VĂN HOÁ KHUYẾN KHÍCH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”.

“Hãy tâng bốc tôi, tôi có thể không tin bạn! Hãy chỉ trích tôi, tôi có thể không thích bạn! Hãy quên bẵng tôi, tôi có thể không tha cho bạn! Nhưng hãy khích lệ tôi, tôi sẽ không bao giờ quên bạn!” – William Arthur Ward.        

Kính thưa Anh Chị em,

Các nhân vật của Lời Chúa hôm nay là những con người luôn khích lệ mà Giáo Hội và thế giới sẽ không bao giờ lãng quên: Barnaba, ‘Con của sự khích lệ’; và Giêsu, ‘Chúa của sự khích lệ!’. Lời Chúa muốn chúng ta sống ‘văn hoá khuyến khích!’. Vì lẽ, một ngọn nến sẽ không mất gì khi thắp sáng cho những ngọn nến khác!      

Bài đọc Công Vụ Tông Đồ tường thuật cuộc viếng thăm của Barnaba; “Barnaba”, tiếng Hy Lạp có nghĩa là ‘Con của sự khích lệ!’. Từ Giêrusalem, Barnaba được cử xuống Antiôkia để xem hiện tình. Vui mừng khi thấy “ơn Thiên Chúa” ban, Barnaba “khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa”; ông dành cho anh chị em tân tòng một sự khích lệ lớn lao. Sau đó, Barnaba đến Taxô tìm Phaolô, người mới tin; đưa ông đi Antiôkia để hỗ trợ cho Hội Thánh non trẻ này. Từ đó, Phaolô trở thành trụ cột của Antiôkia; và “Chính tại Antiôkia, lần đầu tiên, các môn đệ được gọi là Kitô hữu”, Hội Thánh ngày càng có nhiều người tin; Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ niềm vui, “Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa!”.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói những lời đầy khích lệ, “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi!”. Mục tử nhân lành Giêsu ra sức bảo vệ đoàn chiên; nhưng để khỏi bị cướp, mỗi con chiên cần đóng góp phần tích cực của mình, nghĩa là, phải im ắng đủ để nghe tiếng Ngài, quen thuộc với tiếng của Ngài; đồng thời, mỗi con chiên còn phải hỗ trợ những con chiên khác, cách riêng những con đau yếu và luôn đi chậm trong đàn. Hãy khuyến khích nhau, “Nếu bạn không thể bay, hãy chạy! Nếu bạn không thể chạy, hãy đi! Nếu bạn không thể đi, hãy bò! Nhưng dù bạn làm gì, hãy tiếp tục tiến về phía trước!” – Martin Luther King Jr..

Anh Chị em,

“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”. Noi gương Chúa Giêsu, ‘Chúa của sự khích lệ’; bắt chước Barnaba, ‘Con của sự khích lệ’, chúng ta cũng ao ước “sự sống đời đời” cho mình và cho tha nhân. Như các ngài, chúng ta khuyến khích nhau trong đức tin, giúp nhau lớn lên khi sống mật thiết mối quan hệ với Chúa, với nhau. Cha mẹ khuyến khích con cái, con cái khuyến khích cha mẹ; anh chị em, bạn bè khuyến khích nhau để nên thánh mỗi ngày; vì “Không ai lên thiên đàng một mình!”. Ước gì chúng ta có một trái tim lặng đủ để giúp nhau nhanh nhạy ‘ngẩng lên’ mỗi khi nghe Giêsu Mục Tử gọi và mau mắn thi hành điều Ngài muốn! Từ đó, dám dấn thân, trở nên những con người sẵn sàng vực dậy những ai đang bủn rủn, đầu gối rã rời. Như vậy, trong mọi lĩnh vực, ‘mục vụ khuyến khích’, ‘văn hoá khuyến khích’ vẫn đóng một vai trò nhất định, không chỉ ở các Hội Thánh non trẻ, mà cả với Giáo Hội trưởng thành và cả trong thế giới hiện đại!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con nhìn mọi sự dưới lăng kính tiêu cực. Cho con luôn dấn thân để khơi dậy niềm cảm hứng nơi anh chị em con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

******************************************

Thứ Ba Tuần IV Phục Sinh

Tôi và Cha tôi là một.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.        Ga 10,22-30

22 Khi ấy, ở Giê-ru-sa-lem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa đông. 23 Đức Giê-su đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang Sa-lô-môn. 24 Người Do-thái vây quanh Đức Giê-su và nói : “Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết.” 25 Đức Giê-su đáp : “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. 26 Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. 27 Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi ; tôi biết chúng và chúng theo tôi. 28 Tôi ban cho chúng sự sống đời đời ; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. 29 Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. 30 Tôi và Chúa Cha là một.”


 

“Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. (Ga 10:7)-Cha Vương

Chúc một ngày tràn đầy yêu thương và ngọt ngào giống như ngày “Mother’s Day” vậy nhé.

Cha Vương

Thứ 2, 4PS: 12/5/2025

TIN MỪNG: Vậy, Đức Giê-su lại nói: “Thật, tôi bảo thật các ông: Tôi là cửa cho chiên ra vào. (Ga 10:7)

SUY NIỆM: Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu sử dụng hai hình ảnh khác nhau – Người là Mục Tử nhân lành và là cửa chuồng. Ngài tự nhận mình là cả hai. Người muốn nhắc nhở cho bạn rằng người mục tử là người đi vào qua cánh cổng, đi trước đàn chiên và gọi chiên đi theo Người. Ngài đi trước để kiểm tra chuồng coi có an toàn để đưa chiên vào không. Sau khi đàn chiên vào chuồng rồi thì Ngài lại ra cổng và nằm ở đó—“nội bất xuất ngoại bất nhập”. Ai muốn ra vào phải thông qua Người, nói nôm na là kẻ trộm nào muốn vào thì phải “bước qua xác chết” của Người thì mới vào được. Ngài đã quên bản thân mình để phục vụ vì lợi ích của đàn chiên và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên. Ngài yêu thương và bảo vệ bạn và mình đến cỡ đó đó! Còn bạn thì sao? Bạn yêu mến Chúa và anh em đến cỡ nào?

LẮNG NGHE: Con yêu mến Ngài, lạy CHÚA là sức mạnh của con; / lạy CHÚA là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải thoát con; lạy Thiên Chúa con thờ, là núi đá cho con trú ẩn, là khiên mộc, là Đấng cứu độ quyền năng, là thành trì bảo vệ. / Tôi kêu cầu CHÚA là Đấng xứng muôn lời ngợi khen, và tôi được cứu thoát khỏi quân thù. (Tv 18:2-4)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, chỉ một mình Chúa mới đưa con đến cuộc sống đời đời mà không ai có thể cướp khỏi tay Chúa được, xin giúp con theo Chúa cho đến cùng.

THỰC HÀNH: Thể hiện sự quan tâm đến một ai đó.

Do Dzung

*********************

Biết Chúa biết con – Lệ Hằng

  ƯỚC GÌ MẸ CÓ MƯỜI TAY – CA DAO MƯỜNG – HÌNH ẢNH VCH

(CA DAO MƯỜNG – HÌNH ẢNH VCH)

 Nhân Ngày Của Mẹ, mời các bạn đọc lại bài ca dao của người Mường. Lời ru con đầy chất dân ca, chứa đựng cả một trời tâm sự của mẹ…

MƯỜI TAY

Bồng bồng con nín con ơi
Dưới sông cá lội, ở trên trời chim bay
Ước gì mẹ có mười tay
Tay kia bắt cá, còn tay này bắn chim
Một tay chuốt chỉ luồn kim
Một tay đi làm ruộng, một tay tìm hái rau

Một tay ôm ấp con đau
Một tay vay gạo, một tay cầu cúng ma
Một tay khung cửi guồng xa
Một tay lo bếp nước, lo cửa nhà nắng mưa
Một tay đi củi muối dưa
Còn tay để van lạy, để bẩm thưa, đỡ đòn
Tay nào để giữ lấy con
Tay nào lau nước mắt, mẹ vẫn còn thiếu tay
Bồng bồng con ngủ cho say
Dưới sông cá vẫn lội, chim vẫn bay trên trời

(Ca dao dân tộc Mường, Cầm Giang dịch)

From: taberd- & NguyenNThu


 

TIẾNG NGƯỜI LẠ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ!”.

Một người Mỹ du lịch Syria, thấy ba người chăn chiên dẫn đoàn vật mình chung một con đường. Lúc sau, người thứ nhất hô to, “Men ah! Men ah!”, “Theo tôi!”. Chiên anh tách đàn, túc tắc theo anh lên một ngọn đồi. Người thứ hai làm thế, chiên lửng thửng theo anh. Người Mỹ nói với người thứ ba, “Cho tôi mượn mũ, gậy; tôi gọi, xem sao?”. Người ấy vui lòng. Người Mỹ gọi, “Men ah! Men ah!”. Chẳng con nào ngẩng lên! “Chiên không nghe ai khác, trừ một mình anh?” – “Có chứ! Vài con bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai!”.

Kính thưa Anh Chị em,

“Vài con bệnh, nó sẽ đi theo bất cứ ai!”. Lời Chúa hôm nay bất ngờ hỏi chúng ta, “Con có khoẻ không?”. Hy vọng bạn khoẻ để từ chối ‘tiếng người lạ’ và chỉ nghe tiếng Giêsu – Chủ Chiên!”.

Có lẽ chúng ta thường tự trấn an, ‘tiếng người lạ’ không ảnh hưởng mấy đến tôi! Thế nhưng tiếng của ‘tin lạ’, ‘tình lạ’, ‘tiền lạ’ và các thứ lạ khác lại ảnh hưởng lên bạn và tôi nhiều hơn chúng ta tưởng. Và dù tin hay không tin, chúng vẫn tác động và áp lực mạnh mẽ lên đời sống chúng ta! Chúa Giêsu nói đến sự khác biệt giữa tiếng mục tử và ‘tiếng người lạ’. Chiên dễ thuần thục khi được dạy để phản ứng có điều kiện, vì chủ chiên thường nói chuyện với chiên. Nghe anh, chiên ngẩng lên và đi theo anh; với người lạ thì không!

Điều này cũng đúng với chúng ta. Bạn sẽ đi theo tiếng người mà bạn quen! Vậy thì bạn quen với tiếng ai nhất? Lý tưởng là chúng ta dành đủ thời gian cho việc đọc Lời Chúa, học ngôn ngữ, giọng điệu và tiếng của Ngài; lý tưởng là chúng ta dành một phần thời gian trong ngày, mỗi ngày, im lặng đủ để chiêm ngắm, cầu nguyện. Khi làm điều này, bạn xây dựng cho mình một ‘thói quen nghe’ và trở nên dễ chịu với tiếng Chúa. Một khi thói quen này được hình thành, bạn sẽ dễ dàng hơn rất nhiều trong việc nhận ra tiếng Chúa và làm theo ý Ngài giữa những bận rộn ‘đời đời’ của mình!

Câu chuyện Công Vụ Tông Đồ hôm nay là một minh hoạ. Những người đồng hương trách Phêrô vì ông giao du với người ngoại. Nhưng nhờ cầu nguyện và lắng nghe, Phêrô nhận ra tiếng Chúa qua câu chuyện dài ông đã kể cho họ, “Nghe xong, họ mới chịu im”; họ nói, “Vậy ra Thiên Chúa cũng ban cho các dân ngoại ơn sám hối để được sự sống!”.

Anh Chị em,

“Chúng không nhận biết tiếng người lạ”. Chúa Giêsu không bao giờ nghe tiếng lạ! Cuộc chiến của Ngài trong hoang địa 40 đêm ngày đã chứng tỏ điều đó. Ngài luôn hướng về Chúa Cha, và quen với tiếng của Cha, nên Ngài luôn làm điều đẹp lòng Cha. Cũng thế, với chúng ta, đừng để ‘tiếng người lạ’ lấn át tiếng của Giêsu Mục Tử Nhân Lành và Thánh Thần của Ngài! Ngài thật thân quen; là Chúa, là bạn, là anh em, miệt mài nói to nói nhỏ với chúng ta mỗi ngày để bạn và tôi có thể ‘phản xạ có điều kiện’ mỗi khi Ngài gọi. Nhưng không phải lúc nào chúng ta cũng nhạy bén để nghe được Ngài giữa bao bận rộn. Vì vậy, hãy cẩn thận! Chúng ta luôn có nguy cơ phân tâm bởi những ‘tiếng lạ’ vốn luôn ngọt ngào, lôi cuốn. Đừng để mình thuộc số vài con chiên bệnh vốn “sẽ đi theo bất cứ ai!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, có lẽ con ‘không khoẻ’ lắm, nếu không nói là ‘bệnh’. Xin chữa lành con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

***********************************

Thứ Hai Tuần IV Phục Sinh

Tôi là cửa cho chiên ra vào.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.        Ga 10,1-10

1 Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Do-thái rằng : “Thật, tôi bảo thật các ông : Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. 2 Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. 3 Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh ; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. 4 Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. 5 Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.” 6 Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu những điều Người nói với họ.

7 Vậy, Đức Giê-su lại nói : “Thật, tôi bảo thật các ông : Tôi là cửa cho chiên ra vào. 8 Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp ; nhưng chiên đã không nghe họ. 9 Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. 10 Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào.”


 

“Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. (Ga 10:27) – Cha Vương

Happy Mother’s Day đến những người Mẹ! Ơn gọi của Mẹ tuyệt vời lắm đó. Trong ánh mắt của người mẹ có thể có nhiều người con nhưng trong ánh mắt của người con chỉ có một mình mẹ thôi. Hỡi các người con hãy chăm sóc mẹ mình nhé.

Cha Vương

CN, 4PS: 11/5/2025

TIN MỪNG: Khi ấy, Đức Giê-su nói với người Do-thái rằng: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. (Ga 10:27)

SUY NIỆM: Đoạn Tin Mừng hôm nay đưa ra 3 hành động then chốt trong các mối quan hệ: (1) Nghe, (2) Biết (3) Theo. Chúa là người Mục Tử Tốt Lành, Ngài lắng nghe những nhu cầu của bạn, Ngài biết bạn cần gì kể cả khi bạn không biết chính bạn nữa do đó Ngài theo bạn đến cùng. Hôm nay bạn cũng được mời gọi làm y như vậy. Là người theo Chúa thì bạn cần phải NGHE tiếng Chúa,  BIẾT chúa, và rồi để THEO chúa. 

(1) NGHE: Nghe Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa qua Kinh thánh, nơi giáo huấn của Giáo hội, và những ơn soi sáng nơi tâm hồn mình. Nghe Chúa chính là để có một mối tương giao mật thiết với Người, và nhất là để tin vào Người. 

 (2) BIẾT: Biết Chúa không chỉ là học hỏi và suy niệm theo nghĩa trí thức, mà là hiểu biết sâu xa, yêu thân tình đến nỗi kết hợp cả thân xác lẫn tâm hồn. Chính tình yêu mới làm cho bạn nhận biết Chúa một cách đích thực, đến nỗi hy sinh tất cả để thực thi thánh ý Người.

 (3) THEO: Theo Chúa chính là một thái độ hoàn toàn tự do, tự nguyện dấn thân, và trao phó thân phận cho duy một mình Người. Theo Chúa cũng là từ bỏ như Phêrô bỏ chài lưới, vợ con, cha mẹ và mọi sự để theo Thầy; như Matthêu bỏ địa vị, tiền của để theo Chúa; như Mađalêna bỏ đường tội lỗi bước vào đời sống mới. Đó là đổi đời, từ bỏ nếp sống cũ, một cuộc tái sinh vào đời sống mới.

Đi đâu cho thiếp đi cùng, 

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.

Theo vậy mới là theo chứ hả?

LẮNG NGHE: Vì Con Chiên đang ngự ở giữa ngai sẽ chăn dắt và dẫn đưa họ tới nguồn nước trường sinh. Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. (Kh 7:17)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, đường theo Chúa “chẳng thiếu gian khó dặm trường chẳng thiếu mưa gió mịt mùng. Không thiếu những ngày quạnh vắng cô đơn những ngày đời con tăm tối u buồn.” Xin giúp con luôn luôn vững tin để theo Chúa đến cùng. 

THỰC HÀNH: Mối quan hệ của bạn với Chúa như thế nào? Tự thay đổi hành động NGHE-BIẾT-THEO của bạn đối với Chúa nhé.

From: Do Dzung

************************

Đường con theo Chúa -tinmung.net

Sài Gòn có mưa lớn nhất 8 năm, khắp nơi ngập nặng, xe chết máy

Ba’o Nguoi-Viet

May 10, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Cơn mưa vào sáng 10 Tháng Năm kéo dài một giờ rưỡi với lượng nước đo được gần 230 mm được xác nhận là “lớn nhất từ năm 2018 đến nay” khiến nhiều nơi ở Sài Gòn ngập nặng, các loại xe chết máy nằm la liệt.

Hình ảnh do các báo trong nước đăng tải cho thấy tại những khu vực như phường Tam Bình (thành phố Thủ Đức), quận Bình Thạnh, nước ngập hơn nửa mét, qua thắt lưng người lớn, thậm chí một số nơi nước ngập quá nửa căn nhà, gây thiệt hại nhiều tài sản.

Chỉ còn xe buýt chạy được trên đường trong lúc xe hơi, xe gắn máy chết máy la liệt ở Sài Gòn do mưa lớn hôm 10 Tháng Năm. (Hình: VNExpress)

Phóng viên báo VNExpress mô tả, nước ngập tràn vào nhà, cửa hàng cạnh xa lộ Hà Nội và cả vùng ven như huyện Hóc Môn, Củ Chi, khiến nhiều người phải vất vả tát nước.

Nhiều chủ cửa hàng hoặc tiểu thương bán ở chợ phải căng nylon, dựng tấm ván, đắp đê ngăn nước ngập làm hư hỏng hàng hóa.

Trên nhiều tuyến đường ở Sài Gòn, nước ngập khiến xe hơi, xe gắn máy chết máy, trong lúc chỉ còn xe buýt chạy được.

Còn theo ghi nhận của phóng viên báo Tiền Phong, nhiều ống cống ở Thủ Đức xuống cấp, lại bị rác thải và bùn đất bít kín khiến nhiều khu vực trở thành “rốn ngập,” nước dâng cao đến ngực người lớn, mỗi khi xảy ra mưa to.

Nước ngập hơn thắt lưng người lớn hôm 10 Tháng Năm tại phường Tam Bình, thành phố Thủ Đức, Sài Gòn. (Hình: Tiền Phong)

Ông Nguyễn Ngọc Huy, chuyên gia thời tiết, cho hay những ngày qua tại Sài Gòn có nắng nóng oi bức cùng “hiệu ứng đô thị,” khiến hơi ẩm bốc lên cao tích tụ rất nhiều.

Hiện tượng này kết hợp với “rìa của khối khí lạnh và khô hơn” ở trên tầng khí quyển hội tụ cực mạnh tạo nên “mưa dị thường” như trong hôm 10 Tháng Năm.

Chợ Thủ Đức nằm trong biển nước. (Hình: VNExpress)

Ngoài Sài Gòn, các tỉnh Đông Nam Bộ như Bình Dương, Đồng Nai cũng mưa lớn từ 100 đến 150 mm, gây ngập nặng ở các vườn trái cây, cô lập một số khu dân cư.

Ông Huy cũng đưa dự báo rằng từ nay đến ngày 14 Tháng Năm, tần suất mưa tại Sài Gòn và khu vực Nam Bộ sẽ gia tăng, người dân cần chuẩn bị ứng phó với hiện tượng gió giật mạnh, lốc xoáy, sấm sét hoặc mưa đá. (N.H.K) [qd]


 

KATYN: 70 NĂM DỐI TRÁ VÀ HÀNH TRÌNH HOÀN TRẢ SỰ THẬT LỊCH SỬ

Lê Thọ Bình

Một thảm sát âm thầm, bị quên lãng:

Mùa xuân năm 1940, tại những khu rừng tĩnh lặng Katyn gần Smolensk, Liên Xô đã hành quyết bí mật hơn 22.000 sĩ quan, trí thức và công chức người Ba Lan, những người bị xem là mối đe dọa tiềm tàng đối với quyền lực Xô viết ở phần lãnh thổ miền Đông Ba Lan mà Liên Xô vừa chiếm đóng.

Cuộc thảm sát do chính lãnh tụ Joseph Stalin phê chuẩn và được thực hiện bởi cơ quan mật vụ NKVD trong thời gian chưa đầy hai tháng.

Thế nhưng, suốt gần nửa thế kỷ sau đó, cả thế giới bị dẫn dụ vào một màn kịch tuyên truyền tinh vi khi thủ phạm thực sự, chính quyền Liên Xô, cố tình đổ lỗi cho phát xít Đức, kiểm soát truyền thông, tiêu hủy chứng cứ, và đàn áp bất kỳ tiếng nói nào dám đặt nghi vấn.

Hành trình để khôi phục sự thật về Katyn là một câu chuyện bi tráng của lịch sử, nơi những tài liệu mật chôn vùi trong hòm sắt của Đảng, những hồi ký nghẹn lời của người sống sót, và những cái chết oan khuất giữa ranh giới ý thức hệ, tất cả đã góp phần khắc họa một trong những tội ác chiến tranh bị che đậy lâu nhất trong thế kỷ XX.

Từ hiệp ước Molotov- Ribbentrop đến lệnh hành quyết của Stalin:

Ngày 23/8/1939, chỉ vài ngày trước khi phát xít Đức tấn công Ba Lan, Liên Xô và Đức đã ký Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau Molotov–Ribbentrop, kèm theo một nghị định thư bí mật phân chia Đông Âu thành hai vùng ảnh hưởng.

Hệ quả là vào ngày 17/9/1939, Hồng quân Liên Xô tràn vào miền Đông Ba Lan, bắt giữ khoảng 250.000 quân nhân, cảnh sát, trí thức và công chức Ba Lan.

Trong số này, hơn 22.000 người được chuyển về các trại tù như Kozelsk, Starobelsk, Ostashkov. Họ là những thành phần tinh hoa: sĩ quan quân đội, bác sĩ, luật sư, giáo sư đại học, những người, theo mắt nhìn của Stalin và Beria, không thể cải tạo, không thể sử dụng, mà chỉ có thể thủ tiêu.

Ngày 5/3/1940, Lavrenty Beria, người đứng đầu NKVD, gửi lên Bộ Chính trị đề xuất xử tử 25.700 tù nhân Ba Lan. Bản đề xuất ấy được Stalin, Molotov, Voroshilov, Mikoyan và Kalinin đồng loạt ký tên, ghi rõ: “Không xét xử. Không trì hoãn.”

Tài liệu này-,về sau được biết với tên gọi “Biên bản số 13”- là văn bản tử hình tập thể quy mô lớn hiếm hoi có chữ ký trực tiếp của Stalin.

Thảm sát diễn ra tại ba địa điểm chính: rừng Katyn (gần Smolensk), Kalinin (nay là Tver), và Kharkov. Các nạn nhân bị bắn vào sau gáy, thi thể chôn trong các hố tập thể kín đáo giữa rừng sâu.

Màn kịch tuyên truyền: “Đức là thủ phạm”:

Tháng 4 năm 1943, phát xít Đức công bố phát hiện các hố chôn tập thể tại Katyn sau khi chiếm được khu vực này.

Một nhóm điều tra quốc tế do Hội Chữ Thập Đỏ dẫn đầu, bao gồm các chuyên gia từ Thụy Sĩ, Croatia, và Thụy Điển, xác nhận thời điểm tử vong rơi vào năm 1940, khi Liên Xô còn kiểm soát khu vực.

Phản ứng của Liên Xô rất nhanh chóng: phủ nhận toàn bộ, khẳng định Đức mới là thủ phạm, và cắt đứt quan hệ ngoại giao với chính phủ Ba Lan lưu vong vì “theo lời địch”.

Liên Xô lập ra một Ủy ban “điều tra” riêng dưới sự chỉ đạo của học giả Nikolai Burdenko, thực chất là một cơ quan ngụy tạo, bóp méo thời gian, dựng lại chứng cứ giả để kết tội phát xít Đức.

Mọi nỗ lực của các học giả, nhà báo hay cựu chiến binh phương Tây muốn điều tra độc lập đều bị cấm cản hoặc vô hiệu hóa trong bối cảnh chiến tranh.

Sự im lặng kéo dài qua các đời Tổng bí thư:

Sau chiến tranh, vụ Katyn tiếp tục là một “vùng cấm”. Tại Tòa án Nürnberg (1946), Liên Xô cố gắng đưa vụ Katyn ra làm bằng chứng chống lại Đức, nhưng các thẩm phán quốc tế từ chối tiếp nhận vì nghi vấn lớn về tính xác thực.

– Dưới thời Nikita Khrushchev (1953–1964), dù khởi xướng phong trào phi Stalin hóa, ông vẫn không đả động gì đến Katyn.

Theo tài liệu từ hậu trường, Khrushchev đã tiếp cận được hồ sơ mật nhưng nhận thấy vụ việc quá nhạy cảm để công bố, đặc biệt trong bối cảnh Ba Lan là đồng minh thuộc khối XHCN.

– Leonid Brezhnev (1964–1982) tiếp tục chính sách che đậy. Các tài liệu lưu trữ về Katyn được đưa vào “Gói số 1”, hệ thống hồ sơ tuyệt mật chỉ vài người trong Bộ Chính trị được phép tiếp cận. Cơ quan tuyên truyền của Đảng thậm chí còn tổ chức sản xuất phim tài liệu “chứng minh” Đức là thủ phạm.

– Yuri Andropov (nguyên lãnh đạo KGB, Tổng bí thư 1982–1984) tiếp tục bảo vệ hệ thống dối trá này, ra lệnh kiểm soát các nghiên cứu lịch sử độc lập và ngăn chặn những tài liệu nước ngoài đề cập đến Katyn.

Từ Khrushchev đến Chernenko, ba thế hệ lãnh đạo Liên Xô đã đồng thuận trong sự im lặng: sự thật về Katyn không thể xuất hiện.

Gorbachev: Khi lịch sử trở thành cơn ác mộng:

Chỉ đến cuối thập niên 1980, dưới làn sóng cải tổ (Perestroika) và công khai (Glasnost) của Mikhail Gorbachev, hy vọng làm sáng tỏ vụ Katyn mới dần manh nha.

Trước áp lực của sử gia, báo giới và đặc biệt từ chính phủ Ba Lan thời hậu cộng sản, Gorbachev chấp thuận mở lại kho lưu trữ và cho phép kiểm tra “Gói số 1”.

Theo lời kể của Anatoly Chernyaev, cố vấn thân cận của Gorbachev, trong một phiên làm việc tại Kremlin năm 1989, khi Gorbachev lần đầu đọc “Biên bản số 13”, ông “rợn tóc gáy” và “lặng người rất lâu”. Ông nói: “Tôi không thể tin rằng người ta có thể ký cái này như ký một công văn hành chính.”

Năm 1990, Gorbachev chính thức công nhận rằng vụ Katyn do NKVD thực hiện, nhưng tránh nêu đích danh Stalin. Một phần sự thật đã được trả lại, nhưng vẫn thiếu điểm mấu chốt: ai ra lệnh?

Yeltsin và sự công bố muộn màng nhưng cần thiết:

Sau khi Liên Xô tan rã năm 1991, Tổng thống Boris Yeltsin kế nhiệm một di sản đầy dối trá.

Trong một hành động táo bạo và có ý nghĩa biểu tượng, ngày 14/10/1992, Yeltsin trao lại cho Tổng thống Ba Lan Lech Wałęsa bản sao tài liệu “Biên bản số 13”, có chữ ký của Stalin, Molotov và toàn bộ Bộ Chính trị, phê duyệt lệnh xử bắn 21.857 công dân Ba Lan.

Yeltsin phát biểu trong buổi lễ:

“Không có tương lai cho một đất nước che giấu quá khứ. Sự thật dù đau đớn đến đâu cũng phải được đưa ra ánh sáng. Đó là nghĩa vụ đạo đức của chúng tôi.”

Đây là lần đầu tiên chính quyền Nga thừa nhận bằng tài liệu chính thức rằng Stalin và nhà nước Liên Xô chịu trách nhiệm trực tiếp về vụ thảm sát Katyn.

Nghị quyết của Quốc hội Nga: Thừa nhận lịch sử, nhưng không đoạn tuyệt:

Phải đến tận ngày 26/11/2010, Quốc hội Nga (Duma Quốc gia) mới thông qua một nghị quyết chính thức công nhận vụ thảm sát Katyn là tội ác của chính quyền Stalin. Trong nghị quyết, Duma tuyên bố:

“Các tài liệu mật từ kho lưu trữ của Kremlin cho thấy rõ: vụ hành quyết hơn 22.000 công dân Ba Lan tại Katyn là hành động tội phạm có chủ đích, được thực hiện theo lệnh trực tiếp của Stalin và giới lãnh đạo Liên Xô.”

Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Nga phản đối dữ dội, cáo buộc rằng “các tài liệu có thể bị làm giả”, cho thấy việc đối diện với sự thật vẫn còn là quá trình đầy đau đớn và chia rẽ trong chính nội bộ nước Nga.

Katyn – dấu vết của sự thật và bóng tối của quyền lực:

Vụ thảm sát Katyn là tấm gương soi chiếu nhiều tầng lớp của lịch sử thế kỷ XX: từ sự tàn bạo của các chế độ toàn trị, sự ngoan cố của dối trá, cho đến sức mạnh không thể đảo ngược của sự thật.

70 năm sau thảm sát, chỉ đến khi hệ thống sụp đổ, sự thật mới được trả về với những người đã chết trong âm thầm.

Không chỉ là một vụ giết người hàng loạt, Katyn còn là một lời nhắc nhở: lịch sử có thể bị che giấu một thời gian, nhưng không thể bị vùi lấp vĩnh viễn. Và mỗi thế hệ đều có trách nhiệm giữ gìn, công bố và học hỏi từ sự thật ấy.

Bản đồ các địa điểm liên quan đến vụ thảm sát Katyn


TRÍCH ĐOẠN NỘI DUNG CHÍNH BIÊN BẢN SỐ 13:

(Dịch sang tiêang Việt)

Tuyệt mật

5 tháng 3 năm 1940

Ủy ban Nhân dân Phụ trách Nội vụ Liên Xô (NKVD)

Gửi đồng chí Stalin

Trong các trại tù binh và nhà tù ở các khu vực phía tây của Ukraine và Belarus hiện đang giam giữ một số lượng lớn cựu sĩ quan quân đội Ba Lan, cảnh sát, nhân viên tình báo, thành viên các đảng phản cách mạng, và những người khác. Tất cả đều là kẻ thù không thể hòa giải của chính quyền Xô viết.

Đề nghị:

1- Xét xử theo thủ tục đặc biệt, không triệu tập bị can, không đưa ra cáo buộc, và không ban hành phán quyết, đối với 14.700 người bị giam giữ trong các trại tù binh và 11.000 người bị giam giữ trong các nhà tù, với hình phạt tử hình bằng cách xử bắn.

2- Giao việc xét xử cho một “Troika” đặc biệt gồm các đồng chí Merkulov, Kobulov và Bashtakov.

Ký tên: L. Beria

Đã phê duyệt:

Stalin – Tán thành

Voroshilov – Tán thành

Molotov – Tán thành

Mikoyan – Tán thành

Ghi chú bên lề:

Kalinin – Tán thành

Kaganovich – Tán thàn

Основные источники:

(Các Tài liệu tham khảo chính)

1- Берия, Лаврентий. Меморандум Сталину, 5 марта 1940 г. Архив Президента Российской Федерации (Пакет №1).

2- Специальный комитет Палаты представителей США. Резня в Катынском лесу, 1952 г.

3- Черняев, Анатолий. Мои шесть лет с Горбачёвым, 1993 г.

4- Наумов В., Яковлев А. Лубянка — Сталин — Катынь: Особые папки, 1995 г.

5- Государственная Дума Российской Федерации. Резолюция о Катынском расстреле, 2010 г.

Tù binh Ba Lan bị Hồng quân bắt giữ trong cuộc tấn công Ba Lan


 

Những ‘người con’ của Trường Xuân sau nửa thế kỷ tha hương

Ba’o Nguoi-Viet

May 10, 2025

Trà Nhiên/Người Việt

MISSION VIEJO, California (NV) – Trường Xuân là tên con tàu cuối cùng rời cảng Sài Gòn ngày 30 Tháng Tư, 1975, chở theo hơn 3,600 người vượt biển đến bến bờ tự do. Trên chuyến hải hành nghìn trùng ấy, một hài nhi đã ra đời. Trên tàu còn có một thiếu niên 16 tuổi.

Trường Xuân và hàng ngàn “người con” dìu dắt nhau đến bến bờ tự do (hình trái) và tàu Trường Xuân chờ tàu Clara Maersk của Đan Mạch giải cứu. (Hình: Chiêu Anh Vũ-Lieberman cung cấp)

Giờ đây, sau hơn nửa thế kỷ tị nạn và thành danh nhưng trong tâm khảm của hai số phận vẫn mãi khắc khoải hai chữ “Trường Xuân.”

Vết lăn trầm

“Khoảng 2 giờ sáng 2 Tháng Năm, 1975, tôi chào đời trên tàu Trường Xuân giữa đại dương mênh mông. Mẹ tôi không có sữa cho con. Đôi mắt và rốn tôi bị nhiễm trùng, xương vai tôi bị gãy, vai cụp vô sau khi chú phi công dùng hai tay ôm chặt tôi để những người cứu hộ kéo chúng tôi từ tàu lên máy bay cứu hộ,” cô Chiêu Anh Vũ-Lieberman, “em bé Trường Xuân” năm nào tường thuật.

Lieberman là họ phu quân. Chữ Vũ được cô Chiêu Anh lấy từ tên bà ngoại khi cô ngoài 30 tuổi.

“Tôi đã có thể chết vô số lần…,” cô Chiêu Anh bồi hồi kể.

Ngày 27 Tháng Tư, 1975, bà Nguyễn Thị Mùi, mẹ cô Chiêu Anh, ôm bụng bầu chín tháng vào bệnh viện chờ lâm bồn, nhưng đến ngày 29 thì chồng bà báo phải di tản. Bác sĩ phân vân giữa hai lựa chọn là chích thuốc cho sinh sớm hoặc cứ để em bé trong bụng. Cuối cùng, gia đình nhất trí cứ để em bé nguyên trong bụng.

“Mẹ tôi ôm bụng bầu đi di tản cùng cha tôi và anh trai 2 tuổi vào ngày định mệnh ấy. Chúng tôi đến Tòa Đại Sứ Mỹ để đợi phi cơ, nhưng phi cơ không đáp được vì Cộng Sản nhắm bắn. Gia đình tôi trốn trong một chiếc tủ. Mẹ tôi nghe tiếng bước chân của Việt Cộng nên phải che miệng anh trai tôi. Cuối cùng, chúng tôi lên chiếc phi cơ khác. Mẹ tôi phải khệ nệ bụng bầu leo cầu thang dây để lên phi cơ,” cô Chiêu Anh thuật lại.

Gia đình bà Mùi bị lỡ chuyến tàu đầu tiên đưa đoàn người đi vượt biển vì họ đến trễ 10 phút, nhờ thế mà gia đình thoát được vì chiếc tàu ấy bị Cộng Sản bắt được.

Bà Mùi ôm cô Chiêu Anh khi mới lọt lòng cùng người con trai 2 tuổi sau khi được cứu từ tàu Trường Xuân. (Hình: Chiêu Anh Vũ-Lieberman cung cấp)

Như định mệnh, gia đình bà Mùi cùng hơn hàng ngàn mảnh đời leo lên tàu Trường Xuân. Sau hai ngày lênh đênh trên biển, bà Mùi trở dạ và “vượt cạn” giữa đại dương. Cô Chiêu Anh ra đời trong sự thiếu thốn trăm bề. Chỉ có một cây kéo để cắt dây rốn và nước biển được dùng để sát trùng.

“Chúng tôi sống được…, tôi sống được là sự nhiệm màu,” cô Chiêu Anh nhìn xa xăm nói. “Tôi tự hỏi vô số lần rằng tại sao lại là tôi?”

Khi trưởng thành, “em bé Trường Xuân” năm nào quyết tâm thu thập những mảnh ghép về sự ra đời của mình cũng như câu chuyện của quê hương. Cô lần dò được người ký giấy khai sinh ở trại tị nạn Hồng Kông là ông David Weeks. Cô cũng dốc lòng tìm đúng tọa độ hải phận để biết chính xác nơi mình chào đời. Nhờ Internet, cô cũng gắn kết được với gia đình vị phi công chở cô và gia đình đến bệnh viện lúc cô mới lọt lòng.

Năm 2010, cô tham dự “Đại Hội Trường Xuân Thế Giới,” buổi kỷ niệm những thuyền nhân của Trường Xuân sau 35 năm, được tổ chức tại Úc. Tại đây ban tổ chức đã tặng kỷ yếu “Hành Trình Tìm Tự Do – Trường Xuân – Journey to Freedom,” bao gồm những câu chuyện về các “người con” của Trường Xuân và gia đình của họ sau hơn ba thập niên tị nạn. Cô Chiêu Anh cũng đến dự sinh nhật mừng thượng thọ 95 tuổi của vị thuyền trưởng tàu Trường Xuân là ông Phạm Ngọc Lũy.

Cô Chiêu Anh Vũ-Lieberman (trái) cùng thuyền trưởng tàu Trường Xuân, ông Phạm Ngọc Lũy lúc sinh thời. (Hình: Chiêu Anh Vũ-Lieberman cung cấp)

Những mảnh ghép dần hình thành nhưng số phận thường trêu ngươi. Biến cố lúc gần sinh đã khiến mẹ cô Chiêu Anh bị tổn thương tâm lý dẫn đến việc cô con gái cũng bị ảnh hưởng. Cả gia đình, ai cũng mang “vết lăn trầm” với nỗi đau mất nước và cố gắng hòa nhập vào cuộc sống mới ở Canada, nơi gia đình cô được bảo lãnh. Duy chỉ có cha cô Chiêu Anh không thoát ra được vết thương tâm lý.

“Lúc tôi 8 tuổi, cha tôi để lại mảnh giấy rằng ông dẫn tôi và anh trai đi cắm trại, nhưng chúng tôi không bao giờ quay lại… Cha đã bắt cóc chúng tôi,” cô điềm tĩnh nhớ lại. Sau một năm, mẹ cô và cơ quan công lực mới tìm ra hai anh em cô.

“Chiến tranh đã qua đi, nhưng trong tâm trí cha tôi thì mọi thứ vẫn đang tiếp diễn,” cô nói. Trải qua “bao cuộc bể dâu,” và bao cơn “thập tử nhất sinh,” cô Chiêu Anh thành danh, trở thành nhà thiết kế thời trang.

Từng du học ở Paris, cô tốt nghiệp trường thiết kế danh giá Parsons School of Design ở New York City. Cô cũng được nhiều giải thưởng cao quý của ngành thời trang. Trước đó, cô nằm trong top 5% sinh viên khi tốt nghiệp trường Marianopolis College ở Quebec, Canada.

Hiện gia đình cô sống tại Mission Viejo, miền Nam California. Cô là một trong những lãnh đạo cấp cao của công ty nhu liệu Nogin. Cô cũng đang cho “ra đời” ứng dụng tư vấn tâm lý để hỗ trợ những người phải ngày đêm vật lộn với cơn khủng hoảng tâm trí.

“Em bé Trường Xuân” Chiêu Anh bên một mẫu thiết kế tâm huyết của mình. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Người di tản buồn

Trên chuyến hải hành của nửa thế kỷ trước cũng có một chàng trai 16 tuổi chưa hiểu sự đời nhưng đứng trước phận nước, anh đành thoái thác cho số phận. Đó là câu chuyện của tài tử Long Nguyễn. Tài tử này được biết đến qua các vai diễn trong các phim truyền hình Mỹ, nhưng nổi bật nhất là vai chính trong phim “Vượt Sóng” của đạo diễn Hàm Trần, tái hiện câu chuyện của những thuyền nhân và gia đình có thân nhân đi tù cải tạo.

Ông từng hai lần thắng giải Nam Diễn Viên Xuất Sắc Nhất cho phim “Vượt Sóng” tại Newport Beach Film Festival và cho phim “Vai Diễn Đổi Đời” tại Viet Film Fest – Đại Hội Điện Ảnh Việt Nam Quốc Tế. Dù đã bay cao, bay xa với đam mê nghệ thuật nhưng ông Long vẫn luôn mang nặng nỗi niềm khi nhắc tới cái tên Trường Xuân.

“Có những mốc thời gian làm ta thay đổi, biến cố 1975 là cột mốc thay đổi nhận thức một con người,” tài tử Long nói. Tàu Trường Xuân từng rất nguy kịch khi bị nước tràn vào khoang, hết lương thực, hết nước uống, và cố gắng cầm cự trôi dạt trên Biển Đông cho đến khi được tàu Clara Maersk của Đan Mạch cứu, đưa người tị nạn đến Hồng Kông.

“Không chỉ riêng tôi mà ai phải bỏ quê hương ra đi trước thế sự cũng đều chịu tổn thương. Khi khổ đau quá, con người ta sẽ gồng lại, siết chặt tâm can, để tự vệ. Càng nhạy cảm thì càng bị đau,” ông Long trầm mặc. Như bao người tị nạn, chàng thanh niên năm ấy đè nén cơn đau để hòa nhập vào cuộc sống mới ở Mỹ. Khoảng năm 1980, ông học lấy bằng kỹ sư, nhưng theo ông, ngành này khiến ông bị “bí.”

“Cuối thập niên 1980, tôi loay hoay mãi không biết đời nên làm gì, vì sao mình ở nơi đây. Tôi bị bí từ tinh thần lẫn thể chất. Rồi tôi quyết định cho mình được tự do, thả lỏng cơn đau bị siết chặt ấy,” ông kể. “Tôi vượt qua sự tội lỗi để tâm trí được tự do ‘bay bổng.’”

Tài tử Long Nguyễn. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Năm 1985, ông lấy bằng cao học về nghệ thuật, trở thành họa sĩ. Ánh dương lại từ từ xuất hiện vì ông được tự do với đúng đam mê. Lúc đó, ông sống với các họa sĩ trong một khu nhà kho ở Oakland, miền Bắc California, mà ông đùa vui gọi là “khu nghệ sĩ.”

Hiện ông sống ở Huntington Beach, miền Nam California. Ông còn theo đuổi diễn xuất và kịch nghệ vì cảm thấy mình được tự do khi hóa thân vào các nhân vật. Song song với diễn xuất, ông vẫn “giữ lửa” với đam mê cầm cọ. Các tác phẩm nghệ thuật của họa sĩ Long Nguyễn được triển lãm ở các viện bảo tàng ở Oakland và các tiểu bang khác.

“Khi ở Việt Nam, tôi là người rất bảo thủ. Những mốc thời gian đã thay đổi tôi. Tôi giờ đây nhìn mọi việc thoáng hơn, tích cực hơn, không ghét hay trách móc ai cả. Mình phải bình an trước thì mới chia sẻ bình an cho người khác,” ông cười nói.

(Trà Nhiên) [qd]

—–
Liên lạc tác giả: nguyen.nhien@nguoi-viet.com

Con tàu định mệnh

Câu chuyện của cô Chiêu Anh và tài tử Long Nguyễn là hai trong vô số mảnh đời của hàng ngàn “người con” của Trường Xuân, và cũng chỉ là một phần định mệnh của hơn 1.5 triệu mảnh đời vượt biên khỏi cố hương, dắt dìu nhau đến Tự Do. Trường Xuân – con tàu của sự hãi hùng và hy vọng – đã chứng kiến cái chết của ba sinh mạng nhưng cũng là nơi hai sinh linh ra đời. Trường Xuân mãi là một phần lịch sử của người Việt tị nạn sau nửa thế kỷ tha hương nơi xứ người.