XÃ HỘI ĐÈN DẦU

Image may contain: outdoor

Tiểu Luận Đào Hiếu

XÃ HỘI ĐÈN DẦU

Tác giả: Đào Hiếu
*

Chúng ta đang sống trong một thời đại mà sự thật bị bao vây tứ phía, bị cải trang bằng nhiều son phấn, nhiều mặt nạ. Cái tốt đẹp bị che chắn, bị vùi lấp… còn cái xấu, cái ác thì được phát biểu, được thể hiện với kèn trống với vòng hoa.
Đây là thời đại mà những chính khách có thể nói dối, có thể lừa gạt mọi người bằng sự hùng biện đầy thuyết phục được hỗ trợ bằng những giọt nước mắt xúc động. Họ thường nói những câu đại loại: “Tôi đang móc ruột ra nói với các đồng chí” mà quên rằng trong ruột chứa đầy những thứ chẳng thơm tho gì.
.

Xưa nay nhiều người vẫn tin tưởng rằng cái tốt sẽ thắng, chính nghĩa – dù có trải qua muôn vàn khó khăn – rốt cuộc cũng sẽ thắng. Nhưng nếu chịu khó quan sát thế giới một chút, chúng ta sẽ thấy ngay rằng cái xấu, cái ác đang thắng, đang tồn tại. Chẳng phải đó là điều đang xảy ra ở Việt Nam, Afghanistan, Bắc Triều Tiên, Cu Ba, châu Phi, Trung Đông… và nhiều nơi khác trên thế giới nữa hay sao?
Đây là sự thật ê chề nhất mà nhân loại phải gánh chịu!
.

Những người đã sống gần hết cuộc đời trên thế gian này, những người có học thức, có suy nghĩ độc lập mà nhiều khi còn rối trí không biết tìm đâu ra chính nghĩa, ra cái tốt, huống chi là lớp trẻ (nhất là thanh niên, học sinh, sinh viên Việt Nam ngày nay) gần như mù tịt: phải, trái, thiện, ác… lẫn lộn. Họ lâm vào cảnh “nhận giặc làm cha”, “xe duyên cùng tướng cướp”…
Họ giống như kẻ đang lạc vào một siêu thị bán toàn đồ giả, đồ nhái, không biết chọn cái nào, họ đành quay lưng, bỏ ra ngoài, tìm những nhu cầu khác.
.

Sự ra đời của những trang web, những blog cá nhân đã góp phần “giải vây” cho chính nghĩa, “tẩy trang” cho sự thật, nhằm cố gắng hé lộ bộ mặt thật của một xã hội, một chế độ chính trị, một sự kiện…
Như thế, sự thiếu vắng của các trang web hay blog này là những mất mát lớn cho cả một thế hệ đang lạc lõng, đang trôi giạt, đang đánh mất tự do và tính cách của mình.
Thế hệ này tìm thấy sự bình yên, sự hài lòng trong cái tôi nhỏ bé với những nhu cầu vụn vặt, dễ dãi, dễ kiếm. Lớp người này ngày càng làm phình lớn cái xã hội tiêu thụ, thụ động, lười biếng và vô cảm. Đó là cái xã hội đang tiêu diệt mọi nhân cách và tiêu diệt chính nó, cái xã hội đang biến dạng – một cách chắc chắn, ung dung và không gì ngăn cản nổi – thành một bầy đàn hạ đẳng.
.

Một xã hội bao gồm nhiều cá nhân, nếu mỗi cá nhân là một ý thức độc lập, có sự sáng tạo tự do, thì xã hội đó sẽ rực rỡ vì mỗi cá nhân có ánh sáng riêng của mình, muôn màu muôn vẻ.
Nếu trong một xã hội mà mỗi cá nhân đều suy nghĩ giống nhau, sáng tạo giống nhau, ca ngợi và đả đảo giống nhau thì mỗi cá nhân đã tự dập tắt ngọn đèn của mình và được phát cho một ngọn đèn dầu. Xã hội đó sẽ là một xã hội đèn dầu, chỉ tồn tại trong thứ ánh sáng lờ mờ, u ám. Chỉ có những đốm mắt của bọn linh cẩu, chó sói và hổ báo là rực lên trong đêm đen.

*

Đảng đã cho ta một mùa xuân đầy ước vọng. Một mùa xuân tươi tràn ánh sáng khắp nơi nơi
Những câu hát ấy đã vang lên trong nhiều thế hệ thiếu niên nhi đồng Việt Nam và sẽ còn vang lên hoài như thế. Nhưng liệu có phải đó là sự thật không? Có phải ở Việt Nam hiện đang có một “mùa Xuân tràn ánh sáng khắp nơi nơi” không? Nếu không thì sao? Chẳng lẽ từ thế hệ này sang thế hệ khác cứ tiếp tục hát như thế?
Trên ti-vi, trong các lớp học, trong các cuộc họp… cũng thế: các thầy cô giáo, các nhân viên nhà nước, các quan chức, nghệ sĩ sân khấu, cán bộ hưu trí, học sinh sinh viên, thậm chi cả những người lao động nghèo, những bác nông phu chân lấm tay bùn… khi được phỏng vấn cũng đều trả lời cùng cái giọng “Đảng đã cho ta một mùa Xuân” như thế.
.

Những em bé mẫu giáo, học sinh tiểu học chắc là không ý thức được mình đang nói gì, hát gì, còn những cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước thì biết mình đang nói dối nhưng hoặc là vì nịnh bợ để mưu lợi cá nhân, hoặc là nói cho qua chuyện, cho xong một cuộc phỏng vấn, một bài phát biểu.
Có một thành phần đặc biệt hơn, đó là những kẻ mới sinh ra là đã biết vâng phục, không hề có ý thức phản biện một cái gì, khi họ là cán bộ, đảng viên, họ biến thành những bõ già của Đảng, những ông từ giữ cái chùa Mác Lê Nin suốt đời mãn kiếp. Họ đang sống mòn, sống cho hết cái kiếp gia nô buồn thảm, đìu hiu!
.

Nhưng đáng xấu hổ nhất là những kẻ ngụy tín, quen thói nói dối, nhập thân vào sự dối trá của mình một cách chân thật và cố thuyết phục người khác hiểu cái “sự thật” ấy.
Hãy tưởng tượng một đàn vịt đang lạch bạch đi trên bờ ruộng. Bỗng nhiên một con kêu: “cạc cạc!” rồi con thứ hai cũng kêu “cạc, cạc”, con thứ ba, thứ tư, con thứ mười… đều kêu “cạc, cạc”. Rồi tất cả đồng loạt kêu “cạc cạc”… Ta sẽ thấy rất buồn cười, nhưng không sao, có khi còn dễ thương nữa vì chúng chỉ là đàn gia cầm.
.

Nhưng thử tưởng tượng có một đám người, đủ mọi thành phần: nông dân, giáo viên, tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ, nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú, học sinh, sinh viên, nhà văn, nhà thơ, diễn viên điện ảnh, hoa hậu, á hậu, người mẫu thời trang, giáo sư đại học, cán bộ công nhân viên, học sinh mẫu giáo… vừa đi vừa kêu “cạc cạc” như thế thì sẽ ra sao?
Đó không phải là một xã hội nữa, đó là một bầy đàn.
.

Rất may là đã có một thành phần dám nói sự thật. Đó là những trang web kiểu như Talawas, Bauxite… những blog cá nhân kiểu như Osin, Mẹ Nấm, Lề Trái…họ đã lần lượt bị bắt nhốt, bị đe dọa, bị đóng cửa. Họ là những tập thể, những cá nhân đã tỏa sáng và đang bị dập tắt.
Xã hội hiện nay chỉ còn hiu hắt những ánh đèn dầu của đám người mờ nhạt, bị thuần hóa, bị gia súc hóa một cách thảm hại.
.

Như thế, rõ ràng là hiện nay chúng ta đang có hai nước Việt Nam: một Nước Việt Khốn Khổ, bị rút ruột, bị đục khoét, bị bán tài nguyên, bán máu, bán phẩm giá, bị xâu xé, cướp bóc tả tơi và nợ như chúa Chổm. Và một Nước Việt Ảo đang được vẽ vời bằng những lời nói dối, nịnh bợ, cơ hội, lừa mị… của đủ mọi thành phần, từ cán bộ lãnh đạo, cho tới…học sinh mẫu giáo.
.

Mỗi ngày có một bộ phận người Việt đang sống và làm việc trong cái Nước Việt Ảo ấy, trong khi một bộ phận người Việt khác lại đang sống và làm việc cùng một Việt Nam khác: khốn khổ, trần trụi, tơi tả.
Hôm nay Talawas không còn, ngày mai có thể Bauxite cũng sẽ mất, nhưng những người tâm huyết với đất nước với dân nghèo thì mãi tồn tại, tiếp nối, bền bỉ và bất tận.

NHÌN HONGKONG ĐI!

Liên Trà
NHÌN HONGKONG ĐI!

(Cafe đắng đầu tuần)

Quốc Ấn Mai

HongKong, đang ở thời khắc có lẽ đen tối nhất lịch sử của mình. Người HongKong đang tranh đấu cho những giá trị sống cơ bản nhất về quyền làm người. Và mọi chuyện chỉ thực sự tồi tệ khi HongKong được trao trả về cho Trung Quốc.

Nếu tìm hiểu sâu về những địa danh như Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông khi rơi vào tay chính quyền Trung Quốc sẽ thấy những hiện thực tàn khốc. Lại tiếp tục tìm hiểu về cách chính quyền Trung Quốc tạo ra “đại nhảy vọt”, cải cách văn hoá”, Thiên An Môn và nhất là ứng xử với người tập Pháp Luân Công, người Duy Ngô Nhĩ sẽ thấy sự khốc hại “thành nếp”.

Hãy nhớ cảnh sát HongKong tuân thủ luật pháp thế nào trước khi họ bị “đồng hoá” bằng sự tàn ác của “mẫu quốc”. Thật thảm thương, trăm năm dân chủ HongKong gần như bị xoá sạch sau chừng hai thập kỷ khi đất Hương Cảng trao về tay chính quyền Trung Quốc.

Hai thập kỷ ấy “lộ ra” hôm nay làm tôi liên tưởng đến hai thập kỷ nhà Minh đô hộ nước Việt. Đó là hai thập kỷ của máu tươi căm hờn và biết bao sinh mệnh ngã xuống để thoả mãn tư tưởng bành trướng Đại Hán.

Thứ tà quyền tàn ác ấy, nay đã vươn xa đến tận Châu Phi, Châu Mỹ chứ không chỉ tại câc quốc gia Châu Á. Không còn là những cuộc xâm lăng xưa cũ mà là nhưng bẫy nợ, những dự án tàn phá môi trường, biến dạng đời sống lẫn lòng người.

Nhìn HongKong đi! Nhìn lại lịch sử đi! Và nhìn Việt Nam hôm nay đi!

Để thấy rằng nếu một ngày nào đó con quái vật từng ăn sinh mệnh nhân dân ta qua những chiếc tàu cá vỡ nát, qua những cột khói độc xả lên trời, những dòng nước thải chảy ngầm ra sông, ra biển,… Trong từng cái chân gà đông lạnh giữ thế kỷ trước tuồn sang, trong viên kẹo hoá chất trẻ con đang ngậm, trong chiếc áo ra màu gây ung thư da,…

Cả những công trình mà con chúng ta, cháu chúng ta phải trả nợ tiếp ông bà, cha mẹ dù chúng chẳng gây một xu nợ công nào…

Đêm qua, ngay cả các bác sĩ muốn cứu người cũng không được thể hiện lòng nhân ở Đại học Bách khoa HongKong. Họ bị bắt! Có một phụ nữ bị thương đã chết…

Có lẽ, nếu không nhìn thẳng vào tà quyền ấy và dành một tâm thế chuẩn bị;
thì một ngày nào đó, chúng ta sẽ van lơn “đừng đánh những đứa trẻ!” “đừng bắn những đứa trẻ!” khi kẻ thù muốn giết con mình?

P/s: Chả sao, gì chứ khi bị dồn đến đường cùng thì người Việt vẫn chưa quên mã gene “mắt trả mắt, răng trả răng” ngàn đời. Đối với lũ cướp nước lẫn lũ bán nước!
.

Image may contain: one or more people
Image may contain: 1 person, outdoor
Image may contain: 1 person, sitting and outdoor

Nước Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta

Nước Thiên Chúa đang ở giữa chúng ta

Tác giả: 

 Huệ Minh

          Người Do Thái luôn mong ước Nước Thiên Chúa đến như lời đã báo trước. Tuy nhiên, Nước Thiên Chúa không đến như những người Do Thái mong đợi. Họ cho rằng khi Đấng Thiên Sai xuất hiện, Ngài sẽ khôi phục vinh quang thời quá khứ của dân tộc họ.

          Hẳn nhiên ta thấy người Do Thái đã và đang chờ đợi Đấng Mêssia. Đấng ấy sẽ giải phóng họ khỏi áp bức, lập nên một vương quốc mới thịnh vượng và có binh lính hùng mạnh. Vương quốc này làm bá chủ và các nước khác phải quy phục dưới chân người Do Thái. Niềm hy vọng đó càng mạnh mẽ khi mà vào lúc này, họ đang bị sống tủi nhục dưới ách nô lệ của người Rôma.

          Trang Tin Mừng hôm nay cho ta thấy, Chúa Giêsu chỉnh hướng suy nghĩ của họ về Nước Thiên Chúa. Ngài tuyên bố Nước Thiên Chúa đã hiện diện qua con người của Ngài, qua những gì Ngài làm và giảng dạy. Nước Thiên Chúa giống như hạt giống đầy sức sống được chôn vùi vào lòng đất hay như nắm men được vùi trong ba đấu bột. Nước Thiên Chúa hoạt động trong lòng con người với một sức mạnh vô hình làm biến đổi tâm hồn và tâm trí. Nước Thiên Chúa chỉ đến với những ai tin và theo Chúa Giêsu.

          Đức Kitô không những ở trong chúng ta mà còn ở giữa chúng ta nơi những người anh chị em sống chung quanh ta. Và hơn nữa, Người còn đồng hóa mình với những người nghèo nàn, bất hạnh.

          Vì vậy, chúng ta không thể chỉ tôn thờ Chúa trong nhà thờ hay khi đọc kinh cầu nguyện mà còn phải phục vụ Người trong cuộc sống, nơi tha nhân, nhất là những người chúng ta có bổn phận và trách nhiệm. Chúng ta khát khao ước ao nước cha hiển trị bởi vì đó là lẽ sống đích thực của chúng ta – sống trong nước tình yêu. Bởi vì bộ mặt thế gian này luôn qua đi, nhưng nước tình yêu của Thiên Chúa sẽ tồn tại mãi, nơi ấy chúng ta có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em với nhau.

          Vì thế nước Thiên Chúa không ở xa, nhưng ở giữa chúng ta, và mỗi người chúng ta có bổn phận trách nhiệm xây dựng nước ấy bằng tình yêu chân thực phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Đồng thời lời kinh lạy Cha mà chúng ta đọc có thể là rất nhiều lần trong một ngày “xin cho nước cha hiển trị” sẽ không là những lời máy móc, vô nghĩa, nhưng là lời khẩn nài tha thiết với ước vọng ơn Cha giúp cho Giáo hội, mọi Kitô hữu cũng như chính bản thân ta biết sống như là một công dân của nước trời làm sáng danh Thiên Chúa tình yêu và làm cho tình yêu ngự trị khắp vũ hoàn.

          Vì vậy, chúng ta không thể chỉ tôn thờ Chúa trong nhà thờ hay khi đọc kinh cầu nguyện mà còn phải phục vụ Người trong cuộc sống, nơi tha nhân, nhất là những người chúng ta có bổn phận và trách nhiệm. Chúng ta khát khao ước ao nước cha hiển trị bởi vì đó là lẽ sống đích thực của chúng ta – sống trong nước tình yêu. Bởi vì bộ mặt thế gian này luôn qua đi, nhưng nước tình yêu của Thiên Chúa sẽ tồn tại mãi, nơi ấy chúng ta có Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh chị em với nhau.

          Vì thế nước Thiên Chúa không ở xa, nhưng ở giữa chúng ta, và mỗi người chúng ta có bổn phận trách nhiệm xây dựng nước ấy bằng tình yêu chân thực phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa đã dành cho chúng ta. Đồng thời lời kinh lạy Cha mà chúng ta đọc có thể là rất nhiều lần trong một ngày “xin cho nước cha hiển trị” sẽ không là những lời máy móc, vô nghĩa, nhưng là lời khẩn nài tha thiết với ước vọng ơn Cha giúp cho Giáo hội, mọi Ki-tô hữu cũng như chính bản thân ta biết sống như là một công dân của nước trời làm sáng danh Thiên Chúa tình yêu và làm cho tình yêu ngự trị khắp vũ hoàn.

          “Người ta sẽ bảo anh em: ‘Người ở kia kìa!’ hay ‘Người ở đây này!’ Anh em đừng đi, đừng chạy theo.” (c. 23) Ngược lại với lời Chúa Giêsu, dường như thói thường chúng ta thường thích xem chuyện lạ, thích xem Chúa, Mẹ hiện ra; nghe ở đâu có chuyện lạ là ùn ùn đến ‘xem’; nhưng lại không muốn tuân giữ những điều Chúa dạy –  con người, đời sống chẳng có gì biến đổi.

          Niềm tin của chúng ta thật mong manh. Chúng ta đang đắm mình và hòa vào một thế giới loại bỏ Thiên Chúa ra ngoài.  Cuộc sống chỉ còn là những ganh đua và cạnh tranh, lao theo những nhu cầu vật chất không bao giờ đủ. Vì vậy, lời Chúa hôm nay như một tiếng chuông cảnh tỉnh, mời gọi mỗi người Kitô hữu nhìn lại tâm linh, duyệt xét đời sống của mình xem chúng ta có còn tin Chúa thực sự để biết rằng chúng ta là con Thiên Chúa và chúng ta phải sống như là con cái Chúa, như là công dân của nước trời.

          Nước Thiên Chúa mà Chúa Giêsu rao giảng ở đây không phải như là vương quốc trần thế như người Do Thái nghĩ. Đấng Mêssia không phải để giải phóng chế độ trần thế, mà đến để giải phóng mọi người khỏi sự nô lệ tội lỗi, khỏi quyền lực của sự chết. Sau này, Chúa Giêsu cũng đã khẳng định điều đó khi Người nói với Tổng trấn Philatô (Ga 18, 36). Và Người cũng nói Nước Thiên Chúa đã đến (Lc 17,21). Triều đại ấy sẽ đến với những ai tin và theo Người. Chính vì thế, những ai muốn được ở trong Vương Quốc ấy thì cần sống vâng phục và yêu thương như Người, đó là mến Chúa và yêu người. Như thế, nơi nào có người cố gắng sống như vậy thì Triều đại Thiên Chúa đang ở giữa họ.

          Nước Thiên Chúa đã thật sự đến với ta là những người mang danh Kitô hữu, nhưng vẫn còn có rất nhiều người chưa được biết nước Thiên Chúa. Khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng ta là ngôn sứ của Chúa, và chúng ta cũng có nhiệm vụ loan báo Nước Thiên Chúa cho người khác. Lời loan báo tuyệt hảo nhất đó là chính đời sống chứng nhân của ta. Từng ánh mắt, từng nụ cười, lời nói, hành động trong tình yêu thương của ta là những phương thế hiệu quả để ta minh chứng rằng Thiên Chúa đang hiện diện và Nước Thiên Chúa đã đến.

Hong Kong chưa bao giờ cô đơn

Hong Kong chưa bao giờ cô đơn
Mặc Lâm

Hình ảnh những sinh viên tuổi đời rất trẻ thay nhau bảo vệ tuyến đầu chống lại cảnh sát bằng những sáng tạo trong hoàn cảnh tuyệt vọng mới thấy quyết tâm của họ. Những cô nữ sinh viên với thân thể mảnh dẻ chạy lúp xúp giúp cho các nam sinh viên khuân các chướng ngại vật mới thấy sự hy sinh không gì so sánh nỗi của lớp trẻ Hong kong. Có lẽ những hình ảnh này cùng những bức thư được xem như di chúc của nhiều bạn trẻ đã khiến thế giới cảm phục. Cũng là biểu tình nhưng sinh viên Hongkong cho thế giới thấy tầm cao của họ trong cách tổ chức, lòng quyết tâm, tính kỷ luật, tinh thần đồng đội … đã khiến bộ máy đàn áp vĩ đại nhất thế giới cũng phải âu lo tìm mọi cách đối phó.

Sau đêm định mệnh 17 tháng 11 Hong kong có thể sẽ lịm tắt dần những tiếng đả đảo quen thuộc của người biểu tình nhưng người dân Hong kong tin rằng con em của họ sẽ không bao giờ bỏ cuộc. Hai chữ đầu hàng hình như không có trong tự điển của người trẻ Hong kong hôm nay.

Từ những cuộc biểu tình to lớn bất bạo động tập trung cả triệu người, người dân Hong kong đã thay đổi chiến thuật theo hoàn cảnh bị đàn áp, khủng bố. Trong sáu tháng với hàng trăm cuộc biểu tình quy mô lớn nhỏ người dân Hong kong đã học được bài học về sự lừa đảo của cảnh sát cũng như các mánh khóe nhơ nhớp được nhập khẩu từ đại lục. Thái độ căm hận Bắc Kinh của người dân Hong kong là kết quả của các mưu đồ xuất phát từ đại lục. Trước sự đàn áp điên cuồng của Bắc Kinh, người biểu tình trút phẫn nộ lên người đại lục thân cộng, trút giận lên tất cả những gì mang hơi hướng đại lục dù đó chỉ là một vật vô tri có dính líu đến đại lục.

Giả mạo làm những công dân bảo vệ cảnh sát, những người dân chống biểu tình, những kẻ hành hung người biểu tình đã nhận lại được phản đòn của những người trẻ tuổi. Họ không còn mập mờ trước ranh giới nên hay không nên bạo động. Phản xạ tự nhiên của con người đã khiến họ rơi vào tình thế bạo động một cách có điều kiện, đây là điều Bắc Kinh mong muốn nhưng người biểu tình cũng không lấy đó làm điều ân hận vì họ biết rất rõ chỉ có sức mạnh của bạo lực mới có thể đương đầu với lực lượng hắc cảnh bởi lực lượng này ngày càng tỏ ra mất tính người, mất tinh thần thượng tôn pháp luật và nhất là mất hẳn chức năng chính thức của họ là an dân chứ không phải giết dân.

Một doanh nhân Hong kong khi trả lời Reuters cho biết: “Nếu chúng tôi ôn hòa thì họ không thèm lắng nghe. Nếu chúng tôi mạnh bạo thì họ lại nói là như thế chả giải quyết được vấn đề gì.”

Đó là sự thực đã xảy ra trên mọi cuộc biểu tình khắp thế giới. Khắp thế giới cổ vũ cho bất bạo động nhưng khắp thế giới không nước nào đủ khả năng cản trở hành vi mất kiểm soát của lực lượng chống biểu tình khi lực lượng này lấy phương án bạo động làm chủ đạo.

Hắc cảnh Hong Kong bạo động và được cung cấp mọi phương tiện để thực hiện nó một cách hoàn hảo. Khi nào cảnh sát còn tỏ ra phấn khích khi sử dụng súng bắn đạn cao su, lựu đạn cay, thiết bị phóng âm thanh tầm xa (Long Range Acoustic Device -LRAD) hay những nắm đấm vào người biểu tình thì lúc đó đừng lên án người biều tình sử dụng bom xăng, gạch đá cũng như những thứ vũ khí tự tạo thô sơ khác.

Lần đầu tiên trong sáu tháng qua, hơn một triệu người dân Đài Loan cùng thức với người Hong kong, trong khi đó tại Việt Nam, hầu như mọi tài khoản facebook gắn liền với diễn biến tại mảnh đất này.

Người Đài Loan nhận biết được tương lai của chính họ qua bài học Hong kong. Người Việt Nam xem câu chuyện Hong kong là phép thử cho mọi suy nghĩ về một viễn ảnh tương tự cho chính mính. Hong kong là ánh sáng cuối đường hầm tuy leo lét nhưng khả năng hy vọng của nó không bao giờ là nhỏ.

Nhiều người tỏ ra nóng lòng vì thế giới không hết lòng ủng hộ Hong kong theo cung cách thông thường nhưng nếu chịu bình tâm một chút sẽ thấy rằng Hong kong chưa bao giờ bị bỏ rơi trong lòng người dân tại các nước dân chủ. Khi người dân của đất nước ấy muốn thì chính phủ của họ sẽ không thể im lặng vì động cơ nào đó. Tuy nhiên từ ủng hộ tới hành động của một quốc gia cần những diển tiến cũng như thủ tục cần thiết để sự ủng hộ ấy trở thành sức mạnh.

Trường hợp Hoa Kỳ là một ví dụ.

Lên án bằng lời nói, cổ vũ người dân biểu tình tại xứ sở của mình để ủng hộ người dân một nước khác có lẽ đã không còn tác dụng. Trừng phạt và bao vây kinh tế là biện pháp hữu hiệu nhất để đối phó với một chính thể độc tài đảng trị là cách vô cùng tinh vi trong hoàn cảnh Hong kong hiện nay.

Đạo luật Nhân quyền và Dân chủ Hong kong được lưỡng viện quốc hội Hoa Kỳ thông qua chỉ chờ chữ ký ban hành của Tổng thống Donald Trump đang là một thách thức đối với sự đàn áp người biểu tình tại Hong kong. Đạo luật này làm cho bất cứ hành vi bạo lực nào đi vượt khuôn khổ của luật pháp sẽ bị chế tài gắt gao bởi chính phủ Mỹ. Chẳng hạn Hong kong sẽ không được mua của Mỹ các loại khí tài, các loại vũ khí kiểm soát đám đông không gây chết người, như hơi cay và đạn cao su.

Đạo luật quy định bất cứ ai “chịu trách nhiệm trong việc bắt cóc và tra tấn người dân, những người đang thực thi các quyền con người cơ bản, được quốc tế công nhận” sẽ bị cấm đến Hoa Kỳ, cũng như bị áp dụng các biện pháp trừng phạt.

Nhưng có lẽ Bắc Kinh sợ nhất là đạo luật cho phép tình trạng giao dịch đặc biệt của Hong kong sẽ bị cắt bỏ và thành phố này sẽ bị ảnh hưởng bởi các lệnh trừng phạt hoặc thuế quan mà Mỹ áp lên đại lục. Trước đây Hong kong được ưu đãi và không bị ảnh hưởng tới cuộc chiến tranh thương mại do Mỹ phát động. Hơn nữa khi đạo luật này bắt đầu áp dụng cửa ngỏ đầu tư của quốc tế từ Hongkong vào đại lục sẽ bị khóa kín, Hongkong sẽ trở thành ốc đảo thay vì là một đặc khu kinh tế tài chánh như từ trước tới nay.

Hong kong có bị đàn áp thế nào thì người dân của họ cũng sẽ không mất niềm hy vọng. Nước Mỹ ở xa nhưng biện pháp bảo vệ họ rất gần và cụ thể, vì vậy dù thế nào thì chúng ta, những người Việt canh cánh vì máu của sinh viên Hong kong cũng không nên mất lòng tin vào sự chính đáng mà từng viên đá dưới lòng đường Hongkong cũng tỏ ra sẵn sàng cho họ.

About this website

XIN NGÀI HÃY NẮM LẤY TAY TÔI

XIN NGÀI HÃY NẮM LẤY TAY TÔI

Trong suốt thời gian xảy ra nội chiến, Tổng thống Abraham Lincoln vẫn thường đến các bệnh viện để thăm hỏi và trò chuyện với những thương binh đang điều trị ở đó. Một lần, các bác sĩ dẫn Lincoln đến bên giường một người lính trẻ đang gần kề cái chết.

“Tôi có thể làm cho anh được điều gì ngay bây giờ không?” Tổng thống hỏi.

Người lính trẻ rõ ràng không nhận ra Lincoln. Anh cố thều thào: “Xin ông hãy giúp tôi viết một lá thư cho mẹ!”
Bút và giấy được mang tới, và vị Tổng thống bắt đầu nắn nót viết từng chữ mà người lính trẻ có thể đọc được bằng hơi sức yếu ớt còn lại của mình:

“Mẹ yêu quý! Con bị thương rất nặng trong khi đang thi hành nhiệm vụ. Con e rằng con không thể qua khỏi được. Nhưng mẹ ơi, mẹ đừng quá đau buồn vì con nhé. Xin hãy hôn em Mary và John giúp con. Xin ơn trên phù hộ cho bố mẹ.”

Người lính đã quá yếu sức và không thể tiếp tục được nữa, nên vị Tổng thống ký tên giùm anh vào cuối bức thư và thêm vào dòng chữ: “Viết thay cho con trai bà – Abraham Lincoln.”

Người lính nhìn vào bức thư, và dường như hồi sức lại khi đọc thấy tên người đã giúp anh thực hiện nguyện vọng cuối cùng của mình.

“Ngài chính là Tổng thống ư?” anh hỏi.

“Vâng, tôi đây!” Lincoln trả lời một cách bình thản, và lại tiếp tục hỏi rằng ông có thể làm thêm được gì cho anh.

“Xin ngài hãy nắm lấy tay tôi!” anh nói. “Điều đó sẽ giúp tôi rất nhiều khi phải đối mặt với cái chết!”

Và trong căn phòng tĩnh lặng, vị Tổng thống cao gầy nắm chặt tay anh lính trẻ trong bàn tay mình, nhẹ nhàng nói những lời an ủi, động viên cho đến khi anh ra đi trong thanh thản.

KINH CUNG CHI ĐIỂU

KINH CUNG CHI ĐIỂU

          Lỗ trí Thâm

Mẹ tôi qua đời đã được hơn ba năm, cụ mất ở tuổi thọ 93. Năm 1946 bà mới ở tuổi 28 đã là góa phụ! Bố tôi bị Việt-Minh giết bằng cái vồ đập đất đánh vào gáy rồi đạp thẳng xuống hố, lấp đất. Ông là đảng viên Việt-Nam Quốc-Dân Đảng. Vì thấm nhuần đạo lý Khổng Mạnh “tam tòng, tứ đức” nên mẹ tôi ở góa thờ chồng, nuôi con cho đến khi tay xuôi mắt nhắm. Tôi năm nay đã qua cái tuổi “thất thập cổ lai hy”, cũng đang chờ để đi gặp mẹ mình; chứ không như “bác” Hồ ở tuổi già ước mơ được đi gặp cụ Mác cụ Lê!

Người ở lại thương nhớ người ra đi. Nhớ bóng, nhớ dáng, nhớ lời, nhớ tiếng, nhớ tập tục, nhớ thói quen v..v.. Phần tôi, tất nhiên cũng không tránh khỏi tâm trạng đó. Những kỷ niệm, những lời mẹ dạy thì không sao kể xiết.. tất nhiên có cái nhớ cái quên! Thế nhưng đặc biệt câu nói mà mẹ tôi lẩm bẩm suốt quảng đời bà: “tôi như con chim chết hụt” mỗi khi có ai nhắc tới Việt-Minh, Việt-Cộng; thì anh em, vợ chồng, con cái, cháu chắt chúng tôi không bao giờ quên được!

Tội nghiệp mẹ tôi, tại sao bà lại mang nặng cái tâm trạng “kinh cung chi điểu” kia suốt đời bà? Chẳng lẽ cái “đồng bào” Việt-Minh, Việt-Cộng kia là cái hoảng sợ đeo đẳng nặng nhọc cho tới ngày bà nhắm mắt? Chồng bà yêu Nước, chống “Tây”, bị “đồng bào” Việt-Minh lấy vồ đập đất đánh vào gáy chôn sống; Con bà thì được “đồng bào”Việt-Cộng “thống nhất đất nước” và cái “không có gì quý hơn độc lập tự do” cho đi “học tập cải tạo” mút mùa nơi rừng thiêng nước độc miền Bắc! Thế là mẹ tôi thân già còm cõi lại phải gánh gồng vượt ngàn dặm tiếp tế nuôi con! 

Bà có người anh ruột, ly khai gia đình theo Việt-Minh từ khi mới 15 tuổi thơ. Năm 1954, khi tiếp thu Hà-Nội, ông vội vàng tìm em. Tay mới vừa bắt, mặt mới vừa mừng thì lời nói đầu tiên đầy sợ sệt hoảng hốt: “cô hãy tìm đường vào nam ngay!..”. Và rồi, sau 30/4/1975 ,lại một lần nữa, ông vội vào Nam tìm gặp em mình. Dù đã hơn 20 năm sau, vẫn tâm trạng sợ sệt hoảng hốt như xưa, ông nghẹn ngào: “sao không đi Mỹ?Khổ rồi!!”

Gần trọn cuộc đời cống hiến cho “cách mạng”, tới lúc gần đất xa trời, ông được “Bác” và “Đảng” chiếu cố, cấp cho cái gốc cây đa ở đầu làng: Căng cái bạt, đóng cái kệ, kê cái ghế… làm nghề “lao động là vinh quang”: Hớt tóc! Miệng ông luôn lẩm bẩm: “bị lừa.. bị lừa!!”. Và nỗi uất ức “bị lừa” này khiến ông vẫn cứ lẩm bẩm câu ấy tới tận giây phút nhắm mắt lìa trần.

Trong suốt những năm dài “học tập cải tạo”, tôi được người của “đỉnh cao trí tuệ” “giáo dục” rằng “khỉ là tổ tiên của loài người”; Và tiến trình văn hóa bắt đầu từ “đồ đá.. đồ đồng.. qua tới đồ “Độc”, đồ “Đểu”; Sau cùng, tiến lên “Tư-Bản Xã-Hội Chủ-Nghĩa!”.

Vậy thế nào là đồ “Độc”? 

Tôi có người bác họ, trước ngày 30-4-1975 ông nhất định ở lại, không theo vợ con di tản. Ngày đó ông đã ngoài sáu mươi, người hom hem như cây sậy, ông nghĩ ở lại chắc Việt Cộng chẳng tính tới ông, vì suốt cuộc đời ông chỉ là một anh thư ký quèn! Cái nghề cạo giấy, trói gà không chặt, lính Việt-Nam-Cộng-Hòa chê!

Thế nhưng ngày “đại thắng mùa xuân”, lính “cụ Hồ” vào Sài-Gòn chia nhau đóng quân rải rác trong nhà dân. Nhà ông bác tôi cũng bị “chiếu cố”. Mười tên cán ngố “cơm niêu, nước lọ” ở nơi rừng rú đã quen, nay vào thành phố văn minh, không biết sử dụng những tiện nghi “hiện đại”! Ăn ở bừa bãi, bê bết, bẩn thỉu, bụi bậm v..v.. Bác tôi không chịu được, ôn tồn đề nghị họ luân phiên ở các nhà khác. Chúng không chịu.. ở lì! Bác tôi khóa nước, tắt điện. Ông bắc võng nằm trước nhà nhìn chúng sinh hoạt. Cuối cùng chúng chịu thua, dọn sang nhà hàng xóm. Khi ra khỏi cổng nhà, tên đội trưởng quay lại nói: “Rồi mày sẽ biết tay ông!”. 

Vậy thì “tay ông” ra sao? 

Chị người làm sau ngày “giải phóng” đã xin nghỉ, đột nhiên trở lại thăm ông. Sau những câu hỏi thăm tình nghĩa, chị góp ý: “Bà và các cô cậu ra đi để lại ông một mình, nay ông phải tự lo mà sống, con đề nghị ông mang cái bàn nhỏ và cái máy đánh chữ ra để ở đầu ngõ, đánh máy thuê, may kiếm được đồng vào đồng ra cho qua ngày”. Sau khi chị người làm giã từ, ông suy nghĩ thấy có lý. Ngay hôm sau, người qua lại đã thấy ở đầu ngõ xuất hiện một ông già đánh máy thuê.

Ngày qua ngày, tạm đủ sống. Ông nghĩ tới chị người làm trung thành tốt ý mà mang ơn! Thế nhưng, chợt một hômchị người làm lại xuất hiện. Lần này chị mang đến cho ông một tin mừng, chị đưa ra một xấp giấy đề cập tới những người làm sở Mỹ trước kia sẽ được Mỹ can thiệp cho đi, đặc biệt với ông vì có bà nhà đã làm sở Mỹ. Chị yêu cầu ông gấp rút đánh máy ra nhiều bản để chị bán cho những người làm sở Mỹ còn kẹt lại, và hẹn hôm sau chị trở lại. 

Ông thức gần trắng đêm để đánh vội ra nhiều bản, và chờ! Tội nghiệp, Thay vì chị người làm “trung thành” thì là những tên công an áo vàng ập đến! Khám xét, hò hét.. Rồi cái gì xảy đến? Ông bị bắt vì tội “âm mưu phát tán tài liệu phản động”. Còng tay, bỏ tù, giam ở nhà tù Phan-đăng-Lưu. Sau đó đưa đi đâu không ai hay biết, vì không có thân nhân! Cuối cùng, không bao giờ ông trở lại mái nhà xưa! Căn nhà của ông ít lâu sau người ta thấy có người ở, lớn bé, nói tiếng Bắc giọng léo lắt, lượn lẹo.. khó nghe.

Hơn ba mươi năm qua, các con ông mòn mỏi tìm xác cha mình nhưng vẫn biệt vô âm tín. Tóc họ đã hoa râm, nhưng hàng năm vẫn thay phiên nhau về quê cũ, đứng trước cửa nhà xưa, tay cầm nén nhang tưởng nhớ cha mình, hồi tưởng một thời thơ ấu trong căn nhà êm ấm hạnh phúc của một thuở đất nước thanh bình thịnh vượng! Phần tôi, trong âm thầm tận cùng ở đáy lòng, tôi ước mơ ở tuổi già, tôi và họ quên được những hận thù để nhẹ nhàng ra đi. Nhưng dễ gì! tâm tư nào hóa giải được nỗi đau tình phụ tử, lòng hiếu đễ?

Ngày giỗ mẹ tôi, đứa cháu lớn hỏi tôi rằng: “Cụ nội bị ‘kinh cung chi điểu’, thế còn ông nội thì sao?”. Tôi không trả lời, vì ở tuổi chúng chưa biết gì về hận thù! Thế nhưng câu hỏi đó đã đánh thức trong tôi niềm đau ngủ yên của những năm tháng tù đày. Những cái “Độc”, cái “Đểu” của người Bắc Việt-Cộng ở những ngày xa xưa nơi rừng thiêng nước độc mà tôi và các chiến hữu của tôi đã nhiều lần chết hụt lạnh người, lại từ ký ức lũ lượt trở về.

Vậy thế nào là đồ “Đểu”?

Ngày 29-6-1976 trên bến Hạ-Lý, Hải-Phòng, miền Bắc, trước mặt chúng tôi (những tù bại binh biệt xứ), một tên bộ đội sau khi dựng chiếc Vespa màu xanh dương (cướp được từ miền Nam), hắn chậm rãi mở cốp xe lấy ra một lá cờ vàng ba sọc đỏ rồi từ từ hắn lau xe, hắn lau khắp “thân thể” cái xe. Cuối cùng khi lau tới cái yên xe, hắn quay mặt nhìn chúng tôi.. cười đểu. Ngày đó tôi ghi nhận được nỗi đau đớn uất hận hằn lên khuôn mặt những đồng đội tôi! Những ánh mắt đổ lửa của thân phận tù đày ở ngày xa xưa đó, còn đeo đẳng tôi tới hôm nay!

Cũng chính ngày đó, trước khi chích ngừa tù binh, tên bác sĩ Việt-Cộng qua loa phóng thanh, hắn cao giọng nói: “Đây là miền Bắc Xã-Hội-Chủ-Nghĩa lành mạnh, các anh sẽ được tiêm phòng để ngừa những bệnh truyền nhiễm của miền Nam ở trong người các anh”. Thế nhưng mỉa mai thay, chỉ ít tháng sau, Sài-Gòn bị dịch ghẻ ngứa chưa từng có, tràn lan khắp nơi. Người dân nhỏ to: “bộ đội và bọn thổ phỉ miền Bắc mang vào!”

Một tên cai tù trả lời “anh vào hỏi nợn” sau khi một chiến hữu của tôi hỏi xin hắn cho nhặt những mẩu đầu gân khoai mì mà lợn chê, nằm dưới hố rác đã nhiều ngày. Tôi không sao quên được nét mặt thèm khát và thất vọng của người chiến hữu ấy! Thật là đểu cáng và tàn nhẫn. Làm sao có thể tìm được trên trái đất này một tên cai ngục đểu độc như tên cai tù Việt Cộng kia?

“Ngụy quân, ngụy quyền”. Trong một lần khác, một tên cai tù nhẹ nhàng kể với tôi: “Thời thơ ấu, hắn và các bạn thường nghịch ngợm phá phách hàng xóm. Mỗi lần hư hỏng như vậy, mẹ hắn thường chửi hắn “thằng ranh con nghịch như ngụy”.” Sau đó hắn nhìn tôi cười đểu. Những cái đểu như đã có sẵn bàn bạc khắp trong người dân thường cho đến kẻ lãnh đạo ở miền Bắc!

Hồ-chí-Minh khi còn sống, đánh chiếm miền Nam, ông xúi bọn Mặt-Trận Giải-Phóng Miền Nam rằng: “Miền Nam đi trước, về sau”. Bọn Nguyễn-hữu-Thọ, Nguyễn-thị-Bình, Trịnh-đình-Thảo, Trần-văn-Trà v.v.. tưởng bở, cắm đầu đánh chí mạng! Sau 30-4-1975, Mặt-Trận bị giải tán; Lính nón tai bèo cùng những thủ lãnh lũ lượt lơ láo bị cho về vườn. Bọn Bắc Việt Cộng-Sản chính hiệu tràn vào. Cướp của, lấy nhà, chia nhau chức trọng quyền cao; Tham ô, hủ hóa, ăn cắp, ăn trộm v.v.. Mà “mức độ lẫn cường độ” tăng lên mãi tới ngày hôm nay! Kết quả, dân chúng Nhật-Bản phải phong cho Đảng và Nhà-Nước Việt-Cộng cái tên là “Tập đoàn lãnh đạo ròi bọ!”

Trong cuộc cầu nguyện lặng lẽ cho hòa bình của giáo dân ấp Thái-Hà, đòi lại đất đai của giáo xứ bị cướp cạn từ nhiều năm qua, đã bị con cháu “bác Hồ”, người “đầy tớ nhân dân”, chơi đểu bằng trộn lẫn nước tiểu và phân người, rải rắc vung vãi khắp nơi quanh nhà thờ. Cuối cùng, cả đức Tổng-Giám-Mục Hà-Nội lẫn giáo dân “chào thua”! Phần đất đó được bọn người “đểu” biến vội thành công viên.

Thiền sư Thích nhất Hạnh sau bao năm lưu vong, được chúng cho phép về quê hương yêu dấu! Hí hửng dẫn theo cả đoàn tăng ni Việt có, Tây có, rầm rộ cờ xúy diễn hành từ Nam ra Bắc.. Cầu siêu.. Cầu hồn.. Được chủ tịch nhà nước Việt cộng Nguyễn minh Triết khen: “Thiền sư Thích nhất Hạnh và đoàn tăng thân Làng Mai đã có những đóng góp tích cực vào hoạt động tôn giáo ở Việt Nam..”Được lời như cởi tấm lòng, thiền sư vội vàng bỏ ra cả triệu đô la Mỹ, lập dựng tu viện Bát-Nhã ở Bảo Lộc, tập trung được 400 tăng sĩ nam nữ. Mới chưa được bao lâu thì nhà nước xem ra thấy không ổn, bèn cho bọn côn đồ lưu manh tới phá phách, dùng bạo lực đánh đuổi tăng sĩ ra khỏi chùa! Dư luận đàm tiếu thì Nhà Nước giải thích đó là hành động tự phát của nhân dân!

Những đòn “đểu, độc” không những chỉ ra chiêu với đối tượng không phải Cộng Sản, mà ngay trong đảng viên CS chính hiệu cũng chơi nhau sát ván! Đơn cử như ông Hoàng minh Chính, viện trưởng viện triết học Mác và Lenin của Hà-Nội được Nhà nước cho qua Mỹ chữa bệnh. Ngày 28-9-2005, ông “Triết gia” Triết phát biểu tại trường đại học Harvard về tính chất không thật của chủ nghĩa Marx và Engels, đồng thời đề nghị dân chủ cho Việt-Nam. Khi trở lại Sài-Gòn, liền bị một nhóm côn đồ dến trước cổng vứt phân người vào nhà ông. Ông đưa đơn khiếu nại thì chính quyền giải thích đó là hành động tự phát của nhân dân!

Gần đây nhất là vụ cướp đất trắng trợn và tàn bạo. Khổ chủ là Đoàn văn Vươn, một cựu bộ đội ở huyện Tiên-Lãng Hải Phòng, bị nhà nước phá nhà, cướp đất công khai bằng bạo lực. Bị đẩy vào đường cùng, Đoàn văn Vươn đã dùng súng và lựu đạn để chống lại sự ức hiếp tàn bạo đó. Sự kiện chính những người “cùng là Việt-Cộng” chơi đểu lẫn nhau đã không thể che dấu được dư luận trong nước và thế giới. Cuối cùng Đoàn văn Vươn bị bỏ tù, nhà cửa bị giật sập, san bằng. Chủ tịch huyện tuyên bố: “nhân dân bức xúc vì hành động sai trái của Đoàn văn Vươn nên kéo nhau tới san bằng nhà của anh!!..”

Bây giờ, tháng này, ba mươi bảy năm về trước, ngày 30-4-1975; ngày mà miền Nam thân yêu rơi vào tay bọn Bắc Việt-Cộng. Chúng cướp bóc, bỏ tù, trả thù, chém giết, đày đọa… Đất nước gặp khổ nạn! Cả miền Nam tràn ngập máu lửa, hừng hực hận thù. Kinh hoàng, hoảng hốt, người dân lành vô tội ùa nhau băng rừng vượt biển chạy trốn! Người chết nổi, kẻ chết chìm, xác người bồng bềnh phủ kín biển Đông! Người dân miền Nam gọi tháng đó là “Tháng Tư Đen”!

Bản thân tôi giờ đây có được những tháng năm cuối đời sống bình an, hạnh phúc, no ấm, an nhàn ở đất nước tự do này là nhờ tấm lòng nhân ái của người chủ nhà, một dân tộc hiếu khách, hiền hòa, thẳng thắn và.. ngây ngô trước những cái “độc”, cái “đểu” của kẻ khác! Cho nên, những năm tháng còn lại ở cuối đời, tôi thường tự nhủ: “ơn hãy đền, nhưng thôi.. oán đừng trả!” Ơn cha ơn mẹ, ơn bạn bè thân thích; ơn đồng bào miền Nam yêu thương, hiền hòa; ơn tổ quốc miền Nam tự do no ấm; ơn dân tộc Mỹ cưu mang dung chứa… Tôi sẽ đền ơn họ bằng sự kiên định lập trường ở biên giới Quốc-Cộng: Không chao đảo, bấp bênh, bội bạc! Còn đối với đất nước của người nhà chủ này, tôi nghiêm khắc với con cháu mình trong học hành, phát huy, tận tụy, nỗ lực, tận tình đóng góp cho xứ sở mà chính mình đang dung thân! 

“Oán không trả”! Những vết thương tuy đã đóng vẩy liền da qua nhiều năm tháng.. Thế nhưng gặp phải những ngày trở mưa trở gió, tránh sao không khỏi nhức nhối? Nhiều bạn trẻ trách tôi rằng: “sao cứ thấy hình ông Hồ-chí-Minh thì phát dị ứng khó chịu?” Tôi thừa nhận điều đó. Vì chính ông ta là “cây cung” đã làm hoảng sợ mẹ tôi, bác tôi, bản thân tôi và những người tôi thân thiết.

Từ biệt quê hương yêu dấu đã lâu năm, lòng hoài cảm, tình hoài hương luôn chập chờn thôi thúc… nhưng chưa một lần thực hiện được. Cũng chỉ tại cái “cây cung Hồ-chí-Minh” kia in trên đồng tiền ở Việt-Nam đang luân lưu trên tay người dân mua bán, tiêu xài. Về thăm quê hương yêu dấu mà phải để cả triệu đồng tiền giấy có hình ông Hồ trong túi quần túi áo của mình qua ngày qua đêm thì… kinh hoàng quá! Thôi thì quê hương yêu dấu dù có như chùm khế ngọt cũng đành nén lòng nhớ nhung…

 Chờ đợi vậy!

         Lỗ Trí Thâm                                                                  

From: Lucie 1937

Boat People & Truck People- Tưởng Năng Tiến

Boat People & Truck People

1 truck people

Thực ra, ở quê hay thành phố đều không quan trọng, quan trọng là đừng ở… Việt Nam nếu bạn muốn bình yên.

Du Uyên


Từ Berlin, Hiếu Bá Linh vừa trân trọng cho hay một tin vui … đã cũ: “40 năm trước, tổng thống Ý cử 3 tàu chiến đến Biển Đông cứu vớt thuyền nhân tị nạn Việt Nam … Hoạt động gần 1 tháng, 907 thuyền nhân đã được cứu sống và đưa về Ý. Ngày 21/8/1979, tại lối vào cảng Venice, thủy thủ đoàn và các thuyền nhân được dân chúng hân hoan chào đón.”

Mẩu tin tuy không mới nhưng vẫn khiến cho không ít độc giả (hoá) tâm tư:

– Vĩ Cầm: Một cái tát dành cho Lê Duẩn.

– Mạc Van Trang: Thế gian nhiều chuyện lạ đời: Người Việt không thương nhau, khiến phải chạy trốn, dẫu bỏ mạng giữa biển khơi; các nước láng giềng cũng chẳng cưu mang nhau; Người ở mãi phương trời xa tít lại động lòng thương, ra tay cứu nhân độ thế… Nên cũng đừng cứ tưởng anh em, xóm giềng là chỗ cậy nhờ lúc khốn khó!

Nhận xét T.S Mạc Văn Trang e không hoàn toàn chính xác. Mã Lai, Nam Dương, Phi Luật Tân, Hồng Kông, Thái Lan … đều là những nước láng giềng đã từng mở cửa đón nhận và “cưu mang” hằng triệu người Việt tị nạn trong khoảng thời gian không ngắn, hơn một thập niên. Chỉ riêng có đảo quốc Tân Gia Ba (Singapore) là nhất định ngoảnh mặt thôi.

Sao thế nhỉ ?

Câu trả lời có thể tìm được trong bức thư sau:

3 truck people

Nguồn phóng ảnh: Margaret Thatcher Foundation

Xin trích đôi câu, theo bản dịch của nhà văn Phạm Thị Hoài, để rộng đường dư luận:

Thư của Thủ tướng Lý Quang Diệu gửi Thủ tướng Anh Margaret Thatcher về vấn đề Thuyền Nhân Việt Nam năm 1979.

Ngày 5/6/1979

Thưa Thủ tướng,

Cảm ơn bà về bức thư ngày 30 tháng Năm.

Vấn đề người tị nạn này rất nghiêm trọng và có lẽ sẽ còn tồi tệ hơn…

Phải nói, phải nhắc đi nhắc lại, cho nhân dân và các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới biết rằng chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chính là kẻ tích cực xúc tiến cuộc di tản ồ ạt này, gây thiệt hại nặng nề cho các nước Đông Nam Á… 

Họ có đầu óc lạnh lùng tính toán, không hề biết động lòng với chính đồng bào mình, nhưng làm phép tính giữa chi phí và lời thu về thì rất nhanh.” 

(People and leadears throughout the world must be told, again and again, that this is the government of the Socialist Republic of Vietnam which has actively promoted this massive migration, causing havoc to the countries of  Southeast Asia… They have cold, calculating minds, which, whilst incapable of compassion to their own people, are nevertheless most acute in computing cost-benefits.)

Lý Quang Diệu có nặng lời quá không: “Chính quyền nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chính là kẻ tích cực xúc tiến cuộc di tản ồ ạt này, gây thiệt hại nặng nề cho các nước Đông Nam Á ?” Muốn biết thực hư xin xem qua một câu hỏi khác, của một công dân Việt Nam, gửi đến ông Phạm Văn Đồng:

Xin Thủ tướng cho biết ý kiến về sự kiện thuyền nhân hồi 1975, nhất là hồi 1978, 1979… Về nguyên nhân và trách nhiệm trong những sự kiện ấy, với những hiện tượng bán bãi thu vàng và khá nhiều tầu, thuyền bị hải tặc bão tố và chìm trong đại dương… Là người đứng đầu chính phủ, một trong những người lãnh đạo cao nhất của Đảng Cộng sản, Thủ tướng nhìn nhận ra sao trách nhiệm của mình trong cuộc di dân rộng lớn và bi thảm ấy?” (Bùi Tín. “Hai Câu Hỏi Cần Trả Lời Rõ Ràng Trước Khi Thế Kỷ 20 Khép Lại.” – Nguyệt San Cánh Én, Đức Quốc, số tháng Hai năm 1999).

Thế kỷ XX đã khép lại. Ông Phạm Văn Đồng đã lìa đời và nhất định không “trả vốn” hay “trả lời” gì ráo về “cuộc di dân rộng lớn và bi thảm ấy.” Thảm kịch thuyền nhân Việt Nam, tuy thế, đã được ghi lại trong rất nhiều trang sách. Sổ tay của tôi vốn nhỏ nên xin phép chỉ chép lại độ mươi dòng thôi, về một sự kiện nho nhỏ (trong muôn vàn) xẩy ra đúng vào thời điểm mà ông Lý Quang Diệu gửi thư cho bà Margaret Thatcher:

Vụ chìm tàu Phương án II chết hàng trăm người ở Thành phố xảy ra vào giữa năm 1979, gần bến phà Cát Lái, Thủ Đức, nhưng gần như rất ít người sống ở Sài Gòn vào thời bấy giờ nghe nói tới câu chuyện đau lòng này… Theo Đại tá Phạm Ngọc Thế thì khi ấy Thành ủy phải điều hai cần cẩu sáu mươi tấn từ Vũng Tàu vô để “kéo rị rị từng chút”. Cũng phải tới ngày thứ ba thì mới đưa tàu lên được. Con số người chết theo báo cáo của Ban 69 là 227 người. Theo Đại tá Phạm Ngọc Thế: “Có khoảng hơn bốn mươi người sống sót. Cứ mỗi cái xác được đưa ra, chúng tôi chỉ dám để hai mươi phút để bộ phận nghiệp vụ lấy dấu tay rồi chuyển qua ngay cho bộ phận mai táng, vì đã bắt đầu nặng mùi. Cứ hàng chục xác một được xếp lên xe, phủ bạt, rồi chạy từ Cát Lái về mai táng ở khu đất cách đấy chừng ba cây số… Chúng tôi vét sạch hòm ở các quận. Khâm liệm xong vẫn còn dư mấy cái vì có bốn trường hợp phải chôn đôi bởi các bà mẹ trước khi chết ôm chặt lấy con mà chúng tôi thì không nỡ tháo khớp tay họ ra để chia lìa tình mẫu tử…”. Huy Đức.  (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập I. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Bốn mươi năm sau – sau khi 227 Boat People chết chìm ở Cát Lái – ngày 23 tháng 10 năm 2019 vừa qua, cảnh sát Anh Quốc đã phát hiện 39 xác người chết ngạt (trong một chiếc xe chở hàng đông lạnh) cách thủ đô Luân Đôn 25 dặm. Tất cả đều là người Việt. Họ được gọi là Truck People, dựa theo phương tiện dùng để vượt biên.

2 truck people

Ảnh: UNHCR

Khoảng cách giữa Boat People và Truck People là gần nửa thế kỷ, thời gian đủ dài để thêm hai thế hệ người Việt nữa tiếp tục tìm mọi cách để đào thoát khỏi xứ sở của họ, nơi mà cái cột đèn cũng sẽ không ở lại – nếu có chân. Mọi cuộc di dân đều hình thành trên hai động lực: đẩy và kéo. Lực kéo thì nhiều và đa dạng, tùy theo hoàn cảnh và quan niệm sống cá nhân (vì tương lai của con cái, vì một môi trường sống khả kham, vì miếng cơm anh áo, vì dân chủ tự do … ) nhưng lực đẩy –  từ VN – dường như chỉ một: đó là nỗi tuyệt vọng bao trùm cả đất nước này, từ nhiều thập niên qua!

Tưởng Năng Tiến
11/2019

HÃY CỨU CHÚNG CON !

Image may contain: one or more people and outdoor
Image may contain: one or more people, shoes and outdoor
Image may contain: one or more people, tree, shoes and outdoor
Image may contain: one or more people, shoes and outdoor
Image may contain: one or more people and shoes
+2
Phuc Vo

HÃY CỨU CHÚNG CON !

18/11, 8:45 HK

Các em đã vượt qua được một đêm khắc nghiệt nhất cuộc đời của mình!

“TRỤ ĐƯỢC ĐẾN GIỜ NÀY” – đó là điều mà không một ai có thể tưởng tượng ra được, đó đã là câu chuyện thần kỳ.

Sau đợt tấn công lúc 5:00 và bắt đi nhiều sinh viên, Hắc cảnh chưa quyết liệt tấn công thêm; ngoài trừ, tiếp tục bắn lựu đạn cay.

Phần các em, vốn là những thư sinh, giờ đã sức cùng-lực kiệt, nhiều em chỉ ngồi gục mặc cho khói cay, mặc cho tiếng nổ, tiếng bước chân và mọi sự diễn ra xung quanh.

Trong tận cùng của một khát vọng được sống tự do chứ không chấp nhận bị bắt bớ, tù đày hàng mấy mươi năm với tội “bạo loạn” – trên tay các em là thông điệp gửi đến cộng đồng Hương cảng và thế giới “ Hãy cứu chúng con ”

Pray For PolyU Students & Protesters

Nhà thơ Nguyễn Duy: Chuyện Võ Thị Sáu toàn bịa đặt

Nhà thơ Nguyễn Duy: Chuyện Võ Thị Sáu toàn bịa đặt

July 20, 2017

Nhà thơ Nguyễn Duy kể chuyện. (Hình: Cắt từ clip)

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Trang Facebook của Đoàn Dũng mới phổ biến một video clip dài năm phút, cảnh nhà thơ Nguyễn Duy và một số văn nghệ sĩ trò chuyện, trong đó Nguyễn Duy thuật lại những gì ông biết về nhân vật Võ Thị Sáu, một thần tượng do đảng Cộng Sản dựng lên.

Nhà thơ cười lớn tiếng đến nỗi phải đứng dậy khi nhắc đến những điều bịa đặt trong sách của Nguyễn Quang Sáng về “anh hùng Võ Thị Sáu.” Một chi tiết được hai người công khai nói ra là Võ Thị Sáu bị bệnh tâm thần từ thời rất trẻ.

Cuộc gặp mặt này có những nhà văn tên tuổi khác như nhà văn Nguyên Ngọc, nhà văn Phạm Xuân Nguyên, Tiến Sĩ Nguyễn Quang A (quay phim), nhà văn Lê Hoài Nguyên (tên thật là Thái Kế Toại) – cựu đại tá công an với chùm tóc bạc ngồi đối diện nhà thơ Nguyễn Duy. Đặc biệt, nữ diễn viên Mỹ Khanh, người đã đóng trong cuốn phim về Võ Thị Sáu cũng có mặt.

Điều đáng kể nhất là hai nhà văn trong cuộc gặp gỡ đã khẳng định bệnh tâm thần của Võ Thị Sáu, một người gọi là “bị chập” và người kia nói thẳng là “điên.” Đây là một sự thật đã được tiết lộ từ nửa thế kỷ nay, khi những “đoàn quân” phóng viên, nhiếp ảnh, và quay phim đi tới vùng Đất Đỏ nghiên cứu về “thần tượng” Võ Thị Sáu. Khi phỏng vấn dân địa phương, họ thường nghe các người già cả cùng thời bà Sáu hỏi: “Con Sáu Khùng phải không?”

Riêng nhà thơ Nguyễn Duy, ông thuật lại lời gia đình, thân nhân của Võ Thị Sáu cho biết cô bé này được giao nhiệm vụ ném lựu đạn giết một tên Tây lai đi mua thực phẩm cho đồn Tây, nhưng giết hụt vì hắn bữa đó không đi chợ. Cô Sáu vẫn ném lựa đạn vào chợ, rồi bị bắt, đưa ra Côn Đảo và xử tử hình.

Nhà văn Nguyên Ngọc (trái) trong buổi nói chuyện. (Hình: Cắt từ clip)

Người thân của cô cho Nguyễn Duy biết, sau năm 1975, người Tây lai này trở lại Đất Đỏ đón bà mẹ người Việt gốc Hoa, và anh ta giúp đỡ cho vùng này rất nhiều (có thể hiểu là một cách hối lộ để đưa mẹ qua Pháp dễ dàng hơn). Sau năm 1975, tên đường Hiền Vương ở Sài Gòn đã bị đổi thành Võ Thị Sáu.

Bạn đọc có thể xem video tại đây: Clip “Sự thật về Võ Thị Sáu”

Sau khi video trên được phổ biến, rất nhiều lời bình phẩm đã xuất hiện. Một độc giả Em Ba Sàm viết: “Một thần tượng bị sụp đổ!” Cô Maria Lê Thị Châu viết: “Mình đã bị lừa mấy chục năm rồi huhu!”

Ông Bùi Văn Thái viết: “May quá dù sao chị Sáu còn có thật, không như Lê Văn Tám!” Lê Văn Tám là một nhân vật “anh hùng” hoàn toàn tưởng tượng được bộ trưởng tuyên truyền Trần Huy Liệu bịa đặt ra, cuối đời ông Liệu đã thú nhận điều đó với Nhà nghiên cứu lịch sử Phan Huy Lê.

Cũng có một hai người phản đối hành động phơi bày sự thật về Võ Thị Sáu, như Việt Hùng kết án rằng “Không thể bôi nhọ lịch sử như thế được.” Đối với nhiều người khác thì che giấu sự thật và bịa đặt thành tích mới là hành động bôi nhọ lịch sử.

Sau đoạn phim video, nhiều người bình luận chỉ vắn tắt: Chuyện này ai mà không biết (Nguyễn Ngọc Trai). Chuyện này cũng nhiều người biết (Van Thanh Trác). Vụ bà Sáu khùng này em cũng nghe đồn lâu lâu rồi mà nửa thực nửa tin. Bây giờ mới nghe chính thức (Man Minh).

Nhưng cũng có người, ký tên Đông Tà, đã cho in lại cả một bản văn minh xác viết trước đây nửa thế kỷ của một cán binh hồi chánh như sau:

Kiến Phong ngày 15 tháng 4 1967.

Kính thưa đồng bào cả nước. Tôi là Nguyễn Văn Bé, con ông Nguyễn Văn Hụi và Bà Lê Thị Ba, ở xã Kim Sơn, huyện Long Định, tỉnh Định Tường, trước đây thuộc đơn vị 860…, đơn vị vận tải miền Trung Nam Bộ, bị bắt ngày 30 Tháng Năm, 1966 tại kinh Cả Bèo, xã Mỹ Quý, thuộc tỉnh Kiến Phong.

Trước đây, mặt trận nói tôi ôm mìn nhảy vào xe thiết giáp M113 để hy sinh và phong tôi làm liệt sĩ Nguyễn Văn Bé, nhưng sự thật không đúng. Hiện nay tôi còn sống, ở miền Nam. Xin đồng bào cả nước khỏi lầm lẫn. (TNV)

Còn sống chính là thắng lợi!

Còn sống chính là thắng lợi!

  Trong cuộc đời này, còn sống chính là thắng lợi, kiếm tiền chính là trò chơi, khỏe mạnh mới là điều cần thiết, vui vẻ hạnh phúc là điều mọi người mong ước nhưng khi kết thúc sinh mệnh, được trở về nơi tốt đẹp mới là mục đích.

Dưới đây là 10 câu nói giúp người đọc hiểu đạo lý nhân sinh và cũng là những câu nói giúp người đọc có sự lựa chọn đúng đắn trong cuộc đời của mình.

Câu thứ 1: Giữa người với người chính là một loại nhân duyên. Giữa tâm với tâm chính là một loại giao lưu chia sẻ. Giữa tình yêu thương và tình yêu thương chính là một loại cảm tình. Giữa tình cảm với tình cảm chính là một loại thật lòng, thật dạ. Giữa sai lầm, tội lỗi với sai lầm, cần một loại tha thứ.

Câu thứ 2: Giữa người với người, phải trao cho nhau tình yêu thương đồng loại, phải vui với việc giúp đỡ người khác. Bởi vì, khi bạn tặng hoa hồng cho người khác, trên tay bạn sẽ còn lưu lại hương thơm. Yêu thương người khác kỳ thực chính là yêu thương mình. Hãy đem tình yêu thương của mình để sưởi ấm trái tim của người khác, lúc ấy bạn chính là những tia nắng ấm áp của mặt trời.

Câu thứ 3: Thế gian quá rộng lớn mà lòng người lại quá phức tạp, sao có thể không găp phải tiểu nhân? Cõi hồng trần rất thâm sâu mà người trần lại ưa thích những điều hào nhoáng, phù hoa, sao có thể không gặp chuyện phiền lòng?

Nghĩ phải đơn giản một chút bởi vì sống trên đời phải thích ứng với mọi hoàn cảnh. Coi nhẹ một chút bởi vì trên đỉnh đầu còn có một bầu trời xanh!

Câu thứ 4: Phải biết trân quý người bên cạnh mình bởi vì mỗi một thời, một khắc ở nhân gian càng ngày càng ít đi, cuối cùng còn phải chia lìa. Không cần tranh giành, không cần đấu khí, tranh hơn thua, vui vẻ trò chuyện để hiểu nhau mới là quan trọng.

Phải biết trân quý người đối xử tốt với mình, bởi vì một khi đã đánh mất đi rồi thì tìm đâu cũng không được lại nữa.

Câu thứ 5: Cuộc sống đơn giản mới là cuộc sống hạnh phúc. Đời người gặp được sự tình gì cũng không nên nghĩ phức tạp. Tâm linh một khi nặng thì sống cũng mệt mỏi.

Nên bỏ đi những ký ức không tốt đẹp trong trí nhớ, sống một cuộc sống vui tươi, an hòa cùng mọi người.

Câu thứ 6: Sống trên đời cũng đừng quá so đo tính toán. Cổ ngữ nói: “Trăm sự do tâm khởi, nụ cười giải ngàn sầu”. Tâm tính tốt là người bạn tốt nhất trong cuộc đời, nó khiến người ta sống sung sướng, thoải mái và bình an, khỏe mạnh.

Câu thứ 7: Người đến khi có tuổi nhất định phải để tâm được thanh thản. Ít một chút giận dữ, nhiều một chút rảnh rang, “thân vội nhưng tâm nhàn” là những điều không dễ dàng đạt được. Nhưng “thân vội mà tâm cũng vội” thì tất sẽ sinh ra loạn.

Câu thứ 8: Chẳng phải người ta vẫn nói “biết đủ thường vui” sao? Sở dĩ người ta vui là bởi vì cái tâm không bị vướng bận, tuy rằng của cải vật chất không quá nhiều. Tâm lượng sung túc, rộng lớn chính là tài phú thực sự của đời người.

Câu thứ 9: Con người còn sống ngày nào thì ngày ấy chính là phúc khí. Đời người ngắn ngủi, không cần phải nuối tiếc những việc đã qua.

Mặt trời lặn, mặt trời lại mọc, buồn thì một ngày cũng trôi qua, vui thì một ngày cũng trôi qua cho nên đừng để tâm vào những chuyện quá vụn vặt, nhỏ nhoi. Hãy để tâm được thoải mái thì thân thể mới thoải mái.

Câu thứ 10: Con người sống trên đời, kỳ thực cũng không cần nhiều thứ lắm, chỉ cần sống khỏe mạnh, chân thành yêu thương mọi người thì đó vẫn được coi là một cuộc sống giàu có, sung túc.

Cuộc đời này, còn sống chính là thắng lợi, kiếm tiền chính là trò chơi, khỏe mạnh mới là điều cần thiết, vui vẻ hạnh phúc là điều mọi người mong ước nhưng được trở về nơi tốt đẹp mới là mục đích.

Cảnh sát Hồng Kông bắt các nhân viên y tế tình nguyện

Image may contain: one or more people
Đài Á Châu Tự Do

Cảnh sát Hồng Kông bắt các nhân viên y tế tình nguyện

Vào rạng sáng thứ Hai 18-11-2019, cảnh sát chống bạo động Hồng Kông bắt giữ một nhóm hàng chục nhân viên y tế tình nguyện tham gia cứu chữa người biểu tình gần Đại học Bách khoa Hương Cảng.

Hình ảnh từ đồng nghiệp RFA Cantonese cho thấy những nhân viên này bị trói quặt hai tay ra phía sau bằng dây rút nhựa.

Bạn nghĩ sao?