50 năm nhìn lại di sản VNCH  30-4-1975-2025

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

07/03/2025

Lúc này đã bước vào mùa xuân của năm 2025, đánh dấu một khởi đầu chặng đường 50 năm mất miền Nam, 30 tháng tư 1975 sắp tới.  Kể từ đó đến nay, nhiệt kế xem ra vẫn hừng hực lửa của hận oán và mất mát.  Vẫn chưa bao giờ có một tiếng nói chính  thức về cái mà người ta thường rêu rao Hòa hợp và hoà giải dân tộc. Tuyên truyền có thể có, thực tế là không.

Có một điều gì đó ngăn cản hầu như không thể vượt qua!!

Điện Biên Phủ đã qua, chia đôi đất nước, ta vẫn còn một nửa. 30 tháng tư, 1975, mất cả nước với nhiều tên gọi, nhiều chính sách vô nhân đạo như một trả thù của kẻ chiến thắng.

Làm sao quên được những lời nhục mạ như: ngụy quân, ngụy quyền. Chính sách  học tập cải tạo không ngày về. Có những người chịu đựng 17 năm tù, người khác chết rũ tù có đi mà không bao giờ trở lại.

Chính sách cải tạo hằng trăm ngàn quân  dân cán chinh mà thực tế không cải tạo được lấy một người.

Có cần phải nhắc lại hàng trăm ngàn người đã phải đi học tập cải tạo tại miền Bắc trên những vùng cao, hiểm trở, đồi núi lạnh lẽo rét buốt, phải lao động cực khổ, đói ăn, chết dần chết mòn không?

Đó là chính sách  về cái chết từng ngày, chết mòn nhục nhã và đau khổ thay vì một phát súng giải thoát.

Tưởng rằng cuộc chiến đã tàn cuộc!! Cuộc chiến với xác người, thiệt hại vật chất đã qua. Nhưng một cuộc chiến quá khứ vẫn như tro tàn âm ỉ. Hận oán vẫn ngút trời dễ dầu gì quên được!!

  • Ngay đối với kẻ thắng cuộc, nhiều người cảm thấy như bị lừa đảo…Thật vậy, cảm giác ngỡ ngàng đến sửng sốt với những kẻ chiến thắng khi vào tiếp thu miền Nam vẫn còn đó. Hình ảnh anh bộ đội khi quay về Bắc làm quà cho con là một con búp bê và chiếc khung xe đạp.

Thấm thía và nhục nhã lắm thay!!

Chưa bao giờ có một tiếng nói chính thức về cái mà người ta rêu rao, tuyên truyền về miền Nam. Họ kinh ngạc như những anh mán rừng bởi vì họ đã đem cả tuổi trẻ hy sinh và đánh cuộc , cuối cùng chỉ là nỗi thất vọng ê chề khi họ vào miền  Nam- như trường hợp nhà văn nữ Dương Thu Hương.

Sau này, bà đã kể lại nỗi thất vọng khi thấy miền Nam trù phú, tự do như thể ngoài sức tưởng tượng của bà. Sau này, bà đã viết tố cáo sự lừa bịp, dối  trá trong cuốn tiểu thuyết: Thiên Đường mù để tố cáo sự giả trả ấy.

Bà còn phẫn nộ tự nhận mình nay là kẻ làm giặc chống lại chế độ.

Ngày hôm nay, hàng triệu thanh niên miền Bắc đã “-sinh Bắc tử Nam”, chúng ta hãy  thực tình ngay thẳng nhìn lại những lời tuyên truyền dối trá “ đánh cho Mỹ cút ngụy nhào, từng là mục tiêu của sự chế riễu và khinh rẻ miền Nam. Thực tế chỉ là cuộc chiến  ủy nhiệm  như lời tuyên bố của Lê  Duẩn: “ Ta đánh Mỹ là đánh  cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc, cho các nước xã hội chủ nghĩa và cả nhân loại;”

( Xem Vũ Thư Hiên: Đêm giữa ban ngày, trang  422.):

50 năm đã qua, nhưng nỗi đau còn nguyên vẹn, nặng trĩu trong tim họ, mặc dù họ không phải là nguyên nhân những nỗi đau ấy.

Trong 20 năm, từ 1975 đến 1995, Mỹ đề ra chính sách cấm vận nhằm cô lập Việt Nam, cộng thêm những chính sách hà khắc của nhà nước, dân chúng đói ăn, cơm độn khoai sắn bo bo..đã buộc hàng triệu người liều mình đi ra biển…Cái mà sau này người ta gọi là “ Boat people”.   Sau này đã có bao nhiêu người đến được bến bờ tự do, bao nhiêu người  bị hải tặc Thái Lan hãm hiếp? Thật không kể xiết!!!

Trong khi đó, chính quyền Hà Nội qua thứ trưởng  ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn vẫn kêu gọi hòa hợp, hòa giải dân tộc qua Nghị Quyết 36? Hòa giải với ai? Với người đã chết hay người còn sống? Với thương phế binh VNCH? Với quá khứ của nền Đệ I Và Đệ II cộng Hòa?

Thực tế cho thấy, các thương phế binh này đã bị bỏ rơi, chỉ nhờ vào sự tương trợ của các tổ chức hải ngoại quyên góp tiền gửi về trong nhiêu năm quá.

Tất cả số phận quân dân miền Nam đã sống cô lập bên lề xã hội cộng sản.

Tôi  chỉ cần nêu ra một trường hợp cụ thể  là trong lãnh vực tôn giáo như Phật giáo kể từ năm 1981 đã trở thành Phật giáo nhà nước dưới sự kiểm soát của chính quyền không nói làm gì.

Riêng công giáo còn có cái tiếng là tự chủ, độc lập dưới cái dù che của Vatican. Tuy nhiên, điều cần và đủ là họ chỉ được nói và phát biểu hoàn toàn trong phạm vi nhà thờ. Ngoài ra là một cấm kỵ không có văn bản, họ không bao giờ dám đề cập xa gần đến Đệ I  và Đệ II  cộng hòa.

Các giám mục cai quản hiện nay phải biết im lặng, không dám phê phán về tệ nạn xã hội xảy ra hằng ngày trước mắt họ..

Đó là bàn tay bạo lực được che đậy, dấu kín. Muốn yên thân, họ phải câm lặng như những loại chó câm- chó không biết sủa- một từ ngữ của giám mục người Pháp, đức cha Seitz, (Kim) trong Les chiens Muets

Chó là để sủa, chó không biết sủa có còn là chó không?.

  • Hai mươi năm miền Nam nhập cuộc và 30 năm sau giải phóng.

Tôi xin được lấy lại lời của triết gia  E. Mounier như một cột mốc khởi điểm tóm gọn tinh thần của miền Nam tự do:

Đôi khi lịch sử cũng ban thưởng cho kẻ cứng đầu, và một hòn đá tảng đặt đúng chỗ, có thể chuyển hướng cả một dòng sông.”

Miền Nam là những ai trong mỗi chu kỳ lịch sử? Nhiều lắm kể sao cho xiết. Vấn đề là: Liệu có thể kiếm ra được ai là hòn đá tảng có thể chuyển hóa cả một dòng sông?

Hãy cùng nhau nhớ lại về mặt lịch sử, chính trị. Hai miền Nam-Bắc trở thành hai thực thể đối đầu. Sự ngăn cách không hẳn chỉ nằm ở dòng sông Bến Hải  mà còn in sâu trong tâm thức người dân miền Nam, bên này người Việt quốc gia chống ý thức hệ cộng sản bên kia, chủ nghĩa cộng sản vô thần..

Mà thực tế cùng là người Việt, cùng máu đỏ da vàng, nhưng không còn nhìn nhận nhau là người Việt nữa. Chỉ có bạn, đồng chí hay kẻ thù!!!Lẳn ranh thật rõ ràng và dứt khoát không có cơ may nào nối lại.

Hòn đá tảng mở đầu cho miền Nam xoay ngược tình thế lịch sử, chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội, giáo dục chính là ông Ngô Đình Diệm.

Từ một chế độ thực dân, phong kiến thối nát, bóc lột và hại dân, ông Diệm biến nó trở thành một chế độ dân chủ cộng hòa.

Cần nhắc với  nhau rằng khi ông Diệm nhận chức Thủ tướng về nước, miền Nam đang ở bên bờ vực thẳm về chính trị, kinh tế, bị khuynh đảo bởi nhiều thế lực cả bên trong lẫn bên ngoài..

Lúc ấy, chỉ cần ổn định tình thế là đủ trở thành vị cứu tinh. Stephan Pan, trong Viet Nam crisis đã nhận xét không sai: “Ngo Đinh Diêm assumed the prime ministership in 1954 when his country was facing economic chaos, political íntasbility and external subversion, not on a massive scale, but on a scale that kept increasing intensity. He led South Viêt Nam through this initial crease, changed it from a  the first national monarchy in a republic and built the first national loyalty íts people ever know.

Đến lượt nhà văn đại diện cho giới trí thức miền Nam lúc bấy giờ, Mai Thảo đã hãnh diện tuyên bố: “Sài gòn, thủ đô văn hóa miền Nam. Sài gòn thay thế cho Hà Nội, từ một đô thị miền Nam trở thành một thủ đô tinh thần của toàn thể đất nước, Saigòn sáng tạo và suy tưởng”

( Tạp chí Sáng Tạo, số đầu 1956).

Bên cạnh Sáng Tạo, còn nhiều báo chí, tập san ra đời như  Tạp chí Văn Hóa Á Châu của giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Quê Hương của giáo sư Nguyễn Cao  Hách, Tin Sách của giáo sư Thanh Lãng, Luận đàm của hội Giáo chức với các cụ  Thẩm Quỳnh và Nghiêm Toản, tạp chí Bách Khoa của của Huỳnh Văn Lang, Hiện Đại của thi sĩ Nuyên Sa, Thế kỷ 20 của giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch..

Trong 20 năm ấy, miền Nam đã hình thành một sắc thái văn hóa riêng, một nền giáo dục chuyên môn và nhất là tinh thần làm việc, về ý thức dân chủ, về ý thức tự do về những giá trị nhân bản.

Và nhất là quyền con người.

Tâm thức ấy, lý tưởng ấy đã khắc sâu, truyền thừa chẳng những trong 20 năm miền Nam mà còn là hành trang khi đối đầu với thế lực với kẻ thắng cuộc trong suốt hành trình 30 năm còn lại sau này.

Tuy nhiên, trong thế đối đầu với cộng sản, chọn lựa giữa tranh đấu cho dân chủ của một miền Nam dân chủ, tự do và tác động sống còn vẫn là chọn lựa đối đầu với cộng sản phía bên kia thật sự không dễ dàng gì!!  Phải hy sinh điều gì, dân chủ hay độc đoán?

Vì thế, trong viễn tượng đường dài, ngay trong tình huống thất vọng thua cuộc, giới trí thức miền Nam vẫn hoàn tất vai trò nhân chứng, vai trò phản biện, vai trò tố cáo và cả vai trò tiên tri cho cả giai đoạn sau 30 tháng tư. Nên nhớ cho bởi khát vọng tự do, dân chủ đã thấm đẫm trở thành máu thịt với khát vọng xóa bỏ mọi thứ độc tài đảng trị, khát vọng về công bình xã hội, khát vọng về một cuộc cách mạng cho người nghèo, vì người nghèo, khát vọng chấm dứt phân ly, thù hận trong cộng đồng dân tộc vẫn là khát vọng  chung của đất nước.

Tình hình miền Nam sau 1954, mỗi ngày thêm ổn định như nhận định của giáo sư Vũ Văn Mẫu: “Quá khứ trong sạch của Ngô Đình Diệm khi làm việc quan, tính tình khí khái của ông khi từ chức Thượng Thư Bộ Lại trong nội các đầu tiên của Bảo Đại.”

Trong giai đoạn này, chính phủ Ngô Đình Diệm đã giải quyết vấn đề định cư cho cả  triệu người di cư từ miền Bắc vào Nam, giải quyết vấn đề các giáo phái, ổn định kinh tế và quan trọng là: phát triển đào tạo giáo dục.

Giáo sư Lý Chánh Trung ghi nhận dưới thời ông Diệm, năm 1954-1955 có 1000 trường tiểu học với 7000 lớp học. Qua năm 1961-1962 có 4172 trường tiểu học với 21.817 lớp học. Gần 200 trường trung học đã được xây dựng cho các tỉnh ly và quận lỵ. Ngay các vùng hẻo lánh, nghèo nàn như Gio Linh, Bồng Sơn, Cà Mâu, Trà Oạn vv.. đều có trường học.

Viện Đại học Sài gòn được trao trả ngày 11/5/1955. Hai năm sau thành lập Đại học Huế ngày 12/11/1957. Và năm 1958, đại học Đà Lạt.

Chính sự phát triển đồng  bộ về giáo dục từ tiểu học, trung học, đại học và các ngành chuyên môn là điều mà trong suốt thời kỳ chiến tranh Hà Nội đã không bao giờ thực hiện được.

Về an ninh, năm 1956, 80% cán bộ hạ tầng Việt minh bị triệt hạ. Trại tù Chí Lợi ở Bình Dương tập trung đến  6000 chính trị phạm cộng sản bị bắt giam.

Đặc biệt ở miền Trung, cán bộ cộng sản dưới thời của Ngô Đình Cẩn gần như bị trừ diệt toàn bộ cán bộ nằm vùng.

Đây là điều mà người Pháp không làm được trong suốt 9 năm chiến tranh Việt-Pháp.

Vào những năm đầu của chính thể ông Diệm, người ta có thể đi suốt ngày đêm từ Cà Mâu đến Bến Hải một cách an toàn. Thôn quê miền Nam tương đối an toàn.

Để tóm tắt giai đoạn này, xin trích dẫn nhận định của một sử gia trẻ tuổi Edward Miller như sau: “ Ngô Đình Diệm là người có hoai bão. Với tư cách lãnh đạo miền Nam từ 1954 đến 1963. Diệm mong muốn trở thành người lãnh đạo hàng đầu trong việc xây dựng chính quyền Quốc gia, ông cương quyết tìm ra một đường lối khác biệt với con đường mà Hồ Chí Minh và đảng cộng sản  Việt nam đang theo đuổi.” ( Ngô Đình Diệm was a dreamer. As ruler of South Viêt Nam from 1954 to 1963. Diệm aspired to greatness as nation builder and he was determined to find  an alternative to the path taken by Hồ Chí Minh and the Vietnamese Communists.)

Hay như ông  Denis warner, người Úc nhận xét: Diêm là The last Confucius- Nhà nho cuối cùng con lại.

  • Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu

Khi chế độ Diệm sụp đổ, Hà Nội cho là thời cơ may đã đến bất ngờ với họ. Họ cấp tốc thi hành những biện pháp tức thời sau đây:

  • Chọn một số Trung đoàn đưa gấp vào Quân Khu V và Tây nguyên.
  • Mở rộng đường vận chuyển chiến lược 559
  • Đưa gấp vào chiến trường những vũ khí chống lại thiết vận xa M.113.
  • Bùi Tín có mặt trong đoàn cán bộ 24 người vào miền Nam quan sát tình hình tại chỗ.
  • Đưa đại tướng Nguyễn Chí Thanh trở lại quân đội để vào miền Nam nhận nhiệm vụ tổng tư lệnh và lên đường ngay tháng 12/1963.

Chính vì thế,  sau 1963, chính phủ quân nhân do tướng Thiệu cầm đầu đã gặp rất nhiều trắc trở tứ phía với sự xâm nhập từ miền Bắc vào Nam trên đường mòn Hồ Chí Minh. Nhiều dấu hỏi được đặt ra tại sao người Mỹ có mặt ở Việt Nam, tại sao họ rút lui, tại sao thua?

Câu trả lời đã có hồi đáp của TT. Nguyễn Văn Thiệu: “ Họ đã bỏ rơi chúng tôi. Họ đã bán đứng chúng tôi. Họ đã đâm sau lưng chúng tôi. Đó là sự thực. Họ đã phản bội chúng tôi. Một đồng minh vĩ đại đã  thất ước với một đồng minh nhỏ bé.” ( They abandoned us. They sold us out. They stabbed us in the back. It ís true. They betrayed us. A great ally failed a small ally.

( Trong” The ten thousand day war- Michal Mac lear, trang 395.)

Cuộc chiến ngày một thêm khốc liệt. 10 ngàn binh sĩ cộng sản đã trở thành tro bụi dưới bom đạn B.52 ở Khe Sanh, rồi tết Mậu Thân cũng vậy…

Cộng thêm vào đó, việc chống đối chiến tranh của giới văn nghệ sĩ miền Nam ngày càng lan rộng từ nhiều phía. Họ là những tên tuổi nổi tiếng là thành phần thiên tả, lực lượng thứ thú ba, đòi hỏi chấm dứt chiến tranh từ một phía như Nguyễn văn Trung, Lý  Chánh Trung, Nguyễn Đình Đầu, Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, vương Đình Bích, Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín và nhiều người khác…

Sau này họ mới vỡ lẽ ra rằng, điều mà họ đòi hỏi tự do ngôn luận, tự do báo chí là những điều thật ra họ đã có sẵn trong túi áo của họ..

Cái mà người viết bài này dành bẽ bàng gọi tên nó là ảo tưởng của trí thức miền Nam và chúng ta có vẻ tất CẢ là NHỮNG KẺ VẼ ĐƯỜNG CHO HƯƠU CHẠY. Hay nói một cách bình dân là những kẻ tiếp tay, nối giáo cho giặc.

  • Một trang sử mới bắt đầu và mở ra: 30/4/1975- 25/5/2025

Tôi vẫn tin rằng: trong cái rủi có cái may. Lịch sử đôi khi cũng đem lại những cái bất ngờ đầy ý nghĩa và thú vị như một bù trừ, một báo hiệu tin lành..

  • Cuộc di cư. Chẳng mấy ai ngờ và tin rằng cuộc di cư đem lại những thành quả bất ngờ là thống nhất Nam Bắc một nhà. Nếu cuộc di cư năm 1954-1955 đã đem lại những thành quả đáng khich lệ khi một triệu người di cư vao miền Nam đã tạo ra hai dòng chảy văn học, hai nếp sống văn hóa, sức mạnh đoàn kết, ý chí vươn lên, hai giọng ngôn ngữ, hai nếp sống tôn giáo giữa Bắc và Nam.

Nó hòa quyện vào nhau như thể là một. Nó tạo ra sức mạnh của miền Nam với một quân đội được huấn luyện tại các trường hạ sĩ quan  Đồng Đế, chuẩn úy tại Thủ Đức và thiếu úy ở trường sĩ quan Đà Lạt và được được trang bị đầy đủ.

Sự quyết tâm rời bỏ quê cha đất tổ, bỏ lại tất cả lên đường vào Nam là một cuộc bỏ phiếu bằng đôi chân. Đã có gần 2 triệu đôi chân như thế, từ già trẻ lớn bé, từ người nông dân đến trí thức thành thị, từ giới nhà văn đến giới tu sĩ đã ơi ới gọi nhau lên đường vào miền Nam.

  • Một chiến dịch Passage to Freedom là niềm tự hào của người ra đi và sự mở rộng bàn tay đón tiếp của  con dân miền Nam.

Người miền Bắc cộng sản sau này chưa bao giờ được hưởng cái ân huệ ấy và sẽ không bao giờ xảy ra.!!

  • Cuộc di tản sau 1975.

Với cái tinh thần ấy, cuộc di tản của người miền Nam cũng sẽ nối tiếp con đường của cuộc di cư năm 1954 và nó còn mở ra nhiều cơ hội hơn thế nữa của thế giới tự do.

Tôi có dịp viết một bài về cuộc di tản ra chiến hạm chỉ huy Blue Ridge cùng với 30 chiến hạm đủ loại của Hạm đội 7 đang đậu sẵn ở ngoài khơi bờ biển VN , cách Vũng tàu khoảng 30 dặm vào lúc miền Nam đang hấp hối..

Các chiến hạm ấy đang chờ để đón lính Mỹ và người Việt Nam từ đất liền… Sứ mạng lần này không giống với 21 năm về trước tại vịnh Hạ Long.

Trên boong chỉ huy của chiến hạm của viên Đô Đốc hạm đội 7, người ta thấy tề tựu đông đủ các ký giả, nhà báo Mỹ đã từng có mặt trên các chiến trường Việt Nam như Stanlay Karnov, David Haberstam, Neil Seehan, John Kenneth Galbraith và nhiều người khác. Dầu vạy còn được biết 125  nhà báo trong số họ, đủ quốc tịch tình nguyện ở lại để tường thuật cơn hấp hối của miền Nam…

Bên cạnh đó, người ta còn nhận thấy có phụ tá trùm mật vụ Frank Snepp đã  vừa đến đây,  người mà trước đây đã hộ tống  tt. Nguyễn Văn Thiệu ra đi trước đó mấy ngàyự

  1. Snepp đến đây với mục đích là để đón tiếp một nhân vật quan trọng nhất-đại diện cho nước Mỹ- trong lúc này. Đó là đại sứ Martin. Ông là người Mỹ cuối cùng rời Việt Nam mà trên tay chỉ ẵm theo một gói nhỏ: Đó là lá cờ nước Mỹ.

Lá cờ đã được cuốn lên có nghĩa là nước Mỹ không còn ở đó nữa..!!.

Ngay khi vừa bước lên chân lên boong tàu vào lức 2 giờ 47, giờ Sàigon. Ông đại sứ đã nhận được một điện chúc mừng của H.Kissinger với nội dung như sau:” Với lời ngợi khen nồng nhiệt  vì ông đã chu toàn trách nhiệm Nước Mỹ đến như thế nào thì lúc ra đi cũng như thế!!

Trong khi đó, những con thuyền nhỏ như lá tre của dân tỵ nạn nhấp nhô trên mặt biển. Đó là những con thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy cộng sản. Họ là ai? Họ có thể là bất cứ ai. Số phận họ rồi sẽ ra sao? Chẳng ai tiên đoán được tương lai họ như thế nào ? Chỉ biết rằng con số được vớt đi trên biển là 100.000 người được vớt đi từ các chiến hạm trong tổng số 250.000 được đi bằng các phương tiện khác như máy bay..

Sự ra đi trên biển cả thật bi tráng và tuyệt vọng như số phận những lá tre trên một đại dương!!

Bằng mọi giá họ đã ra đi mà nay ngồi nghĩ lại, nhiều người đã không mường tượng nổi họ đã có thể làm được một điều như vậy!

Cứ như một phép lạ Hy Lạp. Cứ như sự đáp trả như một cát tát vào mặt người cộng sản. Cứ như một lời tố cáo trực tiếp: chúng tôi có mặt. Cứ như một tín hiệu cho thấy: đất lành chim đậu. Cứ như một dấu hiệu đâu là quê hương đích thực, đâu là bến đỗ, đâu là chỗ để về…

Nhưng cái Sô vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng tư và đầu tháng năm của người Mỹ cũng nói lên được cái gì.

Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, ngay cả việc trốn chạy.

Nhận xét ấy ăn khớp với điều mà Sir Robert Thompson, một chuyên gia về du kích dưới thời đệ I cộng hòa đưa ra lời tiên đoán trước đó vào ngay 23/3/1975 như sau:” Chúng ta sắp chứng kiến một cuộc đầu hàng chiến lược của Hoa Kỳ.. Cuộc  triệt thoái khỏi Đông Dương là cuộc rút lui lớn nhất thế giới từ khi Napoleon rút lui khỏi Moscou.”.

Một vụ cần nói lại trong chuyến tàu vượt biển này là có một chiếc trực thăng do một vị tướng không quân chở theo một trung tướng quân đoàn đã đáp trực thăng xuống tàu chỉ huy Blue-Ridge. Một sĩ quan đã báo việc này lên vị đô đốc. Ông đã ra lệnh và nói vị thiếu tướng không quân nội dung như sau: Nói với y là đây không thuộc lãnh thổ VNCH mà là nước Mỹ ngoài biển. Và yêu cầu họ cởi bỏ quân phục cũng như lon chậu, đồng thời giữ im lặng, không được tuyên bố điều gì.

Được biết, sau đó vị tướng Không quân đã quỳ phủ phục xuống sàn tàu và thề rằng sẽ có một ngày ông sẽ trở về.

Quả thực, sau này ông đã quay trở về VN, nhưng không phải để phục quốc mà để bắt tay hòa giảo với chính quyền cộng sản..

  • Thế hệ người Việt thứ hai.

Phần những đồng bào may mắn đến được miền Đất Hứa đã hy sinh đời mình cho đời sau con cái, đã tận tụy làm ăn.. Con cái họ nay đã trưởng thành với phần đông thành công trên xứ người, không phụ lòng cha mẹ.

Cả một thế hệ tương lai đầy hứa hẹn như một biểu tượng  thành  công nơi xứ người trong sự hội nhập đem lại hãnh diện cho cá nhân gia đình mà còn góp phần vào gia tài chung của thế giới.

Chúng ta chỉ cần nhìn lại miền Nam Cali, nơi có gần một triệu người Việt sinh sống. Họ tạo  thành một sức mạnh kinh tế, xã hội, văn hóa. Đã có  các tướng lãnh trong nhiều binh chủng Hoa Kỳ, đã có ngững chuyên viên thượng thặng trong nhiều cơ quan chính phủ Hoa Kỳ.. Người Việt hải ngại ngày nay có quyền hãnh diện về những thành quả ấy.

Phần giới trẻ sẽ dần quên quá khứ và những gì chúng biết được, nghe kể lại từ cha ông chúng sẽ chỉ còn là những hoài niệm quá khứ mờ nhạt, lu mờ.

  • Và cái ngày hôm nay, sau 30 tháng tư, 1975, sau 50 năm.

Sau 50 năm, tôi và những người Việt di tản trên dưới 3 triệu người trên khắp thế giới tự hỏi chúng ta được gì? Và mất gì?

Câu hỏi rất thiết thực và xác đáng cần có câu trả lời. Phần tôi, không có tư cách gì đại diện thay cho hơn 3 triệu người ấy.

Nhưng tôi thành thực nghĩ rằng, khi ra đi, tôi đã mất trắng tất cả như một thứ ăn cướp ngày một cách công khai. Từ quê hương, nhà cửa, bạn bè, họ hàng và cả quãng đời tuổi trẻ miền Nam của tôi được lớn lên, được ăn học trở thành người thông tuệ.

Sang xứ người, tôi đã có lại tất cả mọi thứ, con cái tôi được ăn học đến nơi đến chốn mà nếu ở VN, rất có thể, chúng sẽ dở dang không ra ông ra thằng..

Phần trong giới quen biết, những người có căn bản học vị như bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, kỹ sư đều có cơ may trở lại nghề cũ, hội nhập và đời sống thu nhập cao…

Nghĩ lại những điều ấy, tôi thấy rằng món quà cao quý nhất mà đất nước này dành cho tôi và những người khác là Tương Lai.

Có thể có tương lai, có niềm hy vọng là có tất cả mà chính quyền cộng sản không hề có để ban phát.

Kỷ niệm 50 năm ngày mất miền Nam, thay vì nguyền rủa bóng tối, tôi an ủi thân phận mình vẫn còn chút gì và bằng lòng về những điều ấy cho riêng mình…

Tương lai với đầy triển vọng và hứa hẹn vẫn thuộc về chúng ta.


 

Mọi điều xảy đến trong đời đều là một phần của hành trình

Sống hạnh phúc mỗi ngày

Mọi điều xảy đến trong đời đều là một phần của hành trình – không sớm, không muộn, tất cả đều là sự sắp đặt hoàn hảo. Được yêu thương là một may mắn, nhưng bị tổn thương cũng là một bài học.

Người ta hay hỏi: “Liệu tôi có quý nhân phù trợ không?” Nhưng đôi khi, quý nhân lớn nhất trong đời chính là bản thân mình.

Hãy học cách nâng đỡ chính mình, để rồi từ đó lan tỏa giá trị cho những người xung quanh. Con người, suy cho cùng, là những tần số rung động, khi ta sống tốt hơn, ta cũng thu hút những điều tốt đẹp hơn.

Cách người khác đối xử với bạn chính là tấm gương phản chiếu nội tâm của bạn. Gặp ai, trải qua điều gì, đôi khi không phải là ngẫu nhiên – mà là những bài học được sắp đặt để bạn trưởng thành. Vì thế, đừng mãi ôm trong lòng những ai đã làm bạn tổn thương.

Đừng nghĩ ai nợ ai điều gì, mà hãy học cách buông bỏ, giữ lại sự thiện lành trong tim. Bởi vì, mỗi lòng tốt bạn trao đi, mỗi bao dung bạn giữ lại, một ngày nào đó, vũ trụ sẽ gửi lại cho bạn theo một cách dịu dàng nhất.

 

– sưu tầm

#songhanhphucmoingay


 

Sức mạnh ngàn cân của một chuyện cổ tích – Truyen ngan HAY

Nguyễn Thị Bích Hậu

Trong thế chiến 2, một diễn viên kịch người Đan Mạch đã tới nhà hát và kể cho khán giả nghe chuyện cổ tích của Andersen. Câu chuyện mang tên Hoàng tử độc ác. Truyện viết từ 1840, nghĩa là cách đó cỡ hơn 100 năm rồi. Nhưng sau đó Phát xít Đức biết được bèn cấm tiệt câu chuyện này vì chúng cho là ám chỉ tới nhà lãnh đạo tối cao của chúng. Người diễn viên đó lập tức bị bỏ tù.

Khi mình đọc chi tiết này trong một bài giới thiệu Truyện cổ Andersen, mình rất ngạc nhiên. Vì vậy mình đã tìm đọc câu chuyện này, bản bằng Anh ngữ và xin dịch ra Việt ngữ cho các bạn cùng đọc nhé:

>>>>>>>>

Ngày xửa ngày xưa có một hoàng tử độc ác, người dành cả trái tim và khối óc hướng đến việc chinh phục mọi quốc gia trên thế giới và đe dọa mọi người; ông ta tàn phá đất nước của họ bằng lửa và kiếm, và quân lính của ông ta giẫm nát mùa màng trên đồng ruộng và phá hủy những túp lều của nông dân bằng lửa. Chúng để ngọn lửa thiêu rụi cả lá xanh trên cành, và trái cây khô héo trên những cái cây đen cháy xém.

Nhiều bà mẹ nghèo đã chạy trốn, đứa con trần truồng trong tay, đằng sau những bức tường vẫn còn khói của ngôi nhà tranh; nhưng cũng ở đó, quân lính đã đi theo bà, và khi họ tìm thấy bà, bà đã trở thành nguồn thức ăn mới cho thú vui ma quỷ của họ; ma quỷ không thể làm những điều tồi tệ hơn những người lính này!

Hoàng tử cho rằng tất cả những điều này là đúng, và đó chỉ là tiến trình tự nhiên mà mọi thứ phải diễn ra. Quyền lực của ông ta ngày càng tăng lên, tên tuổi của ông ta được mọi người kính sợ, và vận may ủng hộ những hành động của ông ta.

Ông mang về nhà khối tài sản khổng lồ từ các thị trấn bị chinh phục, và dần dần tích lũy trong nơi ở của ông có một khối tài sản không nơi nào sánh bằng. Ông xây dựng những cung điện, nhà thờ và những tòa nhà tráng lệ, và tất cả những ai nhìn thấy những tòa nhà lộng lẫy và kho báu lớn này đều thốt lên đầy ngưỡng mộ: “Thật là một hoàng tử hùng mạnh!”

Nhưng họ không hề biết ông đã mang đến bao đau khổ vô tận cho các quốc gia khác, họ cũng không hề nghe thấy tiếng thở dài và than khóc vang lên từ đống đổ nát của các thành phố bị phá hủy.

Hoàng tử thường ngắm nhìn vàng bạc và những tòa nhà tráng lệ của mình với niềm vui thích, và nghĩ, giống như đám đông: “Một hoàng tử vĩ đại! Nhưng ta phải có nhiều hơn nữa—nhiều hơn nữa. Không có sức mạnh nào trên trái đất có thể sánh bằng và vượt qua như sức mạnh của ta”

Ông đã gây chiến với tất cả các nước láng giềng và đánh bại họ. Các vị vua bị chinh phục đã bị xích bằng xiềng vàng vào cỗ xe của ông khi ông cho chạy qua các con đường trong thành phố. Những vị vua này phải quỳ dưới chân ông và các cận thần của ông khi họ ngồi vào bàn ăn, và sống sót bằng những miếng thức ăn thừa mà họ để lại.

Cuối cùng, hoàng tử đã dựng tượng của riêng mình ở những nơi công cộng và ở trong các cung điện hoàng gia; thậm chí, ông còn muốn đặt tượng trong các nhà thờ, trên các bệ thờ, nhưng các linh mục đã phản đối ông, nói rằng: “Hoàng tử, ngài thực sự hùng mạnh, nhưng quyền năng của Chúa lớn hơn nhiều so với ngài; chúng tôi không dám tuân theo lệnh của ngài.”

“Được thôi,” hoàng tử nói. “Thế thì ta cũng sẽ chinh phục được Chúa.” Và trong sự kiêu ngạo và sự tự phụ ngớ ngẩn của mình, ông ta ra lệnh đóng một con tàu tráng lệ, con tàu có thể lướt trên không trung; nó được trang bị lộng lẫy và có nhiều màu sắc; giống như đuôi của một con công, nó được bao phủ bởi hàng ngàn con mắt, nhưng mỗi con mắt là nòng súng. Hoàng tử ngồi ở giữa con tàu, và chỉ cần chạm vào một lò xo là hàng ngàn viên đạn bay ra khắp mọi hướng, trong khi các khẩu súng lại được nạp đạn ngay lập tức. Hàng trăm con đại bàng được gắn vào con tàu này, và nó bay lên với tốc độ của một mũi tên hướng lên mặt trời.

Mặt đất nhanh chóng bị bỏ lại phía dưới, và trông giống như một cánh đồng ngô nơi những cái cày đã tạo ra nhiều luống cày ngăn cách những đồng cỏ xanh; chẳng mấy chốc nó trông giống như một bản đồ với những đường nét không rõ ràng trên đó; và cuối cùng nó hoàn toàn biến mất trong sương mù và mây.

Những con đại bàng bay lên cao hơn nữa vào không trung; sau đó Chúa đã phái một trong vô số thiên thần của mình chống lại con tàu.

Hoàng tử độc ác đã bắn hàng ngàn viên đạn vào thiên thần, nhưng chúng bật ra khỏi đôi cánh sáng chói của thiên thần và rơi xuống như những hạt mưa đá bình thường. Một giọt máu, chỉ một giọt duy nhất, chảy ra từ những chiếc lông vũ trắng của đôi cánh thiên thần và rơi xuống con tàu mà hoàng tử đang ngồi, thiêu rụi nó, và đè nặng lên nó như hàng ngàn tạ, kéo nó xuống đất một cách nhanh chóng; đôi cánh mạnh mẽ của những con đại bàng đã nhường chỗ, gió gầm rú quanh đầu hoàng tử, và những đám mây xung quanh – không rõ chúng có được hình thành bởi khói bốc lên từ những thành phố bị cháy không nhưng có hình dạng kỳ lạ, giống như những con cua dài hàng dặm, chúng duỗi càng ra sau ông ta, và vươn lên như những tảng đá khổng lồ, từ đó những khối đá lăn xuống, và trở thành những con rồng phun lửa.

Hoàng tử nằm nửa sống nửa chết trên tàu cho đến khi cuối cùng con tàu chìm xuống và đập mạnh vào cành cây lớn trong rừng với một cú va chạm khủng khiếp.

“Ta sẽ chinh phục Chúa!” hoàng tử nói. “Ta đã thề: ý muốn của ta phải được thực hiện!”

Và ông ta đã dành bảy năm để đóng những con tàu tuyệt vời để lướt trên không trung, và đã gắn những mũi tên từ loại thép cứng nhất để phá vỡ các bức tường của thiên đường. Ông đã tập hợp các chiến binh từ mọi quốc gia, nhiều đến nỗi khi họ được xếp cạnh nhau là đủ bao phủ không gian vài dặm.

Họ bước vào các con tàu và hoàng tử đang tiến đến gần tàu của mình, thì Chúa đã gửi một đàn muỗi – một đàn muỗi nhỏ. Chúng vo ve xung quanh hoàng tử và đốt mặt và tay của ông; ông tức giận rút kiếm ra và vung nó, nhưng ông chỉ chạm vào không khí và không đánh trúng những con muỗi.

Sau đó, ông ra lệnh cho những người hầu của mình mang những tấm vải che đắt tiền và quấn ông trong đó, để những con muỗi không thể tiếp cận ông được nữa.

Những người hầu tuân theo lệnh của ông, nhưng một con muỗi đã tự chui vào bên trong một trong những tấm vải che, bò vào tai của hoàng tử và đốt ông. Nơi đó cháy như lửa, và chất độc đã thấm vào máu của ông. Đau đớn tột độ, ông ta xé toạc cả chăn màn và quần áo, ném chúng đi thật xa, rồi nhảy múa trước mắt đám lính hung dữ, những kẻ lúc này đang chế giễu ông, vị hoàng tử điên loạn, kẻ muốn gây chiến với Chúa, và chỉ cần một con muỗi nhỏ tấn công cũng hóa rồ..


 

Cuộc đàm phán cuối cùng Truyen ngan HAY

Nguyễn Thị Bích Hậu

Một người đàn ông ngồi đối diện với quyền lực. Các ngón tay của anh ta siết chặt quanh tay ghế.

Kẻ bắt nạt không hề cố gắng che giấu sự khinh miệt của mình. Ông ta ngồi với vẻ cứng nhắc, đôi mắt rực cháy với cường độ dị thường, các ngón tay giật giật trên tay vịn ghế. Khi ông ta nói, đó không phải là một cuộc trò chuyện mà là một sự phun trào — những từ ngữ phun ra như đạn, sự khinh miệt đan xen qua từng âm tiết.

Sự bùng nổ không hề lắng xuống. Đó không phải là một bài phát biểu mà là một cuộc tấn công, được thiết kế không phải để thuyết phục mà để làm mất phương hướng, để khuất phục, để làm nhục.

Kẻ bắt nạt nghiêng người về phía trước, đập nắm đấm xuống bàn. Khuôn mặt ông ta đỏ bừng, giọng nói sắc nhọn hơn. Ông ta chuyển từ lời lăng mạ sang lời đe dọa, từ câu chuyện lịch sử sang sự vĩ đại.

Đất nước vĩ đại mà ông lãnh đạo sẽ không còn bị đối xử tệ bạc nữa, ông ta nói. Những ngày đó đã qua. Người dân đã chịu đựng đủ rồi. Lời nói của ông ta không phải là những lập luận — chúng là những sự phán quyết, sự xác quyết, là tuyên bố về diệt vong.

“Anh chẳng là gì cả”, kẻ bắt nạt nói, gần như là hét lên. Một trong những tên tùy tùng của ông ta cười khẩy. “Anh nghĩ mình độc lập sao? Anh chỉ là một kẻ thất bại, một nỗi ô nhục.”

Đằng sau ông, những viên tướng cao lớn đứng im lặng, bất động. Họ không cần phải lên tiếng; sự hiện diện của họ nói lên tất cả. Vị khách nhìn họ và hiểu những gì đang được đưa ra.

Đây không phải là ngoại giao. Đây là sự lựa chọn giữa khuất phục và hủy diệt.

Vị khách không được phép phản bác. Anh không nói cho đến khi cơn lũ chửi bới chậm lại, và ngay cả khi đó, lời nói của anh vẫn mang vẻ yếu ớt, không chắc chắn.

Anh cố gắng phản đối, khẳng định rằng anh và đất nước của anh không đáng bị đổ lỗi, rằng anh đã làm mọi cách có thể để duy trì hòa bình.

Phản ứng của kẻ bắt nạt là tiếng cười cay đắng, khinh thường, như thể chính ý tưởng đó là vô lý. Ông ta đột nhiên đứng dậy—giờ đây ông ta đi đi lại lại, lắc đầu, lẩm bẩm một mình trong cơn thịnh nộ. “Anh sẽ phải ký, hoặc chúng tôi sẽ hành động. Anh sẽ đồng ý, hoặc anh sẽ không còn tồn tại nữa.”

Không cần phải nói điều đó có nghĩa là gì. Vị khách đã nhìn thấy khuôn mặt của những người đàn ông phía sau mình. Anh biết rằng ngay cả khi mình ký vào văn bản, cuộc họp này không phải là một cuộc đàm phán mà là một cuộc khám nghiệm tử thi.

Anh không được đưa ra lựa chọn nào, chỉ có những câu hỏi.

Nếu anh đầu hàng, đất nước của anh sẽ chết dần chết mòn. Nếu anh kháng cự, đất nước sẽ chết nhanh chóng. Sẽ không có sự giúp đỡ nào đến.

Năm đó là năm 1938. Vị khách là thủ tướng Áo, Kurt Schuschnigg. Kẻ bắt nạt là Adolf Hitler. Địa điểm là Berghof, nơi ẩn dật trên núi cao của Hitler.

Sau sự kiện này mà trong lịch sử có tên gọi là Anschluss, nước Áo độc lập của anh bị ép buộc sáp nhập vào Đệ tam đế chế của Đức. Anh lập tức bị Gestapo bắt, bị đưa vào nhiều trại tập trung của Phát xít Đức khác nhau, bị hành hạ và biệt giam với muôn trùng đau khổ.

Cho tới tận 1945, ông mới được quân Đồng Minh giải cứu. Sau chiến tranh, ông đã dành hai mươi năm tiếp theo để giảng dạy khoa học chính trị tại Đại học Saint Louis, Mỹ và vào quốc tịch Mỹ năm 1956. Cuộc đời ông được viết lại trong cuốn sách Alone against Hiller ( Một mình chống lại Hitler), một cuốn sách chứa đầy những sự kiện bất công, đau khổ, máu và nước mắt. Ông mất vào 18/ 11/ 1977 (79 tuổi) tại quê cha đất tổ, vùng Mutters,Tyron, Áo.

Nhưng kẻ bắt nạt ông và bức ép dân tộc ông đã thất bại và chết trong thảm hại và nhục nhã, chỉ 7 năm sau khi hắn cướp nước ông. Hắn không bao giờ tưởng tượng được hóa ra hắn ác độc và hèn mạt đến thế nào, bị muôn đời phỉ nhổ.

________________________

Hình ông Kurt Schuschnigg và Hitler những ngày tháng cuối cùng ông làm Thủ tướng nước Áo độc lập, và ngày mà Hiler đưa quân tiến vào thủ đô Vienne 15/3/1938. Khi đó Gestapo đã tới bắt giữ ông lập tức và tống vào ngục.

Câu chuyện nói trên do mình dịch lại từ bản Anh ngữ trên mạng và bổ sung các thông tin và hình ảnh tư liệu lịch sử.

Một câu chuyện ngắn từ kiệt tác văn học Nga – Anton Chekhov

Trang Nguyen

Một câu chuyện ngắn từ kiệt tác văn học Nga – Anton Chekhov

Một lão nông dân chở người vợ ốm yếu của mình trên chiếc xe ngựa cũ kỹ, kéo bởi một con ngựa gầy guộc, băng qua quãng đường xa để đưa bà đến thành phố chữa bệnh.

Trên suốt chặng đường dài, ông bắt đầu nói chuyện, như thể đang tự tâm sự, nhưng cũng là để an ủi người vợ của mình. Bà đã sống với ông suốt bốn mươi năm, chịu đựng bao gian khổ, cực nhọc và hy sinh—cày cuốc trên cánh đồng, lo toan tất cả công việc gia đình.

Giờ đây, ông chợt nhận ra rằng mình đã nghiêm khắc với bà suốt bao năm qua. Ông hiểu rằng mình cần đối xử với bà bằng sự dịu dàng và yêu thương, cần để bà nghe những lời ân cần, ngọt ngào.

Ông nói với bà rằng mình đã sai, rằng cuộc đời cũng đã bất công với bà. Suốt bao năm, ông chưa từng dành cho bà một lời yêu thương, một nụ cười ấm áp như dòng nước trong, hay một khoảnh khắc dịu dàng!

Trên suốt quãng đường, ông nói trong nỗi ân hận và day dứt, những lời nói ấy như khắc sâu vào tâm hồn con người—như từng giọt nước rơi mãi lên phiến đá. Ông cố gắng bù đắp cho bà—bằng lời nói—cho những năm tháng bà thiếu thốn tình yêu, hơi ấm và sự quan tâm. Ông hứa rằng, từ nay về sau, ông sẽ làm mọi thứ để bù đắp cho bà…

Khi đến thành phố, ông xuống xe, lần đầu tiên trong đời bế bà trong tay để đưa đến chỗ bác sĩ. Nhưng bà đã không còn nữa. Bà đã lạnh giá, chỉ còn là một thi thể. Bà đã ra đi trên đường—trước khi kịp nghe những lời yêu thương và tiếc nuối của ông!

Câu chuyện khép lại—dưới ngòi bút của Chekhov—để lại chúng ta giống như lão nông kia, chỉ biết cất lên những lời yêu thương khi đã quá muộn.

Lời nói lúc này chẳng còn nghĩa lý gì nữa…

Chúng đã mất đi giá trị!

Chúng ta chỉ nhận ra giá trị của những người thân yêu khi họ đã không còn!

Tặng một bông hoa đúng lúc còn hơn dâng cả một vườn hoa khi đã muộn màng.

Nói một lời yêu thương vào thời điểm thích hợp còn hơn viết một bài thơ khi cảm xúc đã nguội tàn.

Không có ý nghĩa gì khi những điều tốt đẹp đến quá muộn—như một nụ hôn xin lỗi đặt lên trán của người đã khuất.

“Đừng trì hoãn những điều đẹp đẽ… vì có thể chúng sẽ không bao giờ trở lại.”

St và dịch: Trang Nguyen


 

Toàn văn bài phát biểu của Tổng thống Pháp Macron – Đặng Đình Mạnh, dịch

Ba’o Tieng Dan

France 24

Đặng Đình Mạnh, dịch

6-3-2025

Lời người dịch: Tổng thống Pháp Macron vừa có bài phát biểu quan trọng kéo dài 15 phút trước toàn quốc vào tối nay, trong đó ông tuyên bố sẽ cung cấp lá chắn vũ khí hạt nhân của Pháp “cho tất cả các đồng minh trên lục địa châu Âu”.

Ngày mai, các nhà lãnh đạo EU sẽ họp để quyết định về việc tái vũ trang của châu Âu. Hàng trăm tỷ euro sẽ được chi cho quốc phòng. Sau đây là bản dịch đầy đủ của bài phát biểu:

Tổng thống Emmanuel Macron. Nguồn: PA Media

***

“Tôi biết rằng các bạn thực sự quan tâm đến các sự kiện lịch sử đang làm rung chuyển trật tự thế giới.

Cuộc chiến ở Ukraine, đã khiến gần một triệu người tử vong và bị thương, vẫn tiếp diễn không ngừng.

Hoa Kỳ, đồng minh của chúng ta, đã thay đổi lập trường của mình về cuộc chiến này, ít ủng hộ Ukraine hơn và để lại nghi ngờ về những gì sẽ xảy ra tiếp theo.

Đồng thời, chính Hoa Kỳ có ý định áp thuế đối với các sản phẩm từ châu Âu.

Cuối cùng, thế giới tiếp tục trở nên tàn khốc hơn bao giờ hết và mối đe dọa khủng bố vẫn tiếp diễn không ngừng. Nhìn chung, sự thịnh vượng và an ninh của chúng ta đã trở nên bất ổn hơn.

Phải nói rằng chúng ta đang bước vào một kỷ nguyên mới. Cuộc chiến ở Ukraine đã diễn ra hơn ba năm. Ngay từ ngày đầu tiên, chúng ta đã quyết định ủng hộ Ukraine và trừng phạt Nga.

Và chúng ta đã đúng khi làm như vậy, bởi vì không chỉ người dân Ukraine đang dũng cảm chiến đấu vì tự do của họ, mà an ninh của chúng ta cũng đang bị đe dọa. Nếu một quốc gia có thể xâm lược nước láng giềng ở châu Âu mà không bị trừng phạt, thì không ai có thể chắc chắn về bất cứ điều gì nữa, và luật của kẻ mạnh nhất sẽ được áp dụng, và hòa bình không còn có thể được bảo đảm trên lục địa của chúng ta nữa. Lịch sử đã dạy chúng ta điều đó.

Ngoài Ukraine, mối đe dọa của Nga vẫn còn đó, ảnh hưởng đến các quốc gia châu Âu, ảnh hưởng đến chúng ta. Nga đã biến cuộc xung đột ở Ukraine thành một cuộc xung đột toàn cầu. Họ đã huy động quân đội Bắc Triều Tiên và thiết bị của Iran trên lục địa của chúng ta, đồng thời giúp các quốc gia này tiếp tục trang bị vũ khí cho mình.

Nước Nga của Tổng thống Putin đã vi phạm biên giới của chúng ta để ám sát những người đối lập và thao túng các cuộc bầu cử ở Romania và Moldova.

Họ đang tổ chức các cuộc tấn công kỹ thuật số vào các bệnh viện của chúng ta để ngăn chặn chúng hoạt động. Nga đang cố gắng thao túng ý kiến ​​của chúng ta bằng những lời nói dối lan truyền trên mạng xã hội.

Và về cơ bản, họ đang thử thách giới hạn của chúng ta. Họ làm như vậy trên không, trên biển, trên không gian và sau màn hình của chúng ta. Sự xâm lược này dường như không có giới hạn, và đồng thời Nga vẫn tiếp tục tái vũ trang, chi hơn 40% ngân sách cho việc này.

Đến năm 2030, họ có kế hoạch tăng cường quân đội hơn nữa, với 300.000 binh lính, 3.000 xe tăng và 300 máy bay chiến đấu.

Trong bối cảnh này, ai có thể tin rằng nước Nga ngày nay sẽ dừng lại ở Ukraine?

Khi tôi nói điều này và trong nhiều năm tới, Nga đã trở thành mối đe dọa đối với Pháp và châu Âu. Tôi vô cùng hối tiếc về điều này và tôi tin rằng về lâu dài sẽ có hòa bình trên lục địa của chúng ta với Nga chỉ khi nó một lần nữa được hòa bình.

Nhưng đây là tình hình mà tôi đang mô tả cho bạn, và chúng ta phải sống chung với nó. Đối mặt với thế giới nguy hiểm này, thật là ngu ngốc nếu chỉ đứng nhìn.

Không chậm trễ thêm nữa, chúng ta phải đưa ra quyết định cho Ukraine, cho sự an toàn của người Pháp, cho sự an toàn của người châu Âu.

Trước hết và quan trọng nhất là cho Ukraine. Tất cả các sáng kiến ​​đang giúp mang lại hòa bình đều đang đi đúng hướng. Và tối nay, tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đối với họ.

Chúng ta phải tiếp tục giúp người Ukraine kháng cự cho đến khi họ có thể đàm phán với Nga một nền hòa bình vững chắc cho chính họ và cho tất cả chúng ta. Đó là lý do tại sao con đường đến hòa bình không thể liên quan đến việc từ bỏ Ukraine. Hoàn toàn ngược lại.

Không thể đạt được hòa bình bằng bất kỳ giá nào và dưới chế độ độc tài của Nga. Hòa bình không thể là sự đầu hàng của Ukraine. Không thể là sự sụp đổ của Ukraine.

Cũng không thể có nghĩa là một lệnh ngừng bắn quá mong manh. Và tại sao không? Bởi vì ở đây chúng ta cũng có kinh nghiệm trong quá khứ. Chúng ta không thể quên rằng Nga đã bắt đầu xâm lược Ukraine vào năm 2014 và sau đó chúng ta đã đàm phán một lệnh ngừng bắn tại Minsk.

Và Nga cũng không tôn trọng lệnh ngừng bắn đó. Và chúng ta không thể duy trì sự cân bằng do thiếu sự bảo đảm chắc chắn. Ngày nay, chúng ta không thể tin vào lời nói của Nga nữa.

Ukraine có quyền được hưởng hòa bình và an ninh cho chính mình. Và điều đó nằm trong lợi ích của chúng ta, nằm trong lợi ích của an ninh lục địa châu Âu. Đó là lý do tại sao chúng ta đang làm việc với những người bạn Anh và Đức của chúng ta và một số quốc gia châu Âu khác.

Đó là lý do tại sao bạn thấy tôi đã tập hợp một số người trong số họ lại với nhau ở Paris trong những tuần gần đây và gặp lại họ ở London vài ngày trước để củng cố các cam kết mà Ukraine cần.

Sau khi hòa bình được ký kết, chúng ta cần chuẩn bị cho Ukraine để nước này không bị Nga xâm lược một lần nữa. Điều này chắc chắn sẽ liên quan đến sự hỗ trợ lâu dài cho quân đội Ukraine.

Nó cũng có thể liên quan đến việc triển khai các lực lượng châu Âu. Các lực lượng này sẽ không đi chiến đấu ngày hôm nay, họ sẽ không đi chiến đấu ở tiền tuyến, nhưng họ sẽ ở đó sau khi hòa bình được ký kết để đảm bảo rằng nó được tôn trọng hoàn toàn.

Tuần tới, tại Paris, chúng tôi sẽ tập hợp các Tham mưu trưởng Quốc phòng của những quốc gia muốn đảm nhận trách nhiệm của mình về vấn đề này.

Đây là kế hoạch cho một nền hòa bình vững chắc, lâu dài và có thể kiểm chứng được, mà chúng tôi đã chuẩn bị với người Ukraine và một số đối tác châu Âu khác, và tôi đã bảo vệ kế hoạch này tại Hoa Kỳ hai tuần trước và trên khắp châu Âu.

Và tôi muốn tin rằng Hoa Kỳ sẽ vẫn ở bên chúng tôi, nhưng chúng tôi phải sẵn sàng nếu điều này không xảy ra.

Cho dù hòa bình ở Ukraine có đạt được nhanh chóng hay không, xét đến mối đe dọa từ Nga mà tôi vừa mô tả với các bạn, các quốc gia châu Âu phải có khả năng tự vệ tốt hơn và ngăn chặn mọi hành động xâm lược tiếp theo.

Đúng vậy, bất kể điều gì xảy ra, chúng ta cần trang bị cho mình nhiều hơn, chúng ta cần nâng cao thế trận phòng thủ của mình và chúng ta cần làm điều này vì chính hòa bình, để đóng vai trò răn đe.

Về vấn đề này, chúng ta vẫn cam kết với NATO và quan hệ đối tác của chúng ta với Hoa Kỳ, nhưng chúng ta cần phải làm nhiều hơn nữa, để củng cố sự độc lập của mình về mặt quốc phòng và an ninh.

Tương lai của châu Âu không nên được quyết định ở Washington hay Moscow.

Và đúng vậy, mối đe dọa đang quay trở lại phương Đông và sự ngây thơ của ba mươi năm qua, kể từ khi Bức tường Berlin sụp đổ, giờ đã kết thúc.

Ngày mai tại Brussels, tại cuộc họp Hội đồng đặc biệt giữa 27 nguyên thủ quốc gia và chính phủ, Ủy ban và Chủ tịch Hội đồng, chúng ta sẽ thực hiện các bước tiến quyết định.

Một số quyết định sẽ được đưa ra mà Pháp đã đề xuất trong nhiều năm.

Các quốc gia thành viên sẽ có thể tăng chi tiêu quân sự mà không cần tính đến khoản thâm hụt này.

Sẽ thống nhất tài trợ chung lớn để mua và sản xuất một số loại đạn dược, xe tăng, vũ khí và thiết bị tiên tiến nhất ở châu Âu.

Tôi đã yêu cầu chính phủ hành động để bảo đảm rằng điều này sẽ củng cố quân đội của chúng ta nhanh nhất có thể và đẩy nhanh quá trình tái công nghiệp hóa của tất cả các khu vực của chúng ta.

Trong vài ngày tới, tôi sẽ họp với các bộ trưởng và nhà công nghiệp có liên quan trong lĩnh vực này.

Do đó, Châu Âu Quốc phòng mà chúng tôi đã ủng hộ trong tám năm qua đang trở thành hiện thực.

Điều này có nghĩa là các quốc gia Châu Âu sẵn sàng hơn trong việc tự vệ và bảo vệ mình, cùng nhau sản xuất các thiết bị cần thiết trên đất nước mình, sẵn sàng hợp tác nhiều hơn để giảm sự phụ thuộc vào phần còn lại của thế giới.

Và đó là một điều tốt. Đức, Ba Lan, Đan Mạch, các quốc gia vùng Baltic và nhiều đối tác của chúng ta đã công bố những nỗ lực chưa từng có về mặt chi tiêu quân sự.

Vì vậy, trong thời điểm hành động cuối cùng cũng đang mở ra này, Pháp có một vị thế đặc biệt.

Chúng ta có quân đội hiệu quả nhất ở Châu Âu và, nhờ những lựa chọn của những người đi trước, sau Thế chiến thứ hai, chúng ta có khả năng răn đe hạt nhân.

Điều này bảo vệ chúng ta nhiều hơn nhiều so với nhiều nước láng giềng của chúng ta.

Hơn nữa, chúng ta không đợi đến khi cuộc xâm lược Ukraine mới nhận ra rằng thế giới là một nơi đáng lo ngại, và thông qua hai đạo luật lên chương trình quân sự mà tôi đã quyết định và các Quốc hội liên tiếp đã bỏ phiếu thông qua, chúng ta sẽ tăng gấp đôi ngân sách cho lực lượng vũ trang của mình trong gần mười năm.

Nhưng xét đến những mối đe dọa thay đổi và sự tăng tốc mà tôi vừa mô tả, chúng ta sẽ phải đưa ra những lựa chọn ngân sách mới và các khoản đầu tư bổ sung, những điều hiện đã trở nên thiết yếu.

Tôi đã yêu cầu chính phủ thực hiện việc này càng nhanh càng tốt. Những khoản đầu tư mới này sẽ đòi hỏi phải huy động cả nguồn tài trợ tư nhân và công cộng, mà không cần tăng thuế.

Điều này sẽ đòi hỏi cải cách, lựa chọn và lòng dũng cảm. Lực lượng răn đe hạt nhân của chúng ta bảo vệ chúng ta. Nó toàn diện, có chủ quyền và hoàn toàn là của Pháp.

Kể từ năm 1964, nó đã đóng một vai trò rõ ràng trong việc duy trì hòa bình và an ninh ở châu Âu.

Nhưng để đáp lại lời kêu gọi mang tính lịch sử của Thủ tướng Đức tương lai, tôi đã quyết định mở cuộc tranh luận chiến lược về việc bảo vệ các đồng minh của chúng ta trên lục địa châu Âu bằng lực lượng răn đe của chúng ta.

Dù có chuyện gì xảy ra, quyết định luôn nằm trong tay Tổng thống Cộng hòa, người đứng đầu lực lượng vũ trang.

Kiểm soát vận mệnh của chúng ta, trở nên độc lập hơn, là điều chúng ta phải hướng tới không chỉ về mặt quân sự mà còn về mặt kinh tế. Đúng vậy, độc lập về kinh tế, công nghệ, công nghiệp và tài chính là điều cần thiết.

Chúng ta cũng phải chuẩn bị cho khả năng Hoa Kỳ có thể quyết định áp thuế đối với hàng hóa châu Âu, như vừa xác nhận đối với Canada và Mexico.

Quyết định khó hiểu này, đối với cả nền kinh tế Hoa Kỳ và của chúng ta, sẽ gây ra hậu quả cho một số ngành công nghiệp của chúng ta.

Quyết định này làm tăng thêm khó khăn cho thời điểm này, nhưng chúng ta sẽ không để nó trôi qua mà không có câu trả lời. Vì vậy, trong khi chúng ta chuẩn bị phản công với các đồng nghiệp châu Âu, chúng ta sẽ tiếp tục, như tôi đã làm cách đây hai tuần, làm mọi thứ có thể để thuyết phục họ rằng quyết định này sẽ gây tổn hại cho tất cả chúng ta.

Và, đúng vậy, tôi hy vọng sẽ thuyết phục và can ngăn Tổng thống Hoa Kỳ.

Nhìn chung, đây là thời điểm đòi hỏi những quyết định chưa từng có trong nhiều thập kỷ. Khi nói đến nông nghiệp, nghiên cứu, công nghiệp và tất cả các chính sách công của chúng ta, chúng ta không thể có những cuộc tranh luận giống như trong quá khứ.

Đó là lý do tại sao tôi đã yêu cầu Thủ tướng và chính phủ của ông, và tôi mời tất cả các lực lượng chính trị, kinh tế và công đoàn của đất nước, cùng tham gia với họ để đưa ra các đề xuất theo bối cảnh mới này. Các giải pháp của ngày mai không thể là thói quen của ngày hôm qua.

Đồng bào thân mến, trước những thách thức và những thay đổi không thể đảo ngược này, chúng ta không được nhượng bộ trước bất kỳ sự thái quá nào, cả sự thái quá của những kẻ hiếu chiến hay sự thái quá của những kẻ chủ bại.

Nước Pháp sẽ chỉ theo đuổi một con đường, đó là ý chí hòa bình và tự do, trung thành với lịch sử và các nguyên tắc của mình.

Đúng vậy, đây là điều chúng ta tin tưởng, vì sự an toàn của chúng ta, nhưng đó cũng là điều chúng ta tin tưởng, để bảo vệ nền dân chủ, một ý tưởng nhất định về chân lý, một ý tưởng nhất định về nghiên cứu tự do, về sự tôn trọng trong xã hội của chúng ta, một ý tưởng nhất định về quyền tự do ngôn luận không phải là sự trở lại của ngôn từ kích động thù địch, về cơ bản là một ý tưởng nhất định về chủ nghĩa nhân văn. Đây là những gì chúng ta bảo vệ và những gì đang bị đe dọa.

Châu Âu của chúng ta có sức mạnh kinh tế, quyền lực và tài năng để vượt qua thách thức của thời đại này. Và chúng ta có phương tiện để đối đầu với Hoa Kỳ, chứ đừng nói đến Nga. Vì vậy, chúng ta phải hành động như một, như những người châu Âu, và chúng ta phải quyết tâm bảo vệ chính mình.

Đó là lý do tại sao đất nước chúng ta cần bạn và cam kết của bạn. Các quyết định chính trị, thiết bị quân sự và ngân sách là một chuyện, nhưng chúng sẽ không bao giờ thay thế được sức mạnh của một quốc gia. Thế hệ của chúng ta sẽ không còn nhận được cổ tức của hòa bình nữa.

Chúng ta phải bảo đảm rằng con cháu chúng ta sẽ gặt hái được thành quả từ những cam kết của chúng ta vào ngày mai. Vì vậy, chúng ta sẽ cùng nhau đối mặt với tương lai.

Cộng hòa muôn năm!

Nước Pháp muôn năm!


 

Diễn viên Quý Bình qua đời ở tuổi 42

Những câu chuyện Nhân VănMy Lan Pham

VỢ DIỄN VIÊN QUÝ BÌNH: “ANH BÌNH PHÁT HIỆN MẮC UNG THƯ TRONG MỘT LẦN ĐI KHÁM SỨC KHỎE DO CÓ TRIỆU CHỨNG ĐAU ĐẦU KÉO DÀI…”

Diễn viên bị chẩn đoán mắc ung thư vào cuối năm 2020. “Anh Bình phát hiện mắc ung thư trong một lần đi khám sức khỏe do có triệu chứng đau đầu kéo dài. Nhận chẩn đoán mắc u não anh khóc, cảm thấy tuyệt vọng vì lúc đó bản thân còn trẻ, chưa lập gia đình, chưa có con”, Ngọc Tiền – vợ Quý Bình chia sẻ.

Vợ chồng Quý Bình quen nhau năm 2017 trong một chuyến công tác ở Phú Quốc. Khi ấy, Quý Bình bị lôi cuốn bởi sự mạnh mẽ của Ngọc Tiền – người sinh năm 1976. Quen một thời gian, họ mới phát hiện nhà cùng ở Hóc Môn (TP HCM), cách nhau chỉ vài cây số.

Đến giờ vẫn chưa muốn tin vào sự thật là chồng đã qua đời, vợ diễn viên Quý Bình nghẹn ngào biết bệnh tình anh trở nặng một tuần trước khi qua đời ở tuổi 42, sau 5 năm mắc un.g th.ư.

Tối hôm trước, diễn viên thấy mệt, được vợ đưa vào bệnh viện Đại học Y dược TP HCM để kịp thời cứu chữa, song không qua khỏi.

Theo chị chia sẻ, lo lắng vì sợ vợ không chịu được áp lực của dư luận nên chồng kín tiếng.

Gia đình xin miễn nhận phúng điếu, hoa tươi, vật phẩm, mong khách viếng không livestream hoặc sử dụng điện thoại.

Hoa Kỳ không thể đạt mục tiêu ngân sách nếu không cắt Medicaid

Ba’o NguoiViet

March 6, 2025

WASHINGTON, DC (NV) – Đảng Cộng Hòa tại Hạ Viện không thể đạt được kế hoạch ngân sách như ý muốn, vốn là con đường cần thiết để thông qua chương trình nghị sự lập pháp do Tổng Thống Donald Trump đề ra mà không ảnh hưởng đáng kể tới Medicare hoặc Medicaid, viên chức ghi chép ngân sách chính thức xác nhận hôm Thứ Tư, 5 Tháng Ba.

Đảng Cộng Hòa tại Hạ Viện thông qua một bản thảo ngân sách vào tuần trước, mở đường cho việc thông qua các chính sách ưu tiên của Trump trong vấn đề nhập cư, năng lượng và thuế. Bản thảo này yêu cầu Ủy Ban Năng Lượng và Thương Mại tại Hạ Viện giảm $880 tỷ trong nguồn ngân sách trong thẩm quyền.

Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội CBO, một tổ chức gồm có các chuyên gia cố vấn nội bộ phi đảng phái làm trọng tài cho tiến trình thông qua ngân sách, cho biết khi tách riêng Medicare, tổng ngân sách theo thẩm quyền của ủy ban là $8.8 ngàn tỷ trong 10 năm. Medicaid chiếm $8.2 ngàn tỷ trong số đó, hay 93%.

Nguồn tài trợ chăm sóc y tế cho thành phần lợi tức thấp Medicaid có thể gặp nguy cơ cắt giảm nhằm đạt mục tiêu ngân sách do Tổng Thống Donald Trump đề ra. (Hình minh họa: Tofiqu Barbhuiya/Pexels)

Khi loại Medicare và Medicaid ra khỏi ngân sách, ủy ban giám sát tổng cộng $581 tỷ, ít hơn nhiều so với mục tiêu $880 tỷ, theo CBO. Bản thảo nêu rõ các con số này là câu trả lời cho Dân Biểu Frank Pallone (Dân Chủ-New Jersey), thành viên cao cấp tại Ủy Ban Năng Lượng và Thương Mại, và Dân Biểu Brendan Boyle (Dân Chủ-Pennsylvania), thành viên cao cấp tại Ủy Ban Ngân Sách.

Điều đó khiến các thành viên Đảng Cộng Hòa lâm vào tình thế khó khăn. Quyết nghị ngân sách, được thông qua với tỷ lệ sít sao nhất tại Hạ Viện, nơi Đảng Cộng Hòa nắm khối đa số mỏng manh, là một kết quả không mấy vững chắc sau các cuộc đàm phán giữa các thành viên theo đường lối cứng rắn bảo thủ đòi giảm mạnh ngân sách, cũng như các nhà lập pháp Đảng Cộng Hòa ở các địa hạt chiến trường nói rằng họ không muốn giảm bớt ngân sách trong các chương trình y tế quan trọng cho các cử tri đảng phái.

Đảng Dân Chủ cũng biến hành động bảo vệ bảo hiểm y tế Medicaid thành trọng tâm trong cuộc tấn công nhắm vào chương trình nghị sự của Đảng Cộng Hòa theo định hướng đảng phái, tố cáo Trump rắp tâm giảm bớt ngân sách chăm sóc sức khỏe cho thành phần lao động nhằm bù qua phần giảm thuế cho giới giàu có. Dân Biểu Al Green (Dân Chủ-Texas), bị mời ra khỏi nghị trường Hạ Viện trong lúc Trump phát biểu trước Quốc Hội vào tối Thứ Ba sau khi liên tục ngắt lời tổng thống và hét lên, “Ông không có quyền động tới Medicaid!”

Gần đây Trump nói trong một cuộc phỏng vấn với Fox News, “Medicare, Medicaid, chúng tôi không hề động tới những chương trình đó.”

Medicare là chương trình cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho người cao niên. Medicaid mở rộng phạm vi bảo hiểm chăm sóc sức khỏe cho những người lợi tức thấp và người tàn tật.

Các thành viên Đảng Cộng Hòa tại Hạ Viện không đồng tình với Trump, sau đó đưa Medicaid vào kế hoạch cắt giảm. Chủ Tịch Hạ Viện Mike Johnson (Cộng Hòa-Louisiana), nói rằng Medicaid đang được đặt lên bàn cân nhằm kiểm soát ngân sách.

“Medicaid là một vấn đề nan giải vì rất nhiều trường hợp gian lận, phí phạm và lạm dụng,” Johnson nói với các phóng viên vào tuần trước. “Tôi nghĩ rằng riêng Medicaid, tình trạng gian lận đã lên tới $50 tỷ một năm. Đó là những đồng tiền xương máu của người đóng thuế. Tất cả đều cam kết bảo vệ các quyền lợi Medicare cho những người thực sự cần, xứng đáng và đủ điều kiện. Những gì chúng ta đang nói tới là loại trừ gian lận, phung phí và lạm dụng.”

Khi được yêu cầu chứng minh $50 tỷ gian lận một năm, văn phòng Johnson trích dẫn một số liệu thống kê từ Trung Tâm Dịch Vụ Medicare và Medicaid CMS rằng “tỷ lệ thanh toán sai quy định” tại Medicaid là $50.3 tỷ. Nhưng phúc trình nêu rõ rằng phần lớn các lỗ hổng không phải đến từ tình trạng gian lận.

“Năm 2023, trong số các khoản thanh toán sai quy định tại Medicaid, 82% là do thiếu hồ sơ,” CMS viết trong phúc trình 2023. “Các khoản thanh toán này thường liên quan tới các tình trạng trong đó một tiểu bang hoặc nhà cung cấp quản lý hành chánh không chặt chẽ và không nhất thiết là gian lận hay lạm dụng.”

Trump không nhắc tới Medicaid trong phần phát biểu trước phiên họp chung tại Quốc Hội hôm Thứ Ba. (TTHN)


 

Cuộc sống vô thường!

Nhà thiết kế và tác giả thời trang nổi tiếng thế giới “Crisda Rodriguez” đã viết đoản văn này trước khi bà qua đời vì bệnh ung thư:

  1. Tôi có chiếc ô tô thương hiệu đắt nhất thế giới trong ga ra của mình nhưng giờ tôi phải di chuyển bằng xe lăn.
  2. Nhà tôi có đầy đủ các loại quần áo hàng hiệu, giày dép và đồ có giá trị. Nhưng cơ thể tôi được bọc trong một tấm vải nhỏ do bệnh viện cung cấp.
  3. Có đủ tiền trong ngân hàng. Nhưng bây giờ tôi không nhận được bất kỳ lợi ích từ số tiền này.
  4. Ngôi nhà của tôi giống như một cung điện nhưng tôi đang nằm trên chiếc giường đôi trong bệnh viện.
  5. Tôi có thể đi từ khách sạn năm sao này sang khách sạn năm sao khác.

Nhưng bây giờ tôi dành thời gian trong bệnh viện để di chuyển từ phòng thí nghiệm này sang phòng thí nghiệm khác.

  1. Tôi đã tặng chữ ký cho hàng trăm người. Ghi chú của bác sĩ ngày hôm nay là chữ ký của tôi.
  2. Tôi có bảy người thợ làm tóc để trang điểm cho mái tóc của mình – Hôm nay tôi không có một sợi tóc nào trên đầu.
  3. Trên chuyên cơ riêng, tôi có thể bay đến bất cứ đâu tôi muốn. Nhưng bây giờ tôi cần sự giúp đỡ của hai người để đến được cổng bệnh viện.
  4. Dù ăn nhiều nhưng khẩu phần ăn của tôi là ngày hai viên và tối nhỏ vài giọt nước muối.

Ngôi nhà này, chiếc xe hơi này, chiếc máy bay phản lực này, đồ đạc này, rất nhiều tài khoản ngân hàng, rất nhiều danh vọng và tiếng tăm, không cái nào phù hợp với tôi cả. Không ai trong số này có thể giúp tôi nhẹ nhõm. Cuộc sống thực là để an ủi rất nhiều người và mang lại nụ cười trên khuôn mặt của họ.

“Không có gì là thật ngoài cái chết.”.

From: Anh Dang & Kim Bang Nguyen


 

CẢM NGHIỆM SA MẠC CỦA ĐỨC GIÊSU – Lm. Mark Link S.J.

 Lm. Mark Link S.J.

Khi mùa đông bắt đầu ở Nam Cực, các đêm thật dài bắt đầu.  Mặt trời biến dạng ở dưới chân trời và nó không lộ diện cho đến bốn tháng rưỡi sau đó.  Ngày nào cũng giống nhau: 24 giờ đồng hồ trong bóng tối.

Nhiều năm trước, nhà thám hiểm Richard Byrd sống một mình trong suốt mùa đông ở Nam Cực.  Trong bốn tháng rưỡi, ông hoàn toàn sống trong bóng tối, chôn vùi dưới tuyết trong một căn phòng nhỏ.  Nhiệt độ trong phòng đó xuống tới 50 độ dưới số không.

Mỗi ngày ba lần, ông Byrd leo cầu thang lên mái nhà của căn phòng, mở cánh cửa nhỏ và đẩy đống tuyết ra, rồi ông đi vào cái giá lạnh và tối tăm để ghi nhận sự thay đổi của thời tiết.

Tại sao ông Byrd lại chọn sống một mình trong những tháng hoàn toàn tối tăm?

Ông trả lời câu hỏi đó trong cuốn Alone của ông.  Ông nói ông làm như thế là vì ông muốn tránh xa mọi thứ.  Ông muốn thực hiện một số suy nghĩ nghiêm trọng.  Ông viết:

“Và điều đó đã xảy ra với tôi… ở đây là cơ hội….  Tôi có thể sống đúng như tôi muốn, không phải chiều theo sự tiện nghi nhưng phải chịu đựng những trận gió giá lạnh của đêm tối, và không phải tuân theo luật lệ của bất cứ ai ngoài chính mình.”

Sau một tháng đầu sống cô độc, ông Byrd ghi nhận một vài điều “tốt” đang xảy đến.  Ông khám phá thấy rằng ông có thể sống một cách thâm sâu hơn nếu ông giữ lối sống đơn giản và đừng vướng bận với nhiều thứ vật chất.

Ông Byrd ra khỏi căn phòng đó là một con người thay đổi.  Ông kết thúc cuốn sách với những lời này:

“Tất cả điều này đã xảy ra bốn năm trước.  Sự văn minh không làm thay đổi các ý định của tôi.  Bây giờ tôi sống đơn giản hơn, và bình an hơn.”

Richard Byrd thuộc về một chuỗi người đã sống cô độc trong một thời gian để kiểm điểm lại chính bản thân và đời sống của mình.

Ông Môsê đã làm như thế; ông Êligia đã làm như thế; ông Gioan Tẩy Giả đã làm như thế.

Và chúng ta không ngạc nhiên khi Đức Giêsu cũng đã làm như thế.  Nhưng điều làm chúng ta ngạc nhiên là những gì đã xảy ra khi Đức Giêsu đi vào sa mạc một mình để suy nghĩ và cầu nguyện.  Người bị quỷ cám dỗ.

Điều này khiến chúng ta tự hỏi, “Tại sao Thiên Chúa lại để Con mình bị cám dỗ bởi quỷ?  Mục đích của điều đó là gì?”

Trong nhiều thế kỷ, các văn sĩ đã đưa ra nhiều câu trả lời cho câu hỏi đó.  Chúng ta hãy ngắn gọn nhìn đến hai câu trong các câu trả lời ấy.

Trước hết, sự cám dỗ trong sa mạc đem cho chúng ta một cái nhìn sáng suốt vào tâm trí của Đức Giêsu mà rất có thể chúng ta không để ý đến.

Hãy nghĩ đến sự cám dỗ.  Phúc Âm nói cho chúng ta biết sự cám dỗ xảy đến khi Đức Giêsu mệt và đói.  Thật dễ dàng chừng nào để Người dùng đến quyền năng biến các hòn đá thành cơm bánh và không còn đói nữa.  Nhưng Đức Giêsu đã từ chối dùng đến quyền năng của mình cho sự lợi lộc và thoải mái chính bản thân.

Điều này tiết lộ một vài điều mỹ miều về Đức Giêsu.  Nó cho chúng ta thấy Đức Giêsu là một con người không để thân xác điều khiển tinh thần.  Người không để cảm xúc ảnh hưởng đến hành động. Người hoàn toàn sống bởi thần khí.

Sau này chúng ta sẽ thấy điều này dữ dội hơn trong vườn Cây Dầu.  Ở đó, Đức Giêsu bị ngập tràn sự khổ não.  Mỗi một phần thân thể của Người đều nổi loạn chống với sự đau đớn và sự chết trước mắt.  Thánh sử Mátthêu nói rằng điều đó tệ hại đến độ Đức Giêsu “sấp mặt xuống đất và cầu nguyện, ‘Cha ơi, nếu có thể, xin lấy chén đau khổ này khỏi con!  Nhưng, không theo ý con, mà theo ý cha’.” (Mt 26:39)

Đức Giêsu là một con người không để thân xác điều khiển tinh thần.  Người đã không để cảm xúc ảnh hưởng đến hành động.

Một người như thế thật lôi cuốn.  Chúng ta không thể không thán phục những ai sống hoàn toàn bởi tinh thần.

Thật ngạc nhiên, chúng ta có thể tìm thấy loại quyết tâm này nơi người trẻ.  Tôi đang nghĩ về một học sinh trung học ở Chicago, em ở trong nhóm đấu vật.  Em thật nổi tiếng trong loại trọng lượng của em.

Tuy nhiên, vào năm lớp 12, điều nguy hiểm là em đang lên cân, không còn trong loại trọng lượng của mình.  Điều này đưa cả nhóm vào tình trạng bất lợi.  Vì thế em đã nhịn ăn suốt năm.  Thật vậy, em nhịn ăn đến nổi cha mẹ em sợ nguy hại đến sức khỏe của em.

Bất cứ bạn trẻ nào sau trận đấu thể thao thường dừng chân ở McDonald hay Burger King thì mới hiểu được sự hy sinh của học sinh này như thế nào.

Tôi cũng nhớ đến một nhạc sĩ vĩ đại là Arturo Toscanini.  Khi là một thanh niên, anh theo học Viện Âm Nhạc Hoàng Gia ở Parma, Ý Đại Lợi.

Vì xuất thân từ một gia đình nghèo, anh thường bán thịt trong bữa ăn tối cho các học sinh khác để lấy tiền mua bản nhạc.  Khi anh tốt nghiệp, anh nhớ đến hàng trăm bản nhạc.

Phải, một người sống hoàn toàn bởi tinh thần thì thật mỹ miều.

Chúng ta lại càng thán phục hơn nữa người sẵn sàng hy sinh rất nhiều cho ước mơ của mình.

Đức Giêsu là một người như thế.  Người thuộc về nhóm người đặc biệt đó, họ đã làm cho thế giới cao quý hơn bởi tinh thần độ lượng của họ.  Không hy sinh nào được coi là quá lớn đối với họ.  Không thử thách nào được coi là quá đòi hỏi đối với họ.  Không ước mơ nào được coi là không thể đối với họ.

Điều này đem chúng ta đến câu trả lời thứ hai về sự cám dỗ của Đức Giêsu trong sa mạc.  Nó ngắn, nhưng rất quan trọng.

Vì chính Đức Giêsu cảm nghiệm sự cám dỗ, Người biết cách làm thế nào để vượt qua sự cám dỗ.  Người cũng biết thật dễ dàng chừng nào khi bị sự cám dỗ cuốn trôi.

Vì lý do này, Đức Giêsu có thể cảm thông với chúng ta khi bị cám dỗ.  Người hiểu khi chúng ta chiều theo sự cám dỗ.  Vì Người đã bị cám dỗ như chúng ta, Đức Giêsu là người mà chúng ta có thể tìm đến khi bị cám dỗ và ngay cả sau khi chúng ta chiều theo sự cám dỗ.

Và như thế các bài đọc hôm nay cho chúng ta thấy hai điều về Đức Giêsu.  Trước hết, chúng cho thấy một Giêsu mà chúng ta thán phục.  Chúng cho thấy một Giêsu không xa cách với chúng ta mà chúng ta không thể noi gương Người.  Thứ hai, chúng cho thấy một Giêsu là người cảm thông với sự yếu đuối của chúng ta khi bị cám dỗ.

Chúng ta hãy kết thúc với những lời thích hợp trong Thư gửi Tín Hữu Do Thái:

Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội.  Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa… để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.  (Dt 4:15-16)

Lm. Mark Link S.J.

From: Langthangchieutim

YÊU VÀ ÔM LẤY – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo!”.

“Thập giá của Chúa Kitô tựa hồ một gánh nặng không thể thiếu như đôi cánh của một con chim, như cánh buồm của một con tàu. Ngài yêu và ôm lấy nó!” – Samuel Rutherford.

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay tiết lộ ‘cánh buồm’ của con tàu Giêsu cũng như ‘đôi cánh’ của Ngài, gánh mà Ngài đã ‘yêu và ôm lấy’ để hoàn tất chương trình cứu độ của Chúa Cha. Ngài muốn chúng ta – những kẻ theo Ngài – hãy làm như Ngài, “vác thập giá mình hằng ngày!”.

Thập giá và đau khổ có mặt ở mọi ngã rẽ cuộc đời, ai cũng muốn chạy trốn nó. Chúa Giêsu thì không! Dẫu thấy trước những khước từ, khổ đau và cái chết, Ngài không trốn chạy; trái lại, ‘yêu và ôm lấy’ nó như một cách thức biểu lộ tình yêu sâu sắc nhất. Với chúng ta, nhiều lần chúng ta ngắc ngoải, héo hon vì ‘cuộc chiến theo Chúa’ đòi hỏi chiến đấu liên lỉ, dai dẳng… và không ít lần chúng ta bải hoải. Con đường dẫn đến hoàn thiện hẳn có nhiều phần thưởng được hứa, nhưng nó cũng xói mòn, đục khoét. Thế nhưng, tuyệt vọng sẽ là điều xa lạ khi biết rằng, Chúa Kitô luôn đứng về phía chúng ta; nỗ lực giao chiến dằng dai của chúng ta có thể khiến Ngài vui lòng hơn là một chiến thắng dễ dàng. “Cuộc sống của người theo Chúa Kitô là một ‘nhiệm vụ quân sự’: chiến đấu chống lại tà thần, chống lại cái ác!” – Phanxicô.

Bài đọc Đệ Nhị Luật hôm nay cũng nói đến chiến đấu, chọn lựa. Môsê cho dân tự do chọn Chúa hay chọn thần ngoại, “Tôi đã đưa ra cho anh em chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa. Anh em hãy chọn sống để anh em và dòng dõi anh em được sống!”. Thánh Vịnh đáp ca cũng đồng tình, “Phúc thay người đặt tin tưởng nơi Chúa!”.

“Vác thập giá trở thành việc tham gia với Chúa Kitô vào công cuộc cứu rỗi thế giới. Hãy bảo đảm rằng, thánh giá treo trên tường nhà, hoặc thánh giá nhỏ đeo quanh cổ, là dấu chỉ cho thấy chúng ta mong muốn hiệp nhất với Chúa Kitô trong việc yêu thương phục vụ anh chị em mình. Đó là dấu thánh của tình yêu Thiên Chúa, dấu hy sinh của Chúa Kitô, và không được giản lược thành một vật mê tín hay một chiếc vòng cổ trang trí!” – Phanxicô.

Anh Chị em,

“Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo!”. “Không thể nghĩ đến một đời sống Kitô ngoài con đường thập giá. Hành trình của Kitô hữu là hành trình gắn liền thập giá, một hành trình mà Chúa Kitô đã thực hiện trước tiên. Đó là hành trình khiêm tốn, bỏ mình; và trỗi dậy! Không có thập giá, Kitô giáo không phải là Kitô giáo, và nếu thập giá không có Chúa Kitô thì đó càng không phải là Kitô giáo. Phong cách Kitô giáo là vác thập giá, ‘yêu và ôm lấy’ nó; quan trọng hơn, tiến về phía trước. Phong cách này sẽ cứu rỗi bạn và tôi, mang lại niềm vui và sản sinh hoa trái. Bởi lẽ, con đường từ bỏ chính mình mang lại sự sống, trái với con đường ích kỷ, bám víu cho bản thân… Con đường này – đường ban sự sống – còn mở ra cho những người khác nữa!” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con coi nhẹ ‘cánh buồm’ con tàu đời con – vốn nhiều lúc, quá nặng. Cho con kiên định ‘yêu và ôm lấy’ nó đến cùng. Kìa, bến bờ bình yên không còn xa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: Kim Bang Nguyen

*******************************************************8

Thứ Năm sau Lễ Tro

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

22 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ trỗi dậy.”

23 Rồi Đức Giê-su nói với mọi người : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo. 24 Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất ; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi, thì sẽ cứu được mạng sống ấy. 25 Vì người nào được cả thế giới mà phải đánh mất chính mình hay là thiệt thân, thì nào có lợi gì?”


 

Tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam và các Vị Tử Đạo Bà Rịa

Tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam và các Vị Tử Đạo Bà Rịa

“Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người.” (Ga 1,9)

Và Người đã dạy tất cả chúng ta:

“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; nếu chết đi thì nó mới sinh được nhiều bông hạt khác.” (Ga 12,24)

Đức Kitô là hạt lúa miến mà Chúa Cha đã gieo vào mảnh đất thế gian. Người đã tự hủy cách hoàn hảo, đơm hoa kết trái dồi dào. Người đích thực là vị tử đạo đầu tiên, trung kiên với sứ mạng được Thiên Chúa Cha trao phó. Người đã chết để bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ chân lý. Cuộc đời rao giảng, cuộc tử nạn và phục sinh của Người đã trở thành điểm khởi đầu và cùng đích cho đời sống đức tin của các Kitô hữu.

Khởi đi từ các tông đồ, trải qua lịch sử hơn 2000 năm của Giáo hội Công Giáo, các tín hữu ở khắp cùng trái đất đã vui mừng đón nhận vinh phúc tử đạo và coi đó là phương thế tuyệt vời để được chung phần với Đấng Phục Sinh. Các ngài đã sống và chết trong những bậc sống và hoàn cảnh khác nhau để làm chứng cho các giá trị Tin mừng.

Giáo hội Việt Nam hạnh phúc và tự hào khi được cùng chia sẻ vai trò chứng nhân cho con người trên quê hương Việt Nam này. Kể từ ngày các nhà thừa sai gieo mầm đức tin tại Việt Nam, hàng trăm ngàn tín hữu trên mảnh đất hình chữ S đã anh dũng tuyên xưng niềm tin của mình, dù phải chịu bắt bớ, tra tấn, tù đày và hy sinh mạng sống.

Gương sáng của các ngài đã được Giáo hội Hoàn Vũ ghi nhận và tôn vinh. Ngày 19 tháng 6 năm 1988 đã trở thành cột mốc trọng đại trong lịch sử Giáo hội Công Giáo Việt Nam, tại quảng trường Thánh Phêrô ở Rôma, Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã long trọng tuyên phong 117 vị Tử đạo tại Việt Nam lên hàng Hiển Thánh.

Trong số 117 vị, có 08 vị Giám mục đều là thừa sai ngoại quốc, 50 Linh mục với 13 vị người nước ngoài và 37 vị  người Việt Nam, 14 Thầy Giảng; 01 Chủng Sinh và 44 Giáo dân. Trong 117 cái chết anh dũng, có 01 vị chịu bá đao, 04 vị chịu lăng trì, 06 vị chịu thiêu sống, 75 vị chịu xử trảm, 22 vị bị xử giảo và 09 vị chết rũ tù.

Hướng về các bậc tiền bối với tâm tình ngưỡng mộ và biết ơn, cũng như để nhắc lại gương sáng của các ngài, hôm nay, Giáo hội Việt Nam đã công bố mở Năm Thánh tôn vinh Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, nhân dịp kỷ niệm 30 năm biến cố lịch sử trọng đại này. Năm Thánh khai mạc vào ngày 19.6.2018 (ngày tuyên phong 117 vị Thánh Tử đạo Việt Nam) và Bế mạc vào ngày 24.11.2018, ngày Lễ kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam trong năm lịch phụng vụ. Trong Năm Thánh này, các tín hữu được hưởng Ơn Toàn xá khi tham dự lễ khai mạc và bế mạc Năm Thánh, cũng như khi hành hương đến các địa điểm được chỉ định.

Tại Giáo phận Bà Rịa, thánh lễ khai mạc Năm Thánh được cử hành lúc 09g30 ngày 19.6.2018 tại Nhà thờ Chánh Tòa; thánh lễ bế mạc vào lúc 09g30 ngày 18.11.2018 tại Đền Thánh Đức Mẹ Bãi Dâu.

Nhà thờ Mồ được chọn làm nơi hành hương cho các tín hữu trong năm thánh. Nhà thờ Mồ nằm cách Nhà thờ Chánh Toà hiện nay khoảng 300m, trên khu đất trước đây là nghĩa trang giáo xứ. Dù chỉ là một ngôi nguyện đường khiêm tốn, nhưng đây chính là nơi cất giữ cả một ký ức hào hùng của cộng đoàn tín hữu Bà Rịa. Nơi đây ghi danh 288 vị anh hùng đức tin, và ghi dấu nhiều tín hữu vô danh khác, đã đổ máu đào làm nên lịch sử hào hùng cho mảnh đất Bà Rịa.

Chúng ta cùng lần giở lại những trang sử hào hùng cách đây gần 150 năm, để nhìn thấy dòng máu đỏ đã tuôn trào, làm nảy sinh và tăng trưởng bao thế hệ tín hữu. Năm 1861 – 1862 được ghi dấu là 02 năm lửa máu của Phước Tuy, tên gọi trước kia của Bà Rịa. Chính quyền thời đó ngờ vực người Công giáo theo Tây, cụ thể là các nhà sừa sai ngoại quốc cùng các binh sĩ Pháp và Tây Ban Nha, nên đã ra sức lùng bắt các tín hữu. Có khoảng 700 tín hữu đã bị bắt và giam vào 04 ngục thất:

Ngục Chánh tại làng Phước Lễ, giam 300 nam tín hữu.

Ngục thứ Hai cách ngục Phước Lễ khoảng hơn 3000 thước, dọc theo con đường Bà Rịa –  Xuân Lộc. Nơi đây giam giữ 135 tín hữu.

Ngục thứ Ba cách Phước Lễ độ hơn 5000 thước, trên đường hướng về Đất Đỏ, Long Điền. Có 140 tín hữu đã bị giam giữ tại đây.

Ngục thứ Tư trong làng Phước Thọ, trung tâm Họ Đất Đỏ, là nơi giam giữ 125 nữ tín hữu và trẻ con.

Thế rồi ngày hạnh phúc của các tín hữu đã đến. Ngày 7 tháng Giêng dương lịch năm 1862, người Pháp dẫn binh chiếm Phước Tuy, chính quyền địa phương tưởng rằng họ tiến vào giải thoát các tín hữu nên đã phóng hỏa 4 ngục thất. Ngoài một số tín hữu thoát thân, có tất cả 444 vị đã bị chết trong cuộc thiêu sinh đó.

Sau vài tháng tạm yên ổn, cuối năm 1862, một cuộc bắt bớ khác lại tái diễn ở vùng Gò Sầm, Đất Đỏ. Một cuộc lùng sục, truy đuổi các tín hữu lại diễn ra, chủ yếu vùng Đất Đỏ và Họ Thôm (Long Tâm). Lần bách hại này tuy ngắn ngủi nhưng cũng gần 200 tín hữu đã bị sát hại.

Tuy vậy, đúng như lời Chúa nói: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, nếu chết đi thì nó mới sinh được nhiều bông hạt khác. Các tín hữu đã nằm xuống vì đức tin, giọt máu của các ngài đã thấm vào mảnh đất Bà Rịa, làm đâm chồi nẩy lộc, đơm hoa kết trái là bao thế hệ Kitô hữu. Đạo Công giáo dần dần phục hưng và phát triển trên mảnh đất Bà Rịa.

Những năm sau đó, nhiều linh mục, trong đó có các Cha Cố người ngoại quốc, đã lần lượt đến để đồng hành, chăm sóc các tín hữu. Đặc biệt, Họ Bà Rịa vinh dự được Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng (sau này là Giám mục tiên khởi của Giáo hội Việt Nam) coi sóc từ năm 1917 đến 1926. Nhiều họ đạo đã được thiết lập, nhiều nhà thờ và các cơ sở tôn giáo như trường học, đất thánh, lầu chuông, phòng thuốc,…cũng dần xuất hiện. Các cử hành phụng vụ, các sinh hoạt giáo hội tại các họ đạo cũng ngày càng phát triển về quy mô và số lượng. Đặc biệt, ngày càng có nhiều anh chị em lương dân tìm đến với Giáo hội để được học giáo lý và lãnh nhận Bí tích Khai tâm Kitô giáo.

Nhìn lại hành trình đức tin trong những thế kỷ qua, nhìn thấy những thành quả tốt đẹp của Giáo hội hiện tại, mỗi người chúng ta càng được nhắc nhớ phải tỏ lòng tri ân các Thánh Tử Đạo Việt Nam, các Vị Tử đạo tại Bà Rịa cùng hàng trăm ngàn Kitô hữu vô danh khác đã hy sinh tính mạng để bảo vệ đức tin. Chúng ta tri ân các ngài bằng chính cuộc đời nhân chứng của mình. Đó cũng là lúc chúng ta tiếp nối sứ mạng của các ngài, thi hành nhiệm vụ của mỗi người tín hữu đã được Chúa Phục sinh trao phó.

Về việc tổ chức mừng năm thánh, tại Giáo phận Bà Rịa, ngoài thánh lễ khai mạc và bế mạc Năm thánh, mỗi giáo xứ, giáo họ biệt lập, các dòng tu, các giới và các thành phần tông đồ cấp giáo phận sẽ thực hiện một ngày hành hương riêng kính viếng Nhà thờ Mồ. Ngoài ra, tại mỗi giáo hạt sẽ cử hành ngày sinh hoạt để học hỏi, tôn vinh và cầu nguyện cùng các Thánh tử Đạo Việt Nam cũng như các Vị Tử đạo Bà Rịa.

Sống tinh thần Năm Thánh, mỗi tín hữu được mời gọi chiêm ngắm và học hỏi gương sống đức tin của Các Thánh Tử Đạo Việt Nam. Việc học hỏi này vừa giúp chúng ta hiểu biết hơn về lịch sử Hội Thánh và Các Thánh Tử Đạo, vừa thúc đẩy chúng ta noi theo gương sống của các ngài, tích cực sống tinh thần tử đạo trong cuộc sống hàng ngày hôm nay.

Ước gì, nhờ việc tham dự các cử hành Năm Thánh Tôn vinh các Thánh Tử Đạo Việt Nam, mỗi Kitô hữu chúng ta được hưởng trọn vẹn những ơn ích thiêng liêng mà Năm Thánh đem lại, biết dùng ơn Chúa ban để hăng hái phụng sự Chúa, và tích cực góp phần vào việc loan báo Tin Mừng trên quê hương đất nước chúng ta.

Lạy các Thánh Tử Đạo Việt Nam, xin cầu cho dân tộc Việt Nam chúng con. Amen.

Lm. Antôn – Phước Tỉnh