BÁN LƯỢC CHO SƯ!

 BÁN LƯỢC CHO SƯ!

Ở một công ty nọ, để thử việc nhân viên, họ đưa ra tiêu chí: mỗi nhân viên thử việc đều phải bán được 1000 chiếc lược cho một nhóm khách hàng được chỉ định – là các nhà sư – trong vòng một tuần.

Thử thách kỳ quái này khiến cho hầu hết người xin việc đều nghi ngờ: Bán lược cho nhà sư ư? Sao có thể làm được?

Đa số đều từ bỏ, chỉ có ba người dám chấp nhận thử thách. Một tuần thử thách kết thúc, người thứ nhất bán được một chiếc, người thứ hai bán được 10 chiếc còn người thứ ba đã bán hết sạch.

1000 chiếc, cùng một hoàn cảnh, song kết quả lại khác xa, công ty bèn mời ba người thuật lại quá trình bán hàng của mình.

Người thứ nhất kể, anh ta đến một ngôi chùa, phải chịu các nhà sư mắng mỏ mà vẫn nhẫn nại, cuối cùng, một hoà thượng động lòng, mua cho anh ta một chiếc lược.

Người thứ hai kể, anh ta lên một ngôi chùa trên núi, do gió núi mạnh, khiến cho tóc của thiện nam, tín nữ lên chùa rối tung hết cả. Anh ta liền tìm đến sư trụ trì chùa và nói “Người dâng hương tóc tai bù xù, trông không được thành kính với Đức Phật lắm, Trước mỗi toà hương, nhà chùa nên đặt một chiếc lược cho thiện nam tín nữ chải tóc”. Thấy có lý, sư trụ trì liền mua lược giúp anh ta, vì chùa có 10 toà hương nên anh ta đã bán được 10 chiếc lược.

Còn người thứ ba tìm đến một ngôi chùa có tiếng, hương khói quanh năm không dứt. Anh ta nói với phương trượng: “Phàm những người dâng hương ai cũng có lòng thành, chùa ta nên có vật phẩm tặng lại để khuyến khích người đời làm việc thiện. Tôi có một số lược, ngài có thể dùng thư pháp hơn đời của mình, khắc lên đó ba chữ “Lược Tích Thiện” làm tặng phẩm”. Phương trượng nghe có lý liền mua cho anh ta 1000 chiếc.

Công ty nọ đánh giá ba người đến thử việc tiêu biểu cho ba mẫu người điển hình:

* Người thứ nhất thuộc mẫu bán hàng cổ điển, có ưu điểm chân thành, nhẫn nại.

* Người thứ hai có năng lực quan sát, suy đoán sự vật, dám nghĩ, dám làm.

* Còn người thứ ba, anh ta nghiên cứu, phân tích nhu cầu của đám đông, có ý tưởng táo bạo, có kế hoạch khả thi nên đã mở ra một nhu cầu mới của thị trường. Điều kỳ diệu là sau khi “Lược Tích Thiện” của anh ta ra đời, một đồn mười, mười đồn trăm, người đến chùa dâng hương ngày càng nhiều, hương khói trong chùa ngày càng thịnh. Phương trượng bèn ký hợp đồng dài hạn với anh ta. Về phía công ty, thu hoạch lớn nhất không phải là có được hợp đồng lớn mà có được người tài năng. Nhờ có trí tuệ hơn người đó mà anh ta đã được công ty quyết định tuyển dụng và quyết định bổ nhiệm làm giám đốc marketing.

Như vậy, hiểu được nhu cầu của khách hàng, phân tích tính quy luật của sự hình thành và tác động chuyển hoá nhu cầu tiềm tàng thành sức mua chính là chìa khoá để mang lại thành công.

 TU-PHUNG gởi

Thời thơ ấu (phần 2)

Thời thơ ấu (phần 2)

Tác giả: Phùng Văn  Phụng

Hiệp định Geneve ấn định ngày đình chiến là ngày 20 tháng 07 năm 1954. Tất cả học sinh đều nghỉ học. Không có ai đi lại vì sợ lộn xộn. Riêng tôi và em chú bác là Phùng V. Th. vì còn nhỏ chưa hiểu cũng như chưa đoán được cái gì sẽ xảy ra. Vì chưa hiểu biết nhiều, nên trong ngày đó cùng nhau lấy hai chiếc xe đạp, đi qua Long Phụng, qua đò Thủ bộ, đến trường tư thục Tấn Thành ở Chợ Trạm.

            Đêm hôm trước ngày đình chiến, Việt Minh (Cộng sản) đã tổ chức các nhà có cảm tình với Việt Minh đánh thùng thiếc để uy hiếp tinh thần của những người quốc gia. Do đó sáng hôm sau là ngày 20 tháng 7, các trường học đều tự động đóng cửa, dân chúng cũng ít đi ra đường vì sợ rủi ro.           

Hôm đó tôi và em chú bác Phùng V. Th. đến trường Tấn Thành thì trường đóng cửa, thay vì đi về nhà bằng ngả chợ Trạm, tôi lại đi lên Quận Cần Giuộc, rồi mới đi qua ngả Tân Thanh mà về nhà. Trên đường đi từ Chợ Trạm lên quận lỵ Cần Giuộc, tôi không thấy có xe cộ nào đi qua. Đi được giữa đường, tôi thấy cờ đỏ sao vàng ở dưới ruộng hoặc cạnh đường đi, tôi đã lấy cờ đỏ sao vàng bỏ vào cặp của mình. Tôi chưa biết gì về lá cờ này. Nhưng khi đi về tới gần quận lỵ Cần Giuộc, Thành, con chú Út bảo tôi bỏ hết mấy lá cờ đó ra ngoài cặp đi. Tôi không dám giữ nữa và quăng xuống ruộng.           

Quả nhiên khi vô quận lỵ, đi qua hàng rào kẻm gai mà chánh phủ quốc gia đã kéo ngang đường, chỉ chừa một khoảng nhỏ đủ cho một người đi qua, tôi bị chặn lại và bị xét cặp học sinh của tôi. Nếu không vất lá cờ đó đi, mà mang vào quận lỵ Cần Giuộc, tôi cũng không biết cái gì đã xảy ra cho tôi? Tôi sẽ bị tra hỏi có phải là người của Việt Minh không? Tại sao tôi có cờ Việt Minh trong cặp? Tôi sẽ bị bắt để điều tra?

                                                                       &   &    &

            Tôi đi học từ Chợ Núi lên Cần Giuộc bằng xe Lam ba bánh. Cho đến năm 1954, muốn đi từ Chợ Núi lên Cần Giuộc phải đi bằng xe ngựa. Nhưng từ năm 1955, xe Lam bắt đầu nhập vào nước ta, một vài người bắt đầu mua xe Lam để đưa hành khách thay thế xe ngựa. Xe ngựa có bánh bằng sắt nên dễ làm cho đường lộ đá đỏ bị hư, dễ tạo thành các vũng nước, vũng sình lún đường. Xe lam chạy bằng bánh cao su nên đường ít bị hư hơn. Từ khi đậu vào lớp đệ thất (lớp sáu), trường Trung Học Cần Giuộc, mỗi ngày tôi đều thức sớm ăn cơm với đậu phọng rang rồi đón xe đi lên quận lỵ Cần giuộc học. Tôi phải qua đò Tân Thanh. Nhiều khi qua đò quá đông chen lấn nhau, chủ đò muốn chở nhiều để có lợi hơn, nên hành khách thường chen lấn nhau để qua đò, có lần tôi bị lấn, rớt xuống song, áo quần sách vở bị ướt hết.

            Khoảng năm 1959 buổi sáng sớm, trời còn tối, tôi đón xe lam lên Cần Giuộc để đi học, tôi ngồi ở phía trước của xe lam. Khi xe chạy đến “Rạch đập”, tài xế vừa pha đèn để thấy đường mà chạy xe, tôi thấy một cái đầu của một người để trên cái trụ bằng xi măng của đập. Tôi hết sức sợ. Không biết ai đã giết người này, sao lại để trên trụ cột như thế. Mọi người đều rất sợ. Bắt đầu có khủng bố ở nông thôn. Sau này tôi được biết người bị giết chỉ là trưởng ấp. Mặt Trận Giải phóng Miền Nam (Cộng sản), đã ám sát, khủng bố, giết chóc các viên chức xã ấp để gây hoang mang, gây nỗi sợ hãi trong dân chúng.

                  Về quê, làng Tân Tập ăn giỗ, tôi nhớ bà con dùng lưới để bắt cá đối. Giăng tấm lưới, hai người cầm hai đầu, kéo lưới căng ra giữa ruộng. Phía bên kia ruộng một người cầm cái chổi hay cành cây đập xuống nước từ từ đuổi cá đến cái lưới, vậy mà cá đối dính vào lưới khá nhiều. Bắt còng cũng là cái thú. Khi xuống ruộng, mang theo bên mình một cái giỏ bằng tre, phía trên miệng nhỏ hơn, rộng chừng nắm tay, có nắp đậy để khi bỏ còng vào, con còng không thể nào bò ngược lên được. Khi đi bắt còng, chân thụt (đạp) xuống đất, trước các lỗ nhỏ bằng đầu đủa ăn cơm, nếu có còng, nó sẽ chạy lên, dùng tay khéo léo cầm ngang hông nó rồi bắt bỏ vào giỏ.

            Khi tôi lên lớp đệ lục, đệ ngủ, tôi học Pháp văn, Việt văn với thầy Trần Văn Quới còn gọi là ông Đốc Quới. Thầy Trần Văn Quới cũng là Hiệu Trưởng đầu tiên của trường Trung học Cần Giuộc.Trường thành lập năm 1955. Tôi thi đậu tiểu học năm 1954 vì chưa có trường Trung học công lập, nên phải qua Chợ Trạm học trường tư thục Tấn Thành do ông Nguyễn Tấn Thành sáng lập và cũng là Hiệu Trưởng. Sau này ông Nguyễn Tấn Thành là Dân biểu Đệ Nhất Cộng Hoà, thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm.Trong thời gian học ở trường Tấn Thành tôi đi học chung với Phùng V. Th.  ở nhà gọi là hai Hưởng.Trước khi về hưu, hai Hưởng là Giám đốc nhà máy bao bì ở Hà Tiên.

            Khi hai Hưởng đậu bằng tiểu học, Chú Út tôi không có tiền để cho đi học tiếp lên trung học. Chú Út tôi dự định cho hai Hưởng về Tân Tập làm ruộng. Ba tôi thấy thế mới gọi hai Hưởng ra Chợ Núi, ở nhà ba má tôi để tiếp tục đi học. Hai Hưởng cùng với tôi đi học ở trường Tấn Thành bằng xe đạp. Sau một năm học ở trường Tấn Thành, tôi thi đậu vô trường trung học Cần Giuộc năm 1955. Hai Hưởng thi vào trường Cao Thắng, dạy nghề ở Sài gòn. Hai Hưởng đang học lớp 11 tại trường này, nhà nước cần học sinh đi du học ở Pháp về ngành xi măng để lập nhà máy xi măng ở Hà Tiên và Thủ Đức.Tìm người có Tú Tài hai, biết về máy móc không có, nên đành phải lấy trình độ lớp 11. Sau khi đi tu nghiệp gần hai năm hai Hưởng về làm ở nhà máy xi măng ở Thủ Đức hoặc nhà máy xi măng ở Hà Tiên tùy nhu cầu.

            Xin nói qua về địa danh chùa Linh Sơn, bài viết của ThầyTrần Văn Trí năm 1974.

            Sơ lược tiểu sử chùa “Linh sơn”

            Tục truyền gò núi đất trước kia do người Miên cư trú, họ vốn là một dân tộc sùng tín đạo Phật nên chỗ nào cũng có chùa và thường cất trên những chỗ đất cao. Do đó họ phải tạo nên một hòn núi nhỏ để cất chùa. Phong cảnh chùa rất nên thơ xinh đẹp với những cây cổ thụ hàng trăm năm, những góc me trái sai quằn nhánh, lá xanh tươi mát rười rượi. Dưới chân núi có con rạch chạy bao quanh như con rồng ôm theo vòng núi đất. Chân núi cây cối sầm uất, vườn tược sum xuê, thật là sơn thủy hữu tình. Đó là thắng cảnh và địa danh của quận Cần Giuộc.

            Nguyên khởi của ngôi chùa.

            Trước năm 1867 vùng đất này của người Miên thuộc Thủy Chơn Lạp, xưa kia ông bà chúng ta lấn và chiếm đất họ. Họ bèn bỏ chạy và ngôi chùa của họ cũng hư hại luôn.

            Đến năm 1867 (Đinh Mão) có Thầy Nguyên Quới tự lập am, cất một cái chùa sơ sài bằng cây vách lá để tu luyện. Thầy không ăn cơm mà chỉ ăn rau hoặc đậu nên gọi là Thầy rau.

            Nhị tổ kế truyền: Khi Thầy Quới viên tịch, ông sư Hiền về kế tiếp giữ chùa lo việc hương khói. Vì dân cư còn hiếm hoi, chùa chưa được mở mang gì nhiều.

             Tam tổ kế vị: (1870) Ông sư Hiền viên tịch, Tổ Minh nghĩa kế tự bắt đầu có phát triển hành dạo, chùa có người lui tới, làng xã đến chiêm bái và cúng dường chút ít. Tổ Minh Nghĩa hành trì ít lâu rồi thị tịch.

            Tứ tổ kế vị:(1873) Đến Tổ Như Đức (người Bình Định) thay Tổ Minh Nghĩa trụ trì công việc hoằng dương Phật sự lúc bấy giờ còn quá khiếm khuyết. Dân chúng mãi lo khẩn hoang, đạo pháp chưa có cơ duyên phát triển. Hành đạo một thời gian thì Tổ Như Đức tịch.

            Ngủ Tổ kế vị: (1876) Khi Tổ Như Đức viên tịch rồi thì chùa không ai coi, chỉ còn lại một đạo đồng sáu tuổi tên là Lê văn Đuổi, gọi là Trùng Huệ, Pháp Hiệu Quảng Trí giữ chùa. Đạo đồng Quảng Trí có lẽ có cơ duyên với đạo pháp nên ban ngày giữ chùa và vào xóm xin ăn, ban đêm không dám ngủ tại chùa phải tìm nhà đồng bào xin ngủ trọ. Khi được 8 tuổi, bổn đạo mới đem gởi đi học đạo tại chùa Như Đức (trước gọi là Trúc Lâm) nay thuộc quận Tân Bình, tỉnh Gia Định. Đến năm 18 tuổi, Quảng Trí được hương chức và bổn đạo thỉnh về trụ trì. Ông mở mang đạo mạch?, làm ruộng, lập vườn, nuôi tăng chúng. Chùa bắt đầu phát triển đạo pháp, bổn đạo lui tới chùa rất đông và phát triển đến nay. 

            Lục Tổ kế vị: Sư Trùng Huệ trụ trì đến năm 1942 thì viên tịch nhập cõi niết bàn, chùa được giao cho đệ tử là Thích Trùng Lễ. Thích Trùng Lễ tục danh là Lê văn Thượng từ năm 1942 đến năm 1944 thì viên tịch.

            Thất tổ kế vị: Hoà Thượng Thích Thiện Lợi, tục danh Lê văn Giáp tiếp tục lo việc Phật sự từ năm 1944 đến nay.

            Lãnh trách nhiệm từ 30 tuổi vào thời kỳ khói lửa đao binh bùng cháy trên mảnh đất quê hương, Hoà Thượng chịu đựng nhiều gian khổ cho chùa. Ba mươi năm trụ trì là ba mươi năm chiến tranh bom dạn cày nát quê hương, làng mạc, nhân dân điêu đứng tản cư chạy giặc, luôn luôn sống trong hồi hộp lo âu. Tuy nhiên Hòa Thượng vẫn kiên gan ở lại giữ ngôi chùa. Thôn xóm quanh chùa đã bị đỗ nát vì bom đạn rơi rớt, thế nhưng nhờ oai linh chư Thiên, Phật Tổ chùa vẫn còn toàn vẹn không bị ảnh hưởng chi hết.

            Kết luận: Nói chung ngôi chùa còn đến hôm nay là nhờ hồn thiêng đất nước, nhờ oai linh của địa phương thành hoàng bổn cảnh phò trì bá tánh nhân dân xã đóng góp giữ gìn mới được viên thành như ngày hôm nay.                                                                   

                                                         Soạn năm 1974 

    Ông Trần văn Trí, Hiệu Trưởng THCĐ Rạch Núi kiêm UVVHGDTN xã Đông Thạnh.

     (bài này trích từ Bản tin đồng hương Cần Giuộc,   Xuân Bính Tý 1996).

&  &  &

            Tôi còn nhớ học thầy Nguyễn Tuấn Kiệt, Hiệu trưởng kiêm dạy lớp nhất trường tiểu học Rạch Núi. Thầy Kiệt thay thế ông Hiệu Trưởng Nguyễn Văn Chắc. Trong thời gian thầy Kiệt làm Hiệu Trưởng là năm tôì thi đậu bằng tiểu học 1954, hiệp định Genève ra đời, chia đôi đất nước Việt Nam. Tôi lúc đó còn quá nhỏ để hiểu biết về chính trị, nhưng tin tức dồn dập về đình chiến giữa Pháp và Việt Minh cũng ảnh hưởng phần nào đến tâm hồn còn non nớt của tôi. Tin tức đó cũng làm cho tôi quan tâm một chút về tình hình chính trị, về tình hình đất nước Việt Nam. Năm đó tôi thi vào trường Petrus Trương Vĩnh Ký bài luận văn nói về sự đoàn kết. Tựa đề bài thi “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” hay “Đoàn kết thì sống chia rẻ thì chết”. Tôi không hiểu sao lúc đó tôi có cảm tình với kháng chiến cho nên không thích ông Ngô Đình Diệm. Ông Ngô Đình Diệm vừa về nước chấp chính làm Thủ Tướng. Tôi làm bài luận văn viết nếu Hòa Hảo, Bình Xuyên, Cao Đài hợp lại đoàn kết thực sự đánh lại ông Diệm thì ông Diệm không thể nào chống đỡ nổi. Dĩ nhiên kỳ thi này tôi đã không đậu vào trường Trương Vĩnh Ký. Không biết có phải do bài làm này hay không?

            Năm 1955 là năm đầu tiên khai giảng lớp đệ thất, của trường Trung học Cần Giuộc. Năm 1955 cũng là năm tôi thi đậu vào trường này. Tôi học trường này từ năm 1955 đến năm 1959. Sau khi đậu trung học Đệ nhất cấp, tôi tiếp tục lên lớp đệ tam (lớp 10), chuyển lên Sài Gòn học ở trường Chu văn An nằm phía sau trường Trương Vĩnh Ký.

            Trong thời gian tôi học tại trường Trung Học Cần giuộc, giờ Việt văn của Thầy Trần văn Quới luôn luôn nói đến lòng yêu nước như khi dạy về Nguyễn Đình Chiểu thì Thầy nhắc đến “chùa ông Ngộ” và “Trận giặc mù u”.

            Theo lời của Thầy Trần văn Qưới kể lại “Trận giặc mù u” như sau:

            Nghĩa quân kháng Pháp thời đó dưới quyền chỉ huy của Ông Trương Công Định, đâu có súng ống, chỉ dùng dao mác mà thôi?  Từ quận lỵ Cần Giuộc lính Pháp đi tuần vào xã Mỹ Lộc. Nghĩa quân phục kích lính Pháp tại chùa ông Ngộ. Chùa này ở vị thế cao hơn đất bằng cho nên nghĩa quân dùng trái mù u là loại trái hình tròn như trái banh boong nhỏ, rải lên trên triền dốc. Nghĩa quân đi chân không. Trong khi lính Pháp đi giày. Nghĩa quân đứng trên cao. Quân Pháp phải trèo lên để đánh nghĩa quân, nhưng vì đi giày nên đạp trái mù u mà té, không chạy lên cao được. Nghĩa quân đi chân đất chạy xuống giết nhiều lính Pháp. Trong trận đánh này, nghĩa quân Việt Nam lần đầu tiên đã thắng Pháp. Sau năm 1862, khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng Pháp, ký hoà ước với Pháp, cắt ba tỉnh miền Đông Nam phần cho Pháp, (nghĩa quân đã tự động nổi lên chống Pháp).

&   &   &                  

            Sau khi tôi thi đậu Trung Học Đệ nhất cấp, vì ở quận Cần Giuộc không có lớp đệ tam (lớp 10), nên Thầy Đinh văn Lô liên lạc với trường Chu văn An là trường của người Bắc từ Hà nội di cư vào Nam. Chúng tôi là dân Nam kỳ mà lại vào học trường Chu Văn An. Thầy Đinh văn Lô là người miền Bắc, xin các nơi khác không được vì không có chỗ, chỉ còn có trường Chu văn An nhận mà thôi. Không biết có phải nhờ thầy Đinh Văn Lô quen biết Hiệu Trưởng trường này không? nhờ đó chúng tôi được nhận. Hiệu Trưởng trường Chu văn An lúc bấy giờ là thầy Trần Văn Việt.Tổng Giám Thị là Nguyễn Hữu Lãng chúng tôi thường gọi là Tổng Lãng. Giám Học là Nguyễn Văn Kỹ Cương.

            Nhờ học được trường nổi tiếng này nên đa số chúng tôi đi thi Tú Tài hai đều đậu gần hết. Chỉ có một số ít học sinh thi rớt Tú Tài hai mà thôi. Lớp Đệ Tam và Đệ Nhị học ở phía sau trường Trương Vĩnh Ký. Lớp Đệ Nhứt chúng tôi học ở khu trường mới gần nhà thờ ngả sáu. Những giáo sư chúng tôi học đều dạy giỏi, rất nổi tiếng thời bấy giờ như Toán là Giáo sư Đào Văn Dương, Nguyễn Văn Kỹ Cương, Lý Hóa Trương Đình Ngữ, Lê Văn Lâm, Triết Nguyên Sa Trần Bích Lan, Trần Văn Hiến Minh, Sử Vũ Khắc Khoan….

            Giáo sư Trương Đình Ngữ đi dạy học bằng xe hơi có tài xế đội kết trắng lái. Khi tới trường, tài xế bước ra phía sau, mở cửa xe cho Thầy xuống. Hồi đó rất ít người có xe hơi. Đa số giáo sư đi xe gắn máy hay đi xe đạp. Giáo sư Vũ Khắc Khoan đi dạy bằng xe taxi.

            Tôi thuộc loại giỏi của trường Trung học Cần Giuộc vậy mà khi chuyển trường, vào học tại trường Chu Văn An không còn đứng nhất nhì của lớp học được nữa.  

            Tôi thi vào trường Đại học sư phạm ban Lý Hoá không đậu nổi. Thi vào Kỹ sư Phú Thọ, Quốc Gia Hành Chánh cũng không đậu. Muốn học Y khoa, ba tôi nói không đủ khả năng nuôi tôi học thêm nữa vì tôi có nhiều em (4 đứa) và còn các con dì sáu, bà vợ sau của ba tôi nữa, cũng bốn đứa em còn nhỏ.  Ba tôi bảo tôi nộp đơn vào học Cán sự y tế không phải thi vì có Tú Tài hai. Tôi có đến bịnh viện Chợ Rẩy lấy đơn vì trường Cán Sự Y Tế ở trong khuôn viên bịnh viện này. Nhưng tôi không có nộp vì tôi không thích ngành này hơn nữa nó chỉ là ngành trung cấp mà thôi. Túng quá, cần đi làm có tiền, tôi đã nộp đơn thi vào trường Sư Phạm hai năm. Thi vào trường Sư Phạm hai năm chỉ cần Tú Tài một. Tôi đã có Tú Tài hai rồi nhưng vẫn thi vì tôi cần đi làm để ba tôi không phải tốn tiền lo lắng cho tôi nữa. Tôi thi đậu vào trường Sư Phạm vào năm 1963. Năm 1965 tôi ra trường Sư Phạm đổi về dạy tại trường tiểu học Phước Hòa Long, quận Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa. Trường này do Ngô Văn Lương đang làm Hiệu Trưởng có 5 lớp nhưng học sinh rất thưa thớt, một lớp chừng mười mấy đứa học trò mà thôi.

               Chiến tranh đang lan rộng khắp nơi trong quận. Ban đêm tôi ngủ ở các phòng kế bên rạp hát Quốc Thống. Lính thường đến gác trên sân thượng của lầu này. Tối Cộng Sản về, ở dưới đất bắn lên. Nghĩa quân ở trên nóc lầu Quốc Thống bắn xuống. Chúng tôi ở giữa chịu trận. Trong xã Phước Hòa Long, lính quốc gia và cộng sản lúc nào cũng có thể đánh nhau, đụng độ với nhau. Họ đánh nhau bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu. Từ đường cái đi vô trường, tôi phải qua đồn nghĩa quân.

                 Một hôm buổi sáng sớm, tôi đi vào trường. Khi gần đến trường, trên đường đi, tôi nhìn thấy một sợi dây giăng ngang, hai đầu sợi dây cấm hai cây tre nhỏ có treo hai quả lựu đạn. Lỡ đi tới tôi phải nhấc xe đạp lên bước nhẹ nhàng, chậm rãi qua sợi dây đó mà đi vào trường. Hôm sau, tôi không dám đi con đường này nữa, tôi phải đi vòng qua xóm để vào trường.

NGƯỜI MÙ LÀM SAO BIẾT CHIA “TIỀN”

Phu Le
 

NGƯỜI MÙ LÀM SAO BIẾT CHIA “TIỀN”

Gần 12:00 giờ đêm, có hai người đàn ông ngồi cạnh nhau đếm tiền, một người ôm cây đàn, hốc mắt lõm xuống, một người tóc muối tiêu, mở tiền trong cái túi nhỏ bỏ vào nón và đếm.

Tiền 2.000, tiền 5.000, 10.000, 20.000 và thoảng có vài tờ 50.000 hay 100.000. Tôi đi bộ ngang nên cứ nghe và thấy được vài điều vài câu.

“Hôm nay người ta đi nhậu nhiều ông ạh”
“Uh, gần Tết nên Tất niên vui vẻ”
“Vui nên có mấy khách cũng cho sộp lắm”
“Uh, tôi cũng mong có kha khá mua mấy món Tết cho mấy đứa nhỏ”

Tò mò nên tôi ghé hỏi : 
“Hai chú là anh em ạh?”
“Không, hai chú là bạn, ông bạn chú tật nguyền từ nhỏ”

“Rồi chú chở chú này đi hát bao lâu rồi?”
“Chú làm việc ban ngày, ban đêm chở bạn mình đi hát, ai thương thì cho ít cho nhiều, ổng không chịu ngồi đường chờ bố thí, cũng không chịu để người nhà nuôi”

“Hai chú chở nhau đi như vầy bao lâu rồi”
Lúc này chú mù mới nói
“Cũng hai mươi mấy năm rồi con, ổng là đôi mắt, đôi chân đưa chú đến nơi chú có thể hát cho người nghe. Ngày xưa ổng chở chú bằng xe đạp, sau này ổng mua được xe máy thì chở chú bằng xe máy”

“Mỗi ngày hai chú làm xong rồi chia nhau thế nào?” Tôi cũng hơi tò mò
“Được nhiêu chia đôi, chú chịu tiền xăng” chú sáng mắt trả lời.

“Chúc hai chú nhiều sức khoẻ nhé, Tết thật ấm áp bên gia đình”
“Cám ơn cháu, cháu cũng vậy nhé”

Tôi lại đi, một vòng, hai vòng sau, theo thói quen lại nhìn 2 chú. Chợt thấy điều lạ lạ.

Chú sáng mắt dúi vào tay bạn mình một sấp tiền, đa số là tiền 100.000, 50.000 và 20.000
Còn trên tay chú là tiền 10.000 và một số 5.000, 2.000
“Đây phần của ông đây, tôi đã chia đôi rồi đó”
“Cám ơn ông, bao nhiêu năm ông đều giúp tôi đi và chia đều cho tôi”

Mắt tôi chợt cay cay, 😭 “Chia đôi” đâu đồng nghĩa là 2 phần bằng nhau. 😭😭
Người bạn mù thì tin bạn mình hoàn toàn
Người bạn sáng thì muốn cho bạn mình phần hơn.

Sống trên đời phải chăng có những người có rất nhiều tiền, và ở đây có 2 chú là những người THẬT SỰ GIÀU CÓ

Cuộc sống này còn quá nhiều điều tốt đẹp, Tết đang về, đôi mắt ướt mà con tim sao đập rộn rã tình yêu thương con người. ☺️

Tết sum vầy
Xuân hạnh phúc
Kỉ niệm đẹp rạng sáng ngày 08/02/2018.
#NguyenHaLam #Xuan2018 #Sharing #Happy

Image may contain: one or more people, motorcycle and outdoor

VÔ CẢM

Lê hồng Song

VÔ CẢM

Trời bừng sáng sau cơn mưa đêm… Bầu không khí tươi mát ùa vào căn phòng trực cấp cứu của bệnh viện. Cô y tá trẻ mặc bộ blue trắng nhận ca trực, cô vừa lật cuốn sổ ghi chép của ca trước vừa sửa lại bình hoa tươi trên bàn. Hai má cô ửng hồng, đôi mắt long lanh và làn môi xinh tươi như hoa hồng mới nở. Cách đó không xa, ông bác sĩ tuổi trung niên ngồi trước bàn làm việc của mình, mỉm cười nhìn dòng chữ “Thầy thuốc như mẹ hiền” uốn bằng đèn huỳnh quang màu đỏ tươi rực rỡ vừa mới sắm.

Bỗng một chiếc xe gắn máy phóng thẳng tới cửa phòng cấp cứu. Gã lái xe mặt mày bậm trợn, ngồi sau là cô gái mặc mỗi chiếc áo nịt, phấn son nhòe nhoẹt. Cô ta đang ôm một thằng bé chừng mười tuổi được quấn trong cái áo khoác phụ nữ loang máu.

Gã lái xe giật thằng bé trên tay cô gái rồi bồng vào trong phòng, nói với cô y tá:

– Bác sĩ ơi cấp cứu !

Cô y tá rời mắt khỏi cuốn sổ:

– Sao vậy ?

– Thằng bé bị tai nạn giao thông !

– Anh là bố nó à ?

– Không, tôi lái xe ôm…

– Thế còn cô kia ?

Cô y tá liếc mắt về phía cô gái ăn mặc hở hang đứng ngoài cửa rồi bĩu môi cau mặt. Nước mưa đã cuốn trôi lớp son phấn rẻ tiền trên mặt cô ta để lộ ra lớp da nhợt nhạt. “Trông chẳng khác gì gái điếm đứng đường mạt hạng. Vào nơi công cộng mà dám phô ra như thế à ?…” – Cô y tá nghĩ.

Quả thật cô gái mặc áo ngực ấy là một gái điếm nghèo, sáng sớm nay cô đang đi xe ôm của gã kia về phòng trọ thì gặp thằng bé bị tai nạn nằm ngất bên đường. Chiếc xe nào đã quẹt phải nó rồi bỏ chạy luôn. Thương hại, cô cởi áo khoác quấn cho thằng bé rồi cùng anh xe ôm đưa nó đến đây.

Gã xe ôm bối rối liếc qua cô gái, ấp úng trả lời cô y tá:

– À ! Cô này…

Cô y tá xinh đẹp không thèm nhìn hai người, cất giọng lạnh lùng:

– Sang bên kia làm thủ tục nhập viện.

Gã xe ôm đặt thằng bé xuống thềm, rồi chạy sang dãy nhà đối diện. Người bảo vệ chỉ cho gã cái lỗ hình vuông bằng hai bàn tay trên tấm kính dày, chung quanh bịt lưới sắt. Gã khom lưng nhìn vào trong ô vuông đó, thấy gương mặt hồng hào của người nữ nhân viên ngồi sau chiếc bàn chất đầy sổ sách. Gã nhũn nhặn:

– Chị ơi, cho tôi làm thủ tục nhập viện…

Người phụ nữ không ngẩng mặt lên, nói máy móc:

– Tên gì ? Hộ khẩu ? Chứng minh nhân dân ?…

– Dạ… thằng nhỏ mà !…

– Thằng nhỏ à ?… Anh là gì của nó ?

– Tôi lái xe ôm… Thấy nó bị tai nạn nên chở tới đây.

– Rắc rối đây ! Sao anh không gọi bố mẹ nó tới làm thủ tục nhập viện ?

Gã xe ôm nói lắp bắp:

– Tôi đâu biết bố mẹ nó… Với lại gấp quá ! Cấp cứu mà !

– Thôi được ! Nộp tiền tạm ứng viện phí.

– Bao nhiêu chị ?

– Hai triệu.

Gã xe ôm ngẩn ra, hắn biết trong túi mình có chưa tới hai trăm ngàn.

Gã móc hết tiền ra rồi nói với chị nhân viên:

– Tôi chỉ có bi nhiêu… Chị làm ơn cho thằng bé nhập viện, rồi tôi sẽ tìm bố mẹ nó tới thanh toán.

– Không được ! Anh không biết bố mẹ nó thì làm sao mà tìm ?

– Chị làm ơn… Thằng bé sắp chết !…

– Đã bảo không được ! Chị nhân viên gắt, cộc cằn máy móc: Bệnh viện đã quy định.

Gã xe ôm đành chạy trở lại lại phòng cấp cứu, hỏi cô gái điếm:

– Cô có tiền không ?…

Cô gái khẽ quay đi, moi trong chiếc áo nịt ra mấy tờ bạc được xếp cuốn chặt rồi đưa cho anh xe ôm. Anh ta mở ra: Chưa tới trăm ngàn !…

– Bi nhiêu nhằm nhò gì ? Anh xe ôm lắc đầu cau mặt.

Mặt anh xe ôm xám ngắt, mắt đỏ ngầu, hai hàm răng nghiến chặt của anh ta như muốn nhai nát cái gì đó… Cô gái điếm nhìn bộ mặt cau có của anh ta mà phát sợ, nói như phân trần:

– Đêm qua mưa… tôi không có khách…

Thằng bé nằm dưới thềm kêu khóc thảm thiết. Nhìn nó thật thê thảm: Chiếc quần đùi rách tướp để lộ ra cẳng chân dập nát, da thịt chỗ đó bầy nhầy. Máu vẫn chảy từ vết thương chưa được băng bó. Da thằng bé bợt nhớt như con cá ươn, ngực thoi thóp và đôi mắt long lanh đảo nhìn mọi người như cầu cứu. Trong túi áo ngực của nó còn thò ra xấp vé số ướt nhẹp.

Gã xe ôm nhìn thằng bé mà ứa nước mắt. Gã chợt quỳ mọp xuống trước mặt ông bác sĩ, hai tay cầm mấy tờ bạc cô gái điếm vừa đưa đội lên đầu:

– Tôi lạy bác sĩ ! Bác sĩ làm ơn cứu thằng bé ! …

Khuôn mặt đen sạm của gã xe ôm méo mó khổ sở. Ông bác sĩ ngoảnh mặt đi chỗ khác, nhịp nhịp chân phải… Gã xe ôm biết có quỳ xin cũng không được. Gã đứng dậy nói với cô gái điếm:

– Thôi được ! Cô trông thằng bé, để tôi đi cầm đỡ chiếc xe vậy.

Cô gái điếm lau nước mắt:

– Hay anh… để em qua phòng bên kia… bán máu ?

Gã xe ôm nhìn lướt qua thân hình gầy gò của cô gái, lắc đầu:

– Cô thì có bao nhiêu máu mà bán ? Chưa chắc họ đã chịu mua…

Gã nói xong hấp tấp chạy ra cửa bệnh viện.

Lúc ấy phòng cấp cứu tiếp nhận thêm mấy bệnh nhân: Một cô gái tự tử vì thất tình, một anh chàng say rượu bị trúng gió và một người đàn ông bị nhồi máu cơ tim, ông này được đưa tới bằng xe hơi Mercedes kèm hai Honda @ hộ tống. Người thân của ông nhà giàu đứng chật phòng cấp cứu. Bà vợ mập mạp của ông ta nhanh nhẹn dúi vào tay bác sĩ và cô y tá mỗi người một phong bao:

– Tốn kém bao nhiêu cũng được, bác sĩ mau mau cứu sống chồng tôi.

Ông bác sĩ vội vã rời cái bàn như bị bắt vít từ sáng, cô y tá cuống quýt đẩy băng ca… Ông bệnh nhân “đại gia” được đưa thẳng vào phòng chăm sóc đặc biệt không cần qua thủ tục nào. Trong khi đó, thằng bé bị bỏ quên ngoài thềm cùng cô gái điếm.

… Ánh mặt trời rực rỡ chiếu xuống sân bệnh viện. Ba lá cờ phấp phới tung bay trên đỉnh cột thép không rỉ, trên cùng là cờ đảng, giữa lá cờ nước và dưới cùng là cờ bệnh viện với hình con rắn mổ cái cốc thủy tinh. Cuộc chào cờ buổi sáng thứ hai của cán bộ nhân viên bệnh viện vừa kết thúc. Người thân của những bệnh nhân nghèo kéo nhau tụ tập dưới chân cột cờ để nhận cơm, nhận cháo từ thiện của một sư bà mang tới.

Đang múc cơm cháo cho mọi người, sư bà bỗng nghe tiếng kêu rên của thằng bé từ phòng cấp cứu vọng ra. Bà ngừng tay lắng nghe… tiếng kêu rên càng lúc càng rõ hơn… Bằng tâm thức của một người tu hành, sư bà thấu hiểu tiếng kêu tuyệt vọng của một sinh linh. Bà vội trao công việc phát cơm cháo cho người khác rồi chạy tới.
Thằng bé đã kiệt sức, mắt nhắm nghiền… Cô gái điếm bất lực ngồi bên cạnh. Sư bà cúi sát xuống khuôn mặt trẻ thơ trắng bệt:

– Nam mô A Di Đà Phật !…

Thằng bé mở mắt nhìn bà sư, nước mắt nó ứa ra. Sư bà nhìn chiếc áo phụ nữ vấy máu, rồi liếc qua cô gái ốm yếu ăn mặc hở hang phong phanh… Bà hiểu ngay sự tình, liền quay lại chỗ phát cơm cháo từ thiện, nói với mọi người:

– Thưa quý vị ! Trong kia có một đứa trẻ đang hấp hối vì không có tiền nhập bệnh viện. Tôi biết quý vị ở đây cũng không giàu có gì…

Sư bà chỉ nói được như vậy. Những người nghèo khó lại có trái tim nhạy cảm, họ hiểu ngay điều sư bà muốn nói và việc cần làm. Thế là chiếc vung nồi cháo từ thiện biến thành thùng công đức…

Vừa lúc đó gã xe ôm trở về, mặt mướt mồ hôi. Gã đã cầm được chiếc xe gắn máy là cần câu cơm của gia đình, phải năn nỉ mãi mới được triệu rưỡi, cộng với số tiền của gã, của cô gái và lòng hảo tâm của nhiều người nghèo, may quá được hơn hai triệu ! Đủ ứng tiền nhập viện cho thằng bé.

Mọi người thở phào nhẹ nhõm, ngồi quây quần bên nhau ở góc sân chia nhau húp những bát cháo từ thiện.

Bỗng cô y tá xăm xăm đi tới nói với gã xe ôm:

– Thằng bé cần phải tiếp máu. Nhóm máu O…

– Trời ! Gã xe ôm thốt lên ! Thẫn thờ đặt bát cháo đang húp dở xuống nền gạch…

Bầu không khí như chết lặng trước tình huống bất ngờ. Cô gái điếm bỗng lên tiếng:

– Máu O à ? Tôi nhóm máu O !…

Nói xong, cô nhanh chóng theo y tá vào phòng hiến máu. Gã xe ôm cũng vội vã bước theo…

Nửa giờ sau gã xe ôm dìu cô gái điếm ra. Trên gương mặt nhợt nhạt của cô hé nở nụ cười.

Image may contain: 1 person

Thời tuổi thơ

Thời tuổi thơ

Tác giả: Phùng Văn Phụng

           Thuở nhỏ tôi sống ở miền quê hẻo lánh, đó là làng Đông Thạnh, cách xa quận lỵ Cần Giuộc về hướng đông nam khoảng sáu, bảy cây số. Từ nhà muốn đi lên quận Cần Giuộc phải đi bằng xe ngựa hay bằng xe đạp, mất khoảng từ bốn mươi phút tới một giờ.

            Làng Đông Thạnh thụộc Tổng Phước Điền Hạ, phía Bắc là làng Phước Vĩnh Tây, phía Đông là làng Phước Vĩnh Đông và làng Tân Tập, phía tây là làng Long Phụng, phía Nam là làng Long Hựu. Nếu đi về hướng đông sẽ gặp sông Soai rạp và Rừng Sát nổi tiếng có nhiều cọp dữ thời gian trước khi Pháp chiếm ba tỉnh miền đông Nam phần.

            Tôi còn nhớ, lúc tôi vào khoảng sáu bảy tuổi, ở phía trước căn nhà lá nghèo nàn, có vũng sình cho nên muỗi rất nhiều, buổi tối chưa kịp giăng mùng, muỗi cắn phủi không kịp. Nhà tôi buôn bán tạp hóa đủ các món lặt vặt như đường cát, dầu hôi, đậu trắng, đậu đỏ, giấy tiền, vàng bạc, gạo, muối, sà bông … Tối giăng mùng ngủ rồi cũng còn có người kêu cửa để mua thuốc lá hay kẹo bánh v.v… 

            Khi mưa xuống, đường sá ở quê tôi rất trơn trợt. Sau cơn mưa, khi chạy xe đạp, hai bánh xe sẽ dính đầy bùn đất sét. Hai bánh xe sẽ kẹt cứng, chỉ có cách dùng que củi để nại từng miếng bùn ra khỏi bánh xe. Muốn đi đâu, chỉ có cách lội bộ, dùng các ngón chân bấm vào đất, từ từ mà bước nếu không sẽ trợt té, “đo đất” dễ dàng. Mùa nắng, một cơn gió thoảng qua, bụi bay tứ tung, đưa bụi đất đỏ bám vào áo quần, đầu tóc. Mỗi lần có chiếc xe lam chạy qua, phải nín thở, lấy khăn tay che miệng, bịt mũi để không phải hít bụi màu đỏ sậm rất là dơ bẩn.

              Thầy hai Lang dạy tôi lớp hai, nước da thầy xanh xao, khuôn mặt gầy gò, thân hình thầy ốm nhom, sau này tôi mới biết thầy bị bịnh lao phổi.

             Lên lớp ba, tôi học thầy ba Hương, anh cậu bảy Nhẫn làm y tá, bác ruột của Thanh Thủy, cùng học chung trường trung học Cần Giuộc với tôi. Thầy ba Hương dạy rất kỹ lưởng. Nắn nót từng chữ viết cho chúng tôi. Gạch hàng ngay ngắn trong giờ tập viết. Hồi đó chỉ có loại ngòi viết chấm mực tím hay mực đen. Học sinh nào cũng mang theo bình mực, ngòi viết dùng một thời gian thì phải bỏ, mua ngòi viết khác. Lúc đó chưa có loại viết bút bi không cần chấm mực như bây giờ.

            Thanh Thủy hơn tôi hai tuổi. Tôi đang học lớp đệ lục (lớp 7 bây giờ), mỗi buổi sáng tôi đợi chiếc xe Lam từ ngả tư ra để đi học ở quận Cần Giuộc. Hôm nào lên xe, thấy có Thanh Thủy tôi thích thú lắm. Hôm nào không có cô nàng, tôi tiếc nuối ngẩn ngơ.

            Cuối năm học lớp đệ ngủ, tôi lên ở nhà thầy Lê Xuân Thu, giáo sư dạy nhạc của trường Trung học Cần Giuộc, để học nhạc và học thêm Toán Lý Hoá. Nguyễn Minh Diệu cũng cùng ở nhà thầy Thu với tôi để học thêm. Mặc dầu những năm tôi học lớp đệ thất, đệ lục, đệ ngủ tôi đều đứng hạng nhất, hạng nhì của lớp B1. Vì nhà thầy Thu ở Khánh Hội, quá nhiều muỗi, khi ngủ tôi thường lăn ra khỏi mùng, nên bị muỗi cắn và bị bịnh sốt rét. Mùa tựu trường của năm học lớp đệ tứ, mấy tháng đầu nhập học tôi đã bị sốt nhiều lần. Tôi nghĩ rằng tôi chỉ bị cảm thường, nhưng thực ra tôi bị bịnh sốt rét nặng, gọi là sốt rét ngã nước. Mỗi lần sốt tôi bị nóng nhiệt độ 40, 41 độ C, sau đó tôi lại lạnh run, lạnh quá, đấp bao nhiêu cái mền cũng không hết run. Đi khám bác sĩ Pham hữu Chương, đi khám bịnh ở bác sĩ Thức cũng không bác sĩ nào chửa khỏi. Có lúc phải nằm nhà thương cả tuần lễ. Vì là năm thi Trung học đệ nhất cấp đầu tiên của trường Trung Học Cần Giuộc cũng là năm thi đầu tiên của toàn quận, nên thầy cô và cả gia đình tôi đều kỳ vọng vào kỳ thi này. Tôi sợ bị bịnh không thể thi được. Cuối cùng tôi đi bác sĩ người Pháp cho tôi uống 20 viên thuốc “kí-nin” trong một tuần, ngày đầu tiên uống năm viên và giảm lần mỗi ngày cho đến ngày cuối cùng là hai viên. Uống thuốc nhiều ngay trong những ngày đầu, vi trùng sốt rét đã chịu thua, nhưng tôi cũng bị ảnh hưởng là bị lùng bùng lỗ tai vì dùng quá nhiều thuốc. Sau khi uống thuốc “kí nin” theo cách trị bịnh của bác sĩ người Pháp này tôi khỏi hẳn không còn bị sốt rét nữa. Nhưng sức khỏe của tôi không còn như xưa. Tôi không còn chơi thể thao, chạy xa hay chạy nhanh được nữa. 

           Năm 1959, lần đầu đi thi Trung học đệ nhất cấp, thi cả hai môn viết và vấn đáp. Phụ huynh học sinh, ông Hiệu trưởng Trần văn Quới, thầy cô giáo của trường đều lo lắng theo dõi cuộc thi lần đầu tiên này. Gia đình tôi là gia đình nông dân, thân nhân bà con cô bác ở làng Tân Tập sống bằng nghề làm ruộng, cho nên họ thấy ai có đi học thì họ quý lắm.

            Ngày đầu tiên xuống Mỹ Tho để thi Trung học đệ nhất cấp, tôi ở chung với các bạn trong Thánh Thất Cao Đài, khi ngủ phải nằm san sát nhau, hôm sau, ba tôi xuống mướn phòng ngủ để tôi có chỗ nghỉ ngơi, yên tĩnh, thoải mái. Ban đêm có chỗ ngủ đàng hoàng để có tinh thần và có sức khỏe làm bài thi. Năm đó tôi đã đậu Bình thứ.

            Thầy Thu bị động viên và đã chết trận khi thầy chưa vợ, chưa con. Em thầy Thu là Lê Hữu Đông cũng chết trận khi lên đến Trung Tá. Em gái cũng chết vì vượt biên mất tích.

            Một kỷ niệm khó quên vào năm học lớp hai tại trường tiểu học Rạch Núi vì gia đình nghèo chỉ có bộ đồ bà ba đen mặc đi học hàng ngày. Thấy Trần Khương Thới nhà ở xã Tân Tập đi học có một bộ đồ Py-gia-ma có sợi dây buộc ngang hông, tôi thích lắm, tôi ao ước quá sức nhưng tôi biết rằng ba má tôi cũng không thể nào mua cho tôi được.

            Một lần khi đi học về, đang bước vô nhà thì từ đàng sau, không biết đứa bạn học nào, đã đấm mạnh vào lưng rồi bỏ chạy mất. Tôi khóc và chạy vào nhà.  

            Sau khi hiệp định Geneve được ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954, hy vọng sau hai năm sẽ thống nhất đất nước, nhưng thực tế không phải như vậy mà chiến tranh triền miên mãi cho đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, đất nước mới thống nhất nhưng dưới bạo lực không phải do bầu cử. Hàng trăm ngàn người đi tù, hàng triệu người bỏ nước ra đi bằng mọi cách, mọi phương tiện bằng đường hàng không, đường biển hoặc đường bộ.

            Họ ra đi trên những chiếc thuyền mỏng manh chịu đói khát, chịu cướp bóc, bị hải tặc, bị bảo tố, chết chóc ngoài biển khơi hay trong rừng rậm. Đi đường bộ qua Campuchia, để từ đó vượt qua Thái Lan.

CHỢ ĐỜI….! HAY SỰ TÍCH NGƯỜI NGHIỆN ĐỐT LÒ GIỮA CHỢ..!

 Lê hồng Song‘s post.
 
Image may contain: 1 person, sitting
Image may contain: 1 person
Image may contain: 1 person, smiling
Lê hồng Song added 3 new photos.

 

CHỢ ĐỜI….! HAY SỰ TÍCH NGƯỜI NGHIỆN ĐỐT LÒ GIỮA CHỢ..!

-Truyện ngắn tình cảm..

Phố chợ nghèo bỗng ồn ào bởi một sự kiện chưa từng xảy ra; ấy là sự xuất hiện đường đột của một con điên ngay cái lúc phiên chợ sáng đang đông đúc.
Nếu như con điên như mọi người điên khác trên thế gian này, nghĩa là quần áo rách rưới, tóc tai bù xù, mặt mũi nhem nhuốc thì đã chả tạo nên sự kiện. Đằng này, con điên cao như người mẫu, mặt trái xoan, đôi mắt trong veo, tóc cắt ngang vai. Con điên mặc quần bò đen, áo xanh màu nước biển. Trên vai con điên đeo một cái túi vải còn trên tay luôn luôn cầm một quyển sổ nhỏ và một cây bút bi, hễ ngồi xuống chỗ nào là con điên lại mở sổ ra ghi ghi chép chép, toàn là tiếng Tây nên chẳng ai hiểu được con điên viết gì.

Nếu như con điên xấu xí, bẩn thỉu thì những người bán hàng đã xua đuổi, đã đốt vía để tránh sự đen đủi cho việc bán hàng nhưng con điên xinh quá nên ai cũng cho tiền, cho quà. Tiền, cam, chuối, khoai lang, bánh rán, chai nước, con điên cho tất vào chiếc túi vải và cảm ơn lại mọi người bằng nụ cười hiền hậu; một nụ cười không một chút biểu hiện của kẻ điên, thậm chí nụ cười còn quyến rũ người khôn phải đáp lại bằng một nụ cười ngây dại.

Con bé xinh đẹp thế mà bị điên, thật tội nghiệp!
Nó điên nhưng sạch sẽ thế chắc là điên vì thất tình!

Tay nó cầm sổ cầm bút, chắc là điên do ngộ chữ!

Cả chợ bàn ra tán vào, và rồi khi phiên chợ tan thì câu chuyện về con điên lại râm ran từng nhà. Nhiều người tò mò đi bộ, phóng xe máy ra tận phố chợ để được nhìn thấy con điên. Trời ơi, cô Nâu xinh đẹp nhất làng cũng chả sánh được với con điên! Cô em cho anh hôn cái! Này em về làm vợ anh đi! Con điên lại cười; kẻ buông lời ong bướm cũng ngây ngất cười theo.

Vàng làm nổi lòng tham của con người còn nhan sắc làm nổi dục vọng của đàn ông; sự xinh đẹp của con điên đã khiến bao kẻ thèm khát muốn chiếm đoạt được thân thể con điên.

Kẻ đầu tiên là gã bán thịt lợn.

Gã bán thịt lợn không phải là người đầu tiên nhìn thấy con điên nhưng lại là người đầu tiên phát hiện ra người đẹp là con điên. Con điên xinh đẹp, con điên sạch sẽ, ai cũung nghĩ là diễn viên hay người mẫu ở thành phố về phố chợ chơi nhà người thân nên chả ai dám bắt chuyện làm quen sợ bị chê cười là thấy người sang bắt quàng làm họ. Gã bán thịt lợn vốn điêu luyện trong việc thái thịt, thoăn thoắt thoăn thoắt mười miếng như mười nhưng mắt gã không bao giờ nhìn miếng thịt mà thường là liếc nhìn đàn bà, con gái đi chợ xem ai ngon mắt thì bỏ lời ông bướm nên ngay từ khi nhìn thấy con điên, gã đã buông lời, người đẹp có mua thịt, anh bán cho chỗ mông ngon nhất. Thấy người đẹp không nói, chỉ cười, gã bảo điên à? Lại chỉ thấy người đẹp cười, gã bán thịt hô toáng lên, ô hô con điên, con điên! Người ta đổ xô đến để xem, râm ran bàn tán và khen gã bán thịt tưởng ngu như lợn ai dè lại thông thái đến thế!

Tự hào vì là kẻ phát hiện ra người đẹp là con điên nhưng gã cũng là kẻ đầu tiên nảy ra ý đồ chiếm đoạt thân thể con điên. Gã nghĩ đêm đến thế nào con điên cũng nằm vạ vật hay ngồi ngủ gà gật trong các hàng quán ở phố chợ nên nửa đêm gã bán thịt lợn lẻn ra. Trăng thượng tuần soi rõ phố chợ hiu hắt, không một bóng người, không một tiếng chó sủa. Gã bán thịt đảo con mắt híp như đôi mắt lợn nhìn ngang nhìn ngược. Thấy con điên trải áo mưa nằm ngủ trên tấm phản bán thịt của mình thì gã bán thịt khấp khởi trong lòng, trời dâng cho mình thân thể đẹp hút hồn của con điên rồi! Gã mặc quần đùi, áo may ô. Lúc đầu gã định bế con điên xuống đất để cưỡng hiếp nhưng sợ cô thức dậy chống cự nên gã đánh đòn chắc ăn, gã sẽ nằm đè lên con điên, cái phản bán thịt lợn của gã rất vững chắc, gã biết vì chiếc phản cũng chính là sản phẩm do chính tay gã đóng. Gã lùn, chân không vắt qua người con điên được nên gã kiếm cái ghế đứng lên rồi đổ sập người lên tấm thân mềm mại của con điên. Bị tảng thịt đè lên người, con điên ngộp thở. Đúng cái lúc gã bán thịt đang lôi cái của quí của mình ra thì có ánh đèn pin loang loáng, gã bán thịt rủn người khi nhận ra vợ gã tay cầm con dao thái thịt. Thị túm tóc gã lôi dậy:
Bà biết ngay mà, sáng nay vừa nhìn thấy con điên là mắt ông đã hếch lên như chó dạng chân hếch đái.

Ái đau quá, mình tha tội cho tôi, tôi cũng chưa làm gì được nó.
Lần sau mà còn mắt ngang mày ngửa nữa thì bà sẽ xẻo!
Gã bán thịt mặt mũi trông hung dữ nhưng sợ vợ hơn sợ cọp, gã lập cập đi về nhà. Vợ gã bán thịt dứ dứ con dao vào mặt con điên ra hiệu đuổi cô đi. Con điên xách chiếc túi vải bước đi. Đêm khuya, phố chợ vắng lặng, con điên sợ lại bị gã đàn ông nào đó nằm đè lên người nên cô không ngủ, đi lang thang cho đến sáng.

Kẻ thứ hai là đồng phạm.
Hôm sau, con điên được một bà tốt bụng ở phố chợ gọi vào nhà cho tắm rửa, cho ăn uống, lại cho cả một chiếc váy của cô con gái ở thành phố thải về cho mẹ, bà không mặc nên đem cho con điên. Chiếc váy khoe đôi chân dài, cái oe thon, khoảng ngực trần không quá lộ liễu của con điên nhưng cũng đủ làm cho cặp mắt của ông chủ tịch xã tối sầm lại. Ông đã sáu mươi tuổi nhưng sức khỏe vẫn còn dẻo dai, nhất là cái khoản kia của ông vẫn sung mãn lắm, mà vợ ông đã sáu ba tuổi nên ông hay tạt ngang tạt ngửa vào nhà mấy bà góa chồng hay có chồng đi làm ăn xa. Trưa ấy, thấy con điên đang thơ thẩn ở ngoài cổng khu làm việc của các ban ngành trong xã, ông chủ tịch liền ra vẫy vẫy con điên vào phòng làm việc. Con điên theo vào, ông chỉ khép của mà không kịp chốt cửa, ông tốc ngay váy con điên lên. Con điên tát vào mặt ông một cái, mặc kệ, ông cứ ghì con điên xuống. Đang trưa, cán bộ, nhân viên đã về nghỉ, ngỡ chẳng còn ai nào ngờ cửa phòng bật mở. Ông bí thư xã đi vào, tưởng ông sẽ tri hô lên nhưng không, ông tủm tỉm cười nói với ông chủ tịch, con điên khỏe lắm, để ông giúp cho một tay. Thì ra ông bí thư xã cũng đã bí mật theo dõi con điên, cũng đang có định dẫn dụ con điên về phòng mình để chiếm đoạt nhưng ông vẫn chậm chân hơn ông chủ tịch. Lúc đầu ông chủ tịch hơi sợ nhưng khi nghe ông bí thư bảo phải cho ông đưa con điên sang phòng ông để thưởng thức con điên trước thì ông chủ tịch lại nhanh chóng chuyển sang tức tối. Ông bí thư muốn được chiếm đoạt con điên truớc, ngoài cái việc con điên xinh đẹp còn có một vấn đề sâu sa nhạy cảm nữa, ấy là ông nghĩ rất có thể con điên này còn trinh tiết nên mình phải làm trước để hưởng cái lộc trời cho này. Lòng vả cũng như lòng sung, ông bí thư biết nghĩ thế thì ông chủ tịch cũng nghĩ thế nhưng chính ông là người dụ dỗ đưa con điên về đây thì ông phải là người thưởng thức trước, ấy thế mà bị kẻ khác nẫng tay trên thì hỏi sao ông không uất ức? Thế là xảy ra một cuộc khẩu chiến:

Tôi đưa nó về đây, tôi phải làm trước!

Ông không nhường tôi trước, tôi có quyền kêu công an xã đến bắt ông vì tội hiếp dâm!
Thằng khốn nạn!
Thằng đê tiện!

Ông bí thư và ông chủ tịch tuy được dân bầu ra để phụng sự nhân dân nhưng dân bầu xong rồi thì lại muốn nhân dân phục vụ lại mình bằng tiền, bằng đánh chén, bằng sự hiến thân của các cô, các bà; dân không tự nguyện, tất nhiên, thì các ông dùng thủ đoạn, quyền lực để hành dân. Hai ông cùng phụng sự nhân dân nhưng lại coi nhau không ra gì, kẻ này nói xấu kẻ kia. Trong nhiều cuộc họp, cả hai đã từng đập bàn, chỉ tay vào mặt nhau, thậm chí có lần còn hắt cả rượu vào mặt nhau nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức độ khẩu chiến.
Lần này thì tranh nhau vì gái đẹp, dù là gái đẹp điên song vẫn có sức mạnh ghê gớm, nó đã khiến ông bí thư và ông chủ tịch hai lao vào nhau, kẻ đấm, người đá. Con điên sợ hãi chạy ra ngoài. Cuộc chiến tay- chân diễn ra trong vòng mười lăm phút, phần thắng nghiêng về phía ông bí thư xã vì ông trẻ hơn, khỏe hơn. Ông chủ tịch bị gãy hai răng cửa, vêu mõm còn ông bí thư thì thâm tím mắt trái.

Kẻ thứ ba là gã chủ lò gạch.
Chuyện con điên xinh đẹp xuất hiện ở phố chợ cũng đến tai bà vợ ông chủ của mười cái lò gạch lúc nào cũng nhả khói mù mịt. Cây chết, lúa héo, nhà nhà đóng kín cửa, người lớn trẻ con ra đường thì bịt khẩu trang kín mít, dân làng kêu trời trước thảm họa ô nhiễm nhưng thanh tra đến thanh tra lại đi vì khi đi có cầm theo phong bì. Là vợ ông chủ lò gạch nên gia đình bà giàu có nhất phố chợ nhưng buồn thay, vợ chồng bà có hai người con, một trai, một gái thì cậu con trai nối dõi lại bị câm điếc, người lúc nào cũng ngơ ngơ ngác ngác. Bị câm điếc, bị điên nhưng bố mẹ giàu có nên thằng câm vẫn lấy được vợ, một cô gái con nhà nghèo ở cùng xã, người lùn và béo song sau một tuần chung sống, chả hiểu sao cô bỏ đi biệt tăm.

Bà chủ lò gạch đi bộ ra phố chợ, vừa nhìn thấy con điên bà đã nảy ra trong đầu một ý đồ, bà mua cho cô một cái bánh mì rồi cầm tay cô đi về nhà. Đi được mấy bước, bà dẫn cô lại chỗ quầy bán quần áo, mua liền cho cô hai bộ váy. Kẻ chợ nhìn thấy bà chủ lò gạch đối xử tử tế với con điên thì ai cũng biết mưu đồ của bà, người khen bà khôn, kẻ nói bà rước thêm nợ về nhà, bà nhổ toẹt một bãi nước bọt ra chiều bà khinh tất cả.

Về đến nhà, đợi con điên ăn xong bánh mì, bà chủ lò gạch rót nước cho cô uống rồi dẫn cô vào nhà tắm, bà tự mở vòi nước, ra hiệu cho cô cởi quần áo, tắm rửa. Con điên gật đầu, tự mình tắm rửa. Khi con điên tắm xong bước ra, bà chủ lò gạch sững sờ trước vẻ đẹp của cô, bà gọi điện cho chồng về ngay để tính chuyện. Nửa giờ sau ông chủ lò gạch phóng xe phân khối lớn về đến nhà, ông định nạt nộ vợ vài câu vì cái tội phá vỡ cuộc vui đánh chắn ăn tiền của ông với ông trưởng phòng Tài nguyên – Môi trường huyện nhưng vừa nhìn thất con điên, ông đã ngẩn ngơ cả người. Nghe vợ giới thiệu đây là con điên mà mấy ngày qua cả phố chợ bàn tán, ông chủ lò gạch hiểu ngay ý vợ:

Bà đưa cô ta về để cưới vợ cho thằng câm?
Đúng thế!
Được đấy, con điên rất đẹp, biết đâu ông giời đem nó đến cho nhà mình.
Vợ chồng ông chủ lò gạch bàn tính cứ để cho con điên ăn ở với con mình đến khi nào có thai sẽ làm đám cưới cho chắc ăn, kẻo nó lại bỏ đi như con vợ trước thì lại mất của mất người.

Đêm, bà chủ lò gạch dẫn con điên lên phòng thằng câm ở trên tầng ba, lại đưa cho con điên bộ váy ngủ màu hồng, ra hiệu cho cô thay váy. Con điên thay váy xong, bà chủ lò gạch chỉ vào giường, thấy giường không có người, cô gật đầu trèo lên giường. Một lúc sau, bà chủ lò gạch mới cho thằng câm lên phòng, thấy con điên đang nằm ở giường mình thì thằng câm thích lắm, chả hiểu nó thích vì cô điên xinh đẹp hay chỉ đơn giản thích vì có một người bạn ngủ chung cho vui. Thằng câm liền vén màn chui vào. Con điên hốt hoảng ngồi dậy xua tay, thằng câm hiểu ý con điên không muốn cho mình nằm chung nên quay ra đi lại chỗ bộ ghế xa-lông nằm. Thánh nhân ở chung phòng với giai nhân cũng khó mà chợp mắt nếu chưa được mây mưa với giai nhân nhưng thằng câm lại là kẻ điên nên có lẽ đối với nó, giai nhân nghiêng nước nghiêng thành cũng chỉ như cô vợ xấu xí vừa lùn vừa béo đã bỏ đi nên chỉ một lúc thằng câm đã kéo gỗ khò khò.

Nửa đêm ông chủ lò gạch tỉnh giấc, bên cạnh bà vợ đang nghiến răng ken két, ông tò mò muốn biết xem con điên và thằng câm thế nào nên ông rón rén như mèo rình chuột đi lên tầng ba. Ông khẽ đẩy cửa đi vào, nhìn thấy thằng câm đang ngủ trên ghế xa-lông, nước dãi đùn đầy hai khóe miệng, ông biết ngay thằng câm bị con điên xuôi đuổi, ông đi lại gần chiếc giường. Con điên đang ngon lành trong giấc ngủ, bộ váy mỏng, ngắn mà vợ ông cố tình cho con điên mặc để kích thích cho con trai thì lúc này đây nó lại đang kích động cơn thèm khát của chính chồng mình. Ông chủ lò gạch chặc lưỡi, miếng ngon con không ăn được thì bố ăn, gã tắt đèn điện, cởi bỏ quần áo, đổ sập lên người con điên. Con điên bị thân hình lực lưỡng của ông chủ lò gạch đè nặng, gã lại rất khỏe nên cô chỉ chống đỡ được một lúc thì bị gã chiếm đoạt. Thằng câm không hề biết gì, vẫn gáy khò khò. Thỏa mãn xong, ông chủ lò gạch thấy cô điên mệt lử, nằm im lặng, gã vội vã mặc quần áo đi xuống tầng hai, vào nhà vệ sinh rửa ráy, lau khô, đi lại giường ngủ. Vợ gã đã thôi nghiến răng, gã nằm xuống, sung sướng chìm vào giấc ngủ ngon lành.

Sáu giờ sáng, ông chủ lò gạch thức dậy nói với vợ phải ra thăm lò gạch, bà chủ lò gạch tế nhị đợi mãi đến hơn tám giờ mới lên phòng con. Thằng câm đã đi chơi, nhìn thấy váy con điên xộc xệch, lại nhìn thấy trên tấm nệm ga có vệt máu đỏ, bà mừng lắm, thằng câm có phúc lấy được vợ vừa đẹp vừa còn trong trắng rồi. Thôi nó bị đau, bị mệt, cứ để nó ngủ thêm, bà chủ lò gạch cầm cạp lồng đi ra phố chợ mua cho con điên bát phở gà.

Tháng sau, phát hiện ra con điên có thai, bà chủ lò gạch thông báo cho chồng tin vui, gã sung sướng bảo làm đám cưới ngay cho thằng câm và con điên. Luật pháp không cho phép những kẻ tâm thần được kết hôn nhưng ở cái phố chợ này thì đồng tiền lại cho phép họ được thành hôn có giá thú. Một đám cưới to nhất, sang nhất phố chợ từ trước đến nay đã được tổ chức.

Đêm tân hôn, căn phòng cô dâu, chú rể đã được tân trang lại, tất cả đều mới, tất cả đều thơm phức. Với những đôi uyên ương bình thường thì nó sẽ làm cho đêm tân hôn thêm ngất ngây hạnh phúc nhưng mà với vợ chồng thằng câm thì điều đó không có ý nghĩa gì. Thằng câm được làm chồng hợp pháp, lại được ngồi xe hoa sang trọng với cô dâu đi dọc phố chợ nhưng từ đêm đầu tiên bị con điên xua đuổi phải ra ngủ trên ghế sa-lông, những đêm sau đó nó không lên giường nữa mà nằm ngủ ngay trên ghế. Nó không hiểu vợ chồng là gì, nó lại càng không hiểu nghĩa vụ thiêng liêng của người chồng là phải làm cho người vợ sung sướng trên chiếc giường cưới; nó chỉ mơ hồ hiểu rằng, con điên không thích nó ngủ chung, nó phải tôn trọng, đơn giải chỉ thế thôi. Chú rể thì thế nhưng bố chú rể thì không thế, từ đêm chiếm đoạt được con điên, cách bốn, năm đêm gã chủ lò gạch lại mò lên, gã tưởng lần đầu tiên con điên bị đau nên chống cự, lần sau con điên sẽ quen đi sẽ sung sướng nhưng lần nào con điên cũng chống cự. Cũng may con điên không kêu lên, chỉ dùng tay cào cấu, gã chỉ cần khoá chặt hai tay con điên lại, ghì thật chặt một lúc thì con điên đuối sức đành để mặc gã làm tình.

Đêm nay, đêm tân hôn của thằng câm, gã chủ lò gạch tuy cả ngày đã nốc nhiều rượu nhưng gã vẫn thấy xốn xao trong lòng, y như gã vừa cưới vợ. Gã rất muốn mò lên phòng thằng câm sớm để thưởng thức đêm tân hôn thứ hai trong cuộc đời nhưng vợ gã chưa nghiến răng ken két thì thị chưa thể ngủ say. Hàng ngàn đêm ngủ chung với vợ, gã đã đúc rút ra được kinh nghiệm, khi vợ ngã nghiến răng thì có súng bắn cạnh tai, thị vẫn ngon giấc, thậm chí thị còn nhoẻn cười trong mơ. Gã chủ lò gạch cũng tò mò muốn xem đêm tân hôn thằng câm có được ngủ chung với vợ không hay vẫn cái cái cảnh thằng câm nằm gáy như sấm trên ghế sa-lông? Nếu sau đám cưới, con điên cho thằng câm ngủ chung thì chúng sẽ ngủ với nhau suốt đời, gã sẽ chẳng còn cơ hội hãm hiếp con điên nữa. Kể cũng tiếc nhưng dẫu sao đứa con trong bụng con điên cũng là sản phẩm của chính gã.

Có thể đêm nay vợ gã chủ lò gạch bị phấn khích bởi đám cưới nên giấc ngủ của thị cũng bị thay đổi, mười hai giờ đêm rồi mà thị vẫn chưa nghiến răng. Gã bực lắm, giá như có thuốc mê, gã đã xịt cho vợ một nhát. Một giờ rồi hai giờ đêm, thị vẫn không nghiến răng, gã chủ lò gạch không nhịn được nữa, gã gỡ bàn tay vợ ra khỏi cái của quí của mình. Vợ gã có thói quen rất tệ, hễ đi ngủ là đặt tay vào chỗ ấy của chồng nếu không thị sẽ không ngủ được. Cửa phòng thằng câm xưa nay vẫn mở, thật ra trước đây cửa cũng có khoá nắm đấm, nhưng thằng câm không biết sử dụng nhiều lần tự nhốt mình, đạp cửa ầm ầm nên vợ gã phải nhét miếng gỗ vào làm cho ổ khoá thành vô dụng. Gã chủ lò gạch khẽ đẩy cửa đi vào, trong bóng tối lờ mờ, gã nhận ra thằng câm vẫn đang gáy khò khò trên ghế sa-lông, con điên vẫn đang ngủ một mình trên chiếc giường tân hôn, gã vén cửa màn chui vào. Lần này gã không đổ sập ngay lên người con điên mà gã nhìn con điên suy tính sao cho việc cưỡng hiếp vẫn thành công nhưng không làm con điên sảy thai. Gã suy đoán, ngay cả trong đêm tân hôn thằng câm cũng không dám lên giường với vợ, vậy gã thử nhập vai chú rể, biết đâu chính cái đám cưới hôm nay đã giúp con điên nhận ra vai trò của người vợ mà cho chồng ngủ chung? Nghĩ vậy, gã chủ lò gạch khẽ nằm xuống, ôm lấy thân hình mềm mại của con điên. Thấy con điên vẫn ngủ, gã mừng tí tẹo, lấy tay xoa xoa lên bầu vú của con điên để kích thích. Con điên trở mình nhưng vẫn ngủ, nỗi mừng tí tẹo biến thành nỗi mừng to tát, gã chủ lò gạch lùa tay vào váy con điên ve vuốt. Con điên cựa mình, gã nghĩ cô đã hưng phấn nên trườn lên người cô với ý định làm tình nhẹ nhàng để tránh sảy thai cho con điên. Trên đời này, không ai có thể hiểu hết được thế giới con người với con người; lại càng không hiểu hết được thế giới của người điên nên gã chủ lò gạch đã ngu ngốc cho rằng những suy luận của mình là sáng suốt. Giá gã cứ đổ ập xuống người con điên như mọi khi thì gã đã làm tình được nhưng gã lại muốn trở thành chú rể, muốn được cô dâu hân hoan dâng hiến nên con điên bị đánh thức và đã phản ứng dữ dội. Gã chủ lò gạch phải gồng mình chống đỡ, cả hai vật lộn tơi tả trên giường đến nỗi làm cho thằng câm thức giấc. Thằng câm thấy trên giường có kẻ đang ra sức đè lên người con điên, nó liền bật điện lên. Thằng câm nhận ra bố nó. Nó không hiểu chuyện bố nó đang làm với con dâu là loạn luân. Nó cũng không biết sự công bằng, tôi cưới vợ thì tôi phải được ngủ với vợ, ông hãy cút đi. Nó chỉ đơn giản nghĩ rằng, con điên không muốn cho mình ngủ chung thì cũng không muốn cho bố nó ngủ chung, nó đã tôn trọng con điên thì cũng buộc bố nó phải tôn trọng con điên. Thằng câm chạy đến bên giường cầm tay kéo bố ra. Được thằng câm tiếp sức, con điên vùng dậy, nó chạy lại chiếc bàn, cầm cái bình thuỷ tinh đựng nước sôi để nguội trên bàn. Bao nỗi căm hờn kẻ đã hãm hiếp mình bị kìm nén, nay được bung ra, con điên lao đến giáng cái bình thủy tinh lên đầu gã chủ lò gạch. Gã chủ lò gạch ngã lăn quay ra nhà, mắt trợn ngược lên nhìn con điên. Thằng câm sợ hãi dắt tay con điên đi xuống nhà, mở cửa rồi cả hai chạy về phía thị xã.

Từ đấy phố chợ mất đi hai người điên nhưng lại xuất hiện một kẻ điên mới, gã hay ra phố chợ xếp gạch vỡ thành một cái lò gạch rồi chổng mông chổng đít thổi lửa phù phù.    

Lời ly biệt của cậu bé 11 tuổi sau quyết định hiến tạng: ‘Con đã sẵn sàng lên Thiên đường’

Lời ly biệt của cậu bé 11 tuổi sau quyết định hiến tạng: ‘Con đã sẵn sàng lên Thiên đường’

“Con đã sẵn sàng lên Thiên đường” là câu ly biệt cuối cùng Luca, 11 tuổi nói với cha mẹ mình trước khi nhắm mắt qua đời một cách thanh thản dù bị bạo bệnh hành hạ. Em đã sống một cuộc đời có ý nghĩa…

Cậu bé có trái tim lương thiện và cuộc đời ý nghĩa, Luca

Cậu bé Luca Pucella qua đời, một tháng sau khi trải qua cơn động kinh đau đớn do hội chứng hiếm gặp Rohhad. ROHHAD – là viết tắt của hội chứng béo phì khởi phát nhanh, rối loạn chức năng tuyến giáp và rối loạn tự chủ. Hiện nay, theo thống kê trên toàn thế giới đã có 75 người mắc chứng bệnh này. Đây là nguyên nhân gây ra hàng loạt các vấn đề sức khỏe của Luca, như ngưng hô hấp và tim ngừng đập, điều này đã xảy ra lặp đi lặp lại nhiều lần với Luca.

Luca bé nhỏ đã yên giấc trong chiếc quan tài cầu vồng đúng như di nguyện của em.

Tại Bridgend, xứ Wales, bên trong chiếc quan tài được trang trí hình cầu vồng theo đúng nguyện ước. Hàng trăm người đã tới tham dự lễ tang của em, bao gồm bạn bè, ông già Noel và các chuyên gia chăm sóc y tế, tất cả mọi người đều đến bên cạnh em. Cảnh sát vùng phía Nam xứ Wales đã hộ tống đám tang đến nhà thờ địa phương, nơi những người đại diện của tổ chức từ thiện tới để nói lời tạm biệt với cậu bé.

Theo thông tin từ Wales Online, các cơ quan nội tạng của Luca đã được hiến tặng và cứu sống 3 mạng người khác, trong đó có một đứa trẻ.

Mục sư Mike Komor xúc động nói rằng:“Cậu bé có một niềm say mê to lớn với cuộc sống, một ý chí quyết đoán và một tính cách lém lỉnh. Đó cũng là lý do tại sao chúng tôi nhân cơ hội này kỷ niệm cuộc đời Luca, mọi thứ về buổi lễ khiến nó trở nên đặc biệt và mọi thứ về Luca làm cậu bé trở nên tuyệt vời”,ông nói.

Luca bên cha mẹ và em gái

Ông Komor thay lời đọc bài diễn văn của cha mẹ Luca:

“Luca, cha mẹ đã có rất nhiều niềm vui và con là người anh tốt nhất của Sofia. Chúng ta đã phải học cách chia sẻ thời gian bên con cùng với những nhân viên chăm sóc, y tá, bác sỹ, giáo viên và nhiều người khác nữa. Tất cả họ đều đã trở thành một phần của gia đình chúng ta. Con là trung tâm của sự chú ý, lấp đầy niềm vui của bố mẹ bằng những kỷ niệm hạnh phúc.

Tình yêu trong con là vô vàn để san sẻ, Luca.

Cha mẹ vẫn luôn nói rằng con là một cậu bé đặc biệt và tình yêu của con chắc chắn đã phát sáng đến từng lỗ chân lông trên thân thể con. Con đã có nhiều cách để thể hiện tình yêu ấy, đó là khi con ôm tất cả mọi người, cách con vuốt ve chú chó nhỏ khi nó ngang qua và dừng lại hỏi thăm một người vô gia cư nào đó trên đường. Con thật sự là một cậu bé lương thiện và dễ mến”.

Sau khi đọc xong lá thư của bố mẹ viết cho Luca, mục sư Mike Komor xúc động nói:

“Bên cạnh mong ước được giúp đỡ người khác cho đến tận khi qua đời, Luca đã sống một cuộc sống như mong muốn – cậu bé nắm bắt mọi cơ hội le lói mà cuộc sống ban tặng bằng cả đôi tay mình và chắt chiu mọi hy vọng nhỏ nhoi từ đó.

Những vòng hoa tiễn Luca đến Thiên đường

Nhiều người đều biết rằng, Luca đã lớn lên theo đức tin Kito giáo tại chính nhà thờ này. Cậu bé có một đức tin mạnh mẽ và đã bày tỏ về nó nhiều lần, Luca đã thật sự sẵn sàng để lên Thiên đường.

Điều này đem lại cho chúng tôi một niềm tin chắc chắn rằng, giờ đây Luca đã được giải thoát khỏi những đau đớn và con đã thanh thản”.

Ông Komor tiếp tục:

Cuộc đời của một người có thật sự đáng sống hay không, không phụ thuộc vào độ dài ngắn anh ta tồn tại trên cõi đời này. Câu chuyện của Luca chính là minh chứng cho điều đó, một cuộc sống đáng tự hào, đầy tình yêu thương và sự dũng cảm, dù nó chỉ kéo dài vỏn vẹn 11 năm. Và sau tất cả, cậu bé “đã sẵn sàng để lên Thiên đường”…

Ý nghĩa, hạnh phúc và giá trị của một đời người không nằm ở thời gian chúng ta đã sống và đã làm được gì cho bản thân mình. Mà chính là trong những năm tháng ngắn ngủi, dù ít ỏi nhưng hạnh phúc lại chính là sống hết mình vì người khác và vì những yêu thương. Trải qua hàng ngàn hàng vạn kiếp sống trên thế gian, người ta đều hiểu rằng, điều duy nhất có thể lưu giữ lại trên cõi đời này chính là cho đi chứ không phải nhận về cho riêng mình…

Nguồn ảnh: Wales Online/Peter Bolter WS

Anh Lân

From: Kristie Phan & Lucie 1937 gởi

Cụ Bá ngồi chễm chệ trên chiếc ghế được dát vàng, chạm tinh sảo…

Tăng Bui‘s post.
Cụ Bá ngồi chễm chệ trên chiếc ghế được dát vàng, chạm tinh sảo, hai đầu RỒNG ở tay ghế nhìn có vẻ uy nghi, Bộ da Hổ lót ghế thay nệm càng tăng thêm vẻ uy nghi.

Cụ Bá lim dim mắt từ từ quét qua lần lượt các Lý. Bỗng cụ đập bàn chát một cái. Tao đã nuôi chúng mày một cách tuyệt đối, lương bổng không thiếu thứ gì. Vậy tại sao chúng mày làm việc không như tao mong muốn?

Quyền lực trong tay, công cụ bạo lực trong tay, vậy tại sao chúng mày vẫn không bịt miệng được cái đám Dân đen? Tao muốn: giết nhầm hơn bỏ sót!

Không ai bắt nhịp, chẳng ai hô; nhưng lạ thay tất cả bọn chúng đều đồng thanh “Đội ơn Cụ, chúng con đã hiểu”.

Băng đảng này còn thì chúng mày còn cơ hội sống cuộc sống Vương giả: Biệt thự khắp nơi trên thế giới, siêu xe, du thuyền muốn gì đều có. Vậy mà chúng mày không ai lo đại cuộc.đứa nào cũng lo lợi ích riêng. Vậy rồi chúng ta sẽ về đâu? Tao nhắc lại: mất băng đảng là chúng ta mất tất cả.

Tao cũng không muốn đem chúng mày ra xử làm gì; tao cũng đau chứ khi phải xử thuộc hạ. Tuy nhiên trong hoàn cảnh hiện nay cũng cần phải xử điển hình để an Dân. 

Thôi thì ta cho quay vòng quay không kỳ diệu (1/101), nghĩa là trong 101 con số đó chỉ có 01 con số tử, kẻ nào quay đúng thì phải chịu.

‘Hãy để cha con sống những tháng ngày cuối cùng như mong muốn’

From:   Honolulu Nguyen‘s post.
 ‘Hãy để cha con sống những tháng ngày cuối cùng như mong muốn’

Tình yêu của cha mẹ giống như mảnh đất phì nhiêu thầm lặng, không cần hương hoa để tô vẽ, cũng không cần phải thể hiện ra ngoài. Mảnh đất ấy chỉ lặng lẽ, âm thầm, nhưng lại dưỡng thành nên thứ tình yêu vĩnh cửu.

Hôm cha tôi được bác sĩ chẩn đoán ung thư phổi, mẹ không hề tỏ ra quá đau thương. Bà chỉ ngẩn người ra một lúc rồi nhẹ nhàng lau đi những giọt nước mắt trên khoé mi. Cha cũng rất bình tĩnh, sau khi trao đổi với bác sĩ về quá trình hoá trị và kết quả sau hoá trị, cha đã nhốt mình trong phòng một ngày. Sau đó ông tuyên bố sẽ không hoá trị. Cả tôi và vợ đều gắng sức khuyên nhủ cha nhưng mẹ lại không nói lời nào, bà chỉ lặng lẽ gắp thức ăn cho ông.

Cha tôi có bảo hiểm y tế, chi phí trị liệu gia đình hoàn toàn có thể gánh vác được, nhưng ông vẫn kiên quyết không đồng ý. Cha nói có trị liệu thì thời gian kéo dài thọ mệnh cũng chỉ được tính bằng tháng bằng ngày, cha không muốn những ngày còn lại của đời mình bị nhốt trong bốn bức tường bệnh viện, ở đó hết lần này lần khác chịu đựng những đớn đau của các đợt hóa trị. Cha muốn những ngày cuối cùng sẽ được sống cuộc đời mà cha mong muốn.

Mẹ im lặng hồi lâu rồi nói:“Để cha mẹ về quê đi, cha con luôn thích được về quê sinh sống”. Sau khi kết hôn tôi đã đón cha mẹ lên thành phố sống cùng chúng tôi. Nhưng cha mẹ vẫn thường xuyên nhớ về thôn quê, ra khỏi cửa là có thể ngắm cảnh ruộng đồng sông nước, cha không thích cuộc sống nơi thành phố chật chội và ngột ngạt này.
Cha mẹ vẫn thường xuyên nhớ về thôn quê.

Sang ngày thứ ba, tôi và vợ đưa cha mẹ về quê, và quả thật cha mẹ đã được sống những tháng ngày vui vẻ. Khu vườn bỏ hoang lâu ngày được cha làm lại, cha ra chợ mua rất nhiều loại hoa về trồng, hoa hồng, hoa cúc, hoa lan đủ cả, cha thậm chí còn mua hẳn một xe ba gác về nhà để trồng. Cứ cuối tuần vợ chồng tôi lại về thăm cha mẹ, thấy khu vườn nhỏ mỗi lần về mỗi khác, ngày càng tươi đẹp hơn.
Dáng cha hao gầy ốm yếu nhưng luôn chân luôn tay ngoài vườn làm lụng, mẹ thì phụ cha tưới nước chăm cây. Tôi khuyên mẹ:“Sức khỏe cha con không tốt, mẹ khuyên cha đừng bận tâm mấy việc này nữa”.Mẹ nói rằng khuyên không được:“Con xem, cha con làm có vui vẻ không kìa, cứ kệ cho cha con làm”.

Trước khi về hưu mẹ là giáo viên dạy môn sinh vật, cả một đời bà chỉ yêu hoa. Cha nói nhỏ với tôi:“Đây đều là những loại hoa mẹ con thích nhất, mẹ con luôn mơ ước có một khu vườn như thế này. Nhưng khi cha còn trẻ thì vì quá bận rộn, cha lại cho rằng thời gian còn dài nên cứ lần lữa khất lần khất lượt, cuối cùng ngoảnh đầu lại thì đã mấy chục năm rồi, giờ nếu không nhanh thì e rằng không còn kịp nữa”. Hoá ra tâm nguyện của mẹ mấy chục năm qua cha vẫn nhớ trong lòng.

Trong bữa ăn, tôi thấy cha thích ăn thứ gì thì mẹ đều làm cho cha ăn, không hề vì bệnh tật mà kiêng khem.

Lúc sắp đi, tôi hỏi cha mẹ có muốn đi cùng tôi không, nhưng cả hai đều từ chối. Cha nói với tôi rằng:“Con trai à, cha đã đi cùng con gần nửa đời người, cũng đã đến lúc phải biết đủ rồi. Mẹ con đã ở với cha gần cả cuộc đời vất vả lo toan, cha muốn dành chút thời gian ngắn ngủi sống với mẹ con những ngày tháng vui vẻ, cha mẹ sống ở đây rất tốt”.Cha chọn những ngày sau cùng của cuộc đời mình để ở riêng bên mẹ.

Mỗi cuối tuần tôi và vợ đều về thăm cha mẹ, nhưng có một lần mẹ gọi điện kêu tôi không cần về nữa, vì cha mẹ vắng nhà. Sau đó tôi nói chuyện với cô ba thì được biết cha mẹ đi du lịch 8 ngày, vì sợ con cái lo lắng nên đã giấu vợ chồng tôi.

Tôi khẽ trách cha chủ quan với sức khỏe bản thân mình, và trách mẹ quá chiều cha. Sau đó mẹ nói với tôi:“Ngày tháng không còn dài, chúng ta nên tôn trọng ý kiến của cha con, để cha con được làm những điều mình thích. Đời người trước sau đều phải chết, nếu như có thể làm được những điều không để lại tiếc nuối vậy thì hoàn mỹ rồi”. Nghe xong tôi không thể nói được lời nào thêm nữa…
… nếu như có thể làm được những điều không để lại tiếc nuối vậy thì hoàn mỹ rồi. 
Sau khi cha mẹ trở về, sang tuần thứ hai, bệnh tình của cha chuyển biến thêm nặng. Lần này tôi tôn trọng ý kiến của cha, không đưa ông đến bệnh viện. Cha ở lại nhà và được mẹ và vợ chồng tôi chăm sóc chu đáo cho đến khi ông nhẹ nhàng nhắm mắt. Lúc sắp đi, cha khe khẽ gọi một tiếng tên mẹ, mẹ đưa tay cho cha, hai người nắm chặt tay nhau đến khi cha qua đời.

Trong đám tang, mẹ nhẹ nhàng quan sát mọi việc, tuy có đau buồn nhưng không hề mất đi sự kiểm soát, có lúc bà còn dùng đôi tay gầy yếu của mình vỗ vào đôi bờ vai đang run rẩy của tôi:“Con trai, đừng khóc nữa, cha con đi rồi, đến một thế giới mà ở đó sẽ không còn bệnh tật nữa”.

Tang lễ kết thúc, mọi người ra về hết nhưng mẹ vẫn không chịu về, mẹ để chúng tôi về trước:“Các con về đi, mẹ muốn ở lại đây với cha con thêm một lúc nữa, dưới lòng đất tối đen kia chắc cha con cô đơn lắm”.

Sau khi cha mất, mẹ đi du lịch khắp nơi, trong khoảng thời gian ngắn ngủi nửa năm mẹ đã đi rất nhiều nơi như đảo Hải Nam, Tây Hồ, Vịnh Hạ Long, Yên Tử,…

Khi về nhà thăm mẹ, tôi được mẹ cho xem những bức ảnh chụp khi đi du lịch. Tôi thấy ảnh chụp trên một ngọn đồi, tuy sức khỏe cha rất yếu nhưng thần thái và sắc mặt luôn thể hiện sự mãn nguyện, cha ôm mẹ vào lòng đứng bên bờ sông ngắm cảnh. Tôi còn nhìn thấy những bức ảnh sau này mẹ đi du lịch một mình, trên tay mẹ đều cầm bức ảnh chụp chung hai người. Mẹ nói rằng đó đều là những nơi mà khi còn sống cha muốn đi mà chưa đi được, mẹ giúp cha đi tiếp cuộc hành trình.

Tới lúc này, lần đầu tiên trong đời tôi mới cảm nhận được tình yêu sâu đậm của cha và mẹ dành cho nhau.

Mẹ nói:“Mỗi lần thấy những người cầu sống không được mà cầu chết cũng không xong, mẹ thấy may mắn vì lúc trước không để cha con phải chịu khổ. Mẹ hiểu cha con, cả một đời điều quan trọng nhất với ông ấy chính là sự tự tôn, cha con không sợ chết, chỉ sợ chết không có thể diện. Cha con mất đi, người tổn thương nhất chính là mẹ, nhưng mẹ thà rằng nhìn thấy cha con vui vẻ ra đi còn hơn thấy ông ấy ở lại mà chịu khổ trong lòng. Mẹ tin rằng nếu đổi lại là mẹ thì cha con cũng sẽ làm như vậy”.

Mẹ còn nói:“Mỗi người cuối cùng đều phải ra đi, như trăm sông đều phải đổ về biển lớn, mẹ bằng lòng cho cha con vui vẻ ra đi, đến nơi đó trước chờ đợi mẹ”.

Tình yêu của cha mẹ giống như một mảnh đất phì nhiêu thầm lặng, không cần hương hoa để tô vẽ, cũng không cần sự biểu hiện hời hợt bề ngoài. Ngược lại, tình yêu đó lại khiến con người có được cảm giác an toàn đáng tin cậy, nó cũng là nền tảng thiết thực nhất mà mỗi một con người đều cần đến trong kiếp nhân sinh…

Minh Vũ biên dịch

Chuột Cắn Khố Rách

ChuotCanKhoRach
 
 

“Một đệ tử quyết tâm cầu đạo, xin học với một đạo sư. Sau thời gian học hành chăm chỉ, một hôm sư phụ có việc phải đi xa nên dặn học trò ở lại chăm lo tu hành.

Học trò nghe theo lời thầy, thiền định sớm hôm không hề bê trễ, Vì nếp sống tu hành thanh bần, tu sĩ chỉ có độc mỗi một miếng khố che thân. Nhưng chiếc khố cứ bị chuột cắn rách hoài nên tu sĩ cứ lâu lâu lại phải đi xin một mảnh vải che thân khác.

Dân làng thấy vậy, bèn biếu tu sĩ một con mèo để trừ lũ chuột. Tu sĩ đem con mèo về nuôi, từ đó chuột không dám lộng hành nữa, nhưng tu sĩ lại phải lo thêm một phần ăn.Ngoài thực phẩm chay tịnh, tu sĩ phải xin sữa để nuôi con mèo.

Một tín đồ thấy vậy bèn tình nguyện dâng cúng tu sĩ một con bò cái để có sữa nuôi mèo. Tu sĩ vui vẻ nhận con bò nhưng nuôi được mèo lại không có rơm cho bò ăn. Do đó, ngoài thức ăn khất thực, tu sĩ lại phải đi xin rơm về nuôi bò.

Dân làng thấy vậy bèn biếu tu sĩ một mảnh đất và dụng cụ canh nông để tu sĩ trồng trọt, nuôi bò. Tu sĩ ra công cầy cấy nên rau trổ thật nhiều, bò ăn không hết, phải mang bán ngoài chợ.

Miếng đất thật mầu mỡ sinh hoa lợi quá nhiều, tu sĩ làm không xuể, phải gọi người đến làng giúp Lạ thay, miếng đất cứ thế sinh sôi nẩy nở, trồng gì cũng tươi tốt và chả mấy chốc trở nên một đồn điền trù phú.

Tu sĩ có nhiều hoa lợi bèn xây một đền thờ to lớn, đẹp đẽ, thuê thợ khắc tượng, đúc chuông thật vĩ đại, nhưng thời gian tu hành không còn là bao vì tu sĩ phải lo trông nom đồn điền, lo sổ sách giao dịch buôn bán, kiểm soát nhân công trồng tỉa, rồi có tiền bạc phải lo đầu tư, bỏ vốn mua thêm đất đai, khai khẩn thêm nữa.

Một hôm, sư phụ trở về không trông thấy túp lều đơn sơ nữa mà thay vào đó một ngôi đền tráng lệ, nô nức khách hành hương, trong đền ồn ào những tín đồ vừa cúng bái vừa buôn bán.

Trông thấy sư phụ, tu sĩ mừng rỡ chạy ra chào. Sư phụ ôn tồn hỏi tại sao lại có sự thay đổi như thế Tu sĩ trả lời, ‘thưa thầy, thật tâm con muốn tu hành nhưng tại lũ chuột cứ cắn rách áo hoài. Để bảo vệ cái áo con nuôi mèo. Để có sữa cho mèo ăn, con phải nuôi bò, và để có rau nuôi bò, con phải canh tác. Rồi thì trúng mùa liên tiếp, sức con làm không xuể nên phải gọi thêm người làm giúp, rồi thì buôn bán thành công, tiền bạc nhiều thêm, con phải đích thân trông nom mọi việc. Sau đó con cho xây cất đền thờ to tát, đúc tượng thật vĩ đại, con còn mướn người lo việc cúng tế, nhang đèn cẩn thận’.

Sư phụ thở dài,

“Xây cất đền thờ thật to chỉ là trói buộc, nào phải giải thoát !
Tụ tập tín đồ cho đông, ồn ào phức tạp, chỉ gây trở ngại cho việc thanh tu !
Chỉ vì một cái khố rách mà con đã đi thật xa, xa hẳn con đường mà ta đã chỉ dạy nhằm việc giải thoát.
Con chỉ lầm lẫn một chút mà đã đi lệch lúc nào không hay, trói buộc vào các thứ đó rồi làm sao có thể thoát được ?”

Chỉ vì một sự việc rất nhỏ mà đôi khi nó sẽ dấn đến những sự việc lớn bất ngờ mà chính bản thân ta cũng không ngờ tới. 

THẦY PHONG-THUỶ ĐÃ CHỈ RA CÁI “PHONG-THUỶ” TỐT NHẤT ĐỜI NGƯỜI. AI CŨNG NÊN BIẾT! ĐỂ TẬN-DỤNG!!!

From:  Kimtrong Lam

THẦY PHONG-THUỶ ĐÃ CHỈ RA CÁI “PHONG-THUỶ” TỐT NHẤT ĐỜI NGƯỜI.
AI CŨNG NÊN BIẾT! ĐỂ TẬN-DỤNG!!!

Câu chuyện thú-vị và thâm-thúy này đã được rất nhiều người Trung-Quốc chuyền tay nhau, chia sẻ cho nhau như cách để truyền cảm hứng, chỉ bảo nhau khai thác thật triệt để cái gọi là “PHONG-THUỶ tốt” ở mỗi người!!!

Nội-dung câu chuyện như sau:

Triệu-Tử-Hào làm ăn kinh doanh rất phát đạt! Anh quyết định mua một mảnh đất rộng ở ngoại ô, xây một biệt thự ba tầng, bên trong có vườn hoa cây cảnh ao cá, kết hợp rất đẹp mắt!!!

Đằng sau vườn còn có một cây vải cổ thụ trăm tuổi. Sở dĩ vì nhắm đến cây vải mà Triệu mới mua mảnh đất này, nguyên nhân là bởi vợ anh thích ăn vải!
Trong thời gian sửa sang nhà cửa, bạn bè khuyên anh tìm một thầy PHONG-THUỶ về xem giúp để tránh phạm phải những điều kiêng kỵ!
Triệu-Tử-Hào tự lái xe đến Hồng-Kông mời một đại sư. Vị đại sư này họ Tào, đã có hơn 30 năm kinh nghiệm, rất có tiếng trong giới phong thủy!
Sau khi trình bày mọi chuyện, Triệu-Tử-Hào lái xe đưa thầy phong thủy về biệt thự nhà mình!

Trên đường đi, gặp bất cứ xe nào muốn vượt, anh đều nhường!
Vị đại sư cười nói: “Ông chủ Triệu lái xe thật chậm rãi!”. Triệu-Tử-Hào cười lớn, đáp: “Những người vượt phần lớn đều là đang có chuyện gấp, không nên cản trở, làm mất thời gian của họ!”.
Xe về đến thị trấn, một đứa trẻ đang vừa cười vừa từ trong ngõ nhỏ chạy thẳng ra đường.

Triệu-Tử-Hào vội phanh xe tránh, đứa trẻ cười tít mắt chạy qua rồi, anh vẫn chưa nhấn ga đi tiếp mà ngó vào trong ngõ, dường như đang đợi điều gì! Một lát sau, lại có một đứa trẻ khác chạy ra, đuổi theo đứa trẻ lúc trước đã đi khá xa!!!
Tào đại sư ngạc nhiên hỏi: “Sao anh biết phía sau vẫn còn một đứa trẻ nữa?”.
Triệu nhún vai: “Trẻ nhỏ đều thích chơi trò đuổi bắt, nếu chỉ chơi một mình, đứa trẻ chẳng thể cười vui như thế được!”.

Vị đại sư giơ ngón tay cái ra trước mặt khách hàng của mình, tỏ ý tán dương:”Có tâm!”.

Đến biệt thự, vừa xuống xe, vài con chim bất giác bay từ sân sau ra phía trước. Nhìn thấy vậy, Triệu-Tử-Hào liền dừng xe trước cổng và nói với thầy phong thủy: “Phiền đại sự đợi ở đây một lát!”.
“Có chuyện gì vậy?” – vị đại sư lại một lần nữa ngạc nhiên!
“Sau vườn chắc chắn là có trẻ con đang hái trộm vải, bây giờ mà chúng ta vào, chúng sẽ hoảng sợ, không may rơi từ trên cây xuống đất sẽ rất nguy hiểm!” Triệu-Tử-Hào cười đáp.

Thầy phong thủy họ Tào trầm ngâm trong giây lát và nói: “Phong-thủy nhà anh không cần phải xem nữa!!!”.
Lần này, đến lượt Triệu ngạc nhiên: “Đại sư, sao ông lại nói như vậy?”
“Những nơi có anh ở đều là những nơi có PHONG-THUỶ tốt cả rồi!”, Tào đại sư đáp.

Nhân kiệt địa linh, PHONG-THUỶ tốt nhất đời người chính là TÂM của mỗi người!

Con người nếu có TÂM, PHÚC, sống tại nơi có phong thủy xấu rồi cũng sẽ có ngày chuyển thành đẹp! Ngược lại, nếu sống tại nơi có thế phong thủy đẹp, thế đó rồi cũng sẽ tự bị phá vỡ!!!
Nói như vậy để thấy rằng, không phải cứ ở nơi có phong thủy tốt, cuộc sống của chúng ta khắc sẽ thuận lợi viên mãn! Phong thủy tốt hay xấu phụ thuộc vào TẤM LÒNG, vào TÂM ĐỨC, PHÚC PHẬN của con người! Và để có được những thứ đó, chúng ta cần không ngừng TU-DƯỠNG mỗi ngày!!!
Tu dưỡng để sống THIỆN-LƯƠNG, tu dưỡng để sống HIẾU-THUẬN! Để mình ở vị trí thấp hơn người khác để thấu hiểu, bao dung và cảm thông, tu dưỡng để biết đủ, hài lòng với những gì mình có, không THAM-SÂN-SI, không OÁN-TRÁCH, THUẬN theo lẽ tự nhiên…

Bất cứ ai, một khi trong lòng đã tiếp nhận NIỀM VUI, AN-LẠC của người khác, biết NGHĨ cho NGƯỜI khác thì người có lợi, không chỉ là NGƯỜI khác, mà còn bao gồm cả chính BẢN-THÂN chúng ta!!!

Image may contain: 1 person, swimming, text and water

Phép màu giá bao nhiêu?

From:   Tonnu Rừng Xanh‘s album.
 
No automatic alt text available.
Image may contain: 1 person, sitting and child
Image may contain: 1 person, outdoor

Tonnu Rừng Xanh added 3 new photos to the album: PHÉP MÀU GIÁ BAO NHIÊU….

 

Phép màu giá bao nhiêu?

Một cô bé tám tuổi nghe cha mẹ mình nói chuyện về đứa em trai nhỏ. Cô bé chỉ hiểu rằng em mình đang bị bệnh rất nặng và gia đình cô không còn tiền. Chỉ có một cuộc phẫu thuật rất tốn kém mới cứu sống được em trai cô bé, và cha mẹ em không tìm ra ai để vay tiền. Do đó, gia đình em sẽ phải dọn đến một căn nhà nhỏ hơn vì họ không đủ khả năng tiếp tục ở căn nhà hiện tại sau khi trả tiền bác sĩ.

Cô bé nghe bố nói với mẹ bằng giọng thì thầm tuyệt vọng: “Chỉ có phép màu mới cứu sống được Andrew”. Thế là cô bé vào phòng mình, kéo ra một con heo đất được giấu kỹ trong tủ. Em dốc hết đống tiền lẻ và đếm cẩn thận.
Rồi cô bé lẻn ra ngoài bằng cửa sau để đến tiệm thuốc gần đó. Em đặt toàn bộ số tiền mình có lên quầy.

Người bán thuốc hỏi: “Cháu cần gì?”
Cô bé trả lời: “Em trai của cháu bệnh rất nặng và cháu muốn mua phép màu.”
– Cháu bảo sao? – Người bán thuốc hỏi lại.
– Em cháu tên Andrew. Nó bị một căn bệnh gì đó trong đầu mà ba cháu nói chỉ có phép màu mới cứu được nó. Phép màu giá bao nhiêu ạ?
– Ở đây không bán phép màu, cháu à. Chú rất tiếc – Người bán thuốc nở nụ cười buồn và tỏ vẻ cảm thông với cô bé.
– Cháu có tiền trả mà. Nếu không đủ, cháu sẽ cố tìm thêm. Chỉ cần cho cháu biết giá bao nhiêu?

Trong cửa hàng còn có một vị khách ăn mặc thanh lịch. Sau khi nghe câu chuyện, ông cúi xuống hỏi cô bé: “Em cháu cần loại phép màu gì?”
– Cháu cũng không biết nữa – Cô bé trả lời, rơm rớm nước mắt. “Nhưng em cháu rất cần phép màu đó. Nó bị bệnh nặng lắm, mẹ cháu nói rằng nó cần được phẫu thuật, và hình như phải có thêm loại phép màu gì đó nữa mới cứu được em cháu. Cháu đã lấy ra toàn bộ số tiền để dành của mình để đi tìm mua phép màu đó.”

– Cháu có bao nhiêu? – Vị khách hỏi. Cô bé trả lời vừa đủ nghe: “Một đô la mười một xu.”

Người đàn ông mỉm cười: “Ồ! Vừa đủ cho cái giá của phép màu”.
Một tay ông cầm tiền của cô bé, tay kia ông nắm tay em và nói: “Dẫn bác về nhà cháu nhé. Bác muốn gặp em trai và cha mẹ cháu. Để xem bác có loại phép màu mà em cháu cần không.”

Người đàn ông thanh lịch đó là Bác sĩ Carlton Armstrong, một phẫu thuật gia thần kinh tài năng. Ca mổ được hoàn thành mà không mất tiền, và không lâu sau Andrew đã có thể về nhà, khỏe mạnh.

Mẹ cô bé thì thầm: “Mọi chuyện diễn ra kỳ lạ như có một phép màu. Thật không thể tưởng tượng nổi. Thật là vô giá!”. Cô bé mỉm cười. Em biết chính xác phép màu giá bao nhiêu. Một đô la mười một xu, cộng với niềm tin chân thành của một đứa trẻ, và lòng tốt của người bác sĩ.

( st )