Nhà Trắng thu hẹp phạm vi của mức thuế quan đánh vào ngày 2 tháng 4 tới đây

Theo báo WSJ

Thuế quan đối với các ngành công nghiệp như ô tô và vi mạch không còn được dự kiến ​​sẽ được công bố vào ngày đó, mặc dù các đối tác thương mại lớn vẫn sẽ bị đánh thuế theo cái gọi là thuế quan có đi có lại

Tàu chở hàng tại Cảng Oakland.

Các tàu chở hàng tại Cảng Oakland, California, đầu tháng này. Ảnh: carlos barria/Reuters.

WASHINGTON—Nhà Trắng đang thu hẹp cách tiếp cận của mình đối với các mức thuế có hiệu lực vào ngày 2 tháng 4, có khả năng sẽ bỏ qua một loạt các mức thuế dành riêng cho ngành trong khi áp dụng các mức thuế có đi có lại đối với một nhóm các quốc gia mục tiêu chiếm phần lớn thương mại nước ngoài với Hoa Kỳ

Tổng thống Trump đã tuyên bố ngày 2 tháng 4 là “Ngày giải phóng” cho Hoa Kỳ, khi ông sẽ áp dụng cái gọi là thuế quan có đi có lại nhằm cân bằng thuế quan của Hoa Kỳ với thuế quan của các đối tác thương mại, cũng như thuế quan đối với các lĩnh vực như ô tô, dược phẩm và chất bán dẫn mà ông nhiều lần nói sẽ có hiệu lực vào ngày đó.

Tuy nhiên, một viên chức chính quyền cho biết, hiện tại, các mức thuế quan cụ thể theo từng lĩnh vực đó có thể sẽ không được công bố vào ngày 2 tháng 4, người này cho biết Nhà Trắng vẫn đang có kế hoạch công bố hành động áp thuế quan đáp trả vào ngày đó, mặc dù kế hoạch vẫn còn chưa rõ ràng. Sự thay đổi này đã được Bloomberg đưa tin trước đó.

Theo những người hiểu biết về kế hoạch này, trọng tâm của hành động đáp trả hiện có vẻ có mục tiêu cụ thể hơn so với suy nghĩ ban đầu, mặc dù nó vẫn sẽ tác động đến các quốc gia chiếm phần lớn lượng hàng nhập khẩu của Hoa Kỳ.

Chính quyền hiện đang tập trung vào việc áp dụng thuế quan đối với khoảng 15% các quốc gia có tình trạng mất cân bằng thương mại dai dẳng với Hoa Kỳ—cái gọi là “15 quốc gia bẩn”, như Bộ trưởng Tài chính Scott Bessent đã nói vào tuần trước. Những quốc gia mà Bessent cho biết chiếm phần lớn thương mại nước ngoài của Hoa Kỳ, sẽ bị ảnh hưởng đặc biệt nặng nề với mức thuế quan cao hơn, những người hiểu biết về vấn đề này cho biết, mặc dù các quốc gia khác cũng có thể được áp dụng mức thuế quan khiêm tốn hơn.

Scott Bessent, Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ, đang đi bộ gần Nhà Trắng.

Bộ trưởng Tài chính Scott Bessent cho biết thuế quan qua lại sẽ đặc biệt nhắm vào “15 quốc gia bẩn”, một nhóm các quốc gia có tình trạng mất cân bằng thương mại dai dẳng với Hoa Kỳ Ảnh: Al Drago/Bloomberg News

Các quốc gia mục tiêu dự kiến ​​sẽ gần với các quốc gia được đại diện thương mại Hoa Kỳ nêu ra trong thông báo của Công báo Liên bang vào tháng trước, trong đó hướng dẫn những người bình luận tập trung vào các quốc gia mất cân bằng thương mại với Hoa Kỳ, chẳng hạn như các quốc gia G-20 và Úc, Brazil, Canada, Trung Quốc, Liên minh Châu Âu, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mexico, Nga, Việt Nam, v.v., một người hiểu biết về các kế hoạch cho biết.

Sự thay đổi của chính quyền diễn ra sau nhiều tuần đàm phán cứng rắn với các đối tác thương mại và các ngành công nghiệp Hoa Kỳ. Các quan chức từ Canada và Mexico cho biết họ được thông báo rằng không có cách nào để tránh thuế quan qua lại trước ngày 2 tháng 4, mặc dù họ hy vọng Trump sẽ cởi mở với việc giảm thuế quan thông qua các cuộc đàm phán sau ngày đó.

Tổng Thống Trump trước đây đã cho các nhà sản xuất ô tô tạm thời được miễn thuế đối với Canada và Mexico, trước khi tạm dừng các khoản thuế đó rộng rãi hơn đối với tất cả các sản phẩm tuân thủ thỏa thuận thương mại USMCA. Nhưng vào thứ Sáu, ông than thở rằng mọi người đã chỉ trích ông vì đã lùi bước, và ám chỉ rằng cách tiếp cận của ông đối với thuế quan có thể thay đổi trong những ngày và tuần tới. Một khi bạn miễn trừ cho một công ty, “bạn phải làm như vậy cho tất cả”, Trump nói, đồng thời nói thêm rằng “từ linh hoạt là một từ quan trọng. Đôi khi có sự linh hoạt, sẽ có sự linh hoạt”.


Thủ tướng Canada, Mark Carney tuyên bố tổng tuyển cử vào ngày 28 tháng 4, 2025

Theo báo Tin Tức Anh – GB  News

Carney kêu gọi bầu cử sớm trong bối cảnh chiến tranh thương mại của Trump và những lời chế giễu về chủ quyền

Thủ tướng Canada Mark Carney đã kêu gọi bầu cử sớm vào ngày 28 tháng 4, mở màn cho cuộc chiến khốc liệt giữa Đảng Tự do của ông và Đảng Bảo thủ do Pierre Poilievre lãnh đạo.

Chiến dịch tranh cử chính thức diễn ra sau khi Carney, người mới nhậm chức chỉ chín ngày trước đó, đã yêu cầu Toàn quyền Mary Simon giải tán Quốc hội vào Chủ Nhật.

Ông Mark Carney đã cáo buộc Tổng thống Hoa Kỳ đã gây thiệt hại cho Canada bằng “những hành động thương mại vô lý” thông qua thuế quan và “đe dọa chủ quyền của chúng tôi” thông qua tuyên bố rằng thuộc địa cũ của Anh “không phải là một quốc gia thực sự”.

“Chúng ta đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất trong đời vì những hành động thương mại vô lý của Tổng thống Trump và những lời đe dọa của ông đối với chủ quyền của chúng ta… Ông ấy muốn phá vỡ chúng ta để nước Mỹ có thể sở hữu chúng ta”, Carney nói.”Chúng ta không thể để điều đó xảy ra… Chúng ta đã vượt qua cú sốc vì bị phản bội, nhưng chúng ta không bao giờ được quên những bài học đó. Chúng ta cần phải tự chăm sóc bản thân mình”, ông thề.

Carney hình của © GB News (Mỹ)

Trước đây, Canada đã lên kế hoạch tổ chức cuộc bầu cử tiếp theo vào ngày 20 tháng 10, nhưng trước những lời công kích bằng lời nói của Trump nhằm vào quốc gia láng giềng phía bắc, Đảng Tự do của Carney đã được sự ủng hộ của dân chúng tăng vọt trong các cuộc thăm dò.

“Tôi đang yêu cầu một sự ủy nhiệm tích cực mạnh mẽ từ những người dân Canada”, ông phát biểu hôm nay. “Tôi vừa yêu cầu Toàn quyền Mary Simon giải tán Quốc hội và triệu tập cuộc bầu cử vào ngày 28 tháng 4, và bà ấy đã đồng ý”, ông nói sau khi Simon, là người đại diện cho Vua Charles III tại Vương quốc Khối thịnh vượng chung tại Canada, chấp thuận yêu cầu của ông.

Ông sẽ đối đầu trực tiếp với lãnh đạo Đảng Bảo thủ Canada do ông Pierre Poilievre lãnh đạo, người có lợi thế dẫn đầu đáng kể trong các cuộc thăm dò hồi đầu năm 2025 nhưng đã bị mất điểm, sau khi ông Trump trở lại nắm quyền ở Hoa Kỳ.

See the source image

Với cuộc tổng tuyển cử chỉ còn hơn một tháng nữa, các cuộc thăm dò cho thấy cuộc đua về cơ bản là ngang ngửa. Tính đến Chủ Nhật, công ty tổng hợp thăm dò 338Canada cho biết Đảng Tự do đạt 39 phần trăm, Đảng Bảo thủ đạt 37 phần trăm và Đảng Dân chủ Mới đạt 11 phần trăm. Sự dẫn đầu của Đảng Tự do nằm trong biên độ sai số, là cộng hoặc trừ 4 phần trăm.


Làm sao “vui để đợi chết” – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Hắn cứ hay suy nghĩ vẫn vơ. Tới tuổi “bát thập” rồi, hắn luôn tạ ơn Chúa vì hắn còn sống, còn đi đứng được, còn ăn uống được, lại được sống ở nước Mỹ đầy đủ tiện nghi và tự do nhất thế giới. Dầu vậy, hắn cũng hiểu rằng, tới tuổi 80, 81 rồi hắn sẽ ngã bịnh nặng bất cứ lúc nào?

+ Sẽ bị bịnh gì chưa biết; cao máu, tiểu đường, cao mở, stroke rồi bị liệt, mất trí nhớ (Alzheimer)… Nếu khi bị Stroke hay Alzheimer hắn sẽ không thể nói cho con cháu nghe được nữa, nên hắn muốn viết trước vài suy nghĩ, để lại cho con cháu.

Hắn viết: “Sinh Lão Bịnh Tử đó là con đường ta phải trải qua trong cuộc sống nhân sinh này. Ta được sinh ra không được hỏi ý kiến vì ta chỉ là đứa trẻ nít, chưa biết gì. Khi già lão thì biết, sức khỏe càng ngày càng suy yếu, hay mệt nhọc, không còn làm việc nhiều được nữa. Chạy xe gần thì được. Chạy xe đi xa hơn 30 phút là thắm mệt. Đọc sách cũng không còn tha thiết như xưa nữa.

Sáng thức dậy, cứ muốn ngủ thêm, dậy không nổi, không thấy khoẻ như trước của tuổi U70”.

1)Có một điều không dự đoán được là:

+Chắc chắn là sẽ bị bịnh gì đó rất nặng, sẽ nằm nhà thương hay nằm tại nhà bao lâu rồi mới ra đi. Rồi cũng phải chịu đựng tình trạng không tự lo cho mình được? Không tự đánh răng được, không mặc áo quần được, không tự ăn uống được, không thể đi lại được chỉ nằm chờ chết là bao lâu?

+Sẽ chết như thế nào? Chết ở nhà hay ở nhà thương?

+Khó khăn là ta phải đương đầu với bịnh tật. Khi bị bịnh nặng, ta sẽ buồn rầu chán nản, than thân, trách móc Chúa, gây gỗ với người chung quanh. Làm sao sống vui vẻ, không than thân, khóc lóc lúc bị bịnh nặng. Làm sao không gây sầu khổ, đau buồn, lo lắng cho con cháu, cho gia đình, cho người thân, bạn bè, bà con? Làm sao không gây lo lắng, khó khăn cho người chung quanh.Vô cùng khó.

Chỉ có thường suy nghĩ về sự bịnh hoạn, về sự đau đớn thể xác, sự đau khổ về tinh thần, sống dựa vào Chúa, nhờ ơn Chúa giúp sức, may ra mới chịu đựng được những đau đớn, khổ sở của bản thân mình?

2)Đối diện với đau khổ chúng ta phải có thái độ như thế nào?

+Để có thể chịu đựng được đau đớn thể xác và đau khổ về tinh thần? Làm sao chấp nhận những khó khăn, đau khổ đó ở đời này. Xem những đau khổ, khó khăn đó là món quà hy sinh, chịu đựng, dâng lên Chúa.

Ở Mỹ không có thiếu thốn về vật chất nhưng cũng không thoát khỏi sự đau khổ về tinh thần.

Ở Việt Nam nhiều người thiếu thốn về vật chất, gặp nhiều khó khăn, đau khổ. Còn những người giàu không thiếu thốn về vật chất, nhưng họ vẫn phải chịu đựng sự đau khổ về tinh thần, như con cái không chịu học hành, bỏ nhà đi bụi đời, chồng hoặc vợ ngoại tình, gia đình ly tán… 

Bịnh tật và sự chết không chừa một ai. Đó là quy luật sinh lão bịnh tử.

+Trước những vấn đề đau khổ đó thái độ của chúng ta như thế nào mới là quan trọng?

Trong bài: “Đối Diện Với Đau Khổ” (trích Bài học Kinh Thánh Hằng ngày)

“Khi đối diện với đau khổ, con người có khuynh hướng than thân trách phận, trách cả Đức Chúa Trời, thậm chí có người còn chối bỏ đức tin. Nhưng ông Gióp trong mọi đau khổ xảy đến vẫn không phạm tội và không hề nói lời nào trách móc hay phạm thượng với Chúa. Khi nhận biết sự tể trị của Chúa trên cuộc đời mình, chúng ta có thể sấp mình thờ phượng, cầu nguyện, và ngợi tôn Chúa ngay cả trong cơn khủng hoảng nhất xảy đến cho mình. Bạn từng đối diện với những đau khổ nào? Bạn đã phản ứng ra sao? Gương của ông Gióp nhắc nhở bạn điều gì?

Lạy Chúa, khi cuộc đời con chan đầy nước mắt, con vẫn tin rằng Chúa ngự trên cao, tình yêu Ngài vẫn phủ trùm mặt đất, và quyền năng Ngài vẫn tỏa vượt trăng sao”

https://www.facebook.com/BaiHocKinhThanhHangNgay/posts/1087260497958032/

3)Tuyệt vời là ở sự chịu đựng đau đớn, đau khổ.

Sống lạc quan, vui vẻ, tạ ơn Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh (Tx 5, 18). Tuyệt vời là ở sự chịu đựng đau đớn về thể xác, tuyệt vời là ở sự chịu đựng đau khổ về tinh thần. Không biết có làm được không?

Khi tâm hồn lạc quan, sống vui thì ngay lúc chết, sự vui vẻ lạc quan đó giúp cho linh hồn tràn ngập niềm vui để về với Chúa, hưởng phúc thiên đàng.

Phùng Văn Phụng

04 tháng giêng năm 2023

Xem thêm:

+Bài Học Tịnh Tâm

https://keditim.net/?p=124786

+Vui Để Đợi Chết

https://keditim.net/?p=93636


 

Tôi không muốn trở thành gánh nặng trong tuổi già.

Tôi không sợ già đi, không sợ những nếp nhăn khắc lên da những dấu vết của thời gian, cũng không sợ cơ thể dần buông lỏng như một tấm vải bay trong gió. Tôi không sợ mái tóc bạc hay những bước chân chậm rãi hơn sẽ đếm nhịp những ngày tháng của tôi. Tôi không sợ cô đơn, bởi tôi đã yêu nó, đã thuần hóa nó, đã biến nó thành của riêng mình. Nó là nơi trú ẩn, là đồng minh của tôi.

 Nhưng có một điều khiến tôi lo lắng, một cái bóng ẩn mình trong những năm tháng tôi chưa kịp sống: số phận. Kẻ chơi bài lão luyện đôi khi gian lận với những quân bài đã được đánh dấu, hôm nay có thể dọn sẵn cho bạn một ly rượu bên bàn ăn ấm cúng, nhưng ngày mai lại bỏ mặc bạn dưới cơn mưa, không áo choàng, không nơi nương náu.

Tôi không muốn trở thành gánh nặng, một tiếng thở dài cam chịu trên môi những người xung quanh tôi. Tôi không muốn đọc thấy trong ánh mắt họ hình ảnh sự yếu đuối và phụ thuộc của chính mình. Tôi không muốn cái tên của tôi trở thành biểu tượng của sự hy sinh đối với người khácTôi muốn là cơn gió, là làn gió nhẹ vẫn còn nhảy múa, dù cơ thể tôi có đau đớn. Tôi muốn tuổi già  ủa mình là một bài thơ tự do, là một tách cà phê thơm mùi ký ức, là một bức tranh chưa hoàn thành đang chờ nét màu cuối cùng.

 Tôi không sợ già đi. Tôi chỉ sợ lạc lối trong một số phận mà tôi chưa từng chọn.

 Thế giới văn chương

From: haiphuoc47 & NguyenNThu

Chiến thắng của hãng Boeing (BA) trong dự án máy bay chiến đấu X-47 đang gây chấn động cho hãng Lockheed (LMT) và Northrop (NOC)

Theo tạp chí tài chánh Tip Rank

Boeing (BA) vừa giành được một chiến thắng lớn. Không quân Hoa Kỳ đã chọn công ty này để chế tạo F-47, một máy bay chiến đấu hạng nhất mới. Thỏa thuận này có giá trị hơn 20 tỷ đô la, đây là tin tuyệt vời cho công ty hàng không vũ trụ này. Tuy nhiên, nó cũng thay đổi cuộc chơi đối với Lockheed Martin (LMT) và Northrop Grumman (NOC) .

F-47 sixth generation fighter - YouTube

Trong khi hoàn cảnh gần đây của Boeing thường bị chậm trễ trong sản xuất và có các vấn đề về chất lượng an toàn gây ra mối quan ngại cho khách hàng, hợp đồng này được coi là cơ hội quan trọng để công ty xây dựng lại danh tiếng và chứng minh năng lực của mình dưới sự giám sát chặt chẽ của giới hữu quan.

Hãy bắt đầu với Lockheed Martin.

 Công ty này đã sản xuất F-22 và F-35 , vì vậy nhiều người cho rằng họ cũng sẽ chế tạo máy bay phản lực lớn tiếp theo. Nhưng hóa ra không phải vậy, và đây là một đòn giáng mạnh vào nhà thầu quốc phòng. Hiện tại, họ không có máy bay chiến đấu mới nào đang được chế tạo cho Hoa Kỳ, điều này xảy ra ngay sau khi họ cũng mất kế hoạch chế tạo máy bay phản lực thế hệ tiếp theo của Hải quân.

Cổ phiếu LMT đã giảm gần 6% sau tin tức này . Điều đó cho thấy sự thất vọng lớn như thế nào đối với những người sở hữu cổ phiếu. Tuy nhiên, Lockheed vẫn chưa ra khỏi cuộc chơi. Họ vẫn phụ trách F-35, loại máy bay mà nhiều đồng minh của Hoa Kỳ sử dụng. Loại máy bay phản lực đó mang lại rất nhiều tiền mặt. Vì vậy, trong ngắn hạn, Lockheed sẽ ổn. Nhưng về lâu dài, họ có thể cần tìm ra những cách mới để phát triển.

Còn NOC thì sao?

Đối với Northrop Grumman, không giống như Lockheed, họ đã chọn rút lui khỏi cuộc chiến này vào năm 2023. Họ đã làm việc chăm chỉ với phi cơ B-21 Raider, một máy bay ném bom tàng hình tuyệt mật. Trong trường hợp này, chúng ta đang nói về một dự án lớn sẽ kéo dài nhiều năm.

Tuy nhiên, Northrop có thể sớm tạo ra một bước tiến lớn. Với việc Lockheed ra đi và Boeing gắn bó với F-47, Northrop hiện là lựa chọn hàng đầu để giành được hợp đồng máy bay chiến đấu F/A-XX của Hải quân.

Report on U.S. Navy F/A-XX Next Generation Fighter will be ready in ...

Nếu thắng hợp đồng mới, điều đó có thể thúc đẩy cổ phiếu của công ty và duy trì vị thế mạnh mẽ trong không chiến. Cổ phiếu NOC vẫn ổn định sau khi tin tức về F-47 nổ ra, điều này cho chúng ta biết các nhà đầu tư vẫn tin tưởng vào chiến lược dài hạn của công ty.

1. **Những tiến bộ về công nghệ**: F-47 được thiết kế để trở thành bước nhảy vọt thế hệ trong công nghệ máy bay chiến đấu, có khả năng tàng hình tiên tiến, khả năng trí tuệ nhân tạo và khả năng phối hợp với máy bay không người lái. Những cải tiến này có thể đóng vai trò quan trọng trong việc lựa chọn Boeing.

2. **Tầm quan trọng về mặt chiến lược**: F-47 có lợi thế để chống lại những tiến bộ trong hệ thống phòng không của Trung Quốc và duy trì ưu thế trên không toàn cầu.

3. **Giám sát và trách nhiệm giải trình**: Các chuyên gia tin rằng việc trao hợp đồng này cho Boeing đi kèm với sự giám sát chặt chẽ hơn của chính quyền liên bang, đảm bảo công ty giải quyết được các thách thức về kiểm soát chất lượng của mình.

4. **Chi phí và khả năng thích ứng**: F-47 dự kiến ​​sẽ tiết kiệm chi phí hơn và thích ứng tốt hơn với các mối đe dọa trong tương lai so với các máy bay hiện có như F-22.

Nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. (Lc 13:3)-Cha Vương

Ngày Chúa Nhật tràn đầy yêu thương và tha thứ nhé.

Cha Vương

CN, 3MC: 23/3/25

TIN MỪNG: Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu ; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. (Lc 13:3)

SUY NIỆM: Thời đại ngày nay mình thấy có 2 căn bệnh đang làm nhiều người điên đầu. Bệnh thứ nhất là bệnh mất trí nhớ. Bệnh thứ 2 là bệnh mất cảm thức về tội. Bệnh mất trí nhớ thì ai cũng biết rồi, mình cũng đang có triệu chứng đó bạn ạ. Theo mình càng quên thì càng bớt tội. 🙂 Còn bệnh mất cảm thức về tội là gì? Đây là căn bệnh của lương tâm. Một khi con người không còn khả năng để phân biệt được ranh giới giữa thiện và ác nữa thì điều xấu sẽ ngày càng được hợp thức hoá—“tốt thì nhận, sai thì cãi”—cãi cho ra đúng mới thôi. Điều này đi ngược với tâm tình Mùa Chay—“tốt thì nhận, sai thì sửa lại”—cố gắng sửa lại một sai trái để nhận được sự tha thứ nơi người mà họ xúc phạm. Đây là tâm tình và hành động của việc sám hối.

LẮNG NGHE:  Ai nói mình không có tội là kẻ nói dối. Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta” (1 Ga 1:8).

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, xin giúp con có một ý thức nhạy bén trước tội lỗi để con biết tránh xa những gì không thuộc về Chúa.

THỰC HÀNH: Có bao xao lãng bổn phận đối với tha nhân và hơn nữa đối với chính Thiên Chúa chưa? Đây là tội xao lãng (sin of omission). Mời bạn hãy cố gắng sửa đổi chính mình nhé.

From: Do Dzung

*******************************

Trở Về Bên Chúa 2 (Sáng tác: Lm. Nguyễn Văn Tuyên) – Kiều Oanh Nguyễn

CHẾT CHẬM – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh và bón phân cho nó. May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi!”.

Người La Mã, đôi khi, xích tù nhân cạnh một xác chết cho đến khi mùi thối của tử thi hủy hoại họ. “Người sống và kẻ chết ‘tay trong tay’ cho đến nghẹt thở vì tử khí; họ kéo dài cuộc sống thê lương cho đến chết! Không có Chúa Kitô, chúng ta bị cùm vào tội lỗi như người tù bị cùm vào xác chết! Chỉ ăn năn sám hối thực lòng mới giải thoát chúng ta, vì cuộc sống bấy giờ, không chỉ là một sự tồn tại vô sinh nhưng còn là một cái ‘chết chậm!’.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay tiết lộ, Thiên Chúa không những không chấp nhận cái chết, mà Ngài càng không chấp nhận một sự tồn tại vô sinh – ‘chết chậm’ – nơi con cái Ngài!

Thiên Chúa không chấp nhận kiếp nô lệ đọa đày của Israel trên đất Ai Cập, Ngài sai Môsê đi giải thoát dân – bài đọc một. Với bài Tin Mừng, hình ảnh cây vả không sinh trái mang ý nghĩa tương tự, nó biểu tượng cho linh hồn mỗi người! Cũng có thể nó đang nô lệ – vô sinh – không có khả năng cho đi, không có khả năng làm điều lành! Và Chủ vườn quyết định chặt nó. May thay, người làm vườn – Chúa Giêsu – can thiệp, xin Chủ cho thêm một năm nữa. Và tất cả những gì Ngài làm bộc lộ cách hiển nhiên lòng thương xót của Thiên Chúa – “Đấng từ bi nhân hậu” – Thánh Vịnh đáp ca, cũng là Đấng không chấp nhận một cái ‘chết chậm’ ở con cái Ngài. Đấng luôn cho con người một cơ hội thứ hai, để mỗi người có đủ thời gian hoán cải.

Thông điệp thật rõ ràng, tất cả chúng ta cần thay đổi! Sự kiên nhẫn và lòng thương xót Chúa đồng hành với chúng ta, bất chấp sự cằn cỗi đang có ở đó. Hãy nhớ, Chúa Giêsu luôn làm tất cả những gì có thể để chúng ta hướng thiện. Việc xin hoãn lại của người làm vườn với kỳ vọng cây vả sẽ sinh trái, cho thấy tính cấp thiết của việc biến đổi! Hãy lưu ý, cây vả được trồng giữa vườn; nghĩa là được ưu tiên! Đó chính là linh hồn bạn và tôi. Đất chúng ta được trồng là ‘đất xót thương’ – ‘đất giàu nhất’ – để có thể sản sinh những hoa trái vốn được kỳ vọng. Mùa Chay, mùa sám hối, mùa cải tà quy chánh; đừng để mình ‘chết chậm’, tồn tại mà vô sinh!

Anh Chị em,

“May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi!”. “Thời gian và khả năng hoán cải không phải là vô hạn; do đó, cần phải nắm bắt ngay lập tức; nếu không, khả năng đó có thể mất mãi mãi. Lời Chúa mời gọi chúng ta tự hỏi, tôi phải làm gì để hoán cải, để đến gần Chúa hơn, để “cắt bỏ” những điều không tốt?” – Phanxicô. Chúa Giêsu nhẫn nại biết bao với hy vọng chúng ta sẽ sớm sinh trái. Mỗi ngày, Ngài “cắt tỉa” chúng ta bằng Lời, “bón” chúng ta bằng Thịt Máu Thánh, “sưởi” chúng ta bằng lửa Thánh Thần, và “tưới” chúng ta bằng ân sủng. Cứ thế, Ngài chờ đợi và tiếp tục chăm bón; bởi lẽ, Ngài không chấp nhận một cuộc sống mà như đã chết nơi linh hồn mỗi người. Vậy còn chần chờ gì nữa, bạn và tôi hãy nắm bắt cơ hội – hôm nay – trở về với Chúa khi còn kịp!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, giúp con chặt đứt mọi xích xiềng chết chóc thối tha, thật lòng sám hối, cắm rễ sâu vào ‘đất xót thương’ của Chúa để sinh trái, hầu Chúa không còn mỏi mắt!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBang Nguyen

***************************************

CHÚA NHẬT TUẦN III MÙA CHAY NĂM C

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

1 Lúc ấy, có mấy người đến kể lại cho Đức Giê-su nghe chuyện những người Ga-li-lê bị tổng trấn Phi-la-tô giết, khiến máu đổ ra hoà lẫn với máu tế vật họ đang dâng. 2 Đức Giê-su đáp lại rằng: “Các ông tưởng mấy người Ga-li-lê này phải chịu số phận đó vì họ tội lỗi hơn mọi người Ga-li-lê khác sao? 3 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết như vậy. 4 Cũng như mười tám người kia bị tháp Si-lô-ác đổ xuống đè chết, các ông tưởng họ là những người mắc tội nặng hơn tất cả mọi người ở thành Giê-ru-sa-lem sao? 5 Tôi nói cho các ông biết: không phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu sám hối, thì các ông cũng sẽ chết hết y như vậy.”

6 Rồi Đức Giê-su kể dụ ngôn này: “Người kia có một cây vả trồng trong vườn nho mình. Bác ta ra cây tìm trái mà không thấy, 7 nên bảo người làm vườn: ‘Anh coi, đã ba năm nay tôi ra cây vả này tìm trái, mà không thấy. Vậy anh chặt nó đi, để làm gì cho hại đất?’ 8 Nhưng người làm vườn đáp: ‘Thưa ông, xin cứ để nó lại năm nay nữa. Tôi sẽ vun xới chung quanh, và bón phân cho nó. 9 May ra sang năm nó có trái, nếu không thì ông sẽ chặt nó đi.’”


 

Học người xưa cách đối diện với thị phi trong cuộc sống

Dưới đây là 2 câu chuyện nói về cách mà người thời xưa đối diện với những thị phi.

Câu chuyện thứ nhất:

Trong một buổi nhàn hạ, vua Đường Thái Tông hỏi chuyện vị quan cận thần là Hứa Kính Tôn rằng:

– Trẫm thấy khanh phẩm cách cũng không phải là phường sơ bạc. Sao lại có nhiều tiếng thị phi chê ghét như thế?

Hứa Kính Tôn trả lời:

– Tâu bệ hạ. Mưa mùa Xuân tầm tã như dầu, người nông phu mừng cho ruộng đất được thấm nhuần, kẻ bộ hành lại ghét vì đường đi trơn trợt. Trăng mùa thu sáng vằng vặc như gương treo trên bầu trời đêm, hàng thi nhân vui mừng gặp dịp thưởng du ngâm vịnh, nhưng bọn đạo chích lại ghét vì ánh trăng quá sáng tỏ. Trời đất kia vốn vô tư không thiên vị, mà cơn nắng mưa thời tiết vẫn bị thế gian trách hận ghét thương.

Còn hạ thần đâu phải một người vẹn toàn thì làm sao tránh khỏi tiếng chê bai chỉ trích.Cho nên ngu thần trộm nghĩ, đối với tiếng thị phi trong thế gian nên bình tâm suy xét, đừng nên vội tin nghe. Vua tin nghe lời thị phi thì quan thần bị hại. Cha mẹ tin nghe lời thị phi thì con cái bị ruồng bỏ. Vợ chồng tin nghe lời thị phi thì gia đình ly tán. Tiếng thị phi của thế gian nọc độc còn hơn rắn rết, bén hơn gươm đao, giết người không thấy máu.

Câu chuyện thứ hai:

Một lần, Phật đi giáo hóa ở vùng có nhiều người tu theo Bà La Môn giáo. Các tu sĩ Bà La Môn thấy đệ tử của mình đi theo Phật nhiều quá, nên ra đón đường Phật mà mắng chửi. Phật vẫn đi thong thả, họ đi theo sau không tiếc lời rủa xả. Thấy Phật thản nhiên làm thinh, họ tức giận, chặn Phật lại hỏi:

– Ngài có điếc không?

– Ta không điếc.

– Ngài không điếc sao không nghe tôi chửi?

– Này tín đồ Bà La Môn, nếu nhà ông có đám tiệc, thân nhân tới dự, mãn tiệc họ ra về, ông lấy quà tặng họ không nhận thì quà đấy về tay ai?

– Quà ấy về tôi chứ ai.

– Cũng vậy, ông chửi ta, ta không nhận thì thôi.

Trong kinh Phật viết rằng, khi người ác mắng chửi người thiện, người thiện không nhận thì người ác giống như người ngửa mặt lên trời phun nước bọt, nước bọt không tới trời mà rời xuống ngay mặt người phun. Có thọ nhận mới dính mắc đau khổ, không thọ nhận thì an vui hạnh phúc. Thế nên từ nay về sau nếu có nghe thấy ai đó nói lời không tốt về mình, chớ có thọ nhận thì sẽ được an vui.Theo Phật giáo, khẩu nghiệp là một trong những nghiệp nặng nề nhất mà một người có thể tạo ra. Vết thương bạn gây ra trên thân thể người khác còn có ngày lành nhưng vết thương gây ra bởi lời nói thì chẳng biết ngày nào mới lành lại được.Vì vậy hãy cẩn trọng với lời nói của mình, đừng gây ra thị phi vì vô ý thức, cũng đừng trách móc người khác chỉ vì lỗi lầm của họ bởi: “Every saint has a past, every sinner has a future”, nghĩa là “Vị thánh nào cũng có một quá khứ, và tội đồ nào cũng có một tương lai”.

Nguồn: giadinhonline


 

Đi thăm cháu ngoại ở Fort Lauderdale (Florida)-  Phùng Văn Phụng

Thứ bảy, ngày 01 tháng 03 năm 2025, tôi đã đi thăm cháu ngoại Michelle đang học tai trường Nova Southeastern University, ngành y. Nhân cơ hội đó vào thăm trường NSU luôn cho biết.

Cháu phải qua được ba kỳ thi nữa mới tới trường mới ở New York và cần học thêm hai năm nữa, đi thực tập ở các nhà thương, phòng mạch của các bác sĩ, để xem thích hợp với ngành nào, mới chọn, sẽ học về bác sĩ gia đình, bác sĩ gây mê hay điều trị trẻ con v.v…

Theo như cháu nói hiện có khoảng 200 sinh viên học ngành y tại trường này chỉ có 6 sinh viên là người Việt Nam.

Ngân sách của Nova Southeastern University là 590 triệu đô la (2019).

a)Đại học Nova Southeastern (NSU) là một trường đại học tư có cơ sở chính tại Fort Lauderdale-Davie, Florida, Hoa Kỳ. Trường đại học bao gồm tổng cộng 14 trường cao đẳng, hơn 150 chương trình học. Trường đại học NSU chuyên dạy về khoa học xã hội, luật, kinh doanh, y học chỉnh xương khớp (DO), y học allopathic (MD), dược, nha khoa, nhãn khoa, vật lý trị liệu, giáo dục và điều dưỡng. Tính đến năm 2019, đã 20.576 sinh viên theo học tại Đại học Nova Southeastern, với hơn 210.000 cựu sinh viên.

b)Với cơ sở chính nằm trên diện tích 314 mẫu Anh (127 ha) tại Davie, Florida,  

Trường đại học được thành lập vào năm 1964 với tên gọi là Đại học Công nghệ Tiên tiến Nova trên một bãi đổ bộ xa bờ của hải quân trước đây được xây dựng trong Thế chiến II và cung cấp các bằng cấp sau đại học về khoa học vật lý và xã hội. Năm 1994, trường đại học sáp nhập với Đại học Khoa học Sức khỏe Đông Nam và tên hiện tại.(1)

c)Sau khi tốt nghiệp để đi làm, đây chỉ là bước đầu, là nền tảng căn bản để kiếm tiền để sống. Giống như mới xây được cái nền nhà mà thôi. Còn việc xây dựng căn nhà như thế nào mới là quan trọng trong cuộc đời của mình.

Quan niệm sống như thế nào, đóng góp, đem lại lợi ích gì cho xã hội mới là quan trọng.

Xây dựng căn nhà nhân đức, biết yêu thương, sống vui vẻ, hoà đồng, bao dung với mọi người đó là vấn đề cần phải thực hành liên tục, luôn cố gắng mỗi ngày.

Khi ra đời làm việc là phải gặp những khó khăn và ngay cả những sự thất bại nữa. Khó khăn thì từ từ giải quyết, thất bại sẽ cho ta kinh nghiệm, vui vẻ đứng dậy đi tiếp chứ không phải khi gặp thất bại sẽ làm ta chán nản, bỏ cuôc, ngã gục. Cần cầu nguyện thường xuyên để có được ơn thiêng của Đấng Tối cao.

Sống cần có lý tưởng, có mục tiêu, có con đường tiến lên phía trước.

Lý Đông A (2) nói: “Nuôi tâm thì làm thiên tài, nuôi trí thì làm nhân tài, nuôi thân thì làm nô tài.”

 Phùng Văn Phụng ghi lại

Cuối tháng 03 năm 2025

Ghi chú:

(1) Nguồn Wikipedia: https://en.wikipedia.org/wiki/Nova_Southeastern_University

(2)Lý Đông A (1921-1947) là một nhà triết học, học giả, nhà cách mạng chính trị Việt Nam, sáng lập Đại Việt Duy Dân Cách Mạng Đảng

Hình chụp vợ chồng người viết với hai cháu ngoại ở trường NSU (03-2025)

Hình chụp vợ chồng người viết với cháu ngoại Michelle đang học trường này

(tháng 03 năm 2025)


 

Người không giữ mãi cơn giận, nhưng chuộng lòng nhân nghĩa- Cha Vương

Cuối tuần zui zẻ và bình an trong Chúa và Mẹ nhé.

Cha Vương

Thứ 7, 2MC: 22/3/2025

TIN MỪNG: Người không giữ mãi cơn giận, nhưng chuộng lòng nhân nghĩa, Người sẽ lại thương xót chúng ta, tội lỗi chúng ta, Người chà đạp dưới chân. Mọi lỗi lầm chúng ta, Người ném xuống đáy biển. (Mk 7:18c,19)

SUY NIỆM: Trong Giáo hội Công Giáo, Thứ Bảy là những ngày đặc biệt phụng vụ dành riêng kính Đức Trinh nữ Maria. Truyền thống dành riêng ngày Thứ bảy để tôn vinh Mẹ Thiên Chúa là một truyền thống cổ xưa, có từ hàng trăm năm trước. Từ điển Bách khoa Công giáo cho biết, một “Thánh lễ đặc biệt được chỉ định để kính Đức Trinh Nữ vào các ngày Thứ bảy – có từ thế kỷ X “. Việc chọn lựa này được kết nối với sự phục sinh của Chúa Giêsu vào ngày Chúa nhật và với đức tin vững vàng của Đức Maria vào ngày hôm trước. Vì Chúa Phục sinh xảy ra vào ngày Chúa nhật, chúng ta giữ ngày thánh này thay cho ngày Sabat như những người Do thái xưa đã làm. Tuy nhiên, chúng ta thánh hóa ngày thứ bảy để tôn vinh Đức Trinh nữ Maria vinh hiển, người luôn kiên vững trong đức tin đến trọn ngày Thứ bảy sau cái chết của Con Thiên Chúa.

    Tin Mừng hôm nay cho biết “Chúa chuộng lòng nhân nghĩa (nhân lành/thương xót). Vậy trong khi suy ngẫm về lòng thương xót của Thiên Chúa, ta cũng hướng về Đức Mẹ Maria, “Mẹ nhân lành… (Mẹ của lòng Thương Xót)”. (Kinh Lạy Nữ Vương). Chúng ta gọi Đức Maria là Mẹ của Lòng Thương Xót vì Mẹ là Mẹ của Chúa Giêsu con Thiên Chúa.  Là con cái của Mẹ, ở chốn khách đày, mời bạn hãy chạy đến Mẹ than thở kêu khẩn Mẹ thương.  “Trong nguy nan, lúc sầu khổ, khi băn khoăn, bạn hãy nghĩ đến Mẹ MARIA, bạn hãy kêu cầu Mẹ MARIA. Ước gì danh thánh MARIA không bao giờ lìa xa môi miệng bạn, tách rời khỏi con tim bạn; và để được Mẹ thương cầu bầu trợ giúp, bạn đừng quên bắt chước gương Mẹ. Bước theo Mẹ, bạn không lạc hướng; kêu cầu Mẹ, bạn không thất vọng; lĩnh ý Mẹ, bạn không sai lầm. Nếu Mẹ đỡ bạn, bạn sẽ không ngã; nếu Mẹ che chở bạn, bạn sẽ không sợ; nếu Mẹ dìu bạn, bạn sẽ không mệt; nếu Mẹ ủng hộ bạn, bạn sẽ đạt đến đích.”—Thánh Bernard (Bê-na-đô) ở Clairvaux.

LẮNG NGHE: Khi thấy thân mẫu và môn đệ mình thương mến đứng bên cạnh, Đức Giê-su nói với thân mẫu rằng: “Thưa Bà, đây là con của Bà.” Rồi Người nói với môn đệ: “Đây là mẹ của anh.” Kể từ giờ đó, người môn đệ rước bà về nhà mình. (Ga 19:26-27)

CẦU NGUYỆN: Lạy Mẹ Maria, Mẹ là người đầu tiên đón nhận, cảm nghiệm và sống Lòng Thương Xót của Chúa xin cầu bầu và trợ giúp con hôm nay và mãi mãi.

THỰC HÀNH: Đọc chậm và suy niệm Kinh Lạy Nữ Vương

From: Do Dzung

**************************

MẸ LÒNG THƯƠNG XÓT – Padre ZEZINHO, Brazil – Lời: QUANG UY, DCCT – Ca sĩ KIM TUYẾN và Nhóm CADILLAC

Tể tướng số 1 của Tần Thủy Hoàng là Lý Tư – Truyen ngan HAY

Nguyễn Thị Bích Hậu

 Tể tướng số 1 của Tần Thủy Hoàng là Lý Tư. Ông là người nước Sở, quê quán ở huyện Thượng Tài nằm trong vùng Hà Nam ngày nay. Hồi còn trẻ, Lý Tư chỉ làm viên quan nhỏ ở huyện nhà, nhưng lại thích học tập nên theo học Tuân Tử cùng với bạn học là Hàn Phi, và thích Pháp gia.

Ngay từ lúc đó, Lý Tư đã là người đầy tham vọng. Có lần, ổng thấy chuột trong nhà vệ sinh gần văn phòng mình ăn đồ bẩn, hễ có người hoặc chó đến là sợ hãi bỏ chạy. Sau đó, Lý Tư lại đi vào kho thóc, nhìn thấy trong kho thóc có chuột, chúng ăn ngô dự trữ, sống dưới nhà lớn, không lo bị người hay chó quấy rầy. Lý Tư thở dài nói: “Tương lai của một người có tốt đẹp hay không cũng giống như loài chuột vậy, do hoàn cảnh sống quyết định!”.

Từ đó Lý Tư nuôi mộng thoát khỏi khung cảnh chật hẹp của vùng quê mình, của nước Sở mà khi đó vua đã suy yếu. Ông ta cho rằng “nhục nhã lớn nhất là địa vị thấp kém, buồn khổ lớn nhất là nghèo túng” nên đi vào nước Tần.

Lý Tư tìm cách vào làm người hầu cho tể tướng Lã Bất Vi thời vua Tần Chính. Sau đó từ từ leo lên chức thị giả vào hầu vua. Lý Tư xúi vua Tần nhất thống thiên hạ. Mà bí kíp chính là cần “nắm bắt cơ hội và đủ tàn nhẫn”. Tần Chính thấy hay quá bèn nghe theo, bổ Lý Tư làm quan trưởng sử, sau thành khách khanh. Rồi theo kế của Lý Tư phái người qua các nước lân cận để tiếp cận với các hoàng tử của họ. Hễ ai nghe thì cho vàng bạc châu báu còn ai không nghe thì ám sát.

Trong sự nghiệp làm quan ở nước Tần, Lý Tư từng 2 lần suýt bị “trục khách” (đuổi môn khách đang làm quan về nước) vì chính biến, nhưng nhờ tài ăn nói, thuyết phục mà được ở lại rồi càng ngày càng làm quan to, tới chức Thượng thư.

Khi đó, Tần Chính đọc sách của Hàn Phi Tử, bạn học của Lý Tư và là hoàng tử nước Hàn đầy tài hoa, thấy rất hay, bèn đánh nước Hàn. Nước này sợ mới cho Hàn Phi Tử qua làm sứ thần. Nhưng Lý Tư xúc xiểm nên Tần Chính đã giết chết Hàn Phi Tử.

Từ đó Lý Tư lên như diều gặp gió. Làm quan hơn 20 năm thì Tần vương thống nhất giang sơn, lên ngôi Hoàng đế Tần Thủy Hoàng, phong Lý Tư làm Thừa tướng. Lý Tư góp công lớn trong việc giúp Tần Thủy Hoàng dẹp loạn các nước chư hầu, cải cách bộ máy chính quyền, thống nhất văn tự, đo lường, tư tưởng. Những vụ án độc ác nhất mà Tần Thủy Hoàng làm cũng do ý tưởng mà Lý Tư dâng lên, ví dụ như đốt sách chôn nho. Tức là vì ý chí của Tần Thủy Hoàng và vì muốn củng cố địa vị của mình, Lý Tư cũng không màng tới cố quốc là nước Sở, chứ nói chi các chư hầu khác. Còn thân phận người dân thì ổng cho là con sâu cái kiến mà thôi.

Nhưng người tính không bằng trời tính. Khi Tần Thủy Hoàng qua đời, quanh hoàng đế chỉ có 3 người thân cận là Lý Tư, Triệu Cao và thứ tử Hồ Hợi. Trong khi di chiếu của Tần Thủy Hoàng muốn truyền ngôi cho thế tử Phù Tô.

Thái giám Triệu Cao không thích vậy, vì sợ mất địa vị, nên bàn với Lý Tư giả sửa chiếu chỉ, truyền ngôi cho Hồ Hợi.

Sau đó là một chương bi thảm của nhà Tần, vì rất nhiều con cái cháu chắt của Tần Thủy Hoàng bị giết để trừ hậu họa. Các phi tần bị chôn sống…

Hồ Hợi lên ngôi chỉ ham ăn chơi hưởng lạc, không quản triều chính. Kết quả thái giám Triệu Cao, người duy nhất vào tiếp kiến được với Hồ Hợi trở thành một dạng vua không ngai. Triệu Cao cứ lấy cớ vào trình vua, nhưng không nói gì tự quyết tất rồi truyền ra ngoài ý của mình, ai cũng sợ.

Lúc đó Lý Tư dâng sớ vạch tội Triệu Cao, can ngăn Hoàng đế thì đã muộn. Triệu Cao coi Lý Tư là cái gai trong mắt, vu cho ông tội làm phản, cùng con trai cấu kết với địch quốc để xưng vương.

Hồ Hợi nổi giận, giao Lý Tư cho Triệu Cao xử lý. Lý Tư và con trai phải chịu “ngũ hình” đầy thảm khốc. Mà tiếc thay tội này do chính Lý Tư là người đặt ra. Ba họ của Lý Tư cũng bị hại chết, b.ê.u đ.ầ.u ở cổng thành.

“Vào tháng 7 năm 208 TCN, Lý Tư bị kết án ngũ hình và bị chém đ.ầ.u trên phố Vân Dương ở kinh thành . Trước khi chết, Lý Tư quay lại nói với người con thứ: “Ta muốn cùng con ra khỏi cửa đông Thượng Tài ( tức quê cũ) dắt con chó vàng đi săn thỏ, mà làm sao được?” Sau đó, ông và con trai ôm nhau khóc.

Sau đó, Lý Tư và con trai bị g.iế.t, ba họ nhà ông chịu án chu di tam tộc đầy đau khổ. Người ta nói rằng Lý Tư đã hối hận về quyết định của mình trước khi chết, ông nói: “Ta từng là học trò của Tuân Tử với Hàn Phi, nhưng ta đã g.iế.t Hàn Phi. Bây giờ chuyện này xảy ra, chẳng phải là ý trời sao?”.

Lý Tư thật ra là một người kỳ tài, văn chương thời Tần đời sau đánh giá ông là số 1. Ông cũng hiểu cao học rộng, giỏi sáng kiến, áp dụng nhiều chính sách tốt làm cho nước Tần thống nhất thiên hạ. Tuy nhiên ông ta có bản tính là người tham lam, lại ma mãnh, sẵn sàng chà đạp lên bạn bè người thân để thăng tiến, coi rẻ quê hương bản quán. Vị quân vương nào gần ông thì càng bị kích động làm điều bạo tàn hơn là làm chuyện nhân nghĩa.  Vì thế nên cuối cùng thân bại danh liệt, mất hết dưới tay thái giám Triệu Cao.


 

Đồng bào tôi chết !-Câu Chuyện Vượt Biên Thương Tâm – Nguyễn Ngọc Ngạn

Đồng bào tôi chết !

(Chuyện xảy ra cho ông Nguyễn Ngọc Ngạn trong cuộc vượt biên)

50 năm sau 30.4.1975

Nghĩ gì về sự ” HÒA GIẢI DÂN TỘC ” chưa hề được thực thi  !
Hệ quả là đây :
“Những ngày trống vắng ở trại tị nạn Mã Lai chờ đi định cư, tôi suy nghĩ nhiều về nửa thế kỷ trầm luân của đất nước và nhận ra một điều đơn giản rằng: Trong xã hội Việt Nam, người đàn bà mới chính là thành phần chịu nhiều gian truân nhất – thời chiến tranh cũng như thời hậu chiến”.


Câu Chuyện Vượt Biên Thương Tâm:
TÀU KIM HOÀN MT065,
170 NGƯỜI CHẾT THẢM

Đời người, ai cũng có những kỷ niệm, đau thương hay hạnh phúc. Kỷ niệm đôi khi chỉ thoáng qua, mờ nhạt như áng mây bay ngang bầu trời, để lại chút hình ảnh bâng khuâng, nhưng cũng có khi hết sức sâu đậm, đến nỗi có thể coi là một biến cố, khả dĩ tạo thành khúc rẽ quan trọng cho cuộc đời. Đó là trường hợp của tôi với câu chuyện xảy ra hơn 20 năm về trước mà giờ này ngồi ghi lại, tôi vẫn thấy hiển hiện như mới hôm qua.

Ngày ấy, miền Nam vừa đổi chủ được 3 năm, tình hình chính trị còn cực kỳ khắt khe, đã thế, chính sách áp dụng lại không đồng nhất, mỗi phường mỗi tổ là một lãnh chúa, phát huy sáng kiến mà bức chế nhân dân.
Tôi ở trại cải tạo, cầm tờ giấy tha vào giữa năm 78, về trình diện Sở Giáo dục Thành phố cho đúng thủ tục, dù biết trước sẽ không được thu nhận trở lại nghề cũ. Không có nghề nghiệp biên chế, tôi chỉ được tạm trú 3 tháng tại Sài Gòn để thu xếp đi vùng kinh tế mới.

Thời gian này, miền Nam đang lên cơn sốt về phong trào vượt biên tìm tự do, những người ở vào hoàn cảnh của tôi, bị công an khu vực theo dõi và hăm dọa thường xuyên thì lại càng nôn nóng kiếm đường bỏ trốn, những người bạn tù chúng tôi ngày ngày đôn đáo gặp nhau, đề tài chính đem ra bàn bạc chỉ xoay quanh một chuyện duy nhất là vượt biên.

Thời gian trôi qúa nhanh, trong nháy mắt đã hết hạn tạm trú, tôi trở thành kẻ sống lậu không hộ khẩu tại thành phố, giữa lúc lao đao tuyệt vọng, không biết ngày nào bất ngờ bị bắt lại, thì một hôm em trai tôi giới thiệu cho tôi một đầu cầu qúy giá, đó là ông Ân, một người đàn ông trí thức, tuổi vừa 50, tính tình hiền hoà và đứng đắn.

Ông là nhân viên lâu đời của cơ quan viện trợ Hoa Kỳ trước 75, đồng thời góp phần chuyển âm Anh – Pháp cho hãng phim Cosunam ở Sài Gòn. Vì làm ăn chung với em tôi từ sau 75 nên ông có lòng tốt rủ em tôi cùng đi với ông trong chuyến vượt biển bán chính thức vốn dành riêng cho người Hoa đang rầm rộ đăng ký lúc đó. Thông cảm hoàn cảnh bấp bênh của tôi, em tôi giới thiệu tôi với ông, để xem ông có giúp gì được tôi chăng?

Đi bán chính thức lúc ấy đắt tiền lắm, vì đang là những đợt đầu, có người nộp tới 12 hoặc 14 cây vàng, vì phải qua nhiều trung gian, còn gía trung bình thì ít ra cũng phải 10 lượng một người. Tôi mới ở tù ra, làm gì có số tiền khổng lồ ấy!
Bà xã tôi bận con nhỏ, khi tôi đi tù thì cháu mới hơn 1 tuổi cho nên chỉ buôn bán vớ vẩn, đủ nuôi con và tiếp tế cho chồng là giỏi lắm rồi. Số vốn ít ỏi của vợ tôi lại cứ vơi dần sau mấy chuyến đi chui bất thành, con đường bán chính thức mua vé bằng cả chục lượng vàng, là điều vượt qúa sự kỳ vọng của tôi, trừ khi có một phép lạ.

Vậy mà phép lạ dường như đang xảy đến!

Hôm ấy, một buổi tối khoảng đầu tháng 11, gia đình em tôi đưa tôi lại quán bò 7 món Duyên Mai bên Chi Lăng, để gặp ông Ân lần đầu tiên. Tôi lúc này đang trốn chui trốn nhủi vì đã hết hạn nộp hộ khẩu từ lâu, phải xoay đủ mọi thứ giấy tờ lao động để qua mặt công an khu vực, nấn ná lưu lại thành phố được ngày nào hay ngày nấy.

Khu vực Công giáo tôi cư ngụ lại hay xảy ra những vụ bắt bớ bí mật, vì những tin đồn về các tổ chức Phục Quốc – cả thật lẫn giả — làm liên lụy đến khá nhiều người vô can. Trước năm 75, tôi có dạy một ít giờ tại hai trường tư thục Công giáo là Trung học Quang Minh ở nhà thờ Vinh Sơn đường Trần Quốc Toản, và Trung học Saint Thomas trên đường Trương Minh Giảng. Nhà thờ Vinh Sơn là nơi phát khởi vụ nổi dậy chống chính quyền đầu tiên sau 30 tháng 4 năm 75. Và linh mục Nguyễn Quang Minh bị bắt ngay sau đó. Cha Vàng ở trường Saint Thomas cũng đã bị bắt vì nghe đồn bị vu cáo có giấu vũ khí trong khuôn viên trường học.

Khi tôi ở trại cải tạo về, công an có gọi tôi ra và thẩm vấn về quan hệ của tôi với hai vị linh mục này. Có thể đó chỉ là những câu hỏi thủ tục về lý lịch nhưng cũng làm tôi hết sức lo sợ, bởi xã hội không có luật pháp rõ ràng, một khi công an nghi ngờ thì sớm muộn gì cũng vào tù. Bởi vậy, tôi càng nôn nóng muốn trốn đi.
Tối hôm ấy, gặp ông Ân ở nhà hàng, tôi bàng hoàng xúc động khi ông cho biết ông sẵn lòng đóng tiền cho vợ chồng tôi đi cùng chuyến với ông và em tôi, nghĩa là ông cho tôi vay 20 lượng vàng, qua Mỹ đi làm trả lại, vợ chồng tôi chỉ cần góp 5 lượng cho đứa con mà thôi! Tôi như người đi trên mây, buồn ngủ gặp chiếu manh, không ngờ đời mình có lúc gặp qúy nhân dễ dàng như thế này! Dĩ nhiên, qua trung gian em trai tôi, ông Ân mới dám tin là tôi sẽ trả ông sau khi đến Hoa Kỳ, nhưng dù sao đi nữa, việc ông giúp một người xa lạ như tôi, trong hoàn cảnh này, phải coi là một phép lạ mà tôi không mường tượng trước được, nhất là ở thời kỳ gạo châu củi quế năm 78.

Bà Ân ngồi cạnh chồng chỉ cười hiền hoà không có ý kiến gì. Lúc đó bà 39 tuổi, thua chồng hơn 10 tuổi, sáu đứa con, đứa nào cũng xinh xắn và ngoan hiền. Sau đó tôi còn được biết thêm, ông Ân cho tới 18 người vay tiền đi, tổng cộng là gần 200 lượng vàng!

Những ngày hồi hộp trôi qua rất chậm, tôi nôn nóng chỉ sợ chuyện bất trắc xẩy ra trước khi lên đường. Tôi vẫn hăng hái tham gia công tác thủy lợi tại địa phương hoặc tự nguyện dạy lớp bổ túc văn hóa ban đêm trong tổ dân phố để tránh sự chú ý của công an khu vực. Song song với những việc đó, tôi âm thầm mua giấy tờ, lấy tên giả, học nói dăm câu tiếng Hoa, và cuối cùng ra đi vào một ngày cuối năm khi sóng biển đang gầm thét dữ dội ngoài khơi.

Khi những chiếc ghe nhỏ đưa người ra thuyền lớn ở Kiến Hòa thì một chuyện bất ngờ xảy ra: công an cùng với chủ ghe đọc danh sách lên tầu, và quyết định bỏ lại 17 người đã đóng tiền, trong đó có toàn bộ gia đình em trai tôi gồm 4 người. Em trai tôi là người giới thiệu tôi đi, vậy mà phút chót lại bị ở lại. Tôi lên tầu hết sức hoang mang, ngờ ngợ linh cảm trước là sẽ có chuyện chẳng lành trên cuộc hành trình đầy sóng gió sắp tới.

Tầu đi bán chính thức chỉ được một lợi thế là không sợ bị bắt ở bến hẹn, nhưng luôn luôn chở quá trọng tải, có chuyến vừa ra tới cửa biển đã chìm. Chiếc thuyền gỗ tôi đi rất mong manh, mà chủ tầu và công an chất lên tới hơn 300 người, cố nhét càng nhiều càng tốt để thu vàng tối đa, họ gạch tên bỏ lại 17 người, để thay vào bằng những hành khách khác bằng lòng nộp nhiều vàng hơn.

Câu chuyện cảm động về con tàu mang số hiệu MT065 — Tiếng Việt

Đây là loại tầu đánh cá có hầm chứa nước đá để ướp cá, bây giờ được dọn sạch để đưa người vượt biển. Hơn 100 người đàn ông chúng tôi bị dồn xuống hầm, cấm không được leo lên, và chỉ có mỗi cái cửa vuông ở giữa tầu để ngày ngày bên trên ném thức ăn xuống. Đàn bà con nít thì được ngồi ở tầng trên cùng với thân nhân của chủ tầu và tài công, có nghĩa là từ lúc bước chân xuống tầu, tôi không được liên lạc với vợ con nữa. Tôi không biết trong số hơn 100 người đàn ông ngồi dưới hầm tầu có bao nhiêu người Việt; chỉ nghe tiếng chuyện vãn chung quanh toàn là tiếng Hoa.

Ông Ân với 3 cậu con trai tuổi từ 14 tới 18 ngồi dưới hầm bên cạnh tôi, vợ ông cùng cô con gái đầu lòng 19 tuổi, đứa áp út 13 và đứa con út 3 tuổi ở trên boong cùng với vợ con tôi. Vì là người Việt, không dám tranh cãi với đại đa số người Hoa, chúng tôi bị dồn vào cuối hầm tầu, ngồi chịu trận tại chỗ, nước lúc nào cũng ngập từ thắt lưng trở xuống, và có khi lên tới ngực, thức ăn cũng ít khi đến lượt mình, vì những người ngồi gần cửa lấy hết, lâu lâu mới quẳng vô phía chúng tôi cái bánh tét hay ổ bánh mì đã cứng như thanh củi. Tuy vậy, ai cũng tự an ủi là cuộc hành trình sẽ không lâu, cố gắng chịu đựng vài ngày là tới bến, tha hồ thong dong.

Sang đến ngày thứ tư, rồi thứ năm, tất cả đều mệt mỏi vì con thuyền nhỏ bị sóng nhồi liên tục, nước biển rỉ vào hầm tầu mỗi lúc một nhiều hơn mà chẳng ai buồn múc từng thùng đổ ra ngoài như hai hôm đầu. Chỗ tôi ngồi càng ngày càng thê thảm hơn, nước ngập tới ngực mà rác rến lại nổi lềnh bềnh chung quanh. Lá bánh chưng bánh tét, vỏ quít, vỏ bưởi cùng các thứ linh tinh trôi vật vờ, chẳng ai thèm vớt mà đem quăng xuống biển.

Vì quá chật chội, di chuyển rất khó khăn, nên ai cũng ngồi lì tại chỗ, đứng lên không nổi, đi tiểu luôn chỗ mình ngồi cho tiện. Trong hầm tầu, chúng tôi mất hết ý niệm thời gian, không ngày hay đêm, cũng chẳng biết tầu đang chạy hay đứng tại chỗ.

Đến ngày thứ năm, vì nóng bức qúa, có người ngộp thở ngất xỉu dưới hầm, tài công mới cho khoét một cái lỗ vuông mỗi bề hơn một gang tay ngay trên đầu tôi, nghĩa là phía dưới tầu, để lấy không khí từ trên lùa xuống cho hơn 100 người phía dưới. Vị ân nhân của tôi, ông Ân và các con, lúc đầu còn nói chuyện với tôi, sau mệt qúa, ai cũng nhắm mắt dựa vào nhau mà sống cho qua cuộc hành trình dài lê thê.

Bước sang ngày thứ bảy, buổi sáng tinh mơ, chắc chưa đến 6 giờ, tôi đang thiu thiu ngủ, thì nghe có tiếng gọi nhỏ:
– Anh Ngạn anh Ngạn ơi!

Tôi giật mình ngơ ngác ngước nhìn lên thì thấy bà xã tôi thò mặt qua cái lô thông hơi để tìm tôi. Tôi không nhận ra mặt vợ tôi vì trời còn tối thẳm, nhưng nhờ giọng nói tôi biết vợ tôi cần gặp tôi có chuyện khẩn cấp. Tôi hồi hộp tìm cách đứng dậy.
Tàu chật ních, lại thêm đã gần một tuần ngồi một chỗ, hai chân tê cứng dưới lớp nước mặn, tôi loanh quanh khá lâu mới đứng lên được. May cho tôi là quanh tôi mọi người còn đang ngủ cả, chứ nếu họ thức thì tôi khó lòng di chuyển, vì họ sẽ lôi lại và dí đầu tôi bắt ngồi xuống.

Bà xã tôi giục nho nhỏ:
– Lên đi anh! Lên đại đi! Chui lỗ thông hơi này lên đi!

Tôi lo lắng nhìn quanh. Lúc ấy tôi còn gầy yếu lắm, thời gian ở trại cải tạo bị sốt rét nặng kéo dài 21 ngày, bước đi phải nhờ người vịn, bạn bè cùng tổ cứ tưởng tôi là sắp phải đem tôi đi chôn trên đồi tranh ở Bù Gia Mập. Giờ này vượt biển, tôi vẫn chưa lại sức, mới chỉ lên cân được chút ít.

Nhà tôi lại bảo:
– Đêm qua bão lớn, cái áo của con bị rách tung rồi bay mất, nó phải cởi trần cả đêm lạnh tím cả người. Anh lên một chút đi.

Nghe nhắc đến đứa con hơn 4 tuổi, tôi vùng đứng lên, bước đại qua vào người đang ngồi ngủ, rồi chui liền lên. Cái lỗ nhỏ, phải lách người khó khăn, làm trầy sứt cả hai vai, nhưng tôi không có cảm giác gì lúc đó.

Từ hôm lên tầu, tôi vẫn mặc cái jacket nylon của Không Quân ngày trước và chiếc quần tây màu vàng đục, lúc ngồi dĩ nhiên phải cởi hết nút quần, kéo fermeture xuống cho thoải mái, bây giờ đứng dậy, vội vã dùng hai tay đu lên khỏi hầm tầu, có người nào đó đã nắm ống quần tôi kéo lại, làm tôi chỉ còn mỗi cái quần đùi khi lên tới tầng trên. Trời mưa không nặng hạt lắm nhưng gió biển thổi phần phật trong không gian mờ tối. Tôi cúi xuống ôm đứa con đang run cằm cặp.

Nhà tôi ưu tư bảo:
– Tầu sắp đắm mất, anh ạ!

Tôi đảo mắt nhìn quanh sau sáu ngày bảy đêm chui trong bóng tối dưới hầm. Chỉ một phút sau, tôi nhận ra ngay là mình sắp chết! Vợ tôi nói đúng, là bởi vì, khi ở dưới hầm, tôi cứ tưởng tầu đang chạy, hóa ra tầu bị bỏ neo đậu tại chỗ suốt cả đêm rồi, mặc cho gió mưa và sóng dữ cuối năm vùi dập. Tuy cùng ở trên tầu nhưng những tin tức bên trên không được thông báo cho người dưới hầm biết, sợ gây cảnh náo loạn, dẵm đạp lên nhau. Bởi vậy, tôi hoàn toàn không biết gì cả, cho đến bây giờ leo lên mới thấy kinh hoàng.

Tôi nhìn lại phía buồng máy: một cảnh tượng hãi hùng và thê lương: không có tài công, không có người phụ máy, chiếc tầu không người lái cứ bập bềnh nghiêng ngửa theo từng đợt sóng khổng lồ đưa vào, đẩy ra, phó mặc sinh mạng mấy trăm người cho đại dương. Với cơn sóng như thế này, tôi biết chắc tầu sắp vỡ. Đàn bà con nít, người đứng người ngồi lố nhố quên cả cái ướt lạnh, nhớn nhác hỏi nhau, không biết phải làm gì trong hoàn cảnh tuyệt vọng này.

Bà xã tôi bảo:
Tài công bỏ tầu từ nửa đêm rồi!

Bấy giờ tôi mới hiểu đầu đuôi câu chuyện:

Đêm qua, khi thuyền chúng tôi vào còn cách bờ Mã Lai khoảng nửa cây số thì có tầu cảnh sát Mã Lai ra đuổi, rồi họ dựng mấy cây đại liên và đèn pha trên bờ bắn ra xối xả. Mười mấy người tài công cùng với thân nhân chủ ghe đeo phao nhảy xuống bơi vào, nói là để điều đình rồi sẽ ra đưa tầu vô nhưng rồi họ đi luôn, không ai trở lại. Người ngoài khơi cứ đợi, người đã lên bờ thì bỏ mặc, đàn bà con nít trên boong không ai biết lái tầu, hơn 100 người ngồi dưới hầm thì tưởng tầu vẫn đang chạy bình thường!

Tôi biết mình sắp chết nhưng cố làm ra vẻ bình tĩnh bảo con tôi:
– Con ơi!, đằng nào tầu cũng sắp chìm, bây giờ con ôm lấy cổ ba, để ba nhảy xuống biển khơi, bơi vào.

Tôi không biết bơi, mà có biết thì cũng không còn sức bởi bờ ở qúa xa, tôi cố nhướng mắt nhìn mà chỉ thấy lờ mờ trong mưa. Đứa con trai hơn 4 tuổi quấn chiếc khăn quanh người ướt đẫm từ đầu xuống chân, run lẩy bẩy nhìn tôi im lặng gật đầu. Dường như nó cũng linh cảm thấy chuyện chẳng lành sắp đến cho nên chỉ nhìn tôi chia sẻ. Quanh tôi có vài cái bình nylon đựng nước ngọt đã uống hết nằm lăn lóc trên sàn. Tôi nắm bàn tay lạnh ngắt của vợ tôi và bảo:
– Em lấy cái bình nylon, ôm vào người rồi nhảy xuống, may ra sóng đánh vào bờ.

Thà nhẩy xuống trước chứ để tầu vỡ thì khó lòng mà sống được, vì cả trăm người sẽ níu chặt lấy nhau và cùng chết hết.

Vợ tôi nhìn tôi bằng ánh mắt ly biệt, đưa tay làm dấu đọc kinh. Tôi và con trai tôi cũng làm dấu thánh giá và cầu xin Chúa che chở trong cơn nguy khốn.

Tôi vừa đưa cho vợ tôi cái bình nylon, chưa kịp nói gì thêm thì một đợt sóng vĩ đại ấp tới làm chiếc tầu lật ngang, vỡ tung buồng lái ở tầng trên, tiếng người đồng thanh kêu rú lên bị tiếng gầm của sóng át đi. Buồng máy, kính cửa sổ, mui tầu, mái gỗ bọc tôn và bao nhiêu thứ ngổn ngang trên tầu đều rụng hết xuống biển, kéo theo qúa nửa hành khách gồm đàn bà và trẻ em.

Tôi té lăn trên sàn tầu trong khối nước mặn khổng lồ vừa ập tới, đôi tay quờ quạng bám víu bất cứ thứ gì để sống còn. Từ giây phút ấy, tôi không còn nhìn lại được vợ tôi lần nào nữa. Đứa con tôi cũng vuột khỏi tay tôi và văng xuống biển, tôi níu được một sợi dây nào đó trên tầu nên chỉ bị văng mất đôi mắt kính chứ chưa rơi hẳn xuống nước. Nhưng ngay sau đó, tôi chưa kịp hoàn hồn, chưa kịp đứng vững thì lớp sóng khổng lồ vừa đẩy vô bờ, lại rút ra mạnh hơn làm tầu lật ngang một lần nữa ra phía ngoài. Và lần này trên boong tầu không còn sót lại một ai, tất cả đều rụng xuống biển.

Những lớp ván, lớp kính và những gì chưa vỡ qua đợt sóng trước, lần này tan tành hết. Nhưng đau đớn hơn cả là chiếc tầu chìm dần xuống đáy biển mà hầm tầu lại chưa bể, cho nên hơn 100 người đàn ông ngồi với tôi suốt tuần lễ vừa qua đều chết ngộp hết trong hầm, trong đó có cả cha con ông Ân – người đã đóng tiền cho gia đình tôi đi.

Tôi rớt xuống biển, cố gắng vùng vẫy theo bản năng sinh tồn, mặc dầu không biết bơi. Trên mặt biển bao la, sóng nhồi khủng khiếp, tôi thấy từng mảng gỗ thật lớn của ván tầu, rồi thùng phuy, va li, nồi niêu, áo quần, thùng gạo và hàng chục thứ đồ lặt vặt khác trôi nổi theo triền sóng, đôi khi lao vào mặt mình, đàn bà con nít ngụp lên lặn xuống, bám lấy nhau mà cùng chết.

Tôi uống no nước, chìm sâu xuống, đụng phải bao nhiêu xác người còn bấu chặt không rời nhau. Tôi nín hơi ngoi lên được một chút để thở, rồi lại bị sóng cuốn đi không định được phương hướng. Là người Công giáo, trong lúc lâm chung tôi cố gắng đọc kinh sám hối để chuẩn bị lìa đời. đọc kinh nhưng không cầm trí tập trung được, tôi uất ức lắm, bởi thấy mình chết tức tưởi ở tuổi 32 sau khi đã trải qua qua bao nhiêu năm gian khổ.

Ngày còn trong quân đội, mấy năm tác chiến, tôi đã kề cận tử thần mà tại sao không chết ngay trên chiến trường cho xong? Tôi nhớ một lần hành quân ở Cái Bè, tôi đứng dưới đường mương bên gốc xoài, VC từ cánh đồng trước mặt bắn đạn pháo trúng ngọn xoài chỗ tôi đứng, miểng văng tung tóe làm bay mất cây súng Colt tôi đang đeo bên hông và cắt đứt sợi dây ống liên hợp máy truyền tin PRC-25 tôi đang nói chuyện với Bộ Chỉ Huy Hành Quân. Lúc ấy tôi thấy số mình còn lớn lắm, chỉ bị trầy sát nhẹ ở bên đùi. Rồi khi ở trại cải tạo Sông Bé, tôi lại bị sốt rét nặng nề đến kiệt sức, tưởng không còn sống nổi tới ngày được tha về, vậy mà cũng không sao! Tôi uất ức tự hỏi tại sao vượt biển gần đến nơi thì lại chết?

Thế rồi tôi uống no nước, đuối sức không vùng vẫy nổi, đành buông xuôi tay chìm xuống đáy bể, không biết gì nữa.

Khi tôi tỉnh lại trên bờ, thấy mình nằm sấp trên đống xác chết ngổn ngang. nước ộc từ trong bụng ra giúp tôi hồi sinh. Tôi mơ màng tưởng mình đang nằm chiêm bao. Đứa con trai 13 tuổi của ông Ân chạy lại lôi tôi dậy và nói:

– Chú Ngạn ơi! Tỉnh dậy! Tỉnh dậy! Đắm tầu, chú Ngạn ơi!

Tôi ngơ ngác nhìn nó, chưa nhận ra ai bởi qúa đuối sức và vì không có mắt kính.
Thằng bé lay tôi và nhắc lại:
– Chú Ngạn ơi! Đắm tầu! Ba cháu, chị cháu với 3 người anh của cháu chết hết rồi! Vợ chú với con chú cũng chết cả rồi!

Tôi vùng đứng dậy, đưa mắt nhìn quanh: lính Mã Lai đang đưa những người sống sót vào gốc dừa. Họ cũng như tôi là những người được sóng đẩy vào bờ và may mắn thoát khỏi tử thần, nhưng họ không được phép cứu những người bị ngộp nước như tôi. Nếu được cấp cứu, tôi tin chắc trong đám người nằm kia, ít lắm cũng có cả chục người sống dậy.

Lính Mã Lai không cho cứu là bởi vì những kẻ xa lạ và bất nhân ấy đang lột quần áo người chết để lấy vàng và dollars giấu trong gấu quần, gấu áo, cổ áo, vạt áo.
Moi của xong, họ lôi xác chết tập trung lại một chỗ chở xe mang đi chôn tập thể. Tôi từ gốc dừa bò tới, tìm trong đám 97 cái xác thấy con trai tôi đã chết hẳn. Tôi bế cháu lên và nhận ra ván tầu hoặc ghềnh đá đã đánh vỡ trán con tôi, còn để lại một vệt dài thật rõ. Còn vợ tôi thì sóng biển đánh trôi đi mất, không tìm được xác.
Mọi chuyện diễn ra chỉ trong chớp nhoáng. Ngoài kia, biển vẫn ầm ầm gào thét, chỉ thấy sóng xô chập chùng, không còn dấu tích gì của chiếc thuyền định mệnh.
Hôm sau, từ trại tạm cư, chúng tôi được đưa trở lại bãi biển. Thả bộ dọc xuống hướng Thái Lan, tìm thêm được một số xác chết nữa nhưng cũng không thấy vợ tôi. Tổng số 161 người chết, chỉ vào bờ được khoảng 100 cái xác, phần còn lại bị sóng đưa đi mất tích. Có hai nhà sư Mã Lai gốc Hoa đem vải và nhang đến làm lễ cầu siêu trước khi lính Mã Lai đem chôn tập thể.

Trên bãi biển Mã Lai dài thăm thẳm tôi dừng chân, ngồi dưới hàng dừa trông ra đại dương, nao nao mường tượng lại chặng đường đã qua, nhớ những buổi sáng Chúa Nhật vợ tôi lên thăm ở Khu Tiếp Tân trường Bộ Binh Thủ Đức, rồi những lần từ thành phố xuống miền Tây chờ tôi ở hậu cứ tiểu đoàn. Khi sinh con đầu lòng, tôi từ đơn vị hành quân, không kịp thay quân phục, vội vã đón xe về thăm ở Bảo Sanh Viện Đức Chính trên đường Cao Thắng. Nhớ hơn nữa là những lần vợ tôi gánh quả nặng trĩu đi tiếp tế cho tôi trong trại cải tạo, băng ngang 17 cây số đường rừng từ thị xã Phước Bình vào Bù Gia Mập. Tất cả đều đã qua đi, chỉ còn lại mặt nước mênh mông xanh thẳm trước mặt, từng cuốn mất bao nhiêu xác người đồng hương trên hành trình tìm tự do.
Vợ tôi mất đi ở tuổi 26 sau những tháng ngày vất vả vì chồng. Lấy tôi khi tôi đã vào quân đội, thường xuyên xa nhà, vợ tôi cũng giống như bao nhiêu người đàn bà khác trong thời khói lửa, chẳng mấy khi được gần chồng. Khi tôi được biệt phái về lại Bộ Giáo Dục, dạy học tại Sài Gòn, đã tưởng vợ chồng có thể sống đời dân sự yên ổn lâu dài, nào ngờ chỉ hơn một năm sau thì mất nước, bắt đầu cuộc sống mới lao đao gấp bội. Đoạn đường trầm luân ấy, có ngờ đâu cuối cùng lại kết thúc bi thảm bằng cái chết trên đại dương cùng với đứa con đầu lòng hơn 4 tuổi!
Tôi tin chắc cái chết của vợ tôi đã làm thay đổi hẳn cuộc sống của tôi. Nếu nói theo niềm tin thiêng liêng, thì chính vợ tôi đã cứu tôi vào phút chót, trước khi đắm tầu, bằng chứng là hơn 100 người đàn ông ngồi chung với tôi dưới hầm tầu đều chết cả vì ngộp nước. Em tôi – người giới thiệu tôi cho ông Ân – nếu đi cùng tôi chuyến ấy, chắc chắn cũng đã bỏ xác trên đại dương. Nhờ bị bỏ lại, nửa năm sau, em tôi cùng gia đình vượt biển thành công và gặp lại tôi tại Vancouver – Canada vào giữa năm 80. Bà Ân và hai đứa con nhỏ được sóng đánh vào bờ thoát chết, đi định cư ở Texas, tôi vẫn liên lạc cho đến khi trả xong 20 lượng vàng chồng bà cho tôi vay.

Tìm hiểu Du lịch Malaysia - Đảo Bidong

Biến cố hãi hùng của chuyến tầu định mệnh làm tôi càng vững tin rằng đời người có sự sắp đặt của định mệnh, hay nói theo đức tin Công giáo, thì đó là sự an bài của Thiên Chúa, còn đó rồi mất đó! Kiếp người mong manh như chiếc bách giữa dòng, cho nên các cụ ngày xưa thường ví là cuộc phù thế nhân sinh.
Vợ con tôi chết trước mặt tôi, hơn 160 người chết ngay bên cạnh tôi, mà một kẻ yếu đuối như tôi lại sống sót – đó phải là quyền năng của Thiên Chúa chưa muốn tôi lìa trần. Lúc ngồi trên tầu, ông Ân thường tâm sự với tôi: những ngày gần mất nước, gia đình ông đã có thể đi Mỹ dễ dàng, bởi ông làm việc cho cơ quan viện trợ Hoa Kỳ suốt hai mươi năm, nhưng ông thấy mình tuổi đã lớn, muốn ở lại quê nhà khi đất nước hết chiến chinh, nên ông từ khước quyền lợi di tản mà người Mỹ dành cho ông. Ba năm sau, đất nước qúa lầm than, mà chiến tranh vẫn không dứt, các con ông chuẩn bị bước vào tuổi nghĩa vụ quân sự phục vụ cuộc xâm lăng Kampuchia, thúc đẩy ông phải ra đi. Năm 75 ông từ chối di tản bằng máy bay, năm 78 ông phải trốn bằng thuyền, để rồi chính bản thân ông cùng với 4 đứa con lớn đều chết cả!

Có thể do những suy nghĩ về cuộc đời sau chuyến hải hành khủng khiếp mà tôi thoát nạn chỉ trong đường tơ kẽ tóc, tôi bắt đầu có những thay đổi lớn trong tâm tư. Tôi trở nên dễ tính, ít chấp nhất và không nuôi lòng thù ghét với bất cứ ai. Tôi tâm nguyện rằng cuộc đời mình hễ làm được điều gì cho cộng đồng, cho xã hội, cho tha nhân, tôi đều cố gắng để đền đáp lại phép lạ của Chúa đã cứu tôi trên biển.

Những ngày trống vắng ở trại tị nạn Mã Lai chờ đi định cư, tôi suy nghĩ nhiều về nửa thế kỷ trầm luân của đất nước và nhận ra một điều đơn giản rằng: trong xã hội Việt Nam, người đàn bà mới chính là thành phần chịu nhiều gian truân nhất, thời chiến tranh cũng như thời hậu chiến. Cảm thông cái thực tế chua xót ấy, cùng với nỗi nhớ thương người vợ mới mất, tôi bắt đầu viết truyện dài Những Người Đàn Bà Còn Ở Lại. Trong 3 tháng ở trại tạm cư, cuốn sách đầu tiên ấy, tuy kỹ thuật chưa cao nhưng chứa đựng nhiều cảm xúc. Nó là bậc thềm thứ nhất, là nấc thang khởi đầu, để rồi từ đó đến nay tôi đã có được gần 30 tác phẩm xuất bản.

Hai mươi năm đã qua, trên mặt báo chí Việt ngữ, tôi chưa hầ viết lại những dòng này để mô tả tỉ mỉ cái chết của vợ tôi với đứa con đầu lòng. Tuy vậy, từ thâm sâu, tôi vẫn tin chắc một điều rằng: chính cái chết của vợ tôi đã mở ra cho tôi một cánh cửa mới tôi chưa hề dự trù trong qúa khứ, đó là thế giới văn chương mà tôi miệt mài theo đuổi cho đến hôm nay.

Nguyễn Ngọc Ngạn                                                                                               From: KimBằngNguyễn