Chồng bắt vợ bỏ thai để dễ bề đến với người khác…- Truyen ngan HAY

Chuyện tuổi Xế ChiềuCông Tú Nguyễn

Chồng bắt vợ bỏ thai để dễ bề đến với người khác, 7 năm sau cô dắt 2 con về, khiến chồng cũ điêu đứng…

Hà Nội tháng Ba, mưa xuân như sợi tơ rơi rả rích ngoài cửa kính. Trong căn phòng chung cư cao cấp trên phố Nguyễn Chí Thanh, Ngọc đứng chết lặng, tay siết chặt tờ phiếu siêu âm.

“Con chị chưa thành hình. Bỏ sớm đi. Tôi lo toàn bộ chi phí.”

Giọng người đàn ông trước mặt lạnh lùng đến mức xa lạ. Dũng – chồng cô, người từng quỳ xuống xin cưới bằng được, giờ đây đang thẳng tay ép cô bỏ đi giọt máu của hai người.

Ngọc không tin vào tai mình. Cô cứ ngỡ Dũng sẽ hạnh phúc khi biết tin. Nhưng không, ánh mắt anh ta trốn tránh, và rồi… một lời thú nhận như nhát dao cắm sâu vào tim:

“Tôi có người khác rồi. Em ấy đang mang thai. Nếu cô giữ lại đứa bé này, sẽ rối lắm. Cô nên hiểu.”

Đêm đó, Ngọc bỏ đi. Không một tiếng gào thét. Không một giọt nước mắt. Chỉ có nhịp tim đập loạn và bước chân lao vào màn mưa, mang theo một sinh linh còn đỏ hỏn trong bụng.

Ngọc đến Sài Gòn vào một buổi chiều oi ả. Cô đổi họ tên, thuê một căn phòng trọ nhỏ ở quận Tân Bình. Dưới cái tên “Trang”, cô bắt đầu lại – một mình với bụng bầu ngày càng lớn.

7 tháng sau, Ngọc sinh đôi. Hai bé trai, giống Dũng như đúc. Cô đặt tên hai con làNamvà Minh – một người trầm lặng, một người lanh lợi, như hai mảnh của chính trái tim cô.

Cuộc sống không dễ dàng. Ngọc làm nhân viên quán cà phê, sau đó chuyển sang phụ bếp, rồi bán hàng online. Cô chưa bao giờ kể về bố của hai đứa trẻ. Trong lòng, chỉ có một điều duy nhất:

“Mẹ sẽ không để các con thiếu tình thương. Nhưng cũng sẽ không để ai làm hại các con.”

7 năm sau. Một chiều thu Hà Nội, chiếc xe taxi dừng lại ở trước cổng công ty Dũng – giờ đã là CEO một tập đoàn bất động sản nổi tiếng. Ngọc bước xuống, tóc búi cao, áo sơ mi trắng, thần thái cứng cỏi.

“Em định làm gì?” – Mai, bạn thân cô hỏi, giọng lo lắng.

“Không phải trả thù. Chỉ là… muốn cho anh ta biết, thứ anh vứt bỏ năm xưa, giờ đã lớn lắm rồi.”

Ngọc gửi hồ sơ xin vào làm trong bộ phận marketing – tất nhiên là với tên giả. Năng lực của cô nhanh chóng khiến nhiều người nể phục, và chẳng bao lâu, cô được mời làm trợ lý cho Phó Tổng – người trực tiếp báo cáo lên Dũng.

Từng bước một, Ngọc bắt đầu “giăng lưới”. Cô điều tra những hợp đồng bất minh Dũng đang cố giấu. Bằng cách tiếp cận với trợ lý tài chính, cô lần ra một dự án ma trị giá hơn 30 tỷ. Nếu bị khui ra, Dũng có thể mất ghế.

Nhưng Ngọc không vội tung đòn. Cô quan sát. Lặng lẽ gieo tin đồn trong nội bộ. Rồi “vô tình” để rò rỉ dữ liệu tài chính ra bên ngoài.

Báo chí bắt đầu đưa tin. Ban quản trị họp khẩn. Dũng – người từng ngạo nghễ như vua, nay mặt tái mét vì các cổ đông quay lưng.

Một buổi tối, khi công ty tan ca, Ngọc đứng chờ Dũng trước sảnh. Gió lạnh thổi tung tà áo dài màu xám tro. Dũng nhận ra cô, đôi mắt trợn lên:

“Là… cô?”

“Anh quên nhanh thật. Tôi tên là Trang. Còn Ngọc – người anh từng bắt phá thai, đã chết 7 năm trước rồi.”

Dũng đứng sững. Cô đưa ra tờ giấy xét nghiệm ADN của hai đứa bé – bản sao cô giữ lại, chưa từng công khai.

“Chúng là con anh. Nhưng anh không cần nhận. Vì chúng chẳng cần một người cha như anh.”

Dũng bắt đầu tìm đến trường mẫu giáo nơi hai đứa bé học. Anh lén nhìn chúng qua ô cửa kính – ánh mắt vừa tiếc nuối vừa ăn năn.

Một hôm, Minh sốt cao, nhập viện. Dũng nghe tin qua bạn cũ của Ngọc, chạy đến giữa đêm.

“Tôi xin lỗi. Là tôi sai. Tôi không xứng đáng… nhưng tôi thật sự… muốn làm gì đó cho con.”

“Anh không cần chuộc lỗi. Con tôi đã có mẹ.”

Khi Minh tỉnh lại, thấy Dũng ngồi ngủ gục bên giường, cậu bé chỉ hỏi nhỏ:

“Chú là ai ạ?”

Dũng bật khóc, không trả lời nổi.

Một tháng sau, Dũng chủ động xin từ chức. Anh chuyển sang làm giảng viên quản trị ở một trường đại học, sống kín tiếng, không tái hôn. Còn Ngọc, tiếp tục nuôi dạy con, không nhắc gì về “chú Dũng” nữa.

Một ngày, Dũng gửi đến cho cô một lá thư tay – không xin lỗi, không mong tha thứ. Chỉ là:

“Cảm ơn em đã không biến các con thành công cụ trả thù. Nhờ em, tôi biết mình từng có cơ hội làm người cha tốt – dù chỉ trong giấc mơ.”

Ngọc đọc xong, đốt lá thư. Mắt nhòe đi trong làn khói mỏng. Cô thì thầm:

“Tôi tha thứ – không phải vì anh xứng đáng, mà vì tôi muốn được bình yên.”

Năm Minh vàNamlên mười, vào một buổi tối mùa đông, khi cả nhà đang ngồi xem chương trình truyền hình,Nam– cậu anh hay suy nghĩ – đột nhiên hỏi:

“Mẹ ơi, tụi con không có ba thật sao?”

Ngọc khựng lại, đôi tay đang gọt táo run lên một nhịp. Cô nhìn ánh mắt trong veo của con, rồi khẽ gật đầu:

“Có chứ. Ba các con từng là người mẹ yêu nhất. Nhưng vì mẹ làm sai điều gì đó… nên ba không ở bên các con được nữa.”

Minh – cậu em lanh lợi – chui vào lòng mẹ, hỏi lí nhí:

“Vậy… ba có biết tụi con không?”

Ngọc hít một hơi sâu.

“Biết chứ. Và ba rất yêu các con. Chỉ là… đôi khi yêu không đủ để người ta dũng cảm.”

Hai đứa nhỏ im lặng. Chúng không hỏi thêm. Nhưng Ngọc biết, sợi dây vô hình kia vẫn âm ỉ tồn tại trong lòng chúng. Dù cô có cố gắng đến đâu, thì vai trò của một người cha – dù chỉ là sự hiện diện – vẫn là điều các con khát khao.

Mười ba năm kể từ ngày Ngọc rời khỏi Hà Nội trong đêm mưa, cô nhận được cuộc gọi từ một người xa lạ:

“Chị Ngọc phải không ạ? Tôi là sinh viên của thầy Dũng. Thầy nhập viện do đột quỵ, trong người chỉ có một bức ảnh… là ảnh chị với hai bé.”

Ngọc đi như chạy đến bệnh viện. Hai đứa trẻ – giờ đã là hai chàng trai cao lớn, cùng theo sau. Trong phòng ICU, Dũng nằm lặng lẽ, cơ thể gầy sọp, tay trái co quắp, ánh mắt mờ đục dần.

Ngọc đặt bàn tay mình lên tay anh. Như năm xưa, nhưng giờ không còn giận, không còn đau, chỉ có một cảm giác sâu thẳm của người từng yêu sâu đậm.

“Em đến rồi đây. Nhưng không phải để níu kéo. Chỉ là để anh biết… chúng ta không còn oán nhau nữa.”

Minh bước lại gần giường, nhìn người đàn ông mà mẹ từng gọi là “ba”, rồi cúi đầu khẽ nói:

“Cảm ơn chú đã cho con cơ hội sống. Dù không bên nhau, nhưng… con không ghét chú đâu.”

Dũng rơi một giọt nước mắt. Cũng là giọt cuối cùng.

Tang lễ của Dũng diễn ra lặng lẽ. Không hoa, không vòng lớn. Chỉ có vài người học trò và những đồng nghiệp cũ. Ngọc để lại cho anh một bó hoa cúc trắng và một dòng chữ viết tay:

“Anh từng là sai lầm, cũng từng là ký ức đẹp. Em tha thứ rồi, thật lòng.”

Sau lễ tang, ba mẹ con lên xe trở về Sài Gòn. Trên đường, Nam quay sang mẹ:

“Mẹ, tha thứ có khó không?”

Ngọc mỉm cười, nhìn qua kính chiếu hậu – nơi bóng Dũng mờ dần phía xa.

“Rất khó. Nhưng nếu không làm được, mình sẽ mãi bị nhốt trong quá khứ. Tha thứ… không phải vì người kia xứng đáng. Mà vì chính mình xứng đáng được tự do.”

Hai mươi năm sau.Nam trở thành luật sư. Minh là nhà thiết kế đồ họa. Trong một buổi phỏng vấn truyền hình, khi được hỏi:

“Ai là người ảnh hưởng nhất đến cuộc đời anh?”

Nam chỉ cười, rồi đáp:

“Là mẹ tôi. Người phụ nữ đã tha thứ cho một kẻ không xứng đáng – để dạy chúng tôi bài học đầu tiên về lòng nhân và sự tự do.”

Bài và ảnh sưu tầm


 

Hòa hợp, hòa giải dân tộc tại Đức, Nam Phi và Việt Nam

Ba’o Nguoi-Viet

May 18, 2025 

Chuyện Vỉa hè

Đặng Đình Mạnh

Hòa hợp, hòa giải dân tộc là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự chân thành, minh bạch và cam kết lâu dài để hàn gắn những vết thương từ chiến tranh, từ chia rẽ chính trị, từ phân biệt chủng tộc, tôn giáo hoặc bất công xã hội để lại.

Người Việt tị nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ biểu tình đòi chế độ Hà Nội tôn trọng nhân quyền mỗi khi có lãnh tụ CSVN đến thủ đô Washington vận động chính trị. (Hình: Alex Wong/Getty Images)

Đức, Nam Phi và Việt Nam là ba quốc gia đã phải trải qua những cuộc xung đột sâu sắc kéo dài mới đi đến kết thúc. Trong đó, sự kết thúc của Đức và Nam Phi là một sự hòa giải có hậu và trọn vẹn. Nhưng với Việt Nam, sau 50 năm chấm dứt cuộc chiến tranh, thì sự hòa giải vẫn như chưa từng bắt đầu bao giờ.

Tất cả, hầu như đều tùy thuộc vào cách tiếp cận vấn đề và theo đó, cho ra những kết quả hòa giải rất khác nhau.

Bối cảnh lịch sử

Đức: Sau Thế Chiến Thứ II (1939-1945), Đức bị chia cắt thành Đông Đức (chế độ cộng sản) và Tây Đức (chế độ dân chủ tự do) trong bối cảnh Chiến Tranh Lạnh. Từ đó, chính quyền Đông Đức đã cho xây dựng bức tường ngăn đôi thủ đô Berlin (1961-1989). Bức tường không chỉ ngăn cách hai nước Đức, mà còn trở thành biểu tượng của sự chia rẽ ý thức hệ.

Sự sụp đổ của bức tường Berlin vào ngày 9 Tháng Mười Một, 1989, dẫn đến thống nhất, Đức đã đặt ra vấn đề hòa hợp, hòa giải dân tộc giữa Đông và Tây Đức. Đức không chỉ đối mặt với di sản chế độ Quốc Xã, chế độ Cộng Sản độc tài mà còn đối mặt với yêu cầu xây dựng một quốc gia dân chủ thống nhất, hàn gắn xã hội.

Nam Phi: Vào đầu thập kỷ 90, Nam Phi kết thúc chế độ Apartheid, chính sách phân biệt chủng tộc do người da trắng thiểu số áp đặt. Cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên vào ngày 27 Tháng Tư, 1994, đã đưa Nelson Mandela trở thành tổng thống. Chế độ Apartheid đã để lại một di sản đầy bất công, bạo lực và hận thù giữa các cộng đồng người da trắng, da màu và các nhóm sắc tộc khác. Nam Phi đã phải đặt ra vấn đề hòa hợp, hòa giải nhằm tránh nội chiến và xây dựng, hàn gắn lại một xã hội đa sắc tộc.

Việt Nam: Ngày 30 Tháng Tư, 1975, Cộng Sản Việt Nam cưỡng chiến thành công miền Nam, đặt toàn bộ lãnh thổ dưới sự cai trị của chế độ độc tài. Tuy nhiên, sau khi thống nhất đất nước bằng chiến thắng quân sự, chế độ Cộng Sản đã không hề đặt ra vấn đề hòa hợp, hòa giải dân tộc. Trái lại, họ thực hiện chính sách đàn áp khốc liệt đối với hàng triệu đồng bào miền Nam đã từng tham gia phục vụ dưới chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Chính sách trả thù đồng bào này đã làm sâu sắc thêm mối bất hòa giữa đồng bào ủng hộ chế độ dân chủ tự do với chế độc độc tài, vốn đã tồn tại từ khi phát sinh cuộc chiến tranh Việt Nam từ hai thập kỷ trước. Chính sách trả thù đồng bào đã gây hậu quả rất nặng nề về nhiều mặt cho xã hội Việt Nam. Hàng triệu người rời bỏ đất nước ra đi, hình thành cộng đồng người Việt hải ngoại. Trong nước, hòa giải dân tộc vẫn là thách thức lớn do chế độ Cộng Sản không thực hiện đối thoại cởi mở mà thay vào đó là sự đàn áp khốc liệt với người bất đồng chính kiến.

So sánh: Cả ba quốc gia đều phải đối mặt với chia rẽ sâu sắc: Đức về ý thức hệ và địa chính trị, Nam Phi về chủng tộc, Việt Nam về ý thức hệ trong cùng một dân tộc. Đức và Nam Phi chuyển đổi sang dân chủ, trong khi Việt Nam tiếp tục duy trì chế độ độc tài, ảnh hưởng lớn đến quá trình hòa hợp, hòa giải dân tộc .

Cách tiếp cận hòa giải

Đức áp dụng nhiều biện pháp hòa giải, có thể kể như:

-Thống nhất năm 1990: Chính phủ đầu tư tài chính để phát triển Đông Đức, san bằng chênh lệch kinh tế. Không thực hiện chính sách trả thù đồng bào Đông Đức. Thành lập các ủy ban điều tra sai phạm của chế độ Đông Đức (Stasi) và công khai sự thật.

-Dân chủ và đối thoại: Đức khuyến khích tự do ngôn luận, tạo không gian cho các ý kiến khác biệt, giảm căng thẳng khác biệt giữa Đông-Tây vào thời điểm vừa thống nhất.

Nam Phi thành lập Ủy Ban Sự Thật và Hòa Giải (TRC) vào năm 1995.

-Sự thật và tha thứ: TRC tổ chức các phiên điều trần công khai, nơi nạn nhân và thủ phạm chia sẻ. Thủ phạm thừa nhận tội ác có thể được ân xá nếu hành động vì động cơ chính trị.

-Công lý phục hồi: Tập trung vào hàn gắn thông qua đối thoại, thúc đẩy khoan dung tha thứ thay vì trừng phạt.

-Dân chủ: Nam Phi chuyển đổi sang chế độ dân chủ, đảm bảo quyền tự do và thực hiện các chính sách giảm thiểu bất bình đẳng.

Việt Nam: Chế độ Cộng Sản thực hiện hòa hợp, hòa giải dân tộc chủ yếu thông qua các phát biểu và diễn văn. Thực tế, chế độ Cộng Sản không làm điều gì để thực hiện cả, mà trái lại, họ nhất quán thực hiện hàng loạt chính sách làm sâu sắc hơn mối bất hòa, thậm chí khơi thêm hận thù giữa lòng dân tộc như trả thù, hạ nhục, trừng phạt người bất đồng chính kiến.

-Mới đây, tổng bí thư đảng Cộng sản là ông Tô Lâm kêu gọi hòa hợp, hòa giải dân tộc qua bài viết “Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” với những lời lẽ hết sức tốt đẹp như: “Chúng ta không thể viết lại lịch sử, nhưng chúng ta có thể hoạch định lại tương lai.” Tuy nhiên, chỉ sau đó ít ngày, chế độ Cộng Sản tổ chức một lễ kỷ niệm kết thúc cuộc chiến Việt Nam hết sức rầm rộ để tự ca ngợi mình và hạ nhục đồng bào là các cựu thù chính trị. Cho thấy, các nỗ lực hòa hợp, hòa giải từ chế độ Cộng Sản là hoàn toàn thiếu chân thành và thực chất.

-Chính sách cải tạo: Ngay sau cưỡng chiếm miền Nam thành công, chế độ Cộng Sản thực hiện chính sách trả thù thông qua danh nghĩa học tập cải tạo. Đẩy hàng trăm ngàn người miền Nam vào các trại cải tạo, thực chất là các trại giam mà không hề thông qua xét xử. Giam giữ họ từ vài tháng đến 20 năm tù. Gây tổn thương xã hội sâu sắc.

-Đàn áp bất đồng: Tiếng nói đối lập từ trong nước hoàn toàn bị bóp nghẹt, không có không gian cho đối thoại.

-Kinh tế: Đổi mới (1986) cải thiện một phần đời sống nhưng không đi kèm tự do chính trị, hạn chế niềm tin từ cộng đồng người Việt hải ngoại.

So sánh: Đức và Nam Phi sử dụng cơ chế minh bạch (Ủy Ban Stasi, TRC) và dân chủ để khuyến khích đối thoại, trong khi Việt Nam duy trì tư duy “bên thắng cuộc” để kiểm soát không gian chính trị, không thực hiện hòa hợp, hòa giải.

Ngày lễ kỷ niệm và ý nghĩa

Đức kỷ niệm Ngày Thống Nhất Đức 1990 (Tag der Deutschen Einheit) vào ngày 3 Tháng Mười hàng năm. Ngày này được tổ chức trang trọng nhưng mang tính hòa hợp, tập trung vào đoàn kết xã hội Đông-Tây và giá trị dân chủ. Các sự kiện bao gồm hòa nhạc, diễn văn, và triển lãm về lịch sử, nhấn mạnh tinh thần chung của toàn dân Đức, không phân biệt quá khứ.

Nam Phi kỷ niệm Ngày Tự Do (Freedom Day) vào ngày 27 Tháng Tư, đánh dấu cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên không còn chế độ phân biệt chủng tộc vào năm 1994. Ngày này tôn vinh sự chấm dứt chế độ Apartheid và sự ra đời của một xã hội đa sắc tộc. Các hoạt động như diễu hành, lễ hội và diễn văn nhấn mạnh hòa giải, bình đẳng, và đoàn kết, dù vẫn có tranh cãi về bất bình đẳng kinh tế.

Việt Nam kỷ niệm Ngày Thống Nhất vào ngày 30 Tháng Tư, đánh dấu sự sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa năm 1975. Tuy nhiên, các lễ kỷ niệm thường mang tính phô trương, như diễu binh và tuyên truyền về chiến thắng, gây tổn thương cho những người từng ở phía đối phương. Thay vì thúc đẩy hòa hợp, các sự kiện này làm sâu sắc hơn sự chia rẽ, đặc biệt với cộng đồng người Việt hải ngoại.

So sánh: Ngày Thống Nhất của Đức và Ngày Tự Do của Nam Phi mang tính hòa hợp, tập trung vào đoàn kết và các giá trị chung, trong khi ngày 30 Tháng Tư của Việt Nam nhấn mạnh chiến thắng của một phía, làm sống lại vết thương chiến tranh. Đức và Nam Phi sử dụng ngày lễ để củng cố hòa giải, Việt Nam sử dụng ngày lễ để làm sâu sắc hơn sự chia rẽ dân tộc.

Kết quả

-Đức đạt thành công lớn không chỉ về kinh tế mà còn là sự gắn kết xã hội với Đông và Tây Đức hòa nhập, dù vẫn còn chênh lệch kinh tế. Đức quốc thống nhất trở thành cường quốc kinh tế, với xã hội dân chủ, tự do.

-TRC giúp Nam Phi tránh nội chiến, thiết lập sự thật lịch sử và dân chủ hóa xã hội. Nạn nhân được lắng nghe, thủ phạm thú nhận tội ác, tạo nền tảng cho sự hòa hợp, bao dung và tha thứ, không trả thù và trừng phạt. Tuy nhiên, bất bình đẳng kinh tế và vấn đề chủng tộc vẫn chưa hoàn toàn xóa nhòa.

Người Việt Nam vượt biên bằng thuyền đi tị nạn Cộng Sản nằm la liệt ở trung tâm tạm cư Hồng Kông năm 1979 chờ đi định cư tại một quốc gia thứ ba. (Hình: Evening Standard/Getty Images)

-Việt Nam, Sau 50 năm thống nhất, nhưng lòng người chưa từng thống nhất. Vấn đề hòa hợp, hòa giải dân tộc vẫn chưa đạt được. Cộng đồng người Việt hải ngoại giữ khoảng cách do thiếu niềm tin. Trong nước, người bất đồng chính kiến bị đàn áp, tham nhũng và bất công xã hội lan tràn khiến dân chúng không có niềm tin vào chế độ.

So sánh: Đức và Nam Phi đạt hòa giải ở mức độ cao nhờ dân chủ và minh bạch, trong khi Việt Nam bị kìm hãm bởi kiểm soát và thiếu đối thoại. Các ngày lễ của Đức và Nam Phi củng cố đoàn kết, nhưng ngày lễ của Việt Nam lại làm sâu sắc hơn sự chia rẽ.

Bài học cho Việt Nam

Từ Đức và Nam Phi, Việt Nam có thể học hỏi:

-Thừa nhận quá khứ: Lập ủy ban sự thật, tương tự TRC của Nam Phi hoặc Ủy Ban Stasi của Đức, để điều tra bất công sau 1975, như chính sách cải tạo, và khuyến khích đối thoại công khai.

-Đối thoại cởi mở: Trả tự do cho tất cả tù nhân chính trị, tạo không gian cho tiếng nói đối lập và cộng đồng hải ngoại, học từ tự do ngôn luận của Đức.

-Dân chủ hóa xã hội: Như Nam Phi, để xây dựng niềm tin.

-Tái định hướng ngày lễ: Biến ngày 30 Tháng Tư thành dịp hòa hợp, như Ngày Thống Nhất của Đức, tập trung vào đoàn kết dân tộc thay vì chiến thắng.

Tóm lại, sau 50 năm thống nhất đất nước, nếu chế độ Cộng Sản Việt Nam xây dựng một đất nước hùng cường, thịnh vượng, tự do, công bằng và dân chủ như Đức quốc hay Nam Phi đã làm được với thời gian hết sức ngắn ngủi, thì hòa hợp, hòa giải dân tộc đã không còn là vấn đề phải đặt ra cho Việt Nam nữa.

Kể cả, đối với cộng đồng người Việt hải ngoại cũng vậy, chế độ không cần phải đưa ra những lời kêu gọi họ góp sức đầu tư bằng công, bằng của để xây dựng đất nước, vì lẽ, một khi có niềm tin, họ sẽ tự nguyện làm điều đó mà không cần phải kêu gọi.

Đức và Nam Phi đều thành công trong vấn đề hòa hợp, hòa giải dân tộc nhờ minh bạch, sự thật và tha thứ, với các ngày lễ kỷ niệm củng cố đoàn kết. Việt Nam, để hòa hợp, hòa giải, cũng cần phải làm những điều tương tự như vậy, để biến ngày 30 Tháng Tư thành biểu tượng của đoàn kết dân tộc.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Noi gương của bác

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

18/05/2025

Gần đây, qua biên khảo (Phê Bình Văn Học Thế Hệ 1932) của Linh Mục Thanh Lãng, tôi mới được biết thêm quan niệm vô cùng phóng khoáng của cụ Phan Khôi, về chuyện nữ quyền:

“Trong phụ nữ ta có nhiều người chồng chết, ở trong cảnh ngộ rất đáng thương, buồn rầu đủ mọi trăm thứ, vậy mà nói đến truyện cải giá, sợ mang tiếng, nhất định không thì thôi. Có người bóp bụng cắn răng cũng giữ được trót đời ; nhưng có người khôn ba năm dại một giờ, thì ra mang cái xấu lại còn hơn cải giá.

Lại thường thấy bà goá nào có máu mặt thì bọn điêu thoa trong làng trong họ lập mưu mà vu hãm cho, để mong đoạt lấy gia tài. Những sự đó đều là chịu ảnh hưởng của cái luật cấm cải giá mà ra ; vậy thì nó chỉ làm hại cho phong hoá thì có chớ có bổ ích gì đâu? Bởi vậy ta nên phế trừ cái luật ấy đi ; từ rày về sau, trong óc chúng ta, cả đàn bà và đàn ông Việt Nam đừng có cái quan niệm ấy nữa.” (Phụ Nữ Tân Văn số 95,13-8-1931).
“Cái luật cải giá” khắt khe của thời phong kiến tại Việt Nam – tiếc thay – đã không bị “phế trừ” mà còn trở nên khắt khe hơn, sau khi cuộc cách mạng vô sản thành công ở xứ sở này:

Ả Định mới hai mươi hai tuổi đã có ba đứa con, nhưng trông còn son lắm. Da trắng, má lúc nào cũng ửng hồng, ngực phây phây như cái thúng. Anh mất, ả nghĩ mình là người của Đoàn thể nên rất giữ gìn. Hơn nữa, gia đình ả có công với cách mạng từ lâu.

Bác Hoe Chu, bố chồng, tham gia Thanh niên cách mạng đồng chí hội từ năm 1927. Chồng của ả vào Đảng từ khi còn bóng tối. Về làm dâu, ả được bố chồng và chồng giác ngộ, cũng trở thành đảng viên…

Không may giữa đường đứt gánh tương tư. Giữ nếp nhà, ả mặc áo sổ gấu, đội nón không vành. Nhưng sức lực càng ngày càng căng ra… Tuy thế, ả vẫn tránh tất cả các trường hợp đàn ông cợt nhả khi gặp riêng trên đường làng…

Rồi đến một hôm, trong cuộc họp, anh Cu Kình liếc mắt nhìn ả, ả quay mặt đi. Cứ quay mặt mãi cũng không tránh được cái vòng vây tình ái của anh Cu Kình. Đôi má của ả càng ngày càng đỏ au như con gái dậy thì khiến anh mê như điếu đổ.

Anh đón gặp ả trên đường làng, gặp ngoài đồng, gặp ban ngày, gặp ban đêm. Rồi hai người hò hẹn nhau. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén. Và ả có thai sau bảy năm giữ gìn. Đảng uỷ triệu tập ả lên trụ sở…

Khi nêu vấn đề khai trừ ả Định, có người gợi ý “chiếu cố quá trình tham gia cách mạng của gia đình”. Nhưng đồng chí bí thư diễn giải một cách kiên quyết:

“Tội quan hệ tình ái bất chính là tội rất nặng. Hơn lúc nào hết, trong hoàn cảnh hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, Đảng ta phải thật trong sạch. Đảng viên đi trước làng nước theo sau… (Võ Văn Trực. Cọng Rêu Dưới Đáy Ao. Hà Nội: Nhà xuất bản Hội Nhà Văn và Công ty Văn Hoá & Truyền Thông Võ Thị, 2007. Bản điện tử do talawas chủ nhật thực hiện).
Cách “diễn giải” của “đồng chí bí thư” về “quan hệ tình ái, xem ra, có vẻ hơi xa (rời) với cuộc sống của “làng nước.” Sau những lũy tre xanh, người dân Việt vẫn cứ sinh hoạt theo nhịp thở, nhịp tim, và tiếng lòng của họ (thay vì theo ý Đảng) bất kể là vào thời bình hay thời chiến:

Những năm 1965- 1975 nhà mình sơ tán ở làng Đông. Nhớ nhiều người nhưng nhớ nhất anh Đa. Bây giờ kể chuyện anh Đa thôi, vì anh này hay nhất trong kí ức của mình về cái làng này.Anh Đa lùn, đen, xấu. Anh Diệu nói cái mặt thằng Đa chành bành giống cái l. trâu.

Anh Đa sống với mẹ già, sau mẹ chết anh ở một mình. Nhà nghèo quá, 24, 25 tuổi rồi hỏi cô nào cũng bị chê.

Anh con liệt sĩ, lại con một, khỏi đi bộ đội. Con trai trong làng ai lớn đều đi bộ đội hết, còn lại dăm ba anh tuổi như anh thôi, chỉ có anh là chưa vợ. Mẹ anh khóc lên khóc xuống, anh vẫn chẳng quan tâm đến chuyện vợ con. Cho đến khi mẹ anh chết anh vẫn độc thân. Mình hỏi anh sao anh không lấy vợ. Anh nói tao để vậy để đàn bà nó thèm…

Anh chỉ làm hai việc: đi đập lúa thuê và nơm cá bán lấy tiền. Cứ mùa lúa là anh đi đập lúa cho các gia đình có chồng con đi bộ đội, một đêm đập lúa được trả vài lon gạo. Thế cũng đủ sống, lại được tiếng giúp đỡ gia đình bộ đội…

Một đêm mình đi thăm túm lươn, hôm đó được nhiều, hơn chục con, mừng lắm hí hửng xách oi về thì gặp anh Đa đi từ nhà chị Thơm ra. Mình hỏi anh đi đâu, anh nói không.

Minh thấy anh mặc cái áo bộ đội dài gần đến gối (anh lùn mà). Nghi nghi, mình kéo vạt áo anh lên, chim cò phơi ra cả, hoá ra anh không mặc quần. Mình ngạc nhiên nói sao vào nhà người ta lại không mặc quần, anh cười phì một tiếng rồi bỏ đi.

Nhà chị Thơm một mẹ một con, chồng đi bộ đội, thằng cu con chị mới hơn 4 tuổi. Mình nghi lắm. Mình lẻn theo anh Đa. Anh Đa lại vào nhà chị Hà. Chị Hà có chồng hy sinh, vừa báo tử năm ngoái.

Chị vẫn say sưa sinh hoạt đoàn, biến đau thương thành hành động cách mạng, hăng hái phát biểu lý tưởng, hoài bão, tiên tiến, thi đua, quyết tâm, căm thù, phấn đấu…v.v. Bà con làng xóm khen lắm, vẫn nói với con gái con dâu: đó, sang nhà con Hà mà coi.

Mình vào sau hồi nhà chị Hà Tối quá không thấy gì, chỉ nghe chị kêu hệt như mèo kêu. Mình chặn anh Đa ở cổng nhà chị Hà nói em biết rồi nha. Anh Đa túm cổ áo mình nói mày nói tao giết.

Về sau, lần nào đi nơm anh vừa nơm suất của anh, vừa nơm suất của mình. Mạ mình toàn khen thằng Lập dạo này nơm cá giỏi. Hi hi.

Làng Đông có chừng 4-5 trăm nóc nhà, hơn 1 trăm nóc là nhà hoặc là vợ bộ đội hoặc là vợ liệt sĩ. Không biết anh Đa chui vào bao nhiêu nhà trong số 100 nóc nhà ấy, chỉ biết suốt cuộc chiến tranh 1965-1975, tối nào cứ đến 3-4 giờ sáng anh Đa lại mặc cái áo bộ đội dài đến đầu gối, không thèm mặc quần, đi hết nhà này đến nhà kia, 5 giờ sáng thì về.

Mình hỏi sao anh không mặc quần. Anh nói mặc mần chi, cởi vô cởi ra mệt. (Nguyễn Quang Lập. “Anh Cu Đa”. Ký Ức Vụn. Hội Nhà Văn: Hà Nội, 2011)
Một anh trai làng “lùn, đen, xấu” và “mặt  chành bành giống cái l. trâu” mà còn “bận” đến cỡ đó thì anh Ba Duẩn (“ngọn đèn cháy sáng 200 nến”, soi khắp Bắc/Nam) làm sao mà rảnh rang cho được:

Tháng 7-1986 Duẩn chết, dân đứng hai bên đường đếm mấy bà tổng goá. Chúng khẩu đồng từ bảo nhau cái bà tre trẻ mặc áo dài đen dắt đứa con be bé kia đứt đuôi là vợ tư! Ấy, chưa kể những bà bị gạt xuống nữa chứ. Cho lên cả thì khéo phải một hai xe nữa…

Ngày ấy nếu blogger nhiều như ba chục năm sau thì trên mạng cử là lũ lụt lời bình về sức mạnh tính dục của Lê Duẩn.

Rõ ràng là có nỗi sự riêng tư thầm kín của thân thích ông, sau cái chết của ông, vị hoàng đế đỏ từng làm run sợ và đau khổ biết bao con người. (Trần Đĩnh. Đèn Cù II, Westminster, CA: Người Việt, 2014).
Những vị “hoàng đế đỏ” kế tiếp (Đỗ Mười, Lê Khả, Nông Đức Mạnh) cũng đều là những nhân vật mà sinh hoạt tình dục của họ khiến cư dân mạng phải tốn không ít thời giờ bàn tán. Điều may mắn là đất nước đã bước vào “thời mở cửa” (chả còn phải giấu diếm gì, và muốn dấu cũng không thể được) nên không có tình nhân nào bị biến thành nạn nhân – kiểu xe tông bể sọ – như bà Nông Thị Xuân ngày trước nữa.

Cũng từ thời đổi mới, quan niệm về sinh hoạt tình dục của toàn dân rất nới (và rất mới) – theo thông tin của tờ Việt Báo: “Việt Nam Tỷ lệ nạo phá thai cao hàng đầu thế giới.”

Tờ Vietnamnet thì đưa ra một con số khiêm tốn và nhẹ nhàng hơn, chút xíu: “Hiện Việt Nam vẫn là nước có tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á và xếp thứ 5 thế giới.”

Tại sao Việt Nam lại đứng đầu thế giới, hay toàn khu vực về tỷ lệ nạo/phá thai như thế? Chắc tại ở những quốc gia khác không có một vị lãnh tụ đạo đức như Hồ Chí Minh nên dân chúng không phải học tập và làm theo tấm gương của Bác.


 

ÍT HƠN CHÚA – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

 Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thần linh mặc lốt người phàm đã xuống với chúng ta!”.

“Tội thờ ngẫu tượng là tội thờ bất cứ thứ gì chỉ nên sử dụng, hoặc sử dụng bất cứ thứ gì chỉ nên tôn thờ!”. Những lời của thánh Augustinô đưa J. McMath đến kết luận, “Điều mà tôi sẽ cho đi bất cứ thứ gì để có và không nhận bất cứ thứ gì để mất là Thiên Chúa của tôi. Tôi không bao giờ tôn thờ một thứ gì đó ‘ít hơn’ Ngài!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay tiết lộ một sự thật thú vị – dẫu là một sự thật rất hiển nhiên – nhưng lại khá bất ngờ. Rằng, con người luôn có xu hướng thờ ngẫu tượng – một thứ gì đó ‘ít hơn Chúa!’.

Tại Lystra, sau khi Phaolô chữa lành một người bại, một số dân thành kết luận, “Thần linh mặc lốt người phàm đã xuống với chúng ta!”. Họ gọi Phaolô và Barnaba là thần; thậm chí có ý định đem bò và hoa để tế hai ngài. Phaolô xé áo mình và nói, “Chúng tôi đây cũng chỉ là người phàm!” – bài đọc một. Thấy xu hướng ‘ngẫu tượng’ nơi họ, Phaolô chỉ cho họ biết phải tôn thờ ai – Chúa là Thiên Chúa và chỉ một mình Ngài, đừng thờ một thứ gì đó ‘ít hơn Chúa!’. Nói thay Phaolô, Thánh Vịnh đáp ca reo lên, “Xin đừng làm rạng rỡ chúng con, lạy Chúa, nhưng xin cho Danh Ngài rạng rỡ!”.

Một thứ gì đó ‘ít hơn Chúa’ có thể là một hệ tư tưởng, một chủ nghĩa, một thần tượng vốn có thể có một địa vị ‘gần như thần thánh’; và đôi khi, nó được sùng bái một cách mù quáng với những gì mà chỉ Thiên Chúa mới đáng có. Thờ ‘ngẫu tượng’ – tội căn bản – cội rễ của mọi tội lỗi. Chính sức hấp dẫn của một thực thể nào đó, một con người nào đó, vốn có thể trở nên chất xúc tác để con người mọi thời coi nó như thần thánh.

Có lẽ vì thế, trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói đến nhu cầu cấp thiết phải có một Thầy Dạy thiêng liêng, “Đấng Bảo Trợ sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại tất cả những gì Thầy đã nói với anh em”. Chính Chúa Thánh Thần – Thầy Dạy – sẽ ngăn ngừa chúng ta khỏi rơi vào ngẫu tượng; giúp chúng ta đánh giá sâu sắc hơn về mối tương quan mỗi người phải có đối với Thiên Chúa trên hành trình tiến về Nhà Cha.

Anh Chị em,

“Thần linh mặc lốt người phàm đã xuống với chúng ta!”. Dẫu không la lên như người Lycaonia; nhưng khuynh hướng tự nhiên của chúng ta là thần thánh hoá những gì làm vui thoả, dễ chịu. Nó dẫn chúng ta đến lối sống dễ dãi khi thoả hiệp với các giá trị thế tục; đó là những ngẫu tượng khiến chúng ta thở gấp, mê mải, mụ mẫm và ngơ khờ chạy theo. Bên cạnh đó, thuyết tương đối và chủ nghĩa tiêu thụ vẫn âm thầm hoặc công khai mê hoặc khiến chúng ta nuông mình ruổi theo mà không hay biết; từ đó, vô tình phá đổ các giá trị cao đẹp và linh thánh. Thấy trước điều đó, Chúa Giêsu đã ban Thánh Thần. Ước gì bạn và tôi biết đón nhận và yêu quý Quà Tặng vô giá này; đồng thời, ngoan nguỳ với Ngài, hầu không dễ phó mình cho việc tôn thờ một thứ gì đó ‘ít hơn Chúa!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ‘ngẫu tượng’ thường làm con hao tổn, mỏi mệt và lầm lạc. Cho con ‘dễ dạy’ với Thánh Thần hầu chỉ tôn thờ một “Giêsu”, ‘Một Ai đó’ nhiều Chúa nhất!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**********************************************

Thứ Hai Tuần V Phục Sinh

Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an. Ga 14,21-26

21 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Ai có và giữ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.”

22 Ông Giu-đa, không phải Giu-đa Ít-ca-ri-ốt, nói với Đức Giê-su : “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian ?” 23 Đức Giê-su đáp : “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy. 24 Ai không yêu mến Thầy, thì không giữ lời Thầy. Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy. 25 Các điều đó, Thầy đã nói với anh em, đang khi còn ở với anh em. 26 Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em.”


 

Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (Ga 13:34) – Cha Vương

Ngày Chúa Nhật thật dễ thương và ngọt ngào hương vị của Chúa nhé.

Cha Vương

CN, 5PS: 18/5/2025

TIN MỪNG: Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (Ga 13:34)

SUY NIỆM: Nếu Chúa Giê-su ban cho chúng ta “điều răn mới”, vậy điều răn cũ là gì? “Điều răn cũ” được tìm thấy trong Cựu Ước trong sách Đệ Nhị Luật. “Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em). (Đnl 6:5) Đây là một điều răn cơ bản. “Điều răn cũ” và “điều răn mới” không loại trừ lẫn nhau mà xây dựng trên nhau. Điều răn mới nhấn mạnh tình yêu sâu sắc mà Chúa đã thể hiện, trong khi điều răn cũ vẫn là một nguyên tắc nền tảng trong mọi điều răn. Chúa mời gọi bạn hôm nay hãy yêu thương nhau NHƯ Chúa đã yêu thương bạn, đừng yêu theo kiểu thế gian. Yêu như Chúa yêu là như thế nào? 

– Yêu đến tận cùng như Đức Giêsu dạy: “Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu” (Ga 15:13). Thánh Gioan diễn tả: “Đức Kitô đã thí mạng vì chúng ta. Như vậy, cả chúng ta nữa, chúng ta cũng phải thí mạng vì anh em” (1Ga 3:16).

– Tình yêu phải thể hiện trong việc làm: “Nếu các con giữ điều răn của Thầy”. Thánh Gioan diễn tả: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ, chúng ta đừng yêu nhau nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm” (1 Ga 3:16-18).

LẮNG NGHE: Vậy, anh em hãy bắt chước Thiên Chúa, vì anh em là con cái được Người yêu thương, và hãy sống trong tình bác ái, như Đức Ki-tô đã yêu thương chúng ta, và vì chúng ta, đã tự nộp mình làm hiến lễ, làm hy lễ dâng lên Thiên Chúa tựa hương thơm ngào ngạt. (Ep 5:1-2)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giê-su Phục sinh, xin dạy con cách yêu như Chúa đã yêu con.

THỰC HÀNH: Nhìn lại cách đối xử của mình với những người chung quanh coi có hợp với điều Chúa dạy không nhé.

From:Do Dzung

***************************

YÊU NHƯ CHÚA YÊU – Lm Thái Nguyên

Hãy tiếp tục đến thăm mẹ chúng ta, mẹ bị mù – Truyện ngắn

Trầm Mặc Huơng Lai

Một trong những đoạn văn đau đớn nhất tôi từng đọc trong văn học:

Khi mẹ tôi ly hôn và rời đi, cha tôi đã buộc chúng tôi không được đến thăm bà, và thời gian trôi qua khiến tôi dần quên đi sự hiện diện của mẹ và bắt đầu dần quen với một người mẹ kế khó chịu.

Anh trai tôi, người thường bỏ nhà đi một hai đêm, không mấy bận tâm đến những hình phạt đang chờ đợi khi trở về. Với những cú đá những cái tát tới tấp, anh thường giả vờ ngất xỉu, nhờ đó mà thoát khỏi việc tiết lộ nơi đã đến.

Là người bạn duy nhất của anh, nhưng anh cũng không bao giờ nói cho tôi biết mình đã đi đâu trong những ngày vắng mặt. Có lẽ vì tôi quá nhút nhát, thậm chí còn sợ cả cái bóng của chính mình.

Tôi nhớ có một ngày, anh tôi biến mất hơn ba ngày, và cha tôi giận dữ tột độ. Dưới ảnh hưởng của tâm trạng xấu của mẹ kế, cha đã trút lên anh mọi sự giận dữ. Trong vòng một giờ, anh tôi nằm sóng soài trên sàn phòng, máu chảy đầm đìa.

Chính vào lúc đó, tôi hiểu rằng sự cô đơn cũng có thể khiến tôi quên mất sự tồn tại của anh.

Một đêm lạnh, tôi tìm thấy dưới gối anh một bức thư, trong đó anh viết:

“Hãy tiếp tục đến thăm mẹ chúng ta, mẹ bị mù. Hãy tiếp tục chăm sóc mẹ dù cho có bị gì đi nữa, và đừng để mẹ cảm thấy rằng chúng ta đã rời xa .”

Bài viết của Ahhlem Dounia


 

Điều thực sự quan trọng là sự bình yên trong tim,…- Chau Doan 

Chau Doan 

 Khi bạn già đi, bạn bắt đầu nhìn cuộc sống theo một cách khác. Bạn dần hiểu rằng hạnh phúc thực sự không nằm ở số tiền bạn kiếm được, bằng cấp bạn có, hay ngôi nhà và chiếc xe của bạn lớn đến đâu. Đến một lúc nào đó, những thứ vật chất sẽ mất đi giá trị. Điều thực sự quan trọng là sự bình yên trong tim, niềm vui trong những ngày sống, và sự tĩnh lặng trong cuộc đời.

Khi còn trẻ, ta thường đuổi theo thành công, địa vị và sự giàu có. Ta nghĩ rằng những điều đó sẽ khiến mình hạnh phúc mãi mãi. Nhưng theo thời gian, ta học được rằng hạnh phúc thật sự đến từ những điều giản dị — như ngồi bên những người thân yêu, cười với nhau về những kỷ niệm cũ, hoặc chỉ đơn giản là tận hưởng một buổi tối yên bình ở nhà.

Gia đình và những người bạn chân thành trở thành kho báu quý giá nhất. Những người quan tâm đến bạn, ở bên bạn những lúc khó khăn, yêu thương bạn vì chính con người bạn — đó mới là những người thực sự quan trọng. Sự hiện diện và nâng đỡ của họ có giá trị hơn bất kỳ thứ gì tiền bạc có thể mua.

Bạn không còn khao khát có thêm nữa, mà bắt đầu biết ơn những gì mình đang có. Bạn nhận ra rằng có vài người bạn thật lòng còn quý hơn nhiều người bạn giả tạo. Một ngôi nhà nhỏ nhưng yên bình còn tốt hơn một căn biệt thự đầy căng thẳng. Và một trái tim đầy yêu thương còn quý giá hơn một tài khoản ngân hàng đầy tiền.

Khi có tuổi, bạn nhận ra những điều tuyệt vời nhất trong cuộc sống thực ra không phải là vật chất. Tình yêu, sự bình yên, lòng tốt và niềm vui giản dị mới là những điều mang lại hạnh phúc đích thực. Và đó chính là lúc bạn thật sự bắt đầu sống.

Cuối cùng, cuộc đời không phải là về những gì bạn sở hữu, mà là về cảm xúc bạn mang trong tim, những người bạn yêu thương, và cách bạn sống từng ngày.

— The Storyteller

Nguồn: The Storyteller


 

TRẢI NGHIỆM YÊU THƯƠNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Này đây, Ta đổi mới mọi sự!”.

Một nhà kho rao bán; ngày kia, có người đến mua; chủ nhà nói, “Tôi sẽ cử một đội thợ để sửa chữa và dọn rác” – “Không cần! Tôi không muốn toà nhà; tôi muốn khu đất!”. So với sự đổi mới mà Thiên Chúa nghĩ đến, những nỗ lực cải thiện linh hồn của chúng ta cũng ‘rất tương đối’ như việc sửa chữa những gì đã hư hỏng. Một khi đã thuộc về Chúa, mọi sự sẽ đổi mới. Tất cả những gì Ngài muốn là linh hồn và giấy phép xây dựng!

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay bất ngờ hỏi, liệu Chúa Phục Sinh đã có giấy phép sử dụng mảnh đất linh hồn chúng ta chưa? Nói cách khác, đâu là trải nghiệm mới – ‘trải nghiệm yêu thương’ – của bạn trong lễ Phục Sinh năm nay? Hay đơn giản nó chỉ lướt qua như những năm trước!

Khái niệm “mới” xuất hiện nhiều lần: “Môn đệ mới”, “Hội Thánh mới”, “Trời mới, đất mới”; “Này đây, Ta đổi mới mọi sự!”; đặc biệt, trong bài Tin Mừng, “Điều răn mới!”. “Sự mới mẻ hoàn toàn nằm trong tình yêu của Chúa Kitô, tình yêu mà Ngài đã hiến mạng sống vì chúng ta. Đó là tình yêu phổ quát – không có bất kỳ điều kiện hay giới hạn nào – đạt đến đỉnh cao trên thập giá. Trong khoảnh khắc vô cùng nhục nhã, trong khoảnh khắc bị Chúa Cha bỏ rơi, Con Thiên Chúa biểu lộ và trao ban cho thế giới tình yêu trọn vẹn. Khi nghĩ lại cuộc khổ nạn và đau khổ của Chúa Kitô, các môn đệ đã hiểu được ý nghĩa của những lời Ngài nói: “Như Thầy đã yêu thương các con, thì các con cũng phải yêu thương nhau!”. Đó là một trải nghiệm mới mẻ, ‘trải nghiệm yêu thương!’” – Phanxicô.

“Điều răn mới!” giả thiết phải có “điều răn cũ”. Theo Phaolô, “cũ” là những nếp nghĩ, lề luật, trật tự… mang tính tự nhiên, thế tục, ích kỷ; những gì chưa được Chúa Phục Sinh chạm vào. Chúa Giêsu nói đến điều răn mới, yêu thương như Ngài đã yêu, yêu đến chết. “Điều duy nhất phân biệt con cái Chúa là yêu thương. Ai thực hành yêu thương thì được sinh ra bởi Chúa; ai không thực hành yêu thương thì không được sinh ra bởi Chúa. Đây thực sự là một dấu hiệu quan trọng, một sự khác biệt thiết yếu. Bất kể bạn có gì, nếu bạn không yêu thương, mọi thứ khác đều vô ích; và nếu thiếu mọi thứ, và không có gì khác ngoài yêu thương, thì bạn đã chu tất lề luật!” – Augustinô.

Anh Chị em,

“Này đây, Ta đổi mới mọi sự!”. Lời hứa này nên hiện thực khi Thiên Chúa phục sinh Chúa Con. Từ cõi chết sống lại, Chúa Kitô đổi mới tất cả, Ngài thổi vào tâm hồn chúng ta Thần Khí mới, gieo vào nó một mầm sống mới, mầm yêu thương – điều mà Ngài đã thể hiện qua cuộc tử nạn và thương khó. Thế nhưng, sự chết không là tiếng nói cuối cùng mà là tình yêu! Vậy bạn và tôi thuộc loại môn đồ nào? Chúng ta coi mình là người trung thành với Chúa Kitô vì ‘những gì chúng ta làm’ – dù là trong hoạt động tông đồ, cầu nguyện hay đời sống đạo đức – hay trung thành vì chúng ta ‘yêu Chúa và yêu tha nhân’ nhiều như Chúa yêu? Và tất cả những điều này chỉ được thực hiện; nói cách khác, bạn và tôi chỉ có thể ‘trải nghiệm yêu thương’ như Chúa đã yêu nếu dám quảng đại trao cho Ngài ‘giấy phép xây dựng’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đây linh hồn con, Chúa toàn quyền sử dụng. Xin cày xới, loại bỏ tất cả những gì uế tạp hầu con trở nên một tạo vật mới, có một trái tim yêu thương như trái tim Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*******************************************

 CHÚA NHẬT TUẦN V PHỤC SINH, NĂM C

Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an (Ga 13,31-33a.34-35)

31 Khi Giu-đa ra khỏi phòng tiệc ly, Đức Giê-su nói : “Giờ đây, Con Người được tôn vinh, và Thiên Chúa cũng được tôn vinh nơi Người. 32 Nếu Thiên Chúa được tôn vinh nơi Người, thì Thiên Chúa cũng sẽ tôn vinh Người nơi chính mình, và Thiên Chúa sắp tôn vinh Người.

33a “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy, Thầy còn ở với anh em một ít lâu nữa thôi. 34 Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau ; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. 35 Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này : là anh em có lòng yêu thương nhau.”


 

Zelensky : – Dân tộc tôi đã làm gì sai ?

Xuyên Sơn

Zelensky :

– Dân tộc tôi đã làm gì sai ?

Chúng tôi chưa bao giờ mang quân sang Nước Nga hay bất cứ một đất nước nào, vì chúng tôi chỉ muốn có hòa bình. Tại sao dân tộc tôi lại phải chịu đựng chiến tranh?

Nước Nga quá mạnh so với đất nước chúng tôi, thậm chí họ có thể hủy diệt được cả thế giới.

Sống cạnh một đất nước quá mạnh nhưng lại rắp tâm chiếm đoạt đất của chúng tôi, thì lẽ đương nhiên chúng tôi phải tìm nơi dựa dẫm và nhờ vả ở những quốc gia mạnh hơn thì có gì sai?

Nếu nước Nga tốt đẹp thì sao chúng tôi lại phải chọn con đường đầy nhọc nhằn chông gai và đau khổ để thoát ra?

Nếu nước Nga tốt đẹp thì họ đã không cướp Crimea,

Donetsk

Luhansk

rồi lại muốn xâm lược cả đất nước Ukraine này.

Nếu nước Nga tốt đẹp thì ngày nay , Phần Lan và Thụy Điển đã không xin gia nhập NATO …

Người Nga và những kẻ ủng hộ Pu tin hãy tự tìm câu trả lời cho chính họ trước khi lên án chúng tôi.

Nguồn fb Joseph Bui


 

Có một Nick Út mà tôi biết-Tuấn Khanh

Ba’o Tieng Dan

Tuấn Khanh

17-5-2025

Ông Nick Út về nước ra sách và tặng cho ông Trương Tấn Sang (trái) cuốn sách về cuộc đời của em bé Napalm. Ảnh trên mạng

Câu chuyện về nhà nhiếp ảnh Nick Út và bức ảnh “Em bé Napalm”, trước khi bị đưa ra ánh sáng, đã có nhiều bài viết khẳng định rằng bức ảnh này không phải của ông ta. Năm 2015, nhà bình luận Đức Hồng viết trên BBC tiếng Việt, đã khởi đi rất nhiều tranh luận của người Việt trong và ngoài nước về sự thật ai là tác giả của bức ảnh này. Bằng giọng văn thuyết phục và quả quyết, ông Đức Hồng cho thấy sau bức ảnh “Em bé Napalm” đó còn nhiều điều chưa nói hết, khiến lâu nay nhiều người Việt Nam vẫn lầm tưởng.

Bài viết đặt một câu hỏi – rất hiển nhiên – mà cũng rất cay đắng, vì sao cái gọi là nạn nhân chiến tranh xâm lược của Đế Quốc Mỹ, cô Kim Phúc, cuối cùng đã tìm cách đào thoát và được giúp tỵ nạn ở phương Tây, chứ không ở lại Việt Nam. Nạn nhân đó cũng không muốn được hưởng vinh quang như một biểu tượng chống chiến tranh. Câu hỏi đặt ra là cô Kim Phúc, nhân vật chính trong bức ảnh đó, có hài lòng cho cuộc đời trở thành điểm tựa đẹp nhất về tuyên truyền cho quân đội miền Bắc Việt Nam hay không?

Sự thật là năm 1992, cô Kim Phúc đã thoát khỏi Việt Nam, tỵ nạn ở Canada để không biến mình thành công cụ truyên truyền cho một phía, cũng như tác giả Đức Hồng đặt lên một câu hỏi rất đáng chú ý rằng năm 1972, những người lính Cộng sản Bắc Việt đang làm gì ở đất của miền Nam trong một hiệp định phân chia đất nước vẫn còn hiệu lực. Và vì sao “các em nhỏ ấy lại chạy về phía lính Việt Nam Cộng hòa để kêu cứu mà không một chút sợ sệt, sao các em không chọn những người lính Cộng sản Bắc Việt cũng đang lẩn trốn ở ngay gần đó?”.

Sự thật ít người biết là gia đình cô Kim Phúc cũng bị đánh tư sản vào năm 1975. Cả nhà sống rất khó khăn. Năm 1982 khi một phóng viên người Đức đến Việt Nam để tìm lại nhân vật lịch sử trong bức ảnh “em bé Napalm” thì Kim Phúc bị đẩy thành một nhân vật tuyên truyền cho giai đoạn sau chiến tranh. Mọi thời gian sinh hoạt của cô Kim Phúc lúc bấy giờ đều bị công an kiểm soát chặt chẽ. Thậm chí Kim Phúc bị buộc thôi học trường đại học Y khoa ở Sài Gòn, về sống ở quê Trảng Bàng để tiện dễ kiểm soát ngôn ngữ tuyên truyền.

Sau đó, khi lấy chồng là một du học sinh sống ở Cuba, nhân một chuyến đi, máy bay ngừng chặng ở Gander, Newfoundland (Canada), Kim Phúc cùng chồng trốn khỏi sự kiểm soát của công an viên đi kèm và xin tị nạn. Mọi sự kiện này không là lời kể miệng, mà được bày tỏ công khai trên trang web riêng của Kim Phúc tên là Kim Foundation, quỹ từ thiện do cô sáng lập và cũng như trong quyền hồi ký The Girl in the Picture, hiện vẫn còn bán online trên các nhà sách lớn, như Amazon.

Cùng với những câu hỏi của tác giả Đức Hồng, cũng có một câu hỏi khác được đặt ra, là một người phóng viên của AP, vì sao từ vị trí là một nhiếp ảnh gia ghi chép sự kiện một cách trung dung, ông Nick Út dần dần biến mình thành một người quảng bá sai ý nghĩa của bức ảnh, biến mình thành một nhân vật tuyên truyền hơn cả cô Kim Phúc?

Trong cuộc tranh cãi về sự kiện ông Nick Út trở lại Việt Nam hồi Tháng Sáu 2015, họa sĩ Trịnh Cung nêu một ý kiến khác. “Nếu là một phóng viên có đạo đức, Nick Út đã phải có một thái độ khác. Trái lại, ông Út đã biến cơ hội giữ lại khoảng khắc thương đau của một sinh mệnh, tạo hào quang cho mình, mà không đứng về sự thật của nạn nhân trong suốt nhiều năm liền”, họa sĩ Trịnh Cung nói, “giả sử khi được trao giải Pulitzer, ông Nick từ chối và trao tặng cho nạn nhân mà ông chụp được, có lẽ ông đã giải bày được một cách khiêm tốn về cơ may – hơn là tài năng – và tỏa sáng gấp bội lần hơn lúc này”.

Nhưng điều quan trọng là bên cạnh sự thật ít ai biết về cô Kim Phúc khi phải đào thoát sang Canada – trong số ít đó có ông Nick – thì dường như ông cũng tảng lờ việc đứng về phía nỗi khổ và khó khăn của cô Kim Phúc, và chỉ bám chặt vào bề mặt bức ảnh, lấy câu chuyện để nuôi ánh hào quang cho mình, phản bội lại đạo đức nghề nghiệp báo chí, là phải nói thật về điều mình thấy, trình bày sự thật mà mình biết.

Đạo đức nghề nghiệp đó, đã từng được chứng minh như chuyện nhà nhiếp ảnh Eddie Adams với bức ảnh chấn động thế giới về tướng Nguyễn Ngọc Loan khi bắn phục binh Bắc Việt Bảy Lốp vào năm 1968. Sau khi biết được sự thật, nhất là khi nghe tin tướng Loan qua đời, Eddie Adamas đã nói với báo chí rằng ông đã rất hối hận vì bức ảnh đó làm hại một tướng quân và làm hại một chế độ.

Đạo đức con người cũng đã được thể hiện, khi diễn viên Jane Fonda đi ra miền Bắc Việt Nam cổ vũ cho cuộc chiến tranh tương tàn vào năm 1972. Nhiều năm sau, nhiều lần, người diễn viên này đã bày tỏ sự hối hận vô bờ bến về hành động của mình khi biết rõ tác hại từ chuyến đi của mình. Bà Jane Fonda vẫn lập lại lời xin lỗi đến các cựu chiến binh Mỹ, mỗi khi có dịp.

Nhưng Nick Út thì khác. Ông quay lại Việt Nam để làm triển lãm riêng, ra sách, chụp hình với các quan chức và đặc biệt là tảng lờ về cuộc đời thật của cô Kim Phúc mà ông lúc nào cũng quảng bá là thương mến và thân thiết.

Trong các buổi ra sách, và ký tặng, ông Nick cũng chưa bao giờ nói về sự thật của cuộc đời cô Kim Phúc, cũng như luôn mỉm cười im lặng, như một sự tán đồng với hệ thống truyên truyền Nhà nước rằng đó chính là bức ảnh ông chụp như để tố cáo tội ác xâm lược của đế quốc Mỹ.

Khi được hỏi về việc bị thế giới phát hiện ông là “kẻ cắp” của bức ảnh lừng danh, Nick Út nói ông sẽ đòi công lý “với nỗi đau của mình”. Nhưng có nỗi đau nào bằng chuyện công sức của một người bị cưỡng đoạt suốt nửa thể kỷ, và ông Nick Út thì bao giờ cũng cười tươi che hết ống kính khi nghe nhắc về bức ảnh này. Cũng như có nỗi đau nào diễn đạt được thành lời, khi cô Kim Phúc luôn bị ông giấu trong bóng tối, để làm sáng lòa hơn gương mặt của ông trước báo chí và ống kính truyền thông Việt Nam.


 

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Thầu Chín

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến 

16/05/2025

Có lần, tôi được nghe T.S Mạc Văn Trang giới thiệu (qua) về một nhân vật hơi kỳ lạ:

“Cụ K. cán bộ lão thành chuyên làm công tác tuyên huấn, rồi dạy lý luận Mac- Lê ở trường Đảng của tỉnh, cho đến lúc nghỉ hưu. Cụ vừa tổ chức mừng thọ 80 tuổi khá hoành tráng. Cụ có nguyên tắc bất di bất dịch là: chỉ đọc báo Nhân dân, Tạp chí Cộng sản, nghiên cứu sách kinh điển, xem VTV, không bao giờ nghe tin ngoài luồng…”

Cụ K. khiến tôi chợt nhớ đến những vị đồng hương mà mình đã gặp ở Nong Khai, Nakhom Phanom, Sakon Nakhon và Udon Thani – ở miền Bắc Thái. Việt Kiều tại vùng này, bây giờ, đa số là hậu duệ của những người di cư (từ Lào) vào thập niên 1940.

Lớp tiên phong đều đã qui tiên, đám cháu chắt thì không mấy đứa nói sõi tiếng mẹ đẻ (và cũng chả quan tâm hay tha thiết gì đến VN) còn lũ con cái thì nay đều đã bước vào tuổi xế chiều. Trước kia, những người này thường là đảng viên cộng sản hay thành viên (tích cực) của Hội Việt Kiều Yêu Nước. Nay, tuy không ai đọc báo Nhân Dân hay Tạp Chí Cộng Sản – như cụ K. ở Hà Nội – nhưng cũng chỉ đều “xem VTV và không bao giờ nghe tin ngoài luồng” cả!

Khoẻ!

Cũng như ông Nguyễn Thiện Nhân, tôi tuy sinh ở trong Nam nhưng nói giọng Bắc.  Có lẽ nhờ thế nên tôi được các cụ ở Bắc Thái chấp nhận dễ dàng, và tiếp đãi khá thân mật, dù là người lạ mặt.

  • Thế ra ông mới từ Hà Nội sang à?
  • Vâng ạ. Tôi “vâng/dạ” cho qua chuyện…
  • Đã đi thăm Nhà Bác chưa đấy?
  • Dạ đã.
  • Thấy thế nào?
  • Quí hóa lắm ạ.

Tôi lại khen (đại) cho vui lòng người đối thoại, chứ mấy cái nhà (thổ tả) của Bác mà tôi đã ghé qua chả thấy có gì là hay ho cả. Chúng đều giống như những cái chùa (trá hình) nho nhỏ, vậy thôi. Nói là “trá hình” vì xây chùa mà không thờ Phật mà lại thờ ông Thầu Chín (nào đó) thì e người dân địa phương bất bình nên mới phải “giả danh” là “Khu Tưởng Niệm” hay còn gọi giản dị (và “thân thương” hơn) là Nhà Bác!

Ở Việt Nam thì Hồ Chí Minh, đôi khi, được lôi tuột lên ngồi ké trên bàn thờ Phật. Còn nơi đây (quỷ lộng chùa hoang) Bác một mình một chợ trên án thờ, với lư hương nhang đèn và trước mặt, cùng hạc đứng chầu ở hai bên.

Thiệt là quá đã và quá đáng!

Từ khi bước vào tuổi thuận nhĩ (lục thập nhi nhĩ thuận) tôi trở thành đằm tính, không còn hay buột miệng phát biểu (“linh tinh”) nữa nên chả làm ai bị phật lòng. Bởi vậy, ai cũng nở nụ cười mãn nguyện khi bất ngờ gặp được một kẻ đồng hương (và lại đúng người “đồng điệu” nữa) nơi đất khách.

Miếng trầu là đầu câu chuyện. Rượu bia cũng thế. Vốn tính Nam Kỳ (đi đâu gặp vịt cũng lùa/ gặp duyên cũng kết/ gặp chùa cũng tu) nên xà vào chỗ nào tôi cũng mời mọc tất cả ngồi vào chung bàn, và ân cần cụng ly không sót một ai. Sau khi cạn ly đầy (rồi lại đầy ly cạn) vài lần là chúng tôi đều nói cười rôm rả, sôi nổi nhất là khi mọi người đều hào hứng kể lại những hoạt động (“vào sinh ra từ”) vào những ngày tháng cũ.

Có vị đã từng dắt đường cho bộ đội ta tấn công vào căn cứ Ubon của Mỹ hồi năm 1970. Nhân vật này may mắn thoát chết trong khi có đến 5 chiến sỹ đặc công bị lính canh phòng Thái bắn hạ ngay tại chỗ.

Nói chung, phần đời tuổi trẻ của họ ở Thái đều rất gian truân và phải trải qua nhiều khó khăn cũng như thua thiệt. Tất tần tật đều bị đối xử phân biệt, bị kỳ thị vô cùng khắc nghiệt.

Dân Thái tương đối phóng khoáng. Chính phủ Thái cũng không hay “ganh ghét” gì với tình cảm mà đám kiều dân dành cho cố quốc. Cộng đồng người Hoa sống “chùm gửi” trên đất nước này rất là ổn thoả, an bình, và phú túc.

Tập thể người Việt tị nạn ở Thái Lan, tiếc thay, đã không có được sự ưu ái tương tự. Họ bị coi là những phần tử nguy hiểm (phá rối trị an) nên bị nhà cầm quyền Thái sách nhiễu, cấm đoán đủ điều (*).

Tất nhiên, đây không phải là chuyện hoàn toàn vô cớ. Hồ Chí Minh đã từng đến đất nước này, và đã reo rắc mầm mống cộng sản trong đám dân Việt tha hương:

  • “Từ châu Âu trở về Xiêm, lấy bí danh là Thầu Chín, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc không quản ngại khó khăn, vất vả, hiểm nguy tìm cách tiếp cận với cộng đồng người Việt tại Xiêm để vận động, tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lê nin, kêu gọi tinh thần đoàn kết, yêu nước, và vận động đồng bào, đồng chí Việt Kiều tại Xiêm sẵn sàng cho cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc.” (H.H. “Thầu Chín ở Xiêm và hành trình thành lập tổ chức Đảng gian khó.” Dân Trí – 03/02/2015).
  • “Trong khoảng thời gian hơn 1 năm (1928-1929), Bác Hồ thận trọng và kiên trì mở rộng hoạt động tuyên truyền cách mạng tới bà con Việt kiều đang sinh sống tại nhiều địa phương thuộc Đông Bắc Thái Lan như Phi Chit, U Đon, Nakhon Phanom, Sa Kol, Nong Khai, Mucdahan.” (Nguyễn Tiến. “Bác Hồ Truyển Lửa Cách Mạng Cho Việt Kiều Thái Lan.” Dân Vận – 18/05/2020)

Những “hoạt động tuyên truyền cách mạng” của Người đã gây ra cớ sự và hậu họa khôn lường cho mấy thế hệ kế tiếp. Mãi đến thập niên 1990 – sau khi Chủ Nghĩa Cộng Sản đã chuyển qua từ trần – nhà nước Thái mới hết lo ngại về những “quả bom nổ chậm” do Hồ Chí Minh gài lại, và bắt đầu nới tay với đám Việt Kiều. Từ đó, họ mới ngóc đầu lên được.

Đến nay thì trên những đường phố chính ở Nong Khai, Nakhom Phanom, Sakon Nakhon và Udon Thani… đã có không ít những căn nhà khang trang ̣(cùng với những cửa hàng Việt Nam) xuất hiện, bên cạnh Hoa Kiều.

Nếu Thầu Chín không lò mò đến Thái để “tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lê” thì cuộc sống của đám dân Việt ở xứ này đã dễ thở hơn nhiều, và đã khá giả từ lâu. Hồ Chí Minh đúng là một tên phá thối (trouble maker) rất vô duyên, và là một tay xách động (agitator) vô cùng ngu xuẩn.

Sự xuẩn động của Bác đã được nhà đương cuộc Hà Nội “thăng hoa” qua phim Thầu Chín Ở Xiêm. Cuốn phim “cúng cụ” (đối thoại nghe cứ như kịch nói, cùng với nhiều tình tiết rất cường điệu và lố bịch) này, dù đã công chiếu nhiều lần nhưng ngay cả đám nhi đồng Việt Nam cũng không đứa nào để mắt. Khán giả mộ điệu – có chăng – chỉ là mấy cụ cao niên, vẫn còn đang sống sót ở (tận) bên Xiêm.

Họ hãnh diện về Thầu Chín, cũng như hãnh diện về những “hoạt động” cách mạng của chính mình – vào những năm tháng xa xưa cũ – bất chấp đúng/sai và hậu quả.

Đủ chân thật để có thể nhìn nhận cả một quãng đời thanh xuân bị lừa gạt không phải là chuyện dễ dàng chi (đối với rất nhiều người) nên trong đoàn quân tiến về Sài Gòn vào ngày 30 tháng 4 năm 1975 – dường như – chỉ có mỗi mình nhà văn Dương Thu Hương đã “ngồi xuống vỉa hè ôm mặt khóc như cha chết, một cảm giác vô cùng hoang mang và cay đắng.”

Bởi thế, tôi không ngạc nhiên lắm khi biết ra rằng quí vị nhân sỹ VN ở Thái cũng  “chỉ xem VTV và không bao giờ nghe tin ngoài luồng” cả. Tôi cũng hoàn toàn chia sẻ và thông cảm với cái tâm trạng “dễ hiểu” này nên chưa bao giờ dám “đặt vấn đề” với bất cứ ai.

Chỉ đôi lần, khi chén chú/ chén anh/ chén tôi/ chén bác thân tình (và tưng bừng nhất) tôi mới dám đặt một câu hỏi nhỏ với tất cả chân thành :

  • Có khi nào các bác nghĩ đến chuyện về sống hẳn ở quê mình không?

Sau vài giây phút tần ngần của những người đối ẩm (rồi) tôi cũng nhận được câu trả lời, cũng giản dị và chân tình không kém:

  • Chúng tôi ở đây nó cũng quen rồi, về Việt Nam sợ cũng có nhiều điều bất tiện.

Nhiều vị Việt Kiều ở bên Tây cũng thế, theo như lời kể của đạo diễn Song Chi:

“Nhớ có lần sang Paris được ‘hân hạnh’ gặp một nhóm người, toàn dân ‘trí thức văn nghệ sỹ’ chống Mỹ, thân Cộng ở MN trước kia, nay đã sống mấy chục năm ở Pháp, nhìn chế độ độc tài do ĐCS lãnh đạo ở VN nhưng vẫn không thấy không hiểu ra, sung sướng khi được đăng được in một cuốn sách gì đó ở VN, tiếp tục hăng hái bênh vực chế độ này, nhưng lạ một cái là vẫn cứ sống ở Pháp, bảo về VN sống thì không về…”

Thế mới biết là Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc chưa chắc đã hợp với cái “tạng” của tất cả mọi người nên kính nhi viễn chi (cho nó chắc ăn) là chuyện không có gì đáng trách, hay đáng để phàn nàn. Dù giữa kinh đô ánh sáng Paris hay ở tận những tỉnh vùng ngược, thuộc miền thượng du Bắc Thái (giáp giới với Lào) những kẻ “khôn ngoan” và “thức thời” đều xử sự y như nhau cả.

———————–

(*) Thái thành lập Sở Quản Lý Việt Kiều, một bộ phận riêng trực thuộc tổng nha cảnh sát và nhiều luật cấm được ban hành:

  1. Mọi công chức, cảnh sát, binh sĩ, không được lập gia đình với Việt kiều, nhất là người trong quân đội: phải giải ngũ hoặc ly dị.
  2. Việt kiều chỉ được phép định cư tại 9 tỉnh qui định và không được ra khỏi quận mình cư ngụ. Ra khỏi quận phải có giấy phép để trình tại các trạm kiểm soát dọc đưòng (để kiểm soát VK và cộng sản Thái), nếu không muốn bị bắt tù.
  3. Cấm hội họp, cấm dạy Việt ngữ (sợ cán bộ CSVN dạy lý thuyết CS, tuyên tuyền chống chính quyền).
  4. Không được học đại học.
  5. Cấm làm một số nghề dành cho người Thái hay ngoại kiều hợp pháp.
  6. Cấm mua đất đai, cấm mua xe, cấm xuất ngoại.
  7. Cấp sổ gia đình và giấy chứng minh riêng cho Việt kiều. (Paulle. “Thân Phận Việt Kiều Tại Thái Lan.Nghiên Cứu Lịch Sử – 09/13/2016).