Thư viện ngựa thồ (Park Horse Library)

Chuyện tuổi Xế ChiềuCông Tú Nguyễn 

Những năm 1930 là thời kỳ Đại khủng hoảng. Nhưng bang Kentucky ở nước Mỹ vẫn lập ra một dự án là Park Horse Library- thư viện ngựa thồ. Dự án này có 2 ý nghĩa. Một là tạo việc làm cho người dân đang rất khó khăn và hai là đem sách tới cho các vùng xa xôi để nâng cao dân trí. Dự án này do phụ nữ tham gia vì đàn ông khi đó đã đi vào nhiều chương trình của dự án Kinh tế mới mà TT Mỹ Franklin D. Roosevelt đề ra để thoát khỏi đói khổ.

"Pack Horse Library Project": llevar libros y materiales de lectura a ...

Những người phụ nữ giao sách này đã mang sách tới các vùng hẻo lánh của dãy núi Appalachia. Mỗi con ngựa sẽ mang theo 100 cuốn sách. Họ đi theo một con đường núi dài từ 100-120 dặm mỗi tuần. Thư viện được vận hành bởi ngân sách công. Sách từ nguồn quyên tặng của những nhà hảo tâm. Lương của mỗi phụ nữ chuyển sách là 28 usd mỗi tháng. Có khoảng 1000 phụ nữ làm công việc này.

 

Những sách được ưa thích nhất là Kinh Thánh, các tác phẩm văn học kinh điển, sách nuôi dạy con, nấu ăn và chăm sóc gia đình, làm thủ công.

Ngoài việc đưa sách tới, nhiều phụ nữ chuyển sách còn đọc sách cho người dân và trẻ em nghe. Họ cũng mang thư và kể chuyện về những gì đang xảy ra ngoài các ngọn núi. Họ đem tới hy vọng.

Kentucky pack-horse librarians : Student Snippets : School of Library ...

Có khoảng 30 thư viện ngựa thồ khác nhau phục vụ khoảng 100.000 người khác nhau ở các vùng núi của tiểu bang Kentucky.  Tính đến năm 1937, các thư viện này cũng đã phục vụ khoảng 155 trường học ở các quận này.

Dự án từ khi bắt đầu vào năm 1935 đến khi kết thúc vào năm 1943, đã tiếp cận được 1,5 triệu người dân trong bang..

Bằng cách này, vùng miền núi xa xôi ở Kentucky khi đó có sách đọc. Và sau này ngựa thồ được thay bằng xe sách lưu động. Và cuối cùng là xây các thư viện.

The Pack Horse Librarians of Appalachia | KET

Đó là cách nước Mỹ nỗ lực vượt qua khủng hoảng và kiên cường nâng cao dân trí. Đói khổ không có nghĩa là ngừng học hỏi và ngừng tiến bộ.

Hình tư liệu 1 phụ nữ trong dự án đi giao sách cho độc giả tại một trang trại hẻo lánh ở Mill Creek, Kentucky năm 1938.

Nguyễn Thị Bích Hậu


 

GIÁO SƯ ĐOÀN VIẾT HOẠT QUA ĐỜI

Phạm Thanh Nghiên

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt, một trong những biểu tượng tiêu biểu của phong trào dân chủ và nhân quyền Việt Nam trong vài thập niên trở lại đây, vừa qua đời vào chiều 14/5/2025 tại Nam Cali.

Ông sinh năm 1942 tại Hà Đông, từng là phụ tá Viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh trước năm 1975. Sau năm 1975, ông bị bắt và bị giam cầm suốt 12 năm trong trại cải tạo mà không qua xét xử. Sau khi được trả tự do, ông tiếp tục đấu tranh ôn hòa cho tự do ngôn luận và dân chủ, dẫn đến việc bị kết án 20 năm tù vào năm 1993. Dưới áp lực quốc tế, ông được trả tự do và sang Hoa Kỳ năm 1998, nơi ông tiếp tục hoạt động cho đến cuối đời.  

Ông được mệnh danh là “Sakharov của Việt Nam” và từng nhận nhiều giải thưởng quốc tế danh giá như Giải Tự do Báo chí Quốc tế (1993), Giải Nhân quyền Robert F. Kennedy (1995), Giải Bút vàng Tự do (1998) và được vinh danh là Anh hùng Tự do Báo chí Thế giới năm 2000.

Khoảng 3 năm trước, ông chuyển từ Washington DC tới sinh sống tại Nam Cali , nơi có đông người Việt tị nạn cộng sản.

Giáo sư Đoàn Viết Hoạt qua đời là một mất mát cho cộng đồng người Việt tị nạn tại hải ngoại. Di sản của ông chắc chắn sẽ là nguồn cảm hứng cho những người đi sau, trên hành trình tìm kiếm tự do cho quê hương.


 

NHÀ CỦA CHA – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”; “Để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”.

Tháng 4/1667, John Milton bán bản quyền “Thiên Đàng Đã Mất” – bộ sử thi vĩ đại nhất của nước Anh – cho nhà xuất bản Samuel Simmons với giá 10 bảng. Ông qua đời, bà Elizabeth Milton bán tất cả tác quyền vĩnh viễn còn lại cho cùng nhà xuất bản với giá 8 bảng. Thật khó để tưởng tượng “giá” một kiệt tác tầm cỡ quốc gia, tầm cỡ thế giới, lại hời đến thế!

Kính thưa Anh Chị em,

Tin Mừng hôm nay không nói đến một “Thiên Đàng Đã Mất”, nhưng nói đến một “Thiên Đàng Sẽ Được”. Chúa Giêsu giục giã chúng ta nhìn vào thực tế vinh quang thiên đàng, đó là ‘Nhà của Cha’ – Vương Quốc – nơi mà Ngài hằng thao thức, cuối cùng, làm sao bạn và tôi cùng Ngài chung sống.

“Ngài từng nói với anh trộm, “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng!”. Trong toàn bộ Phúc Âm, đây là lần đầu, cũng là lần cuối, chữ “thiên đàng” xuất hiện trên môi Chúa Cứu Thế; điều này có nghĩa là, thiên đàng, một sự thật 100%. Thiên đàng là có thật!” – Phanxicô. Nó không phải là khu vườn hoang tưởng của chuyện cổ tích! Nếu ‘hiểu đúng’ thiên đàng, bạn sẽ khát khao nó với một tình yêu sâu sắc; mong chờ nó với một ước vọng mãnh liệt; tưởng nhớ nó với một niềm vui ngập lòng. Tuy nhiên, thật không may, với một số người, ý nghĩ rời khỏi trái đất để ở với Chúa Thiên Đàng là một suy nghĩ không mấy vui, nếu không nói là sợ hãi. Đó là một nỗi sợ về ‘những điều chưa biết’; họ nghĩ, họ sẽ bỏ lại những người thân yêu, hoặc thậm chí sợ rằng, thiên đàng không phải là nơi an nghỉ.

Là con cái Chúa, điều cần thiết là chúng ta cần nuôi dưỡng một tình yêu lớn lao đối với thiên đàng bằng cách ‘hiểu đúng’ về nó, hiểu rõ ‘mục đích của cuộc sống hôm nay’ là hướng về nó. Thiên đàng phải ‘định hướng và sắp xếp’ cuộc sống của chúng ta! Chúa Giêsu nói về ‘đích đến’ này bằng cách đưa ra một hình ảnh rất thân thiện, gần gũi: ‘Nhà của Cha!’. Nó tiết lộ thiên đàng là ‘nhà mình’, một nơi an toàn mà chúng ta thư thái bên những người thân yêu và cảm nhận nó là chốn những con trai, con gái của Cha ‘thuộc về’.

“Chúa Giêsu đã dành một chỗ trên trời cho mỗi chúng ta. Đừng quên, ‘nơi ở’ chờ đợi chúng ta là thiên đàng. Bạn đang quá cảnh ở trần gian, chỉ quá cảnh thôi! Bạn được tạo dựng cho thiên đàng, để sống mãi mãi với những người thân yêu; và cùng họ, chia sẻ niềm vui vĩnh cửu trong ‘Nhà Cha mình!’” – Phanxicô.

Anh Chị em,

“Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở”. Chúng ta có nhiều chỗ để đi, nhưng chỉ có một chỗ ‘để ở’; đúng hơn, ‘để về’ – thiên đàng! Vậy mà, thật bất ngờ, thiên đàng không ở đâu xa, không chỉ ở đời sau; nó ‘ở đây, lúc này!’. Ở đâu có Giêsu, ở đó có thiên đàng; Giêsu là thiên đàng. Vì thế, ở đâu có Thánh Thể, ở đó là ‘một góc’ thiên đàng. Mỗi ngày, với lòng sạch tội, rước Chúa Giêsu, bạn và tôi ‘ẵm’ thiên đàng. Tác giả “Giêsu Khoan Nhân” – một thánh ca xưa – viết, “Chúa đến thăm con, thăm con mỗi sáng ngày, linh hồn thấy lại tuổi thơ ngây; thiên đàng chớm nở, chớm nở ngay dưới thế, tháng năm hoan lạc trôi từ đây!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, trần gian là lữ điếm mà con – lữ khách – quá cảnh; đừng để con quên, con đang về ‘nhà Cha’. Bằng không, con sẽ ‘vất vưởng’ không chỉ mai ngày nhưng ngay hôm nay!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

********************************

Thứ Sáu Tuần IV Phục Sinh

Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.        Ga 14,1-6

1 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Anh em đừng xao xuyến ! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. 2 Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở ; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. 3 Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó. 4 Và Thầy đi đâu, thì anh em biết đường rồi.”

5 Ông Tô-ma nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường ?” 6 Đức Giê-su đáp : “Chính Thầy là con đường là sự thật và là sự sống. Không ai có thể đến với Chúa Cha mà không qua Thầy.”


 

NÊN CẢM ƠN AI?

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn

 

“Được thừa hưởng một nền giáo dục nhân bản, nên gương mặt rất Chân chất và đôn hậu.”

Trong hình là tiến sĩ Nguyễn Thị Hoàng Dương (Kelly Nguyễn), quê Quảng Ngãi.

Hiện cô làm việc tại MRC-Phòng thí nghiệm về sinh học phân tử tại Cambridge, Anh quốc. Báo chí loan tin cô sẽ được trao huy chương Colworth năm 2024 vì những kết quả nghiên cứu xuất sắc.

Cô là nhà khoa học người Việt đầu tiên nhận huy chương này trong lịch sử 60 năm của giải thưởng.

Con đường của tiến sĩ Hoàng Dương bắt đầu khi học xong lớp 10 ở tỉnh nhà, cô nhận học bổng toàn phần chương trình phổ thông tại Trường nữ sinh Wellington New Zealand.

Khi tốt nghiệp xong, cô có thành tích rất tốt và thi đậu học bổng toàn phần học Hóa học tại đại học danh giá Australian National University (ANU). Ở đây, cô học rất giỏi và tốt nghiệp với hạng đứng đầu khóa học First Class Honours với một huy chương University Medal. Thường 1 năm chỉ có 1 sinh viên của khoa nhận vinh dự này.

Từ kết quả đó, năm 2010 cô được nhận vào học tiến sĩ với học bổng toàn phần tại University of Cambridge (Trinity College).

 Cô tốt nghiệp tiến sĩ khi mới chỉ 26 tuổi và ở lại trường làm công tác nghiên cứu. Cô cũng từng qua nghiên cứu tại Đại học California Berkeley, Mỹ.

Là một nhà nghiên cứu về sinh học phân tử đầy tiềm năng, cô đã từng nhận rất nhiều giải thưởng quốc tế danh giá về chuyên ngành.

Trinity College, nơi cô theo học tiến sĩ và đang làm việc là đại học tốt nhất của Viện đại học Cambridge- trường đại học chất lượng bậc nhất thế giới. Thành lập từ 1546, trường này đã có 34 thành viên nhận giải thưởng Nobel (trong số 121 giải thưởng mà các thành viên của Đại học Cambridge nhận được). Đây là trường mà nhà vật lý Isaac Newton và rất nhiều vĩ nhân từng theo học.

Trường chỉ hiện có tổng số 180 sinh viên tiến sĩ, do đó được vào đây học hành và đỗ đạt là vô cùng vinh dự.

Có một nhà khoa học Việt tại nước Anh, trong 1 trung tâm khoa học lớn của thế giới như tiến sỹ Hoàng Dương thật quý báu. Chúc mừng cô và mong cô đạt nhiều thành tựu khoa học mới.

Nguyễn Thị Bích Hậu


 

Lần Đầu Tiên Gặp Ba Trong Trại Tù “Cải Tạo” của Cộng Sản – Câu Chuyện của Bà Cao Xuân Thanh Ngọc VHM

Lần Đầu Tiên Gặp Ba Trong Trại Tù “Cải Tạo” của Cộng Sản – Câu Chuyện của Bà Cao Xuân Thanh Ngọc VHM     

Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, hàng trăm ngàn trẻ em miền Nam bỗng dưng trở thành mồ côi vì cha mẹ họ vốn từng phục vụ cho chính thể Việt Nam Cộng Hòa nên đã phải trình diện rồi bị đưa vào những trại giam giữa rừng sâu nước độc, không biết ngày trở về.

Trong số những trẻ ấy có chị Thanh Ngọc: Được sinh ra giữa lòng đất đỏ Xuân Lộc – địa phận Long Khánh, trong khi người cha vốn là một sĩ quan của Quân Lực VNCH đã bị giam cầm suốt 10 năm trời. Mẹ chị, một cô giáo tiểu học, đã phải một mình âm thầm gồng gánh để nuôi năm người con trong cảnh khốn cùng.

Khi được 9 tuổi, chị lần đầu được gặp mặt cha trong trại tù cộng sản – một ký ức không thể nào quên, đánh dấu cột mốc đầu đời cho hành trình tìm lại gốc rễ, danh dự và tình phụ tử.

Năm 1991, gia đình chị được định cư tại Hoa Kỳ theo diện HO. Từ một thiếu nữ vị thành niên không rành tiếng Anh, chị đã kiên trì suốt hơn một thập niên không ngừng vươn lên trên con đường học vấn.

Ngày nay, chị là một Tiến sĩ Dược Khoa, Inpatient Pharmacy Supervisor tại Kaiser Ontario Medical Center, đồng thời đảm nhận thêm vai trò Corporate Senior Director of Pharmacy cho một hệ thống có trên 500 nhà thương với hơn 2,500 dược sĩ làm việc trên toàn nước Mỹ. 

Câu chuyện về cuộc đời chị là một trường hợp đặc biệt cụ thể minh chứng cho sự nỗ lực vươn lên mãnh liệt từ nghịch cảnh, như gián tiếp là lời tri ân thầm lặng đến cha mẹ, đến đất nước Hoa Kỳ – nơi đã giang tay đón nhận người Việt tỵ nạn – và cũng là ngọn đuốc tinh thần soi sáng cho thế hệ trẻ Việt Nam khắp nơi trên thế giới.

Kính mời quý vị cùng lắng nghe hành trình đầy thử thách do chính chị Cao Xuân Thanh Ngọc thuật lại.

Lịch Sử Qua Chuyện Kể là một trong những dự án của Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt để lưu lại những câu chuyện trong ký ức, trực tiếp qua lời thuật chuyện của những người đã từng tham gia hay là nhân chứng trong các sự kiện lịch sử cận đại. Dự án này là một công trình nghiên cứu  mục đích sưu tầm, lưu trữ và giải thích lịch sử người Việt tỵ nạn.

Những người Việt tỵ nạn sống sót cần có cơ hội trực tiếp chia sẻ cụ thể  đầy cảm xúc về những kinh nghiệm mà mình đã trải qua, hoặc chứng kiến những biến cố lịch sử của dân tộc, trên con đường đi tìm tự do, cũng như là những khó khăn bước đầu định cư và lập nghiệp nơi xứ người. Đây là cơ hội để có thể thông cảm và hiểu biết lẫn nhau hơn giữa các thế hệ tỵ nạn; đồng thời cũng là tạo cho những thế hệ mai sau thấu hiểu, hãnh diện và nhớ ơn những hy sinh và can đảm của tiền nhân. 

Thánh Isidore (1070-1130)-Cha Vương

Hôm nay Giáo Hội mừng kính Thánh Isidore. (St. Isidore of Madrid, 1070-1130) Mừng bổn mạng đến những ai chọn ngài làm quan thầy nhé. Xin thánh nhân chuyển cầu cho chúng con được sống thánh giữa đời.

Cha Vương

Thứ 5: 15/05/2025

Thánh Isidore là quan thầy của các nông dân và làng quê. Ðặc biệt, ngài là quan thầy của Madrid, Tây Ban Nha, và của Hội Nghị Ðời Sống Công Giáo Thôn Quê Hoa Kỳ.

     Khi lớn tuổi, ngài làm công cho gia đình ông Gioan de Vergas, một địa chủ giầu có ở Madrid, và trung thành làm việc cho đến mãn đời. Isidore kết hôn với một thiếu nữ đạo đức và chính trực mà sau này bà được tuyên xưng là thánh Maria de la Cabeza. Hai người có được một con trai nhưng chẳng may cậu chết sớm. Cả hai ông bà tin rằng ý Chúa không muốn hai người có con, do đó họ quyết định sống khiết tịnh cho đến suốt đời.

     Isidore là người đạo đức thâm trầm bẩm sinh. Ngài thức dậy từ sáng sớm để đi lễ và dành thời giờ trong những dịp lễ lớn để đi viếng các nhà thờ ở Madrid và vùng phụ cận. Trong khi làm việc, ngài luôn chuyện trò với Thiên Chúa. Khi bị các đồng nghiệp cho rằng ngài trốn tránh nhiệm vụ qua việc tham dự Thánh Lễ hằng ngày, lấy nhiều thời giờ để cầu nguyện, v.v…,

     Isidore trả lời rằng ngài không còn lựa chọn nào khác hơn là tuân theo Ông Chủ tối cao. Truyền thuyết kể rằng, một sáng kia khi ông chủ đến cánh đồng để bắt quả tang Isidore trốn việc đi nhà thờ, ông thấy các thiên thần đang cầy cấy nơi khu ruộng của Isidore.

     Isidore còn nổi tiếng là thương người nghèo và cũng thường để ý đến việc chăm sóc loài vật. [Chuyện kể có lần giáo xứ tổ chức tiệc. Isidore đến nhà thờ sớm để cầu nguyện. Vì lý do đó ông đến hội trường muộn, đã vậy ông còn kéo thêm một nhóm người ăn xin nữa. Các giáo dân tỏ vẻ phẫn nộ vì sợ không có đủ thức ăn cho tất cả những người ăn xin đó thì sao? Nhưng trong khi phân phát đồ ăn thì họ thấy đồ ăn càng nhiều thêm đến độ đủ thức ăn cho mọi tất cả mọi người. Thánh Isidore tế nhị giải thích: “Chúa chăm sóc cho những người nghèo của Ngài đó”]

     Isidore từ trần ngày 15 tháng Năm 1130, và được phong thánh năm 1622, cùng với các Thánh I-nhã, Phanxicô Xaviê, Têrêsa và Philip Nêri.

 Lời Bàn: Chúng ta có thể tìm thấy nhiều sự ứng dụng nơi vị lao công thánh thiện này: Công việc lao động có phẩm giá; sự thánh thiện không bắt nguồn từ địa vị xã hội; sự chiêm niệm không lệ thuộc vào học thức; đời sống thanh bạch là con đường dẫn đến sự thánh thiện và hạnh phúc. 

(Nguồn: GP Vĩnh Long)

***************************

Nên Thánh Giữa Đời ( Sr Têrêsa / Ca sĩ Xara Trần)

PHẢN BỘI, TRUNG THÀNH – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con!”.

Không phản bội nào tồi tệ hơn phản bội của một thành viên trong gia đình hay của một người bạn! Caesar đã trải nghiệm điều đó. Một trong những kẻ mưu hại ông là Brutus, người ông tin tưởng và ưu ái như con ruột. Theo các sử gia, trong cuộc mưu sát, Caesar chống lại sự tấn công của các sát thủ; nhưng khi thấy Brutus với con dao trong tay, ông lặng trân! Kéo áo qua mặt, Caesar để lại một lời bất hủ, “Cả ngươi nữa, Brutus, con ta?”.

Kính thưa Anh Chị em,

Trải nghiệm của Julius Caesar 44 năm trước Chúa Giêsu cũng là trải nghiệm của chính Ngài. Vậy mà Chúa Giêsu vẫn yêu đến cùng, bất chấp các môn đệ của Ngài ‘phản bội!’ hay ‘trung thành’.

Bối cảnh Tin Mừng hôm nay là bữa Tiệc Ly; qua đó, Chúa Giêsu cho biết một trong các môn đệ sẽ phản Ngài. Biết trước điều đó, lẽ ra, Chúa Giêsu không để con người này đến gần; không, Ngài vẫn tỏ ra yêu thương, trìu mến. Ngài “trao bánh” cho Giuđa, một cử chỉ thân ái của người đang yêu, kèm theo một lời Thánh Kinh gợi ý bóng bẩy, “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con”; may ra nhờ đó, Giuđa suy nghĩ lại. Ngài mở rộng tình bạn cho Giuđa đúng vào lúc ông đang mưu phản. Tình yêu thuỷ chung của Chúa Giêsu bền bỉ đến cùng, đến tận thập giá, đến tận phục sinh! Khi Ngài tắt hơi, trừ một mình Gioan, không môn đệ nào có mặt; vậy mà sau khi sống lại, Ngài không hề nhắc đến sự bất tín của một ai. Chúa Giêsu thấu hiểu, tha thứ; và với họ, tiếp tục đồng hành.

Phaolô cũng đã rao giảng một Thiên Chúa trung thành, Đấng đã chọn Israel, giải thoát và chịu đựng nó. Thiên Chúa trung thành với giao ước Ngài đã lập; đặc biệt, lời hứa với Đavít, “Từ dòng dõi vua này, theo lời hứa, Thiên Chúa đã đưa đến cho Israel một Đấng Cứu Độ là Đức Giêsu!” – bài đọc một.

“Cả ngươi nữa, Brutus, con ta?”, lời của một trái tim tan nát; “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con!”, lời của một tâm hồn vỡ vụn! Đó là gót của một trong những môn đệ mà Ngài đã thức suốt đêm để cầu nguyện và chọn ra; một môn đệ đã ba năm gần gũi Thầy, nghe bao điều, thấy bao dấu lạ, vậy mà vẫn đang tâm phản bội. Dẫu thế, Chúa Giêsu vẫn một lòng yêu; và có thể nói, Ngài đeo bám Giuđa để yêu; “Nếu ta không trung tín, Ngài vẫn một lòng trung tín, vì Ngài không thể chối bỏ chính mình!” – Phaolô.

Anh Chị em,

“Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con!”. Trung tín là bản chất của Thiên Chúa, và bất tín ‘xem ra’ là bản chất của con người! Vậy mà, với Thiên Chúa, con người ‘trung thành’ hay ‘phản bội’ xem ra không thành vấn đề; vì lẽ, Thiên Chúa là Đấng tuyệt đối trung thành và sự trung thành của Ngài chính là tình yêu Ngài dành cho mọi người. Chớ gì bạn và tôi đừng phản bội; phản bội thiên chức, phản bội lời khấn, phản bội lời thề! Để từ đó, trở nên những sứ giả nói cho thế giới rằng, “Nhân loại này đang có một Đấng tuyệt đối yêu thương, tuyệt đối trung thành, trung thành đời đời!”; “Lạy Chúa, tình thương Chúa, đời đời con ca tụng!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ranh giới giữa ‘trung thành’ và ‘phản bội’ thật mong manh. Giúp con trung tín với Chúa từng ngày, hầu con có thể tín trung với những ai con cam kết!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBang Nguyen

*****************************************************

Thứ Năm Tuần IV Phục Sinh

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.

16 Sau khi rửa chân cho các môn đệ, Đức Giê-su nói: “Thật, Thầy bảo thật anh em: tôi tớ không lớn hơn chủ nhà, kẻ được sai đi không lớn hơn người sai đi. 17 Anh em đã biết những điều đó, nếu anh em thực hành, thì thật phúc cho anh em! 18 Thầy không nói về tất cả anh em đâu. Chính Thầy biết những người Thầy đã chọn, nhưng phải ứng nghiệm lời Kinh Thánh sau đây: Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con. 19 Thầy nói với anh em điều đó ngay từ lúc này, trước khi sự việc xảy ra, để khi sự việc xảy ra, anh em tin là Thầy Hằng Hữu. 20 Thật, Thầy bảo thật anh em: ai đón tiếp người Thầy sai đến là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Đấng đã sai Thầy.”


 

NGUYÊN NHÂN CÔNG AN TỈNH LONG AN TRUY BỨC THIỀN AM

Việt Tân 

– Luật sư Mạnh Đăng-

Tôi đã nhiều lần bắt gặp câu hỏi rằng “Tại sao Thiền Am lại bị công an Long An truy bức đến mức độ như vậy?”. Vì thật khó hiểu khi Thiền Am chỉ là một cơ sở tu tại gia và một số thành viên có hoạt động văn nghệ giải trí cho công chúng mà thôi…

Thật ra, chỉ những ai đã từng quan tâm theo dõi đến các hoạt động của Thiền Am, từ cách họ mưu sinh bằng tài năng văn nghệ của mình, cũng như cách họ vụng về đối phó với những thị phi ập đến… mới có thể có câu trả lời đúng đắn và đầy đủ. Vì lẽ, nguyên nhân của sự việc đã trải dài theo nhiều năm.

Qua đó, theo nhận xét của tôi, có 6 nguyên nhân chính khiến cho Thiền Am bị truy bức:

– Sự nổi tiếng của Thiền Am, một cơ sở tu hành từ chối sự quản lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam tiềm ẩn thách thức an ninh đối với chính quyền địa phương;

– Thiền Am từ chối cộng tác với Thích Nhật Từ và từ chối vào Giáo hội Phật Giáo Việt Nam khiến cho Thích Nhật Từ tố cáo trả đũa;

– Công an trả đũa vụ tai tiếng hối lộ 300 triệu bất thành làm mất uy tín ngành công an tại địa phương;

– Công an che dấu tội phạm trong vụ 50 côn đồ xâm nhập vào Thiền Am để hành hung người, đập phá, trộm cắp tài sản;

– Công an che dấu sự lạm quyền trong việc cưỡngbức đưa cô Bùi Ngọc Trâm đi khám phụ khoa;

– Công an che dấu sự lạm quyền khi bắt cóc cô Diễm My, một phụ nữ đã thành niên trái với ý muốn của cô ấy;

Cụ thể như sau:

  1. Đánh giá an ninh mang tính truyền thống của chế độ vốn không cho phép cá nhân, tổ chức được phép tồn tại nếu nổi tiếng và có khả năng hiệu triệu được công chúng. Cho dù hoạt động của các cá nhân, tổ chức đó không liên quan gì đến chính trị cả.

Sự tiềm ẩn về thách thức an ninh đối với chính quyền phải được triệt tiêu từ trong trứng nước.

Thiền Am đã trở nên rất nổi tiếng ở trong nước và nhất là ở ngoài nước, với những sản phảm video thu hút đến hàng chục vạn, thậm chí hàng triệu lượt xem và theo dõi đã vô tình trở thành mối tiềm ẩn về thách thức an ninh đối với chính quyền địa phương. Để triệt tiêu sự thách thức này, họ truy bức Thiền Am.

  1. Thiền Am đã thẳng thừng từ chối 2 lời mời của Thích Nhật Từ, trụ trì chùa Giác Ngộ và là một chức sắc thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam, gồm:

– Sau những thành công của Thiền Am qua việc đoạt các giải thưởng cao trong game show truyền hình và trên trang mạng xã hội, Thích Nhật Từ đã mời Thiền Am cộng tác để cùng tham gia vào các hoạt động kinh doanh của chùa Giác Ngộ do Thích Nhật Từ trụ trì. Nhưng Thiền Am đã từ chối.

– Thích Nhật Từ cũng mời Thiền Am tham gia vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Nhưng Thiền Am cũng từ chối. Theo lời ông cụ Lê Tùng Vân: “Vì Giáo hội Phật Giáo Việt Nam không xứng đáng để tôi tham gia”!.

Sĩ diện, “Ăn không được thì đạp đổ”, Thích Nhật Từ đã trả đũa bằng cách trở mặt, liên tục xúc phạm, bôi nhọ, đặt điều gây tổn hại đến thanh danh của Thiền Am trong một thời gian dài. Sau khi Thiền Am khiếu nại, tố cáo không được giải quyết, đã có lời xúc phạm trả đũa liền bị Thích Nhật Từ tố cáo yêu cầu công an xử lý.

Sự tố cáo của Thích Nhật Từ phù hợp với ý đồ của Công an tỉnh Long An, do đó, họ đã truy bức Thiền Am.

  1. Công an địa phương đã đòi hối lộ 300 triệu đồng để làm chứng minh nhân dân cho một số thành viên của Thiền Am. Sự việc bị tố cáo khiến cho công an mất mặt, mất uy tín.

Để trả đũa, họ truy bức Thiền Am.

  1. Như chính Võ Văn Thắng thừa nhận, với sự gợi ý của công an địa phương, Võ Văn Thắng đã huy động 50 tên côn đồ tự tiện xâm nhập vào Thiền Am, hành hung người gây thương tích, trộm cướp, đập phá tài sản… Tất cả đều có clip ghi ảnh, ghi hình đầy đủ.

Dù Thiền Am đã tố cáo, nhưng công an tỉnh Long An đã làm ngơ, không điều tra, không khởi tố vụ án với lý do đã làm mất hồ sơ và chứng cứ vụ án.

Để chạy tội cho 50 tên tội phạm và để che dấu sự bao che tội phạm của chính mình, họ truy bức Thiền Am.

  1. Cô Bùi Ngọc Trâm là một nữ tu tại Thiền Am và chưa từng lập gia đình. Cô ấy tố cáo luật sư Trần Quốc Dũ có phát ngôn trên mạng xã hội xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm.

Đổi lại, công an địa phương cưỡng chế đưa cô ấy đi khám phụ khoa để chứng minh lời luật sư Trần Quốc Dũ xúc phạm cô Trâm là đúng. Như là cách để cứu ông Dũ!

Từ tư cách người tố cáo, cô Bùi Ngọc Trâm bị công an tỉnh Long An ngang nhiên xúc phạm thân thể, danh dự. Cho dù sau đó luật sư Trần Quốc Dũ đã thừa nhận lỗi của mình.

Để che đậy cho sự lạm quyền của mình, họ truy bức Thiền Am.

  1. Cô Diễm My là một thiếu nữ đã thành niên. Cô ấy có toàn quyền quyết định chọn nơi cư trú ở nhà cha mẹ hoặc ở Thiền Am mà cô ấy mong muốn.

Nhưng Công an địa phương đã lừa gạt, dùng xe cứu thương đưa cô ấy về giao cho cha mẹ.

Do Thiền Am không biết sự lừa gạt này nên đã có phát ngôn cho rằng công an bắt cóc Diễm My là có lý do và hoàn toàn bình thường.

Để che đậy hành vi lừa gạt, bắt cóc một thiếu nữ đã thành niên trái với ý muốn của cô ấy và trả đũa phát ngôn “công an bắt cóc người”, họ truy bức Thiền Am.

KẾT LUẬN :

Truy bức Thiền Am là cách công an tỉnh Long An trả đũa và đang tự cứu lấy mình để: Che dấu các hành vi lạm quyền cùng các hành vi che dấu tội phạm của chính công an tỉnh.

Trong một xã hội bất công, lực lượng công an thay vì là giải pháp lại trở thành nguồn gốc gây ra bất công. Nó khiến cho mọi quan hệ xã hội trở nên méo mó. Theo đó, thì ngay cả việc dân lành chọn cách sống lương thiện cũng trở thành khó khăn.

Manh Dang

——-///——-

Ảnh: Đại tá Văn Công Minh, Phó Giám đốc công an tỉnh, người chủ trương xóa sổ Thiền Am


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Vợ Tù

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

15/05/2025

The Catcher in the Rye xuất bản năm 1951, khi tôi chưa kịp mở mắt chào đời. Tuy hai phần ba thế kỷ đã qua, và tôi cũng sắp sửa từ giã cõi trần (tới nơi rồi) nhưng vẫn chưa bao giờ tìm đọc nguyên văn tác phẩm này của J.D Salinger cả.

Lý do, giản dị, chỉ vì tôi đã đọc Bắt Trẻ Đồng Xanh (Thanh Hiên xb 1967) của Phùng Khánh tự lâu rồi. Dịch giả hẳn là phải thông thạo Anh ngữ lắm nên bản tiếng Việt vô cùng gẫy gọn, trong sáng (và cũng rất tài hoa) khiến tôi sợ rằng đọc nguyên tác chưa chắc đã thích bằng. Nó hay đến độ mà nhà văn Võ Phiến cũng có một tạp luận) cùng tên (“Bắt Trẻ Đồng Xanh”) vì ông đã mượn tựa từ bản dịch của ni sư Thích Nữ Trí Hải.

Bài viết này xuất hiện lần đầu trên tạp chí Bách Khoa – phát hành từ Sài Gòn, vào tháng 10 năm 1968 – và đến nay vẫn còn được độc giả quan tâm, dù hơn nửa thế kỷ đã qua. Một trong những vấn đề được tác giả đề cập đến là số phận bi đát của những người phụ nữ miền Nam, có chồng (và mất chồng) chỉ trong vài hôm – hoặc vài tuần – sau Hiệp Định Genève :

“Cuộc chiến này xuất hiện ngay từ những cuộc liên hoan chia tay giữa kẻ ở người đi trong thời hạn 300 ngày tập kết, những cuộc liên hoan có hát có múa, có bánh trái tiệc tùng… Nó xuất hiện ngay từ những đám cưới vội vã sau ngày đình chiến, những đám cưới lắm khi tổ chức tập thể, do trưởng cơ quan, trưởng đơn vị chủ tọa. Nạn nhân đầu tiên của cuộc chiến này không phải là những kẻ ngã gục vào 1958, 1959, mà là những cô gái tức khắc biến thành góa bụa từ 1954.”

Sáu năm sau Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam được thành lập, vào hôm 20 tháng 12 năm 1960, tại huyện Châu Thành – tỉnh Tây Ninh. Tuy được “dựng” lên ở miền Nam  nhưng phần lớn cán binh (và tử sĩ) lại là người miền Bắc, theo ghi nhận của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện:

Trại lính, trại tù, người đi không ngớt 

Người về thưa thớt dăm ba 

Trẻ con đói, xanh như tàu lá 

Cày bừa phụ nữ đảm đang

Chốn thôn trang vắng bóng trai làng 

Giấy báo tử rơi đầy mái rạ! (“Đất Này Chẳng Có Niềm Vui1965)

Mười năm sau năm nữa (năm1975) thì chiến tranh chấm dứt. Tuy hòa bình đến nhưng trại lính, trại tù, người (vẫn) đi không ngớt. Bọn trẻ thì đi thi hành nghĩa vụ quốc tế (giải phóng nước bạn Cambodia), còn lớp già (thuộc phe thua trận) thì đi … học tập cải tạo.

Dù được bên thắng cuộc hứa hẹn là thời gian “thụ huấn” chỉ vài tuần thôi nhưng thực tế thì người về thưa thớt dăm ba, và không ít kẻ đã ra đi vĩnh viễn, để lại vô số những vành khăn tang trên đầu cô phụ (vào giữa thời bình) mà chả hề có một tờ thư hay mảnh giấy báo tử nào ráo trọi.

Nếu còn sống sót, kẻ thất trận cuối cùng cũng đã rời trại tù vào những năm đầu của thập niên 1990, sau gần 20 năm bị giam cầm. Hơn một phần tư thế kỷ đã qua. Tù nhân chính trị ở Việt Nam hiện nay đều thuộc vào lớp người mới, với tên gọi mới: tù nhân lương tâm – TNLT.

Hôm 22 tháng 6 năm 2021, VOA cho biết:

“Theo báo cáo mới được đưa ra của VNHR, ít nhất 46 người đã bị bắt giữ và truy tố tính đến ngày 31/5 vì vi phạm Bộ luật Hình sự 2015 sau khi ‘bày tỏ quan điểm chính trị của họ thông qua mạng xã hội’, một cáo buộc mà các nhà chức trách gọi là ‘chống phá nhà nước’. Nhóm nhân quyền ở California cho biết rằng những người khác bị bắt trong năm qua bao gồm các nhà hoạt động chính trị, nhà báo độc lập và những người khiếu kiện về quyền đất đai.”

Ngày 15 tháng 7 năm 2022, bỉnh bút Nguyễn Văn Lung (Tạp Chí Luật Khoa) cập nhật thêm vài ba dữ kiện :

“Trong nửa đầu năm 2022, đã có 16 người bị bắt liên quan đến những vấn đề như quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí hay quyền tự do hoạt động hội nhóm… Con số bị bắt đó tương đương với các năm trước, khi mà cả năm 2021 và 2020 đều có 39 người bị bắt vì những vấn đề nhân quyền. Hiện tượng này có thể gọi là ‘đàn áp một cách ổn định’. Những con số đáng buồn cho thấy không có tiến triển gì trong việc cải thiện tình hình nhân quyền trong nước.

Tuy tuyệt nhiên “không có tiến triển gì trong việc cải thiện tình hình nhân quyền trong nước” nhưng đã có sự thay đổi lớn lao (và khá bất ngờ) nơi thái độ của không ít nạn nhân. Phụ nữ Việt Nam hiện nay không còn chịu nín lặng trong cảnh góa bụa, ngay sau ngày cưới, như lúc đình chiến 1954. Họ cũng không cắn răng và nuốt nước mắt, trước cảnh gia đình tan nát (chỉ vì chả may thuộc bên thua cuộc) như sau Đại Thắng Mùa Xuân 1975 nữa.

Những người vợ tù bây giờ đã cùng chồng tích cực nhận lãnh vai trò “tác nhân,” thay vì chỉ nhẫn nhục “cam chịu lịch sử” như lớp người đi trước, dù họ vẫn bị đe dọa và sách nhiễu thường xuyên:

Công an Thanh Hóa dọa bắt luôn vợ Bùi Văn Thuận

Vợ TNLT Trương Minh Đức bị câu lưu, tước hộ chiếu

Ông Trịnh Bá Phương bị ép cung: “Không nhận tội vợ sẽ bị bắt”

Vợ nhà báo Lê Trọng Hùng bị từ chối thăm gặp chồng

Công an Hà Nội gây khó dễ việc tiếp tế cho nhà hoạt động Trương Văn Dũng đang bị tạm giam

Gia đình tù nhân lương tâm Nguyễn Văn Túc bị nhiều công an bao vây

Gia đình tù nhân lương tâm khiếu nại việc đối xử thô bạo, nhục mạ bởi quản giáo

Thân nhân đi thăm tù bị đánh đập

Chính sách thô bạo và ti tiện cố hữu của nhà đương cuộc Hà Nội, xem ra, không có chút tác dụng nào đáng kể. Phản ứng và cách hành xử của những người vợ tù hiện nay, thế hệ sinh trưởng trong lòng cách mạng, đã hoàn toàn khác trước.

Xin ghi lại dăm ba trường hợp, theo thứ tự abc, để rộng đường dư luận :

Bùi Huệ, phu nhân của TNLT Dũng Vova: “Đến nay Vova được sự ủng hộ và quý mến của không ít các bà con, anh em cùng lý tưởng. Nó giống như vị ngọt của cà phê đã trải qua cái đắng.”

Đỗ Lê Na, phu nhân của TNLT Lê Trọng Hùng: “Tôi cũng muốn cho người dân ở trong nước, đặc biệt là những gia đình đấu tranh, một số gia đình thì cũng còn e ngại trong việc người thân của mình bị bắt bớ, có những gia đình không dám thẳng thắn lên tiếng, thì tôi muốn qua cái câu chuyện của gia đình mình để cho mọi người biết rằng là cái quyền lên tiếng để chống lại áp bức bất công – đó là quyền của mỗi người, và nếu chúng ta làm đúng thì chúng ta sẽ không có gì phải sợ hãi họ cả.”

Trịnh Nhung, phu nhân của TNLT Bùi Văn Thuận: “Cháu/em là vợ của anh Thuận, luôn tự hào về anh, ủng hộ và tin tưởng rằng anh không làm gì sai cả, nên sẽ luôn đồng hành cùng anh trên con đường khó khăn phía trước.”

Đỗ Thu, phu nhân của TNLT Trịnh Bá Phương: “Tôi đã chuẩn bị sẵn tinh thần. Tôi nghĩ họ sẽ không để yên cho tôi đâu.”

Nguyễn Thị Ánh Tuyết, hôn thê của TNLT Đỗ Nam Trung: Sau này Trung về chắc chắn chúng tôi sẽ thực hiện nốt những việc còn dang dở, mà chúng tôi đã có những dự tính cho tương lai của hai đứa. Và tôi cũng sẽ kể cho Trung nghe rất nhiều về những tháng ngày đã xa cách này, tôi đã nhớ Trung biết bao nhiêu…”

Lê Bích Vượng, phu nhân của TNLT Nguyễn Lân Thắng: “Bốn tuần. Ba mươi ngày. Một tháng. Nghe nói tóc anh bạc nhiều. Nghe nói anh gầy đi. Nghe nói anh già đi đến vài tuổi. Uh. Không sao. Mọi người luôn bên anh – Như anh đã có mặt ở những vùng đất khó khăn, những khi bão lũ, thiên tai, nhân hoạ … tàn phá.”

Không chỉ thân nhân mà bằng hữu, hàng xóm, láng giềng cũng thế. Thái độ của họ đối với những TNLT của chế độ hiện hành hoàn toàn đã khác. Hình ảnh, biểu ngữ, cùng những bó hoa rực rỡ và bia bọt tràn lan khi mọi người chào đón Phạm Thanh Nghiên, Cấn Thị Thêu, Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh (như những vị anh thư hay anh hùng của thời đại) đã khiến cho cư sỹ Phạm Nguyên Trường cảm thán: “Trong nước CS mà đón tù chính trị về vui vẻ như thế này thì thời gian tồn tại của chế độ có thể kéo dài bao lâu?”

Ơ hay, cái ông này hay nhỉ? ̣Sao đã tu tại gia (và đã muốn gác bỏ chuyện thế sự ngoài tai) mà vẫn còn “bao la” thế? “Thời gian tồn tại của chế độ còn có thể kéo dài bao lâu” nữa là chuyện của “các đồng chí lãnh đạo ở trên,” chứ việc gì mình phải bận tâm!


 

Ba ‘cô tiên’ gốc Việt cứu người suýt chết trong nhà hàng ở Little Saigon

Ba’o Nguoi-Viet

May 14, 2025

Văn Lan/Người Việt

GARDEN GROVE, California (NV) – Ba cô gái Việt Nam vừa được vinh danh trong một buổi tiệc nhỏ ở nhà hàng Brodard Chateau, Garden Grove, lúc 7 giờ tối 23 Tháng Tư, vì trước đó cứu được một người suýt chết trong một buổi tiệc ở một nhà hàng khác trong vùng Little Saigon.

Cô Michelle Đỗ (bìa trái, đại diện GSV Janet Nguyễn) trao tặng bằng tưởng lục vinh danh ba “cô tiên” cứu người, từ trái, Tricia Hoàng, Jacqueline Ngọc Diễm Trần, và Vannessa Nina Rose Phạm. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Vì hành động anh hùng đó mà ba “cô tiên” Tricia Hoàng, Jacqueline Ngọc Diễm Trần, và Vannessa Nina Rose Phạm được Văn Phòng Giám Sát Viên Janet Nguyễn tuyên dương.

Tại buổi tiệc, cô Michelle Đỗ, đại diện vị dân cử gốc Việt, trao tặng bằng tưởng lục đến ba người này, và nói rằng: “Họ đã có hành động anh hùng, phản ứng nhanh chóng và vị tha trong trường hợp khẩn cấp đe dọa tính mạng người khác. Khi sự việc xảy ra, hô hấp nhân tạo (CPR) và sự hỗ trợ cần thiết của họ đã đóng vai trò quan trọng trong việc cứu sống một người. Lòng dũng cảm và lòng trắc ẩn mà bạn thể hiện phản ảnh lý tưởng cao nhất về tinh thần cộng đồng và lòng nhiệt huyết.”

Được biết, sự việc xảy ra tại nhà hàng White Palace, Westminster, hôm 15 Tháng Hai.

Cô Tricia Hoàng, y sĩ của bệnh viện UCI, nhớ lại: “Hôm đó ở nhà hàng rất đông người, rất ồn ào và náo nhiệt. Khi em đang cắt bánh sinh nhật, bỗng nhiên ông xã em chạy lại báo có một phụ nữ không được khỏe. Em chạy lại thấy người phụ nữ lúc đó còn tỉnh nhưng mặt mày phờ phạc y như người thiếu ngủ.”

“Rồi gương mặt cô ấy tái nhợt, cô không còn thở, té ngửa ra bất tỉnh kéo em té theo. Em đỡ cô ấy lên làm CPR (bằng miệng). Trong khi đó, cô Jacqueline Ngọc Diễm Trần, cũng là y sĩ, chạy tới làm phương pháp đập ngực để giúp tim bệnh nhân có nhịp đập trở lại. Khoảng hơn 5 phút sau, cô ấy bắt đầu thở lại được. Tiếp đến, cô Vannessa Nina Rose Phạm chạy tới nâng đầu cô ấy qua một bên, và cô ta nôn mửa lên người Nina. Mấy phút sau, xe cấp cứu tới chở cô ấy đi bệnh viện,” cô Tricia kể tiếp.

Cô Liên Nguyễn (ngồi, thứ hai từ phải), em cô Vân Nguyễn, đại diện chị ngỏ lời cám ơn ba “cô tiên” đã cứu sống chị cô. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Theo cô Tricia, “có thể cô ấy bị nhồi máu cơ tim, hoặc là gì khác nữa chăng, có nhiều nguyên nhân lắm. Ngay lúc nguy cấp đó em chỉ biết cứu người thôi. Nếu mình biết cách cứu chữa thì nên làm. Là người trong ngành y thấy người sắp chết không thể không cứu.”

Trong khi đó, cô Jacqueline Ngọc Diễm Trần, cũng là một y sĩ lâu năm, cộng tác với Trung Tâm Y Tế Michael Đào tám năm nay, cho biết khi cô chạy đến, bệnh nhân đã bất tỉnh, mặt tái ngắt và không còn hơi thở.

Cô tiếp: “Tricia đỡ cô ấy nằm xuống đất làm hô hấp nhân tạo, và em thăm dò coi mạch máu ở cổ còn đập hay không. Khi không thấy nhịp đập thì Tricia làm CPR, còn em kích thích nhịp tim bằng CPR, ấn lòng ngực nhiều lần để hồi sức tim phổi, kết hợp giữa ép tim trong lồng ngực và thông khí nhân tạo.”

“Sau đó, bệnh nhân có hơi thở trở lại nhưng rất yếu, tụi em ngưng làm CPR, lay cho đến khi cô mở mắt ra thì nạn nhân buồn nôn, phải đặt cô ấy nằm nghiêng một bên đề phòng khi ói không chảy ngược vào cuống phổi. Cô ấy ói rất nhiều, vài phút sau là xe cấp cứu tới đưa nạn nhân đi nhà thương,” cô Jacqueline Ngọc Diễm Trần kể.

Cô Jacqueline kể thêm: “Trường hợp này cho thấy triệu chứng của người bị nhồi máu cơ tim. Ví dụ như không còn hơi thở, không còn nhịp tim, mặt tái lại, nếu để nạn nhân nằm yên không can thiệp kịp thời thì nguy cơ tử vong rất cao vì não không có oxy. Nếu có cứu được thì não cũng bị tổn thương, tuy sống sót nhưng có thể bị đột quỵ, nếu chúng em không có ở đó, có thể chuyện không hay đã xảy ra.”

Nhóm bạn và đồng nghiệp của ba “cô tiên” cứu người, trong buổi tiệc mừng vinh danh. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Cô Vannessa Nina Rose Phạm, Hoa Hậu Nhân Ái California, cũng có mặt trong giây phút cấp cứu người bị nạn.

Cô cho hay cô cũng là y tá ở San Jose, California. Trong phút giây nguy cấp, cứu người là hành động tức khắc, chậm một giây phút nào là nguy đến tính mạng ngay lập tức.

Tại buổi tiệc, cô Vân Nguyễn, người bị ngưng tim trong tiệc sinh nhật hai tháng trước đã được cứu thoát trong gang tấc, vì bận việc không đến dự được, nên cô Liên Nguyễn là em của cô Vân, thay mặt chị ngỏ lời cám ơn ba “cô tiên” trong đời thường, đã kịp thời cứu chị cô qua cơn nguy hiểm.

Cô Michelle Đỗ cho hay hành động nhanh chóng, phản ứng kịp thời của ba cô này để cứu người đang cơn nguy cấp đến tính mạng rất đáng ca ngợi, vì không phải ai biết CPR cũng có thể làm với phản xạ cấp kỳ như vậy được.

Cô tiếp: “Văn Phòng Giám Sát Viên Janet Nguyễn khuyến khích mọi người nên biết đến phương pháp CPR này, ít nhất là trong gia đình để khi gặp trường hợp khẩn cấp có thể hành động nhanh được, cứu sống một mạng người rất quan trọng, mọi người nên để ý đến.” [đ.d.]


 

Nguy cơ vỡ nợ : Liệu Mỹ có lặp lại lịch sử năm 1933 ?

RFI

Ngày 10/05/2025, bộ trưởng Tài Chính Scott Bessent cảnh báo Mỹ có nguy cơ sẽ không còn khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính vào tháng 8 nếu không đình chỉ hoặc nâng trần nợ công. Trong thư ngỏ gởi đến chủ tịch Hạ Viện Mike Johnson, ông kêu gọi Quốc Hội sớm hành động nhằm « duy trì mức độ tin cậy và lòng tin » của cộng đồng quốc tế và các chủ nợ đối với Hoa Kỳ.

Đăng ngày: 14/05/2025 

Ảnh minh họa: Tờ một đô la Mỹ.

Ảnh minh họa: Tờ một đô la Mỹ. AFP – ANDY JACOBSOHN

Minh Anh

Lời kêu gọi này được ông Bessent đưa ra vào lúc Quốc Hội Mỹ đang thảo luận về việc điều chỉnh trần nợ, hiện đã ở mức 36.000 tỷ đô la – một giới hạn đã được Quốc Hội phê duyệt và đã bị vượt quá từ tháng Giêng năm 2025. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như Hoa Kỳ thực sự mất khả năng huy động thanh khoản ? Câu chuyện Mỹ bị vỡ nợ và đơn phương tái cấu trúc nợ năm 1933 vẫn còn ám ảnh giới chuyên gia cho đến ngày nay.

Vỡ nợ công là gì ?

Giáo sư Charbel Cordahi, chuyên ngành Tài Chính và Kinh tế, Trường Quản trị Kinh doanh Grenoble, trên trang The Conversation (07/05/2025) trước hết giải thích, vỡ nợ công diễn ra khi một quốc gia không thực hiện được mọi nghĩa vụ tài chính, bao gồm cả việc trả lãi cho các chủ nợ. Một trong nhiều lý do chính yếu khiến một nước vỡ nợ là do tình trạng trì trệ kinh tế kinh niên, được đặc trưng bởi tăng trưởng thấp, thâm hụt ngân sách liên tục và mất cân đối cơ cấu trong tài khoản vãng lai cũng như là mức độ mắc nợ quá mức.  

Việc « phớt lờ » các dấu hiệu cảnh báo là yếu tố « quyết định » dẫn đến việc mất khả năng thanh toán, chẳng hạn như một chính sách tiền tệ nới lỏng nhằm thúc đẩy mở rộng tiền tệ và giảm nhẹ gánh nặng nợ thông qua lạm phát hay giảm giá đồng nội tệ. Những lập luận ủng hộ cho việc vỡ nợ thường được dựa trên việc giảm bớt gánh nặng nợ nần, giảm dòng chảy vốn ra bên ngoài, bảo toàn dự trữ ngoại hối cũng như là nhu cầu đàm phán lại nợ.

Chuyện gì đã xảy ra giai đoạn 1840-1842 ?

Giai đoạn 1840 – 1842 đánh dấu một trong những sự sụp đổ ấn tượng nhất và bất ngờ nhất trong lịch sử nước Mỹ : 19 trong số 26 bang rơi vào tình trạng vỡ nợ. Nguyên nhân là do chi phí xây dựng kênh đào quá cao dẫn đến việc chồng chất nợ quá mức. Trong những năm 1830, nhiều bang Mỹ ký các khoản vay nợ để tài trợ các dự án hạ tầng và xây dựng kênh đào, thiết yếu cho sự phát triển kinh tế. Các dự án này chủ yếu được tài trợ thông qua việc phát hành trái phiếu Nhà nước. 

Một thế kỷ sau, trong suốt năm 1933, chính phủ Mỹ từ chối trả niên kim vàng nợ cho Panama theo hiệp ước 1903, tiểu bang Arkansas vỡ nợ và chế độ bản vị vàng bị tân tổng thống Franklin Roosevelt đình chỉ.

Sập sàn chứng khoán 1929 : Điểm xuất phát cho cuộc Đại Suy Thoái ?

Giới kinh tế gia thường coi vụ sập sàn chứng khoán Thứ Năm Đen Tối, xảy ra ngày 24/10/1929 như là điểm xuất phát cho cuộc Đại Suy Thoái Mỹ. Vào lúc đỉnh điểm, năm 1933, một phần tư dân số Mỹ trong độ tuổi lao động, tức khoảng 12,83 triệu người, bị thất nghiệp. Thu nhập của những lao động may mắn giữ được việc làm sụt giảm đến 42,5% trong giai đoạn 1929 – 1933. Tình trạng « đình lạm » đã xẩy ra, một hiện tượng hiếm gặp mà ở đó, đình trệ kinh tế diễn ra vào lúc lạm phát tăng cao.

Từ bỏ chế độ bản vị vàng

Trang mạng Le Temps (16/08/2018) nhắc lại rằng khi chính thức nhậm chức ngày 04/03/1933, tổng thống Franklin D. Roosevelt còn phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng ngân hàng gay gắt đến mức ông phải ra lệnh đóng cửa các ngân hàng nhiều ngày. Nguyên nhân : đồng đô la được bảo đảm bằng vàng. Do đô la mất giá, người dân chuyển đổi đô la thành vàng, dự trữ vàng của ngân hàng sụt giảm mạnh.

Vào thời điểm đó, vàng còn có một vai trò chủ chốt khác. Hầu hết các hợp đồng nợ, tư nhân và nhà nước, đều có điều khoản vàng, quy định trả nợ bằng vàng để bảo vệ nhà đầu tư trước nguy cơ đồng đô la trượt giá. Điều khoản này có liên quan đến một khoản nợ đáng kể, 120 tỷ đô la, tức chiếm đến 180% GDP nước Mỹ.

Để ngăn chặn tình trạng thất thoát kim loại quý này và bình ổn nền kinh tế quốc gia, tháng 4/1933, chính phủ Mỹ đã đình chỉ khả năng chuyển đổi của đồng đô la, đồng thời cấm những người nắm giữ đô la, bất kể là Mỹ hay nước ngoài, đổi tiền thành vàng. Biện pháp này đặt dấu chấm hết cho chế độ bản vị vàng, một hệ thống tiền tệ có hiệu lực từ năm 1879, theo đó, tiền tệ được bảo đảm bằng vàng.

Cùng lúc, tổng thống Roosevelt ra lệnh đổi tất cả các đồng tiền vàng và chứng chỉ vàng có giá trị hơn 100 đô la sang các loại tiền tệ khác. Ông bắt buộc tất cả những ai trữ đồng tiền vàng, thỏi vàng và chứng chỉ vàng phải « bán » cho Cục Dự trữ Liên bang trước ngày 01/05, với mức giá ấn định là 20,67 đô la/ounce. Đến ngày 10/05/1933, chính phủ Mỹ thu được 300 triệu đô la tiền vàng và 470 triệu đô la chứng chỉ vàng.

Trang Le Temps cho biết thêm, đến ngày 05/06/1933, Quốc Hội Mỹ hủy tất cả các điều khoản vàng của các hợp đồng có hiệu lực hồi tố, bao gồm cả những hợp đồng có liên quan đến chủ nợ nước ngoài. Một đòn sét đánh tại một nước được biết đến vì sự tôn trọng các cam kết của mình. Ngày 31/01/1934, tổng thống Roosevelt cho giảm giá đồng đô la đến 69% khi định giá vàng ở mức 35 đô la.

Những quyết định trên đã dẫn đến một cuộc chiến pháp lý giữa các nhà đầu tư với chính quyền Roosevelt, và làm dấy lên những chỉ trích cho đấy là « một hành vi vi phạm hợp đồng và chuyển giao tài sản từ chủ nợ sang con nợ », một quyết định « vi hiến »…

Mỹ « phủi » một phần nợ đối với Panama

Theo Charbel Cordahi, chính sách tái cấu trúc nợ đơn phương bằng vàng của Mỹ năm 1933, tuy phần nào đã làm giảm mạnh gánh nặng nợ của Mỹ, cho phép phục hồi nền kinh tế, nhưng cũng đã dẫn đến tình trạng vỡ nợ đối với Panama.

Quyết định của Mỹ hủy các điều khoản trả nợ bằng vàng đã làm cho những khoản nợ vay với Panama bị mất giá đến 41%. Chính phủ Mỹ từ chối thanh toán vào ngày đáo hạn bằng đồng vàng balboa, loại tiền tệ được định giá theo vàng và được sử dụng làm biểu tượng cho tiền tệ quốc gia Panama.

Việc bác bỏ một phần nợ đối với Panama đã gây ra những căng thẳng chính trị chưa từng có giữa hai nước. Phải đợi đến năm 1936, chính quyền Mỹ mới thực sự trả số tiền đã thỏa thuận bằng đồng vàng balboa.

Bang Arkansas mất khả năng thanh khoản

Trong cùng năm 1933, ngoài hai vụ vỡ nợ trên, còn xảy ra việc bang Arkansas mất khả năng thanh toán. Bang này, bị tác động mạnh bởi cuộc Đại Suy Thoái, đã không thể thanh toán các trái phiếu hạ tầng mà chính quyền bang Arkansas phát hành trong những năm 1920 để tài trợ cho các dự án xây đường cao tốc, được bảo đảm bằng nguồn thu thuế đất.

Tuy nhiên, nguồn thu thuế sụt giảm mạnh, kết hợp với khoản nợ ngày càng lớn đối với các ngân hàng của phố Wall khiến việc trả nợ trở nên bất khả thi. Ngay từ năm 1932, chính quyền bang không còn khả năng thanh toán khoản nợ gồm cả gốc lẫn lãi là 11 triệu đô la. Các nỗ lực của chính quyền bang như tái cấu trúc nợ, hay hợp nhất trái phiếu thành một đợt phát hành mới duy nhất đều bị phản bác.

Trong tình thế này, chính quyền Arkansas phải đình chỉ trả tiền nợ gốc và lãi đối với hàng triệu đô la trái phiếu. Và Arkansas trở thành bang duy nhất ở Mỹ bị vỡ nợ trong suốt cuộc khủng hoảng kinh tế của những năm 1930. Chỉ đến cuối thập niên 1930, bang này mới có thể quay trở lại thị trường tín dụng nhưng phải chịu các điều kiện ràng buộc hơn nhiều như phải tăng thuế và từ bỏ một phần quyền kiểm soát các nguồn thu từ đường cao tốc được dùng để trả nợ.

Liệu lịch sử có tái diễn ?

Dự phóng tương lai là một việc làm tế nhị và việc để vỡ nợ luôn phải trả giá. Trong trường hợp của Mỹ, việc mất khả năng thanh toán có thể làm dấy lên nghi ngờ về vị thế trụ cột của đồng đô la trong hệ thống tiền tệ quốc tế. Nhiều nước đã bắt đầu nghĩ đến nguy cơ vỡ nợ có chọn lọc đối với nợ của Mỹ. Hiện tượng này sẽ xảy ra khi một Nhà nước quyết định chọn không thanh toán một số khoản nợ trong khi vẫn tiếp tục trả các khoản nợ khác. Chiến lược này cho phép giảm nợ mà vẫn duy trì được niềm tin đối với các nhà đầu tư.

Giáo sư Charbel Cordahi kết luận : Chỉ có thời gian mới có thể trả lời…

(Nguồn The Conversation, Le Temps)


 

44 năm sau vụ ám sát Đức Gioan Phaolô II – Một bài học tha thứ vượt thời gian

Thao Teresa 

Một câu chuyện đẹp về tha thứ.

Ngày 13 tháng 5 năm 1981 – Ngày viên đạn không giết được đức tin

Hôm nay, ngày 13 tháng 5 năm 2025, chúng ta tưởng niệm một biến cố chấn động thế giới Công giáo: vụ ám sát Đức Gioan Phaolô II tại Quảng trường Thánh Phêrô. Vào một buổi chiều tháng Năm cách đây đúng 44 năm, ngài bị bắn hai phát súng bởi một phần tử cực đoan khi đang đứng trên xe chào đón các tín hữu. Viên đạn xuyên qua bụng, máu chảy lênh láng, nhưng điều không ai ngờ: ngài đã sống sót.

Giữa ranh giới của sự sống và cái chết, ngài vẫn nói lời tha thứ với người ám sát mình.

Với giọng nói yếu ớt được ghi lại từ giường bệnh, ngài nói: “Tôi cầu nguyện cho người anh em đã nổ súng vào tôi, người mà tôi đã thật lòng tha thứ. Hiệp nhất với Đức Kitô, Vị Linh mục và Lễ vật, tôi dâng những đau khổ của mình cho Giáo hội và cho thế giới.” (Vatican News)

Lời ấy không phải là một cử chỉ mang tính biểu tượng. Hai năm sau, chính ngài đã bước vào phòng giam, đối diện với Mehmet Ali Ağca – kẻ từng muốn lấy mạng mình – và siết chặt tay anh ta. Không một lời lên án, không một ánh mắt giận dữ. Chỉ có sự tha thứ.

Ngài tin rằng chính Đức Mẹ Fatima đã che chở cho ngài hôm đó. Viên đạn găm trong người ngài sau đó được ngài dâng lên đền thánh Fatima như một lời tạ ơn. Ngày bị bắn – 13/5 – cũng chính là ngày kỷ niệm lần hiện ra đầu tiên của Đức Mẹ tại Fatima năm 1917.

Vụ ám sát không giết chết Đức Giáo hoàng. Trái lại, nó làm nổi bật một con người sắt thép trong đức tin, nhưng dịu dàng trong tình yêu thương. Sau vụ việc, ngài không sống trong thù hận, không đóng cửa với thế giới. Ngài đi khắp năm châu, đối thoại với người trẻ, với người nghèo, với người không tin.

Trong một thế giới ngày càng dễ nổi giận và khó tha thứ, câu chuyện của ngài là một bài học cần được nhắc lại: Tha thứ không làm yếu đi công lý, mà làm sáng lên chân dung người môn đệ Đức Kitô.

Ảnh : Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II (trái) gặp gỡ Mehmet Ali Agca tại nhà tù Rebibbia, Rôma, vào ngày 27 tháng 12 năm 1983. Agca là kẻ đã ám sát hụt ngài vào ngày 13 tháng 5 năm 1981. Ảnh: ARTURO MARI/AFP/Getty Images

Ảnh cuối : Triều thiên Đức Mẹ Fatima chứa viên đạn từ vụ ám sát Đức Gioan Phaolô II.

https://phailamgi.com/…/44-nam-sau-vu-am-sat-duc-gioan…/