HÃY CẦU NGUYỆN KHÔNG NGỪNG

HÃY CẦU NGUYỆN KHÔNG NGỪNG

  Thánh Alphonso Ligouri là Đấng Sáng Lập Dòng Chúa Cứu Thế và cũng là tác giả của nhiều tác phẩm thiêng liêng đã cho rằng cầu nguyện có quyền năng vô cùng vì cầu nguyện làm thay đổi bộ mặt thế giới. Ngài nói: “Ai cầu nguyện thì sẽ được ơn cứu độ.”

Nhà thơ Frances Morton đã nói về cầu nguyện như sau:
1. Lời cầu nguyện vào buổi sáng sẽ bảo đảm cho chúng ta một ngày đầy ơn lành.
2. Lời cầu nguyện vào buổi tối sẽ cho chúng ta một đêm nghỉ ngơi bình an.
3. Lời cầu nguyện khi chúng ta yếu đuối thì chắc chắn chúng ta có bàn tay mạnh mẽ của Chúa giúp đỡ.
4. Lời cầu nguyện khi chúng ta cô đơn thì Chúa sẽ đồng hành và giúp đỡ.
5. Lời cầu nguyện khi đau khổ thì sẽ được Chúa an ủi, ban bình an và nghỉ ngơi.
6. Lời cầu nguyện khi nghi ngờ thì Chúa sẽ an ủi và soi sáng và ban ơn đức tin cho chúng ta.
7. Lời cầu nguyện khi vui mừng thì sẽ gặt hái nhiều niềm vui và sự vui thỏa.
8. Lời cầu nguyện để cảm tạ lòng từ bi của Chúa thì chúng ta sẽ hạnh phúc trong mọi lúc.
9. Mỗi ngày, mỗi mùa và mỗi giờ, chúng ta cần cầu nguyện để được chúc phúc mỗi giây phút trong cuộc sống.
10. Không có linh hồn nào mà không cần ơn thánh Chúa và khi chúng ta cùng nhau kết hợp để cầu nguyện thì Chúa sẽ ban cho chúng ta những quyền năng vô biên.

From: Ngoc Bích & KimBang Nguyen

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Một gia đình nông dân

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến 

14/05/2025

Tôi vốn chả thiết tha hay mặn mà gì lắm với chuyện văn nghệ/văn gừng nên hoàn toàn không quan tâm chi đến những điều tiếng eo sèo, quanh mấy câu thơ (“hơi quá tân kỳ”) của Nguyễn Quang Thiều.

Theo Wikipedia, tiếng Việt, đọc được vào hôm 21 tháng 7 năm 2021: “Ngoài lĩnh vực chính thơ ca tạo nên tên tuổi, ông còn là một nhà văn với các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký và tham gia vào lĩnh vực báo chí. Ông hiện nay là Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam; Phó Tổng thư ký thứ nhất Hội Nhà văn Á – Phi.”

Thảo nào mà Nguyễn Quang Thiều thường xuất ngoại, và hay viết về những chuyến đi. Năm tháng mà Nguyễn Quang Thiều sống ở nước ngoài, có lẽ, ít hơn thời gian tôi ngồi lê la trong mấy cái bar rượu (nơi xứ lạ) nên đọc mấy trang du ký của ông không thấy có chi là hào hứng lắm.

Cũng theo Wikipedia: “Nguyễn Quang Thiều được coi là người cùng với nhà văn, trung tướng công an Hữu Ước sáng lập nên hai tờ báo là tờ An Ninh Thế giới cuối thángCảnh Sát Toàn Cầu.”

Đã là một quan chức trong chế độ toàn trị, lại làm báo Cảnh Sát với một ông tướng công an (rất nhiều tai tiếng) nên thỉnh thoảng Nguyễn Quang vẫn bị chê trách là lẽ tất nhiên. Tuy nhiên, khách quan mà xét thì khó có thể phủ nhận được rằng ông là một người cầm bút có tài (và cũng rất có tâm) khi viết về cuộc sống ở nông thôn.

Hãy xem qua đôi đoạn (“Thư Của Đứa Con Những Người Nông Dân”) đã được đăng nhiều kỳ trên trang Vietnamnet:

“Cảnh làm ruộng của những người nông dân của mấy chục năm trước kia và bây giờ chẳng khác nhau chút nào. Có khác thì chỉ khác một điểm. Đó là người nông dân đi sau đít con trâu mấy chục năm trước kia hiện ra trong ảnh đen trắng còn người nông dân bây giờ vẫn đi sau đít trâu nhưng là trong ảnh màu rực rỡ….”

Trong những tấm “ảnh mầu rực rỡ” này, Nguyễn Quang Thiều tìm ra được nhiều con số rất “kinh hoàng” – theo như nguyên văn cách dùng từ của chính ông:

“Khi tiếp xúc với những người nông dân, tôi thường xuyên hỏi về tổng thu nhập mỗi tháng của một khẩu trong một gia đình họ là bao nhiêu. Dù rằng tôi biết họ đang sống một cuộc sống vô cùng vất vả nhưng tôi vẫn kinh ngạc khi nghe một con số cụ thể:

‘Tổng thu nhập một tháng trên một khẩu của chúng tôi là 40.000 đồng …’ 40.000 đồng có giá trị như thế nào lúc này. Đó là giá của 2 bát phở, giá của 4 lít xăng, giá của hai xuất cơm trưa văn phòng, giá của một cuốc xe ôm trên đoạn đường 10km, giá của hơn một bao thuốc lá 555, giá của 3 ly cà phê…Tôi biết sẽ có rất nhiều người không thể tin rằng tổng thu nhập hàng tháng của một khẩu trong hầu hết những gia đình nông dân lại chỉ với một con số ‘kinh hoàng’ như thế.”

Nhà văn Nguyễn Khải còn cho biết thêm đôi ba sự việc còn “kinh hoàng” hơn thế nữa:

“Ai cũng giàu có hơn trước, nấu cơm bằng nồi cơm điện, tối xem tivi mầu, giờ rảnh thì xem phim bộ. Mỗi xóm đều có cửa hàng cho thuê băng vidéo, có gái điếm cho ngủ chịu đến mùa trả bằng thóc, có cờ bạc, có hút thuốc phiện và chích heroin, thành phố có gì ở làng quê đều có, cả hay lẫn dở, dở nhiều hơn hay.”

Dù “dở nhiều hơn hay,” làng quê Việt Nam vẫn tồn tại nhờ vào vô số những nông dân “đội sương nắng bên bờ ruộng sâu, vài ngàn năm đứng trên đất nghèo ” để nuôi nấng cho cả dân tộc này được sống “no lành” – theo như lời (Tình Ca) thắm thiết của Phạm Duy.

Câu hỏi đặt ra là liệu giới nông dân còn vẫn có thể tiếp tục “đứng” mãi như thế thêm bao lâu nữa, trước tình trạng nông thôn đang bị bức tử một cách thảm thương như hiện cảnh? Bi kịch mới nhất của giới nông dân Việt Nam vừa được RFA tường trình:

“Vụ án hai nhà hoạt động vì quyền đất đai là ông Trịnh Bá Phương và bà Nguyễn Thị Tâm bị cáo buộc tội danh ‘phát tán tài liệu nhằm chống nhà nước’ đã kết thúc giai đoạn điều tra vào hôm 15 tháng 6 năm 2021…

Bà Đỗ Thị Thu, vợ ông Trịnh Bá Phương, cho biết, gia đình chồng của cô có tổng cộng ba người bị bắt giữ, bao gồm ông Phương bị công an Hà Nội bắt giam một năm về trước – chỉ bốn ngày sau khi bà sinh con…

Luật sư Lê Văn Luân, người bào chữa cho cả hai nhà hoạt động thì cho hay trên Facebook cá nhân rằng, cả bà Nguyễn Thị Tâm và ông Trịnh Bá Phương đều bị đề nghị truy tố theo khoản 2, Điều 117 Bộ Luật Hình sự với khung hình phạt từ 10 đến 20 năm tù giam.”

FB Vũ Quốc Ngữ cho biết thêm: “Từ đầu năm đến nay, an ninh Việt Nam bắt giữ ít nhất 13 người theo cáo buộc ‘tuyên truyền chống nhà nước’ hoặc ‘lợi dụng quyền tự do dân chủ,’ và kết án 14 người cũng theo hai tội danh trên với mức án từ 4 năm đến 15 năm tù giam.”

Cả hai tội danh thượng dẫn đều rất mơ hồ – nếu chưa muốn nói là hàm hồ – chỉ để che đậy cho những sự thực (phũ phàng) liên quan đến việc tranh chấp đất đai ở xứ sở này:

Hiến pháp 1959 vẫn chưa “quốc hữu hóa đất đai” như Hiến pháp 1936 của Liên Xô mà nó được coi là một bản sao. Cho dù, từ thập niên 1960 ở miền Bắc và từ cuối thập niên 1970 ở miền Nam, ruộng đất của nông dân đã bị buộc phải đưa vào tập đoàn, hợp tác xã, đất đai chỉ chính thức thuộc về “sở hữu toàn dân” kể từ Hiến pháp 1980…

Chiều 18-1-2011, khi điều khiển phiên họp toàn thể của Đại hội Đảng lần thứ XI biểu quyết lựa chọn giữa “chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” và “quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”, ông Nguyễn Phú Trọng hứa với Đại hội “thiểu số sẽ phục tùng đa số”. Nhưng, tháng 5-2012, Ban Chấp hành Trung ương mà ông Nguyễn Phú Trọng là tổng bí thư vẫn quyết định duy trì “chế độ công hữu” với đất đai, “tư liệu sản xuất” quan trọng nhất.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Chính cái được mệnh danh là “chế độ công hữu” này đã sản sinh ra vô số những “vụ cướp ngày” từ mấy thập niên qua:

“Chỉ đến thời đại của Internet và đặc biệt là mạng xã hội, những vụ cướp đất đầy tai tiếng mới được phơi bày, luôn luôn đầy bạo lực, máu, nước mắt, và tù tội. Những cái tên đất, tên làng đã đi vào… lịch sử cướp đất: Tiên Lãng, Văn Giang, Đồng Tâm, Dương Nội, Thủ Thiêm, và nhiều nữa… (Đoan Trang, Trịnh Hữu Long. “Chính Trị Việt Nam: Một Thập Kỷ Nhìn Lại.” Luật Khoa Tạp Chí 30/12/2009).

Tác giả Đỗ Thúy Hường tóm gọn:

“Luật ngày càng rườm, dài. Nhưng ‘tim đen’ của luật lại rất đơn giản. Nó nằm ở nội hàm của từ ‘quản lý’… Chỉ bằng một câu viết trên giấy ‘Đất đai (về hình thức) là sở hữu toàn dân, (nhưng thực chất) do nhà nước toàn quyền quản lý’… Thế là, lập tức 50-60 triệu nông dân đang có ruộng, phút chốc biến ngay thành tá điền của đảng.”

Phải cần thêm bao nhiêu dân oan, bao nhiêu mảnh đời bầm dập, và bao nhiêu gia đình nông dân tan nát nữa để cái nhà nước hiện hành có thể “hoàn thiện CNXH ở Việt Nam vào cuối thế kỷ này” ?


 

CÁI NƯỚC MÌNH NÓ THẾ ..

Hắn đưa ông bố viêm túi mật đi cấp cứu nhà thương. Bệnh cụ căng quá. Bác sỹ bảo phải mổ ngay.

“Gia đình mình cho cụ mổ CÔNG NGHỆ CAO nhé ?!”

“Ngoài công nghệ cao còn có mổ gì, thưa bác sỹ ?!” – Hắn hỏi một cách cầu thị.

Tay bác sỹ nhìn hắn như nhìn một thằng ngố lạc loài, đáp: “Mổ thường chứ còn mổ gì !”.

Vì lơ mơ không hiểu nên hắn định hỏi thêm về “Mổ Công nghệ cao” và “Mổ thường” khác nhau thế nào nhưng rồi kinh nghiệm đi viện khiến hắn ngậm miệng.

Hắn gọi điện nhờ tư vấn. Ông bạn thân quát lên trong máy: “Lăn tăn gì nữa! Công nghệ cao! Nhanh và luôn !”.

Ca mổ thành công rực rỡ. Tất nhiên chi phí “công nghệ cao” cũng… cao hơn vài chục triệu đồng. Mổ xong ắt phải nằm hồi sức.

“Gia đình cho cụ nằm hồi sức TÍCH CỰC hay hồi sức thường ?!”

Kinh nghiệm của “công nghệ cao” cho hắn quyết định nhanh gọn: “Vâng! Xin theo hồi sức tích cực”.

Quyết định của hắn thật sáng suốt. Phòng “Hồi sức tích cực” nằm ngay gần cầu thang chứ không xa xôi heo hắt như “hồi sức thường”. Phòng có cả… dép tổ ong đỏ thắm, cắt cụt mũi cho người nhà bệnh nhân. Ở đây đủ loại máy móc, thầy thuốc ra vào chăm sóc tận tình. Vì “tích cực” nên mấy cô osin cũng có vẻ sang chảnh hơn, móng chân, móng tay, điện thoại đều đời mới. Các cô đi lại chộn rộn và thường nhìn mấy cô osin “hồi sức thường” với con mắt rất… thường.

Chưa hết, ngày đầu ở phòng “tích cực” hắn bối rối khi bác sỹ hỏi:

“Gia đình mình cho cụ dùng THUỐC TỐT nhé ?!”;

Hắn giật mình: “Sao nhỉ! Đã tích cực thì thuốc phải tốt chứ ?!”. Dù thắc mắc vậy, trước mặt anh chị em, họ hàng, bạn bè, hắn vẫn dõng dạc tuyên bố: “Thuốc tốt tất nhiên !”

Tiếc rằng, dù mổ công nghệ cao, hồi sức tích cực và dùng thuốc tốt, bố hắn vẫn qua đời không lâu sau khi nhập viện.

Tưởng chết là hết ai ngờ khi gọi điện tìm nhà tang lễ, đầu dây bên kia có người hỏi:

“Gia đình mình dùng DỊCH VỤ TRỌN GÓI hay dịch vụ thường ?”.

Đang sẵn đau thương bối rối nên hắn trả lời cho xong: “Bình thường thôi !”. Hắn không ngờ không dùng “trọn gói”, dịch vụ bình thường lại không… bình thường chút nào. Nhưng chuyện đã dài rồi, để lúc khác kể tiếp…

Thực lòng chuyện này viết ra không phải để đau thương căm hận mà để hài hước đồng ý với danh ngôn: “Cái nước mình nó thế !…”

Nguồn: Tào lao kẻ chợ


 

‘Con trai chị có bệnh tăng động, cháu không ngồi yên trên ghế được 3 phút.’

Lương Văn Can

 Lần đầu tiên họp phụ huynh cho con, cô giáo mầm non nói với người mẹ: ‘Con trai chị có bệnh tăng động, cháu không ngồi yên trên ghế được 3 phút.’

Trên đường trở về nhà, con trai hỏi mẹ cô giáo đã nói gì. Người mẹ nói với con trai: ‘Cô giáo nói con trai mẹ trước đây không ngồi trên ghế được một phút, giờ con đã ngồi được 3 phút rồi, con có tiến bộ.’

Tối hôm đó, cậu bé ăn hẳn 2 bát cơm mà không cần mẹ bón.

Không lâu sau, cậu bé vào tiểu học. Đi họp phụ huynh cho con, cô giáo nói: ‘Cả lớp có 50 em, trong lần kiểm tra toán này, con chị xếp thứ 48, có thể con có một chút vấn đề về trí tuệ.’

Trở về nhà, cô nói với con: ‘Cô giáo nói chỉ cần con chú ý một chút, con sẽ xếp trước 48 bạn.’

Nghe mẹ nói vậy, ánh mắt cậu bé lóe sáng, gương mặt ủ rũ bỗng giãn ra. Ngày hôm sau đi học, cậu đi sớm hơn hẳn ngày thường.

Khi con lên cấp hai, người phụ nữ vẫn không tránh được những buổi họp phụ huynh. Trước khi về, giáo viên nói với chị: ‘Theo kết quả học tập hiện nay của con, việc thi vào trung học phổ thông sẽ hơi khó một chút.’

Trên đường về, chị xoa vai con và nói: ‘Cô giáo nói, chỉ cần con nỗ lực hơn nữa, rất có hy vọng là con sẽ đỗ vào trường công lập.’

Rồi cũng đến ngày cậu bé tốt nghiệp trung học phổ thông. Đến khi trường đại học có thông báo kết quả thi, cậu bé từ trường trở về, mang theo giấy thông báo trúng tuyển một trường đại học danh tiếng đưa cho mẹ, nước mắt rưng rưng: ‘Mẹ, con không phải là một đứa trẻ thông minh nhưng mẹ luôn ở bên cạnh cổ vũ, động viên, ghi nhận con.’

Lúc đó, người mẹ đã ôm con thật chặt, những giọt nước mắt lẫn lộn vui buồn lăn dài trên má.

‘Một lời nói hay sưởi ấm ba đông, nửa lời ác nghiệt lạnh sáu tháng ròng.’ Một lời an ủi động viên sẽ giúp người khác có thêm động lực, niềm tin, hướng đến những điều tích cực.

Một lời cổ vũ khích lệ có thể thay đổi được cả quan niệm và hành vi của người khác, từ đó có thể thay đổi cả vận mệnh, số phận của con người.

Sưu tầm

( FB cô Pham Mylan )


 

Thánh Mát-thi-a, Tông đồ—thế kỷ thứ 1- Cha Vương

Chúc bình an đến bạn và gia đình, hôm nay Giáo Hội mừng kính trọng thể thánh Mát-thi-a, Tông đồ—thế kỷ thứ 1 (St. Matthias the Apostle). Mừng quan thầy đến những ai chọn ngài làm bổn mạng nhé.

Cha Vương

Thứ 4, 4PS: 14/05/2025

Theo Tông Ðồ Công Vụ 1:15-26, sau khi Ðức Giêsu Lên Trời, các tông đồ cần phải tìm người thay thế cho Judas Iscariot. Với tất cả những bàng hoàng chưa thông hiểu, những nguy hiểm đang phải đương đầu, tại sao các ngài lại chú ý đến việc tìm vị tông đồ thứ mười hai? Số mười hai là con số quan trọng cho Dân được chọn: mười hai là con số của mười hai chi tộc Israel. Nếu một Israel mới phát sinh từ các môn đệ của Ðức Kitô, thì cần phải có mười hai tông đồ. Nhưng biết ai để mà chọn?

        Khi Thánh Phêrô đứng lên đề nghị phương cách chọn lựa, lúc ấy có một trăm hai mươi người đang tụ tập cầu nguyện. Thánh Phêrô biết rằng người được chọn phải là người đã theo Ðức Kitô từ ban đầu—từ lúc Ngài chịu thanh tẩy bởi Gioan Tẩy Giả cho đến khi Lên Trời. Lý do thật dễ hiểu, tông đồ phải là người theo Ðức Kitô trước khi bất cứ ai biết đến, phải trung thành với Ngài dù có những khó khăn và đã chứng kiến sự phục sinh của Ðức Kitô.

        Có hai vị hội đủ điều kiện – Matthias và Giuse Barsabbas. Các tông đồ biết hai vị này đã từng ở với họ và ở với Ðức Kitô trong suốt thời gian Ngài thi hành sứ vụ. Nhưng ai thực sự quyết tâm làm nhân chứng cho sự phục sinh của Ðức Kitô. Chỉ có Thiên Chúa mới biết được điều đó. Và các tông đồ đã cầu nguyện và bỏ phiếu. Người được chọn là ông Matthias, là người được thêm vào nhóm Mười Hai thay Judas Iscariot.

        Theo một tương truyền Hy Lạp, thánh nhân giảng đạo ở Capadoce và bị ném đá chết tại Colchis năm 80 AD; xác thánh nhân được chôn ở Jerusalem. Thánh tích còn tại nguyện đường tu viện ở Triers, phần khác do thánh nữ Helene đưa về La Mã tại Đền Thánh Đức Bà cả. Ðó là tất cả những gì chúng ta được biết về Thánh Matthias.

Lời Bàn: Ðức Clêmentê ở Alexandria nói rằng Thánh Matthias, cũng như tất cả các tông đồ khác, được Ðức Kitô chọn không phải vì họ tốt lành, nhưng vì Ðức Kitô đã thấy trước con người tương lai của họ. Các ngài được chọn không phải vì sự xứng đáng nhưng vì các ngài sẽ trở nên người xứng đáng. Ðức Kitô cũng chọn chúng ta giống như vậy. Thử nghĩ xem Ðức Kitô muốn bạn trở nên một người như thế nào? [Chính những gì bạn làm ngay bây giờ sẽ quyết định tương lai của bạn đó.]

 (Nguồn: Người Tín Hữu) 

From: Do Dzung

*************************

Đường con theo Chúa -tinmung.net

CÁI QUÁI GÌ VẬY? – Ls Luân Lê

Ngô Diệp

 Ls Luân Lê

Hôm qua tôi hỏi một bạn, bạn này là đảng viên, rất yêu chế độ cộng sản.

Tôi hỏi: Giờ có hai lựa chọn đi du lịch và học tập, một là Hàn Quốc, hai là Triều Tiên, em chọn nơi nào để đi?

Cô gái: Tất nhiên em không muốn ăn cỏ và gặp lãnh tụ là khóc như mưa mà chỉ để học phóng tên lửa hạt nhân rồi, em muốn sang xứ sở xứ Kim Chi Hàn Quốc.

Tôi lại hỏi tiếp: Bây giờ có hai nước là Mỹ và Venezuela, em chọn quốc gia nào để sinh sống và phát triển sự nghiệp?

Cô gái: Rõ ràng là em không muốn bới rác để ăn rồi. Em sẽ qua Mỹ bằng mọi cách.

Tôi lại hỏi tiếp: Bây giờ có hai đất nước, là Indonesia và Malaysia, họ cấm cộng sản hoạt động. Em sẽ vẫn đeo huy hiệu hoặc cờ đảng cộng sản ra đường bày tỏ chứ? Cô gái: Dạ không. Em phải giấu đi chứ, bên đó họ tấn công người nào có biểu hiện như vậy.

Giờ thế này nhé: Giữa nước Pháp bảo vệ tự do, dân chủ đến cùng và một nước Trung Quốc muốn kiểm soát, chấm điểm phân hạng công dân, em chọn nơi nào để sinh sống?

Cô gái: Em không muốn làm nạn nhân của Thiên An Môn hay bị soi xét đến cả lời ăn tiếng nói và nội tạng, rõ ràng là em chọn Pháp rồi.

Tôi lại đặt ra giả dụ: Giờ có hai nơi, một là Việt Nam và hai là Nhật Bản, em có chọn Việt Nam để chữa bệnh hoặc học tập không?

Cô gái: Xứ sở mặt trời mọc là lựa chọn ưu tiên hàng đầu của em. Em đang làm thủ tục để qua đó.

Tôi đành phải nói: Sao em vừa lưu manh lại vừa khốn nạn thế? Mặc áo một đằng mà lại sẵn sàng xảo trá để đạt mục đích của mình và chỉ chọn những “đế quốc tư bản” vậy?

Ls Luân Lê


 

CHÍNH THIÊN CHÚA ĐÃ NÂNG ĐỠ TÔI TRONG CHỐN LAO TÙ- Tu Huynh Anh

Tu Huynh Anh is with Chim Toc Trang

 (Tính không đăng nhưng một số người sau khi nghe lại muốn đọc thêm nên tôi post ở đây.  Bài phát biểu tại Thượng viện Hoa Kỳ hôm 1 Tháng Năm, 2025. Nhan đề tôi vừa đặt).

CHÍNH THIÊN CHÚA ĐÃ NÂNG ĐỠ TÔI TRONG CHỐN LAO TÙ

Kính thưa quý vị!

Trước tiên, tôi xin cảm ơn quý vị đã cho tôi cơ hội hiện diện tại đây hôm nay.

Thật khó để truyền tải chặng đường 14 năm tù đày chỉ trong vài phút ngắn ngủi. Tôi ra tù đã gần 12 năm, có những điều đã phai mờ, nhưng cũng có những ký ức sẽ theo tôi suốt đời.

Tôi và người em trai, Huỳnh Anh Trí, bị bắt vào đêm 29/12/1999. Sau đó, họ đưa anh em tôi đến hai địa điểm khác nhau để tra khảo. Hơn mười viên an ninh thay nhau hỏi cung tôi suốt 72 giờ không ngừng nghỉ. Suốt ba ngày ba đêm, tôi không được ăn, không được ngủ. Nhiều lúc không thể chịu đựng nổi, tôi gục xuống bàn. Mỗi lần như thế, họ lại nắm tóc dựng tôi dậy và hắt nước vào mặt tôi.

Một trong số họ đã đánh tôi, trong khi những viên an ninh khác thì chửi bới, đe dọa: nếu không nhận tội, tôi sẽ đối mặt với bản án 20 năm tù, hoặc chung thân, thậm chí tử hình.

Sang ngày thứ tư, họ đưa tôi vào buồng biệt giam rộng chừng 6 mét vuông, không cửa sổ, ăn uống và tiêu tiểu tại chỗ. Sau 72 giờ bị tra khảo liên tục, tôi tưởng rằng mình sẽ được nghỉ ngơi. Nhưng vừa thiếp đi, lập tức trong đầu tôi vang lên thứ âm thanh rất đáng sợ, lúc thì như là tiếng tru tréo kinh hoàng, khi thì giọng cười ma quái. Tôi cố bịt tai lại, nhưng âm thanh ấy càng lúc càng rợn người. Hơn mươi sáu năm đã trôi qua, đôi khi âm thanh đó vẫn bất ngờ quay lại, khiến tôi hoảng loạn.

Tôi bị biệt giam khoảng một năm rưỡi trước khi ra tòa. Tám tháng đầu, tôi liên tục bị gọi đi cung lúc 1–2 giờ sáng. Gần sáng họ đưa tôi trở lại buồng, và chỉ vài tiếng sau lại có nhóm khác đến tiếp tục lôi tôi đi thẩm vấn. Chúng tôi gọi hình thức này là “xa luân chiến” – một người phải đấu trí với cả chục an ninh.

Tôi từng bị chuyển qua 5 nhà tù khác nhau, chưa kể các lần chuyển buồng, chuyển trại.

Ký ức ám ảnh nhất đối với tôi là ĐÓI, RẤT ĐÓI.

Không ai có thể sống nổi ngần ấy năm tù nếu chỉ dựa vào khẩu phần ăn của nhà tù cung cấp.

Chúng tôi sống được là nhờ sự đùm bọc của các tu sĩ Công giáo – những người bị bắt sau năm 1975 chỉ vì là linh mục. Đói và thèm ăn đến mức, có hôm tỉnh dậy, tôi thấy miệng mình dính thứ gì như chất bột màu trắng. Tôi chợt nhớ, đêm trước mình đã mơ được ăn no, và trong mơ tôi đã nhai thật – điều ấy giải thích vì sao quanh miệng tôi dính chất màu trắng vào sáng hôm sau.

Kính thưa quý vị!

Tôi và em trai bị kết án 14 năm tù. Cùng vụ còn 38 người khác, bị kết án từ 2 đến 20 năm. Gần 10 người đã chết vì đói, vì lao động khổ sai, vì bệnh tật không được chữa trị. Chưa kể những người chết trong các vụ án khác, như ông Nguyễn Minh Tân – hàng ngày vẫn lao động cuốc đất, nuôi cá, gặt lúa… nhưng chết vì đói.

Tù chính trị và cả tù hình sự đều phải lao động khổ sai, làm các việc như khai hoang, cuốc đất, đào ao, trồng rau… nhưng những năm đầu, chúng tôi chưa bao giờ được ăn những gì mình làm ra – dù chỉ là vài cọng rau. Nhiều khi chúng tôi phải hái cỏ non        để ăn thay rau.

Chúng tôi đã  nhiều lần tuyệt thực để phản đối sự ngược đãi, yêu cầu cai tù thực thi đúng chính sách, quy định do chính nhà nước đề ra.

Cuộc tuyệt thực lâu nhất kéo dài 14 ngày tại trại giam Xuân Lộc, năm 2010, với hàng chục tù chính trị tham gia. Sau sự kiện đó, Tôi bị đưa về nhà tù An Phước, tỉnh Bình Dương.

Thưa quý vị!

Mười bốn năm tù không chỉ là sự chịu đựng bi kịch của cá nhân mình , mà tôi đã chứng kiến nỗi đau của biết bao người đồng cảnh ngộ. Tôi chưa từng thấy ai bị đánh đến chết, nhưng có nhiều người chết vì bị ngược đãi, một cách đàn áp tinh vi và có hệ thống”. Ví dụ, người mắc bệnh tim mạch, cao huyết áp bị cấm mang thuốc vào buồng giam – và họ chết, như ông Lê Thân, ông Phan Văn Trước. Nguồn nước bẩn, thực phẩm ôi thiu, bồn cầu hỏng không sửa … ,tất cả đều có chủ đích và sự chịu đựng kéo dài đã hủy hoại sức khoẻ của tù nhân.

Tù đày không chỉ là tra tấn, bệnh tật, chết chóc – mà còn là sự cô lập tinh thần. Chúng tôi bị cách ly khỏi tù hình sự, bị kiểm soát mọi giao tiếp với nhau. Vì không được sử dụng giấy bút, không đuọc nhận sách báo nên chúng tôi không thể viết, không thể đọc, không thể ghi chép lại bất cứ điều gì tai nghe mắt thấy, hoặc chỉ đơn giản là giãi bày những cảm xúc của chính mình.

Không ít lần tôi có ý định tự tử và từng chuẩn bị một cái chết cho mình. Nhưng có một sức mạnh vô hình mà sau này tôi tin đó là Thiên Chúa, đã nâng đỡ tôi. Tôi phải sống để chiến thắng, chí ít là để không thất bại trước thế lực tà ác.

Thưa quý vị!

Chúng tôi kể lại những điều này không chỉ cho bản thân mình, mà còn cho những người đã chết – như em tôi, Huỳnh Anh Trí; ông Trương Văn Sương, Nguyễn Văn Trại, Bùi Đăng Thủy, Đinh Đăng Định và nhiều người vô danh khác.

Chúng tôi kể thay cho những người vẫn đang bị giam giữ – những người không có cơ hội cất tiếng nói của chính mình.

Tôi mong rằng quý vị – những tiếng nói mạnh mẽ vì tự do, sẽ không quên những nơi còn trong bóng tối, những con người vẫn đang chịu cảnh tù đày vì tranh đấu cho tự do, dù ở đất nước xa xôi như Việt Nam.

Xin chân thành cảm ơn quý vị.


 

ANH CÒN NỢ EM….- Phan Công Tuấn

Việt Luận – Viet’s Herald

Phan Công Tuấn

Đó là bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ Anh Bằng, phổ thơ Phạm Thành Tài. Nhưng có lẽ không nhiều người biết Phạm Thành Tài không chỉ là nhà giáo, nhà thơ mà còn là lương y tham gia sinh hoạt và viết sách xuất bản ở Câu lạc bộ Châm cứu Sông Bé vang bóng một thời.

Trưa nay, thấy trên mạng xã hội dẫn lại một bài viết có thông tin Thi sĩ Phạm Thành Tài sinh năm 1932 và mất năm 1997. Quê quán ở quận Ninh Hòa tỉnh Khánh Hòa. Ông từng bị tù cải tạo sau năm 1975, đi qua Mỹ qua diện HO và học lấy bằng Đông Y Bác Sĩ (OMD- Oriental Medical Doctor).

Tôi liền vùng dậy, lục tìm cuốn sách “Phối Huyệt Châm Cứu Chữa Bệnh Kinh Đới Trong Phụ Khoa” của lương y Phạm Thành Tài trong tủ sách của mình, và thêm vài cú nhấp chuột tôi mới khẳng định được vị lương y này chính là tác giả lời ca của nhạc phẩm nổi tiếng đó.

Về bối cảnh ra đời bài thơ, có thông tin cho biết có một phụ nữ kể lại câu chuyện tình của cô bạn thân của cô với một thanh niên học cùng trường nhưng hơn mấy lớp ở Ninh Hoà. Chàng và nàng quen nhau từ thủa học trò. Đỗ tú tài, chàng vào Sài Gòn, rồi sau đó du học Mỹ, nàng thì ở lại quê làm cô giáo trường làng. Ra đi, chàng bảo nàng yên tâm đợi chàng về. Nhưng rồi sau đó được tin chàng đã lấy vợ, một người con gái học thức, sang giàu, nàng đau khổ một thời gian rồi cũng lấy chồng.

Sau 1975, một lần họp đồng hương Ninh Hoà ở Mỹ, người phụ nữ kể chuyện gặp lại chàng, biết cô sắp về thăm quê, chàng gửi ít tiền về biếu nàng ngày xưa, vốn là bạn thân của cô. Nàng sống ở quê cùng chồng là thương phế binh chế độ cũ, với năm con, nghèo lắm nhưng từ chối món tiền của chàng.

Qua Mỹ, đến thăm chàng trong ngôi nhà cao đẹp, nhưng một mình vì đã li di vợ, có đứa con trai cũng sống với mẹ. Người phụ nữ kể lại câu chuyện, chàng ngậm ngùi nói “anh còn nợ em”.

Nhạc sĩ Anh Bằng kể rằng đọc tập thơ nhỏ của Phạm Thành Tài, có mấy bài thơ ngắn, rồi thích thú phổ thành bản Anh Còn Nợ Em.

“Anh còn nợ em, công viên ghế đá, công viên ghế đá, lá đổ chiều êm. Anh còn nợ em, giòng xưa bến cũ, giòng xưa bến cũ, con sông êm đềm. Anh còn nợ em, chim về núi nhạn, trời mờ mưa đêm, trời mờ mưa đêm. Anh còn nợ em, nụ hôn vội vàng, nụ hôn vội vàng, nắng chói qua rèm. Anh còn nợ em, con tim bối rối, con tim bối rối, anh còn nợ em. Và còn nợ em, cuộc tình đã lỡ, cuộc tình đã lỡ, anh còn nợ em.”

Trong mỗi đoạn nhạc, có 4 câu thơ mà có câu lập lại hai lần, toàn bài câu “anh còn nợ em” lập lại 8 lần; đó là nét riêng của ca khúc và lập lại mà nghe không chán.

Khi bài hát phổ biến, nhạc sĩ Anh Bằng nhờ người tìm tác giả bài thơ và khi tìm được thì thi sĩ Phạm Thành Tài đã qua đời hơn mười năm. Ông chép tay bài nhạc Anh Còn Nợ Em và tặng cho người vợ của thi sĩ làm kỷ niệm.

Phan Công Tuấn


 

Lại suy nghĩ về sự chết – Bài viết của Phùng Văn Phụng

 Bài viết của Phùng Văn Phụng

Đầu tháng 05 năm 2025, tin tức từ Việt Nam, ở quê nhà cho biết anh Tr mất, thọ 95, 96 tuổi. Nhưng khi nói đến anh Tr. chết, cháu trong nhà liền nói “đừng nói đến chuyện mất, chuyện chết, không tốt”. Cháu cũng đã 58 tuổi rồi nhưng vẫn sợ nói đến sự chết “vì cho rằng, nhắc đến sự chết là xui xẻo”. Không muốn nói, không muốn nghe nói đến sự CHẾT. Cháu không dám nghĩ rằng làm người ai ai cũng phải chết vì đó là qui luật của tạo hóa: Sinh Lão Bịnh Tử”. Không có ai thoát khỏi qui luật này.

Tần Thủy Hoàng (259 TCN-210 TCN) đã ra lịnh tìm thuốc trường sinh nhưng Tần Thủy Hoàng cũng phải chết.

******

Tôi đã in tất cả 15 tờ giấy có ghi chữ “Suy Ngẫm: Làm Sao Vui Để Đợi Chết”, tôi đã dán trong phòng ngủ cũng là phòng làm việc của tôi.

Ngồi đâu cũng thấy câu này, sáng thức dậy nhìn lên tường là thấy câu này để nhắc nhở tôi về SỰ CHẾT. Làm người ai cũng phải ra đi, sẽ CHẾT, nhưng làm sao trong lúc đang sống cho đến lúc chết, có cuộc sống VUI hơn là sống với tâm trạng buồn rầu.

Thánh Vịnh 90 câu 10 có viết: “Tính tuổi thọ trong ngoài bảy chục, mạnh giỏi chăng là được tám mươi, mà phần lớn chỉ là gian lao khốn khổ, cuộc đời thấm thoát, chúng con đã khuất rồi”.

1-   Nhờ thường xuyên suy niệm về sự CHẾT, nên khi bị người khác mắng chửi, khinh chê, nói xấu, bịa đặt, vu khống làm ta tổn thương, ta ít bị ảnh hưởng hơn, ít tức giận hơn?

2-   Nếu bị cự nự, công kích ta xem như không có và nên tội nghiệp, thương xót người đó vì phải có lý do nào đó họ mới chửi bới, nói xấu mình.

3-   Cầu nguyện cho họ vì họ đã hiểu lầm. Tại sao phải cầu nguyện cho họ? Nếu ta bỏ qua, đừng để ý đến, đó chỉ là hình thức tiêu cực mà thôi. Còn tích cực ta phải thương xót họ, phải cầu nguyện cho họ để cho họ sáng suốt, để họ phân định đúng, sai và có hành động đúng đắn hơn. Nhờ đó ta không bị ảnh hưởng bởi lời phê bình, chỉ trích vô lý của người khác.

4-    Sự giận hờn làm tim ta đau nhói, làm cho ta mất bình an, làm cho ta khó ngủ. Vậy ta có nên giận hờn không?

Vài suy nghĩ lan man:

-Nếu đau bịnh nặng không tự ăn uống, tắm rửa được thì làm sao?

-Vào sống ở Nursing home; thường có hai ý kiến trái ngược:

  1. a) không thích vì buồn, nhớ nhà, không quen, lạ chỗ
  2. b) đầy đủ tiện nghi có bác sĩ, y tá lo về sức khoẻ.

Vài tháng sau khi ta mất chẳng có ai còn nhớ đến ta. Những người bà con xa gần, thân nhân, con cháu có nhớ đến ta chỉ vài năm mà thôi. Mười năm, hai mươi năm chẳng còn ai biết đến ta chứ đừng nói cả trăm năm sau. 

Kết:

Đến tuổi này rồi, tuổi 83, tôi đã soát xét lại đời mình, thăng trầm quá nhiều, tù cải tạo, lăn lộn làm nhiều nghề khác nhau để sống.

Cho nên tôi luôn tự nhắc nhở cho chính mình:

Tạ ơn Trời mỗi sớm mai thức dậy,

Cho con còn ngày nữa để yêu thương.

Và làm sao phải “Yêu Mến Sự Chết” như lời nói của cố Đức Hồng Y Nguyễn Văn Thuận?

Phùng Văn Phụng

Tháng 05 năm 2025

‘THƯƠNG’, ‘CHỌN’ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em!”.

“Mỗi khi thất vọng, tôi để tâm hồn lắng dịu và hồi tưởng về Jamie, một bé gái luôn mơ có một vai diễn trong vở kịch của ngày bế giảng. Vào buổi ban tổ chức tuyên bố các vai, tôi theo mẹ Jamie đến trường. Từ xa, Jamie hớt hơ hớt hải chạy về phía mẹ, bộc lộ niềm vui chực vỡ oà. Sau khi lấy lại bình tĩnh, Jamie đã nói những lời mà tôi vẫn giữ mãi trong ký ức, “Mẹ ơi! Con được chọn làm người vỗ tay!”” – Maya Angelou.

Kính thưa Anh Chị em,

Việc thánh Matthia Giáo Hội mừng kính hôm nay được chọn – không phải để làm người vỗ tay, nhưng làm tông đồ, thế chỗ Giuđa – cho thấy quyền năng và tình yêu nhưng không của Thiên Chúa một khi Ngài ‘thương’ và ‘chọn’ một ai.

Chúa thương ai, Ngài chọn kẻ ấy, chọn cách tự do; chẳng hỏi ai, không bàn bạc với ai. Một Abraham, một Giacob, một Môsê, một Đavít, một Giuse, một Maria, một Phêrô, một Phanxicô; hoặc gần gũi hơn cả, một Lêô hay một Matthia – người trúng thăm. Đừng quên, đây là công việc của Chúa Thánh Thần! Tất cả họ là những con người xem ra ‘nhỏ’ được mời tham gia một kế hoạch ‘lớn’ – cứu độ nhân loại – cứu độ đời đời. Đó là những con người ‘đủ yếu’ vốn sẽ trở thành những ‘người khổng lồ’ của Chúa. Chúa chọn ai, không vì người đó xứng đáng, nhưng vì người đó đáng được xót thương! “Xót thương và Tuyển chọn!” – khẩu hiệu của Đức Phanxicô.

Matthia hẳn rất hạnh phúc khi được ‘thương’, ‘chọn’ làm tông đồ dù có người cho rằng, ông chỉ là tông đồ hạng hai. Nhưng, nếu điều kiện “Phải là người đã cùng chúng tôi đi theo Chúa Giêsu suốt thời gian Người sống giữa chúng ta”; “Cùng với chúng tôi làm chứng rằng Người đã phục sinh” thì Matthia đã đạt tiêu chuẩn đó. Matthia không bỏ đi vì Lời chói tai, cũng không quay lưng với nhóm mười một khi Thầy mất. Người môn đệ này không ưa xuất hiện nhưng lặng lẽ lẩn quẩn bên Nhóm Mười Hai đến nỗi có tài liệu nói, Chúa Giêsu coi ông như các môn đệ khác, những bạn nghĩa thiết – Tin Mừng hôm nay. Dẫu vậy, Matthia vẫn không có trong danh sách Nhóm Mười Hai!

Trong cái nhìn của Thiên Chúa, không có gì là may, chẳng có gì là rủi; không ai hạng hai, chẳng ai hạng ba; không quan trọng khi anh đạo gốc, chị đạo dòng, tôi là dự tòng. Không ít anh chị em tân tòng sống Tin Mừng tuyệt vời hơn chúng ta – giữ đạo ‘dòng dòng’ sao? Mọi người đều bình đẳng và Thiên Chúa thật quyền năng, tự do. Gioan XXIII có một kinh nghiệm ‘thương’, ‘chọn’ tương tự, “Lúc được bầu làm Giáo Hoàng, tôi luôn lo lắng và sợ hãi. Một đêm kia, trong giấc ngủ, tôi nghe một lời nói với mình, ‘Roncalli, đừng xem mình quan trọng!’. Tôi đem áp dụng câu nói ấy; và từ dạo đó, tôi ăn ngon ngủ yên như khi chưa được chọn để dẫn dắt Giáo Hội toàn cầu!”.

Anh Chị em,

“Mẹ ơi, con được chọn làm người vỗ tay!”, “Roncalli, đừng xem mình quan trọng!” được tìm thấy nơi Chúa Giêsu. Ngài đã hạ mình tận chỗ rốt hết và Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài. Khiêm nhượng ví tựa chỗ trũng khi so với tính tự tôn như một ngọn đồi vừa đầy đá vừa cheo leo. Nước luôn tìm chỗ thấp như ân sủng Chúa luôn tưới đẫm kẻ rốt hèn. Khiêm nhượng giúp chúng ta đào sâu những trũng thấp để đón nhận bao mưa hồng ân vốn không ở lâu trên những chỏm cao; trái lại, chảy xuống và đọng dưới chân đồi.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, hạnh phúc thay, con đang ở chỗ trũng; và đang hứng thật nhiều!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

********************************

Kính Thánh Matthia Tông Đồ, 

Thứ Tư Tuần IV Phục Sinh

Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.        Ga 15,9-17

9 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. 10 Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. 11 Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.

12 “Đây là điều răn của Thầy : anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 13 Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. 14 Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. 15 Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.

16 “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em, để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. 17 Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.”


 

Cựu Bí thư Bến Tre Lê Đức Thọ được giảm án, hoàn trả vàng, giữ lại Mercedes và đồng hồ tiền tỷ

Ba’o Dat  Viet

May 13, 2025

SÀI GÒN – Sau năm ngày xét xử, hôm 12 Tháng Năm, Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Sài Gòn đã tuyên giảm án cho Lê Đức Thọ, cựu Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre, từ 28 năm xuống còn 21 năm tù. Phán quyết được đưa ra trong bối cảnh ông Thọ bị xét xử về hai tội danh nghiêm trọng: “nhận hối lộ” và “lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi.”

Với khối tài sản đồ sộ từng bị thu giữ, bao gồm 97 miếng vàng 9999, xe Mercedes-Benz S450, hơn 130 sổ tiết kiệm, 10 đồng hồ hàng hiệu Patek Philippe, Tissot, cùng hàng trăm triệu đồng tiền mặt và nhiều giấy tờ nhà đất, ông Thọ từng được báo chí nhà nước mệnh danh là “một trong những bí thư tỉnh giàu nhất Việt Nam.”

Dù vậy, tại phiên phúc thẩm, Hội đồng xét xử cho rằng bị cáo “có thái độ thành khẩn khai báo, tự nguyện khắc phục hậu quả thêm 15 tỷ đồng ngoài số tiền 33 tỷ đã nộp,” đồng thời “có quá trình công tác tốt, được tặng nhiều huân chương, bằng khen, gia đình có công với cách mạng…” nên chấp thuận giảm án.

Trước đó, vào cuối Tháng Mười Một, 2024, ông Thọ cũng được tòa tuyên trả lại toàn bộ 97 miếng vàng 9999 cùng một số tài sản khác bị thu giữ trong quá trình điều tra, với lý do “không liên quan vụ án.” Việc hoàn trả tài sản được dư luận xem là một biểu hiện cho thấy quyền lực chính trị và lý lịch “đỏ” vẫn là tấm khiên vững chắc ngay cả khi đứng trước vành móng ngựa.

Trong vụ án, cáo trạng cáo buộc ông Thọ nhiều lần nhận hối lộ từ bị cáo Mai Thị Hồng Hạnh – chủ tịch công ty Xuyên Việt Oil – để can thiệp cho doanh nghiệp này vay vốn ưu đãi tại ngân hàng VietinBank với mức tín chấp cao. Những món quà “cảm ơn” không dừng lại ở tiền mặt mà còn gồm xe sang, gậy golf cao cấp và đồng hồ hàng hiệu giá trị hàng trăm ngàn đô la.

Không chỉ ông Thọ được giảm án. Các bị cáo khác liên quan trong đường dây tham nhũng này, bao gồm ông Trần Duy Đông (cựu Vụ trưởng Vụ Thị trường trong nước, Bộ Công Thương), ông Hoàng Anh Tuấn (cựu Vụ phó), và ông Lê Duy Minh (cựu Cục trưởng Cục Thuế Sài Gòn), cũng đều được giảm từ 1.5 đến 2 năm tù.

Bị cáo Mai Thị Hồng Hạnh – người đưa hối lộ và làm thất thoát tài sản nhà nước – cũng được giảm từ 19 xuống còn 17 năm tù.

Việc các bị cáo trong một đại án tham nhũng có giá trị hàng trăm tỷ đồng đồng loạt được giảm án, trong khi khối tài sản xa hoa vẫn được hoàn trả, đặt ra nhiều dấu hỏi trong dư luận về tính công bằng và minh bạch trong hệ thống tư pháp của Nhà cầm quyền CSVN. Nhiều ý kiến cho rằng, với tiền và “lý lịch cách mạng,” cả những tội danh nghiêm trọng cũng có thể “giảm nhẹ” dễ dàng.

Vụ án này, dù được xử ở cấp cao nhất, một lần nữa cho thấy thực trạng: quyền lực, tài sản và “công lao với cách mạng” vẫn có thể đè bẹp công lý. Trong khi đó, người dân vẫn ngậm ngùi nhìn các quan chức thoát án nhẹ nhàng, cùng vàng bạc trở về.