Có ít nhất 8 lý do Canada không muốn tổ quốc của mình thành tiểu bang thứ 51 của Hoa Kỳ

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tăng Quốc Kiệt

13/05/2025

Lời nói đầu:

Tôi dịch bài này vì 2 lí do:

1- Các bạn VN của chúng tôi ở Mỹ thường đặt câu hỏi: dân Canada có vui không khi TT Trump muốn biến Canada thành tiểu bang thứ 51 của Hoa Kỳ.

2- Có nhiều ngộ nhận về ti`nh trạng y tế của Canada so với Mỹ, vì các công ty bảo hiểm y tế tư nhân của Mỹ phụ họa bởi các dân biểu và thượng nghị sĩ nhận tiền của các công ty này cho vận động tranh cử, lúc nào cũng vẽ ra một hình ảnh y tế hết sức tồi tệ ở Canada để dân Mỹ sợ hãi mà từ chối chế độ bảo hiểm sức khỏe cho toàn dân.

Sau đây là tựa của nguyên tác bài viết của Normand Lester, trước kia là ký giả của Radio Canada, nay là ký giả tự do: « Voici au moins 8 raisons pour lesquelles on ne veut pas devenir le 51è état américain », đăng ngày 19/4/2025 trên Le Journal de Montréal.

Quốc gia nào thật sự muốn bị nuốt bởi Hoa Kỳ, ở một giai đoạn mà Donald Trumpkhông ngừng gia tăng áp lực, làm xé nát xã hội Mỹ? Đặt câu hỏi tức đã có câu trả lời phần nào.

TT Mỹ đã dịu giọng khi nói về Canada như tiểu bang thứ 51 của Hoa Kỳ từ khi Ông Mark Carney trở thành thủ tướng Canada, nhưng sự đe dọa sáp nhập rõ ràng vẫn còn đó. Phát ngôn viên của Tòa Bạch Ốc Karoline Leavitt trong tuần này một lần nữa khẳng định ý muốn của Trump đối với Canada không thay đổi một li.

Theo thăm dò của Angus Reid, công bố hồi tháng Giêng vừa qua, 90% dân Canada không muốn chút nào ý định này.

Ông TT Trump rất ngạc nhiên trước việc dân Canada từ chối trở thành dân Mỹ. Lí do thì nhiều.Sau đây là những lí do chính:

1- Những bất bình đẳng thật nghiêm trọng giữa giàu nghèo ở Mỹ:

– Sự khác biệt giàu nghèo ở Mỹ lớn hơn nhiều so với Canada: 1/2 người Mỹ nghèo hay có lợi tức thấp.

– Gần như 1/5 trẻ con Mỹ thiếu ăn.

– Giá sinh hoạt ở Mỹ cao hơn, số người về hưu nghèo cao hơn ở Mỹ.

– Trong năm 2018, theo World Factbook của CIA nói về bất bình đẳng giàu nghèo, nước Mỹ đứng thứ 40 trên thế giới, ngang hàng với Jamaïque, Pérou, Camaroune.

– Theo chỉ số của Gini, đơn vị quốc tế chính để đo lường sự chênh lệch giàu nghèo, nước Mỹ là một trong những nước bất bình đẳng nhất trong số các nước đã phát triển.

2- Tuổi thọ thấp hơn:

– Tuổi thọ trung bình, theo thống kê năm 2025, dân Mỹ thọ 79,5 tuổi so với dân Canada là 83,26 tuổi.

– Ở Mỹ, tử xuất trẻ em cao hơn so với Canada, cũng như cao hơn so với 25 nước giàu khác của thế giới.

– Ở Mỹ, hơn 250 000 người chết mỗi năm vì lí do sức khỏe liên hệ với nạn nghèo.

– Ở Mỹ, săn sóc sức khỏe phần lớn do các công ty bảo hiểm tư nhân đảm trách, điều này khiến cho chi phí về y tế nằm trong số các nước cao nhất trên thế giới. Không có chế độ bảo hiểm y tế toàn dân khiến một phần quan trọng của người dân không có được bảo hiểm đầy đủ.

– Hệ thống bảo hiểm y tế toàn dân ở Canada bảo đảm mọi người dân tiếp cận miễn phí hoàn toàn cho các dịch vụ y tế cơ bản. Nhưng, ngược lại, điều này làm cho thời gian chờ đợi của một số trường hợp giải  không khẩn cấp lâu hơn.

3- Một hệ thống giáo dục thất bại:

– Nước Mỹ được sắp hạng ở phía sau các nước theo kết quả thăm dò của chương trình quốc tế theo dõi thành quả học tập của các học sinh (PISA).

Khảo cứu trên các học sinh 15 tuổi trong 81 nước. Nước Mỹ đứng ở vị trí thứ 38 , Canada vị trí thứ 12.

– Mỹ dành 54% ngân sách cho chi tiêu quốc phòng, 6% cho giáo dục.

– Học phí sau trung học quá đắt so với Canada.

– Một thăm dò dư luận của tờ báo khoa học Mỹ lừng danh thế giới báo Nature cho thấy 3/4 các khoa học gia Mỹ muốn bỏ Mỹ để sang Canada làm việc, hoặc qua Âu châu và Úc châu. Ý muốn ra đi vì ngân sách bị cắt giảm, nguy cơ cho nghỉ việc, tình trạng chính trị chống đối công việc khảo cứu.

– TT Trump vừa kí sắc lệnh bỏ bộ giáo dục liên bang, do đó, có mối đe dọa trực tiếp cho tương lai nước Mỹ vì hệ thống giáo dục thiếu hụt ngân sách.

– Hình ảnh cuộc biểu nh ngày 8/4/2025 ở New York để đòi hỏi chấm dứt sự cắt giảm ngân sách trong lãnh vực khoa học, khảo cứu và giáo dục bởi chính phủ Trump.

4- Một tổng thống nói dối, các công dân thiếu văn hóa:

– Trump là vị tổng thống nói dối nhiều nhất của lịch sử nhân loại.

– Theo báo Washington Post, Trump nói dối nhiều nhất so với các TT Mỹ kể từ TT George Washington.

– Dân Mỹ là một trong các sắc dân ở nước phát triển rất cả tin và không có được thông tin chính xác. 1/4 dân Mỹ vẫn tin mặt trời xoay quanh trái đất.

5- Bị ám ảnh bởi súng đạn kéo theo theo sự tàn sát:

– Sùng bái súng đạn ở Mỹ vượt quá sự ngu xuẩn để đạt tới một chứng rối loạn thần kinh ám ảnh (névrose obsessionnelle).

– Là một dân tộc trang bị súng nhiều nhất thế giới. Chỉ chiếm 4% dân số thế giới, Mỹ chiếm 46% những cá nhân trang bị súng của thế giới.

– Số người bị giết vì súng chiếm hạng nhất trong G7. Năm 2022, số người chết vì súng ở Mỹ là 6,3/100.000 dân, so với Canada là 0,57/100.000, nghĩa là 7 lần ít hơn Mỹ.

– Ở Mỹ những luật lệ liên bang trên các thang cao, thang thấp tỉ mỉ hơn là luật lệ về súng đạn.

– 4 TT Mỹ bị ám sát bằng súng. Hơn 1/3 TT Mỹ nghĩa là (13 người) đã thoát chết vì âm mưu ám sát.

– Dân số Mỹ sở hữu 46% súng cá nhân của cả thế giới.

6- Có quá nhiều tù nhân và án tử hình:

– Mỹ, đất của tự do, rất khác biệt với các quốc gia khác ở chỗ có rất nhiều tù nhân. Số tù nhân ở Mỹ là 2,3 triệu người trưởng thành, chiếm 1/4 tù nhân của nhân loại.

– Một quốc gia tự hào là hình mẫu về nhân quyền quốc tế cho toàn thế giới lại là quốc gia phương tây phát triển duy nhất vẫn còn tiếp tục áp dụng án tử hình. Tổ chức ân xá quốc tế xếp Hoa Kỳ vào nhóm 5 quốc gia có số hành quyết cao nhất .

7- Một xã hội âu lo và nghiện ngập:

– Trong vòng 12 tháng, 27% người trưởng thành ở Mỹ trải nghiệm một hình thức này hay hình thức khác một dạng rối loạn tâm lí, nghĩa là 43 triệu người Mỹ và con số này không ngừng gia tăng. 1/2 số người này lại kèm thêm vấn đề nghiện ngập.

– Các rối loạn tâm thần ở trẻ em càng ngày tệ. 20% dân Mỹ dưới 18 tuổi nghĩa là 15 triệu người bị rối loạn tâm thần, rối loạn hành vi, rối loạn tình cảm.

– 20% dân Mỹ trưởng thành bị rối loạn lo âu. Quyết định của TT Trump gây thương chiến với thế giới không giúp gì cải thiện tình trạng này.

8- Một dân tộc kém hạnh phúc:

– Theo World happiness report (báo cáo về hạnh phúc trên thế giới), Mỹ đứng hàng thứ 24, kết quả tệ nhất từ khi báo cáo này bắt đầu năm 2021, Canada đứng hạng 18.

– Nếu chỉ tính riêng phần người dân Québec, thì họ đứng hàng thứ 6/147 nước theo kinh tế gia Pierre Fortin.

– Tại sao người Québec không muốn gia nhập Hiệp Chủng Quốc? Bởi vì chúng tôi là dân tộc nằm giữa những quốc gia hạnh phúc nhất nhân loại.

Montréal, 3/5/2025

Tác giả Normand Lester
Dịch giả Tăng Quốc Kiệt


 

 Vợ cũ của chồng thuê bằng được căn hộ cùng tầng với nhà tôi – Truyen ngan HAY

Những Câu Chuyện Thú Vị – Đào Nguyên Thông

 Vợ cũ của chồng thuê bằng được căn hộ cùng tầng với nhà tôi, kể từ đó cuộc sống của tôi hoàn toàn thay đổi…

Tôi tên là Thư, 32 tuổi, làm quản lý nhân sự cho một công ty xuất nhập khẩu. Cuộc sống hôn nhân của tôi với Huy – chồng tôi – vốn dĩ yên ổn và bình dị suốt ba năm qua. Dù cả hai đều từng có quá khứ, tôi chưa bao giờ để tâm đến chuyện cũ của anh. Tôi tin tưởng vào tình yêu, vào sự lựa chọn của mình.

Cho đến ngày vợ cũ của anh ấy dọn đến sống ngay cạnh căn hộ chúng tôi.

Chuyện bắt đầu vào một chiều thứ Sáu, khi tôi vừa về nhà sau giờ làm. Thang máy mở ra ở tầng 12 – tầng chúng tôi sống – và tôi thoáng thấy một người phụ nữ với vóc dáng thanh mảnh, mái tóc đen dài, đang chỉ đạo người chuyển đồ. Cô ấy quay lại nhìn tôi, và tôi chết sững.

Linh.

Tôi chưa từng gặp cô ấy ngoài đời, chỉ từng thấy hình trong một tấm ảnh cũ còn sót lại trong máy tính của chồng – cô vợ cũ mà Huy hiếm khi nhắc đến. Họ ly hôn ba năm trước khi anh quen tôi, lý do chia tay là “không hợp”, theo như lời anh.

“Chào chị Thư,” Linh mỉm cười nhẹ nhàng, giọng êm ái nhưng lạnh sống lưng. “Chị vẫn khỏe chứ? Em mới thuê căn hộ 12B, ngay cạnh nhà chị đó.”

Tôi đứng sững. Không thể tin được. Ngay từ hôm đó, cuộc sống của tôi bắt đầu thay đổi.

Ban đầu, tôi cố gắng giữ thái độ ôn hòa, nghĩ đơn giản rằng Linh có quyền sống ở bất kỳ đâu cô muốn. Nhưng dần dần, những điều “tình cờ” bắt đầu chất chồng:

Huy đi làm về trễ hơn thường lệ, nói họp đột xuất – nhưng tôi lại thấy Linh và anh đứng nói chuyện ở bãi xe.

Một buổi tối, tôi phát hiện hộp cơm Huy mang đi làm có món mà tôi không nấu, và rõ ràng là Linh từng nổi tiếng nấu ăn ngon.

Khi tôi nói chuyện này với Huy, anh gạt phăng: “Em đa nghi quá, anh chẳng có liên hệ gì với cô ấy nữa.”

Tôi bắt đầu cảm thấy mình bị theo dõi. Linh xuất hiện ở mọi nơi tôi đến: phòng gym trong khu chung cư, quán cà phê tầng trệt, thậm chí là cả hiệu sách tôi thường ghé. Cô ấy luôn mỉm cười, nhẹ nhàng, lịch sự – nhưng trong đôi mắt ấy ẩn chứa một sự tính toán rợn người.

Một hôm, tôi đi làm về và phát hiện con mèo của tôi bị đầu độc, nằm co quắp trong góc nhà, may mắn được cứu kịp thời. Tôi không thể đổ lỗi cho Linh – không có bằng chứng, nhưng linh cảm mách bảo tôi rằng cô ta đang muốn phá hoại cuộc sống của tôi, từng chút một.

Tôi bắt đầu trở nên hoảng loạn. Không khí trong nhà ngột ngạt, lạnh lẽo. Tôi bắt đầu mất ngủ, sụt cân, và tâm trạng thay đổi thất thường. Có đêm, tôi nghe thấy tiếng gõ cửa lúc 2 giờ sáng. Khi mở ra thì không có ai.

Lần khác, tôi thấy cửa chính bị cạy nhẹ, dù không mất mát gì. Tôi gắn camera nhưng một tuần sau, camera bị đập vỡ.

Tôi báo với ban quản lý chung cư. Họ xác nhận có người lạ lảng vảng quanh căn hộ tôi lúc khuya, nhưng không rõ mặt do đeo khẩu trang.

Tôi tìm gặp Linh, cố gắng giữ bình tĩnh:

“Nếu em có vấn đề gì với chị, hãy nói thẳng. Đừng chơi trò đùa giỡn như vậy.”

Cô ấy nhìn tôi, ánh mắt bình thản đến rợn người:

“Chị nói gì em không hiểu. Em chỉ là hàng xóm thôi. Chị nên học cách tin tưởng chồng mình hơn.”

Câu nói đó như lưỡi dao cắm thẳng vào tim tôi.

Một ngày chủ nhật, tôi tình cờ thấy Huy rời khỏi căn hộ Linh lúc 7 giờ sáng, khi anh nói với tôi rằng mình sẽ đi đánh golf với bạn. Tôi không đánh ghen. Không khóc. Không la hét.

Tôi lẳng lặng thuê một thám tử tư.

Ba tuần sau, tôi nhận được tất cả: hình ảnh, đoạn ghi âm, nhật ký theo dõi. Linh và Huy đã bí mật gặp nhau suốt hai tháng nay. Không chỉ vậy, tôi phát hiện ra điều khiến tôi hoàn toàn sụp đổ: Họ chưa từng ly hôn hợp pháp.

Toàn bộ hôn nhân của tôi – là một sự dối trá.

Tôi thuê luật sư, âm thầm thu thập toàn bộ bằng chứng. Tôi chuyển tiền qua tài khoản riêng, bí mật bán lại cổ phần tôi đang đứng tên hộ Huy trong một dự án đầu tư.

Và rồi, một buổi tối, khi Huy đang tắm, tôi đặt toàn bộ tài liệu ly hôn giả, ảnh chụp anh và Linh, và một lá đơn khởi kiện về tội lừa đảo hôn nhân lên bàn phòng khách.

Khi anh bước ra, tôi chỉ nói đúng một câu:

“Tôi không phải là quân cờ trong cuộc chơi của anh và cô ta.”

Tôi rời khỏi nhà vào đêm hôm đó. Không một giọt nước mắt.

Tôi chuyển đến một thành phố mới, bắt đầu lại. Tôi mở một studio nhỏ chuyên về tư vấn nhân sự và trị liệu tâm lý – điều tôi đã phải học để chữa lành chính mình.

Huy và Linh chính thức bị điều tra vì hành vi gian lận kết hôn, đặc biệt là việc sử dụng hồ sơ giả để đăng ký với tôi.

Tôi không quan tâm họ còn bên nhau hay không. Điều quan trọng là tôi không còn bị thao túng, không còn sống trong nỗi sợ.

Sự trở lại của Linh không đơn giản là cuộc hội ngộ giữa người cũ – mà là một kế hoạch được sắp đặt tỉ mỉ để phá hủy tôi.

Nhưng cô ta đã quên mất một điều: Tôi không phải là người dễ gục ngã. Tôi mất tất cả – rồi tôi lấy lại tất cả, bằng chính đôi tay mình.

Bởi vì khi phụ nữ tỉnh táo, họ không trả thù bằng nước mắt…

…mà bằng chiến thắng.

TDS – Sưu tầm

Ảnh st minh họa


 

Lễ Kính Đức Mẹ Fatima- Cha Vương

Hôm nay là ngày lễ Kính Đức Mẹ Fatima, xin Mẹ Fatima cầu cùng Chúa  cho chiến tranh trên đất nước Ukraine và các nơi trên thế giới được chấp dứt để cho an bình toả lan khắp nơi trên hoàn cầu.

Cha Vương

Thứ 3, 4PS: 13/05/2025

TIN MỪNG: Rồi có điềm lớn xuất hiện trên trời: một người Phụ Nữ, mình khoác mặt trời, chân đạp mặt trăng, và đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao. (Khải Huyền 12:1)

SUY NIỆM: Nói đến Fatima thì ai, không ít thì nhiều, cũng nghe đến. Fatima là thành phố ở Bồ Đào Nha, thuộc khu tự quản Ourém, quận Santarém, phân vùng “Medio Tejo”, vùng Trung Bồ Đào Nha. 

Trước đây Fátima chỉ là 1 thôn nhỏ. Tên thôn phát sinh từ tiếng Ả Rập. Một truyền thuyết kể rằng 1 công chúa người Hồi giáo tên là Fátima (nghĩa là một người tỏa sáng), đã trở lại đạo Công giáo khi kết hôn với bá tước Ourém năm 1158, trong thời kỳ lực lượng Kitô giáo chiếm xứ này. Fátima là nơi hành hương lớn thứ tư của người Công giáo khắp thế giới (sau Đức Mẹ Guadalupe ở México, Thành Vatican và Đức Mẹ Lộ Đức (Pháp). Hàng năm có khoảng trên 4-5 triệu lượt người đã tới thăm Fatima. Bồ Đào Nha cũng là nơi mà thánh Giacôbê Tông đồ đã từng băng ngang để đến truyền giáo tại Tây-ban-nha vào khoảng 2000 năm trước. 

Tại Fatima, Đức Mẹ đã truyền dạy ba mệnh lệnh:

 1) Ăn năn đền tội, cải thiện đời sống;

 2) Tôn sùng Trái Tim Vẹn Sạch Đức Mẹ; 

3) Lần hạt Mân Côi mỗi ngày để cầu nguyện cho người tội lỗi ăn năn trở lại và cho nền hòa bình trên thế giới.

CẦU NGUYỆN: Lạy Mẹ xin cho con biết nghe và làm theo những mệnh lệnh Mẹ nhắn nhủ để được hạnh phúc bên con Mẹ luôn mãi.

LẮNG NGHE: Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! ” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi. (Mátthêu 7:21

THỰC HÀNH:

Hãy làm một việc hy sinh hôm nay. Trước khi làm hãy đọc lời kinh sau đây. Đây là lời mà ba em trẻ đã nhận từ Mẹ vào ngày 13 tháng 6 năm 1917 tại Fatima. “Lạy Chúa Giê-su, con xin làm việc hy sinh này vì lòng mến Chúa, và để đền đáp tội lỗi xúc phạm đến Trái Tim Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Mẹ và để các tội nhân được hoán cải.” (Kinh Hy Sinh) 

From: Do Dzung

*************************

 Lạy Mẹ Fatima – Nguyện Xin Mẹ Fatima – Nguyễn Hồng Ân

CHÚA CHỌN AI – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

 Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

 Cái chết của anh Giuđa chẳng những là một điều đáng tiếc, mà còn để lại một khoảng trống trong nhóm Mười Hai.  Nhóm Mười Hai trở thành nhóm Mười Một (Mc 16, 14).  Giuđa đã được tham dự vào công việc phục vụ của nhóm.  Sự ra đi của anh khiến cho chức vụ này cần người bổ sung.
Trong cuộc gặp mặt giữa khoảng một trăm hai mươi anh em, Phêrô, trưởng nhóm, đã muốn tìm người thay thế (cc. 15-20).  Theo Phêrô đâu là điều kiện để có thể được chọn vào nhóm Mười Hai?  Anh phải là người đã đồng hành với nhóm này trong suốt thời gian Chúa Giêsu sống giữa họ.  Thời gian đi với nhóm được kể từ lúc ông Gioan làm phép rửa cho Chúa, cho đến ngày Ngài được phục sinh và được đưa lên trời (c. 21).

Như thế để được nhập vào nhóm Mười Hai, phải là người có kinh nghiệm sống đời sống của nhóm, và kinh nghiệm sống với Thầy Giêsu trong suốt sứ vụ của Ngài.  Chỉ ai đã từng có kinh nghiệm đi với nhóm, đói no vất vả với nhóm, người ấy mới được là thành viên mới của nhóm.  Chỉ ai đã đi sát với Thầy Giêsu, đã lắng nghe bao bài giảng của Thầy, đã chứng kiến bao việc kỳ diệu Thầy thực hiện, chỉ ai có kinh nghiệm về việc Thầy bị giết và được phục sinh, người ấy mới có thể trở nên chứng nhân về sự phục sinh ấy cùng với cả nhóm anh em (c. 22).

Có hai người được đề cử vì hội đủ điều kiện: Giôxếp và Mátthia.  Khi không biết chọn ai, thì cộng đoàn đã cầu nguyện.  Cầu nguyện cho thấy họ muốn được soi sáng để chọn ý Chúa.  “Xin chỉ cho thấy Chúa chọn ai để kế tục sứ vụ tông đồ” (c. 25).  Họ đã không chọn bằng cách bầu phiếu theo đa số, nhưng bằng cách rút thăm để tìm người Thiên Chúa chọn.  Cách này là cách truyền thống để tìm ý Chúa trong Do thái giáo (Lv 16, 8).  Matthia đã trúng thăm và trở nên vị tông đồ thứ mười hai.

Khi mừng lễ thánh Matthia, chúng ta mừng lễ một vị tông đồ, tuy không trực tiếp được Đức Giêsu gọi và chọn, nhưng đã được chọn gián tiếp qua các tông đồ khác và cộng đoàn.  Thiên Chúa vẫn chọn qua lựa chọn của con người, mãi đến tận thế, nên Giáo hội vẫn có người được gọi để phục vụ.  Xin cho mọi chọn lựa của chúng ta đều nhắm đến vinh danh Chúa.

 Lạy Chúa Giêsu,

xưa Chúa đã sai các môn đệ ra khơi thả lưới,
nay Chúa cũng sai chúng con đi vào cuộc đời.

Chúng con phải đối diện
với bao thách đố của cuộc sống,
của công ăn việc làm, của gánh nặng gia đình,
của nghề nghiệp chuyên môn.

Xin đừng để chúng con sa vào cạm bẫy
của vật chất và quyền lực,
nhưng cho chúng con
giữ nguyên lý tưởng thuở ban đầu,
lý tưởng phục vụ quê hương và Hội Thánh.

Lạy Chúa Giêsu,
xin dạy chúng con sống thực tế,
nhưng không thực dụng;
biết xoay xở nhưng không mưu mô;
lo cho tương lai cá nhân,
nhưng không quên bao người bất hạnh cần nâng đỡ.
Giữa cơn lốc của trách nhiệm và công việc,
giữa những xâu xé trước bao lựa chọn,
xin cho chúng con
biết tìm những phút giây trầm lắng,
để múc lấy ánh sáng và sức mạnh,
để mình được thật là mình trước mặt Chúa.

Nhờ lời Đức Trinh Nữ Maria chuyển cầu,
xin cho chúng con thật sự trở nên chứng nhân,
làm tất cả để Thiên Chúa được tôn vinh,
và phẩm giá con người được tôn trọng. Amen.

 Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

 From: Langthangchieutim


 

SỤP ĐỔ VÌ CÁI SIÊU THỊ

Nếu Boris Yeltsin, thành viên Xô Viết Tối cao Liên Xô, không đến thăm Hoa Kỳ vào năm 1989, lịch sử thế giới có thể đã đi theo một con đường khác.

Nếu Yeltsin không dừng lại ở một siêu thị Mỹ trên đường tới sân bay, ông có thể đã không bao giờ trở thành Tổng thống Nga và không bao giờ khởi xướng việc giải thể Liên Xô.

Chuyến đi tới Mỹ đó, và lần dừng chân định mệnh tại Randall’s, đã gây ấn tượng mạnh với Yeltsin đến mức ông vỡ mộng với chính ý tưởng về chủ nghĩa cộng sản.

Vào tháng 9 năm 1989, Boris Yeltsin đến thăm Hoa Kỳ trong chuyến thăm không chính thức đầu tiên. Ông không phải là tổng thống Nga, mà chỉ là một trong những quan chức hàng đầu của Đảng Cộng sản trong Hội đồng Tối cao Liên Xô, một trong hơn 500 người trong số họ.

Vì vậy, ông ta giống như một thành viên bình thường của Duma Quốc gia hiện nay. Trong thời gian ngắn ở Mỹ, Yeltsin chưa từng đến bất kỳ cửa hàng tạp hóa nào. Vì vậy, ông ta quyết định tìm xem một cửa hàng trên đường đến sân bay trước khi bay về nhà.

Xe buýt dừng lại ở một siêu thị bình thường của Mỹ ở Houston, TX. Cửa hàng khiến Yeltsin bị sốc. Ông ta đã rất sửng sốt. Ở tuổi 58, ông chưa bao giờ chứng kiến ​​điều gì như thế này trong đời.

Và Yeltsin không phải là thường dân. Ông đã lãnh đạo một trong những khu vực liên bang chiến lược trong một thập kỷ, trước khi trở thành người đứng đầu thành phố Moscow. Ông thậm chí còn được đưa vào danh sách trở thành một trong những thành viên của Bộ Chính trị toàn năng. Ông là thành viên chân chính của giới tinh hoa Cộng sản Liên Xô. Nhưng lượng thực phẩm và hàng hóa dồi dào như vậy trong một cửa hàng bình thường ở Mỹ lúc đó đã thực sự khiến ông ta bị sốc.

Yeltsin liên tục giơ tay lên vì ngạc nhiên. Ông cho rằng ngay cả các thành viên Bộ Chính trị cũng không có dư giả như vậy. “Ngay cả Gorbachev cũng không được vậy!”, Yeltsin nói.

Sau đó, trên máy bay, Yeltsin im lặng một lúc lâu. Ông ngồi ôm đầu, trên mặt hiện rõ sự giằng xé cảm xúc.

Một số người dân Liên Xô sau khi từ các nước phương Tây trở về Liên Xô đã rơi vào tình trạng trầm cảm nặng. Vì có một xung đột tâm lý không thể giải quyết được giữa cách một người sống cả đời – và việc anh ta có thể sống như thế nào nếu anh ta sinh ra ở một đất nước khác.

Khi Yeltsin tỉnh lại, ông nói một cách cay đắng: “Những người dân tội nghiệp của chúng ta đã bị đưa đến đâu?”.

“Cả đời tôi đã kể những câu chuyện cổ tích, cả đời tôi đã cố gắng bịa ra mọi thứ. Nhưng mọi thứ trên thế giới đều đã được phát minh rồi”, Yeltsin than thở.

Phụ tá của Yeltsin đã mô tả:

“Khi chúng tôi vừa quay lại sân bay, ma quỷ đã thúc giục chúng tôi đi xem một siêu thị điển hình của Mỹ”.   

Nó được gọi là Siêu thị Randall. Trong nhóm của chúng tôi, chỉ có Boris Nikolaevich và tôi chưa bao giờ đến những cơ sở buôn bán kiểu này.

Hơn nữa, đây không phải là một đô thị, càng không phải là một cửa hàng ở New York và theo tiêu chuẩn, một cửa hàng tỉnh lẻ rất “bình thường”. Tất nhiên, nếu Houston có thể được coi là một tỉnh.

Xuống xe, tôi bắt đầu tìm kiếm một đám đông người và thứ gì đó tương tự như hàng dài chờ đợi của chúng tôi. Tuy nhiên, không có xếp hàng chờ đợi – xung quanh cũng như trong chính cửa hàng.

Đó là một tòa nhà một tầng làm bằng kết cấu kim loại nhẹ. Đương nhiên, không ai trong số các nhân viên phục vụ biết về việc chúng tôi đến và do đó không thể có chuyện “khoe khoang” được. Một ngày bình thường, một loại hàng “bình thường”, những vị khách “bình thường”…

Chuyến đi tới Mỹ đó – và lần dừng chân định mệnh tại Randall’s, đã gây ấn tượng mạnh với Yeltsin đến mức ông vỡ mộng với chính ý tưởng về chủ nghĩa cộng sản.

Tôi ngay lập tức bị ấn tượng bởi sự dồi dào của ánh sáng. Và nhìn chung, cách phối màu của mọi thứ đều tươi sáng và ấn tượng đến mức khiến chúng ta có cảm giác như đang đi xuống vực sâu của kính vạn hoa.

Sự phong phú của các loài hoa cũng đầy mê hoặc – mọng nước, rực rỡ, như thể vừa được cắt ra từ bồn hoa. Hơn nữa, những bông hoa không phải để bán mà như một vật trang trí.

Ngay khi chúng tôi bước vào siêu thị, họ đã gọi cho ai đó từ ban quản lý. Từ đâu đó trong phòng tiện ích xuất hiện một chàng trai trẻ rất đẹp trai trong chiếc áo sơ mi trắng như tuyết, chải chuốt gọn gàng và tất nhiên là đang mỉm cười. Đó là quản trị viên trưởng.

Chúng tôi tự giới thiệu và nói muốn tìm hiểu về công việc của cửa hàng.

Không vấn đề gì: người quản lý đã mời một cô bán hàng trẻ đến hỗ trợ chúng tôi và cô ấy dẫn chúng tôi qua các lối đi.

Điều chính khiến chúng tôi quan tâm là sự đa dạng. Và về vấn đề này, Yeltsin đã đặt câu hỏi cho nhân viên cửa hàng.

Những câu trả lời chân thực của họ đã khiến chúng tôi bị sốc, và Boris Nikolayevich thậm chí còn hỏi lại: – Anh có dịch đúng không đấy ?! Và người quản lý nhắc lại một lần nữa rằng phạm vi sản phẩm thực phẩm của siêu thị vào thời điểm đó đúng là có số chủng loại lên tới khoảng 30 nghìn mặt hàng.

Khi chúng tôi đi dọc theo dãy hàng, mắt chúng tôi không biết dừng lại ở đâu. Tôi có thể đoán được nhiều điều khác nhau, nhưng những gì tôi nhìn thấy trong siêu thị này cũng không kém phần kinh ngạc so với chính nước Mỹ.

Một số người trong chúng tôi bắt đầu đếm các loại dăm bông. Chúng tôi đã mất số đếm.

Tôi nhớ đến cửa hàng xúc xích của chúng tôi ở Krasnaya Presnya, nơi vào năm 1963 bạn có thể mua “Brunswick”, “Stolichnaya”, “Tambov”, “Uglich”, “Krakov” và một số loại xúc xích khác. Lúc đó, tôi nghĩ đây là đỉnh cao trong giấc mơ của con người và những dấu hiệu đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản đã nở rộ. Công bằng mà nói, theo năm tháng, các kệ hàng của cửa hàng bắt đầu trống rỗng và giờ chỉ còn lại những ký ức về quá khứ tươi sáng của nó. Tôi nhớ đến cửa hàng Liên Xô đó và so sánh nó với cửa hàng này ở Houston, và nhận ra rằng sự phong phú mà Khrushchev hứa sẽ dẫn dắt chúng tôi đã vượt qua chúng tôi.

Vào thời điểm đó ở Liên xô tất cả 300 viện và phòng nghiên cứu có nhiệm vụ chỉ ra những lợi thế của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản có thể đang tiếp tục cố gắng thuyết phục tôi, nhưng từ bây giờ những nỗ lực của họ sẽ là vô nghĩa.

Thực tế của Mỹ, trên ví dụ về siêu thị này, có vẻ thuyết phục hơn 100 lần so với bất kỳ lý thuyết nào của Liên Xô. Chắc chắn, con người sống không chỉ nhờ bánh mì… Không chỉ nhờ xúc xích, không chỉ nhờ pho mát…

Nhân tiện, bạn đã thấy phô mai màu đỏ, nâu, cam chanh chưa? Bạn nghĩ chúng tôi đã thấy bao nhiêu loại phô mai ở Houston? Còn giăm bông thì sao? Tất cả món ngon không thể tưởng tượng được này mà mọi người đều có thể thử ngay tại cửa hàng và quyết định – liệu nó có đáng để chi tiền không?

Chúng tôi không thể đếm được tên các loại kẹo, bánh ngọt, không thể nhận biết được sự đa dạng về màu sắc cũng như sức hấp dẫn ngon miệng của chúng bằng mắt.

Và mặc dù tôi đang cố gắng truyền đạt ấn tượng của mình, nhưng tôi hiểu rằng đây chỉ là một nỗ lực thảm hại, bởi vì lời nói bất lực trước thực tế những gì cửa hàng Mỹ đó có thể cung cấp.

Thỉnh thoảng, tôi liếc nhìn Yeltsin và nhận thấy đây là một bài kiểm tra khó khăn đối với ông. Và khi một người phụ nữ đi trên xe đẩy đuổi kịp ông ta, trên đó có một cậu bé đang ngồi, Boris Nikolaevich, xin lỗi và bắt đầu tra hỏi cô ấy:

  – Cô ấy có thường xuyên đến cửa hàng này không? Hóa ra, chỉ vào thứ bảy.

  – Gia đình bạn có lớn không?

3 người: cô, chồng và con.

  – Thu nhập của gia đình bạn là bao nhiêu?

Người phụ nữ giải thích rằng cô tạm thời không làm việc và sống bằng tiền lương của chồng, 3.600 USD một tháng.

   Yeltsin hỏi cô thường chi bao nhiêu cho thực phẩm? Hóa ra gia đình này đã chi khoảng 170 USD cho thực phẩm trong một tuần. Từ thứ bảy đến thứ bảy. Cô vẫn phải trả tiền thuê nhà, bảo hiểm…

Ở khu vực rau quả, chúng tôi thực sự bị sốc bởi chất lượng của sản phẩm.

Một củ cải có kích thước bằng một củ khoai tây lớn được chiếu sáng bằng ánh sáng rực rỡ và nước được rải lên nó từ những “linh hồn” nhỏ.

Củ cải thực sự rực rỡ, và bên cạnh chúng là hành, tỏi, cà tím, súp lơ, cà chua, dưa chuột.

Bạn muốn lươn hun khói – đây.

Bạn có muốn cá mút đá không? Hay gan của bạn đã quen với cá tầm và hàu? Dứa, chuối…

Và ở khu vực bánh kẹo, người ta có thể đứng hàng giờ: nó có thể vượt qua cả Hollywood về mặt giải trí. Một chiếc bánh khổng lồ tượng trưng cho một đấu trường khúc côn cầu đang chờ khách hàng trên khán đài. Các hình tượng người chơi được làm bằng sô cô la. Một tác phẩm nghệ thuật thực sự và quan trọng nhất – dễ tiếp cận, khá dễ tiếp cận.

Nói chung, đây là một chủ đề tăng huyết áp. Đối với Boris Nikolaevich và tôi, việc đi siêu thị là một cú sốc thực sự.

Khi tôi đang viết cuốn sách này, vợ tôi hôm nay (tháng 9 năm 1991) đến cửa hàng mua sữa lúc 7 giờ sáng nhưng vẫn có hàng dài người xếp hàng. Xếp hàng khắp nơi: bạn phải đứng 2 ngày để mua đường. Và đây là ở đây – ở Moscow, vào nửa sau thế kỷ 20, 73 năm sau Cách mạng vĩ đại. Vào thời điểm đó, theo tính toán của Khrushchev, tất cả chúng ta lẽ ra đã sống dưới chủ nghĩa cộng sản rồi. Hoặc có thể những gì chúng ta đã xây dựng ở Liên Xô là chủ nghĩa cộng sản thực sự?

Ở lối ra khỏi siêu thị Mỹ, cô gái ngồi ở quầy tính tiền không cần phải đếm gì cả. Trên tay cô cầm một thiết bị nhỏ giống như máy sấy tóc, cô nhanh chóng xem qua mã giá trên bao bì. Sau thao tác này, giá xuất hiện trên màn hình máy tính tiền, khách hàng thanh toán và có thể tự do đi qua cửa quay điện tử. Chà, còn gì có thể đơn giản và thông minh hơn một hệ thống như vậy?

Khi chúng tôi rời siêu thị, người quản lý đã tặng chúng tôi một món quà: một chiếc túi nhựa lớn đựng những gói thực phẩm từ cửa hàng này.

Tôi hoàn toàn tin rằng chỉ sau khi đi siêu thị Randall, lúc ở trên máy bay, niềm tin cuối cùng của Yeltsin vào lối suy nghĩ Bolshevik của ông cuối cùng đã sụp đổ.

Có lẽ, trong những giây phút rối loạn tinh thần đó, quyết định rời bỏ Đảng Cộng sản và tham gia cuộc tranh giành quyền lực tối cao ở Nga đã chín muồi trong ông ta”.

Sau đó, Yeltsin nhận ra rằng tất cả những câu chuyện của các “nhà báo quốc tế” về những công nhân Mỹ được cho là đang chết trong cảnh nghèo đói khủng khiếp và chỉ mơ được chuyển đến Liên Xô, tất cả những câu chuyện này chẳng qua chỉ là tuyên truyền. Ngay cả những người “tinh hoa” trong đảng cũng không biết điều đó (Báo chí liên xô thuốc luôn cả lãnh đạo – Dựa trên cuốn sách của Lev Sukhanov – trợ lý của Boris Yeltsin: “3 năm với Boris Yeltsin”)

Sau chuyến thăm Mỹ, Yeltsin đã trở thành Tổng thống đầu tiên của Nga.

Với tư cách là tổng thống Nga, Yeltsin đã đàm phán và ký thỏa thuận giải tán Liên Xô cùng với các tổng thống mới đắc cử của Ukraine và Belarus. Chỉ 3 người trong số họ đã phá hủy nhà nước mà hàng triệu người cộng sản đã xây dựng trong hơn 70 năm.

(cop từ fb Đặng Văn Dũng)

Ngày Lễ Mẹ (Ngày Mother Day) – Nguyễn Thế Giác

Giac Le Nguyen

Ngày Lễ Mẹ

(Ngày Mother Day)

Nguyễn Thế Giác

Nhân ngày lễ Mẹ,

kính xin Cộng Đồng mạng

cho tôi được xiển dương tinh thần Mẹ,

chỉ vì người Mẹ là tất cả!

Cho nên tạm gác phóng sự

chiến trường trong thời gian này.

Cùng tất cả Đại gia đình Đinh Vũ

cũng như bạn bè trên tòan thế giới

cho phép tôi được nói cái tôi của riêng tôi.

Mẹ tôi bà Vũ Thị Uyên (nhạc mẫu)

đã bước qua một trăm lẻ bốn nấc thang đời.

Mẹ vẫn còn vui vẻ, minh mẫn… với đàn con,

cháu, chít. Hình ảnh Mẹ tảo tần,

tôi không biết lấy gì trả ơn bội hậu,

nghiền ngẫm viết hai bài thơ nói lên

cái cò của người Mẹ Việt Nam.

Nhờ Nhạc Sĩ Nguyễn Tuấn Chương phổ nhạc.

Kính xin Quý Vị mở YOUTUBE đón nghe.

Mẹ Như Chiếc Lá Rừng Phong

Ngày con chập chững vào đời.

Mẹ cho tất cả những lời yêu thương.

Ngày con từ giã mái trường.

Bỏ quên phố nhỏ Mẹ thường đi qua.

Ngày con quảy gánh sơn hà.

Mẹ khuyên nối bước ông cha sáng ngời.

Ngày con bẻ súng ra khơi.

Vết thương mất nước rã rời hồn hoang.

Nhìn quê lòng mắt mỏi mòn.

Đếm bao năm tháng vẫn còn lưu vong.

Mẹ giờ tuổi hạc long đong.

Thân như chiếc lá rừng phong chớm sầu.

Thời gian vùn vụt bóng câu.

Mẹ theo nước chảy qua cầu nhân gian.

Xin ơn trên Mẹ bình an.

Mùa Xuân trong Mẹ thênh thang tuổi già.

Cõi trần Mẹ chẳng thiết tha.

Chiều chênh chếch bóng mảnh tà dương trôi.

Lung linh bóng Mẹ sáng ngời.

Nụ ca dao nở trên môi mẫu từ.

 

Mẹ Là Mạch Rừng Khuya

 

Niềm hạnh phúc trong vòng tay của Mẹ.

Hân hoan nào nước mắt vẫn rưng rưng.

Mẹ của con nhìn dòng sông thỏ thẻ.

Hạt phù sa từ mẫu chẳng ngại ngùng,

 

Mẹ chắt chiu cả đời cho con trẻ.

Rót yêu thương vào phiến nhỏ linh hồn.

Nuôi con cái từ thuở còn tấm bé.

Ơn mẫu từ theo thời khắc lớn khôn.

 

Cơn lốc xóay đi qua miền ký ức.

Mẹ nghiễm nhiên sừng sững ở trong con.

Miệt mài chảy mạch rừng khuya thổn thức.

Yêu tha nhân giầu lý tưởng sống còn.

 

Cuối dốc chiều niềm tin yêu chất ngất,

Cầu thế gian dù diệu vợi vô cùng.

Ơn Thượng Đế Mẹ sống đời chân thật.

Dọc đường trần thả bước nhỏ khoan dung.

 

Ôi diễm phúc con vẫn còn có Mẹ!

Níu thời gian mơ về lúc nằm nôi.

Trên lưng võng lời ngọt ngào ru trẻ.

Mẹ cấy cho con tròn những nụ cười.

 

Mẹ cho con tình yêu thương bất diệt.

Và gia đình là tổ ấm đêm Đông.

Sống tha hương nhiều khi buồn da diết.

Con cúi đầu tặng Mẹ một đóa hồng.   

Nguyễn Thế Giác


 

‘Giấc Mơ Mỹ’ đang hấp hối – Trúc Phương/Người Việt

Ba’o Nguoi- Viet

May 11, 2025 

Trúc Phương/Người Việt

Nếu có thuật từ nào xứng đáng được chọn là một trong những đại diện cho xã hội văn minh hiện đại được nhắc nhiều nhất, từ đó chắc chắn là “Giấc Mơ Mỹ” (American Dream).

Người nhập cư vào Mỹ từ nhiều quốc gia trên khắp thế giới qua lao động nặng nhọc để tìm kiếm “Giấc Mơ Mỹ.” (Hình minh họa: Brent Stirton/Getty Images)

Tác giả thuật từ, James Truslow Adams, trong quyển The Epic of America (1931), đã định nghĩa: “‘Giấc Mơ Mỹ’ là niềm mơ ước về một vùng đất, nơi mà cuộc sống trở nên tốt hơn, giàu có hơn và đầy đủ hơn cho tất cả, với cơ hội cho mỗi người đều có thể có được chỉ bằng tài năng.”

“Giấc Mơ Mỹ” trở thành khái niệm quen thuộc tượng trưng cho sự thành đạt được đền bù xứng đáng từ nỗ lực bền bỉ. “Giấc Mơ Mỹ” đưa nước Mỹ trở thành cường quốc thịnh vượng. Bây giờ, sự thịnh vượng đó đang tan hoang…

Lý tưởng của “Giấc Mơ Mỹ”

Nhắc đến “Giấc Mơ Mỹ,” người ta thường liên tưởng đến hình ảnh cơn sốt đào vàng thế kỷ 19, đến sự thành đạt từ bàn tay trắng cần cù và nghị lực phi thường, đến sự khát vọng làm giàu, đến hình thái chính trị-xã hội tự do dân chủ đích thực mang lại sự phóng khoáng trong tư duy, đến mô hình kinh tế thị trường tự do và còn nhiều điều tốt đẹp khác.

Khi Franklin Delano Roosevelt nhậm chức tổng thống năm 1933 với chương trình cải tổ toàn diện New Deal đưa nước Mỹ thoát khỏi cuộc Đại Suy Thoái, “Giấc Mơ Mỹ” bắt đầu đâm hoa thật sự. Dân Mỹ được chăm lo tốt hơn bằng những chính sách cụ thể. “Giấc Mơ Mỹ” chưa dừng lại ở đó.

“Giấc Mơ Mỹ,” được hiểu đơn giản là những câu chuyện đổi đời ngoạn mục trên đất Mỹ, bắt đầu hình thành khi nhiều gia đình bồng bế nhau trực chỉ hướng Tây ngọn Rocky để mua hàng hecta đất với giá rẻ trong cơn sốt tìm vàng. Ðổi đời từ vàng là làn sóng ban đầu của khái niệm “Giấc Mơ Mỹ.”

Làn sóng thứ hai bắt đầu từ những người di cư. Mong muốn thoát cảnh quanh năm ruộng vườn, đặc biệt bởi nhiều yếu tố trực tiếp chẳng hạn hậu quả nạn đói kinh khủng từ trận thất mùa khoai tây lịch sử tại Ireland;tình trạng hậu chiến sau thời Napoleon, nhiều gia đình Châu Âu bắt đầu lên đường sang Mỹ. Tính năng động và thoáng mở của xã hội Mỹ là sức hút đầu tiên. Sau Châu Âu, đến lượt nhiều gia đình Châu Á cũng đến Mỹ (tạo ra những khu phố Tàu như thấy hiện nay). Như trong ý nghĩa phổ biến về “Giấc Mơ Mỹ,” bất kỳ ai cần cù, quyết chí học và có gan làm giàu gần như chắc chắn sẽ được toại nguyện ước mơ đổi đời.

Có rất nhiều ví dụ về “Giấc Mơ Mỹ.” Andrew Carnegie là một trong số đó. Sinh tại Scotland trong gia đình với bố làm nghề dệt tay, Carnegie lớn lên trong cảnh gia đình giật gấu vá vai và đong gạo từng bữa. Sự xuất hiện của máy dệt khiến gia đình Carnegie thêm lận đận. Cuối cùng, bố Carnegie quyết định đến Mỹ, sau khi bán tất cả tài sản khiêm tốn và vay thêm 20 bảng Anh. Tháng Năm, 1848, gia đình Carnegie đến New York và bố Carnegie xin làm việc tại một nhà máy bông vải.

Andrew Carnegie cũng phải đi làm, với lương $1.2/tuần. Năm 1851, Carnegie làm người phát điện tín cho Ohio Telegraph Co với mức lương $2.5/tuần. Tự học kỹ thuật điện tín, Carnegie sau đó được công ty hỏa xa Pennsylvania Railroad Co thuê với lương $4/tuần (lúc này Carnegie 18 tuổi). Lần lần, Carnegie được bổ nhiệm giám sát khu vực Pittsburgh. Dành dụm từng xu, năm 1864, Carnegie bắt đầu đầu tư số tiền tiết kiệm $40,000 vào nông trại Storey (Pennsylvania).

Khi Nội Chiến Mỹ bùng nổ, Carnegie được ông chủ công ty Pennsylvania Railroad Co (Thomas A. Scott, lúc đó là thứ trưởng Bộ Chiến Tranh phụ trách vận chuyển quân sự) đưa lên Washington, DC với vai trò giám sát hệ thống hỏa xa quân đội và hệ thống điện tín chính phủ. Cuộc Nội Chiến Mỹ giúp nhiều ngành công nghiệp phát triển nhanh, trong đó có công nghiệp sắt thép.

Triển vọng công nghiệp thép không lọt khỏi quan tâm Carnegie. Dùng tất cả vốn liếng, Carnegie đầu tư vào ngành thép. Và đến cuối thập niên 1880, công ty Carnegie Steel đã trở thành nhà sản xuất gang, than cốc và thanh ray hỏa xa lớn nhất thế giới! Ở giai đoạn đỉnh cao sự nghiệp, Carnegie là người thứ hai giàu nhất thế giới, chỉ xếp sau vua dầu lửa John D. Rockefeller (cũng thuộc thành phần di cư từ Pháp – hoặc Ðức, như một số tài liệu ghi). Nước Mỹ đem lại cơ hội và mở cửa đón những người như Andrew Carnegie và cũng chính những điển hình Andrew Carnegie đã đem lại thịnh vượng cho nước Mỹ ngày nay. Tuy nhiên, như nhiều phóng sự gần đây, “Giấc Mơ Mỹ” thời nay dường như khó đạt được…

Ai đang phá nát “Giấc Mơ Mỹ”

Tính ổn định trong nghề nghiệp trong xã hội Mỹ, theo Griff Witte (Washington Post), trở nên ngày càng bất an. Bi kịch lên voi xuống chó xảy ra như cơm bữa. Không ít người lao động Mỹ không biết chắc đời sống mình an toàn đến chừng nào. Trình độ và bằng cấp đại học cũng không hứa hẹn.

Theo David R. Francis (Christian Science Monitor), gần 1/5 gia đình Mỹ hiện có giá trị tài sản là zero và vài trường hợp thậm chí còn nợ nhiều hơn những gì mình sở hữu. “Tính ổn định trong thu nhập đã giảm trong 20 năm qua,” theo Bhashkar Mazumder, nhà kinh tế thuộc Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang Chicago (Federal Reserve Bank of Chicago).

Từ 1950-1980, thế hệ Mỹ sau thường thành công hơn thế hệ trước. Bố mẹ thường thấy con cái họ thành đạt hơn. Bây giờ, cần đến 5-6 thế hệ để xóa bớt khoảng cách giữa thành phần nghèo và lớp trung lưu. Ảnh hưởng từ chính sách là một phần nguyên nhân cho thái độ bi quan về “Giấc Mơ Mỹ.”

Donald Trump luôn hứa hẹn về một sự bùng nổ kinh tế ngay sau khi ông trở lại Tòa Bạch Ốc, hồi sinh “Giấc Mơ Mỹ” và sẽ tạo ra bốn năm thịnh vượng “chưa từng có.” “Tiền lương của các bạn sẽ cao hơn, đường phố của các bạn sẽ an toàn và sạch sẽ hơn, cộng đồng của các bạn sẽ giàu có hơn và tương lai của các bạn với tư cách là người Mỹ sẽ tốt hơn nhiều so với trước khi tôi nhậm chức,” Trump phát biểu trong cuộc vận động tranh cử cuối cùng tại Grand Rapids, Michigan. “Bởi vì đây sẽ là thời kỳ hoàng kim của nước Mỹ.”

Tuy nhiên, giọng điệu của Trump đã thay đổi đáng kể gần đây, khi đề cập đến sự “hy sinh” và “giai đoạn quá độ” cho đến khi chính sách thuế quan của ông mở đường cho “một sự bùng nổ.”

Trump đã nói về “nhu cầu” nước Mỹ phải “uống thuốc” trước khi có thể “khỏe” trở lại. “Đây là giai đoạn chuyển tiếp,” Trump nói trong chương trình “Meet the Press” của NBC ngày 4 Tháng Năm. “Tôi nghĩ chúng ta sẽ làm rất tốt… Tôi chỉ muốn nói rằng họ (người dân Mỹ) không cần phải có 30 con búp bê. Họ có thể chỉ có ba con. Họ không cần phải có 250 cây bút chì. Họ có thể chỉ có năm cây.”

Toàn cảnh, người Mỹ ngày càng hoài nghi về khái niệm “Giấc Mơ Mỹ.” Theo khảo sát của Trung Tâm Nghiên Cứu Pew năm 2024, 41% người Mỹ cho biết giấc mơ không còn khả thi nữa và 6% nói rằng giấc mơ không bao giờ khả thi. Bất bình đẳng thu nhập ở Mỹ đã tăng đáng kể. Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội cho biết 10% người giàu nhất nước Mỹ đang kiểm soát gần 60% tài sản quốc gia, trong khi “một nửa dưới” chỉ nắm 6% (Newsweek ngày 9 Tháng Năm).

Một phóng sự của Vanity Fair thuật vài câu chuyện điển hình cho thấy giấc mơ Mỹ đang vỡ vụn như thế nào. Ông Greg Dillon, 49 tuổi, sống tại Marietta thuộc bang Georgia, là nhà tư vấn nghề nghiệp. Ông từng tình nguyện làm việc tại những trung tâm giới thiệu việc làm thuộc giáo hội để giúp người xin việc điền tờ khai và tư vấn chiến lược tìm việc. Bây giờ, chẳng ai có thể tư vấn để giúp ông không thất nghiệp! Vào ngày trước sinh nhật lần thứ 49, Dillon bị sa thải khỏi Forum Co., lần mất việc thứ hai trong 18 tháng…

Trả lời một cuộc phỏng vấn (“What Has Happened to the American Dream?” The New York Times ngày 3 Tháng Năm, 2025), Malinda Burke, 40 tuổi, ở Raleigh (North Carolina) nói, “Tôi có cảm giác như nó đang tuột khỏi tầm tay.”

Vài ngày trước Lễ Tạ Ơn, Malinda Burke “mất job.” Trong nhiều tháng tìm việc làm, đặc biệt trong một thị trường đột nhiên tràn ngập nhân viên liên bang thất nghiệp, Burke phải dùng tiền tiết kiệm hưu trí để trả tiền nhà và khoản nợ sinh viên. Lần đầu tiên trong đời, Burke bắt đầu hoang mang về cái gọi là “Giấc Mơ Mỹ.”

“Tôi luôn nghĩ rằng nếu làm việc đủ chăm chỉ, tôi có thể đạt được ‘Giấc Mơ Mỹ.’ Tôi đã có thể tự mua được nhà… Và rồi trong chớp mắt, tôi nghĩ, ‘Ôi trời, nếu tôi mất nhà thì sao?’… Tôi thuộc tầng lớp trung lưu vốn ngày càng bị thu hẹp. Tôi nghĩ hầu hết chúng ta đều muốn có một cuộc sống thoải mái, nhưng điều đó thực sự khó khăn trong thời buổi ngày nay…”

Năm 1941, Henry Luce (người sáng lập tờ Time) tung ra bài bình luận nổi tiếng The American Century trên tạp chí Life với nội dung rằng nước Mỹ không nên đứng ngoài lề Thế Chiến Thứ II mà nên dùng sức mạnh mình để hoằng dương “lòng yêu tự do, sự công bằng trong tận dụng cơ hội, truyền thống độc lập tự chủ và thái độ hợp tác.” Luce cũng đề nghị “Giấc Mơ Mỹ” cần được sử dụng như một cách để quảng bá lối sống Mỹ, thứ mà những quốc gia phi dân chủ nên noi theo.

Gần như trong cùng thời gian, trong diễn văn Thông Điệp Liên Bang năm 1941, Tổng Thống Roosevelt cũng gián tiếp mở rộng khái niệm “Giấc Mơ Mỹ” với việc đưa ra “bốn sự tự do tối cần thiết cho con người” mà nước Mỹ thề sẽ chiến đấu giành cho được đến cùng, gồm: Tự do ngôn luận; Tự do tôn giáo; Tự do yêu thích và Tự do sợ hãi. Bây giờ, nước Mỹ chỉ còn lại “Tự do sợ hãi,” sợ đủ thứ, và nỗi sợ đến từ chính những kẻ luôn mồm nói nước Mỹ sẽ lại thịnh vượng và “Giấc Mơ Mỹ sẽ hồi sinh.” [kn]


 

S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Phùng Cung

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

11/05/2025

Những người không uống rượu thường (hơi) buồn bã. Tôi ít khi giao du với họ. Ông Nguyễn Mộng Giác là một người như thế. Bởi thế, trong suốt thời gian ông ấy còn sống độc thân (tại chỗ) chúng tôi chỉ ngồi lâu được với nhau – đằm thắm và tương đắc – chỉ độ mươi lần.

Có lần, ông Giác có tâm sự chi buồn và (chắc) buồn ghê lắm. Thoáng thấy tôi, đương sự mừng ra mặt, lật đật lôi đâu ra một chai rượu to đùng, và hào sảng rót ngay ra hai ly đầy ắp.

Sau vài lần cạn ly đầy (rồi đầy ly cạn) thì nhà văn Nguyễn Mộng Giác (bỗng) biến thành một… nhà thơ. Ông cao giọng đọc thơ Phùng Quán :

Thơ ai như thơ ông
Mỗi chữ đều như róc
Từ xương thịt cuộc đời
Từ bi thương phẫn uất…

Rồi trầm giọng bình thơ Khoa Hữu :

“Thơ không còn là món trang điểm đua tranh sức chói lọi nơi cung đình. Thơ không còn là món đưa cay trong những cuộc say túy lúy. Thơ không còn là cái áo giáp cho ngươì ta phùng xòe trước đám đông và che dấu những thân thể suy nhược. Thơ không còn là khẩu hiệu cho những cuộc biểu dương lực lượng… Thơ là chiếc nạng vững chắc cho người già, là chỗ dựa cho những người thất thế từ đó đứng lên làm lại cuộc đời…” (*)

Coi: mới hết có nửa chai mà thằng chả đã “xỉn” hết biết luôn! Thay vì nói rằng “tiền là chiếc nạng vững chắc cho người già, là chỗ dựa cho những người thất thế từ đó đứng lên làm lại cuộc đời…” thì Nguyễn Mộng Giác nói lộn thành “thơ”. Ở đâu mà ra cái thứ thơ văn bảnh bao và ngon lành (quá cỡ) như vậy, cha nội?

Tôi cũng thường xuyên uống quá chén, và nói quá lời như thế, nên chả bao giờ bận tâm đến những câu phát ngôn (ẩu tả) theo kiểu đó. Tưởng đâu là nghe qua rồi bỏ, và sẽ quên luôn, như thường lệ. Tưởng vậy mà không phải vậy.

Hôm rồi, từ Canada, chị Lâm Thu Vân ghé qua California và có cho tôi tập Truyện Và Thơ của Phùng Cung (**). Tôi đọc gần hết đêm, rồi thức luôn tới sáng chỉ vì (chợt) nhớ lại những câu thơ mà Nguyễn Mộng Giác đã lớn tiếng ngâm nga mấy năm về trước :

Thơ ai như thơ ông
Mỗi chữ đều như róc
Từ xương thịt cuộc đời
Từ bi thương phẫn uất…

Bữa rượu hôm ấy, không chừng (dám) tôi say chớ không phải là ông Giác. Nhận là mình uống say, hay viết dở, là điều (hơi) khó đối với rất nhiều người – trong số đó có tôi. Dù vậy, xem xong thơ Phùng Cung tôi không chối được rằng :

Sứ mệnh thơ ơi
Trong sáng tuyệt vời!

Thơ quả đã giúp cho Phùng Cung sống sót, sau những năm dài tù ngục, và là chỗ dựa cho những người thất thế (như ông) đứng lên làm lại cuộc đời.

Và cuộc đời te tua, tả tơi, bầm dập của Phùng Cung cũng khiến tôi thốt nhớ đến những người cầm viết khác – cùng thời với ông – những kẻ đã dựa vào thơ văn chỉ để kiếm chút công danh, hay bổng lộc.

Theo giáo sư Nguyễn Huệ Chi, sở dĩ ông Trần Thanh Mại được mời về làm cột trụ ở Viện Văn Học là nhờ vào công lao chống… Nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Tuy nhiên, trong cuốn Trần Thanh Mại Toàn Tập (nxb Văn Học 2004) người ta đã không thấy có in lại những bài viết đấu tranh quyết liệt và nẩy lửa này.

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi đã nhắc đến sự “thiếu sót” đó với (đôi chút) mỉa mai :

… toàn tập chỉ là những gì còn ‘ăn khách’ được với hôm nay? Còn những ‘miếng xấu hổ’ ‘khạc chẳng ra nuốt chẳng vào’ thì thôi, đành theo ý ai đấy giấu nhẹm đi để người ta quên đi một thời người cầm bút phải thoá mạ nhau túi bụi ‘cho vừa lòng bề trên’ … Có lẽ như thế cũng là cách xử sự hữu lý chăng?

Giời ạ! Tưởng sao chứ như thế thì có gì đâu là lạ. Trước đó 20 năm, năm 1984, người ta cũng đã chứng kiến cách “xử sự cho vừa lòng bề trên” (gần như thế) trong Tuyển Tập Xuân Diệu :

Nếu khi khai sinh, nhiều bài thơ của ông có lời đề tặng ở bên cạnh như Đi thuyền tặng Khái Hưng, Đây mùa thu tới tặng Nhất Linh, Vô biên tặng Hoàng Đạo thì trong công trình mà ông đích thân tham gia chuẩn bị là Tuyển tập Xuân Diệu ở trên vừa nói, những giây mơ rễ má đó được ông xoá sạch.

Sợ liên lụy vì những người bạn cũ, trong các tài liệu chính thức, chẳng hạn, tiểu sử bản thân, đề ở đầu Tuyển tập Xuân Diệu (mà đọc kỹ thấy đúng giọng ông, tức do ông tự tay viết ra) nhà thơ giấu biệt chuyện mình đã từng là một thành viên của Tự lực

Và có lẽ chịu sự chi phối của ông – những lời năn nỉ thiết tha – nên các tài liệu nghiên cứu về ông, các giáo trình đại học viết về văn học trước 1945, hoặc trong Từ điển văn học in ra năm 1984, chuyện này cũng được lờ đi hoàn toàn.

Đúng là Xuân Diệu chưa kịp viết hồi ký. Nhưng giá có viết nữa, thì chắc ông không định viết tiểu sử như ông có thực, mà sẽ chỉ viết tiểu sử của ông như nó nên có, như ông bạn đọc biết”. (Vương Trí Nhàn, Cây Bút Đời Người, Phương Nam Corp., 2002, 319 -320).

Xuân Diệu đã không có dịp “đẽo gọt đời mình cho vừa với lịch sử” nhưng Tố Hữu thì có. Cuối đời, ông ấy đã cố “đẽo” mình theo hình ảnh… Bụt! Những lời tâm sự của Tố Hữu – trước khi nhắm mắt – nghe (rất) đôn hậu, thiết tha và (vô cùng) thương cảm :

– Tôi đặc biệt cảm ơn nghệ sĩ Hoàng Cầm về những lời phê bình sắc sảo, chính xác và chân thành của anh bốn mươi năm trước đây đối với thơ tôi.

– Tôi khâm phục tài năng và ý chí của nghệ sĩ Đặng Đình Hưng. Đối với tôi, cuộc đời anh Hưng là một bài giảng cao cấp về niềm tin ở sự thật.

– Trần Đức Thảo là một mẫu mực của lòng say mê nghiên cứu và sáng tạo vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên lĩnh vực triết học. Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường đã góp phần khẳng định được vị trí tiên phong của đội ngũ trí thức cách mạng kiệt xuất và hùng mạnh…

– Văn Cao là một trong những nhạc sĩ lớn nhất…

– Quang Dũng là một trong những cánh chim đầu đàn của nền thơ cách mạng Việt Nam thế kỉ 20.

– Sau Quang Dũng và Hoàng Cầm, Trần Dần cũng là cây bút hạng nặng…

– Ngoài ra, phải kể đến Hữu Loan, Lê Đạt và Phùng Quán, ba nhà thơ ba vẻ khác nhau nhưng cùng sâu sắc, nóng bỏng tính chiến đấu không kém phần lãng mạn.

– Nhà văn Phùng Cung cũng cần phải được minh oan cùng với truyện ngắn Con ngựa già của chuá Trịnh. Cần lắm. Con ngựa già của chúa Trịnh chỉ là con ngựa già của chúa Trịnh mà thôi, không có ẩn ý gì xấu như bốn mươi năm trước đây một số người lầm tưởng…

(Nhật Hoa Khanh, “Gặp Tố Hữu Tại Biệt Thự 76 Phan Đình Phùng, 2004, không ghi nhà xuất bản)

Mô Phật! Cuối cùng Tố Hữu đã buông đao, sau khi đã làm cho vô số cuộc đời bị “rạn vỡ, bị ruồng bỏ và bị lưu đầy” – nếu nói theo lời Phùng Quán. Và đó chỉ là những chuyện nhỏ, những hiện tượng lẻ tẻ và cá biệt của văn học thời “cách mạng.”

Ở bình diện tập thể, còn nhiều vụ đáng ngại hơn nhiều. Xin đơn cử một thí dụ :

Trong cuốn Lịch Sử Và Văn Hoá Việt Nam, Những Guơng Mặt Trí Thức, tập Một, do Dương Trung Quốc, Nguyễn Quang Ân và Tạ Ngọc Liễn sưu tầm và biên tập, nhà xuất bản Văn Hoá Thông Tin Hà Nội xuất bản năm 1998, các soạn giả đã chọn ra 71 nhân vật mà họ vinh danh là những trí thức Việt Nam tiêu biểu trải qua 770 năm lịch sử, với 9 thời đại và thời kỳ (Trần, Hồ, Lê, Trịnh, Nguyễn, Tây Sơn, Nguyễn, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa V.N.)”.

Nhưng nhìn vào danh sách là chúng ta thấy ngay sự ăn gian của những người làm sách: trong suốt 720 năm (1225 – 1945) họ chỉ chấm có 38 nhân vật tức 53%. Ðó là Trần Thái Tông, Lê Văn Hưu, Trần Quốc Tuấn, Trần Nhân Tông, Chu Văn An, Tuệ Tĩnh, Hồ Nguyên Trừng, Nguyễn Trãi, Triệu Thái, Lê Thánh Tông, Lê Sĩ Liên, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lê Hữu Trác, Nguyễn Thiếp, Lê Qúi Ðôn, Lê Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, P Huy Ích, Trần Văn Kỷ, Võ Trường Toản, Phan Huy Chú, Vũ Phạm Khải, Nguyễn Ðình Chiểu, Phạm Thuật Duật, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Quang Bích, Lương Văn Can, Nguyễn Phạm Tuân, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn An Ninh, và Phạm Tuấn Tài.”

“Trong 50 năm sau cùng (1945 – 1995), họ đưa ra một số lượng khổng lồ là 33 nguời, tức 47 %. Trong số 33 tên, chỉ trừ giáo sư Hoàng Xuân Hãn sống ở Pháp, còn lại 32 tên không ai khác hơn là những đảng viên cao cấp của Ðảng Cộng Sản Việt Nam và những nguời phục vụ chế độ cộng sản. Ðó là Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Truờng Chinh, Nguyễn Hữu Thọ, Huỳnh Tấn Phát….” (Trần Anh Tuấn, “Khi Chính Trị Chi Phối Văn Hoá,” Khởi Hành Aug. 1999).

Theo truyền thống, những người độc quyền lãnh đạo cũng sẽ là những kẻ độc quyền đi vào lịch sử. Truyền thống này được giữ vững suốt từ thời phong kiến đến… nay, ở Việt Nam. Nó chỉ chấm dứt khi bắt đầu có hiện tượng viết… chui. Phùng Cung là một trong những người làm thơ chui như thế.

Khi cố “đẽo gọt” đời mình cho thành một “thi sĩ bồ tát” (chắc chắn) Tố Hữu đã không biết rằng chân dung, cũng như chân tướng, của ông đã được “tạc” xong – vào năm 1972, tại trại biệt giam Bảo Thắng, Lào Cai – bởi Phùng Cung :

Tội nghiệp nhà thơ!
Bơ vơ một nẻo
Hết móc ruột moi gan
Lại réo tên chỉ mặt
Bởi không biết sống
Nên không biết chết
Nửa thế kỷ
Bị lưu đầy
Trong cõi tung hô.

Tương tự, khi quí vị lãnh đạo đảng CSVN chen lấn để đi quá giang (cho bằng được) vào lịch sử – có lẽ – không ai ngờ rằng nhân cách và trình độ trí thức của họ cũng đã được Phùng Cung ghi nhận từ lâu, trước đó :

Đất nước tôi
Triền miên bất hạnh
Tụi mặt dầy – tay bẩn
Tim rắn – lời cừu
Văn hoá lớp hai
Điều hành cuộc sống

Đám “văn hoá lớp hai” này (chắc) “chưa bao giờ nhìn kỹ vào những nấm mồ hay để cả một buổi tối nhìn lên bầu trời thăm thẳm, lấp lánh những ngôi sao im lặng… Bởi vì bất kỳ ai trò chuyện với các nấm mồ, đối thoại với các vì sao đều sẽ tốt hơn, nâng cao được nhân bản, giảm đi sự tàn ác, bất công với đồng loại. Họ đều sẽ hiểu cái phù du, cái vô nghĩa lý của kiếp người” [Bùi Ngọc Tấn, Chuyện Kể Năm 2000 (Toronto: Thời Mới, 2000), 279].

Phùng Cung cũng đã nhiều lần ngước nhìn như thế, với nỗi băn khoăn tương tự :

Tôi đứng trong đêm
Ngửng đầu nhìn cao xa
Vọng hỏi
Có phải nước mắt con người
Đằm đằm dội xuống
Mà trên thiên cầu
Bao vì sao xao xuyến đổi ngôi.

Tôi (trộm) nghĩ thêm rằng nếu chợt có lúc “nhìn kỹ vào những nấm mồ hay để cả một buổi tối nhìn lên bầu trời thăm thẳm, lấp lánh những ngôi sao im lặng” thì “tụi mặt dầy tay bẩn” (rất có thể) cũng sẽ thôi làm những chuyện lố lăng, kịch cỡm – như đẽo gọt đời mình, hay cố chen chân (cho lọt) vào lịch sử.

(*) Nguyễn Mộng Giác, ed. Thơ Khoa Hữu. California: Văn Học, 1977.

(**) Truyện Và Thơ Chưa Hề Xuất Bản. Phùng Cung. California: Văn Nghệ, 2003.


 

BIỂU HIỆN CỦA NÔ LỆ HIỆN ĐẠI TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI – Nguyen Anh Tuan

 Đặng Huệ Như  

Bài viết hay của  Nguyen Anh Tuan

1. Thờ ơ với thời cuộc:

“Chính trị không liên quan đến tôi”, “Miễn tôi sống yên là được”. Đó là suy nghĩ phổ biến trong xã hội độc tài, nơi người dân bị tước quyền can thiệp vào các vấn đề công cộng, và dần đánh mất nhu cầu lên tiếng. Họ sống trong im lặng, coi bất công là chuyện “bình thường”, và không còn đặt câu hỏi vì sao đất nước mãi trì trệ.

  1. Vô cảm với đồng loại:

Khi thấy người khác bị oan sai, bị đàn áp, họ chỉ nói: “Tránh xa ra cho an toàn”. Sự vô cảm này không bắt nguồn từ sự ác, mà từ nỗi sợ hãi và tâm lý sinh tồn trong môi trường không an toàn. Nhưng chính sự vô cảm đó đã làm tê liệt sức mạnh cộng đồng.

  1. Không quan tâm chính trị:

Họ không biết ai là người nắm quyền, ai chịu trách nhiệm cho sự yếu kém của quốc gia. Họ không bầu chọn thật sự, không dám phản biện. Họ tin rằng “chuyện đó để nhà nước lo”, và vô tình trao toàn bộ vận mệnh vào tay kẻ khác.

  1. Khôn vặt, khôn lỏi để tồn tại:

Thay vì đòi hỏi một xã hội công bằng, họ học cách “luồn lách”, “biết điều”, “né rắc rối”, “chắc nó trừ mình ra”…. Đó là kỹ năng sinh tồn trong hệ thống bất công, nhưng đồng thời cũng làm lệch chuẩn đạo đức và suy giảm nhân cách xã hội.

  1. Sống trong sợ hãi thường trực:

Họ sợ bị theo dõi, sợ bị ghi nhận phát ngôn, sợ bị mất việc, sợ bị “xử lý hành chính”, sợ bị gán nhãn “phản động”. Sự sợ hãi khiến họ tự kiểm duyệt bản thân, không còn khả năng phản kháng, và dần chấp nhận kiếp sống lệ thuộc như điều tự nhiên. Nô lệ hiện đại không cần kẻ canh gác, bởi con người đã trở thành người canh giữ chính tư tưởng của mình. Và một khi con người không còn biết mình đang bị trói buộc, thì chính họ sẽ tiếp tục truyền lại sự nô lệ ấy cho thế hệ mai sau.

  1. 6. Nguy hiểm nhất của nô lệ hiện đại là khi người dân không chỉ bị kiểm soát bằng bạo lực, mà còn bị dẫn dắt trong vô thức. Họ tin rằng đất nước đang ổn định và phát triển dù thực tế đầy rẫy bất công; tin lãnh đạo là thiên tài bất chấp sai lầm hiển hiện; tin phản biện là nguy hiểm, tự do là gây loạn, “lên đồng tập thể” có khi chỉ một trận bóng đá hay một thú vui bị định hướng dẫn dắt nho nhỏ…. Mọi tiếng nói khác biệt bị gán nhãn “phản động”. Họ tự hào vì “biết chịu đựng”, vì “không cần dân chủ kiểu phương Tây”, mà không nhận ra mình đang bảo vệ chính cái hệ thống khiến họ sống trong nghèo đói, sợ hãi và bất lực. Khi người bị áp bức quay sang tôn vinh kẻ áp bức, khi xiềng xích trở thành niềm tin thì đó không còn là sự phục tùng đơn thuần, mà là tâm trí đã bị chiếm đóng.

Không ai sinh ra để làm nô lệ. Một dân tộc chỉ thật sự phát triển khi từng người dân hiểu rằng tự do không phải là đặc ân mà là quyền bất khả xâm phạm. Độc tài có thể bành trướng, nhưng lịch sử chưa từng dung thứ cho nó mãi mãi. Hãy sống như một con người đúng nghĩa chứ không chỉ tồn tại như một công cụ thoi thóp thở.


 

Người Nga và nước Nga – Tiến sĩ vật lý Nguyễn Đình Đăng

Nguyễn Hoành

Người Nga và nước Nga dưới ngòi bút của Tiến sĩ vật lý Nguyễn Đình Đăng con rể bà Nguyễn Thị Bình nguyên Phó chủ tịch nước:

“Tôi đã từng học và nghiên cứu ở Nga (Liên Xô) cũ tổng cộng 11 năm, từ năm 18 tuổi tới năm 31 tuổi (1976 – 1989) (Hai năm 1985 – 1987 làm việc ở Việt Nam). Tiếng Nga đối với tôi cũng trôi chảy gần như tiếng mẹ đẻ. Khi còn ở Nga, các bạn Nga từng nói với tôi: “Nếu chỉ nghe tiếng mày nói ngoài hành lang, không nhìn thấy mặt, thì bọn tao tưởng đó là người Nga nói.”

Nước Nga không chỉ mở cho tôi cánh cửa bước vào khoa học mà còn cả nghệ thuật. Chính tại đây lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với nghệ thuật lớn: nghệ thuật của các bậc thày cổ điển châu Âu, như Leonardo da Vinci, Botticelli, Titian, Rembrandt, trong nguyên bản, với âm nhạc của các nhà soạn nhạc vĩ đại, qua tiếng đàn của các bậc thày trứ danh biểu diễn sống, như Leonid Kogan, Danill Shafran, Shura Cherkasky, v.v., với văn học và thi ca của Toltstoy, Turgheniev, Tshekhov, Leskov, Dostoevsky, Pushkin, Lermontov, Esenin, Pasternak, Blok, Svetaeva,v.v. qua bản gốc tiếng Nga.

Tôi có nhiều bạn bè và đồng nghiệp là người Nga cũng như người Ukraine. Thày của tôi, cố GS Vadim Soloviev là người Nga. Phản biện luận án tiến sỹ năm 1985 của tôi, GS Anatoly Ignatyuk, là người Ukraine. Hai phản biện luận án tiến sỹ khoa học của tôi năm 1989, là GS A. Ignatyuk và GS. Grigory Yakovlevich Korenman, người Nga gốc Do Thái.

Ông Konstantin Gavrilovich, hoạ sỹ và kiến trúc sư, là người Nga đầu tiên phát hiện ra tài vẽ của tôi và đã không tiếc thời gian cũng như sức lực đưa tôi tới gặp các giáo sư tại các trường đại học mỹ thuật Surikov, Stroganov, và đại học kiến trúc.

Bạn gái đầu tiên của tôi là người Nga.

Tất cả họ đều là những con người chính trực, cao thượng, hào hiệp, tốt bụng, trí tuệ, có văn hóa học vấn cao và đáng ngưỡng mộ.

Nói vậy là để các bạn thấy nước Nga từng rất gắn bó với tôi.

Tuy nhiên đừng lẫn lộn người dân Nga với chế độ của những người cai trị họ.

Khoảng thời gian hơn một thập niên đó cũng đã cho tôi thấy rõ người Nga cũng như người dân các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, trong đó có Ukraine, đã bị o ép khổ sở về tinh thần và vật chất như thế nào dưới một chế độ quan liêu hách dịch điều khiển một nền kinh tế trì trệ. Nước Nga là một quốc gia rộng lớn, nhưng chưa bao giờ thoát khỏi mặc cảm của một nước nông dân, trong đó thủ đô Moskva được ví như cái làng của châu Âu. Người Nga trong lịch sử chưa bao giờ thoát khỏi ách áp bức từ chế độ Tsar Hoàng, tới chế độ cộng sản thời Lenin, Stalin, toàn trị thời Brezhnev, và cuối cùng là chế độ độc tài của Putin.

Sự yếu kém về kinh tế và hành chính của Ukraine là hậu quả của một thời kỳ dài dặc phụ thuộc vào Nga ở Liên Xô cũ. Cho tới năm 2006, tức 15 năm sau khi Liên Xô sụp đổ, tới Kiev dự hội thảo vật lý hạt nhân, tôi vẫn thấy sự trì trệ và phong thái làm việc trịch thượng hống hách kiểu Nga ở đó, bắt đầu từ khâu nhập cảnh tại sân bay, sinh hoạt dịch vụ công cộng, tới cách điều hành hội thảo.

Lẽ dĩ nhiên, nhìn sang châu Âu, trước hết là người dân nước hàng xóm Ba Lan, người Ukraine cũng muốn một cuộc sống độc lập, tự do, dân chủ và hạnh phúc như vậy. Việc Ukraine lựa chọn gia nhập EU hay NATO là quyền tự do của một quốc gia độc lập.

Vì thế đừng vội vàng đổ lỗi cho tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky hay nguyên tổng thống Petro Poroshenko về tình trạng này. Trên thực tế công cuộc “thoát Nga” của Ukraine mới chỉ thực sự bắt đầu từ cuộc nổi dậy ở Maidan từ tháng 11 năm 2013 tới tháng 2 năm 2014, tức cách đây tám năm về trước, quá ngắn để có thể tẩy rửa những căn bệnh do 74 năm chế độ cộng sản để lại, nhất là trong sự hà hiếp của chính quyền Putin.

Cá nhân tôi chưa bao giờ có thiện cảm với Putin, ngay từ những ngày đầu, khi Putin được tổng thống Nga Boris Yeltsin tiến cử. Lý do của tôi rất đơn giản: Putin nguyên là sĩ quan KGB, gia nhập KGB ngay sau khi tốt nghiệp đại học năm 1975. Vào thời perestroika của Gorbachev cho tới khi Liên Xô bắt đầu tan rã (1985 – 1990), Putin làm gián điệp của KGB tại Dresden. KGB khét tiếng tàn ác trong toàn bộ lịch sử của nó. Bố của Putin cũng là một sĩ quan của NKVD, tiền thân của KGB. Mẹ của Putin là công nhân. Ông của Putin nấu bếp cho Lenin và Stalin.

Tham vọng của Putin là khôi phục lại hào quang của đế quốc Nga đã mất trong đó y là độc tài bạo chúa. Nước Nga dưới chế độ Putin là một nước bị cô lập với toàn thế giới. Người dân Nga chưa bao giờ có tự do dân chủ. Các đảng đối lập bị chèn ép, các nhà đấu tranh dân chủ bị bắt bớ, đầu độc, ám sát. Cuộc xâm lược Ukraine đang diễn ra do Putin ra lệnh là khởi đầu của chiến dịch nhằm thực hiện mưu đồ bành trướng của Putin sang phương Tây, kéo lại đêm đen của chế độ độc tài cộng sản trong đó Nga là bá chủ. Vì thế Ukraine, từ một đất nước đứng lên chiến đấu chống ngoại xâm, nay đã trở thành biểu tượng của đại nghĩa chống lại hung tàn.

Bất kể Putin có thôn tính được Ukraine hay không, cuộc chiến tranh này do Putin khởi xướng đã, đang và sẽ khiến y muôn đời bị nguyền rủa như một tên Hitler t.k. XXI. Hay nói như đại sứ Ukraine tại Liên hiệp quốc, hắn sẽ đi thẳng xuống địa ngục vì không có luyện ngục (purgatory, nơi thanh tẩy tội lỗi sau khi chết) nào cho hắn cả.

*** Copy từ Fb Trần Quốc Quân


 

VĂN HOÁ KHUYẾN KHÍCH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”.

“Hãy tâng bốc tôi, tôi có thể không tin bạn! Hãy chỉ trích tôi, tôi có thể không thích bạn! Hãy quên bẵng tôi, tôi có thể không tha cho bạn! Nhưng hãy khích lệ tôi, tôi sẽ không bao giờ quên bạn!” – William Arthur Ward.        

Kính thưa Anh Chị em,

Các nhân vật của Lời Chúa hôm nay là những con người luôn khích lệ mà Giáo Hội và thế giới sẽ không bao giờ lãng quên: Barnaba, ‘Con của sự khích lệ’; và Giêsu, ‘Chúa của sự khích lệ!’. Lời Chúa muốn chúng ta sống ‘văn hoá khuyến khích!’. Vì lẽ, một ngọn nến sẽ không mất gì khi thắp sáng cho những ngọn nến khác!      

Bài đọc Công Vụ Tông Đồ tường thuật cuộc viếng thăm của Barnaba; “Barnaba”, tiếng Hy Lạp có nghĩa là ‘Con của sự khích lệ!’. Từ Giêrusalem, Barnaba được cử xuống Antiôkia để xem hiện tình. Vui mừng khi thấy “ơn Thiên Chúa” ban, Barnaba “khuyên nhủ ai nấy bền lòng gắn bó cùng Chúa”; ông dành cho anh chị em tân tòng một sự khích lệ lớn lao. Sau đó, Barnaba đến Taxô tìm Phaolô, người mới tin; đưa ông đi Antiôkia để hỗ trợ cho Hội Thánh non trẻ này. Từ đó, Phaolô trở thành trụ cột của Antiôkia; và “Chính tại Antiôkia, lần đầu tiên, các môn đệ được gọi là Kitô hữu”, Hội Thánh ngày càng có nhiều người tin; Thánh Vịnh đáp ca bộc lộ niềm vui, “Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa!”.

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cũng nói những lời đầy khích lệ, “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi; tôi biết chúng và chúng theo tôi. Tôi ban cho chúng sự sống đời đời; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi!”. Mục tử nhân lành Giêsu ra sức bảo vệ đoàn chiên; nhưng để khỏi bị cướp, mỗi con chiên cần đóng góp phần tích cực của mình, nghĩa là, phải im ắng đủ để nghe tiếng Ngài, quen thuộc với tiếng của Ngài; đồng thời, mỗi con chiên còn phải hỗ trợ những con chiên khác, cách riêng những con đau yếu và luôn đi chậm trong đàn. Hãy khuyến khích nhau, “Nếu bạn không thể bay, hãy chạy! Nếu bạn không thể chạy, hãy đi! Nếu bạn không thể đi, hãy bò! Nhưng dù bạn làm gì, hãy tiếp tục tiến về phía trước!” – Martin Luther King Jr..

Anh Chị em,

“Tôi ban cho chúng sự sống đời đời”. Noi gương Chúa Giêsu, ‘Chúa của sự khích lệ’; bắt chước Barnaba, ‘Con của sự khích lệ’, chúng ta cũng ao ước “sự sống đời đời” cho mình và cho tha nhân. Như các ngài, chúng ta khuyến khích nhau trong đức tin, giúp nhau lớn lên khi sống mật thiết mối quan hệ với Chúa, với nhau. Cha mẹ khuyến khích con cái, con cái khuyến khích cha mẹ; anh chị em, bạn bè khuyến khích nhau để nên thánh mỗi ngày; vì “Không ai lên thiên đàng một mình!”. Ước gì chúng ta có một trái tim lặng đủ để giúp nhau nhanh nhạy ‘ngẩng lên’ mỗi khi nghe Giêsu Mục Tử gọi và mau mắn thi hành điều Ngài muốn! Từ đó, dám dấn thân, trở nên những con người sẵn sàng vực dậy những ai đang bủn rủn, đầu gối rã rời. Như vậy, trong mọi lĩnh vực, ‘mục vụ khuyến khích’, ‘văn hoá khuyến khích’ vẫn đóng một vai trò nhất định, không chỉ ở các Hội Thánh non trẻ, mà cả với Giáo Hội trưởng thành và cả trong thế giới hiện đại!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con nhìn mọi sự dưới lăng kính tiêu cực. Cho con luôn dấn thân để khơi dậy niềm cảm hứng nơi anh chị em con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

******************************************

Thứ Ba Tuần IV Phục Sinh

Tôi và Cha tôi là một.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.        Ga 10,22-30

22 Khi ấy, ở Giê-ru-sa-lem, người ta đang mừng lễ Cung Hiến Đền Thờ. Bấy giờ là mùa đông. 23 Đức Giê-su đi đi lại lại trong Đền Thờ, tại hành lang Sa-lô-môn. 24 Người Do-thái vây quanh Đức Giê-su và nói : “Ông còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ ? Nếu ông là Đấng Ki-tô, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết.” 25 Đức Giê-su đáp : “Tôi đã nói với các ông rồi mà các ông không tin. Những việc tôi làm nhân danh Cha tôi, những việc đó làm chứng cho tôi. 26 Nhưng các ông không tin, vì các ông không thuộc về đoàn chiên của tôi. 27 Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi ; tôi biết chúng và chúng theo tôi. 28 Tôi ban cho chúng sự sống đời đời ; không bao giờ chúng phải diệt vong và không ai cướp được chúng khỏi tay tôi. 29 Cha tôi, Đấng đã ban chúng cho tôi, thì lớn hơn tất cả, và không ai cướp được chúng khỏi tay Chúa Cha. 30 Tôi và Chúa Cha là một.”