ này!

Một lần nữa  bài học về đạo lý tình người và sự lương thiện đang dần giúp con người chiêm nghiệm và tỉnh ngộ ra. Một trận đại dịch lại có thể phơi bày cùng lúc cả hai hình thái đối lập nhau: Cao cả, nhân văn và phi nhân tính của con người một cách rõ ràng. Chúng ta có thêm nhiều bài học sâu sắc về tình yêu thương nhân loại, sự giúp đỡ nhau trong một cộng đồng, lòng hy sinh trong những hoạn nạn luôn là điểm son quý báu nhất, là thước đo chính xác nhất cho giá trị đạo đức nơi mỗi con người.

Lời Phật dạy luôn là chân lý: Nhận thức được triết lý Vô thường để không chủ quan cho sự vĩnh cửu của mọi thứ trên cuộc đời, nhất là mạng sống; nhận thức được Nhân duyên sinh để không hoang tưởng mình là cái rốn của vũ trụ; nhận thức Nhân quả để không sống liều lĩnh, mù quáng; thực tập từ bi để có tình thương yêu, tôn trọng sự sống của muôn loài và cùng chia sẻ nỗi thống khổ của chúng sanh; và tu tập để đạt đến Giác ngộ là đỉnh cao trí tuệ, vượt trên tất cả mọi thứ tri thức thông thường và vật chất tạm bợ trên thế gian này. 

Mọi việc rồi cũng sẽ qua đi nhưng vết thương của nó để lại không hề nhỏ. Nó sẽ là một dấu ấn khó phai của một kiếp người khi một lần đối mặt và trải qua. Và chính lúc này đây, chúng ta thấy rằng, sự chia rẽ, hận thù hay ích kỷ, độc tài dựa trên tiền bạc và vũ lực là cái yếu, chỉ có đạo đức, lòng nhân ái, tình bao dung và tính lương thiện của con người mới là sức mạnh, mới có đủ yếu tố và năng lượng tích cực để nối kết con người gần lại với nhau, giúp nhau tồn tại, vượt qua mọi thách thức để sống trong hòa bình và hạnh phúc.

Phước Tiến

From:TU PHUNG

30 tháng 4: THỬ NHÌN LẠI

Tuyet Lam
Bài viết rất hay, rất chính xác. Đáng đọc.

30 tháng 4: THỬ NHÌN LẠI
(Trần Gia Phụng)

Thông thường, ngày 30-4-1975 được giải thích là ngày sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa, và là ngày “đại thắng mùa xuân” của cộng sản Bắc Việt. Ngoài hai cách nhìn nầy, còn có một cách nhìn thứ ba mà ít người chú ý đến.

Trong thập niên 60, khi viếng thăm Việt Nam Cộng Hòa, được hỏi làm thế nào để chiến thắng cộng sản, Moshe Dayan, danh tướng độc nhãn Do Thái, đã trả lời như sau: “Bắc Việt sẽ thất trận khi họ chiếm được Sài Gòn.”(1) Lúc đó, giới báo chí và chính trị Sài Gòn đã bàn tán về câu nói của Moshe Dayan(1915-1981), nhưng không ai dại gì giao trứng cho ác (quạ), mà nghĩ đến một giải pháp quá rủi ro là để cho cộng sản chiếm được Sài Gòn. Cuối cùng, khi cộng sản thật sự chiếm được Sài Gòn năm 1975, một bên buồn quá, cũng như một bên vui quá, nên cả hai phía đều quên luôn ý kiến của Moshe Dayan.

1.- AI THẮNG AI?

Trong cuộc chiến tranh vừa qua, người cộng sản thường tự hào rằng chính họ đã “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”. Theo biểu kiến bên ngoài, “Mỹ cút, ngụy nhào” thật đó, nhưng thực sự Mỹ không cút, mà phải nói cho thật đúng ý nghĩa bối cảnh lịch sử là Mỹ ngưng không tiếp tục hiện diện ở Việt Nam vì lý do thay đổi chiến lược toàn cầu của họ, và lực lượng Việt Nam Cộng Hòa không thất trận, chỉ ở thế bắt buộc phải ngưng súng, ngưng chiến đấu. Việt Nam Cộng Hòa dư biết rằng trong thế tranh chấp giữa các cường quốc, với sự thay đổi chiến lược của Hoa Kỳ, nếu lực lượng Việt Nam Cộng Hòa tiếp tục chiến đấu, chỉ làm tổn hại thêm xương máu của binh sĩ và dân chúng, mà không tránh được sự áp đặt từ bên ngoài, trong khi Liên Xô và Trung Cộng tung hết vũ khí cho Bắc Việt và Hoa Kỳ ngưng tiếp liệu quân nhu và vũ khí cho Việt Nam Cộng Hòa.

Sau khi thế chiến thứ nhì (1939-1945) kết thúc, thế giới bước vào chiến tranh lạnh giữa hai khối tự do (tư bản) và cộng sản. Khi đắc cử tổng thống Hoa Kỳ ngày 5-11-1952 thay ông H. Truman, đại tướng D. Eisenhower tuyên bố rằng chiến tranh Ðông Dương không còn là chiến tranh thuộc địa mà là “cuộc chiến giữa Cộng sản và thế giới Tự do.”(2) Từ đó, Hoa Kỳ viện trợ Ðông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng càng ngày càng nhiều để chống lại Việt Minh cộng sản.

Lúc đó, Hoa Kỳ và các nước Tây phương nghĩ rằng các nước trong thế giới cộng sản như Liên Xô, Trung Quốc là một khối chính trị chặt chẻ, nên tìm tất cả các cách để ngăn chận sự bành trướng của cộng sản. Vì vậy, sau hiệp định Genève ngày 20-7-1954, Hoa Kỳ quyết định giúp miền nam Việt Nam để chận đứng làn sóng cộng sản mà cụ thể hơn là sự bành trướng của Trung Quốc.

Những diễn tiến chính trị trong khối cộng sản sau khi Stalin từ trần ngày 5-3-1953, và nhất là khi Khrushchew lên cầm quyền, rồi đưa ra chủ trương sống chung hòa bình giữa các nước không cùng một thể chế chính trị, hòa dịu với các nước Tây phương năm 1956, thì bắt đầu sự rạn nứt giữa Liên Xô và Trung Quốc. Lúc đầu mới chỉ lời qua tiếng lại giữa hai đảng Cộng Sản anh em, sau đó giữa hai nhà nước cộng sản, và cuối cùng thực sự đánh nhau dọc biên giới đông bắc Trung Quốc, trên sông Ussuri (Ô Tô Lý giang) năm 1969.

Dựa trên những dữ kiện thực tế đó, các chính trị gia Hoa Kỳ nhận thấy rằng các nước cộng sản không phải là một khối chặt chẽ, mà họ là những thực thể riêng biệt, với những quyền lợi mâu thuẫn nhau khá trầm trọng. Hoa Kỳ không bỏ lỡ cơ hội kiếm cách khai thác mâu thuẫn giữa các nước cộng sản, đúng ra là giữa Liên Xô và Trung Quốc để làm thế nào ly gián họ, và tránh cho họ xích lại gần nhau như trước. Vì vậy, người Hoa Kỳ bắt đầu xét duyệt lại chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ

Trong khi đó, nếu Hoa Kỳ càng giúp Việt Nam Cộng Hòa chống lại Bắc Việt cộng sản, thì Liên Xô và Trung Quốc ở thế cùng liên kết để giúp Bắc Việt chống lại Hoa Kỳ, tức Hoa Kỳ tạo nên một hoàn cảnh thuận lợi cho Liên Xô và Trung Quốc tạm gác những mâu thuẫn song phương, để cùng nhau cứu giúp một nước cộng sản khác nhắm tạo uy tín và hấp lực với các nước khác, nhất là các nước trong khối không liên kết. Nói cách khác, làm như thế, chẳng khác gì Hoa Kỳ tạo cơ hội cho hai nước Liên Xô và Trung Quốc xích lại với nhau. Trên quan niệm địa lý chính trị học (geopolitics), vào cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70, người Hoa Kỳ còn ngộ ra rằng “Bắc Việt không thể tàn phá Hoa Kỳ trong vòng nửa giờ, hoặc tiêu hủy các thành phố, giết một nửa dân số, nhưng với hỏa tiển nguyên tử, Liên Xô có thể làm được việc đó. Trung Quốc tuy chưa ngang tầm của Liên Xô vì ít vũ khí nguyên tử, nhưng lại đe dọa phần còn lại của Á châu vì ý hệ chính trị cứng rắn và vì dân số đông đảo của họ.”(3)

Chẳng những thế, các chính trị gia Hoa Kỳ lúc đó còn đi xa hơn, cho rằng “hy sinh Việt Nam mới thật là đáng giá. Còn hơn là hao phí thêm nhiều sinh mạng người Mỹ và hàng tỷ mỹ kim để chống đỡ Việt Nam với chẳng có hy vọng thắng lợi, tại sao không thỏa thuận thua cuộc để đổi lấy sự mở cửa của Trung Hoa nhắm làm yếu đi kẻ thù thực sự là Liên Xô.”(4) Chúng ta hãy nghe một nhà ngoại giao kỳ cựu Hoa Kỳ, ông Bill Sullivan, nguyên là đại sứ Hoa Kỳ tại Lào, lúc đó là thứ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương, sau đó phụ tá và sát cánh với Henri Kissinger trong các cuộc thương thuyết tại hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam, trả lời trong một cuộc phỏng vấn rằng: “Như thế, tôi đi đến kết luận, và điều nầy ông nghe có vẻ tráo trở, rằng không thắng cuộc chiến nầy thì chúng ta sẽ khá hơn. Ðặc biệt nữa là người Trung Hoa đã khai thông với chúng ta, và làm cho người Trung Hoa tách rời khỏi Liên Xô và nghiêng về phía chúng ta, đối với chúng ta còn quan trọng hơn nhiều việc chiến thắng ở Việt Nam.”(5)

Ngày 14-4-1971, tại Ðại sảnh đường Nhân dân Bắc Kinh, thủ tướng Trung Quốc là Chu Ân Lai tiếp đãi và nói chuyện thân mật với đoàn bóng bàn Hoa Kỳ sang đấu giao hữu với đoàn bóng bàn Trung Quốc theo lời mời của Tổng cục Bóng bàn nước nầy. Ngày 9-7-1971, cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ là Henri Kissinger có mặt ở Bắc Kinh và được Chu Ân Lai tiếp kiến. Ngày 25-10-1971, Ðại hội đồng thứ 26 của Liên Hiệp Quốc biểu quyết chấp nhận Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được giữ ghế đại biểu Trung Quốc thay cho Trung Hoa Dân Quốc (Ðài Loan) mà không bị Hoa Kỳ phủ quyết, nghĩa là Hoa Kỳ cũng bỏ rơi Ðài Loan, đồng minh lâu năm của Hoa Kỳ, để bắt tay với Trung Quốc. Sau đó, tổng thống Hoa kỳ Richard Nixon viếng thăm Trung Quốc một tuần bắt đầu từ ngày 21-2-1972 mà ông Nixon cho rằng đây là “một tuần lẽ sẽ làm thay đổi thế giới.”(6) Cuộc viếng thăm nầy đưa đến “Thông cáo chung Thượng Hải” ngày 28-2 theo đó hai bên đưa ra những quan điểm hoàn toàn khác nhau, chỉ trừ một điều là cùng nhau tôn trọng sự khác biệt giữa hai bên và hứa sẽ kiếm cách cải thiện bang giao song phương.

Ðúng như ông Nixon loan báo, cuộc viếng thăm đã đưa đến việc thay đổi thế giới, bắt đầu từ việc Hoa Kỳ sắp đặt lại chiến lược toàn cầu và Á Châu, từ đó rút quân dần dần ra khỏi Việt Nam. Mỹ rút quân ra khỏi Việt Nam theo đúng chiến lược của họ, bởi vì người Mỹ tin rằng “thua trận ở Việt Nam lành mạnh hơn cho Hoa Kỳ hơn là thắng trận. Rằng thua trận nằm trong quyền lợi quốc gia. Rằng đó là lợi thế… Ðó là quan niệm cấp tiến triệt để vào thời đó, rằng thua trận và phó mặc các đồng minh Ðông nam Á của chúng ta cho số phận của họ, như thế mới đúng là cách làm của chúng ta.“(7)

Như thế, xét cho cùng, Hoa Kỳ chẳng thua trận, mà Hoa Kỳ chỉ bỏ cuộc ở Việt Nam để thực hiện việc thay đổi chiến lược toàn cầu quan trọng hơn đối với họ trong cuộc tranh chấp với Liên Xô. Trong khi tự cho rằng “ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”,(8) thì chính Bắc Việt đã tiếp tay với người Mỹ để thực hiện kế sách của Hoa Kỳ. Từ đó, Hoa Kỳ đã thành công trong việc làm sụp đổ khối Liên Xô và Ðông Âu. Như thế, có thể nói người Hoa Kỳ đã chịu thua mặt trận (battle) Việt Nam, để đại thắng cuộc chiến tranh (war) toàn cầu, và hiện nay trở thành cường quốc số 1 trên thế giới.(9)

Ði vào thế chiến lược mới của Hoa Kỳ, về phía Việt Nam Cộng Hòa, dầu bị Hoa Kỳ bỏ rơi, ngưng viện trợ, và trước sức mạnh của Bắc Việt được Liên Xô và Trung Cộng giúp đỡ tận “cây kim sợi chỉ”, các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa vẫn tiếp tục chiến đấu anh dũng trong 2 năm sau hiệp định Paris, chứ không để cho đất nước sụp đổ ngay. Các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa không thua bộ đội cộng sản Bắc Việt, mà chỉ buông vũ khí, ngưng chiến đấu vì nhận thấy rằng trong thế chiến lược mới, các cường quốc trên thế giới quyết tâm áp đặt một giải pháp chính trị, mà mình cô thế khó cưỡng chống lại được, tiếp tục chiến đấu chỉ làm tổn hại thêm nhiếu nhân mạng vô tội, nên cuối cùng lực lượng Việt Nam Cộng Hòa chấp nhận ngưng chiến đấu chứ không phải họ thua cuộc.

Trước khi ký hiệp định Paris năm 1973, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã hứa hẹn, mà không ghi thành văn bản, là sẽ viện trợ Việt Nam 4 tỹ Mỹ kim để Việt Nam tái thiết đất nước sau chiến tranh. Tuy nhiên, Bắc Việt cưỡng chiếm Nam Việt bằng võ lực, đi ngược lại với tinh thần hiệp định Paris ký kết giữa các bên lâm chiến, và đã được nhiều nước công nhận. Dựa vào việc Bắc Việt không tôn trọng hiệp định Paris, Hoa Kỳ bác khước lời hứa trước kia. Hơn nữa, khi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa sau hiệp định Paris, Bắc Việt cưỡng chiếm luôn số tài sản khổng lồ ước tính khoảng 6 tỷ Mỹ kim mà Hoa Kỳ đã để lại Việt Nam. Số tài sản nầy còn cao hơn lời hứa hẹn của Hoa Kỳ sẽ viện trợ cho Việt Nam 4 tỷ Mỹ kim trước đây. Vì cả hai lý do nầy, cho đến nay, cộng sản Việt Nam không thể mở miệng nhắc lại chuyện Hoa Kỳ hứa hẹn viện trợ để tái thiết Việt Nam sau 30 chiến tranh mà Hoa Kỳ đã can dự vào. Thua cuộc cờ toàn cầu, Bắc Việt lại thất bại luôn trong cuộc đấu trí để đòi viện trợ của Hoa Kỳ sau chiến tranh.

2.- THỰC TẾ SAU 30-4

Quan sát kỹ sinh hoạt xã hội Việt Nam sau khi cộng sản Bắc Việt chiếm được miền Nam năm 1975, mọi người đều nhận thấy rõ ràng ngay từ đầu, đại đa số những người Bắc, từ cán bộ, bộ đội đến thường dân, khi vào Nam đều học theo cách sống của người Nam, chứ hầu như người Nam không học theo người Bắc, trừ một thiểu số xu phụ theo chế độ mới, kè kè chiếc nón cối để tỏ ra là người “cách mạng”. Người Bắc thích ăn bận theo người Nam, đua đòi thời trang miền Nam, nghe nhạc Nam mà cộng sản gọi là “nhạc vàng”, đọc sách Nam, từ tiểu thuyết trữ tình, tiểu thuyết kiếm hiệp đến văn chương, triết học, và làm tất cả các cách để thành người Nam. Ngay cả những cán bộ cao cấp trong Bộ chính trị đảng Lao Ðộng (năm 1976 cải danh thành đảng Cộng Sản) cũng từ bỏ bộ áo quần đại cán cao cổ để ăn bận Âu phục theo kiểu người Nam. Chẳng những thế, hầu như miền Bắc cũng được Nam hóa bằng sản phẩm của miền Nam. Lúc đó, đại đa số người nào ở miền Bắc vào cũng “tranh thủ” cho được tối thiểu ba thứ “đạp đồng đài”(10) để đem về Bắc sử dụng hoặc trang bị cho gia đình. (Rất ít người như bà Dương Thu Hương chỉ lo đi mua sách miền Nam. Theo lời Dương Thu Hương, khi bà vào Sài Gòn thì bà tìm đến các chợ sách để mua sách cũ và bà ta bị choáng ngợp vì sách vở văn chương triết học ở miền Nam quá phong phú chứ không nghèo nàn và bị kềm kẹp như cộng sản tuyên truyền.)

Trong lịch sử thế giới, ai cũng biết người Mông Cổ nổi tiếng thiện chiến và chiếm được một đế quốc rộng lớn từ thời Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan, trị vì 1206-1227). Cháu nội của Thành Cát Tư Hãn là Hốt Tất Liệt (Qubilai) tức Nguyên Thế Tổ (trị vì 1260-1294) đem quân Mông Cổ vào chiếm Bắc Kinh năm 1264, rồi từ đó chiếm luôn toàn bộ nước Trung Hoa. Khi người Mông Cổ tiếp xúc và tiêm nhiễm nền văn minh và văn hóa Trung Hoa, thì dường như họ không còn làø người Mông Cổ nữa. Có thể nói vó ngựa chiến chinh Mông Cổ oai hùng khắp Âu Á một thời đã hoàn toàn bặt tăm khi họ đặt chân vào đất trung nguyên Trung Hoa.

Cộng sản Bắc Việt, dầu chẳng oai hùng như người Mông Cổ, tiến quân vào miền Nam, chiếm đóng bằng bạo lực, nhưng cuối cùng bị choáng ngợp vì sự phồn thịnh của miền Nam (mà họ gọi là phồn vinh giả tạo) và nền văn hóa đa dạng của miền Nam, một nền văn hóa vừa giữ bản sắc dân tộc, vừa hòa hợp với tinh hoa của văn hóa Tây phương. Từ đó, người cộng sản Bắc Việt không còn là họ nữa, chỉ trừ có vỏ bọc là đảng Cộng Sản để nắm độc quyền lãnh đạo đất nước.

Chẳng những chỉ có Bắc Việt được Nam hóa mà cả khối Quốc tế Cộng sản cũng biến chuyển theo. Ngay sau khi cộng sản chiếm Ðà Nẵng, trước khi Sài Gòn sụp đổ, tại bán đảo Sơn Trà diễn ra một cuộc gặp gỡ vào đầu tháng 4-1975 giữa đại biểu của một số nước cộng sản, để quan sát đài truyền tin phát sóng của quân đội Hoa Kỳ đặt tại núi nầy. Sau khi nghe thuyết trình viên cộng sản Việt Nam trình bày về công suất lớn lao của đài phát sóng Hoa Kỳ đặt tại đây, đại diện Liên Xô làm thinh, đại diện Trung Cộng cười mỉa và chúc mừng Việt Nam, đại diện của Ba Lan rất thích thú. Trởû về lại Ðà Nẵng, đại diện Ba Lan xin Uỷ ban Quân quản, do Hồ Nghinh làm chủ tịch, được dùng điện đài Ðà Nẵng để liên lạc với Tòa Ðại sứ Ba Lan ở Hà Nội. Ðại khái nội dung liên lạc là yêu cầu Tòa Ðại sứ Ba Lan điện về nước xin chính phủ Ba Lan tạm ngưng các chương trình đặt mua máy truyền tin của Liên Xô, đợi phái đoàn quan sát về nước. Lý do chính của thái độ các đại diện các nước cộng sản, kể cả việc đại diện Trung Cộng cười mỉa, là vì trước đó không lâu, vào cuối 1974, đầu 1975, tại Hà Nội, vừa mới khánh thành một trạm thông tin liên lạc do Liên Xô viện trợ cho Hà Nội mà Liên Xô khoe rằng đó là máy tối tân nhất thế giới lúc bấy giờ, với công suất chỉ bằng một phần hai mươi (1/ 20) công suất của trạm truyền tin của quân đội Hoa Kỳ đặt tại Sơn Trà, Ðà Nẵng.(11)

Câu chuyện trên giải thích thắc mắc của nhiều người lý do vì sao khi rút lui khỏi miền Nam Việt Nam ngày 30-4-1975, nhân viên Hoa Kỳ được lệnh để lại toàn bộ kho lẫm, máy móc, dụng cụ, vật liệu, trang thiết bị của tất cả các cơ sở Hoa Kỳ tại Việt Nam mà không phá hủy gì cả, từ đài phát thanh địa phương, đến tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, và cả Trung tâm Nguyên tử lực tại Ðà Lạt. Lúc đó, người ta cho rằng người Hoa Kỳ lo bỏ chạy nên không kịp phá hủy, nhưng ngay lúc đó cũng có dư luận cho biết rằng một nhân viên Hoa Kỳ tại Huế, trước khi rút lui, đã tháo một chốt chính làm tê liệt đài phát thanh Huế đặt tại Phú Bài (Thừa Thiên) khi chạy vào Ðà Nẵng, liền bị tòa lãnh sự Hoa Kỳ tại đây khiển trách.

Cũng có dư luận cho rằng Hoa Kỳ cố tình để lại vật liệu và trang thiết bị cho cộng sản Việt Nam sử dụng, tạo thành nhu cầu mới cho cộng sản, đến khi hư hao hay cạn hết, thì phải tìm mua lại nơi các nước tư bản. (Ví dụ người ta nói rằng ở miền Tây có một kho phân bón khổng lồ. Bắc Việt lấy được, chở ra Bắc sử dụng. Ðến khi phân bón hết, ruộng đã lỡ dùng phân bón, nay không dùng không được, đành phải đi kiếm mua ở các nước tự do khác.)

Sau năm 1975, nhiều phái đoàn của các nước Liên Xô và Ðông Âu đến thăm Việt Nam đều được xem cuộc “triển lãm nguội” của hàng hóa Hoa Kỳ và các nước phương Tây, cũng như tham khảo báo chí, sách vở khoa học kỹ thuật Âu Mỹ tại miền Nam.(12)

Như thế có thể người Hoa Kỳ đã nghĩ đến kế hoạch Moshe Dayan, và không phải chỉ nhắm vào cộng sản Bắc Việt, mà còn nhìn xa hơn, muốn “bày hàng triển lãm” kỹ thuật tối tân với các nước trong khối Quốc tế Cộng sản, mà từ lâu nay bị Liên Xô bưng bít che đậy. Phải chăng cuộc “triển lãm nguội” nầy của Hoa Kỳ đã lôi cuốn được các nước cộng sản, góp phần làm cho tình hình ở đây biến động mau lẹ, đưa đến sự sụp đổ của các nước cộng sản Ðông Âu và Liên Xô vào các năm từ 1989 đến 1991?

3.- CỘNG SẢN BẮT ÐẦU THUA CUỘC

Trong cuộc chiến năm 1975, phải bình tâm mà nhận xét rằng một trong những lý do cộng sản Bắc Việt thành công là bộ máy tuyên truyền của cộng sản hoạt động có kế hoạch và mạnh mẽ hữu hiệu hơn phía Việt Nam Cộng Hòa. Bộ máy tuyên truyền nầy đã làm việc có tính toán liên tục từ năm 1945, khá thành công ở trong nước cũng như trên thế giới. Năm 1956, ở ngoài Bắc xảy ra vụ Nhân Văn – Giai Phẩm. Cuộc đàn áp trí thức và văn nghệ sĩ của nhà cầm quyền Hà Nội diễn ra rõ ràng như thế, mà cộng sản bưng bít và tuyên truyền ngược lại, khiến ở trong Nam, nhiều người không tin là những chuyện đó có thật. “Chế độ miền Nam, tất nhiên là làm rầm rộ lên nhân vụ án nầy để tuyên truyền mặt trái của chế độ miền Bắc. Nhưng sau nầy, khi hỏi chuyện anh em miền Nam thì được biết là họ không tin, họ tưởng là sự việc bị bịa đặt ra, chứ làm gì đảng có thể đối xử với trí thức miền Bắc tàn tệ đến mức như thế.” (13)

So với trình độ văn hóa của toàn dân, học giả Nguyễn Hiến Lê, tác giả của khoảng trên 20 bộ sách nghiên cứu lớn nhỏ, phải được kể là một nhà thông thái. Ông Nguyễn Hiến Lê đã can đảm thú nhận những suy nghĩ và tình cảm của ông trước năm 1975: “Tôi vốn có cảm tình với Việt minh, với cộng sản; ghét thực dân Pháp, Mĩ, nhất là từ 1965 khi Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam; tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mĩ. Tôi phục tinh thần hi sinh, có kỉ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp.”(14) Một người thông thái như ông Nguyễn Hiến Lê mà còn bị lầm lẫn về cộng sản, huống gì là đại đa số dân chúng Việt Nam. Sau năm 1975, chạm mặt với đời sống thực tế dưới chế độ cộng sản, ông Nguyễn Hiến Lê mới thấy rõ mình đã lầm lẫn bấy lâu nay. Ông viết tiếp: “… muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ dăm năm. Ðó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi [Nguyễn Hiến Lê] và có lẽ 90% người miền Nam rút được từ 1975 tới nay [1981]“.(14)

Bên cạnh đó, phải kể thêm một hiện tượng tâm lý khá lạ lùng: trước năm 1975, không kể dân chúng ở ngoài chính quyền, ngay cả nhiều công chức hoặc sĩ quan binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa, tuy làm việc và lãnh lương chính phủ quốc gia, đôi khi cũng chao đảo và không mấy tin tưởng ở chính nghĩa Quốc gia của chế độ mình đang phục vụ. Tuy nhiên, sau khi cộng sản vào chiếm miền Nam, thì tất cả mọi người miền Nam đều tiếc nhớ một thời đã qua, hướng trở về chế độ Việt Nam Cộng Hòa và từ đó ý thức Quốc gia dân tộc trong họ trổi dậy mạnh mẽ hơn cả thời trước nữa.

Như vậy, chính từ sau đỉnh cao chiến thắng quân sự ngày 30-4-1975, thiết lập được chế độ độc tài dựa vào bạo lực công an trị, cộng sản Hà Nội lại bắt đầu thua cuộc, mất hết nhân tâm, mất hết quần chúngï. Chẳng những cộng sản Hà Nội đã thua cuộc ở trong nước, càng ngày cộng sản Hà Nội càng thua cuộc trên thế giới. Các nước trên thế giới trước đây vốn có cảm tình với cộng sản Việt Nam, nay hoảng hốt trước cảnh vượt biên ồ ạt của dân chúng Việt Nam. Ðiều nầy khiến cho cả thế giới sực tỉnh. Không cần ai tuyên truyền, cả thế giới đều thấy rõ nhà cầm quyền Hà Nội đã mất lòng dân đến độ nào, dân chúng mới bất chấp gian nguy, dùng tính mạng đánh cuộc với số phận, để tìm đường sống.

Những tác giả Tây phương trước đây viết bài ủng hộ cộng sản, nay lại quay qua đả kích cộng sản. Tiêu biểu cho những người nầy là sử gia Jean Louis Margolin, giáo sư tại Université de Provence (Pháp), một trong các tác giả viết bài trong sách Le livre noir du communisme [Sách đen về chủ nghĩa cộng sản], đã nói trong một cuộc phỏng vấn vào cuối năm 1999: “Thành thật mà nói, vào những năm 60, tôi đã từng xuống đường biểu tình ủng hộ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, tôi đã từng reo mừng với những cuộc chiến thắng tại Cam-bốt cũng như tại Việt Nam. Tôi từng nghe nói đến những vụ tàn sát Tết Mậu Thân 68, nhưng tôi tin và nghĩ rằng đó chỉ là sự tuyên truyền của Mỹ. Không phải chỉ một mình tôi, mà tôi tin rằng rất nhiều người cùng thời với tôi đã bị sai lầm vì những tuyên truyền sai lạc của cộng sản.”(15)

Có lẽ cũng nên thêm ở đây lời sám hối của nữ tài tử Jane Fonda. Năm 1972, bà Jane Fonda đến Bắc Việt chụp những tấm hình đăng khắp các báo trên thế giới quảng cáo cho cộng sản Bắc Việt. Về Hoa Kỳ, bà tham gia phong trào phản chiến để yêu cầu Hoa Kỳ rút quân. Năm 1988, chính Jane Fonda đã hối hận khi trả lời phỏng vấn của ký giả Barbara Walters: “Tôi sẽ còn hối tiếc đến lúc xuống mồ về những bức hình chụp tôi đứng cạnh mấy khẩu súng bắn máy bay, trông như tôi đang nhắm bắn các máy bay Mỹ… Hành động đó làm hại bao nhiêu chiến sĩ… Ðó là hành động kinh khủng nhất mà tôi có thể phạm. Ðúng là không biết suy nghĩ.”(16)

Dù luôn luôn tự hào là kẻ chiến thắng, nhưng cuối cùng cộng sản lại chạy theo học hỏi tất cả những gì do “Mỹ ngụy” để lại, kể cả việc bắt buộc phải tự từ bỏ chính sách kinh tế chỉ huy, chấp nhận nền kinh tế tự do vốn thịnh hành ở miền Nam và tại các nước tự do trên thế giới, mà họ gọi là kinh tế thị trường. Nay nền kinh tế thị trường không phải chỉ được áp dụng ở miền Nam như trước năm 1975, mà cả trên miền Bắc, nơi cộng sản đã bỏ công sức hơn 20 năm (1954-1975) để xây dựng và củng cố xã hội chủ nghĩa. Cộng sản mà không còn chính sách kinh tế chỉ huy thì chắc chắn không còn là cộng sản nữa. Trong khi đó, nước Mỹ không bị hư hao một tấc đất; lại càng ngày càng mạnh; và cộng sản Việt Nam phải trải thảm đỏ để đón lãnh tụ của Hoa Kỳ vào tháng 11-2000. Trong cuộc đón tiếp nầy, dầu nhà cầm quyền Hà Nội không thông báo, dân chúng đã đứng ngoài trời nhiều giờ trong thời tiết lạnh lẽo của mùa đông để chào mừng người khách quý Hoa Kỳ đầu tiên đến Việt Nam sau 1975. Còn về phía “ngụy”, người dân Việt Nam ngày nay, kể cả những người ở ngoài Bắc đều hãnh diện nếu được gọi là “ngụy”. “Ngụy” không nhào mà “ngụy” đi vào lòng người, người Nam cũng như người Bắc, và đang càng ngày càng hiển hiện khắp nơi trong đời sống hằng ngày, to lớn và mạnh mẽ đến nổi nhà cầm quyền Hà Nội nay lại sợ “diễn biến hòa bình”, còn hơn là thời chiến tranh súng đạn.

4.- NHÌN VỀ TƯƠNG LAI

Lúc mới cưỡng chiếm được miền Nam, cộng sản Hà Nội rất lo sợ phản ứng của dân chúng, nên việc đầu tiên là bắt ngay sĩ quan, công chức, cán bộ của chế độ Cộng Hòa còn lại trong nước đi “học tập cải tạo”, thực chất là tập trung, cô lập, bắt giam dài hạn không tuyên án trên các vùng rừng thiêng nước độc, vì cộng sản lo sợ họ là những người có khả năng tập họp, tổ chức, và lãnh đạo dân chúng chống cộng sản. Số lượng sĩ quan và công chức bị bỏ tù tối thiểu là 1.000.000 người. Những người nầy bị tù tối thiểu là một năm (rất ít), có người hai năm (nhiều), ba năm, có người lên đến 15 năm hoặc 20 năm. Nếu tính trung bình một người bị tù 2 năm, và tối thiểu 1.000.000 người bị tù, thì số thời gian mà người Việt nói chung bị cộng sản giam tù là 2 .000.000 năm.(17)Những người nầy lại ở trong độ tuổi trung niên sung mãn để hoạt động, sản xuất, và có trình độ văn hóa khá cao nếu so chung với trình độ của toàn thể dân chúng Việt Nam.

Việc bắt giam sĩ quan, công chức, cán bộ Việt Nam Cộng Hòa của cộng sản còn có mục đích đe dọa gia đình những người có thân nhân bị tù, vì nếu họ vọng động thì thân nhân của họ khó có cơ hội trở về đoàn tụ gia đình. Dầu chính sách nầy rất thâm độc, nhưng lúc đầu, ngay sau năm 1975, vẫn xảy ra những tổ chức bạo động chống nhà cầm quyền cộng sản, ví dụ vụ các ông Nguyễn Nhuận, Ðặng Ngọc Quờn, nguyên là giáo sư Viện Ðại Học Huế, vụ Ông Nguyễn Văn Bảy, nguyên giáo sư trường Kỹ Thuật Ðà Nẵng, vụ nhà thờ Thánh Vinh Sơn ở Sài Gòn…Dĩ nhiên những cuộc bạo động nầy không thể thành công, nhưng đã nhen nhóm ngọn lửa đấu tranh trong lòng dân chúng. Dần dần, người ta ý thức rằng phương thức bạo động khó thành công, nên quay qua phản ứng bất bạo động nhưng không kém phần cương quyết. Từ đây, bắt đầu sự lên tiếng của những nhà trí thức như Ðoàn Viết Hoạt, Nguyễn Ðan Quế, Nguyễn Ðình Huy, Hoàng Minh Chính, Phan Ðình Diệu, Hà Sĩ Phu, Tiêu Dao Bảo Cự, Mai Thái Lĩnh. Sự lên tiếng nầy liền được đáp ứng ở trong cũng như ngoài nước. Tiếp đó, là những cuộc biểu tình bất bạo động của dân chúng ở Thái Bình, Xuân Lộc (Ðồng Nai), Huế…

Một sự thật lý thú là hiện nay ở trong nước, dân chúng không còn phân chia Quốc gia hay cộng sản, mà tất cả đoàn kết thành một khối tranh đấu đòi hỏi tự do dân chủ, đối kháng với nhà cầm quyền độc tài cộng sản. Khi được nhà cầm quyền Hà Nội gởi đi lưu diễn ở Hoa Kỳ vào đầu tháng 3-2001, nữ ca sĩ Phương Thanh đã tuyên bố: “Nói rằng Phương Thanh hát dở, hay không thích tiếng hát của Phương Thanh thì Phương Thanh xin tạ lỗi, nhưng nói rằng Phương Thanh là Việt Cộng thì tội nghiệp cho Phương Thanh lắm! “(18)

Ngay cả những thành phần trước đây đã từng trung kiên với đảng Cộng Sản, nay cũng đứng về phía dân chúng, đòi hỏi dẹp bỏ đảng Cộng Sản. Tiêu biểu nhất là ý kiến của ông Vũ Ðình Huỳnh, một thời làm bí thư cho Hồ Chí Minh, gần cuối đời đã tỉnh ngộ và đề nghị: “”Muốn cho dân tộc ta không thua kém các dân tộc khác, muốn cho đất nước được thịnh vượng, dân ta không nghèo khổ mãi thì không thể thiếu một điều kiện tiên quyết: ấy là phải gạt bỏ sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản.”(19) Sau đó, ông Nguyễn Văn Trấn (1914-1998), gia nhập đảng Cộng Sản miền Nam ngay từ những ngày đầu mới thành lập, đã từng làm Phó bí thư Xứ uỷ Nam Kỳ năm 30 tuổi (1944), tập kết ra Bắc năm 1954, dân biểu Quốc hội Hà Nội trước năm 1975, cũng viết:” Tội ác của chế độ này [chế độ cộng sản Việt Nam], từ 40 năm nay, thật nói không hết.” (20)

Trong khi đó, ở ngoài nước, nhờ sống rải rác khắp nơi trên thế giới, cộng đồng người Việt hải ngoại tạo nên một địa bàn ngoại cứ rộng rãi bất khả xâm phạm. Từ đó, cộng đồng người Việt hải ngoại là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho những thành phần yêu nước và ly khai với đảng Cộng Sản ở trong nước; đồng thời là một ngoại lực hỗ trở người Việt ở trong nước về mọi mặt, tạo niềm tin để họ tiếp tục cùng với cộng đồng ở hải ngoại tranh đấu, đưa đất nước ra khỏi chế độ cộng sản phi nhân vong bản hiện nay.

Trước tình hình đó, để lấy lòng dân chúng lần nữa, ở trong nước, cộng sản Việt Nam mở phong trào đổi mới từ năm 1985. Nói là đổi mới nhưng vẫn duy trì độc quyền chính trị, lo sợ “diễn biến hòa bình”, định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa, không cho tự do báo chí, bóp nghẹt tự do ngôn luận. Cho đến nay, ở trong nước chưa có một tờ báo tư nhân, chưa có một tổ chức hay đoàn thể chính trị nào đứng ngoài quốc doanh. Cộng sản kiếm cách đổi mới để tự cứu mình chứ không phải để cứu dân tộc Việt Nam.

Ra bên ngoài, nhà cầm quyền cộng sản kiếm cách ve vuốt Việt kiều. Chính sách của cộng sản đối với Việt kiều có một điểm cần chú ý: khi dân chúng không chịu nổi cuộc sống dưới chế độ cộng sản, phải bỏ nước ra đi, thì nhà cầm quyền Hà Nội gọi họ là phản động, phản quốc. Sau một thời gian ổn cư tại nước ngoài, người Việt hải ngoại chắt chiu tiết kiệm, gởi tiền về nuôi thân nhân càng ngày càng nhiều. Vào đầu thập niên 90, cộng sản liền đổi cách xưng hô, gọi những người vượt biên là “núm ruột ngàn dặm” của tổ quốc.

Những người Việt Nam ra đi định cư tản mác khắp thế giới, đông nhất là tại Hoa Kỳ. Dần dần, cộng đồng Việt Nam lớn mạnh và thành công trên đất khách, nay là quê hương thứ hai của mình. Nhờ có điều kiện học hành, nhiều tinh hoa Việt Nam đã đóng góp vào sự phát triển và thịnh vượng chung của quê hương mới. Chế độ cộng sản liền kiếm cách lợi dụng, kêu gọi “núm ruột ở xa” hãy bỏ qua quá khứ, nhìn về tương lai, đóng góp xây dựng đất nước. Chính sách của cộng sản đối với người Việt ở hải ngoại có thể tóm tắt trong các điểm sau đây:

· Bòn rút tiền bạc càng nhiều càng tốt.

· Chỉ sử dụng tay sai để kinh doanh, hoặc tuyên truyền đường lối chính sách nhà nước cộng sản.

· Lợi dụng trí thức thuộc ngành khoa học kỹ thuật, mời về nước để giảng dạy hoặc làm việc trong các ngành hoàn toàn chuyên môn về khoa học kỹ thuật, như bác sĩ, kỹ sư…

· Hoàn toàn không chấp nhận các phê bình hay góp ý thẳng thắn về chính trị để xây dựng quê hướng, những đòi hỏi về nhân quyền, dân quyền, và không chấp nhận những thành phần trí thức về khoa học nhân văn như triết học, tư tưởng, văn chương, sử học, xã hội học, trừ những thành phần tình nguyện làm tay sai tuyên truyền cho cộng sản để đổi lấy một số quyền lợi và hư danh nhất thời.

Dầu rất yêu nước, và rất khắc khoải về tiền đồ dân tộc, đại đa số người Việt ở nước ngoài, nhất là những thành phần tinh hoa trong các ngành thương mãi, khoa học kỹ thuật, văn chương giáo dục, chẳng ai chấp nhận hợp tác với chế độ cộng sản Hà Nội. Hợp tác với nhà cầm quyền Hà Nội chỉ giúp kéo dài một chế độ vong bản, phi nhân, từ đó gián tiếp kéo dài thêm niềm thống khổ triền miền của dân tộc Việt.

Kinh nghiệm Ðông Âu cho thấy khi dân chúng nhìn ra chân tướng phản dân hại nước của chế độ cộng sản, đồng thời ý thức được tự do dân chủ, dân quyền và nhân quyền, tự họ đứng lên lật đổ chế độ cộng sản để cứu nguy dân tộc. Tuy đảng Cộng Sản Việt Nam hiện đang lợi thế nhờ cầm quyền bằng bạo lực công an trị, nhưng thời điểm giải trừ chế độ nầy đang khởi động, và chắc chắn sẽ lớn mạnh, nhất là một khi cộng đồng người Việt ở hải ngoại càng ngày càng đông đảo, và khoa học kỹ thuật càng ngày càng phát triển, nhà cầm quyền cộng sản không thể che đậy độc tài, nói láo một chiều để đánh lừa như trước đây.

Tiến trình dân chủ và dân quyền trên thế giới hiện nay là không thể đảo ngược được; những nhà nước độc tài càng ngày càng bị lên án và cô lập. Bằng chứng là khi Lê Khả Phiêu, tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam viếng thăm nước Pháp từ 21 đến 25-5-2000, chẳng có đài truyền hình nào ở Paris đưa tin. Rải rác vài báo viết ít dòng ngắn ở trang trong và nhân đó chỉ trích chế độ cộng sản Việt Nam, kể cả các báo trước đây ủng hộ cộng sản Việt Nam như tờ Libération [Giải Phóng]. Ðặc biệt báo Nouvel Observateur [Người Quan Sát Mới] số ngày 31-5 chạy bài của nhà báo nổi tiếng Delfeil de Ton, với tựa đề “Một Pinochet này nữa”. Trong bài báo nầy có đoạn viết: “Pinochet vừa thăm nước Pháp; không có ai đòi bắt giữ hắn. Hắn mang tên Lê Khả Phiêu, cái tên rất khó đọc. Khác với Pinochet ở Chili, tội ác thuộc về quá khứ, đã về hưu, Lê Khả Phiêu đang tại chức, đang gây tội ác, tổ chức của ông ta từng gây nhiều vụ ám sát, giết người, nhiều người chết trong biển cả khi trốn chạy chế độ độc ác của ông ta. Ông ta không cho phép một chút quyền tự do tư tưởng và tự do báo chí nào…”(21)

Do tất cả những lẽ trên, câu nói của Moshe Dayan đúng là một lời tiên tri về tương lai cuộc chiến vừa qua: “Bắc Việt sẽ thất trận khi họ chiếm được Sài Gòn.” Chính vì chiếm được Sài Gòn năm 1975, nên ngay sau đó chẳng những cộng sản Việt Nam, mà cả cộng sản thế giới cũng bắt đầu thất trận. Cho nên có thể xem ngày 30-4 chỉ là ngày sụp đổ tạm thời của Việt Nam Cộng Hòa, nhưng lại chính là khởi điểm đánh dấu sự sụp đổ vĩnh viễn của huyền thoại cộng sản Việt Nam trong lòng dân tộc Việt Nam. Sự sụp đổ của huyền thoại cộng sản càng làm cho chính nghĩa Quốc gia dân tộc xuyên suốt từ thời tổ tiên chúng ta lập quốc, bị chao đảo một thời gian vì hỏa mù của lý thuyết Mác xít ngoại lai, nay lại sáng tỏ hơn bao giờ cả. Tinh thần Quốc gia Dân tộc bất di dịch là chân lý ngàn đời của dân chúng Việt không thể nào bị đánh bại. Chắc chắn trước tình hình quốc nội cũng như quốc tế thuận lợi như trên,một ngày không xa, chính thể Quốc gia sẽ phục sinh, nhân dân Việt Nam sẽ được tự do, hạnh phúc và phú cường.

TRẦN GIA PHỤNG (Toronto)

CHÚ THÍCH:

1. Nguyễn Tiến Hưng and Jerrold L. Schester, The Palace File, Harper & Row, Publishers, New York, 1986, tr. 350. Nguyên văn: “North Vietnam will lose the war when it takes over Saigon.” [Sách The Palace File được các ông Cung Thúc Tiến và Nguyễn Cao Ðàm chuyển dịch sang tiếng Việt dưới nhan đề Hồ sơ dinh Ðộc Lập, vơi một số những thay đổi do Nguyễn Tiến Hưng; Chu Xuân Viện nhuận sắc, Nxb. C & K Promotions, Inc., Los Angeles, không đề năm xuất bản. Trong sách nầy, câu nói của Moshe Dayan được trích dẫn ở trang 594.]

2. Nguyễn Ðình Tuyến, Những biến cố lớn trong 30 năm chiến tranh tại Việt Nam 1945-1975, Houston, Texas, 1995, tr. 19.

3. Roger Warner, Shooting at the Moon [Bắn trăng], Steerforth Press, South Royalton, Vermont, 1996, tr. 333-334. Sách nầy được chọn là sách hay nhất về bang giao quốc tế của Câu lạc bộ Overseas Press, Hoa Kỳ.

4. Roger Warner, sđd. tr. 336. Nguyên văn: “that it might be worthwhile to sacrifice South Vietnam. Rather than squander more American lives and billions of dollars trying to prop up South Vietnam, with little chance of succeeding, why not accede to its failure in exchange for an opening to China, in order to weaken the real ennemy, the USSR?“.

5. Roger Warner, sđd. tr. 336. Nguyên văn: “So I came to the conclusion, and this may sound thoroughly cynical to you, that we would be better off not ro win this war. Particularly because the Chinese had made a breakthrough to us, and it was far more important to get the Chinese broken off from the Soviets and leaning to one side in our favor than for us to win in Vietnam.” [Bill Sullivam là một nhà ngoại giao kỳ cựu của Hoa Kỳ, đã từng làm đại sứ Hoa Kỳ tại Ai Lao, thứ trưởng Bộ Ngoại giao đặc trách Ðông Á và Thái Bình Dương, phụ tá và sát cánh cho đến phút chót với Henri Kissinger trong các cuộc thương thuyết tại hội nghị Paris chấm dứt chiến tranh Việt Nam.]

6. John S. Bowman, tổng biên tập, The Vietnam War, Day by Day [Chiến tranh Việt Nam, việc từng ngày], Mallard Press, New York, 1989, tr. 190.

7. Roger Warner, sđd. tr. 333. Nguyên văn: “that losing the Vietnam War would be healthier for the U.S. than winning it. That losing was in the national interest. That it was a plus… It was a radical notion at the time, that by losing the war and by abandoning our Southeast Asian allies to their fate we would be doing the right thing.”

8. Lời của Lê Duẩn, bí thư thứ nhất đảng Lao Ðộng Việt Nam. (Vũ Thư Hiên, Ðêm giữa ban ngày, hồi ký chính trị của một người không làm chính trị, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 422, phần chú thích.)

9. Một ví dụ rõ rệt nhất trong lịch sử Việt Nam, là vào năm 1801, nhà Tây Sơn đem quân vây Quy Nhơn do Võ Tánh và Ngô Tùng Châu của lực lượng Nguyễn Phúc Ánh trấn giữ. Theo kế hoạch của Võ Tánh, Nguyễn Phúc Ánh chịu thua trận nầy, bỏ Quy Nhơn, tung quân ra đánh chiếm Phú Xuân, rồi ra Bắc hà dẹp nhà Tây Sơn, thống nhất đất nước.

10. Ðạp đồng đài: tức xe đạp, đồng hồ, và radio transistor. (Lúc đó có nhiều từ ngữ rất lạ lùng về việc nầy: ví dụ đồng hồ không người lái tức đồng hồ tự động, đồng hồ có đèn tức đồng hồ dạ quang, đồng hồ có cửa sổ tức đồng hồ có khung ngày.)

11. Chuyện nầy do một cán bộ tên Phương, thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Hà Nội, được gởi vào Nam để nghiên cứu kế hoạch văn hóa, kể tại nhà của nhà văn Phan Du tại Ðà Nẵng vào thời điểm trên, người viết có mặt trong buổi nói chuyện nầy.

12. Một câu chuyện mà người viết nghe kể tại Sài Gòn trước năm 1980: Khi thủ tướng Cộng Hòa Dân Chủ Ðức (Ðông Ðức), ông Erich Honecker (1912-1994), qua thăm Việt Nam, ghé Sài Gòn, lúc đó đã có tên là Thành phố Hồ Chí Minh. Honecker đề nghị thuê các trí thức Sài Gòn sang làm việc tại Ðông Ðức, trả bằng ngoại tệ qua nhà cầm quyền cộng sản. Chủ tịch Uỷ Ban Nhân Dân TPHCM lúc đó là Võ Văn Kiệt đồng ý ngay vì nhà nước cộng sản rất cần ngoại tệ. Theo nhu cầu về chuyên viên của chính phủ Ðông Ðức, ông Võ Văn Kiệt lên danh sách các chuyên viên đã tốt nghiệp các trường đại học Ðông Âu, Liên Xô và Trung Cộng, nhưng Honecker lắc đầu từ chối, và tự mình đưa ra một danh sách nêu đích danh tên tuổi những chuyên viên khoa học kỹ thuật miền Nam đã tốt nghiệp tại miền Nam, cũng như ở Âu Mỹø còn ở lại miền Nam.

13. Nguyễn Minh Cần, Công lý đòi hỏi, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tt. 76-77.

14. Nguyễn Hiến Lê, Hồi kí tập III, Nxb. Văn Nghệ, California, 1988, tt. 17-18, 25.

15. Cuộc phỏng vấn do Thanh Thảo thực hiện, nguyệt san Việt Nam Dân Chủ, số 40, California, tháng 1-2000. (tài liệu rút từ Internet, http//www.Imvntd.org/vndc0100/bai06.htm). Những chữ in đậm do người viết bài nầy muốn nhấn mạnh.

16. * Ngô Nhân Dụng, “Jane Fonda hối tiếc”, http://www.nguoi-viet.com/spcl/0622/binhluan.htm * Xin xem thêm về Jane Fonda: http://www.rjgeib.com/thoughts/fonda/fonda.html

17. Số người Việt Nam Cộng Hòa bị tù sau năm 1975 chưa từng được cộng sản tiết lộ. Sau khi thăm dò nhiều người bị tù ở nhiều trại học tập tại các tỉnh khác nhau, người viết chỉ đưa ra con số ước chừng mà thôi. Nhiều người cho biết con số thật sự bị tù nhiều hơn, phải trên 1.000.000 người, vì chẳng những quân nhân, công chức, mà cán bộ xã ấp ở nông thôn, và cả phụ nữ nữa, cũng bị đi tù nhiều năm

18. Việt Mercury, San Jose, California, 9-3-2001, http://www.vietmercury.com/2001/week10/News/Story01.html)

(Nữ ca sĩ Phương Thanh, trả lời phỏng vấn của thông tín viên Ðức Hà)

19. Vũ Thư Hiên, sđd. tr. 303. Lời nói trên là của ông Vũ Ðình Huỳnh nói với con là nhà văn Vũ Thư Hiên năm 1986. Ông Vũ Ðình Huỳnh gia nhập đảng CS năm 1930, từng chứa chấp, nuôi ăn trong nhà tại Hà Nội những cán bộ cộng sản, kể cả ông Hồ Chí Minh. Ông Vũ Ðình Huỳnh còn là bí thư của ông Hồ, Vụ trưởng Vụ lễ tân Bộ ngoại giao cộng sản cho đến khi hưu trí năm 1964.

20. Nguyễn Văn Trấn, Viết cho Mẹ và Quốc Hội, Nxb. Văn Nghệ, California, 1995, tr. 345.

21. Thành Tín, “Pháp du phiêu lưu ký”, Thông Luận.

(Tài liệu của Phóng Viên Chiến Trường sưu tầm)

Image may contain: text

Đã đến lúc giải mật Hội Nghị Thành Đô?

Cũng may Cô Vid kịp thời
Ngăn Tàu Hán hóa giống nòi Việt Nam,
Không cho Đảng Tặc Hồ làm
Tay sai bán nước dâng hàm thú kia.

“Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây….Phía Trung Quốc đồng ý và đồng ý chấp nhận đề nghị nói trên.” (Tờ Thời báo Hoàn Cầu và Tân Hoa Xã).

RFA.ORG

Đã đến lúc giải mật Hội Nghị Thành Đô?

Hội Nghị Thành Đô là cụm từ nhức nhối đối với người quan tâm tới vận mệnh đất nước có liên quan đến yếu tố Trung Quốc. Hồi gần đây sự đòi hỏi minh bạch hội nghị này ngày một xuất hiện nhiều hơn trong giới sĩ phu cũng nh…

MỘT SỐ NHÂN VẬT ĐÃ QUA ĐỜI BÍ ẨN TRONG 12 NĂM

Image may contain: 4 people, people sitting, suit and indoor
Mai Trung Chinh

MỘT SỐ NHÂN VẬT ĐÃ QUA ĐỜI BÍ ẨN TRONG 12 NĂM
Liên quan đến việc giải quyết tử tù HỒ DUY HẢI.
– Thượng tá Phạm văn Tiến, người ký lệnh bắt Hồ Duy Hải 21/3/2008. Đã qua đời.
– Nguyễn Thanh Hải, công an viên điều tra Nhị Thành, LA, đã qua đời.
– Huỳnh văn Minh, công an viên điều tra Nhị Thành, L.A, đã qua đời.
– Võ thành Quyết, đoàn LS LA, thủ trưởng cơ quan điều tra LA. đã qua đời.
– Chủ tịch Trần Đại Quang, người yêu cầu Chánh Án TAND tối cao và VKSND giải quyết dứt điểm vụ Hồ Duy Hải (tháng 7/2018). Đã qua đời.

Anh chàng này kể cũng cao số.
– Trương Tấn Sang ký lệnh hoãn thi hành án tử ngày 4 tháng 2/2014, chỉ sớm hơn ngày thi hành án 1 ngày.
– Có đến 25.000 chữ ký xin ân xá, Tổ chức Ân Xá Quốc Tế, LHQ, Tổ Chức Ân Xá Na-uy với 25.000 người Na-uy ký đơn xin ân xá cho HDH.
– Lần quyết định kháng nghị án lần cuối là ngày 22/11/2019.
Nhưng nếu lần này hủy án, vấn đề ai là thủ phạm đây? 12 năm rồi, từ các nạn nhân đến mấy người liên quan đến việc điều tra đã chết queo hết cả rồi, tang chứng đốt hết và mua mới rồi, chả còn cái gì mà tìm…
Có nhiều người biết đó, mà không nói…

VÀI ĐIỀU KHIẾN VIỆT NAM “KHÁC BIỆT” THẾ GIỚI 

VÀI ĐIỀU KHIẾN VIỆT NAM “KHÁC BIỆT” THẾ GIỚI 

– Trên thế giới, khi bị tước đoạt dân chủ người ta đổ ra kín đường để đấu tranh, ở VN người ta đổ ra kín đường xem bắn pháo hoa.

– Trên thế giới, khi để bùn đỏ nguy hiểm tràn ra người ta bồi thường và truy cứu trách nhiệm, ở VN người ta lên báo bảo rằng đấy là “bùn có màu đỏ”.

-Trên thế giới khi tham nhũng thành quốc nạn người ta thực hiện chiến dịch “bàn tay sạch”, ở VN người ta bảo đừng ném chuột kẻo vỡ bình.

– Trên thế giới, khi ngân sách cạn kiệt, nợ công tăng cao người ta quy trách nhiệm cho chính phủ, ở VN người ta coi đấy là trách nhiệm toàn dân.

– Trên thế giới, người ta coi việc giành lại những gì của đất nước đã bị cướp đoạt là trách nhiệm của mình, ở VN người ta “ưu ái” nhường lại cho đời sau.

– Trên thế giới, khi để tham nhũng tràn lan, kinh tế kiệt quệ người ta từ chức, ở VN người ta bảo Đảng phân công thì tôi làm, tôi không xin xỏ ai.

– Trên thế giới, khi ngoại bang xâm lược bờ cõi, người ta gọi đấy là kẻ thù, ở VN người ta gọi đấy là anh em.

– Trên thế giới, người ta gọi là thắng lợi khi đánh đuổi được ngoại xâm, ở VN người ta chờ nó rút sau khi đã tung hoành chán chê rồi tuyên bố thắng lợi.

– Trên thế giới, khi người ta biểu tình chống ngoại xâm mọi người bảo đấy là yêu nước, ở VN người ta bảo đấy là phản động.

– Trên thế giới, người ta bảo nhân quyền là do tạo hóa ban cho và bất khả xâm phạm, ở VN người ta bảo đấy là do Đảng ban cho và tao thích xâm phạm lúc nào thì xâm phạm.

♦️ Tội ác ghê gớm nhất của người ta ở VN là:

– biến con người Việt thành những con người không còn tử tế, không còn liêm sỉ, càng lúc càng tham lam, tàn bạo, thủ đoạn;

– biến xã hội Việt Nam thành xã hội suy đồi và giả dối đến mức chưa từng có từ trước tới nay trong văn hoá Việt;

– biến nước Việt thành một nơi chất độc huỷ hoại không những đến thứ để ăn, để uống, để hít thở mà còn huỷ hoại đến tận ý chí, tinh thần và đạo làm người; một nơi không còn một chút nội lực, một nơi con người thờ ơ với hiểm hoạ diệt vong ngay trước mắt…”

Nguồn: mạng XH

NGƯỜI MẸ CỦA TỬ TÙ

NGƯỜI MẸ CỦA TỬ TÙ

Fb Nguyen Xuan Dien

Khi xảy ra vụ án, công an khám nhà lấy đi 4 nhẫn vàng của con gái bà. Khi đã có án, phải đi kêu oan, bà phải bán đất và bán nhà để trang trải lộ phí.

Bà còn cùng bố mẹ vợ con các tử tù Nguyễn Văn Chưởng, Lê Văn Mạnh, Đặng Văn Hiến đi kêu oan khắp các quảng trường, nơi công cộng có đông người qua lại để hy vọng được mọi người chú ý và cảm thông sâu sắc.

Mười hai năm đi kêu oan cho con, bà đã đội 2000 bộ đơn, gõ cửa hết thảy các cơ quan từ Toà tối cao, Quốc hội, VP Chủ tịch nước, Chính phủ, Viện KSND tối cao và tư gia các ông bà lớn.

Bà còn kêu đến các Nhà thờ Công giáo và Chùa Phật để hy vọng Các đấng bề trên trong thế giới tâm linh chở che cho con bà và giữ gìn nó đến ngày được minh oan.

Ngày mai 6/5/2020, vụ án oan của con trai bà sẽ được xét xử Giám đốc thẩm tại Trụ sở Toà án Tối cao, số 48 Lý Thường Kiệt, Hà Nội. Xin cầu nguyện Chư Phật Mười Phương và Bách Thần cùng các đấng tối cao phù hộ và khai quang cho phiên toà được sáng láng để đứa con ngoan của bà được trở về trong vòng tay của bà!

Image may contain: 1 person, standing and outdoor
Image may contain: 1 person

Cập nhật phiên tòa giám đốc thẩm vụ án Hồ Duy Hải

Liên Trà

Từ sáng sớm, lực lượng an ninh bảo vệ bên ngoài trụ sở Tòa án Nhân dân Tối cao (48 Lý Thường Kiệt, Hà Nội) và phong tỏa khu vực bên ngoài. Người dân không thể tiếp cận cổng tòa án. (Hình 1)

Theo gia đình của Hồ Duy Hải, luật sư Trần Hồng Phong đã vào bên trong tòa án và phiên tòa dự kiến bắt đầu theo lịch lúc 8:00.

Gia đình của Hồ Duy Hải ở bên ngoài trụ sở Tòa án Nhân dân Tối cao (từ trái sang): bà Nguyễn Thị Rưởi (dì ruột), bà Nguyễn Thị Loan (mẹ), cô Hồ Thị Thu Thuỷ (em gái).(Hình 2)

(Luật Khoa)

Image may contain: tree, house, sky and outdoor
Image may contain: 3 people, people standing

NGƯỜI MẸ ĐI TÌM CON…

NGƯỜI MẸ ĐI TÌM CON…

Sáng nay, Mẹ của Hồ Duy Hải không được vào sân tòa.

Bà cũng không được đứng gần cổng.

Trong sân tòa chưa có tượng đài cố chánh án.
Nhưng ngoài sân tòa đã có tượng sống dân oan.

Mẹ Hải không còn cầm băng rôn biểu ngữ nữa – vì 13 năm đi giữ mạng cho con, bản thân bà đã là một biểu ngữ vĩ đại.

Giám đốc thẩm là một thủ tục xem xét, đánh giá lại bản án đã tuyên – sẽ không có bị cáo. Nên người nhà không được dự là bình thường. Tuy nhiên, nếu tòa có tình người, có thể cho phép gia đình Hải được vào cổng đứng trong sân cho an toàn – vì tòa xưa nay không cấm dân đi qua cổng.

Cách ngăn sông cấm chợ như thế này, chỉ gây chú ý và làm xấu thêm hình ảnh tòa án mà thôi.

Ảnh: Thắng Thế Lê / Báo Sạch (Bà con sử dụng ảnh thoải mái, không cần hỏi ạ)

Image may contain: 1 person, standing, hat and outdoor

BẠN TA              

 BẠN TA                           

Thăm hỏi Bạn, biết rằng người còn đó  

Nỗi mừng vui tràn ngập cõi lòng tôi

Cuộc đời này bao sóng gió, nổi trôi 

Vui được biết, Bạn bình an vui sống

 

Đời trần thế ví như là huyễn mộng

Kiếp nhân sinh là sinh tử, tử sinh
Quý nhau chăng chỉ ở một chữ Tình
Tình cha mẹ, tình vợ chồng, bè bạn

Tình cảm ấy ta không treo giá bán
Khi con tim không đơn vị đo lường
Bàn cân nào, cân được chữ Yêu Thương
Thế mới biết Thương Yêu là vô giá!

Cuộc đời dẫu đảo điên, nhiều dối trá
Nếu chúng ta thực sự mến thương nhau
Thì tiếc chi một lời nói, câu chào
Hãy trao gửi, sưởi ấm tình nhân thế

Có hơn không dù biết rằng chậm trễ
Vì con người ai cũng thích yêu thương
Được thương người và cũng được người thương
Hãy bày tỏ yêu thương dù có chậm

Bạn còn đó! Tôi còn đây! Mừng lắm!
Vì chúng ta còn cơ hội gặp nhau
Để trao nhau lời nói với câu chào
Đầy thân ái, đầy yêu thương, quý mến

Chuyện dĩ vãng, chuyện tương lai sắp đến
Hãy quên đi, xin nhớ hiện tại thôi
Nếu tâm bình trí lạc! Thế đủ rồi!
Người còn đó! Tôi còn đây! Phúc lắm!

 SƯƠNG LAM

From: TU-PHUNG

 CẢM NGHIỆM TUỔI GIÀ

 CẢM NGHIỆM TUỔI GIÀ

Tác giả: Vũ Huy Thiện

Vũ Huy Thiện, Dallas

( Chúng ta nay hầu hết đà già rồi …Vì thề kẻ hèn này, trước hết cám ơn Tiến sĩ Trần An Bài, vì đã được nghe Bài nói chuyện của Ông, và rất tâm đắc, nên bây giờ xin dựa vào cái khung bài của Ông đã đọc tại Hội nghị người Già, và cũng xin mượn luôn cả cái Nhan đề của Ông nữa để ghi thêm đôi điều và một vài cảm nghỉ về tuổi già cho anh em cùng tưởng lãm).

Đêm qua trong một giấc mơ, tôi thấy mình đang thao thao bất tuyệt về một vài cảm nghiệm Tuổi Già. Vì thế, thức dậy phải ghi ngay ra để khỏi quên… Và đây, xin trình làng:

Kính thưa… và toàn thể Qúy Vị,

Trước hết, xin cám ơn Qúy Vị đã cho tôi vinh dự được trình bày đề tài tuổi già trong buổi sinh hoạt hôm nay.

Bản thân nay cũng đã già. Tôi còn nhớ khi còn nhỏ, thấy Ông Nội mình lúc đó sáu mươi mấy tuổi… thấy Ông tôi đạo mạo và oai vệ quá. Tôi thầm nghĩ:

“Giá mà mình cũng sống đến sáu mươi tuổi thì hay lắm nhỉ” và hôm nay nhìn lại, cảm thấy như mới ngày nào mình còn trẻ… thế mà nay đã hơn “tám bó” rồi…

Trình bày về tuổi già” trước một số đông qúy vị hầu hết trên lục tuần, hoặc ở cái tuổi “thất thập cổ lai hy”, hay cao hơn nữa, làm sao tránh khỏi lúng túng. Nhưng tôi vẫn mạnh dạn thưa cùng qúy vị đôi điều về tuổi già.

-Cái cảm nghiệm đầu tiên của tôi về tuổi già là sắc diện và tính tình bắt đầu thay đổi rất nhanh. Làm cho chúng ta sắc diện thì thành “tóc bạc da mồi”, tính tình thì lẩm ca lẩm cẩm. Tuy nhiên, chúng ta cùng nhau điểm qua những yếu tố tích cực và tiêu cực của tuổi già:

  1. Trước hết, chúng ta cùng nhìn đến những cái hay cái đẹp và những điểm tích cực của tuổi già:
  2. Quan niệm chung về tuổi già:

Tự ngàn xưa, trong Kinh Thánh cũng như các cụ nhà ta thường lấy cái mốc 70 làm chuẩn cho tuổi đời: Nhân sinh thất thập cổ lai hy” nghĩa là hiếm ai sống được bảy mươi tuổi.

Kinh Thánh cũng cùng một quan điểm khi nói:

“tuổi thọ trong ngoài bảy chục, Mạnh giỏi chăng là được tám mươi, Mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, Cuộc đời thấm thoát chúng con đã khuất rồi”. (Tv.89, 10)

  1. Tuổi già là một ân huệ.

Kinh Thánh đã ca tụng tuổi già vì tuổi già là hồng ân của Thiên Chúa, là phúc lành của Chúa (x. St 11, 10-32) người già được kính trọng bởi “người đầu bạc thì khôn ngoan” (Kn 4, 7-15).

Sách Châm ngôn viết: “đầu bạc là một triều thiên vinh dự” (Cn 16,31)3.

Thánh vịnh 92 cũng ca tụng:

Già cỗi rồi vẫn sinh hoa kết quả, tràn đầy nhựa sống, cành lá xanh rờn,(TV 92,15) Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II cũng nói: “Được sống đến tuổi già là một ân huệ. Không phải vì tất cả mọi người có thể sống đến tuổi này, nhưng vì trước hết, tuổi già cho chúng ta khả năng đánh giá quá khứ, được hiểu và sống mầu nhiệm Phục sinh một cách sâu xa hơn, và được trở nên kho tàng kinh nghiệm quý báu cho Giáo hội”.

  1. Tuổi già thì Đạo Đức.

Chúng ta hãy đọc một đoạn trong Lá thư mục vụ cho những người công giáo cao niên của Hội đồng Giám mục Hoa kỳ: “Trong khi mọi người đều được mời gọi nên thánh, để “kết hợp thân mật chặt chẽ với Đức Kitô”, thì sự quan tâm đạo đức thường thừa nhận rằng lời mời gọi này quan trọng hơn đối với các vị cao niên. Nhiều người trong quí vị bây giờ đã có nhiều thời giờ và hoàn cảnh thuận tiện để suy nghĩ sâu xa hơn và hành động với cái nhìn có nhiều tính cách luân lý hơn. Với nhiều người già, thánh lễ hằng ngày là trung tâm của đời sống tinh thần và là cơ hội để gặp gỡ và làm bạn với nhiều người cùng lứa tuổi. Nhiều vị cũng biết cầu nguyện dưới hình thức suy gẫm mà lời nói không còn cần thiết nữa, chỉ còn im lặng bình tâm lắng nghe tiếng Chúa. Sự giảm yếu của các giác quan cũng có thể xảy ra trong tuổi già thường được coi là tiêu cực, nhưng đôi khi đó lại hữu ích cho việc suy gẫm. Nhiều vị lại thích tìm hiểu và gia nhập những nhóm học hỏi Kinh Thánh, nhóm chia sẻ đức tin hoặc những nhóm huấn luyện đức tin cho người trưởng thành.”

Quả thật, Con người sinh ra, sống và phải già đi, đó là lẽ thường trong cuộc sống con người, nhưng tuổi già phải có một cái gì để lại, Vì thế George Granville nói: “

Tuổi trẻ là mùa của yêu thương, Tuổi già là mùa của ĐẠO ĐỨC.

Tuổi già có thể trở thành một giai đoạn qúi nhất của cuộc đời. Có người nói: “

Chúa định cho sức mạnh và vẻ đẹp của tuổi trẻ là ở thể chấtNhưng sức mạnh và vẻ đẹp của tuổi già là trong tâm linh.”

Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, dù rằng đã già nua nhưng ngài cũng vẫn là một thần tượng cho cả giới giới trẻ cũng như người già. Vì thế, trong Phẩm giá của Người già, The Dignity of Older people viết:

Đức Giáo hoàng Gioan Phalô II sống tuổi già của ngài với sự tự nhiên thoải mái dễ chịu. Ngài không che giấu gì hết, mà còn biểu lộ ra cho mọi người biết. Với sự hết sức chân thành, ngài nói:“Tôi là một linh mục già yếu”. Ngài sống tuổi già của ngài trong niềm tin. Ngài không hề để ngài bị giới hạn bởi tuổi tác”.

4-Người già thì Khôn ngoan và kính sợ Chúa.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Rước Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân

Sách Huấn ca ví người già như cành lá của cây khôn ngoan:

  1. rễ của khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa Cành lá của khôn ngoan là cuộc đời trường thọ. (Hc.1,20)

5- Người già biết lo liệu, phán đoán và giàu kinh nghiệm.

Về vấn đề này sách Huấn ca viết như sau:

  1. trẻ con không lo dành dụm, về già lấy đâu ra mà có? người khôn ngoan phán đoán, bậc lão thành chỉ bảo, thật đẹp đẽ biết bao! sự khôn ngoan của các vị bô lão, tư tưởng và ý kiến của các bậc danh nhân thật đẹp đẽ chừng nào! giàu kinh nghiệm là triều thiên hàng bô lão lòng kính sợ Đức Chúa là niềm hãnh diện của các ngài. (Hc.25,3-6)

Sách châm ngôn cũng ca ngợi người già:

Mái đầu bạc là triều thiên vinh hiển (Cn 16,31)

Sách Khôn Ngoan viết:

“Tuổi già đáng kính trọng, không phải vì trường thọ, cũng không phải vì cao niên, nhưng vì người đầu bạc thì khôn ngoan.”

Sách Khôn Ngoan còn nói thêm:

“Người tuổi già thì đẹp lòng Chúa, được Chúa yêu dấu. (Sách Khôn ngoan, 4:7)

Vài điểm tiêu cực nổi bật:

  1. Tuổi già hay quên và lẩm cẩm:

Cái cảm nghiệm hiển nhiên về vấn đề này là bắt đầu quên, bắt đầu lẩm cẩm. Kinh nghiệm bản thân, có những lần rõ ràng khi ra khỏi nhà, đã khóa cửa cẩn thận, mà khi đã đi được một đoạn đường, sao tự nhiên mình quên hẳn không nhớ ra là đã khóa chưa; thế là buộc lòng phải quay trở lại… tôi có thể nghĩ khá lâu mới nhớ được tên một người bạn, quên ngay một việc mình định làm, tìm không thấy đồ vật mình vừa đặt xuống, không nhớ mình đã làm việc đó chưa, nhưng một lúc sau thì có thể nhớ lại.

Một ví dụ khác: Vừa ở trong phòng ra ngoài định lấy cái gì đó, thế mà khi đã ra ngoài lại quên bẵng đi, không biết đến đó làm gì. Ðứng một hồi mới nhớ ra được: “À, thì ra định lấy cái…!” Hơn nữa, nhiều khi vừa nói một vấn đề nào đó rồi mà tưởng chưa nói, lại lập lại, khiến cho người nghe phát ngán.

Nhất là khi nói chuyện thì cứ nói vòng vo Tam quốc, rào trước đón sau, nói mãi mà chưa vào đề, khiến cho người ta dễ bực mình.

Ấy thế nhưng, có những vấn đề không đáng nhớ thì lại nhớ dai. Nhất là những chuyện ngày xưa, đúng như người ta thường bảo, người già thì hay sống với quá khứ.

Vâng, “già sinh tật, đất sinh cỏ”. Ở tuổi già, những điều đáng nhớ thì lại quên, mà những điều đáng quên thì lại nhớ. Để tuổi già được bình an thư thái, chúng ta phải nhất quyết quên đi những hận thù quá khứ.

Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận cũng đã nói:

Trí nhớ của Chúa rất tồi, nhiều khi Ngài chẳng nhớ gì cả. Ðọc Phúc Âm, chúng ta thấy nhan nhản những câu chuyện tương tự về “bệnh” quên của Chúa. Trước giờ Chúa bị đóng đinh, có anh trộm lành nói rằng: “Lạy Thầy, khi nào Thầy về nước Thiên Ðàng, xin nhớ đến con cùng!” Nếu chúng ta ở vào địa vị Chúa thì dù có tha cũng phải hạch sách, cảnh cáo anh trộm lành này, chứ đâu có tha cách dễ dàng được: “Anh có biết rằng anh đi ăn trộm, anh làm khổ cho bao nhiêu gia đình, anh phải đền tội đã rồi mới được tha!”. Nhưng Chúa thì không như vậy, Ngài đã trả lời ngay cho anh: “Ta bảo thật, ngày hôm nay, ngươi sẽ được cùng ta ở trên nước Thiên Ðàng.” Chúa quên hết tội lỗi của anh kẻ trộm, cho nên anh ta lại trộm luôn cả nước Thiên Ðàng. Đó là thánh trộm lành tên Dismas..(?).

Vậy chúng ta hãy bắt chước Chúa: Quên đi hết những lỗi lầm, những bực bội đối với anh em chúng ta.

  1. Tuổi già hay tủi thân và cô đơn:

Cảm nghiệm thứ hai của tuổi già là hay tủi thân và sợ cô đơn. Tại sao lại hay tủi thân? Vì nay tuổi già sức yếu, làm không được nữa thì phải nhờ con cháu. Mà nhờ vả chúng nó, thì nó không chịu làm, hoặc nếu có, thì làm một cách miễn cưỡng, lại còn la mắng mình nữa. Như nay không lái xe được nữa, nhờ con cháu chở đi nhà thờ thì có khi chúng chở và cũng có lúc chúng nó nói ở nhà đọc kinh cũng đủ rồi, việc gì cứ phải đến nhà thờ hoài vậy… Thế là tủi thân. Buồn ơi là buồn!

Lại còn cảnh cô đơn nữa. Nay về già, ngồi một chỗ, nói không ra hơi, nói chuyện nọ xọ sang chuyện kia, chẳng con cháu nào muốn nghe nữa. Có gọi chúng nó đến thì rồi lấm la lấm lét, câu trước câu sau, chúng nó cũng lỉnh đi luôn. Ðối với những cụ còn đủ cặp, thì sớm tối còn thủ thỉ với nhau được. Ông xướng bà họa, ông “Kính Mừng” bà “Thánh Ma”, kể ra cũng còn đỡ, nhưng khi goá bụa, thì sự cô đơn buồn tủi càng ghê gớm hơn nữa.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI khích lệ người già vui sống và đồng thời đề cao giá trị người già trong xã hội và Giáo Hội. Ngài nhắn nhủ người già đừng nhìn lại quá khứ để thương tiếc trong sự sầu muộn, để rồi coi giai đoạn sống hiện nay như thời xế chiều. Ngài nhấn mạnh rằng:
Thật là đẹp ở trong tuổi già! Trong mỗi lứa tuổi, ta cần biết khám phá sự hiện diện và phúc lành của Chúa và những phong phú mà lứa tuổi ấy chứa đựng. Đừng bao giờ để cho mình bị khép kín trong sầu muộn! Chúng ta đã lãnh nhận hồng ân sống lâu. Sống, thật là điều tốt đẹp, kể cả với lứa tuổi chúng ta, mặc dù có một số khó khăn và giới hạn. Ước gì trên khuôn mặt chúng ta, luôn có niềm vui vì cảm thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, và không bao giờ buồn sầu”.

Ngài cũng nhắn nhủ người già đừng bao giờ nản chí:

“Anh chị em là một sự phong phú cho xã hội, cả khi gặp đau khổ và bệnh tật. Giai đoạn này trong cuộc sống là một hồng ân để đào sâu quan hệ với Thiên Chúa. Anh chị em đừng quên rằng trong số những nguồn lực quí giá mà anh chị em có, điều thiết yếu là kinh nguyện. Anh chị em hãy trở thành những người chuyển cầu nơi Thiên Chúa, cầu nguyện trong sự tin tưởng và kiên trì. Anh chị em hãy cầu nguyện cho Giáo Hội, cho tôi nữa, cho các nhu cầu của thế giới, cho người nghèo, để thế giới không còn bạo lực nữa”.

  1. Tuổi già bất lực:                                                                                                     chân đó, nhưng chân không đủ sức để di chuyển thân xác từ chỗ này đến chỗ kia. Có tay đó, nhưng tay không còn khả năng cầm giữ một vật gì cho chắc. Có tai đó, mà có khi người ta hét bên tai cũng không nghe thấy gì. Có mắt đó, mà không còn xác định được người hay vật ngay trước mặt mình. Ðó là tình trạng bất lực.

Tuy tới tuổi già, thân xác và tinh thần sẽ lâm vào tình trạng bất lực. Nhưng có một khả năng tâm linh không trở thành bất lực. Ðó là khả năng cầu nguyện và kết hợp với Chúa.

Ðức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong thư gửi cho những người già vào năm 1999, đã tâm sự với các tu sĩ già rằng:

“Hội Thánh tin tưởng nơi phần đóng góp của anh em qua lời cầu nguyện liên lỉ, chờ đợi các lời khuyên già dặn kinh nghiệm cụ thể của anh em, và chứng tá cho Tin Mừng mà anh em sống hằng ngày làm giầu cho Hội Thánh.”

  1. Tuổi già giống trẻ thơ?

Nếu đem so sánh hình ảnh một em bé mới sinh ra với một cụ già thập tử nhất sinh, người ta thấy khác nhau một trời một vực. Em bé như chiếc bông hoa xinh tươi mới nở. Còn cụ già như chiếc hoa đã héo tàn.

Tuy nhiên, trong cái khác biệt già trẻ đó, tôi vẫn thấy có những điểm tương đồng rất ngộ nghĩnh:

– Một bé thơ không thể tự ăn uống được và thức ăn phải là đồ lỏng. Một cụ già ăn uống cũng phải có người đút và cụ cũng không thể ăn thức ăn cứng được nữa.

– Một em bé cần phải mặc tã thì một cụ già cũng cần phải mang cái thứ đó khi không còn khả năng kiềm chế bộ phận bài tiết của mình.

– Một em bé ăn rồi lại nhắm mắt ngủ li bì thì một cụ già nằm trên giường bệnh cũng y hệt như vậy.

– Một em bé thường hay hờn hay dỗi, có khi còn giả vờ đau đớn để được mẹ vỗ về an ủi. Các cụ đến tuổi về già tính nết cũng y hệt như vậy, động một tí là hờn là dỗi, bỏ cơm không chịu ăn, bắt phải năn nỉ muốn đứt hơi mới chịu ăn trở lại. Có những cụ đau yếu được các con thay phiên săn sóc y như thể ra mặt nhõng nhẹo, giận hờn, đòi này đòi kia đủ thứ, hỏi gì cũng chỉ nhắm mắt, không thèm trả lời, ra điều mệt mã lắm.

– Khi Chúa Giêsu nói rằng chỉ những người giống như trẻ thơ mới được vào nước Thiên Ðàng. Nhiều cụ sợ không được lên Thiên Ðàng vì làm sao già lụ khụ mà giống trẻ thơ được. Vậy thì hôm nay, các cụ yên trí, các cụ cũng có nhiều điểm giống trẻ thơ lắm! Nước thiên đàng là của các cụ bé thơ” đấy!

  1. Tuổi già hay bệnh tật

Tuổi già gắn liền với bệnh tật. Phật giáo nói rằng trên đời có 4 cái khổ: Sinh, Bệnh, Lão, Tử.

Đúng là có trẻ thì có già, mà già thì tất nhiên có Bệnh và rồi dẫn tới Tử. Khi phải đối diện với đau khổ, con người cố gắng tìm cách xa lánh nó, hoặc có tôn giáo dạy cách diệt trừ nó. Nhưng hỏi rằng xưa nay đã có ai trên đời diệt được Sinh, Bệnh, Lão, Tử chưa?

Ðạo Công Giáo dạy con người phải thánh hoá khổ đau, biến khổ đau thành tình thương và rồi khổ đau sẽ trở thành niềm hoan lạc. Ðời sống của các thánh đều chứng minh rằng các ngài đã không sợ đau khổ, trái lại, vì lòng yêu Chúa và yêu tha nhân, chính các ngài đã chấp nhận chịu đau khổ cho chính mình.

Nhưng, còn việc Sinh, Tại sao lại nói Sinh là một trong 4 cái khổ?

Chúng ta biết chắc rằng mỗi khi một em bé được sinh ra, cả gia đình mừng rỡ. Vì Sự sống là một ơn huệ cao trọng nhất Chúa ban cho loài người. Trong thư của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, ngày 1-10-1999, gửi riêng cho người già, với tâm hồn thi sĩ, Ngài đã viết rằng:

“Chỉ cần nhìn cảnh vật thay đổi quanh năm, trên núi đồi, trên đồng bằng, trên đồng cỏ, trong thung lũng, trong rừng rậm, trên cỏ cây, thì đủ hiểu. Có sự tao phùng giữa nhịp sống của con người và các chu kỳ của thiên nhiên, mà con người là một thành phần.”

Về những đau khổ do bệnh tật gây ra, ÐGH Gioan Phaolô II cũng đã nói với các bệnh nhân rằng:

“Chính tình yêu Kitô giáo mang lại giá trị và ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta, cả khi tật nguyền bệnh hoạn, lấy mất đi sự toàn vẹn của thân xác. Thưa anh chị em, như Chúa Kitô trên Thập giá, anh chị em thật mạnh mẽ.”

Nói đến đây, tôi nhớ lời Ngôn sứ Isaia: “Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta” Mt. 8,17.

Vậy là các cụ hãy quẳng gánh lo đi các cụ nhé!

  1. Tuổi già và sự Chết

Ngày xưa, có lẽ những người thuộc thế hệ già như chúng ta thường nghe trong kinh bổn có hai chữ: “Tứ chung”. Vâng, đó là bốn cái cuối cùng của con người: Chết, Thiên đàng, hoả ngục, và phán xét, mà mọi người phải trải qua.

Nhưng có một điều chắc chắn ai trong chúng ta cũng đã thấy và chứng kiến cái chết của nhiều người trong đó có những người thân; nó hiển nhiên phải xẩy đến, nhưng không biết khi nàoĐúng thế, Tình trạng này chắc chắn phải xảy đến, chúng ta không thể nhắm mắt làm ngơ được. Vậy, Chúng ta phải chuẩn bị, để một ngày không xa, khi chúng ta phải đối mặt với nó.

Tuy có nhiều người chết trong lúc còn trẻ vì tai nạn, vì bệnh tật. Nhưng tuổi già thì gắn liền với sự chết. Thêm một tuổi đời là tiến gần đến sự chết.

Thưa qúy vị, cái chết có thực sự đáng sợ lắm không?

Xin hãy nghe Thánh Phaolô khi về già Ngài viết:

“Còn tôi sắp phải đổ máu ra để làm lễ tế, đến giờ tôi phải ra đi. Tôi đã chiến đấu trong cuộc chiến cao đẹp, đã chạy hết chặng đường mà giữ vững đức tin. Giờ đây tôi chỉ còn đợi vòng hoa công chính mà Chúa là Ðấng phán xét dành cho tôi. (1Tim.4, 6-8).

Trong bài giảng cho giáo triều Roma vào năm 2000, Ðức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã nói về sự chết như sau:

“Ðó là ‘giờ’ xinh đẹp nhất, ‘giờ’ của sự sống chứ không phải của sự chết. Ðó là lúc gặp gỡ Chúa Giêsu. Chúng ta sẽ trông thấy Ngài. Ngài đứng đó chờ đợi chúng ta và cùng với Ngài chúng ta cũng sẽ gặp Mẹ Maria.

Vì thế, nên khi còn sống đã biết bao nhiêu lần chúng ta cầu khấn Mẹ để xin Mẹ cầu bầu cho chúng ta: ‘Cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi nay và trong giờ lâm tử’.

Mẹ sẽ tiếp đón chúng ta như một Hiền Mẫu yêu thương và dẫn đưa chúng ta là con cái dấu yêu của Mẹ đến với Thiên Chúa Cha.”

Thưa quý vị,

Như vậy thì “Sinh, Bệnh, Lão, Tử” theo quan niệm của đạo Công Giáo không còn phải là những nỗi khổ đau trên đời nữa. Tuy nhiên, có một vài vấn đề chúng ta thường gặp thấy trong khi dự các đám an táng mà tôi nghĩ chúng ta phải cùng nhau xem xét lại hôm nay.

Trong một số tờ Cáo Phó, chúng ta thường đọc rằng:

“Gia đình chúng tôi vô cùng đau đớn báo tin cùng thân bằng quyến thuộc: Cha của chúng tôi là ông Giuse ……. vừa được Chúa gọi về.”

Thưa quý vị, nếu thân nhân chúng ta được Chúa gọi về thì có gì mà phải vô cùng đau đớn?

Vì thế, tôi xin đề nghị chúng ta sửa lại lời cáo phó đó. Chẳng hạn: Trong niềm hy vọng vào mầu nhiệm Phục Sinh, chúng tôi xin loan báo đến thân bằng quyến thuộc: Cha của chúng tôi là Ông Giuse Nguyễn Văn…. vừa được an nghỉ trong Chúa…”

KẾT LUẬN:

Để kết luận, Tôi xin lặp lại một câu chuyện vui do chính Ðức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận đã kể trong một buổi thuyết giảng cho giới già tại Chi Dòng Ðồng Công Missouri, vào Năm Thánh 2000:

Có một cha sở già đến tuổi về hưu. Ngài xin Ðức Giám Mục cho ngài rời nhiệm vụ để về nhà dưỡng lão chuẩn bị dọn mình chết lành. Bổn đạo nghe vậy thì buồn lắm, liền kéo nhau đến năn nỉ cha ở lại:

– Thưa cha xứ, cha về hưu, bỏ lại chúng con mồ côi, mồ cút, không ai trông nom dạy dỗ chúng con. Xin cha thương ở lại với xứ chúng con. Khi nào cha chết chúng con hứa sẽ làm ma thật lớn để chôn cất cha. Cả giáo xứ sẽ đội khăn tang và sẽ đọc kinh cầu nguyện cho cha vĩnh viễn, suốt đời.

Cha xứ cứ một mực xua tay lắc đầu:

– Thôi, cụ ở với chúng bay mấy chục năm nay đủ rồi. Bây giờ cụ phải lo việc phần hồn của cụ. Mai ngày cụ chết chúng bay không chôn thì cũng có người khác chôn, chẳng ai để cụ nằm chết thối tha. Ðám ma lớn hay nhỏ cụ cũng chẳng cần, vì chết rồi cụ đâu còn biết gì nữa. Còn việc chúng bay hứa cầu nguyện cho cụ thì cũng tốt thôi, nhưng việc đó còn tùy nơi cụ. Cụ mà ăn ở đẹp lòng Chúa thì cụ được lên thiên đàng. Lúc đó cụ chẳng cần chúng bay cầu nguyện. Mà nếu chẳng may cụ có phải xuống hỏa ngục thì tụi bay có cầu nguyện đời đời hay vĩnh viễn thì cũng vô ích thôi. Hoặc giả mà cụ có vào lửa luyện tội thì ai sao mình vậy. Người ta ra thì từ từ cụ cũng có ngày được ra vậy.

Đức Thánh Cha Biển Đức nhắn nhủ người già đừng nhìn lại quá khứ để thương tiếc trong sự sầu muộn, để rồi coi giai đoạn sống hiện nay như thời xế chiều.

Ngài nhấn mạnh rằng:

Thật là đẹp ở trong tuổi già! Trong mỗi lứa tuổi, ta cần biết khám phá sự hiện diện và phúc lành của Chúa và những phong phú mà lứa tuổi ấy chứa đựng.

Đừng bao giờ để cho mình bị khép kín trong sầu muộn! Chúng ta đã lãnh nhận hồng ân sống lâu. Sống, thật là điều tốt đẹp, kể cả với lứa tuổi chúng ta, mặc dù có một số khó khăn và giới hạn.

  1. gì trên khuôn mặt chúng ta, luôn có niềm vui vì cảm thấy mình được Thiên Chúa yêu thương, và không bao giờ buồn sầu”.

 Thưa quý vị,

Trước khi dứt lời, còn một thứ mà tôi biết chắc chắn ai cũng có, có dư thừa, nhưng đôi lúc chúng ta không muốn cho đi: Ðó là NỤ CƯỜI.

Chúng ta phải công nhận rằng nhiều khi trong cuộc đời chỉ có một nụ cười xuề xòa, nụ cười tha thứ, nụ cười dễ dãi, mà chúng ta cũng không muốn cho đi…

Ðổi lại, chúng ta toàn cho con cái, cháu chắt hay anh em trong Cộng Ðồng những cái nhăn nhó, quặu cọ, phê bình và chỉ trích…

Tắt một lời, chỉ có NỤ CƯỜI mới có thể hoán cải được những sai trái của con cháu hoặc anh em chúng ta.

Vậy hãy cho đi và phải cho đi hết những nụ cười mà chúng ta còn có thể cho được.

Cuối cùng, Tôi xin mượn lời một triết gia để kết thúc:

“Bạn phải làm sao để khi vừa sinh ra thiên hạ cười trong lúc bạn khóc, nhưng khi bạn chết thì thiên hạ khóc trong lúc bạn cười.”

Xin cám ơn.

(ATN Vũ Huy Thiện).