Thiên Chúa siêu việt đã trở thành một con người – Cha Vương

Chúc bình an! Một ngày ấm áp trong vòng tay yêu thương của Chúa nhé.

Cha Vương

Thứ 2: 10/11/2025

TIN MỪNG: Lạy Cha…. (Mt 6:9)

SUY NIỆM: Thiên Chúa siêu việt đã trở thành một con người. Thiên Chúa vĩ đại, quyền uy đã hiện thân nơi một đứa trẻ bé bỏng mong manh, bọc tã, nằm trong máng cỏ. Ngài đến là để cứu độ chúng ta, là để giúp chúng ta nhận ra tình thương của Chúa, là để trở thành mẫu mực thánh thiện cho chúng ta và là để chúng ta được thông phần bản tính Thiên Chúa (GLCG số 457- 460). Nhờ ơn cứu chuộc của Chúa Giê-su mà chúng ta mới có một người Cha chung là Đấng không những đã tác tạo nên chúng ta giống hình ảnh mà còn ban cho chúng ta niềm hạnh phúc thật.

    Câu chuyện kể rằng khi thánh Phanxicô khó khăn trình lên Đức Thánh Cha Hônôriô II bản qui luật của Dòng, để xin Ngài phê chuẩn thì Đức Thánh Cha có hỏi thánh nhân: – Có bao giờ con thấy Chúa chưa?

     Phanxicô: – Dạ thưa có. Con vừa thấy đêm hôm qua.

     Đức Thánh Cha: – Người có nói gì với con không ?

    Phanxicô: – Người và con ở bên nhau suốt đêm mà không nói được gì. Tuy nhiên mỗi lần con nói “Abba—Lạy Cha” với Người thì Người lại trả lời với con: “Con Ta”. Cứ thế… chẳng có gì hơn cho tới sáng.

Thật là diễm phúc biết bao khi thốt lên tiếng Lạy Cha! Có bao giờ bạn cảm thấy gần gũi thân mật với Chúa như vậy chưa?

CẦU NGUYỆN: Lạy Cha nhân từ, xin ở bên con luôn mãi và xin giúp con làm đẹp lòng Chúa trong mọi tư tưởng lời nói và hành động.

THỰC HÀNH: Kết hiệp với Chúa bằng cách thốt lên “Lạy Cha…”.

From: Do Dzung

****************************

LẠY CHA – KÍNH MỪNG – SÁNG DANH

KHÔNG VÌ THƯỞNG – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi!”.

Tại một miền quê hẻo lánh, một mục sư âm thầm phục vụ giữa số giáo dân lèo tèo. Nhiều năm sau, ông mới biết, có một người ông đưa về với Chúa là Charles Spurgeon – “Hoàng Tử của Các Nhà Giảng Thuyết” – người đã dẫn hàng vạn linh hồn về cho Ngài. “Khi không nghĩ đến phần thưởng, người ta làm được vô vàn điều lành!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Với dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu không nói đến phần thưởng, nhưng nói đến tình yêu và lòng trung tín. Đức tin lớn lên khi chúng ta làm điều phải làm, âm thầm và tự nguyện – ‘không vì thưởng’, chỉ vì yêu!

Dụ ngôn có thể gây bối rối: một ông chủ xem ra hống hách và lạnh lùng; nhưng đó lại là khung nền làm nổi bật vẻ đẹp của người đầy tớ: vâng phục, khiêm nhu và tín thác. Thực ra, hình ảnh người đầy tớ ấy là bóng dáng của Chúa Giêsu, Đấng hạ mình vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá. Ngài là Đầy Tớ trung tín, ‘không vì thưởng’, chỉ vì yêu! Đây là mẫu gương của một đức tin trưởng thành: không tính toán, không kể lể, chỉ gắn liền với tình yêu. “Sự vĩ đại thực sự thường ẩn giấu, khiêm nhường, giản dị và không phô trương!” – Henri Nouwen.

Đối với người tin, mọi sự là dấu chỉ; đối với người yêu, mọi thứ là quà tặng! Làm việc cho Vương Quốc đã là một phần thưởng lớn lao. Vì thế, “Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng” không là lời than vãn, nhưng là lời tạ ơn chúc tụng của người được mời cộng tác với Chúa trong công trình cứu độ của Ngài, “Tôi sẽ không ngừng chúc tụng Chúa!” – Thánh Vịnh đáp ca. Mọi việc chúng ta làm không do sức riêng, mà là hoa trái của ân sủng đang hoạt động trong mỗi người. Vì thế, người đầy tớ biết mình “vô dụng” không vì tự ti, nhưng vì nhận ra tất cả là hồng ân.

Phục vụ ‘không vì thưởng’ chính là để ân sủng được tự do toả sáng trong đời mình. Khi chúng ta làm điều tốt mà không chờ đáp đền, chính là lúc Thiên Chúa đang âm thầm ân thưởng cho chúng ta. Phần thưởng của Ngài không chỉ là bình an, niềm vui, mà là chính Ngài. “Nếu chúng ta phục vụ ý muốn của Thiên Chúa với lòng khiêm tốn, không đòi hỏi gì, thì chính Chúa Giêsu lại phục vụ, nâng đỡ và khích lệ chúng ta!” – Bênêđictô XVI. “Ai trung thành, sẽ được Chúa yêu thương và cho ở gần Người!” – bài đọc một. Đó mới là phần thưởng thật – được ở gần Chúa, nguồn mạch mọi mừng vui.

Anh Chị em,

“Chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi!”. Phục vụ Chúa, bạn và tôi đừng bao giờ nghĩ mình đang ‘làm ơn’ cho Ngài! Không phải chúng ta rộng lượng với Chúa, nhưng Chúa rộng lượng với chúng ta, Ngài chẳng hề mắc nợ ai. Như Mẹ Maria, “Này tôi là tôi tớ Chúa!”, chúng ta xem mọi điều Chúa trao là ân phúc, là phương thế để nên trọn lành. Hiểu được Chúa là ai, chúng ta sẽ không ngần ngại làm tôi tớ, thậm chí là nô lệ của Ngài – ‘không vì thưởng’, chỉ vì yêu.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, thường khi chưa làm, con đã ‘đòi thưởng’. Dạy con làm điều tốt không giới hạn, chẳng màng phần thưởng trần gian, chỉ mong được ở gần Ngài!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

*****************************************

Lời Chúa Thứ Ba Tuần XXXII Thường Niên, Năm Lẻ

Chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 17,7-10

7 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các Tông Đồ rằng : “Ai trong anh em có người đầy tớ đi cày hay đi chăn chiên, mà khi nó ở ngoài đồng về, lại bảo nó : ‘Mau vào ăn cơm đi’, 8 chứ không bảo : ‘Hãy dọn cơm cho ta ăn, thắt lưng hầu bàn cho ta ăn uống xong đã, rồi anh hãy ăn uống sau !’ ? 9 Chẳng lẽ ông chủ lại biết ơn đầy tớ vì nó đã làm theo lệnh truyền sao ? 10 Đối với anh em cũng vậy : khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói : chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.”


 

 Án phong chân phước cho bé gái người Pháp 8 tuổi chính thức bước vào giai đoạn Rôma

Tin Mừng Cho Người Nghèo

 Án phong chân phước cho bé gái người Pháp 8 tuổi chính thức bước vào giai đoạn Rôma

Vị thỉnh nguyện viên mới của án phong chân phước cho Anne-Gabrielle Caron, Đức Ông Denis Dupont-Fauville, chia sẻ điều khiến ngài cảm phục nhất nơi cô bé.

Tiến trình này tuy dài, nhưng đang tiến triển!

Anne-Gabrielle Caron là một bé gái người Pháp qua đời vì ung thư năm 2010 khi mới 8 tuổi. Sau bốn năm trong giai đoạn cấp giáo phận – với khoảng 50 lời chứng được thu thập – án phong chân phước của cô nay chính thức bước vào giai đoạn Rôma.

Người được bổ nhiệm làm thỉnh nguyện viên Rôma là Đức Ông Denis Dupont-Fauville, kinh sĩ của Đền Thánh Phêrô tại Vatican và Nhà thờ Đức Bà Paris, đồng thời là giáo sư thần học tại Rôma. Trong cuộc phỏng vấn với Aleteia, ngài kể lại những hoàn cảnh đặc biệt dẫn đưa ngài đến sứ vụ này, và chia sẻ những nét đáng quý nơi nhân cách của Anne-Gabrielle.

Ngài hiện chịu trách nhiệm soạn Positio super Vita, Virtutibus et Fama Sanctitatis – hồ sơ chứng minh đời sống thánh thiện của cô bé, giúp Bộ Phong Thánh đạt được sự xác tín luân lý về mức độ thánh thiện của Anne-Gabrielle.

“Vai trò của ngài gồm những gì?”

Đức Ông Denis Dupont-Fauville:

Ngay sau khi được xác nhận là thỉnh nguyện viên Rôma, tôi đã gửi thư lên Bộ Phong Thánh xin mở án phong của Anne-Gabrielle. Sau khi hồ sơ được thẩm định hợp lệ, nhiệm vụ của tôi là đọc toàn bộ các tài liệu của cuộc điều tra cấp giáo phận – những tài liệu được niêm phong trong lễ bế mạc ngày 7 tháng 12 và đã được đưa đến Rôma.

Kế đó, tôi sẽ phải soạn Positio – một bản tóm lược khoảng 300 trang – để trình bày đời sống phi thường và tính anh hùng trong các nhân đức Kitô giáo của Anne-Gabrielle.

Tài liệu này sẽ được các thành viên Bộ Phong Thánh xem xét, và nếu được chấp thuận, họ sẽ trình lên Đức Giáo Hoàng để người được gọi là “Tôi tớ Chúa” có thể được tuyên phong là Đấng Đáng Kính (Venerable). Đây là một tiến trình dài và cẩn trọng.

“Quá trình này sẽ kéo dài bao lâu?”

Đức Ông Dupont-Fauville:

Đó là một tiến trình lâu dài và tỉ mỉ, thường kéo dài trong nhiều năm. Những trường hợp như Thánh Gioan Phaolô II hay Chân phước Carlo Acutis khiến người ta nghĩ phong thánh diễn ra nhanh, nhưng đó là những ngoại lệ hiếm hoi.

“Ngài có biết đến Anne-Gabrielle trước khi được bổ nhiệm không?”

Đức Ông Dupont-Fauville:

Thật ra, hoàn cảnh rất bất ngờ. Lần đầu tôi biết về Anne-Gabrielle là khi tình cờ đọc được một bài báo trên Famille Chrétienne ở nhà người quen. Tôi bị ấn tượng mạnh bởi cuộc đời và hình ảnh của em, đến mức đã làm điều tôi chưa từng làm bao giờ: chụp lại bài báo bằng điện thoại!

Sau đó, tôi đọc thêm vài bài viết về em trên Aleteia, và mỗi lần như thế, tôi đều xúc động trước nụ cười và sự trưởng thành thiêng liêng của cô bé. Đến tháng 10 năm 2024, khi tôi nói rằng mình sẽ có thêm thời gian rảnh, một người cho biết họ đang tìm thỉnh nguyện viên cho một án phong của một bé gái người Pháp. Khi nghe tên “Anne-Gabrielle Caron,” tôi liền nói ngay: “Con xin nhận!”

“Có điều kiện gì để trở thành thỉnh nguyện viên Rôma không?”

Đức Ông Dupont-Fauville:

Có chứ. Ứng viên phải là người chuyên về thần học, giáo luật hoặc lịch sử, tùy theo từng hồ sơ; cư trú thường xuyên tại Rôma; và phải hoàn thành khóa học đặc biệt để lấy văn bằng hành nghề thỉnh nguyện viên. Khóa học này chỉ mở hai năm một lần trong sáu tháng – và thật trùng hợp, khóa gần nhất bắt đầu vào đầu tháng Giêng, đúng lúc tôi vừa có thời gian rảnh! Tôi thi vào đầu tháng Bảy và nhận bằng vào tháng Chín.

“Điều gì khiến ngài ấn tượng nhất nơi Anne-Gabrielle?”

Đức Ông Dupont-Fauville:

Rất nhiều điều! Trước hết là ơn sủng đặc biệt nơi trẻ thơ – em không hề nghi ngờ sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa. Càng chịu đau đớn, em càng xác tín rằng chỉ có Chúa Giêsu mới có thể giúp mình.

Điều gây ấn tượng mạnh nữa là nụ cười trong các bức ảnh. Đó không phải là nụ cười tạo dáng, mà là nụ cười của một tâm hồn ý thức sâu xa rằng mình được Thiên Chúa yêu thương – thật đáng kinh ngạc nơi một đứa trẻ.

Và điều khiến tôi cảm phục nhất là tấm lòng chuyển cầu của em. Dù còn nhỏ, Anne-Gabrielle đã muốn gánh chịu đau khổ thay cho những bạn nhỏ cùng bệnh viện. Em thường xuyên đối diện với đau đớn, nhưng vẫn can đảm xin Chúa cho mình chịu thêm để những người xung quanh được nhẹ bớt.

Thật là một chứng tá đức tin mạnh mẽ và xúc động.

Nguồn: Aleteia


 

Vài suy nghĩ về tuổi 80 – Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Thứ bảy ngày 05 tháng 11 năm 2022 tôi đi dự thánh lễ tạ ơn, mừng thọ 80 tuổi của thầy Phó Tế Nguyễn Sỹ Bạch ở nhà thờ Prince of Peace Catholic Church – để Tạ Ơn Chúa về Ân Sủng của Sự Sống.

Tôi cũng được lên gần cung thánh để Cha chủ tế và cộng đoàn dân Chúa đưa tay cầu nguyện, chúc mừng vì thọ được 80 tuổi, trong số những người này có Phó tế Huỳnh Mai Trác, Phó tế Đỗ Nguyên Chương, Phó Tế Nguyễn Sỹ Bạch, Ông Nguyễn Đức Cung, Bà Nguyễn Thị Bích Lê- Ông Trần Tấn Định

Trong quyển sách nhỏ  gởi đến các thân nhân, bà con, thân hữu để dùng trong nhà thờ, tôi đã nhận được hai câu sau đây – tôi rất cảm kích và xin được ghi nhận và chia sẻ:

-1)Tạng phủ con, chính Ngài đã cấu tạo, dệt tấm hình hài trong dạ mẫu thân con. Con ca ngợi Chúa đã dựng con nên cách lạ lùng, Công trình Ngài xiết bao kỳ diệu! Hồn con đây biết rõ mười mươi” Tv 139:13-14

– 2) “Được sống đến tuổi già là một ân huệ. Không phải vì chỉ một số người có thể sống đến tuổi này, nhưng vì trước hết, tuổi già cho chúng ta khả năng đánh giá quá khứ, được hiểu và sống mầu nhiệm Vượt Qua một cách sâu xa hơn, và được trở nên kho tàng kinh nghiệm quý báu cho Giáo hội”.

(Thánh Giáo Hoàng Gioan Phao Lô II)

***

Theo giáo sư Đào Duy Anh trong tác phẩm Hán Việt Từ điển thì: 60 tuổi gọi là Hạ thọ, 70 tuổi gọi là Trung thọ, 80 tuổi gọi là Thượng thọ.

Tuổi Thượng Thọ – 80 tuổi rất hiếm.

Vì tuổi thọ trung bình (cả hai giới tính) ở Việt Nam là 75,6 tuổi. (Nguồn: https://danso.org/viet-nam/)

Trong khi tuổi thọ trung bình của dân số thế giới (72 tuổi). Tuổi thọ trung bình của nam giới là 71,5 tuổi. Tuổi thọ trung bình của nữ giới là 79,7 tuổi. (Nguồn: https://danso.org/viet-nam/)

Tổng số dân của Việt Nam vào thời điểm 0h ngày 01/4/2019 là 96.208.984 người,

Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011 và hiện có khoảng 10,1 triệu người cao tuổi, chiếm 11% dân số. Riêng số người từ 80 tuổi trở lên là 2 triệu người, tỉ lệ khoảng 2% dân số.

Ở Mỹ có 6 triệu 500 ngàn người trên 80 tuổi, dân số Mỹ là 332 triệu 400 ngàn người, tỷ lệ gần ~2% dân số.

Cho nên dầu ở Mỹ hay ở Việt Nam tỉ lệ người sống trên 80 tuổi rất hiếm và họ là tấm gương sống và là kho tàng kinh nghiệm sống cho con cháu.

***

+Ở dưới bầu trời này, mọi sự đều có lúc, mọi việc đều có thời” (Gv 3:1)

Ân huệ được sống tới tuổi già vì sống tới tuổi 80 rất hiếm. Đầu tháng 11 này được tin, Nguyễn H. N. , một người bạn học chung lớp B1 trường trung học Cần Giuộc, niên khóa 1955-1959, đã ra đi, anh nhỏ hơn tôi một tuổi.

“Tuổi già là một ân huệ” vì rồi đây còn phải chịu đựng những sự đau đớn, mệt mỏi trong bịnh hoạn trước khi lìa đời. Làm sao “vui để đợi chết”? Khó khăn lắm chứ không phải dễ dàng gì đâu. Nhưng niềm tin phục sinh cho ta niềm hy vọng, an ủi để chịu đựng đau khổ ở đời này để hưởng vĩnh phúc ở đời sau, một “sinh nhật mới” trong nước trời vĩnh cửu.

***

Người Việt Nam cũng thường có tổ chức mừng lễ thượng thọ cho cha mẹ. Trong lễ thượng thọ, cha mẹ trong y phục trang trọng, thường là y phục khăn đống, (trang phục có màu đồng nhất, màu đỏ hoặc màu vàng) ngồi trước bàn thờ hay nơi sang trọng nhất trong căn nhà như gian chính con cháu lần lượt đến kính cẩn dâng rượu (thọ), rồi lễ bái cha mẹ, sau đó mời các cụ dự tiệc mừng . Đôi khi họ mời bà con xa gần đến chung vui và chúc mừng các cụ.

Hình lượm trên net, tượng trưng trong lễ thượng thọ

oznor

Bìa tập sách nhỏ dùng cho thánh lễ

Xem thêm:

1)VẤN ĐỀ VỀ NGƯỜI CAO TUỔI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2)Lễ mừng thượng thọ   

Tác giả: Phùng Văn Phụng

tháng 11 năm 2022


 

KẺ BÉ NHỎ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã!”.

“Một khúc gỗ tươi có thể an toàn đứng cạnh một ngọn nến; nhưng chỉ với vài mảnh vụn, vài que củi, bạn có thể biến nó thành tro, lửa của nó có thể thiêu rụi một cánh rừng. Cũng thế, gương xấu của bạn – nhỏ như vài que củi – có thể dẫn đến việc làm hỏng cả một thế hệ!” – John Newton.

Kính thưa Anh Chị em,

“Cớ vấp ngã” Chúa Giêsu nói đến trong Tin Mừng hôm nay là những gương xấu – tuy nhỏ – nhưng vẫn có thể đốt cháy cuộc đời một ‘kẻ bé nhỏ’ và có thể, cả một thế hệ!

‘Kẻ bé nhỏ’ ở đây là tất cả những ai dễ bị tổn thương dưới mọi hình thức. Trước hết, cần làm rõ, tội lỗi là sự lựa chọn tự do và mỗi người sẽ chịu trách nhiệm về nó. Điều Chúa Giêsu chỉ ra ở đây là chúng ta phải chịu trách nhiệm về các hành động của mình như một ‘kẻ cám dỗ’. Chúng ta có thể cám dỗ người khác phạm tội bằng các gương mù; ngược lại, cũng có khả năng ‘dụ dỗ’ người khác hướng tới đức hạnh – đúng hơn, truyền cảm hứng và khuyến khích họ. “Những hành động nhỏ nhất của ta có thể trở thành hòn đá cản đường hoặc bậc thang nâng đỡ người khác!” – Henri Nouwen.

Ai trong chúng ta cũng có những ‘kẻ bé nhỏ’ được uỷ thác; trẻ em, người thân, những anh chị em tân tòng… Nếu chúng ta phạm tội; đến lượt họ, họ có thể dạy người khác phạm tội, cho đến khi ‘đoàn tàu tội lỗi’ chuyển động mà không có điểm dừng. Không lạ, Chúa Giêsu nói, “Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn!”.

Vậy với bạn, ai là ‘kẻ bé nhỏ’ đang lạc lối vào thời điểm này; ai không còn thiết sống, nghiện ngập, hoang mang hay đang lầm lạc? Có thể là một đứa trẻ, cũng có thể là một người nào đó đang trên bờ vực tuyệt vọng. Bạn phán xét, lên án, coi thường, hoặc cám dỗ họ ‘sa sâu hơn’ vào tội mà họ đang phạm? Đừng quên, bạn và tôi phải trả lẽ về mọi sự trước mặt Chúa, “Ngài thấu suốt tâm can, dò xét lòng dạ đến nơi đến chốn” – bài đọc một, Ngài ‘biết tỏng’ mọi ý nghĩ, lời nói, việc làm của mỗi người. Vậy hãy tỉnh thức và luôn cầu xin, “Lạy Chúa, xin dẫn con theo chính lộ ngàn đời!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Cớ vấp ngã” không chỉ huỷ hoại người khác, mà còn làm hoen ố hình ảnh Thiên Chúa nơi chúng ta. Chúa Giêsu đau lòng không vì tội lỗi của kẻ yếu, mà vì sự ‘ích kỷ vô tâm’ của người mạnh. Gương xấu – dù nhỏ – vẫn là sự phản chứng đối với Tin Mừng, bởi nó khiến người khác nghi ngờ – có thể hôm nay, có thể về sau – lòng nhân hậu của Thiên Chúa và sự thánh thiện của Hội Thánh. “Ánh sáng của Đức Kitô không bị dập tắt bởi sự yếu đuối của ta, nhưng có thể bị che khuất bởi sự giả hình của ta!” – Phanxicô. Trái lại, khi một người sống trong cam kết yêu thương sâu sắc, trung tín và trong sáng, họ trở nên “bí tích” của lòng thương xót – nơi người khác có thể thoáng thấy Thiên Chúa.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, xin dạy con biết sống như một “bí tích của lòng thương xót” – để ai gặp con, cũng cảm thấy mình được tôn trọng, được đón nhận và được chữa lành!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

**********************************************

Lời Chúa Thứ Hai Tuần XXXII Thường Niên, Năm Lẻ 

Nếu một ngày bảy lần nó trở lại nói với anh : “Tôi hối hận”, thì anh cũng phải tha cho nó.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 17,1-6

1 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Không thể không có những cớ làm cho người ta vấp ngã ; nhưng khốn cho kẻ làm cớ cho người ta vấp ngã ! 2 Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển, còn lợi cho nó hơn là để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã. 3 Anh em hãy đề phòng !

“Nếu người anh em của anh xúc phạm đến anh, thì hãy khiển trách nó ; nếu nó hối hận, thì hãy tha cho nó. 4 Dù nó xúc phạm đến anh một ngày đến bảy lần, rồi bảy lần trở lại nói với anh : ‘Tôi hối hận’, thì anh cũng phải tha cho nó.”

5 Các Tông Đồ thưa với Chúa Giê-su rằng : “Thưa Thầy, xin thêm lòng tin cho chúng con.” 6 Chúa đáp : “Nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này : ‘Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc’, nó cũng sẽ vâng lời anh em.”


 

Lễ Cung Hiến Ðền Thờ Thánh Gioan Lateran- Cha Vương

Chúc bạn ngày Chúa Nhật thánh thiện, tuyệt vời, tràn đầy hứng khởi trong tinh thần yêu thương, vui vẻ và phục vụ. Cố lên! cố lên! Tốt, tốt hơn, tốt nhất nhé!

Cha Vương

CN: 09/11/2025

Hôm nay ngày 9 tháng 11, Giáo hội Hoa Kỳ mừng trọng thể Lễ Cung Hiến Ðền Thờ Thánh Gioan Lateran. Nhiều người Công Giáo nghĩ rằng Ðền Thánh Phêrô là nhà thờ của đức giáo hoàng, nhưng sự thật không phải vậy. Ðền Thánh Gioan Lateran mới là nhà thờ của đức giáo hoàng, là vương cung thánh đường của Giáo Phận Rôma, nơi Ðức Giám Mục của Rôma trụ trì.

   Vương cung thánh đường đầu tiên ở đây được xây cất vào thế kỷ thứ tư khi Hoàng Ðế Constantine dâng cúng phần đất mà ông nhận được từ gia đình Lateran giầu có. Kiến trúc đó và những đấng kế vị phải trải qua những tai nạn như hoả hoạn, động đất và chiến tranh, nhưng thánh đường Lateran vẫn là nơi các giáo hoàng được tấn phong mãi cho đến thế kỷ 15, khi các giáo hoàng từ Avignon trở về thì thánh đường và công trường cạnh đó đã đổ nát.

    Thánh đường hiện nay được xây cất vào năm 1646 theo lệnh của Ðức Giáo Hoàng Innocent X. Là một trong những thánh đường uy nghi nhất ở Rôma, ngọn tháp mặt tiền của đền Lateran được trang hoàng với 15 bức tượng của Ðức Kitô, Thánh Gioan Tẩy Giả, Thánh Gioan Tông Ðồ và 12 vị tiến sĩ của Giáo Hội. Bên dưới bàn thờ sang trọng là một bàn nhỏ bằng gỗ mà theo  truyền thống chính Thánh Phêrô đã cử hành Thánh Lễ ở bàn này.

LỜI BÀN:  Không như lễ kỷ niệm các nhà thờ khác ở Rôma (như nhà thờ Ðức Bà Cả, ngày 5-8, nhà thờ Các Thánh Phêrô và Phaolô, 18-11), lễ này là một đại lễ. Việc dâng hiến nhà thờ là một đại lễ cho toàn thể giáo dân trong xứ. Trong một ý nghĩa nào đó, Ðền Thánh Gioan Lateran là nhà thờ của mọi người Công Giáo, vì đó là giáo xứ của đức giáo hoàng, vương cung thánh đường của Ðức GM Rôma. Nhà thờ này là mái nhà tinh thần của tất cả những ai thuộc về Giáo Hội.

LỜI TRÍCH: “Cũng như các bức tường được xây cao này, những gì đã được thể hiện ở đây lại được tái diễn khi chúng ta quy tụ những người tin vào Ðức Kitô. Vì, qua đức tin họ đã được gọt dũa, như thể đá và gỗ từ núi rừng; nhưng bởi việc học hỏi giáo lý, rửa tội và giáo dục, họ được khuôn đúc, được điều chỉnh, và được mài nhẵn bởi bàn tay của các thợ chuyên môn. Tuy nhiên, họ không làm nên căn nhà của Thiên Chúa, cho đến khi họ hài hòa với nhau trong đức ái” 

(Thánh Augustine, Bài Giảng 36, Trích Gương Thánh Nhân – ns Người Tín Hữu online)

From Do Dzung

**************************

Hoàng Oanh | Đền Thờ Trái Tim | Khuyết Danh

THÁNH THẤT THIÊNG – Lm. Minh Anh -Tgp. Huế

Lm. Minh Anh -Tgp. Huế

“Đền Thờ Chúa Giêsu muốn nói ở đây là chính thân thể Người!”.

Một trong các triết gia ảnh hưởng đến việc trở lại của thánh Augustinô là Victorinus; ông nổi tiếng đến nỗi được dựng tượng trong tòa án Rôma. Về già, ông đọc Thánh Kinh và các tác phẩm Kitô giáo. Ngày kia, ông nói với Simplicianus, “Tôi muốn ngài biết, tôi là một Kitô hữu!”; Simplicianus đáp, “Tôi sẽ không tin cho đến khi ông đến nhà thờ!” – “Nhà thờ làm cho người ta thành Kitô hữu sao?”. Sau đó, ông học đạo và công khai trở lại!

Kính thưa Anh Chị em,

 

Đúng như Victorinus nhận định, “Nhà thờ không làm cho người ta thành Kitô hữu!”. Hôm nay, lễ Cung Hiến Thánh Đường Latêranô, chúng ta không chỉ tôn vinh một công trình bằng đá, nhưng tôn vinh một “Thánh Thất Thiêng” – chính Chúa Kitô – linh hồn của mọi thánh đường!

Không có toà nhà nào đủ lớn để chứa nổi Thiên Chúa, nhưng con người vẫn cần một nơi để gặp gỡ Ngài. Ban đầu, các tín hữu tụ họp tại các tư gia để cầu nguyện và “bẻ bánh”; dần dần, các cộng đoàn sáng tạo những “ngôi nhà” dành riêng cho việc cầu nguyện, đọc Lời Chúa và cử hành phụng vụ. Từ những cuộc đàn áp đầu tiên cho đến ngày được tự do, Kitô giáo đã xây các nhà nguyện, nhà thờ và vương cung thánh đường; trong đó, quan trọng nhất là đại giáo đường Gioan Latêranô, Rôma. “Thật kỳ diệu biết bao khi thấy Sự Hiện Diện Thần Thiêng của Đấng nhìn ra ‘gần như tận’ các đường phố từ các nhà thờ!” – Henry Newman.

“Latêranô” biểu trưng cho sự hiệp nhất của mọi Giáo Hội với Giáo Hội Rôma. Trên hiên chính, Latêranô tự hào mang danh hiệu “Mẹ và Đầu của tất cả các nhà thờ trong thành phố và trên thế giới”. Nó còn quan trọng hơn cả đền thờ Phêrô – được xây trên mộ vị Tông đồ trưởng – vì Latêranô mới là nhà thờ chính toà của Giáo Hoàng, Đấng đại diện Chúa Kitô. Chính Ngài là dòng sông ân sủng ban sự sống mà bài đọc một và Thánh Vịnh đáp ca tiên báo.

Đền thờ bằng đá có thể sụp đổ, nhưng “Thánh Thất Thiêng” – Chúa Kitô và mỗi tâm hồn nên một với Ngài – thì không. Khi nói, “Anh em là đền thờ của Thiên Chúa” – bài đọc hai, Phaolô không nói về nơi chốn, mà nói về một mối tương quan. Thiên Chúa không chỉ ngự trong các cung thánh, mà còn trong những trái tim biết mở ra cho Ngài.

Anh Chị em,

Nếu “Thánh Thất Thiêng” là Chúa Kitô, thì mọi không gian thánh không còn bị giới hạn bởi tường vách hay thánh điện, vì Ngài đã là nơi gặp gỡ giữa Trời và Đất, giữa Chúa và người. Từ đó, ai kết hợp với Ngài đều được thánh hiến, trở nên “đền thờ sống động”, nơi Thần Khí Thiên Chúa hiện diện và hoạt động. Vì thế, điều cốt yếu không phải là kiến trúc, nhưng là hiệp thông – với Chúa và với nhau. “Thánh Thất Thiêng” chỉ sáng rực khi được thắp sáng bởi tình yêu, đó là một trái tim được thanh tẩy, biết yêu và tha thứ – một thánh đường đẹp nhất mà Thiên Chúa luôn muốn ngự vào. Từ đó, nhịp sống mỗi người dâng lên Ngài như một phụng vụ của tình yêu. “Đền thánh thật không phải nơi những tảng đá ‘đứng’, mà là nơi tình yêu ‘chảy’ và các tâm hồn hiệp nhất!” – Thomas Merton.

Chúng ta có thể cầu nguyện:

“Lạy Chúa, xin ngăn ngừa mọi ngẫu tượng ngấp nghé, ngó nghiêng, hay ngỗ ngáo dành chỗ Chúa trong cung thánh lòng con!”, Amen.

Lm. Minh Anh -Tgp. Huế

*****************************************************************

LỜI CHÚA CUNG HIẾN THÁNH ĐƯỜNG LATÊRANÔ, 9/11, CHÚA NHẬT XXXII THƯỜNG NIÊN 

Đền thờ Đức Giê-su muốn nói là chính thân thể Người.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.    Ga 2,13-22

13 Gần đến lễ Vượt Qua của người Do-thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem. 14 Người thấy trong Đền Thờ có những kẻ bán chiên, bò, bồ câu, và những người đang ngồi đổi tiền. 15 Người liền lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả chiên cũng như bò, ra khỏi Đền Thờ ; còn tiền của những người đổi bạc, Người đổ tung ra, và lật nhào bàn ghế của họ. 16 Người nói với những kẻ bán bồ câu : “Đem tất cả những thứ này ra khỏi đây, đừng biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán.” 17 Các môn đệ của Người nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh : Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi đây sẽ phải thiệt thân.

18 Người Do-thái hỏi Đức Giê-su : “Ông lấy dấu lạ nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông có quyền làm như thế ?” 19 Đức Giê-su đáp : “Các ông cứ phá huỷ Đền Thờ này đi ; nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại.” 20 Người Do-thái nói : “Đền Thờ này phải mất bốn mươi sáu năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày ông xây lại được sao ?” 21 Nhưng Đền Thờ Đức Giê-su muốn nói ở đây là chính thân thể Người. 22 Vậy, khi Người từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ nhớ lại Người đã nói điều đó, họ tin vào Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã nói.


 

Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được. (Lc 16:13)- Cha Vương

Chúc bạn ngày cuối tuần vui tươi bình an trong tinh thần chia sẻ nhé.

Cha Vương

Thứ 7: 8/11/2025

TIN MỪNG: Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được. (Lc 16:13)

SUY NIỆM: Khi Chúa nói anh em không thể “làm tôi hai chủ được”, Ngài muốn nói với bạn điều gì hôm nay? Nhà thần học Scott Hahn, giải thích rằng chữ “Mammon” là “một từ tiếng Hi có nghĩa là “Tiền Của.” Điều này không có nghĩa là tiền của tự bản thân nó là xấu xa mà bạn phải từ bỏ hoàn toàn. Nhìn vào thực tế, trong cuộc sống hiện đại ngày nay, bạn không thể sống mà không tiền. Nhà thờ cần tiền để bảo trì cơ sở và duy trì các sinh hoạt mục vụ. Đến ngay cả người chết cũng cần tiền để được chôn cất :). 

Vậy khi nào “tiền của” của bạn trở thành điều xấu? Câu trả lời là khi bạn thấy tiền của dẫn bạn đến lòng tham lam, ghen tị và chia rẽ với người khác, và khi của cải làm bạn sao nhãng việc “mến Chúa và yêu người”, thì lúc đó bạn cần phải đặt lại vấn đề về sự lựa chọn của bạn. 

Điều gì đang ngăn cản bạn thực thi giới răn “mến Chúa và yêu người”?

CẦU NGUYỆN: Lạy Chúa Giêsu, / Xin dạy con biết sống quảng đại, / biết phụng sự Chúa cho xứng đáng, / biết cho đi mà không tính toán, / biết chiến đấu mà không sợ thương tích, / biết làm việc mà không tìm an nghỉ, / biết hiến thân mà không mong chờ một phần thưởng nào khác hơn là biết mình đã hành động theo Thánh ý Chúa. Amen. 

(Thánh Inhaxiô Loyola)

THỰC HÀNH: Làm một việc bố thí hôm nay. 

From Do Dzung

*************************

Cho Đi Là Lãnh Nhận – Angelo Band

 CHỮ ‘BUÔNG’ TRONG ĐỜI TU-Sr Mây Trắng, SPP

Gieo Mầm Ơn Gọi

Có những ngày trong đời tu, tôi chợt nhận ra mình sống quá chặt, nắm giữ quá nhiều điều mà chính tôi không hay biết. Tôi tưởng rằng mình đã “trao hết cho Chúa”, nhưng sâu thẳm bên trong, vẫn còn những góc nhỏ tôi siết lại và sợ phó thác. Chỉ đến khi những biến động âm thầm gõ cửa lòng, tôi mới hiểu rằng: buông không phải là một quyết định duy nhất, nhưng là một hành trình dài, lặng lẽ, và cần ơn Chúa từng ngày.

Khi trái tim còn kẹt lại: Tôi nhớ những năm đầu đời tu, lòng tôi còn nhiều nỗi sợ: sợ không đủ thánh thiện, sợ không được yêu, sợ bước sai, sợ đánh mất chính mình. Nhiều đêm, tôi nằm trong căn phòng nhỏ, nghe tiếng quạt kêu đều đều, mà lòng nặng như đá. Tôi biết mình đang “giữ” điều gì đó, nhưng không có can đảm mở tay ra. Thậm chí, có những điều tôi mang theo từ thời tuổi trẻ: một lời nói vô tình làm tổn thương tôi, một thất bại khiến tôi mặc cảm, một người tôi thương nhưng phải chọn từ bỏ, một tương lai tôi từng mơ mà không còn thuộc về tôi nữa. Tôi giấu những điều đó trong sâu thẳm tâm hồn, như thể nếu không nhìn vào thì chúng sẽ biến mất. Nhưng chúng không biến mất. Chúng đợi tôi đối diện.

Khi Chúa nhẹ nhàng chạm vào những điều tôi muốn tránh: Nhiều lần trong giờ chầu, tôi không cầu nguyện được, Chúa không nói gì với tôi, mà chỉ để tôi ngồi đó với chính mình. Không có ánh sáng bất ngờ, không có cảm xúc thăng hoa. Chỉ là sự thinh lặng kéo dài cho đến khi tôi phải hỏi chính mình: “Con đang giữ điều gì vậy? Tại sao con không buông được? Tại sao lòng con còn nhiều ngổn ngang đến vậy?” Tôi đã luôn xin Chúa thay đổi hoàn cảnh, chữa lành nỗi đau, quên đi ký ức của tôi, chờ mãi vẫn không có gì khác. Nhưng rồi một ngày, tôi cảm thấy Ngài nói: “Con hãy đưa cho Cha trước đã.” Đưa cho Chúa nghe thì dễ, nhưng để đưa được, tôi cần nhận ra điều tôi nắm. Tôi cần chạm vào nỗi đau ấy. Tôi cần thừa nhận rằng tôi yếu đuối. Và rằng tôi đang cố tự chữa lành bằng sức riêng mình. Chính lúc ấy, tôi hiểu: Buông không phải là từ bỏ trách nhiệm, buông là từ bỏ sự kiểm soát, mà tôi như bao người vẫn thích kiểm soát hơn là tin tưởng.

Buông là bước vào tự do, dù chân còn run: Có những điều buông xuống làm tôi đau, có những điều buông xuống làm tôi khóc, và có những điều buông xuống khiến tôi như mất một phần mình. Nhưng đã bao lần sau khi buông, tôi thấy lòng nhẹ đi mà không hiểu vì sao mình từng ôm chặt đến vậy.

Tôi nhớ có lần mang trong lòng một hiểu lầm kéo dài nhiều tháng. Tôi chạy trốn cuộc đối thoại, tránh ánh mắt người chị em đã vô tình khiến tôi đau. Nhưng Chúa thì không để tôi chạy mãi. Trong giờ cầu nguyện, tôi cảm nhận Ngài mời gọi: “Đi đi con. Hãy nói sự thật trong yêu thương. Hãy buông sự tự ái.” Tôi run rẩy, nhưng tôi đã đi. Và chính ngày hôm đó, tôi học thêm một bài: Buông không làm ta nhỏ đi, nhưng làm ta trưởng thành trong sự thật và yêu thương.

Ở những lúc khác, Chúa lại dạy tôi buông những dự định của mình để đón nhận ý Chúa. Tôi từng có những ước mơ rất đẹp, rất tốt, tưởng rằng đó là điều Chúa muốn. Nhưng rồi Ngài lại dẫn tôi qua một hướng khác xa hơn, khó hơn, và cũng thật bất ngờ. Và khi tôi chấp nhận buông ước mơ cũ, tôi mới thấy câu này là thật: Không có gì Chúa lấy đi mà không thay bằng điều tốt hơn cho linh hồn.

Lúc tôi buông, tôi nghe được tiếng Chúa rõ hơn:  người ta nói: hai bàn tay chỉ có thể nhận khi nó trống, và lòng người cũng vậy. Khi tôi còn giữ chặt nỗi buồn, tôi không thấy niềm vui. Khi tôi còn giữ chặt kỳ vọng, tôi không thấy sự tự do. Khi tôi còn giữ chặt cái tôi, tôi không nghe được tiếng Chúa. Và khi tôi buông, không phải một lần, mà là từng chút, từng ngày, tôi khám phá một điều rất nhỏ mà rất thật: Chúa chưa bao giờ đòi tôi hoàn hảo. Ngài chỉ muốn tôi để Ngài làm Chúa của cuộc đời tôi. Buông là để Ngài dẫn, chứ không để tôi tự lèo lái. Buông là tin rằng Ngài đủ. Buông là chấp nhận rằng tôi chỉ là một trẻ nhỏ trong vòng tay Người Cha hiền.

Trong thế giới tạm bợ, buông là cách để không đánh mất chính mình: Giữa một thế giới quá nhiều tiếng ồn, quá nhiều so sánh, quá nhiều lỡ làng, tôi thấy “buông” không phải là trốn chạy, nhưng là một nghệ thuật để tâm hồn được giữ nguyên sự trong lành: buông để lòng nhẹ hơn, buông để tim được chữa lành, buông để mỗi tối ngủ bình yên, buông để sáng hôm sau sống mỉm cười, và buông để còn chỗ cho bình an của Chúa cư ngụ.

Với tôi là một nữ tu sống giữa đời tạm bợ này, buông chính là hành vi đức tin đẹp nhất mà tôi dâng lên Chúa mỗi ngày: buông chính mình, để thuộc trọn về Ngài. Buông để không còn gì chất chứa trong tôi khác ngoài Chúa và Thánh Ý của Ngài.

Lạy Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, con trao vào tay Chúa những điều con vẫn còn giữ chặt: những nỗi sợ, những vết thương, những kế hoạch chưa trọn, những người con thương, những người con chưa thương được và cả những điều con chưa dám gọi tên. Xin dạy con biết buông bỏ trong bình an, để con không bước đi với trái tim nặng nề. Xin cho con đủ khiêm nhường để phó thác, đủ tin tưởng để mở tay ra, và đủ tình yêu để đón nhận điều Chúa muốn cho đời con. Lạy Chúa, giữa thế giới chóng qua này, xin gìn giữ con trong sự tự do của con cái Chúa, để từng ngày, con biết buông xuống chính mình và thuộc trọn về Chúa, Đấng yêu con không mỏi mệt. Amen.

Sr Mây Trắng, SPP


 

MÙI ĐẤT, MÙI TRỜI –  Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Thiên Chúa thấu biết lòng các ông!”.

“Tôi làm hết sức những gì có thể. Nếu kết thúc của nó tốt đẹp, tôi an lòng, những lời chống đối sẽ không là gì cả. Nếu tôi sai, thì dẫu mười thiên thần cho rằng, ‘Tôi đúng’, điều đó vẫn không tạo nên một sự khác biệt. Chúa biết mọi sự!” – A. Lincoln.

Kính thưa Anh Chị em,

“Chúa biết mọi sự!”, xác tín của Lincoln được gặp lại qua Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói với các biệt phái, “Thiên Chúa thấu biết lòng các ông!” – những người sống theo ‘thói đất’, đánh bóng chính mình. Ngài muốn họ thanh thoát – rũ ‘mùi đất’, ngát ‘mùi trời!’.

Trong cuộc sống, có những sai lầm khi chúng ta nghĩ về người khác, và cũng bao điều không đúng khi người khác nghĩ về chúng ta. Kết luận của Chúa Giêsu nhắm đến một khuynh hướng chung của nhiều người – tô hồng một bản ngã giả tạo – một ảo tưởng khiến con người khép kín trước chân lý, tha nhân và Thiên Chúa. Ai không dám nhìn vào lòng mình dưới ánh sáng của Ngài, người ấy chỉ lệt đệt ‘ngang đất’. “Nếu không biết mình, bạn sẽ chẳng đâm rễ nơi bản thân; bạn có thể chịu đựng một thời, nhưng khi gặp đau khổ hay bách hại, đức tin của bạn sẽ lung lay!” – Henry Newman.

Chúa Giêsu ‘biết tỏng’ lòng dạ các biệt phái, Ngài cũng ‘biết tỏng’ lòng dạ bạn và tôi! Chúng ta thường tự đề cao, tạo nên một hình ảnh lệch lạc về bản thân. Nhiều đổ vỡ khởi đi từ đó! Vì thế, mấu chốt của đời sống thiêng liêng chính là “biết mình trong ánh nhìn của Thiên Chúa” – cũng là cánh cửa nơi ân sủng đi vào. ‘Biết mình’ giúp chúng ta không còn bận tâm điều Thiên Chúa không bận tâm, nhưng bận tâm những gì Ngài nghĩ về tôi, cuộc sống tôi, linh hồn tôi. “Một khi dám để Thiên Chúa đi vào toàn bộ bản thân run rẩy của mình, bạn càng cảm nhận được rằng, Tình Yêu Ngài – tình yêu hoàn hảo – đuổi hết mọi sợ hãi!” – Henri Nouwen.

Phaolô hiểu rõ điều ấy, ngài nhận ra sự yếu hèn của mình và biết ơn những người đã nâng đỡ ngài trong sứ vụ, “Họ đã liều mất đầu để cứu mạng tôi. Không chỉ mình tôi, mà còn các Hội Thánh!” – bài đọc một. Nhờ sự cộng tác đó, danh Thiên Chúa được chúc khen, “Lạy Thiên Chúa con thờ là Vua của con, xin chúc tụng Thánh Danh muôn thuở muôn đời!” – Thánh Vịnh đáp ca.

Anh Chị em,

“Chúa biết mọi sự!”. Ngài biết chúng ta ‘từ đất’, ‘thuộc về đất’ và lòng luôn ‘dính đất’; vì thế, với những tiêu chí ‘ngang đất’, chúng ta luôn tìm cho mình những ‘trọng vọng’ theo ‘thói đất’. Không được như vậy, chúng ta chắp vá, vay mượn… chỉ để tạo nên một ‘giá trị rẻ tiền’ nào đó trước người đời. Kết quả, cuộc sống chúng ta đượm ‘mùi đất’ – nặng nề, giả tạm – hơn là toả ‘mùi trời’ – thanh thoát, chân thật. Nhưng ân sủng – không phá huỷ tự nhiên, mà kiện toàn nó – có thể thánh hoá đất ấy. Chính từ ‘phận đất’, Chúa muốn làm bừng dậy ‘hồn trời’; Ngài mơ về chúng ta luôn nhìn vào Chúa Kitô, nên giống Ngài, Đấng sẽ chỉ cho mỗi người cách sống tư cách con trai, con gái của Trời; phần còn lại, Ngài lo!

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con sống theo thói đất, đượm mùi đất; cho con vương hương mùi trời, xứng với phẩm tính con cái Vua Trời!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

**********************************************************

Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXXI Thường Niên, Năm Lẻ 

Nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.    Lc 16,9-15

9 Khi ấy, Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng : “Thầy bảo cho anh em biết : hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu. 10 Ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn ; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn. 11 Vậy nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng Tiền Của bất chính, thì ai sẽ tín nhiệm mà giao phó của cải chân thật cho anh em ? 12 Và nếu anh em không trung tín trong việc sử dụng của cải của người khác, thì ai sẽ ban cho anh em của cải dành riêng cho anh em ?

13 “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được.”

14 Người Pha-ri-sêu vốn ham hố tiền bạc, nên nghe các điều ấy, thì cười nhạo Đức Giê-su. 15 Người bảo họ : “Các ông là những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt người đời, nhưng Thiên Chúa thấu biết lòng các ông, bởi vì điều cao trọng đối với người đời lại là điều ghê tởm trước mặt Thiên Chúa.”


 

Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. (Lc 16:8b)- Cha Vương

Tạ ơn Chúa một ngày mới! Xin Chúa cùng đi với bạn trên mọi nẻo đường hôm nhé.

Cha Vương

Thứ 6: 7/11/2025

TIN MỪNG: Quả thế, con cái đời này khôn khéo hơn con cái ánh sáng khi xử sự với người đồng loại. (Lc 16:8b)

SUY NIỆM: Trong dụ ngôn người quản gia bất lương Chúa muốn đề cập đến hai loại khôn ngoan—khôn ngoan của Thiên Chúa và khôn ngoan của thế gian. 

    Khôn ngoan của Chúa chỉ nhắm vào một mục đích đơn giản duy nhất đó là quy mọi sự về Chúa. Nó giúp bạn nhìn thế giới từ góc nhìn của Chúa, điều này có thể giúp bạn hiểu được mục đích và kế hoạch của Ngài để rồi vui vẻ sống theo thánh ý Ngài. Người sống trong sự khôn ngoan của Chúa không cho rằng mình hiểu biết mọi sự mà là người chấp nhận những giới hạn của bản thân và cậy dựa vào ‘ơn trên’ trong mọi hoàn cảnh. 

    Còn khôn ngoan của của thế gian thì chỉ nhắm tới các mục đích trần thế, tìm mọi cách để bảo vệ mạng sống mình, chỉ lo kiếm tìm của cải và vinh quang thế gian, mà chẳng bận tâm đến gia nghiệp vĩnh cửu. Thay vì hy sinh cho người khác để được sự sống vĩnh cửu thì họ lại chà đạp nên nhân phẩm người khác để sống.

    Để có được sự khôn ngoan của Chúa, sách Khôn Ngoan có viết: “Bước đầu để đạt tới Đức Khôn Ngoan là thật lòng ham muốn học hỏi. Chăm lo học hỏi là yêu mến Đức Khôn Ngoan. Mà yêu mến là tuân giữ lề luật” (Kn 6:17-18). Ước mong bạn thể hiện sự khôn ngoan của Chúa trong cuộc sống với những hành vi cụ thể dù to hay nhỏ bé.

CẦU NGUYỆN: Lạy Cha nhân từ, xin lấp đầy tim con khôn ngoan của Chúa để con biết phân biệt được sự lành sự dữ hầu luôn sống xứng đáng với phẩm giá mà Chúa đã tạo nên con. 

THỰC HÀNH: Nói “không” với lọc lừa gian dối của thế gian. 

From: Do Dzung

******************

Sống Một Đời Cho Chúa

TÌM HIỂU CÁC TÔNG ĐỒ – Sao Biển

Sao Biển

25/10/2021

Có lẽ chúng ta không còn là Kitô hữu khi loại bỏ các tông đồ. Không có những con người trung thành và can đảm này, chúng ta sẽ không biết Tin mừng và Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Mười hai tông đồ đầu tiên cùng với Phaolô và Mátthia là nền móng cho đức tin của chúng ta.

TÌM HIỂU CÁC TÔNG ĐỒ

D.D. Emmons

WGPNT (25.10.2021) – Có lẽ chúng ta không còn là Kitô hữu khi loại bỏ các tông đồ. Không có những con người trung thành và can đảm này, chúng ta sẽ không biết Tin mừng và Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Mười hai tông đồ đầu tiên cùng với Phaolô và Mátthia là nền móng cho đức tin của chúng ta. Chính các ngài đã loan truyền sứ điệp của Đức Giêsu, chia sẻ câu chuyện phục sinh cho hầu hết phần thế giới được biết đến vào thế kỷ I (Rôma lúc bấy giờ được xem là tận cùng trái đất). Sau lễ Ngũ tuần, các ngài kiên quyết dấn thân vì Đức Kitô, đến độ sẵn sàng chịu đau khổ và hi sinh mạng sống; thật vậy, hầu hết các ngài đã chịu tử đạo.

Về tầm quan trọng của các tông đồ, chúng ta lại ít biết về một vài vị trong số họ, và những gì chúng ta thực sự biết phần lớn dựa trên truyền thống hoặc truyền thuyết. Chúng ta có thể phỏng đoán một số điều về các tông đồ nhưng tất cả đều dựa trên văn hóa Do Thái. Chẳng hạn, vị Thầy (Giêsu) luôn lớn tuổi hơn môn đệ, nên các tông đồ có lẽ dưới 30 tuổi và một vài vị có thể đang tuổi niên thiếu. Là những người trẻ và ngư dân, có lẽ họ có sức khỏe tốt, là điều cần thiết để theo Đức Giêsu khắp miền Galilê. Hầu hết họ đều ít học, có lẽ ngoại trừ Mátthêu người thu thuế. Họ ít đi đây đi đó, chất phác, sống và lao động tại địa phương. Thánh Josemaría Escrivá đã viết về các Tông đồ như sau: “Các tông đồ chỉ là những người đánh cá… Họ ít học; thậm chí không được thông minh lắm, nếu chúng ta nhìn cách họ phản ứng trước những điều siêu nhiên… Họ nghèo và kém hiểu biết”. Thế nhưng, Đức Giêsu đã kêu gọi họ trở thành chứng nhân của Ngài cho toàn thể nhân loại.

Nêu tên các tông đồ

Trong các lớp giáo lý cho người dự tòng trưởng thành, có lúc người hướng dẫn yêu cầu học viên nêu tên các tông đồ đầu tiên. Thông thường, có người sẽ trả lời: “Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan”, rồi ngập ngừng “và Phaolô”. Nhiều học viên, và các Kitô hữu khác, phải chật vật để kể tên nhóm Mười hai và thường nghĩ rằng các tác giả Tin mừng đều là các tông đồ.

Các tông đồ gồm: Phêrô, Anrê, Giacôbê Tiền, Gioan, Philípphê, Batôlômêô (Nathanaen), Tôma, Mátthêu (Lêvi), Giacôbê Hậu, Giuđa (Tađêô), Simon và Giuđa, cộng thêm Mátthia và Phaolô là hai vị không thuộc nhóm Mười hai. Ba Tin mừng Nhất lãm, cùng với sách Công vụ Tông đồ, xác nhận việc tuyển chọn nhóm Mười hai tông đồ đầu tiên. Một số tên gọi có khác nhau đôi chút nhưng cùng chỉ một người. Theo Tin mừng thánh Mátthêu, thì Anrê, Phêrô, cùng với Giacôbê và Gioan, tiếp theo là Philípphê là những tông đồ đầu tiên được chọn. Họ đều là ngư dân; trên thực tế, hầu hết nhóm Mười hai cũng vậy. Họ có một đức tính đặc biệt nơi mọi ngư dân năng nổ, đó là đức kiên nhẫn; họ giăng câu hay quăng lưới và chờ đợi. Đức tính này sẽ hữu ích khi Đức Kitô kêu gọi họ trở thành những kẻ lưới người. Sau khi chọn năm vị đầu tiên này, Đức Giêsu tiếp tục gọi Mátthêu, một người thu thuế, và sau đó là Batôlômêô. Tin mừng không đề cập cụ thể việc Đức Giêsu gọi từng tông đồ còn lại, mặc dù họ được nêu tên cùng với nhóm tông đồ ở một số nơi trong Tin mừng.

Đức Giêsu ban ơn cho các tông đồ

Ba năm sống với Đức Giêsu, nghe giảng và chứng kiến các phép lạ Ngài làm; các tông đồ đã sẵn sàng cho một sứ mạng lớn lao. Đức Giêsu đã ban cho các tông đồ những ân huệ thần linh, bao gồm ơn tha tội, khả năng chữa lành và việc biến bánh rượu thành Mình Máu Ngài. Không một người thường nào có thể trao cho người khác những khả năng đến từ Thiên Chúa. Một tuyển thủ bóng chày xuất sắc của đội bóng lớn có thể trình diễn và giải thích cách anh ta ném bóng, nhưng không thể làm cho người khác thấm nhuần tài nghệ riêng của mình. Một giáo lý viên có thể bàn luận cách cầu nguyện, nhưng sự thành tâm phải đến từ bản thân người cầu nguyện. Tuy nhiên, Đức Giêsu là Đấng thần thiêng, còn ban cho các tông đồ những lời lẽ cần thiết để công bố Tin mừng.

Ban đầu Đức Giêsu giới hạn Nhóm Mười hai giảng dạy nơi người Do Thái mà thôi: “… đừng đi về phía các dân ngoại… hãy đến với các con chiên lạc nhà Ítraen” (Mt 10,5–6). Hai năm sau, Ngài đưa ra lệnh truyền quan trọng khi bảo các tông đồ đi đến các nơi ngoài đất Do Thái “làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19–20).

Sau khi công bố lệnh truyền quan trọng và ngay trước khi về với Chúa Cha, Đức Giêsu truyền cho các tông đồ ở lại Giêrusalem, chờ đợi  “điều Chúa Cha đã hứa, điều mà anh em đã nghe Thầy nói tới” (Cv 1,4). Tóm lại, họ chưa thể thực thi sứ mạng cho đến khi nhận lãnh Thánh Thần. Những người trở lại đầu tiên đều là người Do Thái; các tông đồ đã không khởi sự rao giảng cho những người ngoài Do Thái trong khoảng 10 năm sau đó. Họ sẽ được những người khác như Banaba và Timôthê hỗ trợ để hoàn tất công việc linh thánh này.

Những con người bất toàn

Họ là những con người bất toàn, đầy khiếm khuyết như được kể trong các sách Tin mừng: đôi lúc họ nghi ngờ, khước từ thậm chí phản bội Đức Giêsu; họ chậm hiểu và thắc mắc về một số việc Ngài làm. Giuđa phản bội Ngài và sau đó ra ngoài treo cổ tự vẫn. Phêrô thì chối Chúa ba lần. Trừ Gioan, tất cả đã bỏ rơi Đức Giêsu trong cuộc khổ nạn. Tôma khước từ câu chuyện Đức Kitô sống lại, và hầu hết các ông đều không tin các phụ nữ vào buổi sáng phục sinh rằng Ngài đã sống lại. Philípphê tỏ ra kém tin khi hỏi làm sao Đức Giêsu có thể cho 5000 người ăn với chỉ vài con cá. Chỉ sau biến cố phục sinh các tông đồ mới được ban đầy đức tin vững vàng và trọn vẹn vào Đức Giêsu.

Trước lễ Ngũ tuần, họ sợ hãi chạy trốn; giờ đây họ sẵn sàng ca tụng danh Ngài đến tận cùng trái đất, mặc dù điều đó khiến họ bị căm ghét, đánh đập và cầm tù. Hầu hết, họ đi từng người từ Giêrusalem đến Ấn Độ, qua Ba Tư, rồi Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Bắc Phi, Ukraina, Ai Cập, Syria, khắp Địa Trung Hải và Trung Đông. Đây chưa phải là danh sách đầy đủ các quốc gia, nhưng nếu tính thêm nỗ lực của thánh Phaolô, người đã thực hiện hành trình truyền giáo hơn 10.000 dặm, bao gồm cả châu Âu, thì các tông đồ đã làm cho Kitô giáo loan truyền hầu khắp thế giới được biết đến vào thời đó. Ngoại trừ các thành phố như Giêrusalem, Antiôkhia và Rôma, họ thi hành sứ vụ nơi các cộng đồng Kitô giáo nhỏ bé nơi họ đã bỏ cả mạng sống mình trong nhiều trường hợp. Kinh thánh chỉ kể về cái chết của hai tông đồ: thánh Giacôbê Tiền, người bị giết bởi vua Hêrôđê; và Giuđa, người đã treo cổ tự vẫn. Theo truyền thống và truyền thuyết, chúng ta biết Phêrô đã bị đóng đinh ngược ở Rôma; và gần đó vào cùng ngày, Phaolô bị chém đầu. Anrê bị đóng đinh vào thập giá hình chữ X, Batôlômêô bị lột da sống, Mátthêu bị ném đá và sau đó chém đầu, còn Tôma bị đâm bằng giáo cho đến chết. Tất cả các tông đồ đều chịu tử đạo chỉ trừ Gioan đã chết cách tự nhiên.

Chẳng bao lâu sau, Kitô giáo không còn là sản phẩm phụ của Do Thái giáo mà đã phát triển thành một Giáo hội phổ quát. Các tông đồ đã phải đi những chuyến hành trình dài và nguy hiểm, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau, và biết rằng mình vẫn bị người Rôma và nhiều người Do Thái muốn bách hại. Nhưng hầu như bất cứ nơi nào họ đến, họ thu hút những người tìm hiểu về Đức Kitô phục sinh, về sứ điệp tình yêu của Ngài, về sự sống đời đời. Những con người thánh thiện này vẫn là hình mẫu cho chúng ta.

GẶP GỠ CÁC TÔNG ĐỒ

Thánh Phêrô

Phêrô chối Đức Giêsu ba lần vào đêm Ngài bị bắt, “trước khi gà gáy hai lần”, đúng như lời Đức Giêsu đã báo trước (Mc 14,30). Tuy nhiên, ngay sau lần chối từ đau thương nầy, Đấng Cứu Độ đầy thương xót đã tha thứ cho Phêrô và cắt đặt ông làm người đứng đầu Giáo hội trên trần gian. Phêrô trở thành thủ lãnh các tông đồ, và nhờ ơn Thánh Thần, là người đầu tiên rao giảng Tin mừng cho người Do Thái. Bất cứ nơi nào trong Tân ước kể tên 12 môn đệ đầu tiên, Phêrô luôn được nêu tên đầu tiên.

Trong Tin mừng theo thánh Luca, Đức Giêsu trước tiên gặp Phêrô, Giacôbê và Gioan tại hồ Ghennêxarét, nơi họ thả lưới suốt đêm nhưng không bắt được gì. Đức Giêsu đề nghị họ thả lưới thêm một lần nữa. Phêrô phàn nàn vì mẻ lưới trước nhưng rồi cũng đồng ý làm theo. Bất ngờ, họ bắt được rất nhiều cá đến nỗi lưới không thể chứa hết. Phêrô xấp mình trước Đức Giêsu và thưa: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi”. Đức Giêsu bảo ông đừng sợ, rồi nói với ba người ngư phủ: “‘Từ nay các anh sẽ thu phục người ta’… rồi họ bỏ tất cả mà đi theo Người” (Lc 5,8–11).

Phêrô tỏ ra thiếu lòng tin và thậm chí nhiều lần tranh luận với Đức Giêsu. Ông cho thấy một lòng tin kém cỏi khi cố đi trên mặt nước mà đến cùng Đức Giêsu; chỉ cần Phêrô chú ý đến Đấng Cứu Độ thì ông không sao, nhưng một khi rời mắt khỏi Đức Giêsu, thì ông bắt đầu chìm (x. Mt 14,28–33). Phêrô cãi lời Đức Giêsu khi Ngài bảo rằng sẽ bị người Do Thái giết, và một lần khác khi muốn rửa chân cho ông. Cùng với Giacôbê và Gioan, Phêrô ngủ quên khi Đức Kitô lo âu khắc khoải trong vườn dầu. Nhưng đối lại tất cả những khiếm khuyết nhân loại này, Đức Giêsu nhìn thấy Phêrô là người lãnh đạo Giáo hội bằng việc trở thành giáo hoàng đầu tiên. Không chỉ rao giảng cho người Do Thái, Phêrô còn làm cho người ngoại đầu tiên trở lại: ông Cornêliô, viên đại đội trưởng (xem Cv 10).

Thánh Tôma

Thánh Tôma được ghi nhớ như là vị tông đồ đã nghi ngờ khi nghe tin Đức Kitô phục sinh hiện ra với các tông đồ khác trong phòng Tiệc ly. Tôma vẫn không bị thuyết phục cho đến khi ông đặt bàn tay vào vết thương của Đức Kitô. Sự hoài nghi ban đầu của ông có thể hiểu được vì Đức Kitô đã bị đóng đinh và được đặt trong ngôi mộ kín có niêm phong. Theo thánh Giáo hoàng Grêgôriô Cả, không phải ngẫu nhiên mà Tôma vắng mặt khi Đức Kitô hiện ra với các tông đồ khác: “Với một cách kỳ diệu, lòng thương xót của Thiên Chúa đã an bài cho người môn đệ không tin này, khi chạm vào các vết thương trên thân thể Thầy của mình, sẽ chữa lành vết thương hoài nghi của chúng ta. Sự hoài nghi của Tôma đã tác động đến đức tin của chúng ta nhiều hơn là bởi đức tin của các môn đệ khác. Vì Tôma chạm vào Đức Kitô và bị chinh phục để tin, mọi ngờ vực đều được gạt qua một bên và đức tin của chúng ta được củng cố. Vì vậy, người môn đệ hoài nghi, sau đó cảm nhận được vết thương của Đức Kitô, trở thành nhân chứng cho thực tại phục sinh”. Tôma là chứng nhân cho chúng ta, đôi mắt và đôi tay của ngài cũng là đôi mắt, đôi tay của chúng ta, chúng ta không còn nghi ngờ… Đức Kitô đang sống.

Thánh Giacôbê và Gioan

Hai anh em Giacôbê và Gioan cùng với Phêrô là những tông đồ duy nhất đồng hành với Đức Giêsu trong ba biến cố đặc biệt: con gái ông Giaia sống lại, biến hình trên núi Tabo, tại vườn Giếtsêmani vào đêm trước cuộc khổ nạn. Theo đó, ba vị được coi là nhóm thân cận, gần gũi nhất với Đức Giêsu. Giacôbê được biết đến với tên Giacôbê Tiền, đơn giản chỉ để phân biệt ngài với một tông đồ khác cũng tên Giacôbê. Giacôbê Tiền là vị tông đồ đầu tiên đổ máu vì Đức Giêsu, khi bị sát hại theo lệnh vua Hêrôđê Agríppa vào năm 44, để làm “đẹp lòng người Do Thái” (Cv 12,3). Gioan là vị tông đồ duy nhất đứng bên thánh giá khi Đức Giêsu chịu đóng đinh; những người khác đều đã bỏ chạy. Từ thánh giá, Đức Giêsu đã trao Đức Maria, mẹ Ngài cho Gioan chăm sóc, để cho thấy sự gắn kết độc nhất giữa Đức Giêsu và Gioan.

Mẹ của Giacôbê và Gioan đã xin Đức Giêsu cho hai người con của bà được ngồi một đứa bên hữu và một đứa bên tả trong Nước Ngài. Đức Giêsu nói với bà: “Các người không biết các người xin gì”. Trước mặt tất cả các tông đồ, Ngài giải thích rằng quyền hành đều đến từ Chúa Cha, từ lời kêu gọi thần linh chứ không phải từ tham vọng cá nhân và Ngài nói thêm: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em”(Mt 20,22.26–28).

Thánh Philípphê và Bartôlômêô

Tại miền Galilê, Đức Giêsu đã kêu gọi Philípphê làm tông đồ. Đến lượt Philípphê tìm đến Bartôlômêô (hay Nathanaen) và nói với ông rằng Ðấng mà sách Luật Môsê và các ngôn sứ nói tới, chúng tôi đã gặp: đó là ông Giêsu, con ông Giuse, người Nadarét.

Sau đó Bartôlômêô nói những lời mà chúng ta ai cũng biết: “Từ Nadarét, làm sao có cái gì hay được?” (Ga 1,46). Bất chấp sự khước từ này, Philípphê vẫn dẫn Bartôlômêô đến với Đức Giêsu, để ông quyết tâm kiểm chứng Đức Giêsu. Nhưng không có gì để kiểm chứng cả bởi vì Bartôlômêô nhận ra Đức Giêsu là Đấng Mêsia đích thực, ngài nói: “Thưa Thầy, chính Thầy là Con Thiên Chúa, chính Thầy là Vua Ítraen!” (Ga 1,49). Lời tuyên xưng này không khác gì lời tuyên xưng của Phêrô nhiều tháng sau đó: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Nhờ ơn trên mà cả Bartôlômêô và Phêrô đều nhận ra Đức Giêsu là Thiên Chúa.

Ít nhất hai lần, qua Philípphê mà Đức Giêsu giúp các môn đồ hiểu ra vai trò và chân tính của Ngài. Lúc làm phép lạ hóa bánh ra nhiều trong Tin mừng Gioan, Philípphê lo lắng không biết làm sao cho 5.000 người ăn: “Có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút” (Ga 6,7). Philípphê kinh ngạc khi thấy Đức Giêsu biến ít cá và bánh đủ cho tất cả mọi người ăn. Sau đó trong Bữa Tiệc ly, Chúa quở trách Philípphê khi vị tông đồ này hỏi: “Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện”. Đức Giêsu đáp: “Thầy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philípphê, anh chưa biết Thầy ư?” (Ga 14,8–9). Tất cả các tông đồ đều xem Đức Giêsu là thầy, nhưng một số chậm nhận ra Ngài là Đấng cứu độ.

Cũng cần lưu ý rằng không nên nhầm lẫn Philípphê tông đồ với Philípphê nhà truyền giáo, người đã thành công khi mang sứ điệp của Đức Giêsu đến miền Samari và làm phép rửa cho một viên thái giám người Êthióp trên con đường vắng giữa Giêrusalem và Gada (xem Cv 8,27–39).

Thánh Phaolô

Mặc dù không nằm trong số 12 tông đồ đầu tiên, nhưng Phaolô được Đức Giêsu chọn là “lợi khí [Ta chọn] để mang danh Ta đến trước mặt các dân ngoại, các vua chúa và con cái Ítraen” (Cv 9,15). Phaolô (ban đầu được gọi là Saulô) là một trong những người thù ghét Kitô giáo cực đoan nhất vào thời của ngài. Phaolô là người chứng kiến và ủng hộ việc ném đá thánh Stêphanô, và ngài đã xuất sắc bắt các Kitô hữu giải về Giêrusalem và nộp họ cho giới cầm quyền Do Thái để bị bách hại.

Lúc Phaolô đang trên đường đi Đamát để bắt thêm những người đi theo Đức Kitô. Giữa đường, ngài đã mặt giáp mặt với Đức Giêsu, bị mù và hoán cải, được đưa vào thành Đamát và đến một ngôi nhà ở phố gọi là Phố Thẳng. Tại đây, ngài được sáng mắt trở lại và chịu phép rửa. Từ đó Phaolô trở thành người vĩ đại nhất trong số những người rao giảng Tin mừng, vị Tông đồ dân ngoại. Ngài thiết lập ít nhất 14 cộng đoàn Kitô hữu và rao giảng cho hàng nghìn người khi đi qua đi lại Trung Đông và vào đến châu Âu bốn lần khác nhau. Các lá thư gửi đến các cộng đoàn do ngài đã thiết lập chiếm phần lớn Tân ước.

Thánh Giacôbê Hậu

Giacôbê Hậu là vị thủ lãnh có ảnh hưởng của giáo đoàn Giêrusalem và có tiếng nói quyết định tại Công đồng Giêrusalem (năm 50), nơi các tông đồ quyết định loan truyền giáo huấn của Đức Giêsu cho dân ngoại. Giacôbê đã ủng hộ ý tưởng không bắt dân ngoại phải trở thành người Do Thái trước khi trở thành Kitô hữu: “Vì vậy, phần tôi, tôi xét là không được gây phiền hà cho những người gốc dân ngoại trở lại với Thiên Chúa” (Cv 15,19).

Giacôbê đã viết một lá thư gửi đến dân ngoại, cơ bản chỉ ra rằng dân ngoại không cần phải giữ tất cả các luật lệ về việc kiêng ăn uống của người Do Thái hoặc phải cắt bì trước khi trở thành Kitô hữu, nhưng trước hết chỉ đòi hỏi những ai đang theo Đức Kitô phải từ bỏ việc cúng tế ngoại giáo. Những hành động này đã vượt qua trở ngại lớn trong việc hoán cải và làm phép rửa cho những người ở mọi quốc gia, chứ không chỉ cho người Do Thái. Thánh Giacôbê Hậu cũng được xem là tác giả của thư Giacôbê trong Tân ước.

Thánh Mátthêu

Mátthêu là viên thu thuế cho người Rôma đang chiếm đóng ở Galilê. Người Do Thái ghét những người thu thuế, vì họ làm việc cho người Rôma và thường gian lận đối với dân chúng. Đức Giêsu thấy Mátthêu (Lêvi) “đang ngồi ở trạm thu thuế. Ngài bảo ông: ‘Anh hãy theo tôi!’ Ông đứng dậy đi theo Người” (Mc 2,14).

Trong mắt người Do Thái, Mátthêu là một kẻ đáng khinh, một kẻ bị ruồng bỏ không hơn gì một tội nhân do công việc thu thuế của ông, nhưng Đức Giêsu, với tình yêu và lòng thương xót chứa chan, đã thấu hiểu tấm lòng Mátthêu và kêu gọi ông trở thành một trong các tông đồ. Mátthêu đã từ bỏ mọi sự để đi theo và tin vào Đức Kitô. Mặc dù không có nhiều chi tiết về thánh Mátthêu, nhưng có bằng chứng cho thấy ngài đã đi truyền giáo ở Ấn Độ, và trở thành vị thánh bảo trợ của đất nước này.

Anrê, Simon, Giuđa và Mátthia

Kinh thánh có ít chi tiết về Anrê, Simon, Giuđa và Mátthia. Tuy nhiên, mỗi người đều theo Đức Kitô và đi giảng dạy Tin mừng. Anrê thuộc nhóm tông đồ được chọn đầu tiên và là người trước tiên gọi Đức Giêsu là Đấng Mêsia; do đó, ngài rất gắn bó với Đức Giêsu. Simon có thể là thành viên của một nhóm chính trị Do Thái gọi là nhóm Nhiệt thành, những người kiên quyết với đức tin Do Thái giáo và ghét người Rôma. Đức Giêsu đã chinh phục được Simon, và vị tông đồ này đã chuyển lòng nhiệt thành và sức lực của ngài vào sứ điệp của Đức Kitô.

Trong Tin mừng theo thánh Mátthêu và Máccô, Giuđa được gọi là Tađêô, và theo thánh Luca thì được gọi là Giuđa. Thánh Gioan cũng gọi ông là Giuđa trong Bữa Tiệc ly: “Ông Giuđa, không phải Giuđa Ítcariốt, nói với Đức Giêsu: ‘Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?’” (Ga 14,22). Đây là câu hỏi mà có lẽ một số tông đồ khác cũng quan tâm, họ vẫn xem Đức Giêsu có thể trở thành một vị vua trần thế, và chưa hiểu tại sao Đức Giêsu lại đến thế gian hay điều gì sẽ xảy đến với Ngài sau đó. Đức Giêsu trả lời rằng Ngài sẽ tỏ mình ra cho những ai yêu mến Ngài và tuân giữ các giới răn “… Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy” (Ga 14,23).

Mátthia được chọn để thay thế Giuđa, kẻ phản bội (Cv 1,15–26). Trong khi các tông đồ ở Giêrusalem chờ đợi Thánh Thần; Phêrô trong tư cách lãnh đạo có thể đã chọn được người thay thế, nhưng ngài để cho các tông đồ lựa chọn. Phêrô đưa ra chỉ dẫn rằng bất cứ ai được chọn phải thuộc nhóm những người đã đi theo Đức Kitô kể từ khi Ngài chịu phép rửa và phải làm chứng rằng Ngài đã phục sinh. Có hai người được đề cử là Basaba và Mátthia; cuối cùng Mátthia được chọn qua việc rút thăm. Từ đây, Tân ước không nói gì thêm về Mátthia.

Giuđa Ítcariốt

Giống như một số tông đồ khác, chúng ta không biết Giuđa được chọn khi nào. Ông là người giữ túi tiền của nhóm, phụ trách về tiền bạc, có lẽ đã nỗ lực làm việc hiệu quả. Giuđa có mặt tại Bêtania khi Maria lấy một cân dầu thơm cam tùng nguyên chất, quý giá mà xức cho Đức Giêsu và ông than phiền việc lãng phí này, tuy nhiên ông phàn nàn “không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga 12,6). Đức Giêsu quở trách những lời nhận xét của Giuđa, và ngay sau đó Giuđa đã thông đồng với các thượng tế mà phản bội Đức Giêsu để lấy 30 đồng bạc.

Trong Bữa Tiệc ly, Đức Giêsu biết dự tính của Giuđa, và sau khi rửa chân cho các tông đồ, kể cả Giuđa, Ngài tiết lộ có người sẽ phản bội và xác định đó là Giuđa, khi nói: “Anh làm gì thì làm mau đi!” (Ga 13,27). Ngay trong đêm hôm đó, Giuđa dẫn một toán quân đến và đã chỉ điểm Đức Giêsu là thủ lĩnh của nhóm. Sau khi Đức Giêsu bị bắt, Giuđa cố trả lại tiền nhưng người Do Thái từ chối, nên ông đã “ra đi thắt cổ” (Mt 27,5).

Thánh Maria Mađalêna – Tông đồ của các Tông đồ

Vào tháng 7 năm 2016, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nâng ngày lễ nhớ buộc hàng năm của thánh nữ Maria Mađalêna lên bậc lễ kính. Ngoài Đức Mẹ, ngài là người phụ nữ duy nhất được Giáo hội tôn kính như thế. Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích đã ra huấn thị nói rằng: “Thật là hợp lý để ngày lễ thánh Mađalêna có cùng bậc lễ với các thánh tông đồ trong lịch phụng vụ chung của Rôma, cũng như để nhấn mạnh sứ vụ đặc biệt của người phụ nữ này như một tấm gương và hình mẫu cho các phụ nữ trong Giáo hội”.

Như các tông đồ, Maria Mađalêna thể hiện lòng yêu mến và dấn thân theo Chúa. Bà và những phụ nữ khác đi khắp Galilê với Đức Giêsu và “lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ” (Lc 8,3). Bà theo Đức Giêsu lên Giêrusalem, và đã hiện diện lúc Chúa chịu đóng đinh, cùng với Gioan, chứ không bỏ trốn như các tông đồ khác. Vào buổi sáng phục sinh đầu tiên Tin mừng thuật lại là Đức Giêsu đã gặp bà trước tiên. Ngài sai bà đến với anh em mình là các tông đồ và nói với họ “Tôi đã thấy Chúa” (Ga 20,18). Vì vậy, bà được gọi là Tông đồ của các Tông đồ.

Ban học tập Sao Biển chuyển ngữ từ Our Sunday Visitor (15/10/2021)

Nguồn: giaophannhatrang.org

https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tim-hieu-cac-tong-do-42944