THÁNH THẤT – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

THÁNH THẤT – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Hãy rửa cho sạch bên trong!”.

“Sự vinh hiển của người lành ở trong lương tâm họ, chứ không phải ở miệng lưỡi của người khác!” – Carl Henry.

Kính thưa Anh Chị em,

Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu cho thấy sự vinh hiển của người Pharisêu không ở bên trong – ‘thánh thất’ tâm hồn họ – nhưng ở miệng lưỡi của người đời.

Điều Chúa Giêsu muốn nói là chúng ta phải thực sự trở nên thánh thiện, chứ không chỉ ‘có vẻ’ thánh thiện hoặc ‘xem ra’ thánh thiện. Từ sự thánh thiện bên trong này, chúng ta nhất định sẽ toả chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa cho thế giới. Vì thế, chớ gì những lời thẳng thắn của Chúa Giêsu dành cho những người Pharisêu – “Khốn cho các người, những kẻ đạo đức giả!” – sẽ là những lời yêu thương chính Ngài đang mời gọi bạn và tôi hoán cải! “Hãy coi chừng kẻo thành những vị thánh trong mắt người đời mà lại trống rỗng trước nhan Thiên Chúa!” – Thomas à Kempis.

Hiến Chế Vui Mừng và Hy Vọng có một định nghĩa tuyệt vời về lương tâm, “Lương tâm là tâm điểm sâu kín nhất, là cung thánh của con người; nơi đây, con người hiện diện một mình với Thiên Chúa và tiếng nói của Ngài vang dội trong thâm tâm họ!”. ‘Thánh thất’ bên trong này là điều Chúa Giêsu rất mực quan tâm – đang khi – chúng ta lại thường bị cám dỗ quan tâm nhiều đến việc ‘tôi thế nào’ trước mắt người khác. “Chúa Kitô không hỏi bạn được người đời nhìn thế nào, nhưng hỏi bạn đứng thế nào trước Ngài trong cung thánh lòng bạn!” – Thomas Merton.

Phaolô viết, “Không bao giờ chúng tôi đã tìm cách để được một người phàm nào tôn vinh, dù là anh em hay người khác”; điều quan trọng với Phaolô là khi rao giảng, “Không phải để làm vừa lòng người phàm, mà để làm đẹp lòng Thiên Chúa!” – bài đọc một – Đấng mà Thánh Vịnh đáp ca nói, “Ngài dò xét con và Ngài biết rõ!”. Vì thế, những gì người khác nghĩ và nói, khen và chê không là vấn đề; vấn đề là sự thật mà chỉ một mình bạn và Thiên Chúa thấy trong tim bạn! Người biệt phái không hiểu lẽ thật thiết yếu này nên họ dồn tâm sức vào việc thể hiện mình, đang khi bỏ bê ‘thánh thất’ bên trong. “Trong cung thánh lương tâm, chỉ ánh mắt Thiên Chúa mới quan trọng; còn tất cả chỉ là bóng mờ chóng tàn!” – Henry Newman.

Anh Chị em,

“Hãy rửa cho sạch bên trong!”. Bạn có thường xuyên nhìn vào nội tâm, thành thật với bản thân, thừa nhận tội lỗi và biết ơn những đức hạnh của mình? Hay bạn nằm trong số những người chỉ quan tâm đến việc ‘tôi trông thế nào’ trong mắt người khác? Hãy ‘chìm sâu vào trong’, bởi chính trong không gian ‘thánh thất’ kín nhiệm đó, bạn sẽ gặp Chúa, Chúa sẽ gặp bạn và Ngài sẽ nói cho bạn những gì cần thiết! “Bạn có quyền kiểm soát tâm trí của mình – chứ không phải các sự kiện bên ngoài. Hãy nhận ra điều này, và bạn sẽ tìm thấy sức mạnh!” – Marcus Aurelius. Từ đó, bạn lớn lên trong sự thánh thiện và sau đó, toả sáng sự thánh thiện thực sự này trong thế giới. Khi điều đó xảy ra, Chúa có thể sử dụng bạn để hướng dẫn người khác nên thánh!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con dao động bởi hào quang thế gian, uốn nắn con một chỉ chạy theo ánh sáng Ngài, hầu mọi bước đi của con trở thành dấu chỉ của Chúa!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**********************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXI Thường Niên, Năm Lẻ

Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 23,23-26

23 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các kinh sư và những người Pha-ri-sêu rằng : “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu đạo đức giả ! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. 24 Hỡi những kẻ dẫn đường mù quáng ! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.

25 “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu đạo đức giả ! Các người rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ. 26 Hỡi người Pha-ri-sêu mù quáng kia, hãy rửa bên trong chén đĩa cho sạch trước đã, để bên ngoài cũng được sạch.”


 

 Chuyện quanh chiếc bánh ít – Trần Hoàng Vy 

Kimtrong Lam

Trần Hoàng Vy 

– 24 tháng 8, 2025

(Hình minh họa: YouTube “Vành Khuyên Lê”).

Có lẽ không có người Việt Nam nào là không biết chiếc bánh ít, có điều tùy theo vùng miền mà có hình dáng khác nhau như hình tam giác, hình vuông ở miền Bắc, hình trụ ở miền Trung, hình tháp ở miền Nam, và tùy theo nguyên liệu gói bánh hay nhưn bánh mà có tên gọi: Bánh ít trần, bánh ít lá gai, bánh ít nhân trần, bánh ít nhân mặn…

Theo truyền thuyết trong nghệ thuật ẩm thực, người Việt Nam từ thời xa xưa đã biết làm nhiều loại bánh. Ngoài sự tích bánh chưng, bánh dày, món quà dâng cha mẹ của chàng Lang Liêu hiếu thảo, truyện cổ tích còn kể về nàng Út Ít, cũng là con gái vua Hùng học theo Lang Liêu, dùng nếp làm ra bánh ít.

Và tên chiếc bánh ít cũng đã có mặt rất sớm trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam, như lời trách khéo của chàng trai với cô gái: “Bánh cả mâm sao em gọi là bánh… ít /Trầu cả chợ sao em gọi là trầu không?” hay để chỉ sự trao đổi, thỏa thuận qua lại: “Bánh ít đi, bánh quy lại,” và để nhắc nhở về các vùng đất, người xưa đã có ca dao: “ Muốn ăn bánh ít lá gai/Lấy chồng Bình Định sợ dài đường đi.” Hay: “ Muốn ăn bánh ít nhân mè/Lấy chồng Hòa Đại đạp chè thâu đêm/Muốn ăn bánh ít nhân tôm/Lấy chồng Hòa Đại ăn cơm củ mì.” Hoặc đưa vào lời rao: “Ai mua bánh ít bán cho/Nhưn tôm, nhưn thịt, nhưn dừa ngọt ngon!”

Như vậy, bánh ít đã có từ rất lâu đời trong đời sống ẩm thực và cả văn hóa của dân tộc Việt, trong quá trình mở cõi về phương Nam, bánh ít đã theo chân cha ông trong quá trình mở cõi, và qua phát âm theo thói quen của người miền Nam, bánh ít được phát âm thành “Bánh ích,” lý giải về điều này, nhà nghiên cứu văn hoá Hồ Nhật Quang, cho rằng tên gọi và hình dáng của chiếc bánh dân dã này là cả một nét văn hoá sâu sắc của người dân phương Nam: Đó là tên bánh dựa trên hình dáng của nó. Bánh có hình tam giác, theo Hán tự là hình chữ “Ích”.

Trong kinh dịch, 1 trong 64 quẻ dịch là “Phong lôi ích” hay còn gọi tắt là quẻ ích (phong là gió, lôi là sấm, có gió có sấm là sẽ có mưa xuống, mùa màng tươi tốt, là điềm tốt, có ích). Ích có nghĩa là thêm được lợi, vươn lên suôn sẻ, là tăng lên, làm tốt cho nhau.

Hình dáng bánh như hình tam giác mang hình ảnh rất đặc sắc của dân khai khẩn, đó là hình lều trại.

Thuở khai hoang của cư dân Việt thế kỷ 16, 17, miền Nam rất hoang vu, lưu dân vùng Ngũ quảng đến phương Nam phải dựng lều trại để nương thân, lập nghiệp. Mép gấp của bánh tượng trưng cánh cửa của lều. Người miền Nam khi gói bánh ích còn gấp đỉnh đầu xuống một chút, có nơi gọi là bánh nóc chùa. Điều này mô tả thời khai khẩn, người ta phải nương náu cùng nhau trong những đền chùa…”

Bánh ít thường được làm trong những dịp lễ Tết, đám giỗ để dâng cúng Tổ tiên, tưởng nhớ ông bà và thường được kèm với trái cây, vật phẩm cúng tế để làm quà mang về nhà cho người đến dự lễ hay đám giỗ nên thường đi đôi với câu nói “ giỗ quải”  mà theo từ điển Tiếng Việt, “Quải” là phương ngữ có nghĩa là “vãi hay rải thóc… cho gà ăn”, ở đây có ý chia cho và mang về, hay nói vui theo… dân gian là lo đám giỗ thì phải… “quải” oải người, mệt người! Hay đi ăn giỗ thì phải “quải về”, mang vác quà về…?

Nói đến bánh ít, thì phải nói đến tài nội trợ khéo léo và đảm đang của người phụ nữ làm ra chiếc bánh ít, đó là công đoạn chế biến chiếc bánh ít từ những cân nếp thơm, đậu xanh, cơm dừa nạo, đậu phộng, thịt heo, tôm sú và cả những chiếc lá gai hay lá chuối nữa…

Ngày bé, bọn trẻ chúng tôi thường theo mẹ hay bà, ngồi nhìn bàn tay khéo léo của bà, của mẹ, cẩn thận vo, gút từng nắm nếp thơm trong nước cho sạch, xong để ráo, rồi bỏ vào cối xay gạo, xay nhuyễn thành bột gạo, xong bỏ vào bòng, lấy cối đá dằn lên cho ráo nước chờ nặn thành bánh (hiện nay, đã có máy xay bột, đỡ bớt công đoạn cực nhọc nhất cho người làm bánh).

Trong khi chờ bột, lại phải lo chuẩn bị nhân, tùy theo muốn làm bánh “ngọt” hay “mặn” chia ra bánh nhân hay còn gọi là nhưn: đậu xanh, nhân dừa, đậu phộng, thịt heo hay tôm chấy…, rồi đến chuyện hấp trần, hay gói lá chuối, lá gai.

Bánh gói lá chuối cho bánh màu xanh nhẹ, gói lá gai cho bánh màu đen bắt mắt, bỏ thêm ít lá dứa, bánh có mùi thơm nhẹ, kích thích vị giác của người ăn, và mỗi chiếc bánh ít… lại tràn đầy tình cảm của người gói, của tấm lòng con cháu cúng dâng lên các đấng hiền nhân, tổ phụ, ông bà… và cả tấm lòng san sẻ, chia cho con cháu, hàng xóm, láng giềng đến cùng chung chia sẻ, tưởng nhớ.

Bánh ít còn được dâng cúng trong đền chùa, miếu mạo mỗi kỳ tế lễ và luôn được coi là món quà thanh khiết được cúng dường bởi những con trẻ, tín đồ… đầy lòng thành kính!

Chiếc bánh ít nhân đậu xanh, ngọt bùi. Chiếc bánh nhân dừa, vị ngọt béo, sừng sực của những hạt đậu phộng chín… hay phong vị thơm ngon của thịt heo, của tôm chấy, đủ cả… ngũ hành trong ẩm thực và cả âm dương, cân bằng trong ăn uống dưỡng sinh của người xưa… gợi nhớ bao kỷ niệm của đấng sinh thành và người thân ruột thịt trong mỗi kỳ lễ cúng. Gợi nhớ cả tuổi ấu thơ của một vùng quê với bao họ hàng thân thích.

Tên là chiếc “bánh ít” nhưng đầy và nhiều những tình cảm họ hàng dòng tộc mỗi khi đến kỳ giỗ chạp hay cúng kỵ tiền nhân mở cõi.


 

 Vụ TS Hoàng Phương Mai và những khuất tất mà không một ai nhắc tới

My Lan Pham

Cái chết thương tâm của TS Hoàng Phương Mai – cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm – đã gây bàng hoàng cho cộng đồng nghiên cứu khoa học. Thế nhưng, thay vì làm rõ nguyên nhân, dư luận chỉ nghe thấy những lời xoa dịu, những bình luận vòng vo về “uy tín tập thể” và “không nên quy trách nhiệm”.

Sự im lặng của báo chí chính thống, cộng với việc đồng nghiệp đương nhiệm tập trung công kích người nêu câu hỏi (như bà Phạm Thúy Vinh), càng khiến cái chết của TS Mai bị bao phủ bởi bóng tối của những điều không ai muốn nhắc tới.

Nút thắt: vụ scan sách cổ năm 2017

Theo thông tin từ những người từng quan tâm đến sự ra đi của TS Mai, vụ việc bắt nguồn từ chuyện sách cổ quý hiếm của Viện bị scan và đưa lên mạng.

  • Năm 2017, TS Nguyễn Xuân Diện đã gửi đơn tố cáo lên ông Nguyễn Quang Thuấn, Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
  • Trong đơn, ông Diện nêu đích danh Nguyễn Phúc Anh, lúc đó là giảng viên Bộ môn Hán Nôm, ĐH KHXH&NV Hà Nội, đồng thời phụ trách Thư viện Nhân học, là người đã chia sẻ công khai 1.702 đầu sách Hán Nôm, trong đó có nhiều bản scan quý hiếm như:

o Toàn Việt thi lục (A.132, 1492 trang),

o Toàn Lê tiết nghĩa lục (A.2705),

o Nam Sơn tùng thoại (VHv.246/1).

https://xuandienhannom.blogspot.com/…/ts-nguyen-xuan…

Nhiều nguồn còn cho rằng, ông Phúc Anh có quan hệ gia đình với lãnh đạo Viện Hán Nôm thời điểm đó.

Vụ việc nghiêm trọng đến mức ảnh hưởng an ninh văn hóa quốc gia, nhưng cuối cùng lặng lẽ chìm xuống. Người bị nêu tên không bị truy cứu trách nhiệm. Lãnh đạo cũng không ai chịu trách nhiệm.

Trong khi sai phạm gốc không được xử lý, thì TS Hoàng Phương Mai, vốn phụ trách mảng thư viện sau này, liên tục bị đánh giá “không hoàn thành nhiệm vụ” trong suốt 3 năm. Bà trở thành “người gánh” cho một lỗi hệ thống mà thủ phạm thực sự đã thoát.

  • Bị xếp loại kém liên tiếp, bà bị cho thôi việc???
  • Bà làm đơn khiếu nại lên Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, nhưng không được giải quyết thỏa đáng???
  • Bị cô lập trong cơ quan, áp lực tinh thần đè nặng, bà rơi vào trầm cảm và cuối cùng tự tử???

Không chỉ dừng lại ở năm 2017. Năm 2023, báo chí ghi nhận hơn 100 quyển sách cổ bị mất, bị phá hủy tại Viện Hán Nôm

https://dantri.com.vn/…/khong-the-chap-nhan-viec-sach…

TS Nguyễn Xuân Diện khi trả lời BBC News Tiếng Việt đã nêu rõ: những sách mất bao gồm Toàn Việt thi lục, Việt âm thi tập, Nam Việt thần kỳ hội lục, Hoàng Việt địa dư chí… Đặc biệt, Hoàng Việt địa dư chí của Phan Huy Chú là bản sách liên quan trực tiếp đến chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa.

https://www.bbc.com/vietnamese/articles/c80rn05zllyo

Nghĩa là, sách ở Viện Hán Nôm không chỉ là di sản, mà là chứng cứ về chủ quyền quốc gia.

Trong bình luận dài hơn 1.000 chữ của cán bộ đương nhiệm Đào Phương Chi dưới bài viết của bà Phạm Thúy Vinh, người ta chỉ thấy vô vàn lời rào đón về “nhân nghĩa”, “tình yêu Viện”, “không nên quy chụp”… nhưng tuyệt nhiên không có một dòng nào liên quan đến vụ scan sách hay vụ mất sách cổ năm 2023.

Những người từng nhiệt tình bảo vệ “danh dự cơ quan” hôm nay đã ở đâu khi di sản quốc gia bị xâm hại? Họ đã ở đâu khi một nữ đồng nghiệp bị dồn ép đến mức trầm cảm và tự tử?

Cái chết của TS Hoàng Phương Mai không thể tách rời khỏi bối cảnh những khuất tất bị chôn vùi trong quản lý sách cổ tại Viện Hán Nôm. Đó là một chuỗi:

  • Sai phạm rõ ràng (scan, thất thoát sách),
  • Không truy cứu trách nhiệm,
  • Đổ gánh nặng lên một cá nhân,
  • Đẩy người đó vào tuyệt vọng.

Ngày nay, khi đồng nghiệp của bà Mai rào đón để “bảo vệ uy tín cơ quan”, câu hỏi công luận cần đặt ra là:

Uy tín của tập thể đó có giá trị gì nếu những người trong tập thể đó đã im lặng khi thấy tài sản quốc gia bị thất thoát, và quan trọng hơn là sinh mạng của một đồng nghiệp vừa bị tước đoạt do bị dồn đến đường cùng bởi sự im lặng này?

Công lý hay công bằng trong vụ việc này dù có tới bằng cách nào đi chăng nữa thì cũng đã quá muộn màng bới một mạng người đã mất. Cũng như vụ Tai nạn giao thông khiến người cha của cháu gái đã tử vong phải tự mình đi tìm công lý trong cơn phẫn uất tột cùng, TS Mai đã khép lại cuốn sách của cuộc đời làm khoa học của mình trong khi đồng nghiệp của chị vẫn đang cố bảo vệ cơ quan sau nhiều ngày đứng nhìn chị rơi dần vào vùng xoáy trầm cảm.

P.S.: Dưới đây là nguyên văn bình luận của bà Đào Phương Chi được dẫn lại từ FB Pham Thuy Vinh:

Đào Phương Chi

Kính thưa cô Pham Thuy Vinh, với tư cách là một cán bộ đương nhiệm tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm và với lòng kính trọng của một người nhỏ tuổi hơn đối với cô, cháu có đôi lời thế này ạ:

Từ khi nghe hung tin về em M, toàn thể cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm không ai không shock và ai cũng bị xáo trộn tâm lý ít nhiều. Nhưng từ hôm qua, sau khi xuất hiện bài viết của cô trên FB về sự ra đi của em M, thì cuộc sống của hầu hết cán bộ Viện bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì các cuộc đt và tn từ trong và ngoài Viện Hàn lâm KHXH. Đã bị phân tâm vì việc của em, nay lại phân tán vì các cuộc gọi và nt bất đắc dĩ, mà vì danh dự của Viện, vì minh oan cho những người có liên quan, bọn cháu vẫn phải hồi âm đầy đủ.

Cô ạ, khi đọc bài của cô, cháu nghĩ rằng cô chỉ nghe thông tin từ em M, mà không có các kênh khác. Nhưng đến hôm nay, cháu mới biết rằng cô đã biết được thông tin từ chiều khác, ít nhất là từ em Thuy Truong (Trưởng phòng HC) và em Tre Việt (khi đó đang là CT Công đoàn). Các em không kể hết đầu đuôi sự việc với cô, hay các em kể mà cô không nhớ, hay cô không tin các em ạ?

Hai hôm nay, những người tinh ý cũng đang xôn xao trên MXH vì một việc nghiêm trọng như thế, tại sao không thấy bất kỳ một cán bộ đương nhiệm nào của VHN lên tiếng? Người trong Viện không lên tiếng, không đăng bài, vì mọi người hiểu rõ sự tình và muốn người vừa nằm xuống sớm được yên nghỉ, chứ không phải vì sợ, vì che giấu, hay vì điều nào khác. Nếu như VHN thực sự làm ra những điều khủng khiếp như một số người hiểu – qua diễn ngôn của cô – thì cháu chắc chắn rằng sẽ có người trong chính VHN đưa tin trước cô nhiều rồi ạ.

Cô nói rằng cô “chỉ đề cập đến những gì đã nghe, đã biết”, “không có ý gì đổ lỗi cho ai, vì làm sao biết mà đổ lỗi?”. Nhưng rất tiếc là khi đọc bài của cô, đa số mọi người – trong đó có cháu – dựa trên câu chữ mà đều hiểu rằng nguyên nhân dẫn đến kết cục đau đớn đó là do em M bị cho thôi việc một cách oan uổng. Nghĩ rằng có thể do cô diễn đạt không chuẩn, nên khiến cháu và nhiều người hiểu lầm, cháu đã chờ hơn một ngày. Nhưng tiếc rằng, trước những bình luận gay gắt với ý tứ buộc tội rõ ràng như vậy, mà không hề thấy một lời đính chính/bào chữa nào từ cô, mà chỉ có những biểu cảm mang tính đồng thuận của cô dưới mỗi cmt đó. Im lặng là đồng ý – cô cho những nhận định của mọi người về việc này là đúng. Cháu hiểu như vậy không biết có chính xác không ạ? Nếu cháu hiểu đúng, thì liệu có phải cô “không buộc tội ai”?

Cháu cũng có chung quan điểm với chị Hằng Lã Minh – người nghỉ hưu sau cô và là một trong những người thân thiết với em M nhất tại VHN: nếu chưa rõ thì đừng đưa tin. Nếu muốn rõ thì hãy tìm hiểu. Nếu như cô thấy thông tin từ các cán bộ VHN đưa ra không khả tín, thì có một kênh đáng tin nhất là anh Dương, người vừa là chồng vừa là đồng nghiệp của em M và đồng thời cũng theo dõi diễn biến sự việc từ đầu đến cuối. Hoặc nếu cô muốn, cháu cũng có thể tìm lại những văn bản hữu quan đã được gửi lên group Viện, để cô nắm tình hình. Nếu không tìm hiểu, mà chỉ đưa tin theo cách hiểu của mình, khiến người đọc bị dẫn dắt đi theo một định hướng không chuẩn thì hậu quả khôn lường cho cả uy tín cá nhân lẫn uy tín tập thể. Theo cháu, sự thương xót chỉ thật sự có ích khi đi kèm trách nhiệm. Và uy tín của Viện có được là nhờ một phần rất lớn của những người đã và đang công tác tại Viện – đặc biệt là những người cao tuổi có học hàm học vị, chứ nó không tự có được đâu, cô ạ. Chúng ta không bao che cho điều xấu, nhưng cũng không nên tự bôi xấu, hoặc khiến người khác hiểu lầm về Viện – nơi ta đã có một thời gian dài cống hiến và yêu mến.

Cháu không muốn nói về người đồng nghiệp bạc mệnh của mình lúc này, nhưng nếu không lên tiếng, thì việc này không biết sẽ kéo dài đến bao giờ? Em M có yên nghỉ được khi ngày nào cũng có hàng chục hàng trăm người nhắc tên? Bố mẹ, chồng con em có nguôi ngoai hơn khi đọc những bài viết kèm theo những cmt tiêu cực như trong FB của cô? Cháu nghĩ rằng, trong thời điểm hiện tại, điều tốt nhất chúng ta có thể làm cho em M và gia đình em là đừng để những dạng bài viết như thế này xuất hiện. Bởi, nếu vẫn tồn tại những bài viết kèm những cmt nặng nề do sự hiểu lầm kiểu này, người ra đi không thanh thản được, mà người ở lại chỉ thêm đau đớn.

Những lời trên đây xuất phát từ sự yêu mến Viện Nghiên cứu Hán Nôm và sự kính trọng nhất thiết phải có đối với cô. Nếu có gì không phải, mong cô bỏ quá cho cháu!

Cháu cảm ơn vì cô đã đọc ạ!

Fb Nguyễn Ngọc Như Quỳnh


 

LỜI XƯA VANG VỌNG, NGƯỜI NAY MUỘN PHIỀN…

Tu Le – Những Câu Chuyện Thú Vị

Có những tin tức đọc qua rồi quên, nhưng cũng có những cái tên, những câu chuyện day dứt mãi không thôi. Với tôi, cái chết của tiến sĩ Hoàng Phương Mai – tuổi 49, hai con thơ, chồng đau yếu – là một trong những nỗi ám ảnh như vậy.

Một người phụ nữ đã đi hết chặng đường dài học thuật, đạt học vị tiến sĩ, có sách in, có nghiên cứu, có danh xưng… lẽ ra đó phải là chỗ dựa tinh thần cho cả gia đình. Vậy mà, bi kịch đến nhanh như một nhát dao vô hình. Sau khi bị cho thôi việc ở Viện Hán Nôm, chị ngày ngày đến ngồi nơi phòng tiếp khách – vẫn tin mình còn thuộc về chốn ấy. Khi cánh cửa ấy cũng bị đóng sập bằng lệnh cấm lui tới, chị chọn cách ra đi nghiệt ngã nhất.

Tôi không quen chị. Chỉ biết chị là tác giả của Lời xưa vang vọng, một khảo cứu văn học thế kỷ XVIII. Tôi nhớ cái bìa sách màu trầm, chữ in mộc mạc, nội dung nghiêm cẩn mà tha thiết. Người đọc bình thường có khi chỉ lật vài trang rồi gấp lại, nhưng với tôi, đó là minh chứng của sự cần mẫn. Bởi khảo sát văn bản cổ không bao giờ dễ dàng – đó là hành trình vừa trí tuệ vừa tâm huyết, cần cả kiên trì lẫn lòng yêu mến di sản dân tộc.

Vậy mà, một trí thức như chị, cuối cùng đã bị ruồng bỏ như một “kẻ vô tích sự”.

Phó Giáo sư Phạm Thùy Vinh kể lại: Viện Hán Nôm từng gợi ý chị viết đơn “tự nhận sức khỏe yếu, không hoàn thành công việc” để được rút lại quyết định sa thải. Chị từ chối. Chị tin mình không sai, tin vào công lý ở cấp cao hơn. Và chị vẫn lạc quan, vẫn chờ đợi “cấp trên cứu xét”. Có lẽ, chính sự trong sáng ấy mới khiến bi kịch trầm trọng. Trong một guồng máy nơi “quan quan tương hộ”, sự ngay thẳng nhiều khi trở thành cái gai bị nhổ bỏ.

Người đời ca ngợi “kinh tế tri thức”, nhưng chúng ta chưa bao giờ xây dựng nổi một môi trường cho trí thức thực sự tự do, tự trọng. Trí thức phần nhiều phò chính thống, lụy danh lợi, ham bè phái. Ai giữ khí tiết, không chịu a dua, thì sớm muộn cũng bị lạc loài. Một Viện, một Hội, một “ngân sách nhà nước” – đều trở thành chốn đấu đá vặt vãnh, nơi mà kẻ mạnh không phải là kẻ có học vấn, mà là kẻ khéo luồn lách.

Tiến sĩ Hoàng Phương Mai rốt cuộc không chịu được những vòng xoáy rẻ rúng ấy. Chị ra đi, mang theo niềm tin vụn vỡ.

Tôi thương chị, và thương cho cả cộng đồng trí thức nước mình. Chúng ta nói nhiều về “tri thức”, nhưng lại để mặc những người như chị bơ vơ, không có nổi một chỗ dựa tinh thần, không có nổi sự nâng đỡ khi vấp ngã. Người phụ nữ ấy sống bằng nguyên tắc, và chết cũng vì nguyên tắc. Câu thơ xưa của Bùi Huy Bích bỗng ứng nghiệm trong cảnh đời nay: “Kiến thuyết quan binh công lược bạo/ Dân gia phiến tịch đãng vô di” – nghe chuyện quan binh tàn bạo, dân gia không còn nổi một manh chiếu.

Nay, tôi viết đôi dòng, như nén hương tưởng nhớ một người phụ nữ trí thức đã chọn kết thúc đời mình trong nỗi u uất. Để nhắc mình, nhắc bạn: trong thế giới ồn ào chức tước, hãy giữ lại cho nhau một chút lòng nhân. Để còn có thể an ủi, nâng đỡ những người dám sống bằng lẽ phải, thay vì bỏ mặc họ chìm vào bóng tối.


 

 Hai ông Tiến Sĩ Xuân: Một nấm mồ lạnh và một vòng hoa đỏ – Đoàn Xuân Thu

LƯƠNG VĂN CAN K 76.- Kimtrong Lam 

Đoàn Xuân Thu –

25 tháng 8, 2025

Ông Nguyễn Duy Xuân (trái) (Hình: vietnamvanhien.org) và ông Võ Tòng Xuân (Hình: VnExpress).

Người Việt mình hay tin chuyện trùng tên. Nào là “trùng tên dễ trùng số phận,” nào là “đồng âm ắt đồng mệnh.” Nhưng coi bộ… cũng chưa chắc đâu.

Thí dụ, hai ông Xuân – một ông Nguyễn Duy Xuân, một ông Võ Tòng Xuân. Cùng học cao hiểu rộng, cùng từng đứng bục giảng Viện Đại Học Cần Thơ, cùng đeo cái mác “tiến sĩ – giáo sư” sáng loáng, Nhưng trời đất xoay vần, một ông thì chết tức tưởi trong trại cải tạo, lạnh lẽo dưới mưa phùn miền Bắc. Còn một ông lúc sinh thời sống khỏe re, áo mão cân đai, nụ cười đỏ chói dưới lá cờ sao vàng.

“Đốc tờ Lúa và người trí thức chết trong tù”

Thế mới thấy: tài chưa đủ, phải thêm “hên” và… biết nịnh.

Từ tiếng cười đến tiếng khóc

Ngày trước 1975, ai ở miền Nam hẳn còn nhớ chương trình “Gia đình Bác Tám” trên Đài phát thanh Sài Gòn. Một thứ kịch truyền thanh bình dân, có tiếng gà gáy, chó sủa, ếch nhái kêu, xen lẫn chuyện đời thường. Đạo diễn, theo nhiều tài liệu, là nghệ sĩ Năm Châu, bậc thầy sân khấu cải lương. Dân quê nghe để cười, dân tỉnh nghe để quên mệt, dân Sài Gòn nghe để thấy chút hồn Miền Tây giữa lòng phố thị.

Rồi một sáng Tháng Tư, “giải phóng” tràn vô, chương trình dẹp cái rụp. Thay tiếng cười là tiếng loa phường rè rè kể chuyện “anh A hợp tác xã nuôi heo” hay “chị B thi đua may mặc vượt chỉ tiêu.”

Kết quả, làng quê Nam Bộ từ đó vang nhiều hơn tiếng chửi thề, tiếng thở dài. Thay cho tiếng cười Bác Tám là những câu chuyện bi hài: anh em chém nhau giành đất, chồng giết vợ vì cái đói, thanh niên bỏ xứ làm cu li, thiếu nữ lấy chồng Đài Loan kiếm tiền báo hiếu, tạ cái ơn sanh thành cùa má dưỡng dục của ba. Văn nghệ cách mạng làm dân chỉ biết khóc, khóc ròng.

Võ Tòng Xuân – “người đâu cũng có mặt”

Ấy vậy mà sau này, ông Võ Tòng Xuân xuất hiện và… giành luôn bản quyền! Ông nói như đinh đóng cột rằng chính mình mới là tác giả “Gia đình Bác Tám.” Ông bảo mình viết kịch bản, kiêm diễn viên, và chương trình “hấp dẫn tới mức mấy chú, như chú Sáu Dân tức Võ Văn Kiệt, trùm VC giải phóng trong mật khu, cũng khoái nghe.” Nghe mà cười té ghế! Đài phát thanh Sài Gòn, “sản phẩm Mỹ – Ngụy,” mà giải phóng trong bưng bật radio nghe khoái trá? Nếu có thiệt, chắc mấy ổng nghe để… rút kinh nghiệm tuyên truyền thì có.

Chưa hết, ông Xuân còn kể lể: nào là Sáu Dân (Võ Văn Kiệt) từng mê Bác Tám, nào là khi tiếp quản Đại Học Cần Thơ, ông Phạm Sơn Khai, tức đồng chí Bảy Khai hỏi ngay: “Giáo sư Võ Tòng Xuân Gia đình Bác Tám còn đây không?” Nghe thiệt oai, nhưng thử hỏi: một ông tập kết ra Bắc, sống mấy chục năm với báo Nhân Dân và “Văn nghệ Quân đội” thì biết quái gì “Gia đình Bác Tám” mà quan tâm? Chuyện nầy nghe giống… “Bác Tám” kể hơn là lịch sử.

Tóm lại, cái tài của ông Võ Tòng Xuân không phải ở nông học, mà ở cái miệng: mâm nào cũng có ổng. Nông nghiệp có, kịch nghệ có, tuyên truyền cũng có. “Trí thức cách mạng” mẫu mực!

Nguyễn Duy Xuân – trí thức bị CS bức tử

Trái lại, ông Nguyễn Duy Xuân (1925–1986) mới đúng là trí thức Nam Bộ thứ thiệt. Ông sinh ở Ô Môn, học Collège de Cần Thơ, rồi sang Pháp lấy cử nhân Kinh tế, sang Anh lấy cao học, qua Mỹ lấy tiến sĩ ở Vanderbilt. Về nước, ông làm tổng trưởng kinh tế, cố vấn Tổng Thống Thiệu, rồi viện trưởng Viện Đại Học Cần Thơ.

Ông xây dựng đại học theo mô hình tín chỉ của Mỹ, gửi giảng viên đi du học, mở ngành nông nghiệp, sư phạm, đào tạo cả một thế hệ trí thức miền Tây. Và chính ông – chứ không ai khác – đã mời Võ Tòng Xuân từ Viện Lúa quốc tế Los Baños về giảng dạy năm 1972. Nghĩa là thầy mời trò về, chứ không phải trò tự “vác lúa giống IRI” về như báo chí sau này khoe.

Đến Tháng Tư, 1975, ông Nguyễn Duy Xuân chọn ở lại, tham gia nội các Vũ Văn Mẫu. Và như một lẽ “cách mạng” phải có, ông bị tống đi cải tạo tận miền Bắc. Sau 11 năm giam cầm, ông chết tức tưởi ở trại Ba Sao, Hà Nam. Mộ phần heo hút, không vòng hoa, không điếu văn. Cái chết của một trí thức lớn chỉ còn lại tiếng khóc lặng lẽ của gia đình. Một nấm mồ lạnh.

Võ Tòng Xuân – “đốc tờ Lúa” khéo xu thời

Trong khi đó, ông Võ Tòng Xuân (1940–2024) lại lên như diều gặp gió. Ông nhanh chóng thành “đốc tờ Lúa” của chế độ, là “cha đẻ nhiều giống lúa mới,” là “người hùng cách mạng xanh.” Báo chí quốc doanh thi nhau ca tụng: nào là Anh Hùng Lao Động, Nhà Giáo Nhân Dân, giải thưởng VinFuture. Khi ông mất, tang lễ đầy vòng hoa đỏ, huân chương lấp lánh, lãnh đạo xếp hàng chia buồn. Một vòng hoa đỏ rực rỡ tiễn đưa.

Ai từng tiếp xúc đều thấy: cái tài thật sự của ông Xuân là biết nói vừa tai lãnh đạo CS. Khi thì kể chuyện “Gia đình Bác Tám” như công trình cách mạng, khi thì khéo gắn mình với Sáu Dân, Bảy Khai để chứng minh “có công với cách mạng.” Cái tài nông học có, nhưng cái tài nịnh thì vượt xa. Đúng nghĩa “người biết xu thời sống thảnh thơi.”

Hai ông Xuân – hai con đường

Nguyễn Duy Xuân: trí thức chính danh, học cao hiểu rộng, tận tụy cho đại học, cuối cùng chết thảm trong tù. Một nấm mồ lạnh. Võ Tòng Xuân: biết nịnh, biết khéo, mượn gió bẻ măng, cuối cùng sống an nhàn, chết trong vinh quang đỏ chói. Một vòng hoa đỏ. Cùng tên Xuân, nhưng một ông tàn tạ như cây khô mùa bấc, một ông được ca tụng như cành đào ngày Tết. Đó chính là bi kịch trí thức Việt Nam sau 1975.

***

Câu hỏi để lại cho hậu thế: trí thức Việt Nam nên chọn con đường nào? Giữ nhân cách để chết lặng lẽ trong tù? Hay cúi mình nịnh bợ để sống khỏe, để được gọi “anh hùng lao động?”

Lịch sử rồi sẽ phán xét. Nhưng dân gian thì khỏi cần chờ: một nấm mồ lạnh đã đủ làm chứng, và một vòng hoa đỏ đã đủ để cười chê: “Trí thức gì mà kỳ vậy chớ?”

(Melbourne)


 

  CHO ĐI THÌ ĐƯỢC GÌ ?-Têrêsa NgọcNga (st)

 Một buổi sáng náo nhiệt, người đàn bà sang trọng đi chiếc xe hơi bóng láng, lóng lánh như kim cương tới cửa thiên đàng. Nghe tiếng còi điện lừng vang, thánh Phêrô vội vã mở cửa dẫn vào

Khi vị thánh giữ cửa thiên đàng chỉ cho bác tài xế của bà một toà nhà đồ sộ, thì bà sung sướng nghĩ thầm: “Bác tài mà còn được ở một toà nhà nguy nga tốt đẹp như thế! Còn tôi chắc phải được một dinh thự sang trọng lộng lẫy đến chừng nào”. Và bà ta xoa tay vui sướng.

 Ngờ đâu khi bác tài đi rồi, thánh Phêrô lại chỉ vào một túp lều lụp xụp ở góc vườn và nói:

– Đó là nhà của bà.

 Người nhà giàu hoảng hốt, choáng váng đầu óc:

– Nhà của tôi đó thật sao? Không, tôi không thể nào sống trong một căn lều tồi tàn xấu xí như thế được!

Thánh Phêrô vân vê chòm râu bạc, trả lời giữa hai cái nháy mắt.

 – Thưa bà, với vật liệu bà đã gởi lên cho tôi xưa nay, tôi chỉ làm được có ngần ấy thôi

 Têrêsa NgọcNga (st)

  From: ngocnga_12 & NguyenNThu

 Ba nhân đức đối với Thiên Chúa là những nhân đức nào?- Cha Vương

Ngày Thứ 2 đầu tuần zui zẻ và thật mạnh mẽ trong đức Tin, Cậy, Mến nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 25/8/2025   n26-24

GIÁO LÝ:  Ba nhân đức đối với Thiên Chúa là những nhân đức nào? Là đức tin, đức cậy, đức mến. Chúng được gọi là “đối thần”, vì chúng có nền tảng trong Thiên Chúa, và trực tiếp hướng về Thiên Chúa. Ta có thể nhờ 3 đức này như con đường trực tiếp đạt tới Thiên Chúa. (YouCat, số 305) 

SUY NIỆM: Tại sao tin, cậy, mến là nhân đức? Vì là những sức mạnh thực sự được Chúa ban, và nhờ ơn Chúa giúp, ta có thể gia tăng và củng cố để đạt được sự sống sung mãn (Ga 10:10). Thiên Chúa là tình yêu: ai ở trong tình yêu là ở trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở trong họ.—1 Ga 4:16(YouCat, số 305)

   Có một gia đình nọ sống giữa đồng không mông quạnh. Vào một đêm kia, căn nhà bốc cháy dữ dội. Cha mẹ, con cái vội chạy ra ngoài sân và đứng bất lực nhìn ngọn lửa thiêu rụi tổ ấm gia đình họ.

Bỗng mọi người chợt nhận ra còn thiếu mất đứa con bé nhất. Thì ra cậu bé cũng chạy ra với mọi người, nhưng chưa tới cửa, thấy lửa cháy dữ quá, cậu sợ hãi quá nên lại chạy trở lên lầu.

Trong lúc cả gia đình hốt hoảng không biết phải làm sao để cứu cậu bé năm tuổi, vì lửa cao ngút tứ phía, bỗng cửa sổ trên lầu mở toang, và cậu bé kêu khóc inh ỏi. Cha cậu bé gọi lớn tên con, rồi nói:

– Con nhảy xuống đây!

Cậu bé nhìn xuống dưới chỉ thấy khói mù và lửa cháy, nhưng nghe tiếng cha kêu mình, liền trả lời:

– Ba ơi, con không trông thấy ba đâu hết!

Người cha trả lời giọng cương quyết:

– Cứ nhảy đi, có ba trông thấy con là đủ rồi!

Và cậu bé leo lên cửa sổ, liều nhảy xuống, rơi vào vòng tay yêu thương vạm vỡ của cha mình một cách an toàn.

         Bạn có một người Cha còn yêu thương bạn hơn mọi người cha trần thế. Đó là chính Thiên Chúa. Để giúp bạn sống xứng đáng là con cái Thiên Chúa, vượt qua được những khó khăn trong cuộc sống, Thiên Chúa ban cho bạn một số nhân đức đặc biệt. Những nhân đức này quy hướng chúng ta về Thiên Chúa, nên được gọi là các nhân đức đối thần. Đó là các nhân đức Tin, Cậy, Mến. Vậy bạn hãy để mình rơi vào vòng tay từ bi và nhân lành của Chúa đi nhé.

LẮNG NGHE: Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến. (1 Cr. 13:13)

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa, vì yêu thương con, Chúa đã ban cho con các nhân đức—Tin, Cậy, Mến, xin giúp con luôn luôn hướng về tình thương Chúa mà kiên trì học hỏi cầu nguyện để có được đời sống tốt tràn ngập bình an và hạnh phúc. 

THỰC HÀNH: Để tỏ lòng tin tưởng, cậy trông và yêu mến Chúa, bạn hãy quyết tâm trong tuần này luôn nhớ tới Chúa và xin Ngài chúc lành cho công ăn việc làm của bạn và những khó khăn bạn gặp trong ngày.

From: Do Dzung

*************************

Con Tin Chúa Ơi | Sáng Tác: Lm. Duy Thiên | Trình Bày: Gia Ân

Hình ảnh đoàn người xếp hàng trước Đại sứ quán Mỹ

Nguyen Ngoc Anh

 Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào, chào mừng ngày 2.9. nhưng ngày nào củng như vậy nè. Đặc biệt không phải ai củng được xếp hàng vậy đâu, thường thì con cháu đám Quan chuyên hô đánh Mỹ Ngụy nhào mới được xếp hàng ở đây. Bao giờ đến lượt dân đen.

Đây là hình ảnh đoàn người xếp hàng diễu binh trước Đại sứ quán Mỹ

Nếu một ngày ta chán nhau – Nhữ Thị Thảo – Truyen ngan HAY

Tác giả: Nhữ Thị Thảo

Có một thời gian vợ chồng mình không thể cười với nhau sau những cuộc cãi vã được nữa. Điều mà trước đây chỉ to tiếng vài phút sau là đã cười nhăn nhở. Đến khoảng ấy lại là sự im lặng, im lặng đến ngột thở. Chẳng ai có thể nói được với nhau lời tử tế. Tránh mặt nhau, ngay cả giấc ngủ cũng không muốn chạm. Chỉ cần nói với nhau một câu cũng đủ gây ra một cuộc khẩu chiến.

Mình nói rất nhiều lần rằng, với mình im lặng là chết. Và lúc ấy thì vợ chồng mình đang chết thật. Cứ thế kéo dài đến cả tháng trời, trong khi bình thường ngay cả khủng hoảng tồi tệ nhất cũng chỉ ngày thứ 3 là vợ chồng lại ôm nhau ngủ. Vậy mà suốt 1 tháng chẳng ai có thể nhìn nhau một cách bình thường. Cảm giác như chỉ muốn biến mất khỏi cuộc đời nhau một cách sạch sẽ nhất.

Và rồi một buổi tối, chồng mình ngồi gõ lạch cạch cả giờ đồng hồ, rồi in ra bản ĐƠN XIN LY HÔN đưa mình .Chồng mình nói:

– Giải thoát cho nhau đi em. Anh sắp không chịu nổi rồi.

Chẳng thế hiểu được lý do vì sao, ngay cả bản thân mình cũng nghĩ đến điều ấy nhưng là đàn bà vẫn còn muốn giữ gia đình tròn vẹn cho con nên cứ sống như vậy đi.

Mình không ngạc nhiên, bình thản cầm bút ký: Tôi đồng ý!

Chồng mình im lặng cầm lá đơn cho vào cặp. Trong lá đơn nói rõ sẽ chia đôi con cho nhau. Mỗi người nuôi một đứa.

Cả đêm hôm ấy, vợ chồng mình không ngủ. Mắt mình ráo hoảnh, chẳng thể nghĩ được gì cho ngày mai. Còn chồng mình – anh ấy bật khóc nấc lên từng tiếng.

Lần đầu tiên mình nhìn thấy những giọt nước mắt chua chát của anh ấy. Dường như cố gắng kìm lại nhưng không được, rồi anh bật dậy lao vào nhà tắm, không nhớ là ở trong ấy bao lâu, chỉ biết lúc trở ra mắt đã đỏ ngầu.

Mình hỏi:

– Sao anh khóc, đây chẳng phải là ý của anh sao. Sao còn đau khổ chứ. Em đồng ý giải thoát theo ý anh, anh còn muốn gì.

Chồng mình nhìn lên ánh mắt vật vã:

– Anh thương con, rồi hai đứa sẽ mỗi đứa một phương, không được ở cạnh nhau nữa. Anh sẽ rất nhớ con.

Rồi anh ấy ôm ghì lấy Bột, cố nén tiếng nấc.

Mình đứng bật dậy, cố không để mình khóc theo.

Khi cuộc sống đã đến mức chẳng thể dung hoà được nữa, ra đi là điều cần thiết. Chẳng phải vì ai, chẳng vì ai phản bội ai, chỉ vì chúng ta đã không thể vượt qua những áp lực cuộc sống. Mình cũng đã từng nói với anh ấy: Con người mình buông bỏ hay nắm giữ đều rất quyết liệt. Anh ấy hiểu điều ấy.

Và chồng mình khoá FB, ai tinh ý có thể thấy một thời gian mình viết gì cũng không tag anh ấy vào nữa. Bọn mình ly thân, mỗi đứa một phòng. Mình nhắn cho chồng mình:

– Anh đừng bỏ Facebook, em muốn nhìn thấy con, anh siêng up ảnh con nhé, hàng tuần sẽ cho hai anh em gặp nhau 1 lần. Xin lỗi vì chúng ta đã không thể giữ được tình yêu này.

Lúc này mình khóc .

Ngày hôm sau ấy, chồng mình đi làm nhắn tin về rằng:

– Anh đi làm và đã nộp đơn lên toà án. Họ hẹn 15 ngày nữa gặp nhau trên toà để giải quyết. Thời gian ấy chúng ta tạm thời ly thân, sau đấy anh sẽ thuê nhà giúp cho em và con.

Mình nhắn lại lạnh lùng:

– Không cần đâu, em sẽ đi luôn, em tự lo được.

Hôm ấy trở trời con lại ốm, mình thu xếp đồ rồi nói với mẹ chồng là đưa cháu đi Hà Nội khám bệnh. Chuyện sau này êm xuôi sẽ nói sau.

Chồng mình chuyển vào tài khoản riêng của mình, rồi nhắn :

– Anh sẽ gửi thêm sau

– Ok anh, em và con đi bây giờ.

Chồng mình im lặng.

Mọi thứ đã hoàn tất cho một cuộc chia ly. Chẳng cần lý do gì cả, chỉ là không thể ở bên nhau được nữa. Mình gọi taxi, ôm con vào lòng, vô thức, cứ đi đã rồi tính. Nửa đường thì con lên cơn sốt, rồi nôn trớ trong xe, mặt tái đi. Ngoài trời giữa những ngày rét đậm. Mình hối lái xe chạy nhanh về bệnh viện nhi trung ương.

Trời bắt đầu tối thì có mưa, bế con chạy vào viện, mưa và gió táp vào mặt lạnh buốt, cố ôm lấy con mà lòng cay đắng. Tại sao mọi thứ lại trở nên như thế, tình cảm 6 năm qua, những khó khăn đã từng, những yêu thương ngọt ngào đã qua giờ chỉ cần ngoảnh mặt đi là hết sao?

Một mình tay ôm con sốt, tay làm thủ tục. Con khóc, bác sĩ hỏi người nhà đâu, đưa người nhà bế con. Lúc ấy trong đầu nhớ về những ngày hai vợ chồng đưa con đi khám. Đứa bế con đứa chạy lăng xăng lo việc. Con khóc đứa bế đứa dỗ, động viên nhau. Quay sang bên cạnh, mọi người đều đủ bố mẹ bên cạnh con. Mình ứa nước mắt.

Hình như chúng ta đã sai ở đâu đấy. Hình như chúng ta đang làm khổ nhau và con vì cái ích kỷ của bản thân.

Tay xách nách mang, vừa ôm cho con ti vừa chạy, nước mắt lã chã. Cái hình ảnh lúc ấy chắc chẳng thể nào quên. Con bị viêm phế quản, bác sĩ cho thuốc rồi về. Mò vào túi lấy điện thoại, hơn 20 cuộc gọi nhỡ và 5 tin nhắn của chồng mình. Đồng hồ đã gần 10h đêm.

Anh ấy nhắn:

– Em nghe máy đi

– Em và con đang ở đâu

– Anh sai rồi, em cũng sai rồi

– Em về đi

– Em ở đâu, anh đi đón.

Mình không kìm được nữa, khóc nức nở ở hành lang bệnh viện. Gọi lại cho chồng mình:

– Em đang trong viện nhi, con ốm. Khám xong rồi. Giờ em mới cầm điện thoại.

– Em bắt xe cho con về nhà luôn nhé, về thấy tủ quần áo của em trống không, chẳng thấy em ngồi ở giường như mọi ngày, anh thấy sợ quá. Anh gọi em mãi mà em không nghe. Anh lại càng lo, cứ nghĩ dại …..

– Về đi, mai anh đi rút lại đơn .

Mình hiểu tâm trạng của chồng mình, có lẽ cũng như mình lúc này.

Mình tắt máy, lòng bớt nặng, sau tất cả, mình cần về. Tình yêu vẫn ở đấy, chỉ là chúng ta mải lo quá nhiều thứ mà trót hết kiên nhẫn cho một mối quan hệ. Cơm áo gạo tiền quên đi mất chúng ta còn tình yêu cần gìn giữ.

Về đến nhà hơn 12h khuya. Cả nhà đã ngủ, còn chồng mình ngồi đấy, đón lấy con rồi bảo:

– Em qua quán ăn bát cháo đi cho ấm (quán cháo ngay sát nhà).

Mình làm theo vì bụng lúc này đã rống tuếch.

Xong xuôi vào phòng, đặt con xuống giường, hai vợ chồng nhìn nhau hồi lâu, mình bật khóc, chồng mình ôm lấy mình rồi nói:

– Thôi, không sao đâu. Vợ ngủ đi không mệt rồi. Ổn rồi, ổn rồi …

Sau 1 tháng im lặng là cái ôm ổn rồi của chồng!

Thế đấy, có những quãng thời gian chẳng cần người thứ 3 thì cuộc sống vợ chồng cũng trở nên bế tắc đến mức muốn tống khứ ra khỏi cuộc đời nhau bằng lá đơn Ly Hôn như vậy.

Cuộc hôn nhân nào dù có tốt đẹp đến mấy cũng phải có đến trăm lần người trong cuộc muốn ly hôn, cũng phải đến vài chục lần muốn “giết chết” đối phương. Vì chúng ta ai cũng có khuyết điểm.

Sống chung một nhà là đã lột trần nhau toàn diện từ thể xác đến tính cách, nhiều khi có cảm giác hối hận vô cùng vì lấy nhau. Mình chắc các bạn cũng có cảm giác vậy ở một giai đoạn nào đấy. Thắng được cái khoảng thời gian BỘC LỘ này thì chúng ta sẽ THẤU HIỂU và sẽ là HẠNH PHÚC. Nếu không sẽ vĩnh viễn mất nhau ở tuổi trẻ, đánh mất tất cả những năm tháng đã yêu thương và cần có nhau đến mức nào!

Cái gì trong cuộc đời cũng có giá của nó hết. Giá của cái nắm tay lúc về già là bao nhiêu giông bão của tuổi trẻ. Hi vọng mỗi chúng ta đều nghĩ được khi muốn chấm dứt hãy nghĩ về những lý do khiến chúng ta bắt đầu! Nghĩ về những phút giây hạnh phúc bên nhau! Giờ thì ôm người đàn ông bên cạnh ngủ đi thôi.

Tác giả: Nhữ Thị Thảo

From: Tu Phung

Từ Lenin đến Mao, Hồ,… chết cũng không yên!

Ba’o Nguoi-Viet

August 24, 2025

Trúc Phương

Ngày 19 Tháng Tám, trên trang Facebook cá nhân, ông Nguyễn Đình Bin, cựu thứ trưởng thường trực Bộ Ngoại Giao Việt Nam, một lần nữa nhắc lại việc cần phải hỏa táng thi hài ông Hồ Chí Minh. Trong thực tế, cái gọi là “di thể” hoặc “thi hài” không hề tồn tại. Những gì được thấy trong lăng Lenin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, hay Kim Nhật Thành chỉ là những phần rất ít còn sót lại của một thi thể và được chắp vá chằng chịt để tạo nên hình tượng giống thật nhằm phục vụ mục đích tuyên truyền.

Tổng Thống Emmanuel Macron của Pháp đặt vòng hoa tại lăng ông Hồ Chí Minh hôm 26 Tháng Năm. (Hình minh họa: Ludovic Marin/AFP via Getty Images)

Muốn… “đầu thai” cũng không thể!

Nằm đó, trong lăng, những Lenin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, hay Kim Nhật Thành trở thành biểu tượng bất tử của chế độ. Xác không còn là… “xác” theo nghĩa đen của từ này mà trở thành công cụ tuyên truyền, tạo cảm giác rằng lãnh tụ “vẫn sống,” và người dân bị buộc phải chiêm ngưỡng như thần như thánh. Xác lãnh tụ trở thành công cụ kiểm soát ký ức và lịch sử. Bằng cách duy trì sự “hiện diện” của người quá cố, chế độ định hình cách thế hệ sau nhìn nhận về lãnh tụ, nhấn mạnh sự trường tồn của tư tưởng lãnh tụ, tạo ra một dạng tín ngưỡng dân gian.

Điều mâu thuẫn trớ trêu nhất là trong khi cố “bảo quản” di thể lẫn di sản của “Người,” hậu thế của “Người” lại cực kỳ tàn bạo trong việc đối xử với xác của “Người.” Bằng nhiều kỹ thuật “hành xác,” vật lên vật xuống, nhào nặn, tiêm chích đủ kiểu với vô vàn phương pháp can thiệp trong quá trình bảo quản, người ta đã làm điều mà tâm linh người Á Đông luôn kiêng kỵ: Tránh tối đa việc đụng đến thi thể người quá cố. “Người” đã không thể yên nghỉ nơi “chín suối.” Trong Phật Giáo hay nhiều tín ngưỡng truyền thống, việc “hành xác” người chết có thể bị coi là ngăn cản luân hồi, hay nói theo ngôn ngữ bình dân là “chết không đầu thai.”

Việc giữ lại xác của những Lenin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, hay Kim Nhật Thành không phải là cách ướp xác như Ai Cập cổ đại. Trong trường hợp đang nói, việc giữ lại xác được thực hiện theo cách sao cho toàn bộ thi thể phải “nguyên vẹn,” chứ không phải là cái xác khô, với hình dong và nhất là khuôn mặt phải nguyên vẹn y như lúc sinh tiền. Để làm được điều đó, gần như toàn bộ thi thể phải bị phá tan nát, theo cách rất man rợ và rùng rợn.

Thi thể Lenin, Mao, Hồ… đã “bị” làm gì?

Trong trường hợp Lenin, nhóm chuyên gia giải phẫu và nhà sinh hóa trực thuộc Trung Tâm Nghiên Cứu Khoa Học và Phương Pháp Giảng Dạy Công Nghệ Sinh Hóa Moscow được giao nhiệm vụ bảo quản thi thể “Người.” Từ thập niên 1920 cho đến 1991, việc bảo quản thi hài Lenin là ưu tiên khoa học hàng đầu của Liên Xô. Ông Alexei Yurchak, giáo sư nhân chủng học đại học UC Berkeley, Hoa Kỳ, đã viết nhiều về quy trình này trong đó có công trình nghiên cứu “Bodies of Lenin: The hidden science of communist sovereignty” phát hành năm 2015 (nguồn: “How the quest to preserve Lenin’s body helps the living,” PBS).

Dù gia đình và vợ Lenin (bà Nadezhda Krupskaya) muốn an táng ông nhưng lãnh tụ Joseph Stalin quyết định xây lăng mộ và giữ lại vĩnh viễn thi thể Lenin. Tháng Ba, 1924, Bác Sĩ Vladimir Vorob’ev và nhà sinh hóa Boris Zbarskii thuộc Viện Y Moscow được yêu cầu áp dụng phương pháp ướp xác của họ cho thi thể Lenin. Tháng Bảy, họ báo cáo rằng thi thể có thể giữ nguyên trạng vô thời hạn, miễn là được tái ướp và chăm sóc định kỳ. Tuy nhiên, toàn bộ hệ thống động mạch và tĩnh mạch của thi thể phải bị tách cắt bỏ. Tất cả những gì còn sót lại của cơ thể Lenin là bộ xương, da, mô cơ và “hình dáng” bên ngoài. Toàn bộ nội tạng và não cũng bị lấy ra.

Do không thể tiêm hóa chất qua mạch máu như thông thường, người ta sử dụng kỹ thuật vi tiêm (micro-injection) để bơm dung dịch bảo quản vào từng phần cơ thể. Nhóm kỹ thuật cũng phát minh bộ đồ cao su hai lớp phủ lên thi thể để duy trì lớp dung dịch hóa chất lưu thông bên dưới. Bộ vest đen như thấy hiện nay mà ông Lenin “mặc” là nhằm phủ che lên bộ đồ cao su đó. Hai năm một lần, toàn bộ thi hài được tái ướp bằng cách ngâm trong nhiều dung dịch khác nhau: glycerol, formaldehyde, potassium acetate, alcohol, hydrogen peroxide, acetic acid, và acetic sodium. Mỗi lần ngâm kéo dài khoảng sáu tuần.

Thi hài Lenin luôn được theo dõi để phát hiện và xử lý ngay lập tức các dấu hiệu xuống cấp. Đặc biệt diện mạo bên ngoài. Theo Giáo Sư Alexei Yurchak, “Lenin” hiện được gắn lông mi giả. Mũi, khuôn mặt, hốc mắt, và nhiều phần khác cũng được “tạo hình lại” bằng hỗn hợp paraffin, glycerin và carotene… Nói cách khác, có thể thấy rằng “người nằm đó” có vẻ là… Lenin nhưng chẳng phải là “nguyên bản” Lenin.

Tất cả là “đồ giả”

Tương tự là trường hợp Mao Trạch Đông. Bản thân ông Mao từng yêu cầu được hỏa táng sau khi chết, nhưng Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Trung Quốc, đặc biệt bà vợ Giang Thanh của ông, quyết định rằng ông Mao phải tiếp tục “sống mãi.” Trong bài báo “Preserving Chairman Mao: embalming a body to maintain a legacy” tờ The Guardian cho biết, trước khi xác Mao trương sình phân hủy, ông Tạ Phiêu (Xie Piao), một viên chức phụ trách dự án thử nghiệm làm mát bằng nhiệt điện, bị triệu tập giữa đêm và được giao nhiệm vụ làm lạnh thi thể Mao.

Khi đến Đại Lễ Đường Nhân Dân, ông Tạ Phiêu thấy thi thể “người cầm lái vĩ đại” nằm trong một quan tài gỗ trong căn phòng nóng rực vì ánh đèn điện. Nhóm ông Tạ Phiêu tìm cách đưa nhiệt độ phòng xuống còn 4-5 độ C. Họ không được phép làm đông lạnh thi thể. Chỉ trong vài giờ, khí nitơ bao quanh thi thể được làm lạnh xuống 8 độ C.

Tám ngày sau khi kết thúc công việc ở Đại Lễ Đường, ông Tạ được yêu cầu rời đi. Ông không biết nhiều về việc ướp xác, trong đó có việc hút sạch dịch trong cơ thể rồi bơm formaldehyde vào. Sau này, trong hồi ký, ông Lý Chí Thỏa (Li Zhisui), bác sĩ riêng của ông Mao, kể rằng, khi bơm formaldehyde vào, đầu của ông Mao “sưng phù lên như trái banh.” Cần nói thêm, Tháng Tám, 2016, khi tạp chí trí thức tự do Viêm Hoàng Xuân Thu (Yanhuang Chunqiu) đăng bài thuật những gì ông Tạ Phiêu kể, họ liền bị đóng cửa.

Bất luận phương pháp gì, để giữ xác “tươi mới,” và trông “Người như đang ngủ,” thật ra chỉ bộ xương là phần duy nhất còn thuộc về xác của “Người.” Mắt giả, lông mi giả, móng tay móng chân giả, tóc cũng giả tất… Thậm chí da cũng giả vì không có da thật nào có thể tồn tại vĩnh viễn, bất luận nó được ngâm trong dung dịch bảo quản. Hơn nữa, sau nhiều lần thi thể bị lật qua lật lại trong quá trình thực hiện ngâm dung dịch, da bị bong tróc gần như hoàn toàn. “Người” nào cũng thế cả – từ Lenin đến Kim Nhật Thành (Kim Il-sung), Kim Chính Nhật (Kim Jong-il); từ Mao Trạch Đông đến Hồ Chí Minh…

Để lại, để làm gì?

Hồ Chí Minh chỉ khác những người kia là… “lận đận” hơn nhiều. Sau khi chết, Hồ Chí Minh còn trải qua nhiều “kiếp nạn.” Như được thuật trong bài “50 năm gìn giữ thi hài Bác Hồ và những chuyện bây giờ mới được kể” (báo Tuổi Trẻ), thì “trong sáu năm kể từ khi Người qua đời năm 1969 đến 1975, thi hài của Chủ Tịch Hồ Chí Minh được di chuyển tổng cộng sáu lần do nhiều nguyên nhân, điều kiện khác nhau…” Theo đúng nghĩa đen, Hồ Chí Minh khi chết cũng không yên, dù những ngày trước khi chết, ông bị “hành” lên “hạ” xuống liên tục, bị “phong tỏa” quyền lực, trở thành lãnh tụ bù nhìn trước sự thao túng của bộ đôi Lê Duẩn và Lê Đức Thọ.

Bất luận thi thể trong Lăng Hồ Chí Minh có là tượng sáp hay không, và dĩ nhiên là… “không” (như được khẳng định trong bài báo “Lời giải cho thắc mắc ‘thi hài Bác’ là thật hay tượng sáp,” báo Pháp Luật Việt Nam) thì chắc chắn cái gọi là thi thể Hồ Chí Minh, tương tự Mao hoặc Lenin, đã không còn lại nhiều vết tích DNA của “nguyên bản” Hồ Chí Minh. Xác của ông chẳng khác gì là hình người “nhân tạo.” Hơn nữa, phương pháp ướp xác tất cả họ, về căn bản, đều giống nhau, đều xuất phát từ “lò” Liên Xô.

“Về cơ bản, nguyên tắc ướp xác giống như ngâm thực phẩm. Để bảo quản lâu dài, người ta cần tạo ra môi trường vô trùng,” theo Giáo Sư Sue Black thuộc Trung Tâm Giải Phẫu và Nhận Dạng Con Người, đại học University of Dundee, Anh (Nguồn: “Who, What, Why: How do you embalm a leader?” BBC), người ta phải thay đổi hoàn toàn thành phần hóa học của mô và loại bỏ mọi vi khuẩn, để nấm mốc không thể phát triển. Một lượng lớn cồn, glycerol (giúp cơ thể không bị mất nước) và formalin (hóa chất giúp diệt vi sinh vật) được bơm vào cơ thể. Người ta thậm chí pha sắc hồng (pinkish tint) vào formalin để cơ thể có màu “tươi tự nhiên,” rồi còn cấy tóc, gắn mi…

Dù thế nào, những Vladimir Lenin, Mao Trạch Đông, Hồ Chí Minh, Kim Nhật Thành… cũng gần như rất giống nhau. Họ là lãnh tụ sống mãi với lịch sử của đảng họ nhưng họ là những kẻ tội đồ dân tộc đối với không ít người dân của họ.

Mặt trái của sự bất tử hóa ký ức Mao hay bất tử hóa ký ức Hồ Chí Minh, hóa ra, một cách ngoài ý muốn, lại đồng nghĩa với việc những gì họ mang đến cho dân tộc họ vẫn tiếp tục được nhắc nhớ, bằng cái nhìn gay gắt và đầy phán xét. Chẳng có nhân vật lịch sử nào không được hậu thế đánh giá lại. Thi thể trong lồng kính không biết nói và không thể biện hộ cho tội ác của mình, nhưng, càng chậm chôn cái xác giả của họ thì tội ác thật của họ sẽ còn tiếp tục “tươi mới” với thời gian. [đ.d.]


 

MỞ TRỜI – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chúc anh em được ân sủng và bình an!”.

Hải ly, động vật có vú, sống lưỡng cư – nửa nước nửa cạn – có tài đắp đập, tạo những con đê kiên cố khống chế mực nước. Nguyên liệu là cành cây và sỏi đá; chỗ có kẽ hở, hải ly dùng đuôi đập nát đất rồi trát kín. Những con đê này thường rất kiên cố, 5-6 người có thể đi qua mà không sập; đôi khi, những đập chắn của hải ly dài hơn cả 100 mét.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay không nói đến việc đóng mở ‘đê điều’ của hải ly, nhưng nói đến việc ‘mở trời’ hay ‘khép trời’ của con người. Việc ‘mở đóng’ cửa thiên đàng – một phần – tuỳ thuộc việc chúng ta ‘đóng’ hay ‘mở’ những dòng chảy ân sủng và bình an của Chúa!

Khởi đầu thư Thessalonica, Phaolô viết, “Chúc anh em được ân sủng và bình an!”; tiếp đến, Phaolô dâng lời tạ ơn về những việc làm vì lòng tin, những nỗi khó nhọc vì lòng mến, và những gì kiên nhẫn họ chịu đựng. “Người ta nhận ra một cộng đoàn sống động ở chỗ họ không giữ lại cho mình, nhưng để tình yêu Chúa tuôn chảy như dòng sông!” – Jean Vanier. Đó là một giáo đoàn đã ‘mở’ cho dòng chảy ân điển Chúa trào tràn không chỉ trên họ, nhưng trên cả các giáo đoàn non trẻ khác, vì “Chúa mến chuộng dân Người!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Tương phản với các tín hữu tốt lành của Phaolô là những lãnh đạo không mấy tốt lành thời Chúa Giêsu. Ngài gọi họ là những kẻ ‘đóng trời’, khiến ân sủng và bình an của Chúa tắc nghẽn không chỉ với họ mà còn với những người khác. Họ khác nào những con hải ly ngăn chận suối ân phúc, “Khốn cho các người!”; “Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào! Chính các người không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào!”. “Kẻ giả hình khoá cửa trời đối với tha nhân bằng sự thánh thiện giả hiệu của mình!” – Fulton Sheen.

Sao Chúa Giêsu nặng lời đến thế? Ngài nặng lời, vì họ nhân danh Thiên Chúa mà lôi kéo người khác đi vào con đường lầm lạc; không nhận biết Ngài, chối nhận Ngài, họ còn làm cho những người khác mê lầm. “Con người làm ác hăng hái nhất khi nhân danh Thiên Chúa!” – Blaise Pascal. Vậy mà những lời quở trách của Chúa Giêsu không hàm ý một sự tức giận; đúng hơn, đầy xót thương và đợi chờ. Ngài hy vọng sự thật trần trụi này sẽ chìm sâu vào trong, giúp họ ăn năn; nhờ đó, ân sủng và bình an của Chúa lại có thể đổ xuống trên họ và qua họ, đến với người khác.

Anh Chị em,

“Chúc anh em được ân sủng và bình an!”. Ước gì bạn và tôi trở nên những máng tuôn chảy ân sủng cho mình và cho tha nhân; mở ra niềm vui, hạnh phúc, hy vọng… bắt đầu với những người gần nhất trong gia đình, trong cộng đoàn. Và khi nhìn lại, chúng ta không ngại thống hối ăn năn vì không ít lần, chúng ta đã hành động như loài hải ly đóng đập; để từ nay, quyết tâm đứng lên, cởi mở cho dòng ân sủng của Chúa tự do tuôn chảy qua cuộc đời mình và đến muôn người. “Chỉ con tim biết sám hối mới trở nên chiếc máng thông ơn để ân sủng tuôn chảy tự do!” – Henri Nouwen.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cho con xác tín, chỉ khi con tim sám hối, nó mới trở nên máng chảy để ân sủng Chúa tự do tuôn trào!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

*************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXI Thường Niên, Năm Lẻ

Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng !

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 23,13.15-22

13 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các kinh sư và những người Pha-ri-sêu rằng : “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu đạo đức giả ! Các người khoá cửa Nước Trời không cho thiên hạ vào ! Chính các người không vào, mà những kẻ muốn vào, các người cũng không để họ vào.

15 “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu đạo đức giả ! Các người rảo khắp biển cả đất liền để rủ cho được một người theo đạo ; nhưng khi họ theo rồi, các người lại làm cho họ đáng xuống hoả ngục gấp đôi các người.

16 “Khốn cho các người, những kẻ dẫn đường mù quáng ! Các người bảo : ‘Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không ; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc.’ 17 Đồ ngu si mù quáng ! Thế thì vàng hay Đền Thờ là nơi làm cho vàng nên của thánh, cái nào trọng hơn ? 18 Các người còn nói : ‘Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không ; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc.’ 19 Đồ mù quáng ! Thế thì lễ vật hay bàn thờ là nơi làm cho lễ vật nên của thánh, cái nào trọng hơn ? 20 Vậy ai chỉ bàn thờ mà thề, là chỉ bàn thờ và mọi sự trên bàn thờ mà thề. 21 Và ai chỉ Đền Thờ mà thề, là chỉ Đền Thờ và Đấng ngự ở đó mà thề. 22 Và ai chỉ trời mà thề, là chỉ ngai Thiên Chúa và cả Thiên Chúa ngự trên đó mà thề.”