Chuyện kể về tấm thẻ bài của cô bác sĩ Vivian Le

  Chuyện kể về tấm thẻ bài của cô bác sĩ Vivian Le

From: Kristie Phan

Câu chuyện được bắt đầu vào sáng ngày 23-3-1975……
Sau khi chồng và con trai bị chết vì đạn pháo kích của VC đồng thời bị thất lạc đứa con gái trong ngày di tản tại tại bãi biển Chu Lai, chị Buôn quấn quýt chạy khắp nơi để hỏi thăm về đứa con gái của mình…chị đã được một người chạy nạn cho biết:
“Con bé khoảng 9 hay 10 tuổi mặc cái áo xanh, quần đen, cổ có đeo cái thẻ bài của lính là con chị sao? Nó được một người trên ca-nô nhào xuống nước bơi vào vớt nó đưa lên ca-nô ra tầu lớn rồi. Thật là may mắn cho nó!”…

Lệ, đứa con thất lạc của chị Buôn được đưa lên tầu Hải quân với chiếc thẻ bài đeo toòng teng nơi ngực. Người ta thấy có khắc tên: Lê văn Buôn Số quân: ….. Họ hỏi Lệ. Lệ nói đó là tên ba nó, ba Buôn của nó, bị lọt lại với má và ba đứa em tại bãi biển Chu Lai. Mới đầu Lệ sụt sùi khóc nhưng có người đàn bà ngồi gần bảo nó khóc không ích gì. Nó cắn răng nghe lời bà này, làm theo những gì người ta chỉ bảo. Tiếng nổ làm cho nó ù tai nhưng cái sợ làm nó quên cả. Kể từ lúc quả lựu đạn nổ, nó gần như mê đi cho đến khi có người vớt nó đưa lên ca-nô rồi lên tầu.
Người vớt nó lên ca-nô và đưa nó lên tầu, nhận nó là con nuôi là một Thiếu Uý Hải quân mới ra trường. Sau thời gian huấn luyện dài đằng đẵng, tim anh còn đầy ắp tình người dành cho đồng hương và cả nhân loại. Ước mơ của anh là những chuyến hải hành xa, đi đến chân trời góc biển, đi đến những đô thị lớn hoa lệ, nguy nga, ngợp ánh đèn về đêm và nườm nượp xe cộ, người đi bộ trên hè phố ban ngày.

Anh tên Lê trọng Nghĩa, 28 tuổi, quê quán ở miệt Thủ dầu Một, ra trường với hạng cao trong số hơn 60 sinh viên tốt nghiệp trường Sĩ Quan Hải Quân Nha Trang và hiện là một sĩ quan ưu tú của Giang đoàn 240 đóng ở miền Trung. Chiếc tầu Nghĩa và đứa con nuôi là Lệ về đến bến Bạch đằng Sàigòn vào tuần đầu tháng 4-1975, đang lúc Sàigòn lên cơn sốt y như miền Trung mấy tuần trước. Nghĩa đưa Lệ đến gửi vợ một người bạn trong trại Sĩ quan bến Bạch đằng, lại gửi tiền và nhờ Xuân Hà, tên vợ người bạn, đi mua sắm quần áo và những thứ cần thiết hàng ngày cho Lệ. Xuân Hà nhìn Nghĩa rồi nhìn Lệ và hỏi nhỏ Nghĩa:
“Con bé xin được ở đâu mà xinh quá vậy? Tốn vài tạ gạo nữa là đã ra dáng tiểu thư rồi. Anh lựa hay lắm.”
Nghĩa nghiêm nét mặt bảo Xuân Hà:
“Chị đừng nghĩ vậy. Ba má nó và ba đứa em còn kẹt lại Chu Lai. Chỉ có mình nó được tôi cứu lên tầu. Tôi nhận nó làm con nuôi.”
Xuân Hà tính đùa thêm một câu nhưng thấy mặt Nghĩa lạnh như tiền nên không dám cợt nhả nữa.

Ngày 28-4-1975, Nghĩa lại mang Lệ lên một chiếc tầu Hải Quân HQ thực lớn để chạy sang Guam. Nghĩa con một, cha mẹ Nghĩa đã lớn tuổi muốn sống và chết ở Thủ dầu Một nên không đi mặc dầu trong thời gian ở Sàigòn, Nghĩa đã cải trang về thăm và mời ông bà đi.

Sau 5 tháng ở trong trại tạm cư ở Guam, Nghĩa và Lệ được một nhà thờ bảo trợ đi South Carolina. Từ đây, Nghĩa xin Basic Grant của tiểu bang để vào Đại học học Kỹ sư cơ khí. Ngoài giờ học, Nghĩa đi làm part time cho tiệm Sears ở downtown để lấy tiền chi phí ăn ở cho hai cha con. Nghĩa xin cho Lệ vào học ở trường tiểu học địa phương, có xe bus nhà trường đưa đón mỗi ngày và ăn sáng, ăn trưa miễn phí vì hai cha con Nghĩa chưa có lợi tức. Nghĩa chỉ thêm bài vở cho Lệ mỗi buổi tối sau khi cơm xong. Lệ thông minh nên học rất nhanh. Để giúp ba Nghĩa, nó biết đặt nồi cơm điện, luộc rau, luộc trứng, làm những món giản dị rồi chờ ba Nghĩa về ăn cơm.

Mặc dầu vào ngang thiếu căn bản 4 lớp đầu (học trình Hoa Kỳ), nhưng Lệ đã học xong lớp 5 Việt Nam, Lệ học lại với ba Nghĩa và một cô giáo Mỹ dạy kèm (tutor) tất cả những gì cần thiết chưa được học ở các lớp dưới, nhất là Anh ngữ, vì vậy Lệ tốt nghiệp Trung học lúc mới 17 tuổi với điểm trung bình 4.0, một thành tích vượt mức ngay với học sinh bản xứ.

Nhiều lúc Lệ nhớ ba má, nhớ các em day dứt nhưng nghe ba Nghĩa khuyên, Lệ phải cố quên. Lệ cũng nghĩ và tự nhủ lòng, có khóc, có nhớ ba má và các em cũng không làm được gì, chỉ cản trở việc học. Đã từng ở trong cảnh nghèo của cha mẹ ở Việt Nam, Lệ biết được đi học thế này là một diễm phúc vì vậy Lệ cố gắng và chăm chỉ hết mức. Ba Nghĩa cũng khuyên Lệ, sau này có thể có bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, khi ấy Nghĩa sẽ tìm cách hỏi thăm tìm ra tung tích ba má và các em Lệ. Lệ nghe thế lại tạm yên lòng và hy vọng.

Mùa Thu năm đó, Lệ vào trường Đại học Y khoa South Carolina. Sau 3 năm, Lệ lấy Cử nhân Sinh Vật học với lời khen của Hội đồng Giám Khảo. Lệ chuyển qua học ngành Nhãn Khoa (Opthalmology). Năm 1990, Lệ đậu bằng Bác sĩ Nhãn Khoa hạng tối Ưu với lời ngợi khen của Ban Giám Khảo. Lệ được mời dạy môn Nhãn Khoa cho Sinh viên cùng trường. Lệ hỏi ý kiến ba Nghĩa, sau đó Lệ xin khất cho đến khi trở về từ Việt Nam.

Tốt nghiệp xong, Lệ bàn với ba Nghĩa, lúc này đã có vợ và một đứa con trai 2 tuổi, ba Nghĩa đồng ý, Lệ đi mua vé máy bay về Việt Nam tìm cha mẹ và các em. Sau hơn 10 năm bế quan toả cảng cả nước sắp chết đói, lúc này (từ 1985) chế độ bắt buộc phải mở cửa cho kinh tế thị trường nên cũng dễ dàng cho Lệ đi lại.

Lệ và một người bạn thân về đến Chu Lai vào một buổi chiều mùa Hạ năm 1990 sau khi đã lặn lội đi bằng đủ thứ xe từ Sàigòn ra miền Trung. Sau 15 năm, quang cảnh cũ đã thay đổi nhiều. Có những căn nhà mới mọc lên nhưng cũng có nhiều căn trại cũ biến mất. Chỉ có bãi biển, trông vẫn như trước mặc dù có nhiều hàng quán mọc lên bán thức ăn, thức uống cho du khách. Trại Gia binh ngày nào không còn. Lệ muốn được gặp lại những người hàng xóm của ba má Lệ ngày xưa như vợ chồng bác Sáu, vợ chồng chú Đàm, vợ chồng cô Bé…để hỏi thăm về cha mẹ và các em nhưng đi quanh quanh làng xóm, Lệ không kiếm ra một người quen cũ.

Lệ đeo cái thẻ bài vào cổ như ngày 23-3-1975 ra bãi biển Chu Lai, nhà nào Lệ cũng vào hỏi thăm và cho con cái họ quà bánh Lệ đem từ Hoa Kỳ về, giơ chiếc thẻ bài cho họ coi và hỏi thăm xem có ai biết ba má và các em Lệ không? Nhưng tuyệt nhiên không ai biết. Vốn đã có định kiến, Lệ xin phép chính quyền sở tại, không quên quà cáp cho họ, để mở phòng mạch khám mắt miễn phí cho mọi người.

Một Nữ bác sĩ Hoa Kỳ, cô Ruthie O’Brien, bác sĩ gia đình, vốn là bạn thân và cùng ra trường một ngày với Lệ, cùng đi với Lệ về chơi thăm miền Trung Việt Nam, nhân dịp cũng bỏ đồ nghề ra khám bệnh và cho thuốc cùng những lời khuyên hữu ích để phòng ngừa bệnh tật. 

Các gia đình đến khám mắt và khám tổng quát, nhất là những ông già bà cả đều được hỏi về Trung sĩ Lê văn Buôn, Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 1, Sư đoàn 2 Bộ binh vào tháng 3 năm 1975 nhưng không một ai biết. 

Mỗi buổi chiều khi khám bệnh xong, Lệ và Ruthie thường ra bãi biển Chu Lai ngồi ngắm sóng và ngắm hoàng hôn trên biển, nghe những tiếng rì rào của sóng biển chạy vào bờ rồi lại trườn ra xa. Thấy bạn buồn vì không tìm ra gia đình, Ruthie lựa lời khuyên nhủ và hỏi Lệ có còn muốn đến nơi nào khác để kiếm không? Lệ nghĩ chỉ có hai nơi khác ba má Lệ có thể ở là Nha Trang, quê của ba và Trà Vinh, quê của má. Lệ nói cho Ruthie nghe những nơi Lệ hi vọng nhiều nhất, sau đó Ruthie khuyên Lệ nên đi Nha Trang.

Nha Trang không hứa hẹn nhiều cho việc tìm kiếm vì Lệ đã đến đây gần một tuần, đi khắp nơi hỏi nhưng không ai biết cựu Trung sĩ Lê văn Buôn và vợ con.
Lệ thất vọng hoàn toàn, thầm nghĩ chỉ còn một nơi nữa là Trà Vinh. Nếu tại Trà Vinh cũng không có tung tích thì coi như gia đình Lệ đã bị tiêu tán trong hoặc sau ngày 23-3-1975. Nghĩ đến đó, Lệ cảm thấy buồn muốn khóc. Ba má và các em đi hết chỉ để lại mình con thôi sao, thế thì con có sống cũng mang mối u hoài đau khổ ấy suốt đời! Thà con ở lại nhà chia sẻ những đau khổ với ba má và các em rồi chết chung một huyệt cũng là xong một kiếp người. Lệ buồn khôn tả và khóc mỗi đêm về nhưng không dám cho Ruthie biết.

Một buổi sáng, Lệ cùng Ruthie mướn một chiếc xe hơi với tài xế để đi thăm Hòn Chồng, nơi thắng cảnh đẹp có tiếng của Nha Trang. Thật ra Lệ không còn tâm trí đâu ngoạn cảnh vì “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” nhưng để chiều Ruthie, Lệ cho Ruthie đi nơi này nơi kia chụp hình lưu niệm và dọc đường có thể tìm vào các quán ăn ngon, các khách sạn sang trọng mướn phòng ngủ qua đêm. Lẽ ra trong chuyến đi này, Lệ mang theo vị hôn phu là bác sĩ Vĩnh quang Dũng, chuyên khoa bệnh tiêu hoá, tốt nghiệp trước Lệ 3 năm và hai người quen nhau khi cùng làm việc trong một bệnh viện nhưng Dũng phải đi Á căn Đình dự một Đại Hội Y Khoa toàn cầu về bệnh tiêu hóa, đại diện cho Bộ Y Tế Hoa Kỳ.

Còn vị hôn phu của Ruthie có cha già đang nằm bệnh viện chữa trị bệnh tiểu đường nên anh cũng không thể theo Ruthie đi du lịch Việt Nam được.
Sau khi đã dạo chơi bãi biển hơn hai tiếng đồng hồ, Lệ đề nghị tài xế chở vòng qua con đường phía sau, nơi đây lưa thưa có dăm cái nhà trên bãi cỏ hoang. Phong cảnh quá tiêu sơ và u buồn, không có bóng một đứa trẻ. Lệ và Ruthie bàn với nhau đi xuống cuối con đường rồi trở lại, trở về thành phố Nha Trang.

Mới đi thêm một khoảng ngắn, đột nhiên chiếc xe bốc khói ở máy. Tài xế vội cho xe ngừng lại và kiểm soát máy thấy máy cạn khô không còn một giọt nước. Anh ta hoảng hồn tắt máy và ngơ ngáo đi tìm xung quanh để kiếm nước châm vào máy. Đó đây, ngoài con lộ đắp bằng đất đỏ thì toàn là gò đống và bụi cây mọc lưa thưa, tít tắp xa mới thấy vài mái tranh hiện trên nền trời xanh lơ. Lệ và Ruthie phải ngồi chờ dưới gốc cây cho bớt nắng trong khi bác tài lội bộ đi tìm nước.

Chợt Lệ trông thấy một đám người lố nhố trên một cái gò, cách xa Lệ khoảng 400 mét. Lệ chợt nghĩ hay là họ đào huyệt chôn người chết như hồi còn bé Lệ đã thấy ở Chu Lai nhưng sao không nghe tiếng khóc cũng không thấy quan tài.Trí tò mò thúc đẩy Lệ vào đó coi xem sao. Lệ cũng có ý nghĩ giúp đỡ công việc họ đang làm, nếu họ quá nghèo, cần đến một, vài chục đô-la của Lệ.

Lệ nói cho Ruthie nghe ý nghĩ của mình, bảo Ruthie ngồi đó chờ mình nhưng Ruthie không chịu, đứng lên cùng đi với Lệ. Hai cô gái cứ tưởng gần và ruộng khô, nào ngờ coi vậy nhưng khoảng cách khá xa và có những chỗ nước ngập mắt cá, hai cô phải tháo giầy cầm trên tay để đi.

Khoảng sáu, bảy người vừa đàn ông, đàn bà, thanh niên, thiếu nữ cắm cúi nhìn vào một cái lỗ huyệt đang đào do 4 thanh niên khoẻ mạnh, người cầm xẻng xúc đất đổ vào mê tre, kẻ bê đất đổ lên bờ, để dần dần hiện ra tấm nắp thiên bằng gỗ đen sì một cái quan tài.

Từ xa lội tới, hai cô gái đã bị những cặp mắt tò mò của đám người trên gò nhìn thấy và theo dõi. Khi hai cô tới gần, tất cả đều ngừng tay nhìn chằm chằm như nhìn một hiện tượng lạ.

Họ quá lạ lùng bởi từ xưa đến nay chưa có người ngoại quốc nào ăn mặc đẹp đẽ thế kia – đám người cho rằng cả hai cô là gái Mỹ, Pháp, Anh, Úc chi đó, lại lội ruộng vào cái gò này để coi cải mả.
Phải, họ đang cải mả. Họ đào cốt người thân chết đã lâu năm, bỏ sang một cái tiểu sành, kiếm chỗ thuận tiên, gần gũi hơn đặt xuống.
Lệ mở lời khi nhìn một người đàn bà lam lũ, già yếu, mặt mày nhăn nheo:
“Chào các bác, các chú, các anh, các chị. Cháu là người Việt sống tại Hoa Kỳ về thăm quê hương. Các bác, các chú đang cải táng cho thân nhân, phải không ạ?”

Nghe cô con gái nói tiếng Việt, cả đám người thật ngạc nhiên. Sao cô gái trông như Mỹ này, chỉ khác mớ tóc đen, lại là người Việt, nói tiếng Việt thạo quá. Họ bỏ xẻng cuốc đứng vây xung quanh hai cô gái. Người đàn bà lớn tuổi trả lời:
“Phải, người ở dưới huyệt là chồng tôi, chết từ năm 1975.”

Lệ nghe giọng nói người đàn bà có điều ngờ ngợ nhưng chưa dám tin là mình có thể đúng. Nhân tiện, cứ hỏi thăm xem có ai biết được ba mình không? Lệ chìa tấm thẻ bài đeo trong ngực áo ra cho họ coi, nói:
“Tấm thẻ bài này của ba tôi. Tôi không biết gia đình ông còn sống không và nay ở đâu. Ông tên là Trung sĩ Lê văn Buôn.”
Người đàn bà trân trối nhìn Lệ xong ngập ngừng nói:
“Thế này thực không phải. Xin lỗi…Có phải tấm thẻ bài này của lính Việt Nam Cộng hoà và cô là …Lệ phải không?”

Điều Lệ nghi ngờ đã đúng. Giọng nói người đàn bà và nhìn kỹ từ đầu đến chân, Lệ thấy đúng là má Lệ, không còn sai vào đâu được. Lệ ôm chầm lấy bà khóc rưng rức:
“Má ơi! Con đây, Lệ của má đây. Má còn nhận ra con không?”
Bà Buôn, phải, vì người đàn bà đó chính là vợ goá của Trung sĩ Lê văn Buôn, càng ôm chặt Lệ hơn. Bà rên rỉ:
“Lệ ơi, má đâu có ngờ Trời Phật còn cho gia đình mình ngày hôm nay. Người nằm dưới huyệt kia chính là ba con đó. Quả lựu đạn ngày 23-3 đã giết ba và thằng Chưởng. Còn lại hai đứa đứng kia, thằng Tung, con Bi giờ đã lớn từng đó.”
Lệ quay ra ôm hôn đứa em gái và thằng em trai. Chúng cũng xúc động nhưng không xúc động bằng má Lệ và Lệ vì khi xẩy ra biến cố tan nát gia đình, chúng còn quá nhỏ.

Bà Buôn hỏi Lệ:
“Con đeo tấm thẻ bài này 15 năm nay để đi tìm ba má và các em phải không?”
“Dạ, đúng thế má. Con đi tìm ba má và các em vì con đâu biết ba đã hi sinh ngày hôm đó.”

Ruthie đứng ngó mấy mẹ con ôm nhau cũng xúc động nhưng trong ánh mắt cô đọc thấy những tia sáng hân hoan vô bờ của bạn và của mẹ của bạn. Chuyến đi hoàn toàn thành công quá sức mong mỏi, cô lẩm bẩm.

Bốn thanh niên lại tiếp tục đào. Họ cậy tấm nắp thiên. Bộ xương người đen sì lõng bõng nước. Ruthie nhìn thấy sợ quá phải đứng tránh ra xa. Cô đã quen với xác chết trong các bệnh viện nhưng không phải là bộ xương đã rữa mục này. Lần đầu tiên Lệ nhìn thấy bộ xương cải táng nhưng Lệ không sợ mà Lệ muốn đứng thật gần để nhìn cho rõ hình hài của người cha đã sinh ra mình.

Khi má Lệ hỏi Lệ vì sao biết mà vào đây. Lệ thuật lại từ đầu tới cuối, vì sao xe phải ngưng lại, bác tài xế phải đi kiếm nước đổ vào máy xe để đi tiếp v.v…
Bà Buôn thắp lên mấy cây nhang và hai ngọn nến trong khi mấy người đàn ông đổ rượu trắng ra cái chậu sành và rửa từng khúc xương cho sạch, lấy giấy bản lau khô xong xếp vào một cái tiểu sành mầu đất nung đỏ quạch. Trong số người lo chuyện cải táng, có chú Năm thợ hồ có nhiều kinh nghiệm. Chú vừa làm vừa chỉ dẫn cho mấy anh thanh niên làm. Chú nói:

“Tôi học nghề cải táng từ năm mới 16 tuổi mà năm nay đã 55, coi như 39 năm trong nghề mà tôi chưa thấy một vụ nào lại linh thiêng như Trung sĩ Buôn đây. Nghe cháu Lệ vừa nói thì cháu đã để tâm tìm ba má cháu nhiều năm nhưng không ra tung tích; đến bữa nay hồn thiêng Trung sĩ dun dủi làm cho chiếc xe hơi đang chạy ngon lành bỗng hết nước ở ngay khúc đường này, xe bốc khói xuýt cháy máy và từ đó cháu Lệ mới có cơ hội lặn lội vào cái gò này vì tính tò mò và cũng vì tính thương người, muốn giúp đỡ người nghèo. Vì thế mà Trời Phật không bỏ cháu.”
Bác tài xế đã lặn lội đi xin được một bình nước đổ vào xe. Thay vì hai thanh niên phải khiêng chiếc tiểu sành, giờ này chiếc tiểu sành được bỏ lên xe, mọi người về nghĩa trang gần nơi cư ngụ của gia đình bà Buôn.

Nghe Lệ kể sơ lược từ lúc được ba Nghĩa nuôi vớt lên tầu và được học hành ở Hoa Kỳ, hiện đã là một bác sĩ Nhãn khoa Hoa Kỳ, tiền bạc dư dả, tương lai sáng lạn, bà Buôn quá sung sướng lại khóc. Bà chạnh lòng nghĩ đến người chồng bạc phước đã chẳng được sống thêm để nhìn thấy sự thành công của đứa con gái ông yêu quý nhất đời.
Huyệt mộ cho cái tiểu sành đựng nắm xương của người cha bạc số của bác sĩ Vivian Le đã đào xong, nhỏ và nông nên đào rất nhanh. Lần này nó không nằm trên gò đất chung quanh là sa mạc sỏi đá, cây cỏ hoang vu mà ở trong một nghĩa trang đẹp đẽ bên ngoài thành phố Nha Trang.

Khoảng 4 giờ chiều, mọi việc hoàn tất, bà Buôn, Lệ và hai đứa em của Lệ thắp hương, sụp quỳ, vái lậy, khấn khứa. Lệ cố hết sức giữ cho khỏi quá xúc động nhưng khung ảnh trắng đen của cha Lệ trước mặt lúc nào cũng như đang nhìn Lệ âu yếm làm Lệ tràn nước mắt và cái ngày độc địa 23-3-1975, tại bãi biển Chu Lai, lại hiện rõ mồn một như Lệ đang đứng sát bên cha Lệ, bám vào tay ông cho khỏi sóng đánh ra xa.
Nỗi buồn năm xưa dù chưa quên được nhưng hiện tại vẫn là đáng sống. Mẹ con bà Buôn đành phải khép lại trang sử đẫm máu của gia đình và của xóm giềng, thân thuộc để xây dựng ngày mai tươi sáng hơn.

Lệ đã đưa tiền cho má và em đi chợ mua các thức ăn về làm một bữa cơm đãi đằng chòm xóm và những người thân thuộc, trả công hậu hĩ cho những người cải táng hôm đó. Ai cũng tấm tắc khen sao lại có cái thần giao cách cảm đó để mà đến đúng chỗ, đúng lúc, gặp lại mẹ và em và nhìn được hài cốt của cha. Chuyện thực mà khó tin, xẩy ra như trong một giấc mơ.

Nhờ có nghề nghiệp cao và lợi tức vững vàng lại công dân Mỹ của Lệ, hơn hai năm sau bà Buôn và Tung, Bi đã đoàn tụ với Lệ ở Hoa Kỳ.

Bà Buôn lập một ban thờ, một bên để tấm ảnh cuối cùng của thằng Chưởng khi nó 3 tuổi, một bên treo tấm thẻ bài, ở giữa ban thờ là bát hương, có bài vị và khung ảnh đen trắng của Trung sĩ Lê văn Buôn, người Chiến sĩ kiêu dũng VNCH đã hi sinh vì Tổ quốc, người chồng, người cha thân yêu vẫn luôn luôn như đang mỉm cười với vợ và các con!

Đây là câu chuyện thật mà người viết lấy từ đã lấy từ bài viết “Tấm Thẻ Bài” của Bút Xuân Trần Đình Ngọc đăng trong website: http://www.tinvasong.com/?articleId=373001, người viết có cắt xén để bài viết được gọn lại.

MUỘN MÀNG…

Một Bài viết đọc thấy cay đắng & cay mắt

MUỘN MÀNG…

 

Mẹ gọi điện cho dì, hét vào máy điện thoại những tiếng gắt gỏng: “Để bà ở bên ấy thêm một tuần nữa thì đã sao? Rồi thì tôi trông bà bù hai tuần. Liền hai tuần được chưa? Tôi có việc nếu không tôi chẳng phải tốn hơi nhờ dì…”

Dì chắc chắn có gắt gỏng lại. Tính dì nóng nảy hơn mẹ nhiều. Từ trước đến nay dì chưa thua mẹ miếng nào. Kể từ khi bà bước sang tuổi 90, không tự chăm sóc bản thân được nữa, dì và mẹ thỏa thuận với nhau mỗi người trông nom bà một tuần. Cũng kể từ đó bà như quả bóng bị đá từ đầu sân này sang đầu sân kia và ngược lại. Mẹ và dì nói nhau trong điện thoại suốt nửa tiếng đồng hồ. Mặt mẹ đỏ phừng phừng, hai hàng lông mày của mẹ rướn lên hết cỡ. Mẹ nhắc lại một số lỗi lầm điển hình của dì. Rồi mẹ kết luận: “Mày chỉ được cái bộ mồm!”

Bố theo dõi cuộc trò chuyện của hai chị em mẹ, lẩm bẩm “chị em mà như chó với mèo!” Mẹ chưa rảnh tay để hục hặc với bố ngay lúc ấy. Kết thúc cuộc điện thoại mẹ quay sang bố dằn từng tiếng: “Việc của chị em tôi không bận gì đến ông!” Bố im lặng. Bố im lặng nghĩa là bố thây kệ, mọi chuyện muốn ra sao thì ra. Dù có biết điều gì đó nên nói bố cũng chẳng thèm hé răng. Một tuần trôi qua. Việc bận của mẹ là việc đi chùa theo kiểu đi “tua”. Đi mười bảy chùa trong một tuần. Ăn chay toàn diện. Thành tâm cúng lễ. Tối chủ nhật mẹ mới về nhà. Không ăn uống, chỉ tắm rửa qua quýt mẹ lăn ra ngủ. Bố thây kệ.

Bố không nói với mẹ rằng sáng thứ hai, sau khi mẹ đã lên xe đi cùng đoàn hành hương, dì gọi điện tới, cáu gắt, nói rằng mẹ nhất định phải sang đón bà, vì dì cũng bận. Và vì tuần đó là phiên mẹ trông bà. Dì không đời nào chịu bị buộc chân ở nhà trong khi mẹ cố tình trốn tránh trách nhiệm. Mẹ ích kỷ, còn dì không phải là người dễ nhân nhượng trước sự ích kỷ. Đấy là tất cả những gì bố biết được qua cú điện thoại bố buộc phải nghe trong lúc mẹ vắng nhà. Bố vẫn nhớ những lời dì nói trong điện thoại Nhưng bố kệ, không nói lại cho mẹ biết.

Ngày thứ hai của tuần tiếp theo bắt đầu. Ngày thứ hai bắt đầu phiên mẹ trông bà, và mẹ sẽ trông bà hai tuần liền để bù cho cả tuần trước mẹ đi chùa. Đến tận tối vẫn chưa thấy dì đưa bà sang nhà mẹ. Mẹ vẫn tức dì, không gọi điện sang nhà dì hỏi tại sao lại như vậy. Cũng có khi mẹ nghĩ cứ để dì trông bà được bao lâu thì trông, khi nào dì đưa bà sang thì khi ấy đến lượt mẹ, việc gì phải lăn tăn.

Một tháng rưỡi trôi qua. Bà chưa được đưa sang nhà mẹ Mẹ và dì vẫn giận nhau, không ai gọi điện cho ai. Thế rồi một hôm trước cổng nhà mẹ xuất hiện cậu con cả của dì. Cậu ta sinh sống ở nước ngoài, lần này đưa vợ chưa cưới về ra mắt gia đình. “Chào bác, cháu đưa một nửa của cháu sang chào bà và hai bác đây ạ”. Cậu ta vừa cười vừa nói với mẹ trong lúc mẹ mở cổng. Mẹ gật đầu chào, hơi hé miệng cười lấy lệ. “Bà đâu hả bác?” Mẹ cười thành tiếng. 

“Thằng này, đi Tây về biết  hỏi nỡm nhỉ!” “Bà ở trên gác ạ? Không phải gọi bà xuống đâu ạ. Chúng cháu lên chào bà”. Cậu ta nói, cầm tay vợ chưa cưới kéo lên cầu thang.

Mẹ đứng khựng lại như người bị sét đánh. “Bà vẫn ở bên ấy mà? Bên nhà cháu chứ đâu”. “Hì hì, bác cứ đùa!”. “Không, bà vẫn ở bên ấy mà”.  Mẹ đứng ở chân cầu thang, nhìn quanh ngơ ngác như người mất trí. Thế rồi bốn cái máy di động cùng hoạt động một lúc. Tiếng bấm máy tít tít. Mẹ kêu trời bằng giọng thất thanh. Cậu con cả nhà dì dắt bạn gái lao ra cổng. Chuông điện thoại reo. Tiếng dì kêu khóc ở đầu dây bên kia nghe váng cả óc. Dì kêu: “Ôi giời ơi là giời. Mẹ tôi đi đâu hả giời. Sáng thứ hai đó, mẹ xách túi quần áo đi ra ngõ, bảo “Mẹ về bên kia đây. Chị cả mày đón mẹ ở ngoài ngõ kia rồi”. Tôi đang bận trông chảo cá rán, chẳng ngó ra được. Cứ ngỡ mẹ được đón sang bên ấy rồi.  Ai ngờ! Ối mẹ ơi, giờ này mẹ ở đâu, mẹ ơi!”

Suốt nửa năm trời người của hai nhà chúng tôi đi tìm bà khắp nơi.  Chúng tôi đăng tin tìm bà trên nhiều tờ báo giấy, báo điện tử, đăng tin cả trên truyền hình. Chẳng ai biết bà đang ở đâu. Cách đây hai tuần, bỗng nhiên có một người đàn ông tìm đến nhà tôi gặp mẹ.


 

Ông ấy đưa cho mẹ xem một tờ báo có đăng tin bà tôi mất tích. Rồi ông ấy lấy từ trong chiếc ba lô đã cũ ra một chiếc túi vải. Mẹ tôi trông thấy chiếc túi vải, bật khóc nức nở. Chiếc túi vải đó là túi đựng quần áo của bà. Chính tay người đàn ông đó đã đặt bà vào chiếc quan tài mà ông tự bỏ tiền ra mua sau khi phát hiện bà tôi nằm còng queo trước cổng nhà ông, không động cựa và không còn thở. Chiều muộn hôm đó, tại một nghĩa trang cách nhà chúng tôi gần 60km, mẹ tôi và dì, hai đứa con gái của bà tôi, khóc ngất trước nấm mộ phủ đầy cỏ xanh rì.

 

Một người đi xe máy trên đường, dừng lại bên rìa nghĩa trang nhìn cảnh dì và mẹ tôi khóc vật vã, bùi ngùi nói: “Thương quá! Mồ mẹ cỏ đã xanh nhường kia mà các con vẫn khóc ngất. Thương quá .

From Lan Đinh

Chuyện trong nhà dưỡng lão : Tô Bún Riêu

Chuyện trong nhà dưỡng lão : Tô Bún Riêu

Tác Giả: Khuyết Danh

“Always be nice to your children because they are the ones who will choose your nursing home.”
– Phyllis Diller
*
Lời giới thiệu

 Bài viết nguyên thủy (original copy) được chuyển đến hộp thơ của tôi từ một người bạn đồng môn cũng ở tuổi thất tuần – (7 bó ). 

nursing_home

 

 

 

 

 

 

 

Trước đây tôi cũng đã viết một bài khá cảm động với tựa đề “Chuyện Trong Tuần” bàn về đời sống và tâm trạng của người cao niên mà tôi gọi là thuộc về “Chương Trình Ra Đi Có Trật Tự” (ODP – aka “Orderly Departure Program”). Nội dung bài này cũng cảm động không kém… Mong quý vị cầm được nước mắt sau khi đọc xong bài này và đồng thời cũng dùng vài giây phút suy gẫm về thân phận của chính bản thân mình.

TVG

Từ Auclair, theo đường Liên Tỉnh 53, ngược lên mạn Bắc là Salon Springs thì rẽ phải theo Hương Lộ “P” nhỏ hẹp ngoằn ngoèo lăn mình giữa những khu rừng phong ngút ngàn trùng điệp, tiếp tục thêm vào dăm vòng qua những lưng đồi thoai thoải dốc là tới thung lũng Nivagamond, Louisiana, trạm đặc khu của người da đỏ.

Trời vào Thu, rừng phong đã thay chiếc áo choàng màu hồng lựu. Hơn nửa giờ lái xe, không một bóng người ngoài tiếng gió thở dài, tiếng lá khô xào xạc, tiếng rừng cây trăn trở, không còn một âm thanh nào khác. Tôi cảm tưởng như lạc vào một hành tinh xa lạ không sinh vật. Đồi lại đồi liền liền tiếp nối nhau sau cùng tới Nivagamond. Nơi đây có Viện Dưỡng Lão Lakeview mà theo lịch trình thì mỗi năm tôi phải đến một lần để thanh tra y vụ.

Lần đầu tiên đến đây nên tôi không khỏi ngỡ ngàng tưởng dù hẻo lánh đến đâu ít ra cũng có xóm làng, một giáo đường nho nhỏ hay vài ngôi nhà be bé xinh xinh nhưng tuyệt đối không. Ngoài rừng phong đỏ lá chỉ có hồ nước trong veo xanh ngắt màu trời. Trung Tâm An Dưỡng Lakeview như tên gọi ẩn mình dưới tàng cây rợp bóng trên khu đất rộng.

Quay lưng vô rừng thông nhìn ra mặt hồ phẳng lặng như gương, tôi ngẫm nghĩ, nơi đây có thể là điểm nghỉ ngơi lý tưởng cho những người quanh năm lao lực hoặc những ai muốn tìm sự quên lãng, còn chọn làm viện dưỡng lão thì hơi tàn nhẫn.

Tuổi già vốn đã cô đơn mà nơi đây lại hầu như tách biệt với thế giới bên ngoài. Trừ y tá, y công và vài chuyên viên dịch vụ thì chẳng còn ai, người nào cũng bận bù đầu, rảnh rỗi đâu mà tán gẫu với những người già. Nhất là sau buổi cơm chiều khi hoàng hôn buông xuống, ai nấy đều đã về nhà thì bóng đêm chắc phải thật dài.

Vừa đẩy cửa bước vào tôi đã giật mình vì gặp một hàng 6 chiếc xe lăn đang dàn chào. Trên mỗi xe là một lão ông hoặc lão bà độ bảy, tám mươi, mái tóc bạc phơ, mắt hom hem sau làn mục kính. Có người trông còn sáng suốt, người thì như xác không hồn. Họ chăm chú nhìn tôi từ đầu đến chân như quan sát một quái nhân đến từ hành tinh khác. Có lẽ vì tôi là người Á Châu duy nhất tới đây chăng? Cô y tá hướng dẫn như đoán được cảm nghĩ của tôi bèn nhoẻn miệng cười:

– Ông ngạc nhiên lắm sao?

Tôi ngập ngừng:

– Bộ họ biết hôm nay tôi đến đây nên hiếu kỳ muốn trông thấy mặt tôi.
Cô y tá khẽ lắc đầu:

– Mỗi ngày đều như vậy. Sáng nào họ cũng ngồi đó để mong chờ.

– Chờ thân nhân tới đón?

– Dạ thưa không.

– Vậy hay là chờ bạn bè đến thăm?

Cô y tá phì cười pha trò:

– Ông nghĩ già ngần ấy tuổi mà còn hẹn bạn gái sao?

– Không, ý tôi là bạn thông thường đấy.

– Nếu những người bạn ấy chưa nằm xuống thì cũng đang ngồi xe lăn như họ tại một viện dưỡng lão nào đó thôi, rồi ngậm ngùi họ mong chờ những hình bóng không bao giờ đến, xa xôi trong ký ức.

Rồi cô khẽ thở dài:

– Tôi làm việc ở đây hơn 10 năm, đã chứng kiến nhiều hoạt cảnh. Tháng nào cũng có người mới tới và cũng có người vĩnh viễn ra đi.

– Chắc ít nhiều, lòng cô cũng có phần nào xao xuyến, phải không cô?

– Thật tình mà nói lúc đầu thì có đấy, nhưng mà bây giờ tôi đã quen rồi.

– Tôi nghĩ là cô rất mẫn cảm?

– Chỉ là do tập luyện thôi chứ bằng không thì sẽ ngã quỵ đó ông!

Chúng tôi vào thang máy lên tầng trên, một cụ già chống gậy tập tễnh vô theo. Cô y tá nhìn ông ta và hỏi:

– Ông đi lên thang máy hay là đi xuống?

Cụ đáp như cái máy, giọng nói khò khè yếu ớt khó nghe:

– Đi.. đi xuống, rồi đi.. đi lên, rồi đi.. đi xuống , đi lên.

Tôi nhận thấy ông ta chẳng nhìn ai cả, ánh mắt không hồn đang hướng về phương trời vô định. Dường như quá quen thuộc với những hiện tượng này, cô y tá thản nhiên nói:

– Vậy thì xin ông bước ra chờ chuyến sau sẽ có người đi với, chúng tôi đang bận.

Cô bèn nắm tay dẫn ông cụ ra ngoài rồi lạnh lùng khép cửa. Tôi thắc mắc:

– Nếu ông ấy lại tiếp tục bấm nút thang máy thì sao cô?

– Chúng tôi đã lượng trước được điều ấy cho nên tất cả nút cắt điện trong viện đều gắn rất cao người già không thể với tới.

– À thì ra vậy!

Công tác xong trời cũng về chiều, tôi từ giã, cô y tá tiễn tôi ra cửa. Đoàn xe lăn vẫn còn dàn chào.

Chợt trông thấy trong góc tối một ông lão độ trên dưới 80 đang cô đơn ngồi bất động trên xe lăn như pho tượng cũ. Điểm khác biệt khiến tôi chú ý là ông ta không phải người da trắng và cũng không hoà nhập vào toán dàn chào. Da ông màu đồng nâu có nhiều vết nhăn đậm nét thời gian hằn trên mặt. Mái tóc bạc phơ rủ loà xoà trên trán, vóc người bé nhỏ, mắt hom hem trân trối nhìn tôi như muốn nói điều gì. Tôi đoán chừng ông là thổ dân da đỏ. Hiếu kỳ tôi hỏi cô y tá:

– Và vị dưỡng lão này cũng là người ‘Indian’ hở cô? Tôi nghĩ đó là trách nhiệm của chính phủ liên bang chứ?

Cô ta ngạc nhiên:

– Ủa sao ông lại hỏi vậy?

Tôi trỏ ông lão ngồi xe lăn:

– Vậy không phải ’Indian’ là gì?

Cô y tá phì cười:

– Ông ta là người Á Đông đó ông ạ.

Tôi giật mình:

– Người Á Đông?

– Dạ phải, dường như là Việt Nam đó.

Thêm một lần kinh ngạc, tôi không ngờ nơi vùng đất hẻo lánh đìu hiu lạnh lẽo này cũng có người Việt cư trú. Tôi bèn hỏi dồn:

– Sao cô biết ông ta là người Việt.

– Dạ thưa ông hồ sơ có ghi đó ông ạ.

– Vậy thì ông ấy vào đây lâu chưa cô?

– Hơn 10 năm.

Rồi cô khẽ lắc đầu:

– Tội nghiệp, ông ta rất hiền lành dễ thương ai cũng quý mến cả. Nhưng hiềm chẳng nói được tiếng Anh cho nên suốt ngày cứ thui thủi một mình không có bạn.

– Vậy thân nhân ông ấy có thường xuyên tới thăm ông ấy không?

– Một lần cách đây lâu lắm, hẳn có uẩn khúc gì đây.

Không cam tâm làm ngơ trước người đồng hương đang gặp cảnh bẽ bàng nơi đất khách, tôi tự giới thiệu tôi cũng là người Việt Nam. Cô ta trố mắt:

– Ồ ! Thế mà tôi cứ đinh ninh ông là người Trung Hoa.

Tôi cười:

– Trong mắt người Tây Phương, thì bất cứ ai da vàng cũng là người Tàu.

Cô ta pha trò:

– Cũng đâu phải lạ, nhiều anh Tàu nhan nhản khắp nơi. Ngay trong xóm da đỏ hẻo lánh tít mù trên miền Bắc cũng có. Lần nào qua đó tôi cũng ghé mua cơm chiên, chả giò vừa ngon vừa rẻ nhưng phải cái là…..

Tôi nhoẻn miệng cười:

– Mỡ dầu và bột ngọt hơi nhiều phải không cô?

Cô ta cười xoà:

– Phải nói là nhiều quá mới đúng. Khổ công tập thể dục cả tháng, chỉ ăn một bữa cơm Tàu là đâu vào đấy; có khi còn thặng dư là khác.

Tôi quay lại vấn đề:

– Tôi muốn tiếp xúc với ông lão người Việt để mà chào hỏi làm quen. Có thể ông ấy cũng đang cần nói chuyện vì lâu lắm chưa có dịp.

Cô y tá mừng rỡ:

– Hay lắm. Đó cũng là điều tôi mong muốn. Vùng này hẻo lánh quá nên không tìm ra người thông dịch, nhân tiện nhờ ông hỏi xem ông ấy có nhu cầu hay đề nghị gì hầu chúng tôi đáp ứng không?

– Vâng, tôi sẽ cố gắng làm điều đó.

Thấy tôi đi tới ông lão ngước lên, nhíu đôi mắt hom hem nhìn chầm chập, vừa ngạc nhiên vừa thoáng chút ngại ngùng. Tôi gật đầu chào:

– Dạ thưa chào cụ ạ.

Nét mặt rạng niềm vui, giọng nói run run vì xúc động:

– Dạ chào. Chào thầy. Thầy người Việt à?

Giọng ông hơi nặng và chân thật. Tôi thân mật nắm tay ông.

– Thưa cụ cháu cũng là người Việt như cụ đấy ạ.

Ông lại nghẹn ngào:

– Cảm ơn Thiên Chúa. Cảm ơn Đức Mẹ Từ Bi đã cho tôi gặp được ông.

Tôi kéo ghế ngồi bên cạnh và bắt đầu trò chuyện.

– Thưa cụ, vì sao cụ cho là cuộc gặp gỡ hôm nay là do Thiên Chúa và Đức Mẹ sắp đặt.

– Tại đêm nào tôi cũng cầu nguyện ơn trên cho tôi gặp được người đồng hương.

– Có chuyện gì khẩn cấp không thưa cụ?

– Để được nói chuyện bằng tiếng Việt mình thôi.

Cụ thở dài:

– Lâu lắm rồi tôi chưa được nói hay là nghe tiếng mẹ đẻ.

Nhức trong tim, tôi bùi ngùi thương cảm, một ước mơ thật đơn giản mà sao lại quá xa vời. Chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Ông kể:

“Tên tôi là Tỉnh, Nguyễn Văn Tỉnh, trước kia ở Bình Tuy, làm nghề biển, có thuyền đánh cá. Tuy không giàu, nhưng cuộc sống cũng sung túc. Tôi có vợ, 3 con trai, đứa lớn nhất còn sống thì giờ này cũng đã gần 50. Năm 75, Cộng Sản tràn vào, cả nước kéo nhau chạy nạn, sẵn phương tiện trong tay, tôi chở vợ con vượt thoát, nhưng chẳng may là sau 3 ngày lênh đênh trên mặt biển thì gặp bão lớn tàu chìm. Tôi và đứa con út lên 6 được may mắn đã gặp tàu Mỹ vớt, còn vợ và 2 đứa con lớn thì mất tích thầy ạ. Sau đó thì tôi được bảo trợ về Louisiana, nơi đây có đông người đồng hương nên cũng đỡ buồn. Tôi bắt đầu tái tạo sự nghiệp, hùn hạp với bạn bè mua tàu đánh cá làm việc ngày đêm, trước là để vơi buồn, sau là tạo dựng tương lai cho thằng Út, giọt máu cuối cùng còn sót lại của tôi. Tôi ước mong thằng bé sẽ theo cha mà học nghề biển nhưng nó thì không muốn. Nó chỉ thích làm bác sĩ, kỹ sư ngồi nhà mát thôi chứ không chịu dãi nắng dầm mưa như bố, thế nên thầy biết không, vừa xong trung học là nó quyết chọn trường xa để mà tiếp tục theo đại học”.

Ông ngừng lại một chút để dằn cơn xúc động rồi ngậm ngùi kể tiếp:

“Tôi chỉ có mình nó, không thể sống xa con, nên quyết định là bán hết tài sản để mà dọn theo, bạn bè ai cũng ngăn cản thầy ạ, nhưng tôi quyết giữ lập trường, mang hết tiền dành dụm đến cái tiểu bang này mua một căn nhà nhỏ ở ngoại ô; còn chút ít thì gửi vào trong quỹ tiết kiệm lấy lời sống qua ngày. Hai cha con đùm bọc nhau, cuộc sống tuy chẳng sung túc nhưng chẳng nhẹ nhàng. Tuổi ngày một già thì sức khỏe càng yếu. Năm ấy trời mưa đá, tôi bị ngã gẫy chân thầy ạ. Bác sĩ cho biết xương già thì không có lành được và phải vĩnh viễn ngồi trên xe lăn. Thằng Út ra trường có việc làm ở Nữu Ước.

Tự biết là khó có thể theo con và không muốn làm trở ngại bước tiến thân của nó nên tôi xin vào viện dưỡng lão. Tôi lên tiếng trước thầy ạ cho nó khỏi bị khó xử. Nó giúp tôi làm thủ tục và hứa là khi nào làm ăn yên ổn nó sẽ đón tôi về. Các viện dưỡng lão tương đối khá đều hết chỗ, may thay trong lúc đang bối rối thì có anh bạn học người da đỏ quen Út mách cho tôi nơi này. Thấy con tôi buồn tôi bèn an ủi nó: ‘Nơi nào cũng là quê người, cũng giống nhau thôi, thỉnh thoảng con về thăm bố là bố vui rồi.’ Thế là cả ngôi nhà lẫn tiền dành dụm phải trao hết cho viện dưỡng lão, dĩ nhiên là tôi được nhận.”

Ánh mắt xa xôi nhìn về phía chân trời đang có đàn chim chiều đang soải cánh ông chép miệng:

– Chà nhanh quá, mới đó đã 10 năm rồi.

– Thưa cụ, thời gian qua chắc là anh Út vẫn thường xuyên về thăm cụ chứ?

– Ừ, một năm thì nó cũng trở lại, nó khoe tôi hình cô gái Mỹ và nó nói ‘dâu tương lai của bố đó.’ Rồi thầy biết không, từ đó biệt tăm luôn.

– Cụ hoàn toàn không biết tin tức gì về anh ấy sao?

– Không, mà thật tình tôi cũng không muốn biết nữa.

– Tại sao, anh ấy là con trai duy nhất của cụ mà? Cháu sẽ giúp cụ tìm anh ấy nhé?

Ông lão rơm rớm nước mắt:

– Tôi sợ lắm, thầy ơi. Thà biền biệt như thế mà tôi vẫn tin tưởng là nó đang sống tốt với vợ con ở một nơi nào đó trên quả đất còn hơn là biết tin buồn. Quả tình tôi không kham nổi.

Tôi nghẹn lời nói không được, lát sau qua cơn xúc động, tôi bèn hỏi:

– Giờ đây cụ có còn ước nguyện gì thì cụ cho cháu biết. Cháu sẽ hết lòng giúp với tất cả khả năng của mình thưa cụ.

Ông lão thở dài:

– Già rồi còn được mấy năm trước mặt hở thầy?

Ánh mắt chợt linh động, ông nhìn tôi và chép miệng:

– À, mà tôi thèm một bát bún riêu quá.

Hai tuần sau vào ngày Chủ Nhật, tôi nhờ chị bạn thân nấu giùm 2 bát bún riêu cua, bún nước để riêng, có đầy đủ chanh, rau, nước mắm, ớt hiểm tươi còn đặc biệt có thêm lọ mắm ruốc thật ngon. Tôi cho tất cả vào túi xách đem vào viện dưỡng lão Lakeview. Mất hơn 4 giờ, sau cùng tôi đã tới. Như lần trước, ông vẫn ngồi trên xe lăn gần cửa sổ cuối phòng.

Bất ngờ trông thấy tôi ông mừng rỡ kêu lên:

– Ồ kìa thầy. Thầy lại về đây công tác hở thầy?

Tôi chạy tới nắm tay ông:

– Dạ thưa lần này thì cháu chỉ đến đây thăm cụ và cháu có một món quà đặc biệt mang biếu cụ đây.

Lộ vẻ cảm động ông cụ nhoẻn cười đôi mắt nhăn nheo:

– Bày vẽ làm chi hở thầy. Đến thăm tôi là quý rồi thầy ơi.

Tôi xin phép ban quản lý đưa cụ ra vườn vì thức ăn nặng mùi mắm ruốc nên tôi phải mang theo một lọ cồn nhỏ để đun nóng ngoài trời. Cụ chăm chú nhìn tôi bỏ bún ra tô, trộn rau ghém, nêm mắm ruốc, chan nước dùng nghi ngút bốc hơi, rắc chút tiêu thơm trên lớp gạch cua nổi vàng trên mặt. Nặn hai lát chanh tươi và sau cùng là ba trái ớt hiểm đỏ thơm nồng cay xé lưỡi. Không nén được thèm thuồng, chốc chốc cụ lại nuốt nước bọt. Tôi đặt tô bún riêu trước mặt và mời cụ cầm đũa. Cụ run giọng:

– Cám ơn thầy. Không ngờ hôm nay tôi còn được ăn bát riêu cua. Mời thầy cùng ăn cho vui ạ.

– Cám ơn cụ, cháu đã ăn xong ở nhà. Xin cụ dùng tự nhiên. Bún riêu còn nhiều; hết tô này cháu sẽ hâm tô khác.

Cụ trịnh trọng húp từng muỗng xúp, gắp từng đũa bún, cắn từng miếng ớt cay ngon lành như chưa từng được ăn ngon, chốc chốc cụ dừng tay để lau mồ hôi và luôn miệng khen tấm tắc:

– Trời ơi! Bún riêu ngon quá mà mắm ruốc thơm quá thầy ơi.

Tôi cảm động đặt tay lên vai cụ:

– Thưa nếu cụ bằng lòng nhận cháu làm con, cháu sẽ thay anh Út và thường xuyên thăm viếng cụ nhé.

Cụ sững sờ nhìn tôi thật lâu như không tin ở tai mình rồi hai dòng nước mắt từ từ lăn dài trên đôi má hóp:

– Trời ơi ! Sao tôi có được diễm phúc như vậy sao trời!

Tôi yêu cầu ban quản lý ghi tên tôi vào danh sách thân nhân, và dặn dò khi có chuyện cần thì cứ gọi. Năm sau, còn một ngày nữa là Tết, tôi đã chuẩn bị xong quà cáp có cả trà thơm, mứt ngọt dự định sáng hôm sau Mồng Một đầu năm sẽ mang lên Lakeview mừng tuổi cụ. Đang ngon giấc, chợt có chuông điện thoại, tôi nhấc ống nghe, bên kia đầu dây tiếng cô y tá trực của viện dưỡng lão Lakeview:

– Dạ thưa hỏi, có phải ông là ông Trần không?

– Dạ vâng ạ, là chính tôi đây.

– Dạ thưa ông, cụ Tỉnh đau nặng.

– Tình trạng thế nào có nguy không cô?

– À, cụ đang nằm phòng hồi sinh bệnh viện ở thành phố đó thưa ông.

– Cám ơn cô rất nhiều, ngày mai tôi sẽ đến cụ.

– À, ông nên đi sớm hơn đi là vì sợ không còn dịp nữa.

Tôi rụng rời, ngoài trời tuyết rơi càng lúc càng nhiều, trời trở lạnh, gió giật từng cơn, hoa tuyết bay nghiêng như ngàn vạn mũi tên bắn vào kính nghe rào rào như vãi cát. Không gian mờ mịt, rừng phong trắng xoá một màu, tuyết phủ lớp dầy trên mặt đất. Tôi rà thắng cho xe chạy chậm để khỏi rơi xuống hố. Sau cùng cũng tới được bệnh viện Hayward.

Cô y tá nhìn tôi ái ngại:

– Thưa ông, suốt đêm qua ông ấy cứ gọi tên một người nào đó. Không biết có phải là ông không ạ?

– Cô còn nhớ là ông gọi tên gì không?

– Chỉ một tiếng duy nhất, dường như là ‘Work’ hay ‘Wood’ gì đó.

Tôi đã hiểu là thằng Út.

Tôi hé cửa lách vào trân trối nhìn ông rồi ngồi xuống bên giường, người ông khô đét, hai mắt nhắm nghiền, hơi thở yếu ớt. Tôi nhẹ nhàng đặt tay lên vầng trán nhăn nheo. Ông chợt cử động rồi thều thào:

– Út… Út…

Nước mắt chực trào ra, giờ phút nầy tôi phải làm một điều gì để ông được mỉm cười khi vĩnh biệt. Tôi bóp nhẹ bàn tay gầy guộc và nghẹn ngào:

– Thưa cha, con đã về đây thưa cha.

Mi mắt ông động đậy, cố nhướng nhìn lên. Rồi kiệt sức nên từ từ khép lại nhưng môi còn mấp máy:

– Út… Út… Út con.

– Phải thưa cha. Con là Út đây cha. Con là đứa con bất hiếu đã quay về bên cha để xin cha tha thứ cho con.

Tôi cảm được các ngón tay khô gầy đang bắt đầu cử động trong lòng tay tôi, cố nắm giữ đứa con yêu đừng có xa rời. Nước mắt tôi vô tình rơi xuống làn môi khô nứt nẻ đang hé một nụ cười.

Gia tài ông để lại là một bọc vải nhỏ trong ấy có một tượng chúa Giê-Su bị đóng đinh trên cây thập giá và tấm hình đen trắng đã trổ màu vàng chụp gia đình 5 người đoàn tụ, đứa nhỏ nhất còn bế trên tay, tôi đoán nó tên là Út.

Tuổi xuân giờ đã đi đâu
Còn đây tóc bạc phai màu thời gian…
Khuyết Danh
(Dường như do sự cố ý!? Người viết đã không để tên)
Trần Văn Giang (Ghi lại)

CỔ TÍCH TRÊN ĐỈNH MỒ CÔI – KỲ CUỐI

CỔ TÍCH TRÊN ĐỈNH MỒ CÔI – KỲ CUỐI

From Võ Đắc Danh CỔ TÍCH TRÊN ĐỈNH MỒ CÔI – KỲ CUỐI

VO DAC DANH

 

 

 

 

 

 

 

 

VÕ ĐẮC DANH GẶP LÊ MINH TRIỂN TẠI SAN DIEGO NĂM 2010

Kể xong câu chuyện Cổ Tích Trên Đỉnh Mồ Côi, tôi vẫn còn ray rứt trước hai câu hỏi không tìm ra lời đáp: Thứ nhất, liệu anh Bông có lấy vợ được không ở cái tuổi bốn lăm ? Người phụ nữ, dù có rộng lượng đến đâu cũng không thể ưng một người chồng đang nuôi 11 đứa con nheo nhóc. Thứ hai, chuyện học hành của 11 đứa trẻ ấy rồi sẽ ra sao giữa đỉnh núi cao hoang vu, heo hút, đường đến trường quanh co, năm ba cây số, dốc núi dựng đứng, trập trùng ?
Tôi đã gởi vào đoạn kết câu chuyện một nỗi lo cùng với một niềm tinmong manh, rằng : ” Khi bà Tiên qua đời, liệu anh tiều phu có lo cho những thiên thần bé nhỏ ấy học hành đỗ đạt hay không ? Những câu chuyện cổ tích bao giờ cũng đi đến một kết thúc có hậu. Nhưng dân gian thường hay lý giải sự bế tắt bằng những phép màu. Và tôi hy vọng trong câu chuyện nầy, sẽ có một phép màu nào đó đến với anh Bông. Phép màu ấy chính là cái tâm, là lòng nhân ái đang ẩn chứa đâu đây, trên cõi đời nầy”.

Và, cái phép màu ấy đã đến với anh Bông và những đứa trẻ mồ côi sau khi câu chuyện được kể trên Sài Gòn Tiếp Thị.

Một buổi tối, Dì Ba gọi điện cho tôi, nói như nửa đùa nửa thật: “Con biết không, mấy ngày qua có nhiều cô từ miền Trung đến miền Tây, rồi cả bên Mỹ gọi điện cho thằng Bông để chia sẻ, bày tỏ tình cảm, nhã ý muốn lên đây làm mẹ của mấy đứa nhỏ, giờ con tính sao ?”

Gần một năm sau tôi trở lại Đỉnh Mồ Côi thì Câu Chuyện Cổ Tích đã có nhiều thay đổi đến không ngờ. Con đường lên đỉnh núi đã được tráng xi măng để xe gắn máy dễ dàng lên xuống, anh Bông cho biết, ngay tuần đầu sau khi câu chuyện được lên báo, nhiều tổ chức, cá nhân đã mang tiền lên giúp sức, kẽ ít người nhiều, trước hết là giúp anh làm con đường bê tông để giảm bớt nỗi nhọc nhằn khi lên xuống núi. Mới đây, một nhóm thanh niên gọi là nhóm chim gồm 36 người do dược sĩ Trần Anh Tuấn dẫn đầu từ Đồng Nai lên chơi , chở lên ba tấm nệm Kim Đan, mấy thùng đồ chơi trẻ em và 14 triệu đồng tặng cho đám trẻ.Có một câu chuyện rất cảm động mà dì Ba nói rằng dì sẽ giữ bí mật cho đến khi nào tôi trở lại để dì dành cho tôi một sự ngạc nhiên.
Hôm ấy, có một chàng trai tên là Minh Triển từ Mỹ trở về, một thân một mình trèo lên đỉnh núi, khi tới nơi, anh ôm những đứa trẻ vào lòng rồi bật khóc. Anh nói, đọc câu chuyện trên mạng tưởng người ta hư cấu, không ngờ sự thật là như vậy. Minh Triển cũng không nói gì thêm, trước khi ra về, anh gởi cho dì Ba 300USD cùng với lời hứa sẽ tìm cách giúp dì với anh Bông lo cho mấy đứa nhỏ học hành.

Mấy tuần sau, Triển gọi điện qua nói với dì Ba: “Con xin phép được làm con nuôi của má, làm em của anh Bông, làm chú của 11 đứa trẻ để con được góp sức chăm lo cho tụi nó”. Thì ra, trong chuyến đến thăm lần ấy, Triển đã khảo sát dưới chân núi Cấm có trường học dạy từ lớp một đến lớp 12. Anh đề nghị anh Bông xuống chân núi mua đất xây nhà cho các cháu có chỗ ở gần trường để học hành, công việc tiến hành tới đâu Triển gởi tiền về tới đó.
Đến nay, ngôi nhà đã được hoàn tất, chiều ngang 9 mét, chiều dài 20 mét, một trệt một lầu, phía sau có 1.000 mét vuông đất vườn. Anh Bông cho biết, Triển gởi về tổng cộng 45.000USD. Ngôi nhà 360 mét vuông, mỗi đứa một phòng ngủ riêng, đó là ý tưởng của Minh Triển vừa tập cho các cháu sinh hoạt độc lập, vừa dự phòng khi chúng lớn lên có đủ không gian để sinh hoạt cá nhân.

 LE MINH TRIÊN
LÊ MINH TRIỂN VỚI GIA ĐÌNH DÌ BA TRONG NGÔI NHÀ MỚI XÂY DƯỚI CHÂN NÚI CẤM

Minh Triển là ai ? Tôi gởi lại địa chỉ mail cho anh Bông với hy vọng sẽ liên lạc với con người khá bí ẩn nầy.

Anh Bông lấy ra cho chúng tôi xem hơn mười lá thư của các chị, các cô gởi về, không chỉ từ mọi miền đất nước mà cả những lá thư cách nửa vòng trái đất. Mỗi người kể một hoàn cảnh, một tâm sự khác nhau. Nhưng thật đáng trân trọng vì hầu hết những lá thư đều bày tỏ lòng trân trọng với anh Bông. Ai cũng muốn chung vai gánh vác với anh một phần trách nhiệm. Một chị ở Hà Nội tâm sự rằng, chị lấy chồng gần năm năm nhưng không có khả năng sinh con, bị chồng bỏ đi lấy vợ khác, chị sống trong những ngày tuyệt vọng thì tình cờ đọc được câu chuyện về anh, bỗng dưng chị khát khao muốn được làm mẹ của những đứa con anh, được bồng ẵm, được chăm sóc chúng như con ruột của mình. Một chị ở Cali thì đặt thẳng vấn đề kết hôn với anh và bảo lãnh cho những đứa con anh du học. Tôi hỏi Bông tính sao, anh cười hiền: “Mình chẳng biết tính sao cả, đã thề sống độc thân để nuôi tụi nó rồi, giờ lấy vợ, liệu người ta có thương tụi nó bằng mình không, nói thì nói vậy chớ chạm vào thực tế mới biết, không khéo sẽ đỗ vỡ hết, sẽ nát bét hết . . .”
*
Mấy ngày sau, tình cớ tôi nhận được mail của Minh Triển, anh tâm sự khá dài. Ngoài những điều như dì Ba và anh Bông kể, Triển còn cho biết tuổi thơ của anh ở Trà Vinh đã trải qua những tháng ngày cơ cực, mồ côi cha từ bé, phải nghỉ học sớm để mưu sinh.
Năm 15 tuổi, Triển theo một chiếc tàu đánh cá ra khơi và không ngờ rằng mình đặt chân lên đất Mỹ. Tuổi thơ lưu lạc, khao khát tình thương. Khi lên tới Đỉnh Mồ Côi, Triển như thấy bóng dáng thân phận mình qua từng đứa trẻ. Về Mỹ, anh quyết định gom đến đồng bạc cuối cùng của mình dành dụm bao nhiêu năm để làm một điều gì đó nhằm giảm bớt nỗi bất hạnh cho những đứa trẻ ấy, Triển cảm thấy như được bù đắp cho những mất mát của chính tuổi thơ mình.
*
Tháng 5 năm 2010, tôi sang Mỹ và gởi mail báo tin cho Triển. Một sáng sớm, Triển đến đón tôi từ Fullerton về San Diego, nơi anh đang ở. Những ngày ở đây, tôi lại được sống trong câu chuyện cổ tích và những phép màu:

Em mồ côi cha từ nhỏ, năm 15 tuổi, em theo một chiếc ghe biển làm thuê kiếm tiền nuôi mẹ và hai đứa em. Một hôm, em thấy lạ, chiếc ghe cứ đi mãi, đi mãi không đánh cá mà cũng không về, và em đã hiểu ra rằng họ đi vượt biên. Cuộc đời em bắt đầu sang trang từ đó. Những ngày đầu sống trên đảo Bidong, em tìm đến xin việc ở một lò bánh mì của một người Việt tỵ nạn, người ta không nhận, em tìm gặp ông chủ để năn nỉ:” Xin ông cho con được làm công, không cần trả lương, chỉ cần ông cho con mỗi ngày hai ổ bánh mì thôi”. Ông nhận em vào làm và được trả công mỗi ngày hai ổ bánh mì. Được vài tháng em nói với ông chủ: ” Con muốn đi bán bánh mì nhưng không có vốn, xin ông cho con lấy bánh trước, chiều về con trả tiền”. Ngày đầu em lấy mười ổ đi bán trong các trại tỵ nạn, ngày sau mười lăm ổ, rồi hai mươi ổ . . . con số cứ tăng dần. Không biết từ lúc nào, ông chủ lò bánh mì thương em như con ruột. Một hôm ông gọi em đến nói: ” Tao được xét đi Úc rồi, cái lò bánh mì có nhiều người mua nhưng tao không bán, tao tặng lại cho mầy . . .”. Những ngày trước khi đi, ông chỉ dạy cho em cách làm bánh. Bỗng dưng em trở thành ông chủ nhỏ như một giấc mơ. Vài tháng sau em có tiền, em tiếp tục mua thêm một lò bánh mì nữa của một người được xét đi Mỹ. Khoảng sáu tháng sau, trên đảo xảy ra sự cố: Một người tỵ nạn say rượu nổi loạn bắn chết một nhân viên của Cao ủy. Họ nỗi giận, họ trừng phạt bằng cách cắt trợ cấp lương thực. Hàng ngàn người tỵ nạn rơi vào tình trạng đói khát. Lúc ấy, hai lò bánh của em không kinh doanh nữa mà chuyển sang cứu đói, mỗi ngày làm ra bao nhiêu bánh mì em đem phát không cho họ. Nhiều người mắng chửi em ngu dại, đây là thời cơ hốt bạc mà không biết nắm bắt để kinh doanh. Em nghĩ đã đến đây, đã lâm vào tình cảnh nầy thì ai sao mình vậy. Bao nhiêu vốn liếng em tiếp tục bỏ ra mua bột làm bánh cứu đói đến đồng bạc cuối cùng, đến hai lò bánh mì đóng cửa. Sau sáu tháng trừng phạt, Cao ủy họ tiếp tục cứu trợ lương thực cho người tỵ nạn. Một người quen tới rủ em: ” Mầy có lò bánh, có nghề, tao có ít vốn, mình hợp tác làm ăn”. Hai lò bánh mì hoạt động trở lại cho đến ngày em đi Mỹ.

Sang Mỹ, em lại gặp một sự cố đáng buồn. Lúc làm hồ sơ đi Mỹ, theo quy định thì những người dưới 18 tuổi phải có người đỡ đầu, tối thiểu phải là họ hàng thân thuộc, em nhờ một người quen nhận em là cháu. Nhưng khi tới Mỹ thì họ lấy hết tiền trợ cấp, mỗi tuần chỉ đưa lại cho em 10USD. Em với mấy người bạn Việt cùng cảnh ngộ se phòng trọ để đi học, đi nhặt rác và đi giao báo để kiếm sống. Mỗi tuần kiếm được năm bảy chục đô, cứ lây lất như thế cho đến khi vào đại học. Và, cuộc đời em sẽ không biết ra sao nếu không có một “phép màu”, em cho rằng đó là một phép màu.

Hôm ấy một thằng bạn rủ em tới nhà cha nuôi của nó chơi. Ông nầy là một người Mỹ, trước đây là một tiểu thương đã nghỉ hưu, sống độc thân và khá giả, ông đã nhận bốn sinh viên Việt Nam làm con nuôi. Sau cuộc gặp gỡ ấy, ông lại nhận thêm em, là đứa con nuôi thứ năm. Từ đó, thỉnh thoảng ông gọi em tới chơi, làm thức ăn đãi em, rồi hỏi thăm, dạy bảo. Dần dà, em cảm nhận ở ông một tình cảm rất lạ, rất đầm ấm, rất chân thành. Có hôm trời mưa, ông gọi điện hỏi em đang ở đâu, em nói đang ở ngoài đường. Giọng ông tỏ ra lo lắng: ” Tao đã bảo mầy trời mưa không được ra ngoài !”.

Một hôm ông gọi em tới và ôn tồn nói:” Tao thấy mầy học ngành điện không ổn, ở đây có nhiều kỹ sư điện thất nghiệp, còn nếu có việc làm thì cũng chỉ đủ sống. Mầy nghỉ học đi, mở cái công ty cắt cỏ, tao giúp cho”. Ở Mỹ, trừ khu trung tâm thành phố, mỗi nhà đều bắt buộc phải có khu đất trồng cỏ, nếu không trồng thì bị phạt, còn trồng mà hàng tháng không cắt theo quy cách cũng bị phạt. Ông tư vấn cho em từ việc thành lập công ty, cách quản lý, cách tiếp thị, quảng cáo . . .

Dạo quanh thành phố San Diego, thấy những chiếc xe bán tải với mấy người Mễ chở máy móc đi cắt cỏ cho các sân vườn, Triển nói công nhân của em đó, rồi kể tiếp:

Sau chuyến về Việt Nam gặp anh Bông và những đứa trẻ trên núi Cấm, em quyết định chuyển toàn bộ số tiền trong tài khoản về cho anh ấy mua đất và cất nhà dưới chân núi. Nhưng rồi em nghĩ, đó chỉ là việc khởi đầu cho một tương lai dài đăng đẳng của mười một đứa bé. Làm sao cho chúng học hành tới nơi tới chốn, có một cuộc sống đàng hoàng, đó là khát vọng lớn nhất của em. Em đem chuyện ấy bàn với ba nuôi và ngỏ ý muốn lập một hội từ thiện. Ông nói, trong mấy đứa con nuôi, ngay từ đầu tao thấy mầy là đứa có tấm lòng, sống phải biết vì quê hương, vì đồng bào mầy ạ. Mầy lập hội từ thiện đi, tao đứng ra giúp đỡ, mầy quyên góp được một đồng, tao cho thêm một đồng . . . Em cũng không ngờ, năm đầu tiên em vận động được 37 ngàn USD, ổng góp vô 37 ngàn nữa. Vậy là, ngoài việc chu cấp cho mười một đứa con nuôi, số tiền quỹ từ thiện hàng năm em mang về giúp đỡ trẻ em nghèo các tỉnh.

Một hôm, ba nuôi gọi em đến, ông nói tao bây giờ già rồi, không biết ra đi ngày nào, tao đã nhờ luật sư làm di chúc, giao lại toàn bộ tài sản và tiền bạc trong nhà băng cho mầy. Em cầm tờ di chúc mà bủn rủn tay chân, số tiền quá lớn, tài sản cũng quá lớn. Và lớn lao hơn hết là tấm lòng của một người cha không cùng màu da sắc tộc.

LÊ MINH TRIỂN TẠI XẺO LÁ NĂM 2012

Tôi hỏi Triển dự định thế nào với tờ di chúc ấy, anh nói:

Mong muốn trước tiên của em là cho mười một đứa con nuôi du học, tiếp theo, em sẽ về quê xây thêm trại mồ côi theo cách làm của anh Bông, tức là những đứa trẻ vô thừa nhận khi vừa mới chào đời.

Bụt và Lợn

From facebook: Lê hồng Song added 2 new photos.

ĐỌC VÀ SUY NGẪM…….

Bụt và Lợn

Một con lợn biết mình sắp bị mổ thịt, kêu khóc thảm thiết. Bụt hiện ra hỏi tại sao con khóc? Lợn gạt nước mắt nói, “Cuộc đời sao quá bất công? Con sinh ra phải mang tấm thân xấu xí, ăn cơm thừa canh cặn, ở trong chuồng dơ dáy, rồi lại bị bắt giết làm thịt. Cõi đời này còn có công lý hay không?”

Bụt cười và giảng, “Tại con không biết, chứ đó là do luật nhân quả. Để ta giải thích cho con rõ:

Kiếp trước con không biết nghe lời hay lẽ phải, kiếp này con phải mang đôi tai to.

Kiếp trước con hay đi chơi bia ôm, thấy gái đẹp là mắt híp lại, nên kiếp này con có đôi mắt híp.

Kiếp trước con hay hát karaoke, hát dở mà cứ chu mỏ rống thật to làm khổ lỗ nhĩ hàng xóm, nên kiếp này con có cái mõm dài.

Kiếp trước con hay “nói dai, nói dài, nói dóc, nói dỏm” chi nên kiếp này con phải kêu ủn ỉn, ụt ịt.

Kiếp trước con chỉ ngồi bàn giấy sai bảo người khác và rất lười vận động, nên kiếp này con có bụng bự và chân ngắn.

Kiếp trước con ăn nhậu phủ phê và ở nhà cao cửa rộng nhờ tiền tham nhũng, nên kiếp này con phải ăn cơm thừa canh cặn và ở chuồng heo.

Kiếp trước con chỉ biết sống “vinh thân phì gia hại quốc mặc thiên hạ” làm bao nhiêu dân nghèo không có miếng thịt để ăn, cho nên kiếp này con phải bị giết làm thịt.”

Con lợn nghe xong bán tín bán nghi tự hỏi: “ Trời đất ơi, không lẽ kiếp trước mình là… Quan nhà…sản..!

Image may contain: cloud, sky and outdoor
Image may contain: one or more people

Cậu bé tìm mua Thượng Đế với 1 đô la.

Cậu bé cầm 1 đô la đi mua Thượng đế, ông chủ tiệm nói 1 câu khiến cuộc đời cậu thay đổi mãi mãi…

MUA THUONG DE

Tình người, tình đồng loại chính là thứ tình cảm thiêng liêng, cao quý. Nó có thể vượt qua mọi khoảng cách, mọi mặc cảm thân phận. Lòng bao dung đó thậm chí có thể cứu vớt cả một sinh mệnh. Câu chuyện ý nghĩa sau đây sẽ khiến bạn phải suy ngẫm.

Một ngày nọ, có một cậu bé nhặt được 1 đô la. Cậu liền đến một cửa hàng bên cạnh đường hỏi: “Xin hỏi, ở đây bác có Thượng đế bán không ạ?”. Người chủ cửa hàng không nói gì, ngại cậu bé quấy rối nên đã mời cậu ra khỏi cửa hàng.

Trời đã sắp tối đen rồi, cậu bé lần lượt đi hết cửa hàng này đến cửa hàng sau. Không ngờ, đến cửa hàng thứ 29 thì cậu cũng được người chủ tiếp đón nhiệt tình. Ông chủ cửa hàng thứ 29 mà cậu bé vào hỏi là một ông lão hơn 60 tuổi, đầu tóc bạc phơ, vẻ mặt hiền từ. Ông nhìn cậu bé rồi hỏi: “Này cháu! Hãy nói cho ông biết, cháu mua Thượng đế để làm gì vậy?”. 

Cậu bé chảy nước mắt rồi nói với ông lão rằng: “Cháu tên là Bonnie. Cha mẹ của cháu đã mất từ khi cháu còn rất bé. Chú Rupp của cháu đã nuôi dưỡng cháu từ nhỏ đến bây giờ. Chú của cháu là một công nhân xây dựng, nhưng mới đây chú đã bị ngã từ trên cao xuống đất nên bị hôn mê bất tỉnh. Bác sĩ nói rằng, chỉ có Thượng đế mới cứu được chú của cháu mà thôi. Cháu biết rằng Thượng đế chắc phải là một thứ vô cùng kỳ diệu nên cháu muốn mua về để cho chú của cháu ăn. Như thế chú mới nhanh khỏi bệnh được ạ!”.

Ông lão đỏ hoe mắt hỏi: “Vậy cháu có bao nhiêu tiền nào?”. 

Cậu bé nhanh nhảu đáp: “Cháu có 1 đô la ạ!”. 

Ông lão vội nói: “Ôi thật may quá! Giá của Thượng đế đúng bằng 1 đô la đấy cháu ạ!”.

Nói xong, ông đi vào ngăn kéo và lấy một chiếc chai đồ uống có nhãn hiệu “Nụ hôn của Thượng đế” và đưa cho Bonnie. Ông nói: “Cầm lấy đi cháu! Chú của cháu uống hết chai này là sẽ khỏi bệnh rồi!”. Bonnie vô cùng mừng rỡ, ôm chai nước vào trong ngực rồi lập tức trở về bệnh viện. Vừa bước vào phòng bệnh, cậu vui vẻ nói to: “Chú ơi! Cháu đã đem Thượng đế đến rồi đây! Chú sẽ nhanh chóng khỏe lại thôi!”. 

Mấy ngày hôm sau, một nhóm các chuyên gia y học có trình độ cao nhất đã đến bệnh viện tiến hành hội chẩn cho chú Rupp của cậu bé Bonnie. Họ sử dụng kỹ thuật tiên tiến nhất trên thế giới để chữa bệnh và cuối cùng điều kỳ diệu đã xảy ra, chú Rupp của cậu bé đã hoàn toàn hồi phục. Khi chú của Bonnie ra viện, nhìn số tiền viện phí quá lớn được ghi trên hóa đơn, anh đã suýt ngất xỉu.

Tuy nhiên, phía bệnh viện đã nói với chú của Bonnie rằng: “Mấy hôm trước, có một ông lão đã đem tiền đến thanh toán hết tiền viện phí cho anh rồi. Ông lão ấy là một tỷ phú giàu có. Trước đây, ông ấy là chủ tịch của một tập đoàn đa quốc gia nhưng bây giờ đã về nghỉ ngơi và mở một cửa hàng tạp hóa bán qua ngày. Nhóm chuyên gia y học có trình độ cao kia cũng là do ông ấy đã bỏ ra một số tiền lớn để thuê đến đấy”. 

Anh Rupp sau khi nghe xong đã cảm kích vô cùng, lập tức cùng cháu trai của mình đến tạ ơn ông lão kia. Khi họ đến nơi, mới biết được ông lão đã đóng cửa tiệm tạp hóa và ra nước ngoài.

Sau này, anh Rupp đã nhận được một lá thư do ông lão kia gửi đến. Trong thư ông viết: “Anh bạn trẻ! Anh có người cháu trai Bonnie, thực sự là quá may mắn đấy! Vì cứu anh, cậu bé đã cầm 1 đô la đi khắp nơi để mua Thượng đế. Hãy cảm tạ Thượng đế! Là Thượng đế đã cứu tính mạng của anh!”. 

Nhiều năm sau, cậu bé năm nào đã trưởng thành và còn thi đỗ vào trường Y. Nhớ lại câu chuyện cũ và về ân nhân năm xưa, cậu đã cố gắng hết mình cứu chữa được rất nhiều bệnh nhân và trở thành một bác sĩ tốt. Bonnie đã đền đáp lại tình nghĩa của ân nhân cũ theo một cách không thể tuyệt vời hơn. Nếu không có câu chuyện cầm 1 đô la đi mua Thượng đế năm xưa và cuộc hội ngộ đầy bất ngờ với ông lão tỷ phú nọ, không thể nói trước rằng cuộc đời Bonnie đã rẽ sang hướng nào.

Câu chuyện khép lại ở đúng thời điểm đẹp nhất nhưng nó chưa kết thúc. Lòng bao dung, tình yêu thương sẽ còn lan tỏa mãi không ngừng. Ông lão tỷ phú đã cứu mạng người chú của Bonnie nhưng không chỉ vậy ông còn cứu vớt cả chính cậu bé. Ông gieo vào lòng cậu bé một đức tin về cái tốt, cái đẹp, đức tin vào Thượng đế. Đôi khi, một lời nói dối có thể mang đến hy vọng cho người khác. Nhất là khi lời nói dối ấy xuất phát từ lòng bao dung, thiện tâm.

Người xưa nói “Thiện ý một câu ấm ba đông“. Tình yêu thương đã gắn kết những tâm hồn vốn xa lạ. Cuộc sống không phải lúc nào cũng suôn sẻ, đời người chẳng phải lúc nào cũng đủ đầy, sướng vui. Trong những ngày bão tố, những hố sâu tuyệt vọng, chỉ một câu nói, một hành động yêu thương cũng như ngọn lửa thắp lên giữa đêm đông. Khi lòng tốt được nhân rộng, gieo trồng như thế, khắp thế gian này sẽ chỉ còn là tình yêu. Điều đó chẳng phải quá tuyệt vời ư?

Mai Trà – Hữu Bằng.

Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln đã làm gì khi bị sỉ nhục..!!? ?

Tổng thống Mỹ Abraham Lincoln đã làm gì khi bị sỉ nhục..!!? ?

Nhà văn Victor Hugo – Pháp từng nói: “Trên thế giới thứ rộng lớn nhất là đại dương, nhưng thứ rộng lớn hơn lại là bầu trời, mà thứ còn rộng hơn cả bầu trời lại chính là lòng người.” Bao dung thì luôn được lợi và người làm thành được sự nghiệp thì nhất định phải có lòng bao dung rộng lớn.

Lâm Tắc Từ, một vị quan nổi tiếng thời xưa, cũng viết: “Hải nạp bách xuyên, hữu dung nãi đại; bích lập thiên nhận, vô dục tắc cương”, ý nói rằng biển vì có thể dung nạp trăm nghìn con sông mà trở nên rộng lớn, vách núi nghìn trượng sừng sững vì không mang dục vọng mới có thể giữ mình cương trực. Đây cũng là nói đến trí huệ của lòng bao dung.

Bao dung là một loại khí phách, cũng là một loại trí huệ. Cổ ngữ có câu: “Cái trán của Tướng quân rộng đến mức có thể phi ngựa, bụng của Tể Tướng rộng đến mức có thể chèo thuyền”. Ý nói, một người có tấm lòng quảng đại, rộng lớn bao nhiêu thì sự nghiệp sẽ to lớn bấy nhiêu.

Có một câu chuyện kể về tổng thống vĩ đại của nước Mỹ – Abraham Lincoln như thế này:

Tổng thống Mỹ thứ 16 Abraham Lincoln xuất thân trong một gia đình thợ giày. Lúc đó, xã hội Mỹ rất coi trọng thành phần xuất thân trong gia đình quyền quý. Đại bộ phận nghị sĩ thượng nghị viện Mỹ đều xuất thân trong gia đình thế gia vọng tộc. Là những người của xã hội thượng lưu Mỹ, họ thấy khó chấp nhận một vị Tổng thống là con trai của một thợ giày rất tầm thường.

Tổng thống Abraham Lincoln

ABRAHAM LINCOLN

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Formal portrait of Abraham Lincoln 1809 – 1865, 16th President of the United States of America, famous for saving the Union in the American Civil and the emancipation of slaves, He was assassinated by John Wilkes Booth in 1865

January 01, 1865

Ngày đầu tiên làm tổng thống, ngay khi Lincoln lên phát biểu trong lễ nhậm chức Tổng thống, một nghị sĩ đã chen vào giữa bài phát biểu của ông. Ông ta nói: “Thưa ngài Lincoln, đừng quên rằng cha ngài thường đóng giày cho gia đình tôi.” Tất cả các nghị sĩ đều cười ầm lên. Họ nghĩ rằng họ đã khiến Lincoln trở thành trò hề.

Tuy nhiên, khi tiếng cười vừa chấm dứt, Tổng thống Lincoln không cao ngạo, cũng không tự ti mà chân thành nói: “Thưa ngài, tôi biết rằng cha tôi đã đóng giày cho gia đình ngài, cũng như nhiều gia đình các nghị sĩ khác… bởi vì không người thợ nào có thể làm được như ông. Ông là một người sáng tạo. Giày của ông không chỉ là giày, ông đã đổ cả tâm hồn vào nó. Tôi muốn hỏi các ngài rằng, các ngài đã từng phàn nàn về giày của ông chưa? Bản thân tôi cũng biết cách đóng giày; nếu các ngài có phàn nàn gì, thì tôi có thể đóng cho các ngài một đôi giày khác. Nhưng theo tôi thấy thì, chưa ai từng phàn nàn về những đôi giày mà cha tôi đóng. Ông là một thiên tài, một nhà sáng tạo, và tôi tự hào vì cha tôi!”

Toàn bộ các nghị sĩ nín lặng. Họ nhận ra rằng họ chưa hiểu gì về Tổng thống Lincoln. Lincoln tự hào về người cha đánh giày của mình, vì chưa ai từng phàn nàn về những “tác phẩm” của ông. Và mặc dù đã là Tổng thống, Lincoln vẫn sẵn sàng đóng một đôi giày mới nếu có bất cứ ai phàn nàn.

Lễ nhậm chức của Tổng thống Lincoln.

WASHINGTON, D.C. -- March 4, 1865 -- Abraham Lincoln's second Inauguration. Photograph from a painting of the second Inauguration of Abraham Lincoln as President of the United States. Mr. Lincoln is seen taking the oath of office at his Inaugural. Photo by unknown/file photo (daily folder 01/11/09) MANDATORY CREDIT: Baltimore Examiner and Washington Examiner OUT
WASHINGTON, D.C. — March 4, 1865 — Abraham Lincoln’s second Inauguration. Photograph from a painting of the second Inauguration of Abraham Lincoln as President of the United States. Mr. Lincoln is seen taking the oath of office at his Inaugural. Photo by unknown/file photo (daily folder 01/11/09) MANDATORY CREDIT: Baltimore Examiner and Washington Examiner OUT

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Engraving depicting Chief Justice Taney administering the oath to President Abraham Lincoln at his inauguration, Washington D C, March 4th 1861.

March 04, 1861

Sau này có người đã khuyên Lincoln trả đũa người nghị sĩ nọ, nhưng Lincoln nói rằng: “Khi chúng ta trở thành bạn thì đối thủ đã không còn!” Chính sự chân thành và lòng khoan dung của Lincoln đã trở thành một phần nền tảng của văn hóa Mỹ.

Nhà thơ nổi tiếng Gibran từng nói: “Một con người vĩ đại có hai trái tim: Một trái tim chảy máu và một trái tim bao dung”. Khổng Tử nói: “Khoan dung thì được lòng mọi người”. Trong kinh Phật cũng dạy: “Chỉ một ý niệm cũng khiến hoàn cảnh thay đổi”. Cho nên, chỉ một câu nói, một hành động nhỏ hay chỉ một nụ cười thôi đã đủ để khiến cho người xấu quay đầu hướng thiện.

Lẽ trời cũng là lẽ của con người, chính bởi vì có thể bao dung mới có thể thành tựu được biển rộng, núi cao, cũng cải thiện được mối quan hệ giữa con người và con người, thành tựu được sự nghiệp to lớn lưu mãi ngàn đời của các bậc anh hùng, hào kiệt xưa nay.

Tục ngữ nói: “Vàng không thuần khiết, người không ai hoàn mỹ”. Khi đối mặt với sai lầm của người khác, nếu như canh cánh để ở trong lòng và đòi đáp trả thì sẽ chỉ khiến cho tâm linh của bản thân thêm nặng, thêm trầm trọng mà thôi. Thay vì để cho thù hận gặm nhấm tâm linh, chịu đựng thống khổ chi bằng hãy mở rộng lòng mà bao dung hết thảy, chẳng phải chúng ta sẽ được thản nhiên và tự tại sao?

Cậu bé hàng xóm của tổng thống Mỹ và câu chuyện thức tỉnh thế giới

Cậu bé hàng xóm của tổng thống Mỹ và câu chuyện thức tỉnh thế giới

 Trên mạng Wechat ngày 11 tháng 10 có đăng tải một bài viết với tiêu đề  “Câu chuyện chân thực của một cậu bé người Mỹ và một bà mẹ người Mỹ: Xem xong sẽ làm bạn mất ngủ cả đêm.” 

Lăng mộ hàng xóm của Tổng thống Grant

Bên bờ sông Hudson ở New York, cách lăng mộ của vị Tống thống đời thứ 18 của nước Mỹ Ulysses S. Grant chưa tới 100 mét, có một ngôi mộ của một cậu bé. Bên cạnh ngôi mộ có một tấm biển bằng gỗ, ghi lại một câu chuyện như sau:

Ngày 15 tháng 7 năm 1797, có một cậu bé 5 tuổi bất hạnh bị rơi xuống vách núi và tử vong. Cha mẹ cậu bé vì quá đau thương, tuyệt vọng nên đã xây một ngôi mộ ngay ở cạnh nơi cậu bé đã qua đời.

Sau đó vì tình hình kinh tế gia đình khó khăn, cha cậu bé đã bất đắc dĩ phải chuyển nhượng mảnh đất này, tuy nhiên, bản hợp đồng có kèm theo một yêu cầu đặc biệt cho người chủ mới: hãy vĩnh viễn lưu giữ lại phần đất nơi đặt ngôi mộ của cậu bé.

Người chủ nhân mới đồng ý với điều kiện này và viết nó vào trong điều khoản hợp đồng. 100 năm qua đi, mảnh đất này chuyển đổi bán cho rất nhiều người, nhưng phần mộ của cậu bé vẫn được giữ nguyên ở đó.

Năm 1897, mảnh đất được lựa chọn để đặt làm lăng mộ yên nghỉ của Tổng thống Ulysses S. Grant, nhưng điều khiến nhiều người xúc động hơn nữa là mộ phần của cậu bé vẫn được giữ lại ở đó và trở thành lăng mộ hàng xóm của Tổng thống Grant.

Lại 100 năm nữa qua đi, đến tháng 7 năm 1997, nhân dịp kỷ niệm 100 năm nhân ngày xây dựng lăng mộ của Tổng thống Grant, thị trưởng thành phố New York đã tới đây để tưởng nhớ ông đồng thời cho tu sửa lại phần mộ của cậu bé. Chưa dừng lại ở đó, ông còn đích thân tự tay viết câu chuyện này lên phần mộ của cậu bé để nó có thể lưu truyền lại đời đời cho hậu thế.

Một hợp đồng kéo dài 200 năm đã cho chúng ta thấy một đạo lý làm người rất đơn giản: Khi đã hứa, nhất định phải giữ lời.

————————————————

Câu chuyện về một bà lão

Mùa đông năm 1935 là khoảng thời gian mà nền kinh tế của nước Mỹ tiêu điều nhất. Không khí ảm đạm bao trùm toàn bộ thành phố New York…

Vào một đêm lạnh giá giữa tháng 1/1935, một phiên tòa được tổ chức trong khu phố nghèo nhất New York. Đứng ở vị trí thẩm phán là ngài thị trưởng đáng kính của thành phố, ông Fiorello LaGuardia, và bên dưới bục là một bà lão đã gần 60 tuổi, áo quần cũ rách cùng với dáng vẻ sầu não. Gương mặt tiều tụy của bà hiện lên vẻ xấu hổ, bà đã bị buộc tội vì lỡ ăn cắp một ổ bánh mì.

Fiorello LaGuardia hỏi bà: “Bị cáo, bà bị tố là đã lấy trộm bánh mì, có đúng vậy không?”

Bà lão cúi đầu, ngập ngừng trả lời: “Vâng, thưa quý tòa, thực sự tôi có ăn cắp.”

Thẩm phán lại hỏi: “Động cơ để bà ăn cắp bánh mì là gì, là vì đói quá à?”

“Dạ vâng.” Bà lão ngẩng đầu lên, hai mắt nhìn vào vị quan tòa rồi nói: “Nhưng nếu chỉ vì đói thì tôi đã không làm như vậy, tôi cần bánh mì để nuôi ba đứa cháu đã mất cha mẹ của mình, đã mấy ngày nay chúng chưa được ăn gì. Chúng thực sự rất đói… Tôi không thể đứng nhìn chúng chết đói được…” Nói đến đây bà bật khóc.

Sau khi nghe xong những lời thú tội của bà lão, đám đông trong phòng xử án bắt đầu rì rào bàn luận. Ngài thẩm phán gõ chiếc dùi xuống bàn, nói một cách nghiêm khắc: “Yên lặng, sau đây tòa tuyên án.”

Thẩm phán quay sang bà cụ: “Bị cáo, chúng tôi cần làm việc một cách công bằng, chấp hành theo pháp luật. Bà có hai sự chọn lựa: hoặc là bị phạt 10 USD hoặc là chịu 10 ngày tạm giam. Bà chọn cái nào?

Bà lão với vẻ mặt đầy đau khổ và hối hận: “Thưa ngài thẩm phán, tôi phạm tội, tôi chấp nhận chịu phạt. Nếu tôi có 10 USD thì tôi đã không đi ăn cắp bánh mì. Tôi chấp nhận bị tạm giam 10 ngày, nhưng ba đứa cháu nhỏ kia của tôi thì ai sẽ chăm sóc chúng đây?”

Ngài thị trưởng khẽ mỉm cười. Ông rút trong túi ra 10 đô-la và bỏ vào chiếc mũ nổi tiếng của mình.

Đây là 10 đô-la tiền phạt, bà đã được tự do!” Nói xong, ông hướng cặp mắt về phía những người đang tham dự phiên tòa: “Và bây giờ, xin mỗi người hãy nộp 50 cent tiền phạt, đây là tiền phạt cho sự lạnh lùng của chúng ta, phạt vì chúng ta đã sống ra sao mà để cho một cụ già đáng tuổi cha tuổi mẹ mình phải đi ăn cắp bánh mì để nuôi cháu.”

Tất cả mọi người trong phiên tòa đều kinh ngạc, tròn mắt nhìn thị trưởng LaGuardia. Cả phiên tòa bỗng nhiên yên lặng lạ thường, cảm giác như có một chiếc kim rơi xuống đất cũng có thể được nghe thấy. Một lát sau, tất cả những người tham dự đều lặng lẽ đứng dậy, móc trong túi ra 50 cent và để vào mũ của ngài thị trưởng.

Về lý mà nói, việc một bà cụ già nghèo bị phạt vì tội ăn cắp bánh mì, có liên quan gì tới những người ngoài khác? LaGuardia đã nói rất rõ ràng – là chi phí phải trả cho sự lạnh lùng của chúng ta.

Con người ta không phải là một sinh mệnh cá thể độc lập mà còn có sự tương tác với nhau và phải tự giác tuân theo những quy ước nhất định thì mới có thể sinh sống một cách hài hòa. Người biết trân trọng thỏa thuận đó mới là người cao quý, và người biết trả phụ phí cho sự lạnh nhạt thờ ơ của mình mới là người sáng suốt. Thế nhưng con người trong xã hội hiện nay thật sự quá lạnh lùng tàn nhẫn, và có lẽ đến một lúc nào đó, chúng ta sẽ phải trả giá cho sự tự tư đó của mình…

Kiên Định biên dịch

Người đi trên đống tro tàn

Người đi trên đống tro tàn

(Đọc rồi đọc lại vẫn thấy…buồn muôn thuở!).

HINH 1

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Anh K thương mến,

Những năm trước khi nghe anh nói năm nay anh cũng chưa về VN được, em rất buồn. Hơn 20 năm rồi còn gì. Nhưng năm nay thì em lại nghĩ khác. Anh không về hóa ra lại hay. Hãy để VN biến thành tro bụi trong ký ức. Nhưng anh không về mà cứ muốn em kể chuyện VN cho anh nghe. Em sẽ kể nhưng anh đừng khóc đấy nhé.
Em sẽ bắt đầu từ đâu nhỉ?

À. Huyện lỵ của mình bây giờ được gọi là thị xã. Nếu về anh sẽ không nhận ra đâu là đâu. Ngôi trường bé nhỏ dưới mấy gốc bàng nơi anh và em học lớp vỡ lòng, đã bị đập bỏ để xây một cung thiếu nhi nguy nga. Hai hàng tre bên sông Dinh đã được thay bằng bờ kè bằng đá. Đường sá cũng được mở rộng thay cho những con đường làng nhỏ mà thuở bé anh hay đạp xe chở em về thăm quê nội hay rong chơi đây đó. Xem ra thì đướng sá cầu cống, dinh thự, trường học có khang trang hơn xưa nhưng đó là hàng mã. Tất cả đều chỉ đẹp đẽ trong ngày khánh thành, còn sau đó nó hư hỏng nhanh chóng là điều bình thường ở xứ sở này. Trên những con đường ở đất nước gọi là thanh bình này mỗi năm có hàng chục ngàn người chết vì tai nạn xe cộ. Người chết vì tai nạn giao thông mấy mươi năm nay còn hơn số người chết trong cuộc chiến vừa qua. Không có ở nước nào mà người dân phải tự di chuyển bằng xe gắn máy. Không có ở đâu mà xe gắn máy chạy chung với xe tải, xe khách, xe chở container. Người mình chết nhiều đã đành. Cứ mỗi lần đọc báo có tin một chuyên viên nước ngoài đến VN làm việc bị xe tông chết thì em vừa xấu hổ vừa thương cho họ. Đáng lẽ họ không nên đến đây, một đất nước mà mạng người chỉ là cỏ rác.

Trong thư anh thường nói phong cảnh ở VN là đẹp nhất. Núi đẹp, rừng đẹp, những ngôi nhà nho nhỏ giữa những thửa ruộng xinh tươi.

“Chiều ơi, lúc chiều về là lúc yên vui

Trâu bò về dục mõ xa xôi …ơi chiều” (*)
Anh ơi, làng quê thì vẫn còn màu xanh như cũ nhưng nó không còn là chốn yên lành. Rượu, phim bạo lực, phim sex, thất nghiệp đã làm dậy lên men say cuồng sát và cảnh chém giết nhau anh cũng đã biết rồi trên các báo online. Anh cũng sẽ không còn tìm ra những nàng thôn nữ:

“gánh gánh, gánh, gánh thóc về gánh về gánh về” (*)
Không còn nữa nụ cười e ấp dưới vành nón che nghiêng.
Tìm đâu thấy chiếc áo bà ba quen thuộc của bà, của mẹ.

Hàng Trung Quốc bây giờ vừa rẻ vừa model đã biến cả các phụ nữ nông thôn thành những con rối hồn nhiên háo hức với “quần bò” hở rún, áo hai dây hoặc không có dây nào.
Trước đây người dân được dạy cho biết lao động là vinh quang và mọi người mọi nhà phải tăng gia sản xuất. Lúc đó cây khoai mì đã trở nên một biểu tượng được tôn sùng của đất nước. Nhưng sau đó họ sực tỉnh ra rằng những cây gỗ trăm năm, ngàn năm bạt ngàn trên rừng Trường Sơn mới là triệu triệu dollars. Và thế là một cuộc thảm sát long trời lỡ đất chưa từng có đã biến cho đất nước mình thảm hại như một con đại bàng bị vặt trụi lông.

HINH 2

 

 

 

 

 

 

 

 

Anh sẽ khóc khi nhìn thấy Dalat mất gần hết rừng thông, anh sẽ thất vọng khi Dalat không còn cái lạnh đáng yêu của một châu Âu giữa lòng một đất nước chỉ có hai mùa mưa nắng. Và anh sẽ phì cười khi thấy đã có tiệm bán quạt máy ở Dalat.

Người Việt dẫu sao cũng dễ thích nghi với mọi hoàn cảnh. Em thương nhất, đau lòng nhất khi nhìn vào đôi mắt buồn vời vợi của những người thiểu số khi họ bị bứt khỏi núi rừng.
Núi rừng là quê hương của họ, là ngôi nhà kỳ vỹ của họ. Thật nhẫn tâm khi để chiếm núi rừng, người ta lùa họ ra sống ở những ngôi nhà gạch, mái tôn xây vội. Nhìn họ uể oải nhảy múa, đánh cồng, đánh chiêng phục vụ cho ngành du lịch thấy mà đắng lòng.

Anh đã từng nhìn thấy voi khóc chưa? Mỗi lần nhìn vào mắt của những con voi chở khách du lịch em chắc chắn rằng chúng đang khóc. Những con voi cuối cùng ở buôn Đôn ấy đã lần lượt ngã gục sau một đời nô lệ, xiềng xích, đói khát.
Dalat không còn hoang sơ, bí ẩn, thơ mộng như thuở nào.
Rồi đây cáp treo sẽ đưa người lên Phan Xi Pang, lên Langbian. Những rùa, nhím, trút, chồn hương, nai hoẳng sẽ bị tận diệt cho những cái bao tử phàm phu khốn nạn.

Người ta cũng phát hiện ra rằng ngoài rừng, biển cũng là triệu triệu dollars. Không biết vua Duy Tân có lỗi gì với dân tộc mà sau năm 1975 con đường tuyệt đẹp mang tên ông trải dọc biển Nha Trang đã đổi thành đường Trần Phú. Và cũng từ đó biển Nha Trang dân dần bị biến dạng. Song song với cuộc tàn sát rừng, biển cũng bị xâm lấn nặng nề. Nếu anh về thăm biển Nha Trang anh sẽ thấy biển không còn gây cho anh cảm giác mênh mông, anh sẽ không còn cái thú được thấy mình như “con ốc bơ vơ nằm trên cát” (*). Biển Nha Trang bây giờ bị bao vây bởi một rừng khách sạn khổng lồ ngạo nghễ nhìn ra biển. Nằm dưới chân những gã khổng lồ khách sạn, biển Nha Trang đã biến thành một cái ao làng với rất nhiều bao ny lông nhớt nhát trôi vật vờ. Nha Trang bây giờ không còn thênh thang gió biển, .

Còn đâu nữa:

“Phố chiều bao tà áo trắng,

Lượn quanh hè phố nắng

Những cô nàng xinh đang tròn trăng”

(Hoàng Thi Thơ)

HINH 3

 

 

 

 

 

 

 

 

Nhưng điều đau buồn nhất là một thế hệ con cháu chúng ta đã lớn lên như những con gà công nghiệp trong một chiếc lồng chật chội.
Làm sao trách chúng được khi chúng lớn lên trong một không gian mù mờ về lịch sử..
Chúng được dạy dỗ rằng chúng đang sống rất hạnh phúc trong một đất nước đã được giải phóng và chúng phải biết ơn Bác, biết ơn Đảng.
Mà hạnh phúc thật đấy. Một diễn viên nổi tiếng của Hollywood tổ chức đám cưới chỉ mời không đến vài chục khách trong khi bà Hai bán phở, ông Chín nhân viên thuế vụ, chị Năm y tá làm đám cưới cho con mời bốn, năm trăm khách. Trong đám cưới, thật ngỡ ngàng khi có ông cựu binh sĩ VNCH hào hứng lên sân khấu hát bài “Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng” !!!

Nếu anh về đi thăm bà con, anh sẽ chạnh lòng khi nghe thím Hai khoe con thím đi làm ở Bưu Điện được cử đi học lớp cảm tình đảng. Điều đó có nghĩa nó có hy vọng vào đảng và lên chức. Buổi tối về nhà anh sẽ nghe mấy đứa cháu anh ê a học “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào…”

Không thể trách được. Dù là gà công nghiệp, gà cũng thèm mổ gạo, cũng thèm sống.

HINH 4

 

 

 

 

 

 

 

 

Làm sao trách được người dân Việt khi trong sân bóng đá họ chỉ có một lựa chọn duy nhất là lá cờ đỏ sao vàng để cuồng nhiệt phất lên mừng đội nhà chiến thắng.
Sau năm 1955 chúng ta có một cuốn phim với một tên gọi rất hay “Chúng Tôi Muốn Sống”, Sau 1975 em rất thích phim “Phải Sống” của Trương Nghệ Mưu.
Phải sống thôi..
Người dân quê mình không còn hơi sức đâu mà buồn mà lo lắng, suy nghĩ.

Thời gian để sống dường như càng ngày càng vội vã mà gông cùm thì siết quá chặt.

HINH 5

 

 

 

 

 

 

 

 

Phải chi có anh vào những ngày cuối năm này em sẽ dẫn anh đi thăm một nơi mà em rất thích vì nó yên tỉnh, đẹp và buồn.
Đó là nghĩa trang nơi có mộ ba, má, mộ cậu Sáu, dì Bốn, mộ ông Ba Cà, bà Tám Hương, ông Mười Cảnh… Những người hàng xóm thân thiết của chúng ta đều có mặt ở đây. Đến đây anh sẽ nhớ lại những ngày thơ ấu tươi vui của chúng mình những đứa trẻ nghèo, thiếu thốn nhưng được tự do bay nhảy trong khu rừng nguyên sinh bát ngát tuyệt đẹp của một đất nước tên gọi Việt  Nam .

Em thích nhất là được ngắm nhìn những rặng núi xanh thẳm buồn buồn, được nghe tiếng những hàng cây rủ rỉ trong gió chiều tịch mịch.
“Me có hay chăng con về

Chiều nay thời gian đứng yên để nghe”.
Nói vậy nhưng em vẫn tin rằng anh sẽ về. Anh nhé.

Em gái

Huyền  Chiêu

Nguyễn Thành

Chiều muộn.

From facebook: Hoang Le Thanh
Hoang Le Thanh xin giới thiệu bài viết:

Trái tim, thần chết và sự vô cảm.

@Võ Hồng Ly – 22.02.2017

Chiều muộn.

Tôi tự thưởng cho mình một tiếng đồng hồ trong lúc chờ cuộc họp kế tiếp. Dù thường ngày tôi chỉ uống trà, nhưng có lẽ 1 ly café đen ít đá sẽ là một ý tưởng không tồi để giúp tôi đủ tỉnh táo cho cuộc họp dự kiến sẽ kéo dài ít nhất là trong hai giờ đồng hồ.

Nhâm nhi ly café đắng bên vỉa hè và nhìn dòng người xuôi ngược mỗi người mỗi vẻ luôn là những khỏanh khắc làm cho tôi cảm thấy thú vị. Đôi khi, chỉ cần nhìn đời, nhìn người thôi cũng đủ để tôi có được niềm vui cho riêng mình.

Một giờ đồng hồ ấy đối với tôi thực sự là khỏang thời gian quý giá mà đã lâu lắm rồi tôi mới có được chỉ để ngồi chiêm nghiệm và nghĩ về dòng đời, về nhân tình thế thái.

Đó là một khoảng lặng thực sự là cần thiết để tôi nhìn lại mình trong những ngày vừa qua. Đi nhanh và đi quá sức mình chưa bao giờ là điều tôi mong muốn. Tôi biết những điểm mạnh mình cần phát huy, tôi biết những điểm yếu mình cần phải khắc phục và học hỏi. Tôi biết càng gần đến đích thì những cung đường cuối cùng lại càng trở nên thách thức hơn và cam go hơn như một sự cố ý để thử thách những con người can trường nhất.

Chính những lúc tưởng chừng như đơn độc nhất, yếu đuối nhất và muốn quỵ ngã nhất ấy, yêu thương lại tìm về và đưa bàn tay cho tôi nắm lấy, dù vẫn chỉ là vô hình, nhưng cảm giác nhận được vẫn luôn thật trọn vẹn, như một làn gió mát trong lành đánh thức tâm trí và ve vuốt bước chân độc hành.

Tôi hiểu rằng vì tôi đã luôn gieo hạt yêu thương trên con đường tôi đi nên khi cần yêu thương lại trở về bên tôi nguyên vẹn và đủ đầy. Tôi còn cần gì hơn thế nữa !

Được sống, được cống hiến và được theo đuổi đúng lý tưởng của mình chẳng phải đã là một hạnh phúc rồi sao ? Vì không có gì hòan hảo nên những cái còn lại chỉ cần khéo kê cho bằng và cho êm là được đúng không ?

Giành giật sinh mạng trẻ thơ trước nanh vuốt thần chết.

22h30 phút tôi có mặt tại một bệnh viện trong khu trung tâm để thăm mấy em bệnh nhi như đã hứa. Khoa cấp cứu của bệnh viện thì luôn sáng đèn và chẳng bao giờ có khái niệm ngày hay đêm bởi sự di chuyển gấp gáp của đội ngũ nhân viên bệnh viện, bởi tiếng kêu gào hoảng lọan của người thân bên cạnh những cơ thể nhỏ bé đang nằm thoi thóp im lìm. Những cánh tay nhỏ xíu xiu mà đã phải chịu sự chằng chịt của dây dợ, ống ven, bên cạnh những bình ô xy và máy trợ thở đang tích cực họat động.

Một cánh cửa mở tung thô bạo đã kéo bật luôn cái dây điện của máy trợ thở đang được cắm trong một ổ điện sau cánh cửa ! Người mẹ đã ngủ gục mệt mỏi bên dưới gầm giường của con mình.

Không ai để ý đến những gì vừa diễn ra. Đầu em bé bắt đầu giật giật. Tôi hoảng hốt thật sự ! Một mặt tôi la hét gọi bác sỹ và y tá, một mặt tôi tìm cách leo lên cắm lại cái dây của máy trợ thở ở trên cao.

Người đàn ông vừa mở cửa thô bạo đó nhìn tôi gườm gườm nhưng cũng không chịu rời giường của người nhà anh ta, mà ra giúp đỡ. Người mẹ đã bị tiếng hét của tôi đánh thức và nhảy chồm vào ôm con gào khóc.

Nhiều người đang chăm người nhà tại đó cũng chỉ đến để chỉ trỏ và bình luận vài câu vô thưởng vô phạt nhưng chẳng ai có ý định giúp đỡ chúng tôi thật sự cả.

Tôi nói để tôi chạy đi tìm bác sỹ nhưng người mẹ đã ra dấu cho tôi ngồi bên con chị. Một cách dứt khóat và tỉnh táo, chị đứng lên và bước ngay về phòng của nhân viên trực ca. Bóng chị hút nhanh nhưng tôi chỉ kịp thấy chị vừa đi vừa rút một cái phong bì và nhét vội vài tờ tiền vào trong.

Nhân viên y tế đã có mặt ngay sau đó, và hô hào người nhà bệnh nhân đang nằm ngủ la liệt dưới gầm giường và nằm đầy trên lối đi hành lang vào khu cấp cứu đứng dậy để họ có lối di chuyển cái cáng cứu thương … Ơn trời, em bé đã bình yên sau gần ba tiếng hồi sức tích cực và thổi bong bóng !

2h00 sáng, lại lầm lũi độc hành quay về nhà ! Nhớ lại những gì đã diễn ra trong một buổi tối ngắn ngủi, nhớ về khỏang lặng hiếm hoi của cuối buổi chiều, tôi hiểu rằng mình cần phải bước tiếp. Đất nước này còn quá nhiều việc phải làm và những gì đã thấy chỉ là mặt nổi nhỏ bé của tảng băng trôi.

Vâng, đó là tảng băng của tình con người khi đứng trước sự đau khổ đến hỏang lọan của người khác, dù chứng kiến ranh giới nhỏ nhoi giữa sự sống và cái chết cũng không khiến họ mảy may xúc động.

Tôi bỗng nhiên thấy mình hạnh phúc và may mắn hơn những con người đáng thương kia bởi ít nhất tôi vẫn còn một trái tim biết xúc động và biết đau đớn trước nỗi đau của người khác.

Tăng tay ga để tận hưởng không khí mát trong lành đến kỳ lạ của đêm Sài Gòn mà hiếm khi tôi có cơ hội có được, tôi thấy lòng mình thanh thản đến lạ thường. Có lẽ vì khi ta gieo mầm thiện, nó sẽ nở hoa, kết trái vào lúc nào đó trong cuộc đời để ta lại tiếp tục đem yêu thương mà chia sẻ với người khác chăng ?

Nếu đó là số mệnh, thì tôi xin tự nguyện làm kẻ gieo mầm và hy vọng những hạt mầm tình yêu ấy có thể lan tỏa và sẽ đủ để trăm hoa lại đua nở trên quê hương yêu dấu của chúng ta, thêm một lần nữa !

@Võ Hồng Ly

No automatic alt text available.

Giàu.

Giàu.

Một người đàn ông tên Bubba, sống ở Texas đang  cần vay một khoản tiền nên đã đến một Ngân hàng ở New-York. Ông nói với nhân viên Ngân hàng là mình sẽ đến Paris trong vòng 2 tuần lễ để dự hội thảo nên cần vay số tiền là $5,000.00. Nhân viên NH cho biết, Bubba cần có tài sản thế chấp để được vay. Vì vậy Bubba đã giao chiếc chìa khóa xe Ferrari còn khá mới cho Ngân hàng.
Sau khi kiểm tra xe, NH đã đồng ý giữ chiếc xe nầy, như vật thế chấp và tính lãi suất cho khoản vay của Bubba.

Sự việc nầy khiến cho nhân viên NH cảm thấy khôi hài, vì chiếc xe của người đàn ông nầy trị giá đến $250,000.00. Và ông ta đã dùng một chiếc xe siêu đắt như vậy để chỉ vay có …$5,000.00.

Hai tuần sau người đàn ông trở lạ, trả $5,000.00 với lãi suất $23.07. Nhân viên NH đã nói : “Thưa ông, chúng tôi rất vui được làm việc với ông, nhưng chúng tôi có chút thắc mắc. Khi ông rời đi, chúng tôi đã tìm hiểu về ông, và được biết ông là một Tỷ phú, một nhà đầu tư trong lãnh vực bất động sản. Chúng tôi thắc mắc là tại sao ông chỉ vay 5 ngàn và cầm thế một chiết xe rất đáng giá ?

Người đàn ông tên Bubba mỉm cười, và đưa ra câu hỏi thật bất ngờ :”Xin ông vui lòng chỉ cho tôi, tôi có thể đậu xe bất cứ nơi nào trong TP New-York nầy trong hai tuần, mà chỉ trả có $23.07 ở một nơi giữ xe thật an toàn và kín đáo như NH quý ông không ?”

Bài học được rút ra : Người giàu có luôn có những ý tưởng đi trước thời đại. Họ biết cách để tiết kiệm tiền bạc một cách tối đa. Đôi khi cuộc sống như những trò chơi cờ và phải biết những sáng kiến cho những bước tiếp theo.

Đừng hỏi vì sao họ giàu ?

Anh chi Thu & Mai Goi

Tử Tế, Lương Thiện và Tình Người !!

Tử Tế, Lương Thiện và Tình Người !!

Đẹp như đóa Hoa Hồng của họ !

hoa-hong-1
(Ảnh: Internet)

Trong cuộc sống, mỗi người đều có những lúc bị vấp ngã, và khi gặp phải khó khăn, chúng ta đều khao khát kì tích sẽ xuất hiện. Nếu có thể thì liệu bạn có đồng ý làm người tạo nên ky tích đó hay không?

Vào đầu thế kỷ 20, một gia đình người Nhật di cư đến San Francisco (Hoa Kỳ) và làm nghề trồng hoa hồng ở đó.

Hàng xóm của họ đến từ Scotland cũng trồng và bán hoa hồng, cả hai gia đình đều thành công dựa vào sự lao động cần cù và uy tín, hoa hồng của họ rất được yêu thích ở San Francisco.
HOA HONG 2
(Ảnh minh họa/Internet)

Tất nhiên họ luôn là đối thủ cạnh tranh về kinh doanh. Và vào ngày 7/12/1941, nổ ra sự kiện Trân Châu Cảng, cuộc tập kích bất ngờ của Nhật Bản nhằm vào căn cứ hải quân của Hoa Kỳ đã bị trừng phạt mạnh mẽ.

Khi đó, đa số thành viên trong gia đình người Nhật này đã là người Mỹ rồi, nhưng cha của họ vẫn giữ quốc tịch Nhật; trong tình hình hỗn loạn này, cả gia đình họ bị bắt giữ.

Trước khi đi, gia đình người Nhật nói với nhà hàng xóm người Scotland rằng: “Các bạn có thể chăm sóc vườn hoa của chúng tôi được không?”. Những người hàng xóm đã đồng ý, nhưng gia đình Nhật này hoàn toàn không có hy vọng vào tương lai được nhìn lại vườn hoa hồng của nhà mình.

Họ bị lưu đày đến Colorado, xung quanh đầy dây kẽm gai và binh lính vũ trang.

Một năm trôi qua, không hề có bất cứ sự thay đổi nào. Năm thứ hai, thứ ba rồi thứ tư, đến khi chiến tranh kết thúc, gia đình người Nhật này mới được thả ra, họ đi xe lửa quay về San Francisco.

Điều khiến người ta cảm thấy rất ngạc nhiên đó là gia đình đình người Nhật này đã gặp nhà hàng xóm người Scotland của họ ở nhà ga xe lửa. Thì ra là gia đình hàng xóm cố ý đến để đón họ.

Khi họ quay về căn nhà xa cách đã lâu, họ thật sự không tin vào quang cảnh trước mắt mình. Vườn hoa hồng của họ vẫn gọn gàng, tươi tốt như xưa, sinh sôi nảy nở dưới ánh nắng mặt trời, nhà của họ cũng được quét dọn sạch sẽ, ngăn nắp như thể họ chưa từng rời khỏi.

Trên chiếc bàn trong phòng khách có đặt một quyển sổ tiết kiệm ngân hàng, trong đó ghi rõ số tiền của mỗi hợp đồng bán hoa hồng mấy năm qua.

Trên bàn còn có một cành chồi hồng đỏ tươi đang hé nụ, đây là món quà gặp mặt mà những người hàng xóm tặng cho họ…

***

“Tặng gai cho người, chính tay ta sẽ bị chảy máu – Tặng hoa hồng cho người, tay ta sẽ lưu lại dư hương. Người trong lòng có một đóa hoa hồng, cuộc đời người đó sẽ là một biển hoa”.